Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 78 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Vài Ḍng Tản Mạn... (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Vài Ḍng Tản Mạn...
Tựa đề Chủ đề: ngẫu hứng Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
visaolaithe
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 January 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 204
Msg 81 of 118: Đă gửi: 13 February 2007 lúc 2:36am | Đă lưu IP Trích dẫn visaolaithe





__________________
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ ...
Quay trở về đầu Xem visaolaithe's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi visaolaithe
 
visaolaithe
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 January 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 204
Msg 82 of 118: Đă gửi: 18 February 2007 lúc 3:45am | Đă lưu IP Trích dẫn visaolaithe



giúp con Mẹ nhé

Nam Mô Đại từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, Vô lượng công đức Phật, Phật cáo A Nan Ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu trọng bệnh, năng cứu tam tai, bá nạn khộ Hữu nhân tụng đắc nhất thiên biến, nhất thân ly khổ nạn, tụng đắc nhất vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn, Nam mô phật lực oai, Nam mô Phật lực hô, xử nhân vô ác tâm, định nhân thân đắc độ, hồi quang bồ tát, hồi thiện bồ tát, ngũ bá A la hán cứu độ đệ tử Doăn Mạnh Thắng. Nhất thân ly khổ nạn tự ngôn quán thế âm anh lạc bất tu giải cân` đọc bá thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tính thọ phụng hành.
Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế chân lăng càn đế ta bà ha

Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế chân lăng càn đế ta bà ha

Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế chân lăng càn đế ta bà ha



Sửa lại bởi visaolaithe : 18 February 2007 lúc 9:24pm


__________________
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ ...
Quay trở về đầu Xem visaolaithe's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi visaolaithe
 
visaolaithe
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 January 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 204
Msg 83 of 118: Đă gửi: 18 February 2007 lúc 9:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn visaolaithe

1) NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA (NAMMO RATNATRAYAYA)

Tay lần tràng hạt châu

Quán âm rất nhiệm mầu

Ai thường cầu lễ niệm

Thân tâm hết khồ sầụ


NGHI THỨC TR̀ TỤNG KINH PHỔ MÔN |^|

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần) ©

Mở kinh

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu

Cơ duyên may được thọ tŕ

Xin nguyện đi vào biển tuệ

Tinh thông giáo nghĩa huyền vị ©



KINH TINH YẾU BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

Bồ Tát Quán Tự Tại    

Khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhă Ba La Mật

(Tức diệu pháp trí độ)

Bỗng soi thấy năm uẩn

Đều không có tự tánh

Thực chứng điều ấy xong

Ngài vượt thoát tất cả

Mọi khổ tai ách nạn.(C)



“Nghe đây Xá Lợi Tử

Sắc chẳng khác ǵ không

Không chẳng khác ǵ sắc

Sắc chính thực là không

Không chính thực là sắc.

C̣n lại bốn uẩn kia

Cũng đều như vậy cả. ©



Xá Lợi Tử nghe đây:

Thể mọi pháp đều không

Không sinh cũng không diệt

Không nhơ cũng không sạch

Không thêm cũng không bớt

Cho nên trong tánh không

Không có sắc, thọ, tưởng

Cũng không có hành, thức

Không có nhăn, nhỉ, tỷ

Thiệt, thân, ư (sáu căn)

Không có sắc, thinh, hương

Vị, xúc, pháp (sáu trần)

Không có mười tám giới

(Từ nhăn đến ư thức)

Không hề có vô minh

Không có hết vô minh

Cho đến không lăo, tử

Cũng không hết lăo tử

Không khổ, tập, diệt, đạo

Không trí, cũng không đắc. ©

V́ không có sở đắc

Khi một vị Bồ tát

Nương diệu pháp trí độ

(Bát Nhă Ba La Mật)

Th́ tâm không chướng ngại

V́ tâm không chướng ngại

Nên không có sợ hăi

Xa ĺa mọi mộng tưởng

Xa ĺa mọi điên đảo

Đại Niết Bàn tuyệt đối



Chư Phật trong ba đời

Y diệu pháp trí độ

Bát Nhă Ba La Mật

Nên đắc vô Thượng Giác

Vậy nên phải biết rằng

Bát Nhă Ba La Mật

Là linh chú đại thần

Là linh chú đại minh

Là linh chú vô thượng

Là linh chú tuyệt đỉnh

Là chân lư bất vọng

Có năng lực tiêu trừ

Tất cả mọi khổ nạn

Cho nên tôi muốn thuyết

Câu thần chú trí độ

Bát Nhă Ba La Mật”.

Nói xong Đức Bồ Tát

Liền đọc thần chú rằng:

Gate gate

Paragate

Parasamgate

Bodhi Svahạ (3 lần) (cc)

Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần) ©



KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA PHẨM PHỔ MÔN |^|

Đây ṭa Diệu Pháp Liên Hoa

Phổ Môn một phẩm thơm lời kinh thi

Linh mầu pháp nhũ huyền vi

Hoa quang bủa khắp từ bi Mẹ Hiền

Ngài Vô Tận Ư khởi duyên

Cầu xin Phật nói lư huyền vô thâm

Nhân ǵ Bồ Tát Quán Âm

Đẹp như tên gọi cơi trần lưu danh?

Thế Tôn từ mẫu giải rành

Chúng con được hiểu muôn sanh tỏ tường!

Phật nh́n đại chúng mắt thương

Nụ cười hoan hỷ tuyên dương pháp mầu:

“Quán Âm bi trí rộng sâu

Tùy h́nh ứng hiện khổ sầu nhẹ vơị

Lắng nghe tiếng gọi muôn nơi

Tầm thanh thị hiện kịp thời cứu nguy

Xuống lên biến hóa tương tùy

Đến đi vô ngại giữa ḍng nhân gian.

Quán Âm diệu lực vô vàn

Niệm danh Bồ Tát thoát ṿng tai ương

Lửa vây thiêu đốt phố phường

Niệm danh Bồ Tát lửa liền tắt ngaỵ

Nước ngập băo lụt đoanh vây

Niệm danh Bồ Tát có thuyền đến ngaỵ

Gặp quân bạo ác lưu đày

Niệm danh Bồ Tát ác kia hóa hiền

Gặp loài ác quỷ dạ xoa

Niệm danh Bồ Tát pháp mầu giải vây

Bị trù, bị ếm cuồng ngây

Niệm danh Bồ Tát gặp thầy chữa thương

Đi buôn gặp cướp đón đường

Niệm danh Bồ Tát khách thương an toàn

Dục ḷng đắm sắc mê say

Niệm danh Bồ Tát tỉnh ḷng hôm mai

Muốn cầu con gái, con trai

Niệm danh Bồ Tát gái trai phỉ nguyền.” ©

Bồ Tát Vô Tận khởi duyên

Như Lai giải rơ diệu huyền cơ thâm

Quán Âm hạnh nguyện khôn lường

Hiển bày phương tiện độ trần mê say

Pháp hành lưu diễn đó đây

Ba hai thân tướng đổi thay diệu thường.

Thanh Văn, Bích Chi, Pháp Vương

Đế Thích, Thiên Tướng, Phạm Vương, Thánh Hiền

Sa môn, trưởng giả, chư thiên

Quan dân ,cư sĩ phước điền giàu sang.

Môn nhân quư tiện cơ hàn

Tỳ khưu nam, nữ loại h́nh khác nhau

Dạ Xoa, Càn thát, La Hầu

Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu, Già La

Kim Cang Bồ Tát, Thánh Phàm

Tùy h́nh hóa hiện độ hàm linh an

Pháp lành vô úy truyền ban

Quán Âm từ mẫu Mẹ Hiền nhân gian

Bồ Tát Vô Tận cùng hàng

Thiên Long, Tứ Chúng cúng tràng ngọc châu

Tỏ ḷng tín nhiệm thâm sâu

Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu từ bi

Kính nhường tận lễ thiết thi

Quán Âm dâng cúng Mâu Ni nửa tràng

Nửa tràng đem để tháp tràng

Cúng Phật Đa Bảo đức lành niệm ân.” ©



V́ Vô Tận Ư giải phân

Như Lai tóm lược kết phần kệ tuyên:



Người nghe hạnh Quán Âm

Ứng hiện khắp mọi nơi

Nguyện rộng sâu như biển

Không thể nghĩ luận bàn

Trải qua hằng sa kiếp

Phát nguyện lớn trong sạch

Nghe tên cùng thấy h́nh

Quán Âm thường nhớ nghĩ

Hay diệt mọi khổ năo

Như có người muốn hại

Xô xuống hầm lửa thiêu

Nhờ sức niệm Quán Âm

Không mảy may nguy khốn

Hoặc bị kẻ thù đuổi

Ngă vấp nơi núi đá

Nhờ sức niệm Quán Âm

Không tổn hại thân thể

Hoặc gặp phải giặc vây

Dùng dao gậy toan giết

Nhờ sức niệm Quán Âm

Kẻ thù sanh tâm niệm

Hoặc bị nạn pháp luật

Tra hành h́nh sắp chết

Nhờ sức niệm Quán Âm

Đao gươm găy từng đoạn

Hoặc bị tù xiềng xích

Tay chân bị gông cùm

Nhờ sức niệm Quán Âm

Giải trừ mọi tai biến

Hoặc gặp quỷ La Sát

Nhờ sức niệm Quán Âm

Ác quỷ không dám gần

Gặp thù dữ vây quanh

Nhờ sức niệm Quán Âm

Thú dữ liền bỏ đi

Bị trùng độc tát hại

Nhờ sức niệm Quán Âm

Chất độc tự giải trưà. ©

Mây đen, mưa, sấm sét

Nhờ sức niệm Quán Âm

Mây tan trời quang tạnh

Chúng sanh bị khổ ách

Vô lượngv khổ bức bách

Quán Âm diệu trí lực

Hay cứu người đau khổ

Đầy đủ sức thần thông

Trí tuệ làm phương tiện

Khắp cơi nước mười phương

Quán Âm đều hiện thân

Vào ra trong đường ác

Địa ngục, quỷ, súc sanh

Khổ sinh, già, đau, chết

Không c̣n bị bức năo

Thấy lẽ thật trong suốt

Đèn tuệ lớn chiếu soi

Tâm từ bi vô lượng. ©

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng

Hào quang sáng trong ngần

Mặt trời xua bóng đêm

Cản ngăn nạn gió lửa

Sáng rỡ khắp thế gian

Tiếng lành vang sấm dậy

Ư lành tợ đường mây

Rưới mưa pháp cam lộ

Dập tắt lửa phiền năo

Kiện tụng hầu cửa quan

Hoảng hốt nơi chiến địa

Nhờ sức niệm Quán Âm

Binh lửa đều dẹp trừ

Pháp huyền diệu Quán Âm

Chuyển động khắp trời đất

Vượt các tiếng thế gian

Khởi tín tâm thường niệm

Khi niệm ḷng không nghi

Quán Âm bậc Từ Mẫu

Trừ khổ năo tai ách.

Quán Âm chổ nương tựa

Đầy đủ mọi công đức

Mắt thương nh́n cuộc đời

Phước rộng sâu như biển

Xin cúi đầu đảnh lễ. ©

Bấy giờ ngài Tŕ Địa

Đứng dậy lễ Phật thưa:

“Hễ có chúng sanh nào

Nghe làm theo kinh dạy

Trí lực được tự tại

Sức thần thông ứng khắp

Công đức của người ấy

Thật khó nghĩ, khó lường.”

Nhờ nghe lời Phật dạy

Trong đại chúng hôm đó

Tám muôn bốn ngàn người

Đều phát tâm rộng lớn

Tu pháp môn vô lượng

Nguyện độ khắp mọi loàị ©

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần) ©



VĂN QUY NGUYỆN

Trầm hương xông ngát điện

Sen nở Phật hiện thân

Pháp giới thành thanh tịnh

Chúng sanh lắng nghiệp trần. ©

Đệ tử tâm thành

Hướng về Tam Bảo

Phật là thầy chỉ đạo

Bậc tỉnh thức vẹn toàn

Tướng tốt đoan trang

Trí và bi viên măn. ©

Pháp là con đường sáng

Dẫn người thoát cơi mê

Đưa con trở về

Sống cuộc đời tỉnh thức. ©

Tăng là đoàn thể đẹp

Cùng đi trên đường vui

Tu tập giải thoát

Làm an lạc cuộc đờị ©

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo

Trên con đường học đạo

Biết Tam Bảo của tự tâm

Nguyện xin chuyên cần

Làm sáng ḷng ba viên ngọc quư

Nguyện theo hơi thở

Nở nụ cười tươi

Nguyện học nh́n cuộc đời

Bằng con mắt quán chiếu

Nguyện xin t́m hiểu

Nổi khổ của mọi loài

Tập từ bi, hành hỷ xả

Sáng cho người thêm niềm vui

Chiều giúp người bớt khổ

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục

Nếp sống lành mạnh an ḥa

Cho thân thể kiện khương

Nguyện rũ bỏ âu lo

Học tha thứ bao dung

Cho tâm tư nhẹ nhơm

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo

Ơn cha mẹ, ơn thầy

Ơn bạn bè chúng sanh

Nguyện tu học tinh chuyên

Cho cây bi trí nở hoa

Mong một ngày mai

Có khả năng cứu độ muôn loài

Vượt ra ngoài cơi khổ

Xin Phật Pháp Tăng chứng minh

Gia hộ cho đệ tử chúng con

Viên thành đại nguyện. (cc)



TR̀ NIỆM

Nam Mô Đức Bổn Sư Phật Thích Ca Mâu Ni (3 lần) ©

Nam Mô Đức Bồ Tát. Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (3lần) ©

Nam Mô Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (3 lần) ©

Nam Mô Đức Bồ Tát Đại Bi Quánj Thế Âm. (3 lần) ©



Nguyện ngày an lành đêm an lành

Đêm ngày sáu thời đều an lành

An lành trong mỗi giây mỗi phút

Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở

Bốn loài sinh lên đất tịnh

Ba cơi thoát hóa ṭa sen

Hằng sa ngạ quỷ chứng tam hiền

Vạn loại hữu t́nh đăng thập địạ ©



Nam Mô Đăng Thập Địa Bồ Tát. (3lần) ©



HỘ TR̀ PHẬT PHÁP



Trời A Tu La và Dược Xoa

Đến đây nghe pháp nên chí tâm

Ứng hộ Phật Pháp được thường c̣n

Xin nhớ làm theo lời Phật dạy

Tất cả đến đây cùng nghe pháp

Hoặc ở dưới đất hoặc trên không

Hăy nh́n muôn loài bằng mắt thương

Ngày đêm an trú trong chánh niệm

Nguyện cho thế giới thường an ổn

Vô biên phước trí ích quần sanh

Hết thảy tội chướng đều tiêu trừ

Xa ĺa khổ năo ḷng an tịnh

Đại chúng nhất tâm tŕ giới hạnh

Công phu thiền định gắn cần chuyên

Đóa hoa tuệ giác nở trang nghiêm

Khắp nơi mọi loài đều an lạc. ©





Sửa lại bởi visaolaithe : 02 March 2007 lúc 1:19am


__________________
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ ...
Quay trở về đầu Xem visaolaithe's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi visaolaithe
 
visaolaithe
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 January 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 204
Msg 84 of 118: Đă gửi: 02 March 2007 lúc 1:21am | Đă lưu IP Trích dẫn visaolaithe

QUAY VỀ NƯƠNG TỰA

Con về nương tựa pháp,

Con đường của t́nh thương và sự hiểu biết. ©

Con về nương tựa Tăng,

Đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. ©



HỒI HƯỚNG

Tŕ tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sanh mọi miền

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Phật quả xin chứng nên. (cc)

(21) CA RA ĐẾ - (Kalati)

Quán Âm hiện thân tướng

Vua Thần trong mười phương

Tùy loại tuơng cảm ứng

Cứu khổ giải ích nàn.



PHÁP TU QUÁN ÂM

Trong đời sống chúng ta ít có th́ giờ đều đặn để tụng kinh, ngồi thiền cho có sự định tâm, trau dồi ba nghiệp thân, miệng, ư thanh tịnh. Để bổ khuyết cho việc tu tập, tiêu trừ tai chướng, tười tầm niềm vui, hạnh phúc cho đời sống, chúng ta nên phát nguyện tŕ niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thường xuyên bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, như khi lái xe, nấu ăn, ngồi đợi xe bus, chờ bác sĩ, tưới cây, làm vườn, lau nhà cửạ Tŕ niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm và theo dơi từng ba hơi thở ra vào là một phép thiền Quán Âm rất có tác dụng và linh nghiệm. Thở vào thở ra là một hơi thở và thầm niệm Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Cứ theo dơi từ ba hơi thở như thế cho vững chăi, rơ ràng sau khi đọc bài kệ sau đây:



KỆ NIỆM QUÁN ÂM

Quán Âm Bồ Tát

Đấng linh thiêng nhiệm mầu

Con thành tâm tưởng niệm

Kỉnh lễ xin quy ỵ

Chăm niệm như thế thường xuyên trong mọi lúc, đêm cũng như ngày để được định tâm, tinh thần an ổn và mọi sở cầu sẽ được như ư. Trong lúc ngồi thiền, làm việc cho chí vào nhà tắm ta vẫn có thể tŕ danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

(22) DI HÊ RỊ (Lshiri)

Quán Âm hiện thân tướng

Thiên Thần Ma Hê Đầu La

Thống lănh thiên binh

Cứu độ chúng sanh.

quangduc.com


Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát
Cầu xin chư Phật chư Bồ Tát cứu giúp chúng con qua khỏi kiếp nạn này
Chúng con nguyện suốt đời không quản tiền bạc công sức giúp đỡ mọi người, in kinh sách, tu sửa đền chùa khang trang. Chúng con từng có mong ước sau này sẽ xây chùa như vị sư Huyền Diệu . Con xin dùng công đức tạo được từ vô lượng kiếp để xin chư Phật chư Bồ tát mở ḷng từ bi cứu giúp chúng con trong kiếp hiện tại . Nếu công đức của quá khứ sẽ mất đi th́ con cũng không nuối tiếc, mà hàng ngày tu nhân tích đức để đền ơn chư Phật
Con cầu xin chư Phật, chư Bồ Tát che chở cho chúng con. A Di Đà Phật


__________________
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ ...
Quay trở về đầu Xem visaolaithe's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi visaolaithe
 
visaolaithe
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 January 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 204
Msg 85 of 118: Đă gửi: 02 March 2007 lúc 1:22am | Đă lưu IP Trích dẫn visaolaithe

đợi anh về em nhé
Mưa có rơi dầm dề
Ngày có dài lê thê









Sửa lại bởi visaolaithe : 02 March 2007 lúc 1:24am


__________________
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ ...
Quay trở về đầu Xem visaolaithe's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi visaolaithe
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 86 of 118: Đă gửi: 07 March 2007 lúc 12:40am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

Công Hạnh

Bồ Tát Quán Thế Âm

HT Thích Huyền Tôn

--- o0o ---

-QUÁN-THẾ-ÂM Đ ấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền.

-QUÁN-THẾ-ÂM Danh hiệu của t́nh thương bao la không bờ bến, bao la rộng khắp cơi hư không.

-QUÁN-THẾ-ÂM gắn liền với tim óc của nhân loại, của muôn loài chúng sanh.

Với QUÁN-THẾ-ÂM nơi nào có khổ đau, nơi nào có tai nạn! Nơi đó phát ra tiếng niệm QUÁN-THẾ-ÂM chí thành và tha thiết. Nơi đó có QUÁN-THẾ-ÂM . Nơi đó được giải trừ tất cả khổ đau và tai nạn!

Danh hiệu Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM trong nhân loại ai cũng đều biết đến, cũng đều niệm khi có tai nạn hiểm nguy và ách nạn khủng khiếp. Ngoại trừ hạng người sanh ra nơi biên địa, hoặc căn trí quá tối tăm, hoặc tín ngưỡng tà đạo, mê muội với thần quyền hữu danh mà vô thực. Hoặc là hạng người đă bán rẽ Mẹ Cha tôn thờ xác ma chết treo đầy quái gỡ làm cứu cánh. V́ chính họ đă chối bỏ Quán-Âm th́ Quán-Âm không giao cảm đến. Tuy nhiên hạng người đó biết hồi tâm trong khoảnh khắc th́ Quán-thế-Âm vẫn thị hiện để hóa độ.

Ư NGHĨA QUÁN-THẾ-ÂM BỔ TÁT

-QUÁN là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng thật rơ ràng.

-THẾ là cơi đời, cỏi hữu t́nh thế gian.

-ÂM là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát ra.

-BỔ-TÁT là độ thoát cho loài hữu t́nh, cứu thoát, giác ngộ cho tất cả các loài chúng sinh có t́nh cảm được vượt thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.

Đức QUÁN-THẾ-ÂM BỔ TÁT , đạt được diệu quả NHĨ CĂN VIÊN THÔNG nên quán xét và nghe, thấy, biết cùng tột tiếng kêu đau khổ khắp cơi thế gian, hiện ngay nơi đó để cứu độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những hiểm nguy , nên gọi là QUÁN-THẾ-ÂM .

Do công hạnh cứu độ tự tại nhiệm mầu đó, nên trong kinh điển c̣n gọi là QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT .

QUÁN-THẾ-ÂM T iếng Phạn Avalokitesvara , nghĩa là, Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc từ bi tâm vô lượng không phân biệt dến với mọi loài, nói cách khác là t́nh yêu thương tŕu mến vô biên gấp muôn vạn ḷng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với đứa con cưng, nên gọi là Từ-mẫu Quán-thế-Âm.

QUÁN-THẾ-ÂM VÔ ÚY

Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn : "Bồ Tát đối với cấp nạn nguy hiểm, kinh sợ, c̣n ban cho chúng sanh năng lực Vô Úy để tự vượt thoát khổ ách", nên gọi là Quán-Âm Vô-Úy.

SỰ TÍCH BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Đức Phật BỒN SƯ THÍCH CA khi nói kinh Bi-Hoa đă dạy rằng : - Về thời qúa khứ lâu xa về trước, đức Quán-Thế-Âm làm thái tử con của vua Vô-Tránh-Niệm. Thời bấy giờ có đức Phật hiệu là BẢO TẠNG NHƯ LAI, hiểu được đạo lư vô thượng, Vua và Thái-tử phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nguyện tu các hạnh Bồ-tát, mong thành Phật quả để phổ độ chúng sanh.

Khởi đầu đức Vua và Thái tử làm người thí chủ chân thành cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật thực, mùng mền và tất cả các món cần dùng lên đức BẢO TẠNG NHƯ LAI và chúng tăng trong suốt 3 tháng. Nhờ nhất niệm tinh chuyên, tinh tấn không ngừng, vua Vô-Tránh-Niệm chứng thành quả Phật và phát 48 lời thệ nguyện rộng lớn để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành Phật hiệu là A-di-Đa,?iáo chủ cơi Tây Phương Cực lạc. Thái tử công hạnh cũng tṛn đầy viên măn cũng về cơi Cực-Lạc thành bậc đại Bồ Tát hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM cùng với Phật A-DI-ĐÀ tiếp dẫn chúng sanh về cơi Cực lạc.

CÔNG HẠNH BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Ngài Huyền-Trang pháp sư đời Đại Đường nói : "Quán Có, mà không trụ nơi Co, quán Không mà không trụ nơi Không. Nghe Danh, mà không lầm đối với Danh, thấy Tướng mà không ch́m ở nơi Tướng. Tâm, không động ở Tâm. Cảnh không trước ở cảnh; tất cả hiện hữu đó, không làm loạn được Chơn, đó chính là TRÍ TUỆ VÔ NGẠI. Bồ tát Quán-Thế-Âm đă dùng TRÍ TUỆ VÔ NGẠI đó mà t́m tiếng kêu của chúng sanh ứng hiện tới mà cứu khổ, dù muôn ngàn vạn ức tiếng kêu cầu cứu khổ mà sự cứu khổ không mất thời gian, diệu dụng của QUÁN-THẾ-ÂM là như thế.

Lại nữa, trong Nhị-Khóa-Hiệp-Giải viết rằng : "Quán, là Trí năng-quán, Thế-Âm, là Cảnh sở-quán. Muôn ngàn h́nh tượng, muôn ngàn thứ tiếng chen nhau giao động, khác biệt, cách trở điệp điệp trùng trùng, do ḷng từ rộng lớn vô biên của Ngài cùng một lúc đều được cứu độ, nên danh hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM .

Thái-Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp-Hoa có nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán-Thế-Âm như sau : "Đức Quán-Thế-Âm t́m nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn liền ngay khi đó đến mà cứu độ, quả vị lợi tha vô lượng vô biên luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những việc lợi ích cho họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là Thắng-Ứng-Thân, Liệt-Ứng-Thân, Tha-Thọ-Dụng-Thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp chúng sanh trong pháp giới.

C̣n Đại-Thừa Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phổ Môn, toàn phẩm kinh Đức Thích Ca đă khuyên dạy chúng sinh tŕ tụng, lễ bái Quán-Thế-Âm th́ được phước vô lượng. Về phương diện cứu khổ, Bồ-tát Quán-Thế-Âm thị hiện 32 thân, mỗi thân đều thích ứng với tâm cảnh hiện tại và từ đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát khổ nạn cho chúng sanh.

BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM THỊ HIỆN BẰNG CÁCH NÀO TRONG KHI CÓ VÔ SỐ CHÚNG SANH CẦU CỨU CÙNG MỘT LÚC?

Đây là một nghi vấn chung v́, chúng ta chưa thông hiểu được nghĩa diệu dụng hiện thân mầu nhiệm của Bồ-Tát Quán-thế-Âm.

Đă là diệu dụng nhiệm mầu, th́ thử hỏi ngôn ngữ trong cơi nhân loại chúng ta có thể diễn đạt được sao ? Nếu, không dùng phương tiện mượn Sự, mượn Lư, mượn H́nh để tỉ dụ th́ khó có thể mô ta,?o sánh cho thông suốt và hết ngờ vực được. Nghi ngờ là một cản trở lớn cho ḷng chí thành vậy. Tuy nhiên nghi ngờ mà cầu học để giải trừ tà kiến là một tinh tấn để mau chóng đến bờ giải thoát.

Diệu Dụng Mầu Nhiệm của Bồ Tát là tất cả các thứ Sắc Pháp và Tâm Pháp " Có, Không. Danh, Tướng. Tâm, Cảnh. Năng, Sở...cho đến xa, gần, dày, mỏng, tối, sáng, nhiều, ít v.v... tất cả đều không chướng ngại, quí vị nhận định thỉ dụ sau đây :

Diệu dụng cứu khổ của Quán-thế-Âm, tỉ như ánh sáng của Thái-dương (dụ cho thường quán) luôn luôn soi chiếu khắp mọi nơi, (dụ cho sự thường trực t́m tiếng kêu). Chúng sanh như là một tấm kiếng hay là một chén nước trong, tấm kiếng hay chén nước nếu chịu hướng về ánh sáng Thái dương, th́ trong tấm kiếng, chén nước có h́nh ảnh và ánh sáng của Thái dương (sự hướng về dụ cho ḷng chí thành) ngời sáng trong đó. Ánh sáng dù luôn chiếu soi, mà tấm kiếng úp lại, chén nước th́ đậy kín, nhất định h́nh ảnh Thái dương và ánh sáng không thể hiển hiện trong đó được. Cũng vậy chúng sanh không tha thiết chí thành, như đứa con hoang nghịch cố trốn tránh sự t́m kiếm của Mẹ hiền, sự gặp mặt tất c̣n lâu xa.

Một tỉ dụ khác, diệu dụng Quán Âm như tổng đài phát ra làn sóng âm thanh hay phát ra h́nh ảnh. Sự phát đi, dĩ nhiên luôn luôn thường trực (dụ cho tầm thanh cứu khổ) c̣n chúng sanh như những máy thu thanh, thu h́nh, máy mở đúng làn sóng, đúng vi ba của tín hiệu , tất nhiên thấy h́nh, nghe tiếng (dụ cho ḷng chí thành và giao cảm).

Dù cho muôn ngàn triệu chiếc máy (vô số chúng sanh) cùng một lúc bắt đúng tín hiệu tất nhiên muôn ngàn triệu chiếc máy, cùng một giờ phút, mà cùng có âm thanh và h́nh ảnh ( dụ cho cùng niệm và cùng được sự thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất cả mọi loài chúng sanh, nếu cùng chí thành hướng về đức QUÁN-THẾ-ÂM tất Bồ-tát cùng hiển hiện ngay liền khi đó.

DIỆU DỤNG KHI THỊ HIỆN CỦA BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Điểm này tưởng cũng minh bạch qua các thí dụ ở đoạn trên, tuy nhiên c̣n vài thắc mắc khác xin được nêu ra :

Căn cứ theo các kinh Bi Hoa, Lăng Nghiêm, Tất Đàm, Phổ Môn, Quán-thế-Âm thọ kư...th́, đức Quán-thế-Âm thị hiện thật nhiều thân, 32, 33, 38 và tùy vô số loại mà hiện thân.

Trí óc con người vốn mang nhiều nghi hoặc, dù đă tin tưởng Phật Pháp là cao siêu mầu nhiệm, chịu thọ nhận, tụng niệm tu hành. Nhưng tiếc thay, nghiệp chướng nghi hoặc đă làm ngăn trở bước đường tiến tu không ít. Người ta cứ nghi : "Bồ-tát sao không hiện ra trước mắt cho thấy, cho nghe; bao nhiêu hiện thân trong kinh Phật, nào Bồ-tát, Phạm-vương, Đế-thích, Thiên, Long, Đồng-nam, Đồng-nữ v.v...Nhưng khi có nạn, ḿnh có niệm chí thành lắm chớ, mà nào có thấy Bồ-tát!?", Sự kiện này, có nhiều người v́ ḷng tin sâu đậm và do nhận xét tinh tế quyết chắc có sự tế độ của Bồ-tát chỉ v́ ḿnh mắt phàm, tai tục nên không thấy Ngài, nếu không có th́ không thể nào ḿnh thoát nạn một càch ly kỳ vậy được. Một số khác, lại ngờ rằng không biết có phải Bồ-tát đến độ cho ḿnh hay không ? hay là ḿnh có số hên ? Hay là do phước ông bà để lại?

Thưa, nên hiểu rằng, Bồ-tát thị hiện giao cảm trong chúng ta, trong tất cả mọi người, mọi loài.

Một đám giặc cướp sắp ồ ạt tấn công qua chiếc thuyền nhỏ bé, hay trên thuyền sắp có biến cố thê thảm xảy ra...Tại sao bọn cướp lại đổi ác ư để trở thành thiện niệm ? Để rồi bọn chúng trở nên hiền từ và rút lui êm đẹp ? Hơn nữa c̣n tiếp tế giúp đở ,đó là nhờ trên chiếc thuyền có nhiều người chí thành niệm danh hiệu đức Quán-thế-Âm.

Sự đổi thay tâm ư của kẻ ác, lại không là sự thị hiện nhiệm mầu để cứu độ hay sao ? Không lẽ Ngài hiện ra hung thần để đánh ch́m ác tặc, rồi mới cho là linh ?

Bà già ở nhà có một ḿnh lấy rổ vá ra khấu may, mới vài đường chỉ chẳng may chỉ sút , đôi mắt lem nhem sợi chỉ không làm sao xâu qua lỗ được, bà thở dài buồn thảm : "Mẹ hiền Quán-âm ơi con phải làm sao !?". Bà tủi thân gần muốn rơi lệ ḷng hướng về Phật lâm râm cầu nguyện. Đứa bé chơi từ ngoài xa, nó bổng thấy thích vào nhà bà già cô quả ấy, và đứa bé đă xâu chỉ cho bà. Quư vị đă nhận thấy Bồ-tát thị hiện trong tâm đứa bé ấy chưa ?

Bạn lái xe đi trên quăng đường thôn dă, không may xe bạn hư ! Với độc lực và hơn nữa là bạn chưa một lần biết sửa xe, bạn chỉ c̣n biết cầu nguyện...Từ bên ngoài quốc lộ có đôi bạn lại nổi lên ư niệm ham thích được đi trên con đường hẻo lánh đó, họ gặp bạn và sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giải nguy cho bạn. Quán-âm thị hiện là chổ đó. Đó là trưởng giả thân, cũng là đồng nam, đồng nữ vậy.

Bà Ấm người làng Sơn-tịnh, mỗi năm một lần bà lên núi Trà-bồng, hang Thạch Động để lễ Phật, cái hang động ngày xưa mà thầy Chơn Dung tu hành đă phát kỳ tích ở đấy. Hú hồn, hôm ấy bà lại gặp phải con cọp, chao ôi con cọp vằn vện to lớn quá, cọp từ xa gầm thét và phóng tới, bà chỉ kịp la lên QUÁN ÂM BỔ TÁT rồi bà bất tỉnh ! Thực ra bà "THÉT" chứ không phải niệm, nhưng đó là cái thét cấp bách đầy khẩn thiết và sự chí thành được dồn hết vào cái THÉT đó. Khi tỉnh dậy, ư niệm đầu tiên của bà là tưởng ḿnh đă chết, một lát sau khi tri giác về đủ, bà mới cảm nghe hôi hám và đau rát trên mặt. Th́ ra con cọp đă liếm mặt bà rồi bỏ đi.

Tại sao cọp bỏ đi, khi miếng mồi ngon trước miệng nó ? Chính đó là diêu dụng cảm hóa, tế độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm trực tiếp ngay trong tâm ư của con cọp.

Bà Ấm là người quen (tu) tập chiếu mặt kiếng về ánh thái dương (thường niệm Quán-thế-Âm) trong giờ phút cấp bách bà chiếu đúng ánh sáng QUÁN-THẾ-ÂM.

TẠI SAO H̀NH TƯỢNG QUÁN-THẾ-ÂM CHÚNG TA ĐANG THỜ LẠI MANG VÓC DÁNG NỮ NHÂN, NGÀI LÀ NAM HAY NỮ?

Chúng ta nên biết mười phương chư Phật không hề có nữ thân. Trong kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn có câu : "Cần thích hợp một Phật thân để tế độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện Phật thân để nói Pháp và tế độ"". Thế th́, đức Quán-thế-Âm là Bồ-tát, Ngài làm sao có thể hiện được Phật thân ?

Thực ra trong kinh ĐẠI-NHẬT và kinh BI-HOA đức Bổn Sư THÍCH-CA đă từng dạy rằng, đức Quán-Thế-Âm đời quá khứ đă thành Phật hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI vào thuở lâu xa vô lượng kiếp về trước. V́ bi nguyện độ sanh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ-tát. Cũng trong kinh BI-HOA, đức Phật luôn luôn gọi đức Quán-Thế-Âm là "Thiện-nam-tử" tốt ! Vậy đức Quán-thế-Âm không thể nào là nữ nhân được.

Căn cứ theo lịch sử về tôn giáo, nhân gian dật sử, Linh ứng truyện kư và các lịch sử (tính chất sự tích) của Trung Hoa từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương đến cận đại, và Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ ba đến cận kim th́ đức Quán-thế-Âm bồ tát đă từng hóa hiện vào các thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ chúng sanh. Mượn sự tướng của thế đạo để dẫn dắt nhân gian hướng thượng quay về chánh đạo. Như Quan-Âm Diệu-Thiện về đời vua Trang-vương. Quán-âm xách giỏ cá đời vua Huyền-Tôn nhà Đường, Quán-âm Thị-kính đời nhà Minh, Quán-Âm linh ứng đời nhà Nguyễn v.v...Tham khảo điều này cho ta thấy qua các đời phong kiến mọi quyền hành sanh sát, và làm tao loạn nhân gian hay thịnh suy cho đất nước, đều nằm trong tay Nam-giới. Tuy vậy những nữ lưu tuyệt đẹp và xuất sắc vẫn là cao điểm để đam mê và dễ bị nữ-sắc lung lạc và điều khiển.

Vậy sự hiện người nữ nhằm để chuyển hóa tâm xấu ác và cải thiện những xa hoa trụy lạc, đó là mục tiêu tùy duyên hóa độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm. Và cũng từ đó mà tượng, ảnh của Ngài trở nên NỮ MẠO trong một số quốc gia Á-Châu. Nhưng điều căn bản là chúng ta phải biết rằng, đó là h́nh ảnh thị hiện, không nên chấp là Phật-Thân của Ngài.

BA LỄ VÍA QUÁN ÂM HÀNG NĂM, CÓ KHÁC BIỆT G̀ HAY KHÔNG?

Hằng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ-tát Quán-Thế-Âm thật trang nghiêm vào các ngày : 19/2, 19/6 và 19/9 đều theo âm lịch. Nhưng đa phần chỉ biết suông là lễ vía Quán-thế-Âm thế thôi ! Thực ra trong Thiền môn nhật tụng cổ xưa đă ghi rơ :

- Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH.

- Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.

- Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT GIA.

Mong rằng bài viết nầy sẽ đem đến cho quư độc giả niềm tin chân chính và thành khẩn, luôn luôn tưởng niệm đến danh hiệu QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT để được giao cảm hằng thường với Bồ-tát, dù tai họa đến đâu HỮU CẦU TẮC ỨNG (như trường hợp bà Ấm). Hăy chánh tín, Lời nói của Chư Phật không bao giờ hư dối./.


Công Hạnh

Bồ Tát Quán Thế Âm

HT Thích Huyền Tôn

--- o0o ---

-QUÁN-THẾ-ÂM Đ ấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền.

-QUÁN-THẾ-ÂM Danh hiệu của t́nh thương bao la không bờ bến, bao la rộng khắp cơi hư không.

-QUÁN-THẾ-ÂM gắn liền với tim óc của nhân loại, của muôn loài chúng sanh.

Với QUÁN-THẾ-ÂM nơi nào có khổ đau, nơi nào có tai nạn! Nơi đó phát ra tiếng niệm QUÁN-THẾ-ÂM chí thành và tha thiết. Nơi đó có QUÁN-THẾ-ÂM . Nơi đó được giải trừ tất cả khổ đau và tai nạn!

Danh hiệu Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM trong nhân loại ai cũng đều biết đến, cũng đều niệm khi có tai nạn hiểm nguy và ách nạn khủng khiếp. Ngoại trừ hạng người sanh ra nơi biên địa, hoặc căn trí quá tối tăm, hoặc tín ngưỡng tà đạo, mê muội với thần quyền hữu danh mà vô thực. Hoặc là hạng người đă bán rẽ Mẹ Cha tôn thờ xác ma chết treo đầy quái gỡ làm cứu cánh. V́ chính họ đă chối bỏ Quán-Âm th́ Quán-Âm không giao cảm đến. Tuy nhiên hạng người đó biết hồi tâm trong khoảnh khắc th́ Quán-thế-Âm vẫn thị hiện để hóa độ.

Ư NGHĨA QUÁN-THẾ-ÂM BỔ TÁT

-QUÁN là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng thật rơ ràng.

-THẾ là cơi đời, cỏi hữu t́nh thế gian.

-ÂM là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát ra.

-BỔ-TÁT là độ thoát cho loài hữu t́nh, cứu thoát, giác ngộ cho tất cả các loài chúng sinh có t́nh cảm được vượt thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.

Đức QUÁN-THẾ-ÂM BỔ TÁT , đạt được diệu quả NHĨ CĂN VIÊN THÔNG nên quán xét và nghe, thấy, biết cùng tột tiếng kêu đau khổ khắp cơi thế gian, hiện ngay nơi đó để cứu độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những hiểm nguy , nên gọi là QUÁN-THẾ-ÂM .

Do công hạnh cứu độ tự tại nhiệm mầu đó, nên trong kinh điển c̣n gọi là QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT .

QUÁN-THẾ-ÂM T iếng Phạn Avalokitesvara , nghĩa là, Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc từ bi tâm vô lượng không phân biệt dến với mọi loài, nói cách khác là t́nh yêu thương tŕu mến vô biên gấp muôn vạn ḷng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với đứa con cưng, nên gọi là Từ-mẫu Quán-thế-Âm.

QUÁN-THẾ-ÂM VÔ ÚY

Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn : "Bồ Tát đối với cấp nạn nguy hiểm, kinh sợ, c̣n ban cho chúng sanh năng lực Vô Úy để tự vượt thoát khổ ách", nên gọi là Quán-Âm Vô-Úy.

SỰ TÍCH BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Đức Phật BỒN SƯ THÍCH CA khi nói kinh Bi-Hoa đă dạy rằng : - Về thời qúa khứ lâu xa về trước, đức Quán-Thế-Âm làm thái tử con của vua Vô-Tránh-Niệm. Thời bấy giờ có đức Phật hiệu là BẢO TẠNG NHƯ LAI, hiểu được đạo lư vô thượng, Vua và Thái-tử phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nguyện tu các hạnh Bồ-tát, mong thành Phật quả để phổ độ chúng sanh.

Khởi đầu đức Vua và Thái tử làm người thí chủ chân thành cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật thực, mùng mền và tất cả các món cần dùng lên đức BẢO TẠNG NHƯ LAI và chúng tăng trong suốt 3 tháng. Nhờ nhất niệm tinh chuyên, tinh tấn không ngừng, vua Vô-Tránh-Niệm chứng thành quả Phật và phát 48 lời thệ nguyện rộng lớn để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành Phật hiệu là A-di-Đa,?iáo chủ cơi Tây Phương Cực lạc. Thái tử công hạnh cũng tṛn đầy viên măn cũng về cơi Cực-Lạc thành bậc đại Bồ Tát hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM cùng với Phật A-DI-ĐÀ tiếp dẫn chúng sanh về cơi Cực lạc.

CÔNG HẠNH BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Ngài Huyền-Trang pháp sư đời Đại Đường nói : "Quán Có, mà không trụ nơi Co, quán Không mà không trụ nơi Không. Nghe Danh, mà không lầm đối với Danh, thấy Tướng mà không ch́m ở nơi Tướng. Tâm, không động ở Tâm. Cảnh không trước ở cảnh; tất cả hiện hữu đó, không làm loạn được Chơn, đó chính là TRÍ TUỆ VÔ NGẠI. Bồ tát Quán-Thế-Âm đă dùng TRÍ TUỆ VÔ NGẠI đó mà t́m tiếng kêu của chúng sanh ứng hiện tới mà cứu khổ, dù muôn ngàn vạn ức tiếng kêu cầu cứu khổ mà sự cứu khổ không mất thời gian, diệu dụng của QUÁN-THẾ-ÂM là như thế.

Lại nữa, trong Nhị-Khóa-Hiệp-Giải viết rằng : "Quán, là Trí năng-quán, Thế-Âm, là Cảnh sở-quán. Muôn ngàn h́nh tượng, muôn ngàn thứ tiếng chen nhau giao động, khác biệt, cách trở điệp điệp trùng trùng, do ḷng từ rộng lớn vô biên của Ngài cùng một lúc đều được cứu độ, nên danh hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM .

Thái-Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp-Hoa có nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán-Thế-Âm như sau : "Đức Quán-Thế-Âm t́m nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn liền ngay khi đó đến mà cứu độ, quả vị lợi tha vô lượng vô biên luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những việc lợi ích cho họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là Thắng-Ứng-Thân, Liệt-Ứng-Thân, Tha-Thọ-Dụng-Thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp chúng sanh trong pháp giới.

C̣n Đại-Thừa Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phổ Môn, toàn phẩm kinh Đức Thích Ca đă khuyên dạy chúng sinh tŕ tụng, lễ bái Quán-Thế-Âm th́ được phước vô lượng. Về phương diện cứu khổ, Bồ-tát Quán-Thế-Âm thị hiện 32 thân, mỗi thân đều thích ứng với tâm cảnh hiện tại và từ đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát khổ nạn cho chúng sanh.

BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM THỊ HIỆN BẰNG CÁCH NÀO TRONG KHI CÓ VÔ SỐ CHÚNG SANH CẦU CỨU CÙNG MỘT LÚC?

Đây là một nghi vấn chung v́, chúng ta chưa thông hiểu được nghĩa diệu dụng hiện thân mầu nhiệm của Bồ-Tát Quán-thế-Âm.

Đă là diệu dụng nhiệm mầu, th́ thử hỏi ngôn ngữ trong cơi nhân loại chúng ta có thể diễn đạt được sao ? Nếu, không dùng phương tiện mượn Sự, mượn Lư, mượn H́nh để tỉ dụ th́ khó có thể mô ta,?o sánh cho thông suốt và hết ngờ vực được. Nghi ngờ là một cản trở lớn cho ḷng chí thành vậy. Tuy nhiên nghi ngờ mà cầu học để giải trừ tà kiến là một tinh tấn để mau chóng đến bờ giải thoát.

Diệu Dụng Mầu Nhiệm của Bồ Tát là tất cả các thứ Sắc Pháp và Tâm Pháp " Có, Không. Danh, Tướng. Tâm, Cảnh. Năng, Sở...cho đến xa, gần, dày, mỏng, tối, sáng, nhiều, ít v.v... tất cả đều không chướng ngại, quí vị nhận định thỉ dụ sau đây :

Diệu dụng cứu khổ của Quán-thế-Âm, tỉ như ánh sáng của Thái-dương (dụ cho thường quán) luôn luôn soi chiếu khắp mọi nơi, (dụ cho sự thường trực t́m tiếng kêu). Chúng sanh như là một tấm kiếng hay là một chén nước trong, tấm kiếng hay chén nước nếu chịu hướng về ánh sáng Thái dương, th́ trong tấm kiếng, chén nước có h́nh ảnh và ánh sáng của Thái dương (sự hướng về dụ cho ḷng chí thành) ngời sáng trong đó. Ánh sáng dù luôn chiếu soi, mà tấm kiếng úp lại, chén nước th́ đậy kín, nhất định h́nh ảnh Thái dương và ánh sáng không thể hiển hiện trong đó được. Cũng vậy chúng sanh không tha thiết chí thành, như đứa con hoang nghịch cố trốn tránh sự t́m kiếm của Mẹ hiền, sự gặp mặt tất c̣n lâu xa.

Một tỉ dụ khác, diệu dụng Quán Âm như tổng đài phát ra làn sóng âm thanh hay phát ra h́nh ảnh. Sự phát đi, dĩ nhiên luôn luôn thường trực (dụ cho tầm thanh cứu khổ) c̣n chúng sanh như những máy thu thanh, thu h́nh, máy mở đúng làn sóng, đúng vi ba của tín hiệu , tất nhiên thấy h́nh, nghe tiếng (dụ cho ḷng chí thành và giao cảm).

Dù cho muôn ngàn triệu chiếc máy (vô số chúng sanh) cùng một lúc bắt đúng tín hiệu tất nhiên muôn ngàn triệu chiếc máy, cùng một giờ phút, mà cùng có âm thanh và h́nh ảnh ( dụ cho cùng niệm và cùng được sự thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất cả mọi loài chúng sanh, nếu cùng chí thành hướng về đức QUÁN-THẾ-ÂM tất Bồ-tát cùng hiển hiện ngay liền khi đó.

DIỆU DỤNG KHI THỊ HIỆN CỦA BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Điểm này tưởng cũng minh bạch qua các thí dụ ở đoạn trên, tuy nhiên c̣n vài thắc mắc khác xin được nêu ra :

Căn cứ theo các kinh Bi Hoa, Lăng Nghiêm, Tất Đàm, Phổ Môn, Quán-thế-Âm thọ kư...th́, đức Quán-thế-Âm thị hiện thật nhiều thân, 32, 33, 38 và tùy vô số loại mà hiện thân.

Trí óc con người vốn mang nhiều nghi hoặc, dù đă tin tưởng Phật Pháp là cao siêu mầu nhiệm, chịu thọ nhận, tụng niệm tu hành. Nhưng tiếc thay, nghiệp chướng nghi hoặc đă làm ngăn trở bước đường tiến tu không ít. Người ta cứ nghi : "Bồ-tát sao không hiện ra trước mắt cho thấy, cho nghe; bao nhiêu hiện thân trong kinh Phật, nào Bồ-tát, Phạm-vương, Đế-thích, Thiên, Long, Đồng-nam, Đồng-nữ v.v...Nhưng khi có nạn, ḿnh có niệm chí thành lắm chớ, mà nào có thấy Bồ-tát!?", Sự kiện này, có nhiều người v́ ḷng tin sâu đậm và do nhận xét tinh tế quyết chắc có sự tế độ của Bồ-tát chỉ v́ ḿnh mắt phàm, tai tục nên không thấy Ngài, nếu không có th́ không thể nào ḿnh thoát nạn một càch ly kỳ vậy được. Một số khác, lại ngờ rằng không biết có phải Bồ-tát đến độ cho ḿnh hay không ? hay là ḿnh có số hên ? Hay là do phước ông bà để lại?

Thưa, nên hiểu rằng, Bồ-tát thị hiện giao cảm trong chúng ta, trong tất cả mọi người, mọi loài.

Một đám giặc cướp sắp ồ ạt tấn công qua chiếc thuyền nhỏ bé, hay trên thuyền sắp có biến cố thê thảm xảy ra...Tại sao bọn cướp lại đổi ác ư để trở thành thiện niệm ? Để rồi bọn chúng trở nên hiền từ và rút lui êm đẹp ? Hơn nữa c̣n tiếp tế giúp đở ,đó là nhờ trên chiếc thuyền có nhiều người chí thành niệm danh hiệu đức Quán-thế-Âm.

Sự đổi thay tâm ư của kẻ ác, lại không là sự thị hiện nhiệm mầu để cứu độ hay sao ? Không lẽ Ngài hiện ra hung thần để đánh ch́m ác tặc, rồi mới cho là linh ?

Bà già ở nhà có một ḿnh lấy rổ vá ra khấu may, mới vài đường chỉ chẳng may chỉ sút , đôi mắt lem nhem sợi chỉ không làm sao xâu qua lỗ được, bà thở dài buồn thảm : "Mẹ hiền Quán-âm ơi con phải làm sao !?". Bà tủi thân gần muốn rơi lệ ḷng hướng về Phật lâm râm cầu nguyện. Đứa bé chơi từ ngoài xa, nó bổng thấy thích vào nhà bà già cô quả ấy, và đứa bé đă xâu chỉ cho bà. Quư vị đă nhận thấy Bồ-tát thị hiện trong tâm đứa bé ấy chưa ?

Bạn lái xe đi trên quăng đường thôn dă, không may xe bạn hư ! Với độc lực và hơn nữa là bạn chưa một lần biết sửa xe, bạn chỉ c̣n biết cầu nguyện...Từ bên ngoài quốc lộ có đôi bạn lại nổi lên ư niệm ham thích được đi trên con đường hẻo lánh đó, họ gặp bạn và sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giải nguy cho bạn. Quán-âm thị hiện là chổ đó. Đó là trưởng giả thân, cũng là đồng nam, đồng nữ vậy.

Bà Ấm người làng Sơn-tịnh, mỗi năm một lần bà lên núi Trà-bồng, hang Thạch Động để lễ Phật, cái hang động ngày xưa mà thầy Chơn Dung tu hành đă phát kỳ tích ở đấy. Hú hồn, hôm ấy bà lại gặp phải con cọp, chao ôi con cọp vằn vện to lớn quá, cọp từ xa gầm thét và phóng tới, bà chỉ kịp la lên QUÁN ÂM BỔ TÁT rồi bà bất tỉnh ! Thực ra bà "THÉT" chứ không phải niệm, nhưng đó là cái thét cấp bách đầy khẩn thiết và sự chí thành được dồn hết vào cái THÉT đó. Khi tỉnh dậy, ư niệm đầu tiên của bà là tưởng ḿnh đă chết, một lát sau khi tri giác về đủ, bà mới cảm nghe hôi hám và đau rát trên mặt. Th́ ra con cọp đă liếm mặt bà rồi bỏ đi.

Tại sao cọp bỏ đi, khi miếng mồi ngon trước miệng nó ? Chính đó là diêu dụng cảm hóa, tế độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm trực tiếp ngay trong tâm ư của con cọp.

Bà Ấm là người quen (tu) tập chiếu mặt kiếng về ánh thái dương (thường niệm Quán-thế-Âm) trong giờ phút cấp bách bà chiếu đúng ánh sáng QUÁN-THẾ-ÂM.

TẠI SAO H̀NH TƯỢNG QUÁN-THẾ-ÂM CHÚNG TA ĐANG THỜ LẠI MANG VÓC DÁNG NỮ NHÂN, NGÀI LÀ NAM HAY NỮ?

Chúng ta nên biết mười phương chư Phật không hề có nữ thân. Trong kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn có câu : "Cần thích hợp một Phật thân để tế độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện Phật thân để nói Pháp và tế độ"". Thế th́, đức Quán-thế-Âm là Bồ-tát, Ngài làm sao có thể hiện được Phật thân ?

Thực ra trong kinh ĐẠI-NHẬT và kinh BI-HOA đức Bổn Sư THÍCH-CA đă từng dạy rằng, đức Quán-Thế-Âm đời quá khứ đă thành Phật hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI vào thuở lâu xa vô lượng kiếp về trước. V́ bi nguyện độ sanh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ-tát. Cũng trong kinh BI-HOA, đức Phật luôn luôn gọi đức Quán-Thế-Âm là "Thiện-nam-tử" tốt ! Vậy đức Quán-thế-Âm không thể nào là nữ nhân được.

Căn cứ theo lịch sử về tôn giáo, nhân gian dật sử, Linh ứng truyện kư và các lịch sử (tính chất sự tích) của Trung Hoa từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương đến cận đại, và Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ ba đến cận kim th́ đức Quán-thế-Âm bồ tát đă từng hóa hiện vào các thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ chúng sanh. Mượn sự tướng của thế đạo để dẫn dắt nhân gian hướng thượng quay về chánh đạo. Như Quan-Âm Diệu-Thiện về đời vua Trang-vương. Quán-âm xách giỏ cá đời vua Huyền-Tôn nhà Đường, Quán-âm Thị-kính đời nhà Minh, Quán-Âm linh ứng đời nhà Nguyễn v.v...Tham khảo điều này cho ta thấy qua các đời phong kiến mọi quyền hành sanh sát, và làm tao loạn nhân gian hay thịnh suy cho đất nước, đều nằm trong tay Nam-giới. Tuy vậy những nữ lưu tuyệt đẹp và xuất sắc vẫn là cao điểm để đam mê và dễ bị nữ-sắc lung lạc và điều khiển.

Vậy sự hiện người nữ nhằm để chuyển hóa tâm xấu ác và cải thiện những xa hoa trụy lạc, đó là mục tiêu tùy duyên hóa độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm. Và cũng từ đó mà tượng, ảnh của Ngài trở nên NỮ MẠO trong một số quốc gia Á-Châu. Nhưng điều căn bản là chúng ta phải biết rằng, đó là h́nh ảnh thị hiện, không nên chấp là Phật-Thân của Ngài.

BA LỄ VÍA QUÁN ÂM HÀNG NĂM, CÓ KHÁC BIỆT G̀ HAY KHÔNG?

Hằng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ-tát Quán-Thế-Âm thật trang nghiêm vào các ngày : 19/2, 19/6 và 19/9 đều theo âm lịch. Nhưng đa phần chỉ biết suông là lễ vía Quán-thế-Âm thế thôi ! Thực ra trong Thiền môn nhật tụng cổ xưa đă ghi rơ :

- Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH.

- Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.

- Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT GIA.

Mong rằng bài viết nầy sẽ đem đến cho quư độc giả niềm tin chân chính và thành khẩn, luôn luôn tưởng niệm đến danh hiệu QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT để được giao cảm hằng thường với Bồ-tát, dù tai họa đến đâu HỮU CẦU TẮC ỨNG (như trường hợp bà Ấm). Hăy chánh tín, Lời nói của Chư Phật không bao giờ hư dối./.


Công Hạnh

Bồ Tát Quán Thế Âm

HT Thích Huyền Tôn

--- o0o ---

-QUÁN-THẾ-ÂM Đ ấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền.

-QUÁN-THẾ-ÂM Danh hiệu của t́nh thương bao la không bờ bến, bao la rộng khắp cơi hư không.

-QUÁN-THẾ-ÂM gắn liền với tim óc của nhân loại, của muôn loài chúng sanh.

Với QUÁN-THẾ-ÂM nơi nào có khổ đau, nơi nào có tai nạn! Nơi đó phát ra tiếng niệm QUÁN-THẾ-ÂM chí thành và tha thiết. Nơi đó có QUÁN-THẾ-ÂM . Nơi đó được giải trừ tất cả khổ đau và tai nạn!

Danh hiệu Bồ-tát QUÁN-THẾ-ÂM trong nhân loại ai cũng đều biết đến, cũng đều niệm khi có tai nạn hiểm nguy và ách nạn khủng khiếp. Ngoại trừ hạng người sanh ra nơi biên địa, hoặc căn trí quá tối tăm, hoặc tín ngưỡng tà đạo, mê muội với thần quyền hữu danh mà vô thực. Hoặc là hạng người đă bán rẽ Mẹ Cha tôn thờ xác ma chết treo đầy quái gỡ làm cứu cánh. V́ chính họ đă chối bỏ Quán-Âm th́ Quán-Âm không giao cảm đến. Tuy nhiên hạng người đó biết hồi tâm trong khoảnh khắc th́ Quán-thế-Âm vẫn thị hiện để hóa độ.

Ư NGHĨA QUÁN-THẾ-ÂM BỔ TÁT

-QUÁN là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng thật rơ ràng.

-THẾ là cơi đời, cỏi hữu t́nh thế gian.

-ÂM là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát ra.

-BỔ-TÁT là độ thoát cho loài hữu t́nh, cứu thoát, giác ngộ cho tất cả các loài chúng sinh có t́nh cảm được vượt thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.

Đức QUÁN-THẾ-ÂM BỔ TÁT , đạt được diệu quả NHĨ CĂN VIÊN THÔNG nên quán xét và nghe, thấy, biết cùng tột tiếng kêu đau khổ khắp cơi thế gian, hiện ngay nơi đó để cứu độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những hiểm nguy , nên gọi là QUÁN-THẾ-ÂM .

Do công hạnh cứu độ tự tại nhiệm mầu đó, nên trong kinh điển c̣n gọi là QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT .

QUÁN-THẾ-ÂM T iếng Phạn Avalokitesvara , nghĩa là, Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc từ bi tâm vô lượng không phân biệt dến với mọi loài, nói cách khác là t́nh yêu thương tŕu mến vô biên gấp muôn vạn ḷng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với đứa con cưng, nên gọi là Từ-mẫu Quán-thế-Âm.

QUÁN-THẾ-ÂM VÔ ÚY

Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn : "Bồ Tát đối với cấp nạn nguy hiểm, kinh sợ, c̣n ban cho chúng sanh năng lực Vô Úy để tự vượt thoát khổ ách", nên gọi là Quán-Âm Vô-Úy.

SỰ TÍCH BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Đức Phật BỒN SƯ THÍCH CA khi nói kinh Bi-Hoa đă dạy rằng : - Về thời qúa khứ lâu xa về trước, đức Quán-Thế-Âm làm thái tử con của vua Vô-Tránh-Niệm. Thời bấy giờ có đức Phật hiệu là BẢO TẠNG NHƯ LAI, hiểu được đạo lư vô thượng, Vua và Thái-tử phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nguyện tu các hạnh Bồ-tát, mong thành Phật quả để phổ độ chúng sanh.

Khởi đầu đức Vua và Thái tử làm người thí chủ chân thành cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật thực, mùng mền và tất cả các món cần dùng lên đức BẢO TẠNG NHƯ LAI và chúng tăng trong suốt 3 tháng. Nhờ nhất niệm tinh chuyên, tinh tấn không ngừng, vua Vô-Tránh-Niệm chứng thành quả Phật và phát 48 lời thệ nguyện rộng lớn để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành Phật hiệu là A-di-Đa,?iáo chủ cơi Tây Phương Cực lạc. Thái tử công hạnh cũng tṛn đầy viên măn cũng về cơi Cực-Lạc thành bậc đại Bồ Tát hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM cùng với Phật A-DI-ĐÀ tiếp dẫn chúng sanh về cơi Cực lạc.

CÔNG HẠNH BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Ngài Huyền-Trang pháp sư đời Đại Đường nói : "Quán Có, mà không trụ nơi Co, quán Không mà không trụ nơi Không. Nghe Danh, mà không lầm đối với Danh, thấy Tướng mà không ch́m ở nơi Tướng. Tâm, không động ở Tâm. Cảnh không trước ở cảnh; tất cả hiện hữu đó, không làm loạn được Chơn, đó chính là TRÍ TUỆ VÔ NGẠI. Bồ tát Quán-Thế-Âm đă dùng TRÍ TUỆ VÔ NGẠI đó mà t́m tiếng kêu của chúng sanh ứng hiện tới mà cứu khổ, dù muôn ngàn vạn ức tiếng kêu cầu cứu khổ mà sự cứu khổ không mất thời gian, diệu dụng của QUÁN-THẾ-ÂM là như thế.

Lại nữa, trong Nhị-Khóa-Hiệp-Giải viết rằng : "Quán, là Trí năng-quán, Thế-Âm, là Cảnh sở-quán. Muôn ngàn h́nh tượng, muôn ngàn thứ tiếng chen nhau giao động, khác biệt, cách trở điệp điệp trùng trùng, do ḷng từ rộng lớn vô biên của Ngài cùng một lúc đều được cứu độ, nên danh hiệu là QUÁN-THẾ-ÂM .

Thái-Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp-Hoa có nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ-tát Quán-Thế-Âm như sau : "Đức Quán-Thế-Âm t́m nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn liền ngay khi đó đến mà cứu độ, quả vị lợi tha vô lượng vô biên luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những việc lợi ích cho họ. Bồ-tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là Thắng-Ứng-Thân, Liệt-Ứng-Thân, Tha-Thọ-Dụng-Thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp chúng sanh trong pháp giới.

C̣n Đại-Thừa Kinh Pháp-Hoa, phẩm Phổ Môn, toàn phẩm kinh Đức Thích Ca đă khuyên dạy chúng sinh tŕ tụng, lễ bái Quán-Thế-Âm th́ được phước vô lượng. Về phương diện cứu khổ, Bồ-tát Quán-Thế-Âm thị hiện 32 thân, mỗi thân đều thích ứng với tâm cảnh hiện tại và từ đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát khổ nạn cho chúng sanh.

BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM THỊ HIỆN BẰNG CÁCH NÀO TRONG KHI CÓ VÔ SỐ CHÚNG SANH CẦU CỨU CÙNG MỘT LÚC?

Đây là một nghi vấn chung v́, chúng ta chưa thông hiểu được nghĩa diệu dụng hiện thân mầu nhiệm của Bồ-Tát Quán-thế-Âm.

Đă là diệu dụng nhiệm mầu, th́ thử hỏi ngôn ngữ trong cơi nhân loại chúng ta có thể diễn đạt được sao ? Nếu, không dùng phương tiện mượn Sự, mượn Lư, mượn H́nh để tỉ dụ th́ khó có thể mô ta,?o sánh cho thông suốt và hết ngờ vực được. Nghi ngờ là một cản trở lớn cho ḷng chí thành vậy. Tuy nhiên nghi ngờ mà cầu học để giải trừ tà kiến là một tinh tấn để mau chóng đến bờ giải thoát.

Diệu Dụng Mầu Nhiệm của Bồ Tát là tất cả các thứ Sắc Pháp và Tâm Pháp " Có, Không. Danh, Tướng. Tâm, Cảnh. Năng, Sở...cho đến xa, gần, dày, mỏng, tối, sáng, nhiều, ít v.v... tất cả đều không chướng ngại, quí vị nhận định thỉ dụ sau đây :

Diệu dụng cứu khổ của Quán-thế-Âm, tỉ như ánh sáng của Thái-dương (dụ cho thường quán) luôn luôn soi chiếu khắp mọi nơi, (dụ cho sự thường trực t́m tiếng kêu). Chúng sanh như là một tấm kiếng hay là một chén nước trong, tấm kiếng hay chén nước nếu chịu hướng về ánh sáng Thái dương, th́ trong tấm kiếng, chén nước có h́nh ảnh và ánh sáng của Thái dương (sự hướng về dụ cho ḷng chí thành) ngời sáng trong đó. Ánh sáng dù luôn chiếu soi, mà tấm kiếng úp lại, chén nước th́ đậy kín, nhất định h́nh ảnh Thái dương và ánh sáng không thể hiển hiện trong đó được. Cũng vậy chúng sanh không tha thiết chí thành, như đứa con hoang nghịch cố trốn tránh sự t́m kiếm của Mẹ hiền, sự gặp mặt tất c̣n lâu xa.

Một tỉ dụ khác, diệu dụng Quán Âm như tổng đài phát ra làn sóng âm thanh hay phát ra h́nh ảnh. Sự phát đi, dĩ nhiên luôn luôn thường trực (dụ cho tầm thanh cứu khổ) c̣n chúng sanh như những máy thu thanh, thu h́nh, máy mở đúng làn sóng, đúng vi ba của tín hiệu , tất nhiên thấy h́nh, nghe tiếng (dụ cho ḷng chí thành và giao cảm).

Dù cho muôn ngàn triệu chiếc máy (vô số chúng sanh) cùng một lúc bắt đúng tín hiệu tất nhiên muôn ngàn triệu chiếc máy, cùng một giờ phút, mà cùng có âm thanh và h́nh ảnh ( dụ cho cùng niệm và cùng được sự thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất cả mọi loài chúng sanh, nếu cùng chí thành hướng về đức QUÁN-THẾ-ÂM tất Bồ-tát cùng hiển hiện ngay liền khi đó.

DIỆU DỤNG KHI THỊ HIỆN CỦA BỔ TÁT QUÁN-THẾ-ÂM

Điểm này tưởng cũng minh bạch qua các thí dụ ở đoạn trên, tuy nhiên c̣n vài thắc mắc khác xin được nêu ra :

Căn cứ theo các kinh Bi Hoa, Lăng Nghiêm, Tất Đàm, Phổ Môn, Quán-thế-Âm thọ kư...th́, đức Quán-thế-Âm thị hiện thật nhiều thân, 32, 33, 38 và tùy vô số loại mà hiện thân.

Trí óc con người vốn mang nhiều nghi hoặc, dù đă tin tưởng Phật Pháp là cao siêu mầu nhiệm, chịu thọ nhận, tụng niệm tu hành. Nhưng tiếc thay, nghiệp chướng nghi hoặc đă làm ngăn trở bước đường tiến tu không ít. Người ta cứ nghi : "Bồ-tát sao không hiện ra trước mắt cho thấy, cho nghe; bao nhiêu hiện thân trong kinh Phật, nào Bồ-tát, Phạm-vương, Đế-thích, Thiên, Long, Đồng-nam, Đồng-nữ v.v...Nhưng khi có nạn, ḿnh có niệm chí thành lắm chớ, mà nào có thấy Bồ-tát!?", Sự kiện này, có nhiều người v́ ḷng tin sâu đậm và do nhận xét tinh tế quyết chắc có sự tế độ của Bồ-tát chỉ v́ ḿnh mắt phàm, tai tục nên không thấy Ngài, nếu không có th́ không thể nào ḿnh thoát nạn một càch ly kỳ vậy được. Một số khác, lại ngờ rằng không biết có phải Bồ-tát đến độ cho ḿnh hay không ? hay là ḿnh có số hên ? Hay là do phước ông bà để lại?

Thưa, nên hiểu rằng, Bồ-tát thị hiện giao cảm trong chúng ta, trong tất cả mọi người, mọi loài.

Một đám giặc cướp sắp ồ ạt tấn công qua chiếc thuyền nhỏ bé, hay trên thuyền sắp có biến cố thê thảm xảy ra...Tại sao bọn cướp lại đổi ác ư để trở thành thiện niệm ? Để rồi bọn chúng trở nên hiền từ và rút lui êm đẹp ? Hơn nữa c̣n tiếp tế giúp đở ,đó là nhờ trên chiếc thuyền có nhiều người chí thành niệm danh hiệu đức Quán-thế-Âm.

Sự đổi thay tâm ư của kẻ ác, lại không là sự thị hiện nhiệm mầu để cứu độ hay sao ? Không lẽ Ngài hiện ra hung thần để đánh ch́m ác tặc, rồi mới cho là linh ?

Bà già ở nhà có một ḿnh lấy rổ vá ra khấu may, mới vài đường chỉ chẳng may chỉ sút , đôi mắt lem nhem sợi chỉ không làm sao xâu qua lỗ được, bà thở dài buồn thảm : "Mẹ hiền Quán-âm ơi con phải làm sao !?". Bà tủi thân gần muốn rơi lệ ḷng hướng về Phật lâm râm cầu nguyện. Đứa bé chơi từ ngoài xa, nó bổng thấy thích vào nhà bà già cô quả ấy, và đứa bé đă xâu chỉ cho bà. Quư vị đă nhận thấy Bồ-tát thị hiện trong tâm đứa bé ấy chưa ?

Bạn lái xe đi trên quăng đường thôn dă, không may xe bạn hư ! Với độc lực và hơn nữa là bạn chưa một lần biết sửa xe, bạn chỉ c̣n biết cầu nguyện...Từ bên ngoài quốc lộ có đôi bạn lại nổi lên ư niệm ham thích được đi trên con đường hẻo lánh đó, họ gặp bạn và sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giải nguy cho bạn. Quán-âm thị hiện là chổ đó. Đó là trưởng giả thân, cũng là đồng nam, đồng nữ vậy.

Bà Ấm người làng Sơn-tịnh, mỗi năm một lần bà lên núi Trà-bồng, hang Thạch Động để lễ Phật, cái hang động ngày xưa mà thầy Chơn Dung tu hành đă phát kỳ tích ở đấy. Hú hồn, hôm ấy bà lại gặp phải con cọp, chao ôi con cọp vằn vện to lớn quá, cọp từ xa gầm thét và phóng tới, bà chỉ kịp la lên QUÁN ÂM BỔ TÁT rồi bà bất tỉnh ! Thực ra bà "THÉT" chứ không phải niệm, nhưng đó là cái thét cấp bách đầy khẩn thiết và sự chí thành được dồn hết vào cái THÉT đó. Khi tỉnh dậy, ư niệm đầu tiên của bà là tưởng ḿnh đă chết, một lát sau khi tri giác về đủ, bà mới cảm nghe hôi hám và đau rát trên mặt. Th́ ra con cọp đă liếm mặt bà rồi bỏ đi.

Tại sao cọp bỏ đi, khi miếng mồi ngon trước miệng nó ? Chính đó là diêu dụng cảm hóa, tế độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm trực tiếp ngay trong tâm ư của con cọp.

Bà Ấm là người quen (tu) tập chiếu mặt kiếng về ánh thái dương (thường niệm Quán-thế-Âm) trong giờ phút cấp bách bà chiếu đúng ánh sáng QUÁN-THẾ-ÂM.

TẠI SAO H̀NH TƯỢNG QUÁN-THẾ-ÂM CHÚNG TA ĐANG THỜ LẠI MANG VÓC DÁNG NỮ NHÂN, NGÀI LÀ NAM HAY NỮ?

Chúng ta nên biết mười phương chư Phật không hề có nữ thân. Trong kinh Pháp-Hoa phẩm Phổ-Môn có câu : "Cần thích hợp một Phật thân để tế độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện Phật thân để nói Pháp và tế độ"". Thế th́, đức Quán-thế-Âm là Bồ-tát, Ngài làm sao có thể hiện được Phật thân ?

Thực ra trong kinh ĐẠI-NHẬT và kinh BI-HOA đức Bổn Sư THÍCH-CA đă từng dạy rằng, đức Quán-Thế-Âm đời quá khứ đă thành Phật hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI vào thuở lâu xa vô lượng kiếp về trước. V́ bi nguyện độ sanh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ-tát. Cũng trong kinh BI-HOA, đức Phật luôn luôn gọi đức Quán-Thế-Âm là "Thiện-nam-tử" tốt ! Vậy đức Quán-thế-Âm không thể nào là nữ nhân được.

Căn cứ theo lịch sử về tôn giáo, nhân gian dật sử, Linh ứng truyện kư và các lịch sử (tính chất sự tích) của Trung Hoa từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương đến cận đại, và Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ ba đến cận kim th́ đức Quán-thế-Âm bồ tát đă từng hóa hiện vào các thế gia và cả bần gia để ứng cơ hóa độ chúng sanh. Mượn sự tướng của thế đạo để dẫn dắt nhân gian hướng thượng quay về chánh đạo. Như Quan-Âm Diệu-Thiện về đời vua Trang-vương. Quán-âm xách giỏ cá đời vua Huyền-Tôn nhà Đường, Quán-âm Thị-kính đời nhà Minh, Quán-Âm linh ứng đời nhà Nguyễn v.v...Tham khảo điều này cho ta thấy qua các đời phong kiến mọi quyền hành sanh sát, và làm tao loạn nhân gian hay thịnh suy cho đất nước, đều nằm trong tay Nam-giới. Tuy vậy những nữ lưu tuyệt đẹp và xuất sắc vẫn là cao điểm để đam mê và dễ bị nữ-sắc lung lạc và điều khiển.

Vậy sự hiện người nữ nhằm để chuyển hóa tâm xấu ác và cải thiện những xa hoa trụy lạc, đó là mục tiêu tùy duyên hóa độ của Bồ-tát Quán-thế-Âm. Và cũng từ đó mà tượng, ảnh của Ngài trở nên NỮ MẠO trong một số quốc gia Á-Châu. Nhưng điều căn bản là chúng ta phải biết rằng, đó là h́nh ảnh thị hiện, không nên chấp là Phật-Thân của Ngài.

BA LỄ VÍA QUÁN ÂM HÀNG NĂM, CÓ KHÁC BIỆT G̀ HAY KHÔNG?

Hằng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ-tát Quán-Thế-Âm thật trang nghiêm vào các ngày : 19/2, 19/6 và 19/9 đều theo âm lịch. Nhưng đa phần chỉ biết suông là lễ vía Quán-thế-Âm thế thôi ! Thực ra trong Thiền môn nhật tụng cổ xưa đă ghi rơ :

- Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH.

- Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.

- Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT GIA.

Mong rằng bài viết nầy sẽ đem đến cho quư độc giả niềm tin chân chính và thành khẩn, luôn luôn tưởng niệm đến danh hiệu QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT để được giao cảm hằng thường với Bồ-tát, dù tai họa đến đâu HỮU CẦU TẮC ỨNG (như trường hợp bà Ấm). Hăy chánh tín, Lời nói của Chư Phật không bao giờ hư dối./.




__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 87 of 118: Đă gửi: 07 March 2007 lúc 1:11am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1





__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 88 of 118: Đă gửi: 07 March 2007 lúc 2:35am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1



__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 89 of 118: Đă gửi: 08 March 2007 lúc 8:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

SỰ TÍCH QUAN THẾ ÂM
Tuệ Minh Đạo
Sưu tầm biên soạn

--- o0o ---



Hôm nay tôi cống hiến quí độc giả t́m hiểu về sự tích, lịch sử Bồ Tát Quan Thế Âm mà mọi người dân Việt, nhất là trong giới Phật tử thường mỗi khi gặp nạn th́ hay niệm danh hiệu của ngài "Quan Thê Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn", nhưng thực tế ít ai hiểu rơ về chân lư, sự tích, xuất xứ từ đâu, nguồn gốc của Quan Thế Âm như thế nào. Do đó, tôi mới cố gắng đi sưu tầm, tham khảo các kinh sách để cụ thể hoá ra bài này hầu góp phần trong nền văn hoá Phật Giáo và phổ biến đến quí độc giả bốn phương am tường. (Nếu có ǵ thiếu sót, kính xin quí chư Tăng, Ni cao minh, quí thiện trí thức niệm t́nh thứ lỗi và xin cung cấp thêm tư liệu cho được phong phú hơn).

*******

Quan Thế Âm tiếng Phạn là “Avalokitesvara” dịch sang tiếng Hán là Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại …Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Theo Kinh Bi Hoa th́ ở vào đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai. thời đó có vua Chuyển Luân Thanh Vương là Vô Chánh Niệm. Vua có quan đại thần là Bảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện. Do đó, Đức Bảo Tạng thụ kư cho Vua (khi đó đă là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này thành Phật hiệu là A Di Đà ở vào thế giới cực lạc.

Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng sanh bị khổ năo. v́ vậy Đức Bảo Tạng thụ kư cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệu là Quan Thế Âm, c̣n Bảo Haỉ là tiền thân của Đức Thích Ca Mầu Ni. Đức Bảo Tạng thụ kư cho Thái Tử rằng: "V́ ḷng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sanh được cùng về cơi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan Thê Âm….

Bồ Tát Quan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh c̣n   đau khổ. V́ chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si. Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài.

TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm….BI là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. Từ là ḷng yêu thương, Bi là ra tay giải quyết và dấn thân nỗ lực làm việc để cứu giúp thực tế. Tóm lại Tu Bi: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là Từ (maritrya, maitri). Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là Bi.

Quán Thế Âm xưa kia Ngài đă thành Phật hiệu là "Chánh Pháp Minh Như Lai". Ngài thị hiện làm Bồ Tát v́ muốn đảm đương công tác cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Đức Bồ Tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một bản thể, đồng chung một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đă giác ngộ mà chúng sanh th́ c̣n mê.

Do đó, Đức Quan Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào ngôi của Đức Phật A Di Đà, th́ ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là em ngài, con thứ vua Chuyển Luân cũng cùng Ngài đồng thời được Đức Bảo Tạng thụ kư) giúp việc giáo hoá độ sanh cho Đức Phật A Di Đà và 2 Ngài cũng ứng thân xuống sa bà trợ giáo cho Đức Thích Ca Mâu Ni.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm có chép lời Ngài bạch với Đức Thếâ Tôn rằng:

"Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có Đức Phật ra đời hiệu là Quan Thế Âm, từ Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu mà vào Tam Ma Đề" Do đó nên biết: Ngài đă phát tâm Bồ Đề từ đời Đức Phật Quan Thế Âm trong vô số hằng hà sa kiếp về trước do nghe Phật truyền pháp, Ngài đă nhận định pháp tu viên thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do ngài khó chứng viên thông ở nhĩ căn nên được Đức Phật thụ kư cho ngài danh hiệu Quán Thế Âm, một danh hiệu mà chúng sanh ở mười phương cung kính chấp tŕ, nhất là trong những lúc nguy hiểm, đau khổ.

             Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: "Xưa kia Ngài Quán Thế Âm đă thành Phật hiệu là "Chính Pháp Minh Như Lai". Tiền thân Đức Thích Ca hồi ấy đă từng ở dưới pháp toà, sung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi". Ngày nay Đức Thích Ca thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi lại:" Một Đức Phật ra đời th́ hàng ngàn Đức Phật phù tŕ".

             Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni th́ chép lời Ngài bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn ! con nhớ vô lượng ức kiêp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quan Vương tĩnh trụ Như Lai" Đức Phật ấy v́ thương đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Đại Bi Tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu con mà bảo:"Thiện Nam Tử ! Ông nên trụ tŕ tâm chú này và v́ khắp tất cả chúng sanh trong cơi trược ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích yên vui lớn." Lúc đó con mới ở ngôi Sơ Địa, vừa nghe xong thần chú này liền vượt lên chứng đại Bát Địa".

             Mật tông th́ theo trong Kinh Đại Bản Như Ư nói có 8 vị đại Quan Âm là:

1) Viên Măn Ư, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.

2) Bạch Y Tự Tại.

3) Cát La Sát Nữ.

4) Tứ Diện Quán Âm.

5) Mă Đầu La Sát.

6) Tỳ Cầu Chi.

7) Đại Thế Chí.

8) Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).

Ngài có đức uy thần công đức và ḷng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng v́ ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho nên giới phụ nữ đặc biệt tín ngưỡng về Ngài. Nên chúng sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ tướng để tiện hoá độ cho phụ nữ. Theo Kinh A-Di-Đà nói: Người sanh về cơi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành Phật…..Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nư ư?

Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên t́nh   Mẹ thương con, Mẹ đối với con là t́nh thương chân thành, tha thiết nhất không có t́nh thương nào sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh.

Căn cứ theo h́nh tướng đă thể hiện và đức tính Quan Thế Âm đă cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, nhân loại được thoát khổ đau ở sa bà này to lớn biết chừng nào !

Chân như đạo Phật rất mầu

Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân

Hiếu là độ được song thân

Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài

Tinh thông ngh́n mắt ngh́n tay

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra

Xem trong biển nước nam ta

Phổ môn có Đức Phật Bà Quan Âm.

Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào: Mật Tông, Tịnh Độ hay Thiền Tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài. Ngài gia hộ, độ tŕ cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta đều phải niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát" th́ được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện./.

       Cư Sĩ Nguyễn Đức Can
           Pd: Tuệ Minh Đạo
                   Tel &Fax: (714) 896-0786
E-mail: ndcan2000@yahoo.com


__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 90 of 118: Đă gửi: 11 March 2007 lúc 4:47am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

SỰ TÍCH PHẬT A-DI-ĐÀ VÀ BẢY VỊ BỒ TÁT
Phật học tạp chí Từ Bi Âm (200-204)
Thanh Tâm sưu tầm và đánh máy


------------------------------------------------------------ --------------------

SỰ TÍCH QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT
Đức Quan Thế âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp Ngài làm con đầu ḷng của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử.

Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, th́ có Phật Bảo Tạng ra đời.

Vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày càng đông, bèn suy nghĩ rằng: “Nếu Đạo Phật không phải chơn chánh, th́ đâu có lẻ người ta sùng bái khắp xứ như vậy!”

Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậy.

Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết ḷng tin kính, sắm đủ các món ngon quư và đem những đồ trân trọng của ḿnh mà dưng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ năi bữa nào và cũng không món ǵ kém thiếu.

Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy vậy khuyên rằng: “Điện hạ đă sẳn ḷng tu phước mà cúng Phật cúng Tăng: vậy xin Điện hạ hăy đem công đức đó mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Bồ Đề, chớ nên cầu sự phước báu trên cơi Trời Đao Lợi hay là cơi Trời Phạm Thiên làm chi.

Bởi v́ mấy cơi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhơn dân vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại, những đồ y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ đều khoái lạc, không có sự khổ như cơi nhơn gian.

Cái phước báu trong các cơi đó tuy là mỹ măn như thế, nhưng c̣n thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn ǵ đâu, chính là sự vô thường, thật là tướng vô định, như cơn gió thổi mau không có thế lực ǵ cầm lại đặng: hết vui th́ xảy ra buồn, hết sướng th́ trở lại khổ, dầu có sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngơ kia.

Nếu Điện hạ cứ cầu phước báu đó, chắc không thoát khỏi ải sanh tử luân hồi: nếu đă không khỏi luân hồi, th́ chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại.

Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước báu vô lậu, không hư không mất, đời đời kiếp kiếp vượt ra ngoài ba cơi bốn ḍng hưởng sự an vui vô cùng vô tận, và hồi hướng về Đạo Bồ Đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi sông mê biển khổ. Vậy phần tự lợi đă vuông tṛn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa.

Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn đáp rằng: “Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường địa ngục chịu sự khổ cực: c̣n kẻ nhơn gian và người thiên thượng th́ đủ điều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh, bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh”.

Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: “Bởi chúng sanh ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhơn quân tử, khuyên việc lánh dữ làm lành mà d́u dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp những kẻ tàn ác tiểu nhơn cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục những điều bất thiện, và lại phá hư Chánh Pháp, khinh Pháp Đại Thừa, làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà kiến, v́ vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là ǵ, nên phải chịu nổi đày đọa”.

Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng: “ Nay tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy: Tôi nguyện đem tất cả các món công đức tôi đă từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức tôi đă từng tu tập Pháp mầu mà hồi hướng về đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ Tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, tức thời tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lóng nghe và dùng phép Thiên nhăn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc ǵ, đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui . Nếu chẳng đặng như lời thề đó th́ tôi không thành Phật.

Thưa Đức Thế Tôn! Nay tôi v́ hết thảy chúng sanh mà phát ḷng đại nguyện, tu học về Pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cơi An Lạc, Thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chừng nhập Niết Bàn, Chánh Pháp truyền lại, th́ tôi tu hạnh làm việc Phật sự. Đến lúc Chánh Pháp gần diệt, hễ diệt bửa trước th́ bửa sau tôi chứng Đạo Bồ Đề.

Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ kư cho tôi, và tôi cũng hết ḷng yêu cầu các Đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười phương đều thọ kư cho tôi như vậy nữa?

Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy, liền thọ kư Bất Huyến Thái Tử rằng: “ Ngươi xem xét chúng sanh trong cơi Thiên Thượng Nhơn gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà sanh ḷng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền năo và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui.

V́ người có ḷng soi xét những loài yêu cầu của loài hữu t́nh trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay Ta đặt hiệu là: Quan Thế Âm.

Trong khi ngươi tu hạnh Bồ Tát, th́ giáo hóa cả vô lượng chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ năo và làm đủ mọi việc Phật sự.

Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết Bàn rồi, th́ cơi Cực Lạc lại đổi tên là: “Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”, y báo càng tốt đẹp hơn trước đến bội phần.

Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây phút, có hiện ra đủ thức trang nghiêm, th́ ngươi sẽ ngồi trên ṭa Kim Cang ở dưới cây Bồ Đề mà chứng ngôi Chánh Giác hiệu là: “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai”, phước tṛn hạnh đủ, muôn sự vẻ vang, đạo Pháp cao siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất quư, không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp, rồi khi diệt độ th́ Chánh Pháp c̣n truyền bá lại đến sáu mươi ba ức kiếp nữa.

Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ kư rồi, liền vui mừng mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng hoàn măn như lời Ngài nói đó, thiệt là hân hạnh biết bao! Nay tôi lạy Ngài xin làm thế nào cho các Đức Phật hiện ở hằng sa thế giới cũng đều thọ kư cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng âm nhạc, và các kẻ chúng sanh nghe tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa ĺa mọi sự dục vọng trên đời”.

Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu Lễ Phật, tức th́ các Thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng ḥa nhă, ai ai nghe đến cũng sanh ḷng vui vẻ, là cho các điều dục vọng bổng nhiên tiêu tan cả.

Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ kư cho Quan Thế Âm rằng: “Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại cơi Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh, có con của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và Đại chúng trong ba tháng: Do công đức đó, nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là: Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”.

Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ kư rồi, th́ ḷng rất vui mừng.

Đến khi mạng chung, th́ Ngài thọ sanh ra các đời khác, trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm ḷng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh, không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện.

Hiện nay Quan Thế Âm đă chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở cơi Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cơi ấy.

Đến sau, Đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn rồi, th́ Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hóa chúng sanh.



__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 91 of 118: Đă gửi: 11 March 2007 lúc 4:56am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

Viên thông hiệu quí

Đại sĩ Quán Âm

Mười hai nguyện lớn

Quảng đại cao thâm

Vào nơi khổ hải

Độ khỏi mê tân

Tầm thinh cứu khổ

Chốn chốn hiện thân.

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát


__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 92 of 118: Đă gửi: 11 March 2007 lúc 4:59am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

Viên thông hiệu quí

Đại sĩ Quán Âm

Mười hai nguyện lớn

Quảng đại cao thâm

Vào nơi khổ hải

Độ khỏi mê tân

Tầm thinh cứu khổ

Chốn chốn hiện thân.

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát




Cầu xin Mẹ Quán Âm cứu giúp đệ tử DMT .
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát


__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 93 of 118: Đă gửi: 11 March 2007 lúc 5:03am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

http://www.dharmasite.net/HinhBTQuanAm.htm

__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 94 of 118: Đă gửi: 11 March 2007 lúc 5:05am | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1



__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 95 of 118: Đă gửi: 11 March 2007 lúc 9:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

Công Năng, Oai Lực của Thần Chú Đại Bi

Muốn biết công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi, ta nên t́m hiểu xem mục đích, hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ Tát Quán Thế Âm đă phát nguyện rằng: Nếu chúng sanh nào tụng tŕ thần chú Đại Bi mà c̣n bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các cơi Phật, không được vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không thành chánh giác. Ngài c̣n nhấn mạnh: Nếu tŕ tụng thần chú Đại Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa ư, th́ thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngoại trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí thành. Hơn thế nữa, Bồ Tát c̣n cho ta biết ngay cả đối với những kẻ phạm những tội ác nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh nếu tŕ tụng thần chú Đại Bi thảy đều được tiêu trừ. V́ sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần hành giả tŕ tụng thần chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh, cho nên tất cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ tŕ, thảy đều tiêu diệt.

Oai lực lớn lao của Thần Chú đă được chính Đức Thế Tôn giảng rơ trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni:
-"Ngài A Nan bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ tŕ như thế nào?
- Đức Phật bảo : Thần chú này có những tên gọi như sau :

Quảng Đại Viên Măn Đà-Ra-Ni
Vô Ngại Đại Bi Đà-Ra-Ni
Cứu Khổ Đà-Ra-Ni
Diên-Thọ Đà-Ra-Ni
Diệt-Ác-Thú Đà-Ra-Ni
Phá Ác-Nghiệp-Chướng Đà-Ra-Ni
Măn-Nguyện Đà-Ra-Ni
Tuỳ-Tâm Tự-Tại Đà-Ra-Ni
Tốc Siêu Thượng Địa Đà-Ra-Ni."

Từ lời dạy trên của Đức Phật với ngài A Nan, chúng ta hiểu được những công năng chính của thần chú:
Bất cứ một ai khi tŕ tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi v́ oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên, không có ǵ có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cơi dục giới này, con người đâu có mong cầu điều ǵ hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và sống lâu. Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước muốn này như Bồ Tát Quán Thế Âm đă khả hứa.

Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy ḿnh rơi vào con đường cùng, bế tắc, không c̣n lối thoát; hăy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm tŕ tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc. Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi tŕ tụng ta phải tự ḿnh quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ? Giáo lư của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cỏi đời này không có ǵ xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại: gông cùm tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn,... là kết quả của những ác nghiệp mà ta đă gây nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn v́ công năng siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đă nói ở trên.

Thần chú này c̣n có tên gọi là Diệt Ác Thú. Nghe đến công năng này, một người sẵn mang tâm từ bi tất sẽ không khỏi sinh ḷng nghi ngại. Ta đang tŕ tụng Thần chú Đại Bi v́ phát khởi tâm Đại Từ Bi, nghĩa là yêu thương muôn loài không phân biệt th́ tại sao lại phải Diệt Ác Thú trong khi ác thú cũng là một loại chúng sanh cần được thương yêu, cứu vớt? Tuy nhiên, muốn hiểu rơ công năng này, trước tiên ta hăy tự đặt ḿnh vào hoàn cảnh sống của những cư dân ở những chốn rừng thẳm, non cao, đặc biệt là những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới như Ấn Độ, nơi đầy dẫy những ác thú như hùm, beo, rắn rết... luôn luôn là một mối đe dọa lớn cho sinh mạng con người. Không phải từ thời Đức Phật c̣n tại thế mà ngay cả đến bây giờ, hàng năm đă có một số lượng lớn người bị mất mạng v́ ác thú, v́ thế để cho ác thú khỏi xâm phạm ta, Bồ Tát đă cho ta thần chú Đại Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành giả đọc thần chú này lên th́ tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu rằng, đối với một người hành tŕ thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm túc, bên cạnh oai lực che chở hộ tŕ của chư thần, long, thiên, hộ pháp, ở người tŕ chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà không phải chỉ riêng đối với ác thú, ngay cả các loài độc trùng khác cũng đều phải lánh xa.


__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 96 of 118: Đă gửi: 11 March 2007 lúc 10:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

Nam Mô Bồ Tát Cầu Sám Hối

__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 97 of 118: Đă gửi: 12 March 2007 lúc 8:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

THÍCH THANH TỪ
Pháp Lạc Thất, đầu mùa hạ PL. 2511 (27-5-1967)


TƯỢNG PHẬT THÍCH CA MÂU NI
(Buddha Sàkyamuni)
DANH HIỆU.
Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi ḷng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên tĩnh.
LƯỢC SỬ.
Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Độ có vị Thánh xuất thế, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ấy, xă hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp: Bà-la- môn (Brahmanes), Sát-đế-lỵ (Kastryas), Phệ-xá (Vaisyas) và Thủ-đà (Soudas) đức Phật Thích Ca sanh trong ḍng quư tộc thuộc đẳng cấp thứ hai. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddodhana) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-gia (Maya), ở thành Ca- tỳ-la (Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào ngày trăng tṛn, tháng hai Ấn Độ, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch Trung Hoa. Tên Ngài là Sĩ-đạt-ta (Sidhartha).

Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đă mồ côi mẹ, nhờ Di mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Năm 19 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đă dạo chơi bốn cửa thành thấy cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm ḷng thương cảm vô hạn, quyết t́m con đường giải thoát cho ḿnh và tất cả chúng sanh. V́ thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can.

Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi t́m thầy học đạo. Ngài đă từng tham học với hai vị sư trứ danh đương thời là A-la-lă-ca-lan (Aralah-Kalama) và Uất-đà-già-la- ma (Udraka-Kamapu-tar). Nhưng xét đến kết quả đạo lư của họ đều không làm cho Ngài thỏa măn.

Sau đó, Ngài từ giă họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy tŕ mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả ǵ. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chánh, Ngài liền từ bỏ nó, trở lại lối sống b́nh thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở dưới cội Bồ-đề, Ngài bừng ngộ thấy rơ chân lư của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi ṿng sanh tử luân hồi.

Sau khi đă chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng ḿnh, liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 49 năm, chu du đến một phần ba xứ Ấn Độ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương Xá (Rajagrha) nước Ma-kiệt-đà (Magadha), thành Phệ-xá-ly (Vésali), thành Xá-vệ (Shavasti) nước Câu-tát-la (Kosala).

Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta-la song thọ (Sala) ngoài thành Câu-thi (Kusin-agara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết-bàn (Nibbana).
BIỂU TƯỚNG.
Vào trong các chùa Phật giáo Bắc tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức Thích Ca ngự giữa, bên phải đức Phật Thích Ca là Phật A Di Đà, bên trái là Phật Di Lặc (Phật tương lai). Lối thờ này tượng trưng tam thế Phật, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Đà là Phật quá khứ, Phật Di Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là đức Trung Tôn. Tượng Phật Thích Ca không giống người Ấn Độ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư.
THÂM Ư.
Nh́n sơ qua h́nh tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đă thấy những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn Độ, ngồi trên toà cỏ dưới cội cây Bồ-đề?

Bởi v́ Bắc tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là Pháp thân thường trụ. Hiện thân Thái tử Sĩ-đạt-ta tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi. Đă là hóa thân tùy cơ cảm th́ ở đâu có cảm đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ. V́ thế, ở Việt Nam cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện người Việt Nam, ở Trung Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung Hoa để hóa độ...

Đó là tư tưởng siêu thực, không c̣n thấy Phật ở trong một h́nh thức cố định nào. Đức Phật đă đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng này, Bắc tông Phật giáo đối với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gủi thân mật và phát sanh tín ngưỡng "Phật tùy tâm hiện". Ta hăy nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Thái Tông, khi ông này lên núi cầu đạo:
"Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là chân Phật. Nay bệ hạ muốn giác ngộ tâm ấy th́ đứng ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài". (Khóa Hư Lục)
Đă tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm ḿnh tưởng Phật tức là có Phật hiện đến. Do đó phát sanh tín ngưỡng “Phật hiện cứu khổ mọi người”. Cho nên, những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa.

Phật ngự trên đài sen cũng là một ư nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi v́ hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Đó là đặc tính không thể t́m được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại c̣n đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. V́ cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chân thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa băi cát trắng phau, hay trên g̣ đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quư trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ. Đức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đ́nh, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đ́nh trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đ́nh mà chí Ngài đă vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng.

Bắc tông Phật giáo đặt trọng ư nghĩa “thanh tịnh trong ô nhiễm" nên chủ trương "phiền năo tức Bồ-đề”, “sanh tử tức Niết-bàn". Không thể t́m Bồ-đề ngoài phiền năo, không thể có Niết-bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền năo chúng ta khéo chuyển sẽ thành Bồ-đề, trong sanh tử khéo chuyển sẽ thành Niết-bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. V́ thế, đi đến chủ trương “tích cực nhập thế”. Bởi v́ không thể có đức Phật ngoài chúng sanh, không thể có cơi Cực-lạc thanh tịnh ngoài cơi Ta-bà uế trược.

Đôi mắt đức Phât đâm chiêu nh́n xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lư Phật dạy là giáo lư nội quan luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm ḿnh là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhân sanh. V́ thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của ḿnh. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm mà hành động nơi tự thân ḿnh. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuốc lấy kết quả khổ đau về nơi ḿnh. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của ḿnh. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua Trần Nhân Tông hỏi về bổn phận, tông chỉ Thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ đáp:
"Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc". (Tam Tổ Thực Lục) (soi lại nơi ḿnh là việc bổn phận, không từ nơi người mà được).
Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đâm chiêu nh́n xuống như khi chúng ta muốn kiểm soát lại tâm tư hay hành động của ḿnh, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nh́n xuống. Khi chúng ta muốn van xin điều ǵ với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. V́ thế, khi nh́n lên đôi mắt đức Phật, đôi mắt các vị Thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan.

Trên đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế (cục thịt đỏ), để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... Trên đảnh đức Phật có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ-tát từ sơ địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho Pháp thân v́ chúng sanh không thể thấy nên gọi là "vô kiến đảnh tướng".

Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong kinh nói chung quanh đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm. Bởi v́ con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác th́ hiện lên vầng hắc ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện th́ hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến. V́ mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rơ ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể nhận biết phần nào. Như người hiền lành đến trước chúng ta nh́n thoáng gương mặt là ta có cảm t́nh ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nh́n sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào h́nh thức, mà nó siêu h́nh thức. Thiết thực nhất là các anh đồ tể khi vào xóm làng bị chó theo đuổi sủa không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nh́n qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo hóa. Đức Phật là con người thuần thiện tâm thanh tịnh, trí sáng suốt th́ ánh hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên.

Phật giáo Bắc tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Tượng này h́nh một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống. Đó là biểu thị một bậc Thánh nhân xuất thế, vừa lọt ḷng mẹ đă có những hành động siêu phàm. Và câu Ngài thốt ra lúc ấy là:
Trên trời dưới trời,
Chỉ ta hơn hết,
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Nghĩa là từ nhân gian đến các cơi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh, chết chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc tông Phật giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ "ta" ám chỉ Pháp thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không ǵ b́ kịp.

Đây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong h́nh tượng đức Phật Thích Ca. Mong rằng những khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ư thức được ḿnh phải làm ǵ đối với h́nh ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ư rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài.



__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 98 of 118: Đă gửi: 12 March 2007 lúc 8:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

TƯỢNG PHẬT A DI ĐÀ
(Buddha Amita)

DANH HIỆU.

Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cơi Cực-lạc phương tây A Di Đà có nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ. Nghĩa là hào quang và tuổi thọ của Ngài không thể lường được.

TIỀN THÂN.

Thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca nghe Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ-kheo hiệu là Pháp Tạng. Một hôm, Ngài đảnh lễ Phật cầu xin chứng minh cho Ngài phát 48 lời nguyện. Do nguyện lực ấy, sau này Ngài thành Phật hiệu A Di Đà ở cơi Cực-lạc. (Kinh Đại A Di Đà) Lại, một thuở xa xưa ở cơi San Đề Lam có ông vua tên Vô Tránh Niệm. Do đại thần Bảo Hải khuyến tiến, nhà vua gặp đức Phật Bảo Tạng, thành tâm cúng dường, quy y thọ giáo. Nhà vua phát nguyện sau này thành Phật sẽ làm giáo chủ một cơi cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Đức Phật Bảo Tạng thọ kư cho Ngài sau này sẽ thành Phật hiệu A Di Đà, cơi nước tên Cực-lạc ở phương Tây. Hiện giờ Ngài đă thành Phật và đang thuyết pháp tại đó. (Kinh Bi Hoa)

HẠNH NGUYỆN.

Đức Phật A Di Đà xưa phát 48 lời nguyện lớn, trong đó có lời nguyện sẵn sàng tiếp dẫn chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài. Dù người ấy chỉ niệm mười câu danh hiệu Ngài, Ngài cũng tiếp dẫn văng sanh về cơi Cực-lạc.

BIỂU TƯỚNG.

Đức Phật A Di Đà thường thờ có hai tượng: Tượng ngồi kiết già trên ṭa sen, tay kiết định ấn, tương tự tượng Thích Ca. Tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng dậy chập chồng, mắt Ngài nh́n xuống, tay mặt đưa lên ngang vai, tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những người đang trầm mịch. Tượng ấy gọi là tượng Di Đà phóng quang.

THÂM Ư.

Chúng ta cần t́m hiểu ư nghĩa tượng phóng quang này. Theo trong mật giáo giải thích: tay mặt Phật đưa lên biểu thị tứ thánh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật), tay trái duỗi xuống biểu thị lục phàm (Thiên, nhơn, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục). Nghĩa là Ngài sẵn sàng tiếp độ lục phàm đưa lên quả vị tứ thánh. Ư nghĩa h́nh tượng này, chúng ta thấy rơ hơn, qua bốn câu kệ tán dương Ngài:

Ái hà thiên xích lăng,
Khổ hải vạn trùng ba;
Dục thoát luân hồi lộ,
Tảo cấp niệm Di Đà.

Tạm dịch:

Sông ái sóng ngàn thước,
Bể khổ dậy muôn trùng;
Kiếp luân hồi muốn thoát,
Sớm gấp niệm Di Đà.

Chúng ta là những chúng sanh đang đắm ch́m trong sông ái, nước mắt đau thương thống khổ tràn trề như bể cả. Đức Phật Di Đà đang đứng chực trong hư không, đă duỗi cánh tay vàng chờ đợi cứu vớt chúng ta. Nhưng chúng ta có chịu ngoi đầu lên khỏi ḍng sông ái, đưa tay cho Ngài cứu vớt hay không? Hay cứ măi lặn hụp trong sông mê bể ái, để đức Phật măi đợi chờ mà không có một sự đáp ứng nào? Cánh tay vàng kia cứ duỗi thẳng đợi chờ, mà đàn con dại này măi say mê lội đuổi bắt những ḥn bọt, lặn ṃ bóng trăng. Để rồi bị sóng cuốn nước trôi càng ngày càng ra khơi, khiến người mẹ hiền kia đă lạc giọng kêu gọi.

Kinh chép:

Các đức Như Lai trong mười phương nhớ thương chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn mẹ th́ cái nhớ ấy cũng không ích ǵ. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con th́ mẹ và con trong đời này, trong các đời sau quyết không xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật th́ trong hiện tại và ở tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật không xa... (Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật).

Hai người cùng hướng mặt về nhau mà đi, dù điểm phát xuất cách xa thế mấy, nhưng cũng được gặp nhau. Nếu hai người trở lưng mà đi, dù khi khởi hành họ ở bên cạnh nhau, song càng đi họ càng xa nhau. Đức Phật luôn luôn hướng về chúng ta, nếu chúng ta cứ né trốn Ngài th́ làm sao gặp được Phật. Đáng lư chúng ta có cảm th́ Phật mới ứng song ở đây đức Phật sẵn sàng ứng, mà chúng ta không chịu cảm, thật đúng câu Phật quở: "các ông là người mê muội đáng thương".

Người phát tâm tu Tịnh độ tin chắc đức Phật đang chờ đợi tiếp đón chúng ta về cơi Cực-lạc (tín), gắng công niệm Phật (hạnh), mong mỏi được sanh về cơi Phật (nguyện). Có đủ ba yếu tố này nhất định sẽ văng sanh về Cực-lạc.

H́nh ảnh đức Phật A Di Đà là h́nh ảnh mong chờ đón tiếp. Chúng ta phải sớm thức tỉnh nhận chân sự khổ đau, trong khi đang đắm ch́m trong bể ái, để quay về với đức Từ bi. Phật là hiện thân cứu khổ, chúng ta là thực thể khổ đau. Một ngày nào chúng ta không c̣n đau khổ, ngày ấy đức Phật sẽ không c̣n duỗi tay chờ đợi cứu vớt chúng sanh.



__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 99 of 118: Đă gửi: 12 March 2007 lúc 8:51pm | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

TƯỢNG ĐỨC DI LẶC
(Maitreya)

LƯỢC SỬ.

Bồ-tát Di Lặc người Nam Ấn, sanh trong nhà Bà-la-môn, sau theo Phật Thích Ca xuất gia tu hành. Phật thọ kư: sau khi Phật Niết-bàn, Bồ-tát Di Lặc sanh về cung trời Đâu Suất, trụ trên đó bốn ngàn năm (4 000) - tính theo năm tháng ở thế gian là sáu mươi ức bảy ngàn muôn năm (6 070 000 000) sau đó sanh xuống thế giới này tu hành ở trong vườn Hoa Lâm, dưới cội cây Long Hoa thành Phật hiệu Di Lặc.

CÔNG HẠNH.

Ngài tu pháp quán các pháp Duy thức. Tất cả chúng sanh mê lầm chấp các pháp thế gian là thật có (biến kế sở chấp), nên bị sanh tử luân hồi, sự thật các pháp đều do nhân duyên sanh khởi (y tha khởi), in tuồng như có; mà không thật có. Chung qui các pháp không ngoài tánh chân thật viên măn (viên thành thật), lúc nào cũng tṛn đầy sáng suốt không biến hoại. Quán như thế, phá được cái chấp mê lầm của phàm phu, nhận thấy hiện tướng các pháp do nhân duyên sanh khởi, thấu đạt chân tánh các pháp là chân thật tṛn đầy. Đó là giác ngộ chứng quả.

BIỂU TƯỚNG.

Tượng Ngài thờ theo lối Tam Thế Phật cũng tương tự tượng Phật Thích Ca. Chỉ đáng chú ư nhất bức tượng h́nh một vị Ḥa thượng mập mạp, miệng cười toe toét, mặc áo phơi ngực, bày cái bụng to tướng, chung quanh có sáu đứa bé quấy nhiểu, đứa chọc tay vào mũi, đứa móc miệng đứa ch́a vào hông..., Ngài vẫn cười tự nhiên. Tượng này cũng gọi tượng Bồ-tát Di Lặc. Đây là y cứ vào điển tích Bố Đại Ḥa thượng - Ḥa thượng mang đăi lớn mà tô tượng.

Bố Đại Ḥa thượng xuất hiện vào đời nhà Lương ở Trung Hoa, Ngài ăn mặc xốc xếch, đi đâu thường mang cái bị lớn, gặp ai có món ǵ xin món ấy dồn vào bị, gặp những bọn trẻ con đem ra phân phát cho chúng. Bọn trẻ con thích Ngài lắm. Hôm sắp tịch, Ngài ngồi trên tảng đá bên chùa Nhạc Lâm, nói bài kệ:

Di Lặc chơn Di Lặc,
Phân thân thiên bách ức;
Thời thời thị thời nhân,
Thời nhân tự bất thức.

Dịch:

Di Lặc thật Di Lặc,
Phân thân trăm, ngàn, ức;
Luôn luôn chỉ người đời,
Người đời tự chẳng biết.

THÂM Ư.

Pho tượng này vừa căn cứ vào hóa thân Bồ-tát, vừa hàm chứa ư nghĩa sâu xa. Di Lặc Bồ-tát là hiện thân của đức tánh hỷ xả. Bởi v́, Ngài đă thấy các pháp do nhân duyên sanh khởi, không thật chỉ có giả danh, nên không chấp các pháp. Các pháp ấy không rời chân tánh viên măn, nên dù sanh diệt biến hoại vẫn không thấy mất c̣n tăng giảm. Một hôm Ḥa thượng Bảo Phước gặp Ḥa thượng Bố Đại liền hỏi: - Đại ư Phật pháp là thế nào?

Bố Đại buông bị lớn xuống đất, đứng thẳng khoanh tay.

Hỏi tiếp: - Chỉ là như vậy, hay lại có việc hướng thượng?

Bố Đại mang bị lên vai, đi.

Qua hành động trên, chúng ta thấy hạnh chánh yếu của Ngài là Xả. Đại ư Phật pháp là buông bỏ tất cả. C̣n đeo đẳng, c̣n chấp chặt th́ không thể nào thấu đạt được Phật pháp. Nhưng, xả bằng cách gắng gượng, xả mà vẫn c̣n luyến tiếc th́ cái xả ấy cũng chưa thật là xả. Phải xả bằng cách vui vẻ thích thú, th́ cái xả ấy mới thật là hỷ xả. Khi xả tất cả, người ta tưởng như không c̣n ǵ nữa, nhưng không. Sẽ c̣n đại Bồ-đề, là pháp hướng thượng. Cho nên, đến câu hỏi thứ hai, Ngài mang bị lên vai đi. Lấy đức hỷ xả làm chánh yếu, nên pho tượng Ngài lúc nào nơi miệng cũng nở nụ cười hỷ hả. Do vui vẻ mà xả, cũng do xả nên được vui. V́ thế, Ngài vui cười măi măi, dù bất cứ ở hoàn cảnh nào. Đến như sáu đứa bé chơi nghịch ngợm, đứa móc miệng, đứa chỉ tay vào mắt, đứa ngoáy lỗ tai, đứa chọt vào mũi, đứa đâm vô ngực, đứa lói vào hông, mà Ngài vẫn nở nụ cười tự tại. Sáu đứa bé ấy được mệnh danh là Lục tặc. Nghĩa là sáu đứa giặc hằng theo quấy nhiễu những kẻ tu hành. Chúng nó tượng trưng cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư của con người.

Tại sao mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ư của chúng ta mà gọi là sáu đứa giặc? Nếu muốn giết hết giặc tức là phải tiêu diệt chúng hết sao? -V́ sáu cơ quan này tiếp xúc với ngoại cảnh, sanh nhiễm ái, gây ra tội lỗi đau khổ, nên gọi chúng là giặc. Như mắt thấy sắc sanh đắm trước, dục vọng dấy khởi, rồi muôn ngàn tội lỗi theo đó mà h́nh thành. Khi tai nghe tiếng hay, sanh say mê, tâm hồn xao xuyến, chạy đuổi theo tiếng hay mà quên hết những ǵ cao thượng thanh bai. Lúc mũi ngửi mùi hương sanh ḷng ưa thích, càng ưa thích càng kiếm t́m, để thỏa măn ḷng ưa thích, người ta không ngại ǵ tội lỗi, do đó tội lỗi chập chồng. Lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ư nghĩ pháp cũng như thế. Đó là nói về chiều thuận của nó. Nếu về chiều nghịch, mắt thấy sắc xấu sanh chán ghét, mũi ngửi mùi hôi sanh gớm nhờm, tai nghe tiếng dở sanh bực bội... là gốc khiến sân hận nổi lên. Tóm lại, tiếp xúc cái thích với nó th́ sanh tham, cái không thích th́ sanh sân cả hai điều là cội nguồn tội lỗi, nên gọi nó là sáu đứa giặc.

Tuy nhiên, không phải phá hoại sáu cơ quan ấy gọi là giết hết giặc. Phá hoại nó, chúng ta sẽ thành kẻ tật quyền, không lợi ǵ cho sự tu tập. Chúng ta phải học theo gương đức Di Lặc, xả tất cả chấp ngă, chấp pháp. Ngă pháp đă xả hết, chúng ta sẽ tự tại trước mọi cảnh, chừng ấy dù bọn lục tặc phá phách đến đâu cũng không làm năo loạn tâm ta. Ta đă thắng được chúng và hàng phục chúng trở thành tay sai đắc lực của ta. Lúc chúng ta c̣n là phàm phu sáu cơ quan ấy là sáu đứa giặc hằng phá hoại ta, khi chúng ta chứng được quả thánh sáu cơ quan ấy trở thành sáu thứ thần thông (thiên nhăn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông). Thế là, sáu cơ quan ấy thành giặc thù hay thắng dụng đều do tâm chấp ngă pháp hay xả ngă pháp của chúng ta mà ra. Nó không phải tội lỗi, không phải công ơn, tội lỗi hay công ơn gốc ở tâm chấp hay xả của chúng ta mà thôi.

Biết như vậy, chúng ta gắng tập đức hỷ xả của ngài Di Lặc buông bỏ tất cả hận thù, buông bỏ mọi cố chấp, buông bỏ ḷng tham trước... Tất cả đều buông bỏ th́ ḷng chúng ta nhẹ nhàng như quả bóng đứt dây, thênh thang như hư không bao hàm vạn tượng, vui vẻ hồn nhiên như đứa trẻ thơ nh́n vào ống kính vạn hoa. Được thế, c̣n ǵ làm ta đau khổ, c̣n ǵ khiến ta phải bực bội đắm mê. Đến đây, tâm như bể rộng mênh mông, trời cao thăm thẳm, mặc t́nh thuyền bè qua lại mà không lưu lại một vết tích ǵ trong bể, tùy duyên trăm ngàn mây nổi mà không ngại nhau trong hư không.

Thờ tượng đức Di Lặc hay lễ bái Ngài, chúng ta phải nhớ hạnh hỷ xả là pháp tu chánh yếu để giải thoát mọi khổ đau. Có hạnh hỷ xả là có giải thoát, có an vui. Hỷ xả là thần dược trị lành mọi bệnh chấp trước của chúng sanh. Nụ cười của đức Di Lặc là nụ cười muôn thuở, không bao giờ biến đổi.



__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 
KYLAN1
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 100 of 118: Đă gửi: 12 March 2007 lúc 8:55pm | Đă lưu IP Trích dẫn KYLAN1

BỔ TÁT QUÁN THẾ ÂM
(Bodhisatva Avalokitesvara)

DANH HIỆU.

Quán Thế Âm, nghĩa là quán sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.

TIỀN THÂN.

Thuở đức Phật Bảo Tạng, Ngài là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Ngài theo vua cha đến nghe Phật thuyết pháp và thỉnh Phật cùng Tăng chúng về cung cúng dường. Do công đức ấy, được Phật thọ kư sau này làm Bồ- tát hiệu là Quán Thế Âm, phụ tá đức Phật A Di Đà giáo hóa chúng sanh và sau nữa sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương (kinh Bi Hoa quyển ba, phẩm Chư Bồ-tát bổn thọ kư).

HẠNH NGUYỆN.

Bồ-tát Quán Thế Âm không có trong lịch sử thế giới này. Ngài là vị Bồ-tát hầu cạnh đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực-lạc phương tây. Có chỗ nói Ngài không cố định ở thế giới nào, tùy chúng sanh ở đâu đau khổ th́ Ngài thị hiện đến cứu độ. Quán Thế Âm là xem xét tiếng kêu đau khổ của chúng sanh ở đời. V́ thế, Ngài là hiện thân của từ bi. Chỗ nào có chúng sanh khổ đau là có Ngài hiện thân đến đấy. Ngài hằng tùy loại chúng sanh hóa thân độ họ. Có nhiều lần Ngài hóa thân người nữ độ đời, nên người ta thường gọi Ngài là Phật Bà.

BIỂU TƯỚNG.

Nghiên cứu về h́nh tượng Ngài, chúng ta thấy có lắm tượng. Những tượng y cứ theo giả sử, như: Quán Âm Hài Nhi (thể theo cốt truyện Quán Âm Thị Kính), Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc... Những tượng y cứ theo các kinh phái Mật tông, như: Quán Âm Mă Đầu, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhăn, Quán Âm Cữu Diện...

Có một pho tượng phổ thông nhất là Quán Âm thanh tịnh b́nh thùy dương liễu. Tượng này Ngài Trí Khải hằng tán dương, chúng ta cố gắng t́m hiểu. Tượng Ngài h́nh người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương, tay trái cầm b́nh thanh tịnh, trong b́nh đựng nước cam lồ. Chúng ta hằng lạy mười hai câu nguyện sau khi tụng phẩm Phổ Môn, có câu "Nam mô thanh tịnh b́nh thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện". Câu nguyện này đă diễn tả đúng h́nh tượng Ngài. Giờ đây, chúng ta t́m hiểu chi tiết qua h́nh tượng đó.

THÂM Ư.

Tại sao Bồ-tát Quán Thế Âm lại là người nữ? Theo kinh Di Đà nói: người sanh về cơi Cực-lạc tuy chưa chứng quả Thánh vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A-hàm nói: người nữ có năm chướng không thể thành Phật... Thế mà, Bồ-tát Quán Thế Âm lại hiện thân người nữ?

- Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân của đức Từ Bi. Muốn nói lên t́nh thương chân thành tha thiết nhất trong con người, không t́nh thương nào qua t́nh mẹ thương con. Mẹ đối với con là t́nh thương chân thành thâm thúy bao la, khó lấy cái ǵ có thể h́nh dung được. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sanh. Người mẹ dầu bận công ăn việc làm ǵ, một khi nghe tiếng con kêu khóc, mẹ buông bỏ tất cả vội vàng chạy lại vỗ về con. Đức Quán Thế Âm cũng thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng kêu thương của chúng sanh, Ngài liền hiện thân đến an ủi. V́ thế, gọi Ngài là Bồ-tát Quán Thế Âm. Người mẹ hiền của tất cả chúng sanh, người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nấc nở từ cơi ḷng của đàn con dại đang đắm ch́m trong bể khổ mênh mông, để đến xoa diệu, cứu thoát khiến mọi khổ năo đều được tiêu tan.

Tay mặt Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Tay trái cầm b́nh thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lồ rưới mát chúng sanh. Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh th́ uốn ḿnh theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gơ th́ gió không thể lay, một khi bị gió lay là phải găy. Nếu yếu như cành liễu th́ chỉ buông rũ theo chiều gió. Cứng quá, mếm quá đều không có sức chịu đựng lâu dài. Cành dương nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí. Tức là tuy ch́u theo cảnh mà không bị cảnh chi phối. V́ thế, cành dương được tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Nhẫn nhục không có nghĩa ai làm sao cũng được, ai bảo ǵ cũng nghe. Chính bản chất của nó là khéo tùy thuận người, để hướng dẫn họ, theo đường lối hay lập trường của ḿnh. Tùy thuận mà không bị họ chi phối, ngược lại chi phối được h?. Người nhẫn nhục mới trông qua như rất yếu hèn, kỳ thật họ có sức mạnh phi thường, đă tự chiến thắng được t́nh cảm, được phản ứng của bản năng. Họ đă vượt ra ngoài phạm trù con người phàm tục, nếu lấy con mắt phàm tục nh́n họ th́ không thể nào hiểu nổi. Người chửi ta giận, người đánh ta đở, đó là bản năng tự vệ của tất cả mọi người. Bị chửi mà không giận, bị đánh mà không đở, ấy mới là việc khó làm, phi bậc thánh giả khó thể làm được. Hằng ngày chúng ta sống theo t́nh cảm, theo bản năng, thấy những phản ứng như vậy cho là phải lẽ, hợp lư. Nếu thấy người bị chửi mà không giận..., chúng ta liền đâm ra bực tức, khi dể họ, cho là kẻ hèn yếu nhát nhúa. Đâu ngờ, những kẻ ấy đă đứng trên đỉnh chúng ta, mà ở dưới này chúng ta vẫn tự cao tự đại.

Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. Chữ cam là ngọt. Chữ lồ đọc trại chữ lộ, tức là sương hay móc. Khi người ta bị nóng bức khô khan, nếu được một giọt nước cam lồ thấm vào cổ sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho ḷng từ bi của Bồ-tát. Khi chúng sanh bị lửa phiền năo thiêu đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ-tát, Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành. Chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới, ngọn lửa phiền năo của chúng ta nổi cháy rần rần, nếu không có giọt nước từ bi của Bồ-tát, chắc hẳn tất cả chúng ta đều phải chết thiêu trong ḷ phiền năo. Từ bi là ḷng thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ, không thấy có quư tiện, ḷng thương chân thật b́nh đẳng. Sự quư báu cao cả của nó, chỉ có nước cam lồ mới đủ tính cách tượng trưng. Nước cam lồ chẳng những cứu người qua cơn khát cháy cổ, mà c̣n đem lại cho người mùi thơm ngon ngọt dịu. Từ bi chẳng những cứu người trong cơn nguy khốn, mà c̣n đem lại cho người nguồn an lạc vô biên.

Bởi tính chất quư báu vô thượng của nước cam lồ như vậy, nên phải đựng nó trong một cái b́nh thanh tịnh. V́ của quư bao giờ cũng đựng trong món đồ quư. B́nh thanh tịnh là tượng trưng ba nghiệp trong sạch. Chúng ta ôm ấp ḷng từ bi muốn ra cứu độ chúng sanh, nếu thân, miệng, ư chưa trong sạch th́ khó mong thực hiện ḷng từ bi. Nếu cố gắng thực hiện, một thời gian cũng lạc về danh hay v́ lợi. Ví như người có khoa y dược, sẵn sàng chữa trị bệnh khổ cho người, khi những con bệnh được lành, đương nhiên phải có sự đền đáp hay khen ngợi trên báo chí, nếu người ấy ư chưa trong sạch dễ nóng ḷng danh lợi. Do đó, dần dần làm hoen ố ḷng từ bi. Cho nên, muốn thực hiện ḷng từ bi, điều kiện tiên quyết là ba nghiệp phải thanh tịnh.

Muốn mang nước cam lồ ra rưới mát chúng sanh, phải dùng cành dương làm phương tiện. Bởi v́ chúng sanh trong đời này nghiệp chướng quá sâu dày, ít khi thấy lẽ phải. Họ chỉ sống theo bản ngă, sống v́ dục vọng của họ, khó ai làm cho họ hài ḷng. Dù người ấy sẵn sàng tiếp giúp họ trong khi khốn đ?n, mà họ vẫn không biết ơn, đôi khi c̣n phản bội. Người sẵn ḷng từ bi ra tế độ chúng sanh, nếu thiếu đức tánh nhẫn nhục th́ sự tế độ khó được viên măn. Không phải ai ai cũng sẵn sàng đưa tay cho ta d́u ra khỏi con đường nguy hiểm hết đâu, dù họ là những kẻ mù. Có kẻ tin đưa tay cho ta d́u đi, song giữa đường vấp phải những ḥn đá nhỏ, hay chạm những gốc cây, là họ sừng sộ với ta. Có kẻ d́u đi được một đoạn, họ cho là nhọc nhằn khổ sở, không muốn đi nữa, rồi kiếm chuyện làm khó dễ ta. Có kẻ không ưng đưa tay cho ta d́u, lại c̣n mắng nhiếc ta thậm tệ. Ở những trường hợp đó, dù ta có thiện chí muốn cứu giúp họ thế mấy, nếu thiếu đức nhẫn nhục, thử hỏi ta có thể làm được việc ǵ? Bởi thế, người học đạo từ bi trước phải tập đức nhẫn nhục khi nhẫn nhục được thuần rồi mới ra thực hiện từ bi. Chưa tập được đức nhẫn nhục đă vội ra thực hành từ bi, chẳng những không làm được hạnh từ bi, mà lại phát sanh sân hận là khác. Cho nên, phải có cành dương rồi, sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sanh.

Để thấy rơ công hạnh từ bi, chúng ta hăy nghe đoạn văn tán dương năng lực nhành dương của ngài Thiên Thai:

"Thùy dương liễu biến sái cam lồ, trừ nhiệt năo dĩ giai đắc thanh lương, tầm thinh cứu khổ ư tứ sanh, thuyết pháp độ thoát ư lục đạo, bẩm từ bi kiên cố chi tâm, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng, hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tùng, cố ngă tri lưu, đoan thừa tịnh quán, thành tụng mật ngôn, gia tŕ pháp thủy. Thị thủy giả, phương viên tùy khí, dinh hư nhậm thời, xuân dương đông ngưng, khẩm lưu lương chỉ, hạo hạo hồ, diệu nguyên mạc trắc, thao thao hồ, linh phái nan cùng, bích giáng tàng long, hàn đàm tẩm nguyệt, hoặc tại quân vương long bút hạ, tán tác ân ba, hoặc cư Bồ- tát liễu chi đầu sái vi cam lồ, nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh".

Dịch:

"Cầm nhành dương (Ngài) rưới nước cam lồ lên khắp cả, trừ nhiệt năo (Ngài) làm cho mọi người đều được tắm trong ḍng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài thuyết pháp để độ thoát cho lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm, không ai cầu mà chẳng ứng, không nguyện nào mà chẳng thành. Cho nên, chúng con là kẻ xuất gia, an trụ trong tịnh quán, chí thành đọc lại mật ngôn và gia tŕ pháp thủy. Tịnh thủy này vuông tṛn tùy theo b́nh chứa đựng, có hay không cũng tùy tiết tùy thời. Mùa xuân là loăng, mùa đông th́ đặc, khi chảy khi đọng thật là mênh mông; nguồn sâu khó lường, chảy măi thao thao, thật là ḍng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá, nước ngâm bóng loài rồng, ở dưới ao thu, nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh thủy này hoặc đọng duới ng̣i bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng ân, hoặc nằm trên đầu nhành dương liễu của vị giác hữu t́nh để rưới thành cam lồ linh diệu. Chỉ cần một giọt nước rưới lên là mười phương đều được sạch trong". -- (N. H.)

Muốn diễn tả ḷng từ bi cao cả của Bồ-tát Quán Thế Âm, tác giả dùng giọt nước nhành dương, thật là linh động biến ảo. Nước không cố định ở một h́nh thức nào, tùy duyên biến chuyển, có khi là thể lỏng, có khi là thể cứng, có lúc lại biến thành hơi. Nếu chúng ta chấp nước chỉ có ở thể lỏng, tức không hiểu được nước. Không phải chỉ ở một h́nh thức cố định, mà linh động tùy duyên. Đủ duyên cơ cảm th́ Bồ-tát ứng hiện.

Nước khi đọng dưới hồ thu trong xanh in hiện bóng trăng, khi lóng trong khe đá làm nhà cửa loài rồng, lúc chảy ầm ầm thành suối gào thác đổ, thật không thể lường được diệu dụng của nước. Ḷng từ bi của Bồ-tát cũng thế, mênh mông như bể cả bao hàm tất cả chúng sanh, tràn trề như ngọn triều lên mang hạnh phúc cho mọi loài thọ hưởng. Bất cứ nơi nào, chốn nào có cảm th́ Bồ-tát đều ứng hiện. Sự ứng hiện tùy theo căn tánh chúng sanh, kẻ thấy Bồ-tát ở h́nh thức này, người cảm Bồ-tát nơi tướng trạng khác. Tựu trong có cảm thông nhất định có linh ứng.

Chỉ một giọt nước (nhỏ mực) đọng dưới ng̣i bút của hàng vua chúa cũng đủ làm cho muôn dân thấm nhuần ơn vũ lộ. Hoặc một giọt nước (giọt cam lồ) nằm trên đầu nhành dương liễu của bậc Bồ-tát cũng đủ giải thoát mọi loài chúng sanh. Ḷng từ bi không phải chỉ có ở trong tâm Bồ-tát, trong tâm những kẻ tu hành, mà c̣n có ở trong ḷng bậc đế vưong, trong ḷng kẻ có quyền thế. Cho nên, ai cũng có thể là bậc cứu khổ chúng sanh, miễn họ phát tâm từ bi. Từ bi không phải là gia bảo dành riêng cho các bậc tu hành, mà nó là của chung tất cả nhân loại. Dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào, cũng có thể thực hiện từ bi được, nếu trong ḷng chứa sẵn từ bi.

Qua những lời tán dương trên, chúng ta thấy ḷng từ bi cao cả khôn lường. Chúng ta lễ tượng đức Quán Thế Âm luôn luôn phải ghi nhớ hai đức tánh căn bản của Ngài: nhẫn nhục và từ bi, để đem áp dụng vào bản thân chúng ta. Có thế, sự lễ bái mới thật là hữu ích và cần thiết vô cùng.


__________________
T́m em ngược lối ḍng sông,
Luân hồi bao kiếp đợi mong đến giờ!
Quay trở về đầu Xem KYLAN1's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KYLAN1
 

<< Trước Trang of 6 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.5430 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO