Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 74 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 121 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 12:23am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



AI CẬP HUYỀN BÍ


NHÀ PHÙ THỦY THÀNH CAIRO


CHƯƠNG NĂM


Tại Cairo, người ta sống trong hai thế giới khác nhau. Bạn lọt vào thế giới Ả Rập khi từ công trường trung ương Ataba el Khadra, bạn đi về phía đông. Bạn lọt vào thế giới Âu Tây hiện đại nếu bạn đi ngược lại chiều hướng trên.

Một sự sống lạ lùng hỗn hợp Đông phương với Tây phương, thời trung cổ với thời kỳ hiện đại, màu mè sặc sỡ và sự sống cẩu thả, thiếu vệ sinh của phương Đông, cùng với sự ngăn nắp sạch sẽ của Âu Tây chung lộn với nhau dưới cái nhịp độ sinh hoạt thực tế hằng ngày.

Chính tại Cairo mà tôi khám phá hằng hà sa số những pháp sư, phù thủy và đồng tử, nhà tiên tri và chiêm tinh gia, thầy bói và tướng số, tu sĩ và thuật sĩ, gồm những thành phần rất đông đảo và đủ mọi hạng. Chính phủ Ai Cập đă ra lịnh cấm phần nhiều những hoạt động của họ, và áp dụng những biện pháp hạn chế.

Mặc dầu tôi vẫn có thiện cảm với những người thuộc thành phần kể trên, tôi phải nh́n nhận rằng chánh phủ hoàn toàn có lư khi áp dụng biện pháp gắt gao đối với họ. Những tay bợm băi thường lừa bịp những người mê tín nhẹ dạ, những người buôn thần bán thánh dễ thuyết phục những người sẵn sàn nghe theo họ, những kẻ tiên tri giả mạo thường làm cho công chúng tin tưởng nơi những sự lầm lạc của ḿnh.

Người ta không thể làm được đúng mức những sự tổn hại mà các ông thầy bói và tướng số sẽ gây cho thân chủ quá thật thà, thường vịn theo những lời bói toán, tiên tri làm cái kim chỉ nam cho cách sinh hoạt và sử thế của ḿnh. Tuy vậy, người ta cũng biết khá đủ về những tệ đoan gây nên, nó là cho chánh phục phải can thiệp.

Dầu sao, trong số những thành phần ấy đă có một vài nhân vật làm cho tôi thích thú ngoài phạm vi hành nghề của họ. Đó là: Một nhà phù thủy đă làm chết một con gà mái dưới mắt tôi bằng những câu thần chú và bằng khoa pháp môn:

Một nữ phù thủy người Soudan, đă đoán trúng rằng xứ Ấn Độ là nơi mà tôi đă trải qua một thời gian rất may mắn tốt lành, và sau đó đă tiên đoán vài điều về tương lai; một người thanh niên Ai Cập đạo Gia Tô và gốc xứ Syrie, tin tưởng chắc chắn rằng y là hậu nhân của thánh Elie và sống một cuộc đời ẩn dật lánh xa thế tục như đấng tiên tri nọ.

Một ông lăo dị kỳ sống với gia nhân trong một ṭa nhà lớn bên cạnh một ngồi đền hồi giáo, và sống tách rời thế gian đến nỗi ông ta dùng hết thời giờ của ḿnh để nói chuyện với các vong linh bí mật; một bà nọ rất can đảm, bất chấp lịnh cấm của vua Ibn Séoud, đă lén quay phim tại thánh địa Mecca.

Nhưng bây giờ lại muốn học hỏi vấn đề đạo lư với những bậc danh sư thượng thặng; nhà thuật sĩ trứ danh Tahra Bey, không ngần ngại cắn một lưỡi dao găm vào cỗ họng ḿnh hoặc vào ngực trên cổ quả tim mà không sao cả, thậm chí cũng không chảy máu.

Những nhân vật khác nữa cũng làm cho tôi phải chú ư, nhưng tôi không thể diễn tả hết mọi người với đầy đủ chi tiết, mà chỉ kể đại khái những chuyện về một vài người đáng lưu ư nhất.

Một khía cạnh khác đời sống ở Cairo cũng rất hấp dẫn đối với tôi, đó là khía cạnh tôn giáo, v́ thành phố này đă từng là trung tâm truyền bá nền văn minh Hồi giáo trong khoảng trên một ngh́n năm.

Tôi t́m thấy ở chỗ của nhà phù thủy vào một buổi trưa hè nóng bức, sau khi đă đi t́m đường rất lâu và mất rất nhiều công phu dọ hỏi. Tôi đi theo một con đường lớn vẫn c̣n lót bằng những tảng đá rất cũ đến một khu xóm ồn ào, cũ kỹ, b́nh dân, mà những con đường hẹp quanh co chen chúc nhau giữa ngôi đền hồi giáo El Azhar và khu nghĩa địa âm U Bad el Wazir.

Một đoàn lạc đà nối đuôi nhau đi vào thành phố, mỗi con lạc đà đều có đeo trên cổ một cái lục lạc đồng, khiến cho cuộc diễn hành của chúng phát ra những tiếng khua nghe rất vui tai. Để t́m địa chỉ của nhà phù thủy, tôi vạch một lối đi xuyên qua nhiều ngơ ngách tối tăm, quanh co lẩn khuất như chốn mê cung.

Nhiều lối đi chật hẹp đến nỗi nền trời chỉ xuất hiện qua những khe hở không đều giữa những nóc nhà hai bên đường. Tuy nhiên, ánh nắng mặt trời rọi xuống lối đi chật hẹp đó tạo nên một khung cảnh chỗ sáng chỗ tối trông rất ngoạn mục.

Sau cùng tôi đi vào một con đường khúc khủyu đưa đến nhà một người mà tôi t́m kiếm, xuyên qua những lớp bụi trắng rất dầy và những ngọn gió đưa vào từ những ngọn đồi khô khan nhô lên ở vùng ngoại ô thành phố. Ngôi nhà rộng lớn và có vẻ cũ kỹ, mặt tiền xây bằng những tảng đá dài sơn màu mè sặc sỡ, và trên gác có nhiều cửa sổ, tôi đợi một lát th́ một đứa trẻ độ mười bảy tuổi ra hỏi với một giọng do dự:

- Thưa ông muốn hỏi ai?

Khi tôi nói đích danh nhà phù thủy, th́ người thiếu niên lùi bước với vẻ ngạc nhiên. Hẳn là trong số những thân chủ của nhà này, không có nhiều người Âu.

Người thiếu niên nói:

- Ông kiếm cha tôi! Về chuyện chi, xin ông cho biết?

Tôi cho biết ư kiến của tôi và đưa ra một tờ giấy giới thiệu viết bằng viết ch́. Khi y thấy chữ kí tên, đôi mắt y sáng lên, y mời tôi vào nhà, mời tôi vào pḥng khách, chỉ một cái divan có lót vải trắng và mời tôi ngồi.

Kế đó, y bước lên lầu và liền trở xuống. Tôi nghe tiếng chân người lê những bước đi chậm chạp, và những người thiếu niên bước vào pḥng, theo sau có một người thân h́nh vạm vỡ, trạc độ sáu mươi tuổi, người này vừa bước vào vừa đưa tay lên trán để chào tôi theo lối bản xứ.

Y choàng trên đầu một chiếc khăn trắng phủ xuống tận vai, để một mái tóc đen như huyền. Nét mặc y già dặn và biểu lộ một tính t́nh cỡi mở, tốt bụng, râu mép khá rậm những bộ râu dưới cằm th́ thưa. Đôi mắt y lớn luôn luôn xuống đất và đôi mí nheo lại. Y mời tôi cứ an tọa và y ngồi trên một chiếc ghế lớn.

Với vài lời vắn tắt, nhà phù thủy bài tỏ sự hân hạnh được tôi đến viếng, và mời tôi dùng giải lao trước khi vào đề câu chuyện. Tôi cám ơn, nhưng v́ biết rơ tập quán bổn xứ, tôi yêu cầu y đừng cho tôi uống cà phê, v́ tôi không dùng thứ ấy.

Y mời tôi dùng trà của xứ Ba Tư, một thứ trà rất ngon, tôi bèn vui ḷng nhận. Trong khi chờ đợi, tôi định phỏng vấn nhà phù thủy về đời tư của y, nhưng vô hiệu quả. Ngoài vài lời độc âm ngắn ngủi theo phép lịch sự bổn xứ, y không chịu nói ǵ về cuộc đời của ḿnh. Trái lại, y xoay chiều câu chuyện và đưa ra nhiều câu hỏi về mục đích của tôi.

Tôi trả lời thành thật và không do dự. Trong khi đó, người gia bộc đă dọn ra những thức ăn đặc biệt Ai Cập, gồm có những khoanh bánh ngọt làm bằng bột ḿ trộn với mật ong và chiên vàng, chuối và những chén trà Ba Tư thơm phức. Khi chủ nhà hiểu rằng việc sưu tầm của tôi không có mục đích chế nhạo hoặc ác ư ǵ khác, y trở nên rất cở mở.

Nhưng, dưới cái lớp nhă nhặn lịch sự bên ngoài đó, tôi nhận thấy y luôn luôn giữ ḿnh, dường như không muốn tiết lộ cuộc đời ḿnh cho người khách lạ. Bỗng nhiên, y thay đổi thái độ, và đề nghị cho tôi xem một vài bí thuật phù thủy của y. Y nói:

- Ông hăy đưa cho tôi cái khăn tay.

Tôi đưa khăn cho y, y cầm lấy rồi trả lại tôi rồi nói:

- Được rồi. Bây giờ ông hăy xé nó ra làm hai mảnh.

Tôi làm y theo lời. Y cầm lấy mảnh khăn và viết trên đó một vài dấu hiệu nguệch ngoạc bằng một cây viết mực. Xong rồi, y xếp mảnh khăn lại đưa cho tôi, và yêu cầu tôi để trong một cái dĩa nhỏ bằng đồng ở cạnh tôi trên divan.

Tôi theo dơi với ít nhiều thích thú. Nhà phù thủy bèn cầm một mảnh giấy và vẽ trên đó một h́nh tam giác lớn, trong đó y vẽ vài dấu hiệu bí mật và vài chữ Ả Rập. Y đưa cho tôi mảnh giấy và bảo tôi để lên cái khăn đă xếp làm tư. Xong, y mới nói lầm thầm trong vài phút một thứ ngôn ngữ dị kỳ khó hiểu, hai mắt y nhắm nghiền. Rồi th́nh ĺnh y mở mắt ra.

Ngay khi đó, cái khăn bị xé hai bốc cháy trên cái dĩa đồng bên cạnh tôi. Ngọn lửa bốc lên cao làm tôi ngạc nhiên, và trở thành một luồng khói dày đặc bay khắp pḥng. Khói làm tôi ngộp thở và cay mắt. Tôi bèn vội vă đứng dậy đi ra cửa, th́ nhà phù thủy đă ra đến đó trước tôi, y gọi người gia bộc mở hết các cửa sổ cho bớt khói.

Phải chăng đó là khoa phù thủy chánh hiệu, hay đó chỉ là một tṛ ảo thuật dùng những hóa chất bắt lửa? Tôi không băn khoăn cho lắm về việc ấy, v́ tôi không thấy cần một sự chứng minh để làm ǵ. Nhưng ông lăo tỏ vẽ rất hănh diện về cái ḱ công của y. Tôi hỏi:

- Ông đă đốt cái khăn bằng cách nào?

- Bằng cái sai khiến âm binh.

Đó là câu giải thích của y, nó chẳng giải thích ǵ cả, nhưng tôi không hỏi thêm ǵ nữa. Đó là v́ Ai Cập người ta thường dùng cách đó để giải thích những điều mầu nhiệm ngoài lănh vực thiên nhiên.

Nhà phù thủy bảo tôi:

- Ông hăy trở lại trong ba ngày nhưng ông đừng quên đem theo một con gà lông trắng. Tôi nhận thấy nơi ông có một cái ǵ tôi thích, bởi đó tôi vui ḷng giúp ông một việc. Ông hăy nhớ đem một con gà tơ, đừng già quá, mà lông trắng mà thôi.

Tôi nghĩ đến những tay phù thủy Phi Châu thường cắt cổ gà trống trắng rồi phóng tia huyết gà lên đầu những thân chủ của họ, nên tôi từ chối lời đề nghị của ông này. Y khẩn khoản mời mọc tôi nhiều lần, và nói thêm rằng nghi thức phù thủy này có bàn tay của một vị thần linh rất cao tay ấn sẵn sàng hành động để pḥ trợ cho tôi. Nhưng tôi vẫn một mực từ chối.

Sau cùng tôi nói cho y biết rằng loại nghi thức này làm cho tôi ghê tởm, và tôi thà không có những sự lợi ích mà y đă gán cho việc hành lễ ấy. Nhà phù thủy bảo đảm rằng sẽ không có việc đổ máu trong nghi thức này. Nghe như thế tôi đồng ư.

Một lần nữa, tôi lại đi qua con đường nhỏ hẹp dưa đến chỗ ở của nhà phù thủy. Lần này, tôi đi qua chợ bán gà vịt ở phía sau công trường Ataba el Khadra, và mua một con gà mái tơ lông trắng. Tôi ôm con gà trong tay và cảm thấy hơi thở ấm của nó dưới ḷng bàn tay tôi. Tôi tự hỏi không biết lăo phù thủy sẽ dành cho nó một số phận ra sao.

Khi tôi đến nơi, lăo phù thủy không c̣n dè dặt nghiêm nghị như mọi ngày, mà lại mỉm cười. Y yêu cầu tôi để con gà ở giữa tấm thảm trải trên nền gạch, rồi bước qua ba lần trên một b́nh lư hương đốt trầm nghi ngút ở một góc pḥng. Khi tôi đă bước qua ba lần trên khói trầm thơm phức, tôi bèn ngồi trên divan và nh́n lăo chủ nhà.

Nhà phù thủy lấy ra một tờ giấy, vẽ trên đóù một h́nh vuông chia làm chín ô vuông nhỏ, trong mỗi ô vuông đó y vẽ một dấu hiệu thần bí hoặc một chữ Ả Rập. Kế đó, y niệm lầm thầm, một câu thần chú và đôi mắt y nh́n chăm chú vào con gà.

Thỉnh thoảng, y dậm thêm vào những câu thần chú bằng một cử chỉ ngắn như ra lệnh bằng ngón tay trỏ. Con vật bắt đầu sợ hăy và chạy chốn vào một góc pḥng, núp dưới một cái ghế. Khi đó, nhà phù thủy bảo tôi bắt con gà lại và để nó ở giữa tấm thảm như cũ.

Tôi nói cho y biết tôi không muốn sờ vào con gà một lần nữa. Người con trai ông lăo khi đó bước vào pḥng ngồi với chúng tôi, y mới bắt con gà và để lại chỗ cũ.

Con gà lại bắt đầu tỏ vẻ sợ sệt và lại muốn chạy vào góc pḥng. Nhưng lăo phù thủy, bằng một giọng mạnh mẽ, ra lịnh cho nó hăy nằm yên. Con gà bèn nằm yên lập tức. Lúc ấy, tôi nhận thấy toàn thân nó run lên.

Nhà phù thủy lại mời tôi bước qua ba lần trên ḷ trầm. Khi tôi trở lại ngồi trên divan, con gà không nh́n vào lăo phù thủy nữa, mà hai con mắt nó nh́n về phía tôi cho đến lúc cuối cùng.

Khi đó tôi nhận thấy một sự lạ lùng. Hơi thở của con gà trở nên nặng nề và khó khăn, mỗi hơi thở chỉ c̣n là một hơi thở dài và hổn hển, mỏ nó há ra luôn dường như nó đang cố gắng để đem không khí vào phổi. Nhà phù thủy bèn đặt lá bùa dưới đất ở một bên nó.

Y lui gót một cách nhẹ nhàng về phía cửa mở, y đứng nơi đó và lại vừa đọc thần chú vừa nh́n thẳng vào con gà. Những câu thần chú của y lên giọng ra lịnh, lần lần người ta thấy con gà đă uể oải và như sắp tắt thở. Nó cố gắng một lần chót để đứng dậy nhưng lại té ngă xuống v́ kiệt sức.

Vài phút trôi qua, nó giật ḿnh vài cái, hai cánh vỗ một cách yếu ớt. Những cử động của nó càng bớt dần và dứt hẳn. Thân ḿnh nó cứng đơ, rồi đến cái đầu, rồi tôi nhận thấy rằng con gà nóng hổi mà tôi vừa đem đến nửa giờ trước đây, không thốt ra được lời nào và có một cảm giác như buồn mửa. Lăo già yêu cầu tôi để cái khăn tay trên xác con gà, và nói với một giọng lạ lùng:

- Khoa pháp môn đă thành công hoàn toàn. Kể từ nay, vị thần linh đă giết con gà này sẽ phù trợ cho ông. Đôi khi, tôi cũng đă làm một nghi thức như thế mà con gà không chết, đó là bởi v́ thần linh từ chối không chịu pḥ trợ cho thân chủ của tôi.

Tôi quan sát nhà phù thủy này suốt buổi hành lễ và thấy y luôn luôn nh́n xuống đất. Y giải thích thái độ đó như sau:

- Khi tôi niệm chú hô thần để kêu gọi một vị, và khi thần linh xuất hiện để chịu cho tôi sai khiến, th́ không bao giờ tôi nh́n thẳng vào y. Đó là một trong những quy luật phải noi theo.

Nhưng cuộc lễ hy sinh này chưa phải là đă xong. Ông c̣n bổn phận gói xác con gà lại và đem về nhà cho đến ngày mai, đợi đến lúc nữa đêm, ông sẽ đi đến cầu Kasr el Nil và liện xác nó xuống sông. Trong khi đó, ông hăy đưa ra một lời ước nguyện, và có ngày thần linh sẽ giúp được ư ông muốn.

Cái khăn của tôi không đủ để gói xác con gà. Tôi thấy trong pḥng có một tờ báo, tôi bèn dùng nó để gói lại. Về đến nhà, tôi đưa cái gói cho tên gia bộc Ả Rập c̣n trẻ tuổi của tôi, và đăn y nên mở ra và sờ mó ǵ đến nó cho đến đêm sau.

Nhưng lời dặn này là thừa. Tôi chỉ nói thoáng qua là con gà đă bị hy sinh do bàn tay của một nhà phù thủy, và không phải dùng để ăn. Tên gia nô lùi lại trong sự sợ hăi, và kể từ lúc ấy, y tránh không đến gần con gà.

Chiều đến, tôi ra tiệm dùng cơm với hai người bạn, một người Mỹ và một người Ai Cập. Tôi thuật lại cho họ nghe chuyện con gà bị giết bằng khoa phù thủy. Họ quả quyết rằng con gà bị giết bằng những phương pháp khác hơn là khoa pháp môn. Về phần tôi, tôi không bày tỏ ư kiến ǵ mà chỉ giữ kín quan niệm của tôi.

Khi thuật lại tất cả các chi tiết, họ phá lên cười, và con gà là đầu đề chính của câu chuyện chúng tôi trong buổi tối hôm đó. Tôi cũng phải thú nhận rằng tôi cũng mỉm cười khi tôi nghe những câu nói đùa châm biếm của những ông bạn tôi về nhà phù thủy vắng mặt, họ dùng y làm cái bia cho sự những sự chỉ trích và bỡn cợt rất ngộ nghĩnh.

Th́nh ĺnh tất cả đều tắt phụt trong tiệm ăn, chúng tôi c̣n đang ăn dở bữa chưa xong. Tất cả những cố gắng của người chủ tiệm vẫn không thể nào làm cho đèn cháy lại được, và bữa tối hôm ấy kết thúc dưới ánh đèn nửa mờ nửa tỏ. Người bạn Ai Cập của tôi, cựu sinh viên trường đại học Sorbonne và có tiếng là một con người đa nghi, bèn mất đi trong một lúc sự hài hước đùa cợt của y.

- Chính nhà phù thủy của anh đă làm chuyện ấy!

Y nói với một giọng với vẻ giễu cợt bề ngoài, nhưng tôi thấy bên trong có ẩn một điểm lo ngại. Có thể rằng cái cầu ch́ t́nh cờ bị nổ làm tắt điện, điều ấy là hiển nhiên.

Nhưng việc này xảy ra trong những hoàn cảnh nó làm tôi nhớ lại hai việckhác đă xảy ra mợt cách lạ lùng trong những trường hợp tương tự. Việc thứ nhất là trường hợp cá nhân của tôi, c̣n việc thứ hai được nhà văn hào trứ danh Robert Hichens thuật lại cho tôi, có quen thân với nhân vật chính câu chuyện.

Câu chuyện thứ nhất xảy đến cho tôi từ nhiều năm qua khi tôi theo đuổi về cuộc sưu tầm về những giáo phái xuất hiện về những thời kỳ đó, ở khắp Châu Âu và Mỹ Châu. Một trong những chi phái đó là do sự điều khiển của một phần tử bất hảo, cụ linh mục bị trục xuất khỏi Giáo Đường, nhưng y là một nhân vật có quyền năngvà kiến thức rộng.

Do sự điều tra, tôi được biết rằng y có một thuật thôi miên rất mạnh và y lợi dụng thuật ấy để đạt những mục đích tà vạy, để khai thác và làm tiền những kẻ nhẹ dạ mê tín. Thay v́ cảnh cáo những người mà tôi quen biết trong số các nạn nhân của y, tôi giữ kín sự khám phá của tôi, v́ tôi tin rằng những kẻ bất lương sớm muộn ǵ cũng phải đền tội.

Yếu tố quyết định đă xảy đến dường như do sự t́nh cờ khi tôi gặp lúc mười giờ đêm, một thiếu phụ, vợ của một người mà tôi rất quen biết. Cách đi đứng của bà ta có vẻ lạ lùng làm cho tôi phải ngừng bước giữa đường để hỏi chuyện với bà ấy, và tôi vô cùng ngạc nhiên mà nghe nói rằng bà ta đang đi đến nhà của thầy ḍng tu xuất để ngủ đêm tại đó.

Tôi đưa bà ấy đến cột trụ đèn gần nhất và dưới ánh đèn đện, tôi quan sát cặp tṛng trắng và con ngươi trong mắt bà ta, th́ thấy rằng bà ta đă hoàn toàn bị thôi miên. Tôi thấy có bổn phận phải giải tỏa phép thôi miên cho bà ấy ngay lập tức và thuyết phục bà hăy trở về nhà.

Qua ngày hôm sau, tôi đến viếng một người bạn Ấn Độ để hỏi thăm ư kiến của y về vấn đề này. Tôi thuật lại cho y nghe rơ tất cả những điều tôi khám phá về hành động bất lương của tên lưu manh nọ, và nói rằng theo ư tôi một ngưới như thế thật là quá nguy hiểm mà để cho họ tự do để làm hại kẻ khác.

Người Ấn Độ đồng ư với tôi, y c̣n tỏ ra vô cùng phẫn nộ và đề nghị trừng phạt tên lưu manh bằng một sự trù ẻo nặng nề. Tôi biết rơ người bạn tôi đă được thụ huấn về môn Yoga của Ấn Độ và về những bí thuật khác của các nhà đạo sĩ Đông phương: Một sự trù ẻo xuất phát từ cửa miệng của y không phải là chuyện tầm thường.

Xét thấy rằng sự trừng phạt đó hơi quá đáng đối với trường hợp này, tôi nói rằng y có thể hành động theo như ư muốn nhưng theo tôi nghĩ rằng nên dùng phương pháp nhẹ hơn, để làm cho tên nọ phải bỏ xứ ra đi mà không trở về. Người Ấn Độ bằng ḷng, nhưng về phần y th́ điều đó cũng không ngăn trở y thốt ra một sự trù ẻo, và y đă làm.

Xong rồi, tôi mới đi t́m tay đạo đức giả nọ, và thấy y đang tụ hợp một số đệ tử đông đảo trong một gian pḥng hẹp, nơi đó đang diễn ra một sự hỗn loạn ồn ào, vang rền tiếng kêu thất thanh của tên giáo chủ bịp bợm, biểu lộ một sự vô cùng sợ hăi và tuyệt vọng.

- Ác quỷ có mặt ở đây! Đó là do bàn tay của ác quỷ!

Tôi bật vài cái diêm quẹt, th́ thấy y nằm dài trên cái bục gỗ, dường như đang bị chứng động kinh và mê man bất tĩnh. Người ta thấp đèn cầy lên. Những đệ tử của y chở y sang một khách sạn gần bên, và cố gắng làm cho y tỉnh dậy bằng thứ giải lao quen thuộc của y là rượu Whisky.

Trong khi đó những người khác thuật lại cho tôi nghe những ǵ đă xảy ra. Tất cả môn đồ đang ngồi trên ghế, lẳng lặng nghe vị giáo chủ của họ thuyết pháp, th́nh ĺnh tất cả những bóng đèn điện đều nổ tung một lượt với một sức mănh liệt như bom nổ, những mănh chai của các bóng đèn bị hất văng ra tứ phía.

Gian pḥng bị đắm ch́m trong đêm tối, và giữa những cơn hỗn loạn kinh khiếp, họ nghe tiếng thầy họ té ngă một cách nặng nề trên bục gỗ và thốt ra những tiếng kêu thất thanh v́ kinh hăi.

Tôi bèn theo y qua bên khách sạn, tôi một bức thư ngắn rồi bỏ trong một bao thư có niêm phong cẩn thận. Tôi đưa bức thư đó cho viên trưởng tràng của nhóm đệ tử bị gạt, và yêu cầu y đưa cho thầy y khi nào anh ta tỉnh dậy và có thể đọc được.

Đó là một bức tối hậu thư, bắt buộc y phải rời bỏ thành phố trong ṿng hai mươi bốn giờ và không được trở lại nữa nếu không cảnh sát sẽ truy nă y. Y bèn ra đi, và độ một năm sau, tôi nghe tin y đă chết trong một làng hẻo lánh. Nhưng điều lạ lùng nhất trong câu chuyện này là gian pḥng bị tắt điện tối om đúng vào lúc mà cuộc lễ trù ẻo của người Ấn Độ bạn tôi lên đến mức độ hữu hiệu tuyệt đối!

Câu chuyện thứ hai liên hệ đến Huân tước Carnavon, nhà khảo cổ đă khai quậtlăng tẩm của vua Toutankhamon. Cả thế giới đều biết câu chuyện hy hữu về sự khám phá dị kỳ này, không một ai không biết rằng người cổ Ai Cập đă trù ếm những kẻ nào xâm phạm đến ngôi lăng tẩm này.

V́ chứng bịnh bạo phát, người ta phải chở Huân tước Carnavon đến Cairo để được điều trị bằng những phương liệu y khoa tốt nhất mà thành phố ấy có thể cung cấp. Người ta đưa ông Carnavon vào khách sạn Continenal Savoy, một trong những khách sạn lớn nhất của Cairo.

Một buổi tối, ít lâu sau khi ông được đưa vào đây, tất cả các ngọn đèn điện bị tắt. Đêm tối kéo dài gần một giờ. Khi đường dây điện được thiết lập lại, người nữ y tá săn sóc cho Huân tước Carnavon thấy ông ta đă chết trên giường bệnh.

Bây giờ, tôi hăy trở lại chuyện con gà.

Hôm sau vào lúc nửa đêm, người ta thấy một người tay ôm một cái gói nhỏ lững thững đi qua cầu Kasrel Nil, đến giữa cầu y có vẻ ngập ngừng chờ đợi lúc thuận tiện để thi hành một công tác ǵ bí mật.

Việc ấy không thể dễ làm như người ta có thể tưởng, v́ chiếc cầu này ở ngay trung tâm khu vực người Âu. Một trại lưnh Anh nằm ở một phía bên cầu, ở phía bên kia, là tổng hành dinh của viên Cao Ủy Anh, có cảnh sát canh gác nghiêm nhặt.

Vào giờ này mà ném từ trên cầu một vật khả nghi bọc bằng giấy xuống ḍng sông đen ng̣m, lỡ có ai nh́n thấy, phải chăng người ta kết luận rằng ḿnh là một kẻ sát nhân, toan vất bỏ một mảnh thi hài của người chết để phi tang? Tuy nhiên, tôi cũng có dịp quăng cái gói xuống sông từ lan can cầu.

Khi nó rơi xuống nước với một tiếng chơm, người dạ hành thở phào một cái nhẹ nhơm và rảo bước đi ngay một cách an toàn. Tên gia bộc Ả Rập của tôi cám ơn Allah khi tôi trở về nhà b́nh yên. Y có vẻ sung sướng như một con mèo bắt được con chuột đầu tiên.

Trong những thăm viếng kế tiếp, tôi cố gắng yêu cầu nhà phù thủy giải thích những phương pháp của y với những chi tiết hơn, để có thể biết xem đó có phải là những tṛ ảo thuật không? Nhưng ông lăo không muốn đề cập tới vấn đề ấy, và đắm ch́m trong những cơn im lặng kéo dài dường như đă lọt vào một thế giới khác, có lẽ là thế giới của quỷ thần.

Tôi hiểu rằng thật rất khó mà muốn cho một người kín đáo trầm lặng mở miệng để nói chuyện tâm t́nh cởi mở với ḿnh. Người con trai của ông lăo trả lời những câu hỏi của tôi biết rằng cha y không hề nói cho bất cứ một người nào biết những bí mật của ông ta.

Chính người con trai đă từng hỏi cha y về những điều bí mật đó từ lâu để cho y có thể nối nghiệp cha ḿnh, nhưng y liền bị từ chối và ông lăo cho y biết rằng nghề phù thủy vừa khó thực hành lại vừa nguy hiểm. Ông lăo đă thuật cho y nghe câu chuyện của một nhà phù nọ, sau khi đă kêu gọi một vị thần để sai khiến, chừng xong việc rồi th́ không thể nào làm cho vị thần kia biến mất!

Kết quả th́ vị thần kia phản ngược lại y và gây cho y những sự đau khổ gớm giếc kinh khủng! Đó là một ví dụ của những sự khó khăn trong nghề vẫ thường xảy ra. Hiện nay những ngưới con trai theo học luật khoa, một nghành hoạt động ít nguy hiểm hơn, so với khoa phù thủy.

Thế là tôi không thể hy cọng nhà phù thủy già tiết lộ những bí mật của y, dù là thật hay giả. V́ chính cái màn bí mật này nó bảo đảm cho cái quyền năng và tiếng tăm của y. Tôi đành thôi không hỏi thêm ǵ nữa. Đó cũng là một sự tự nhiên nếu nhà phù thủy không thấy cao hứng để tiết lộ những điều có ảnh hưởng đến tiếng tăm và sự nghiệp của ḿnh.

Nhưng nếu tôi không thể làm cho y cởi mở tấm ḷng, th́ tôi tưởng tôi có thể thuyết phục y nói cho tôi nghe những lư thuyết đại cương, và do đó tôi có thể học hỏi được những ǵ bí ẩn đằng sau những câu chuyện mà người Ai Cập thuật lại về các loại thần linh.

Trong khi tôi nói chuyện với y, th́ tôi nghe xuyên qua cửa sổ, tiếng trống nhịp nhàng đều đặn vọng lại từ một nhà gần bên. Bên nhà láng giềng, một tay phù thủy Ả Rập hạng trung cấp đang cố gắng, bằng những câu thần chú và tiếng trống, đuổi tà ra khỏi xác thân một người bệnh mà người ta cho là quỷ phá. Nhà phù thủy thấy tôi đang ngẫm nghĩ, bèn nói:

- Những dân tộc các ông bên Tây phương không tin khoa pháp môn cổ truyền của chúng tôi, bởi v́ khoa này sử dụng những sức mạnh của thần linh.

Tôi im lặng. Tôi hiểu thái độ tư tưởng của một người phương Đông một cách dễ dàng, nếu không, tôi đă khônhg bao giờ chú ư đến những xứ này. Ở đay, người ta cho rằng thần linh ở khắp mọi nơi.

Nếu một người bị đau ốm, hay bị một điều tai họa, đau khổ, đó là họ bị hung thần nhập xác hay ám ảnh cuộc đời họ. Nếu họ được giàu sang hay quyền thế, đó là v́ họ được sự pḥ trợ, giúp đỡ của một thần pḥ mạng tốt lành. Sau cùng tôi hỏi nhà phù thủy:

- Những vị thần đó như thế nào?

Tôi đă hỏi đúng lúc, v́ y đang vui vẻ. Y đáp:

- Ông nên biết rằng những vị thần linh đó có thật, tuy rằng người thời nay đă mất cái nhăn quan để nh́n thấy họ. Cũng như trong cơi vật chất có loài động vật, th́ trong cơi vô h́nh cũng có những cơi tâm linh, không phải người chết, mà họ xuất xứ trong cơi giới tâm linh.

Đó là những thần linh. Tuy thế, ta đừng lầm họ với những linh hồn thú vật, v́ họ có một tính chất khác hẳn. Vài vị thần có trí khôn như người, có những vị tốt lành như những bậc thánh, cũng có những hạn khác là hung thần, ác quỷ.

Nói chung những nhân vật trong cơi tâm linh có thể chia làm ba hạng chính: Thần linh, nhân loại và Thiên Thần. Các hàng Thiên Thần, thuộc về hạng tốt lành, không hề sống trên mặt đất. Những hạn thần linh gồm cả thiện lẫn ác, cũng không hề sống trên thế gian. C̣n hạng nhân loại th́ đó là những người, nam hay nữ, đă từng sống ở thế gian và rời bỏ sau khi chết.

Cũng như loài vật có bổn phận phụng sự loài người ở cơi thế gian, như loài chó, ngựa, lạc đà được tập luyện để biết vâng lời sai khiến của con người, th́ một vài thần linh có thển để con người sử dụng và sai khiến trong cơi giới vô h́nh hoặc hữu h́nh.

Khoa pháp môn thời cổ, cũng như khoa pháp môn của vài nhà phù thủy chân chính c̣n sống vào thời đại này, phần chính yếu là biết làm thế nào để kêu gọi sự trợi giúp của những hạng thần linh ấy. Nói tóm lại, đó cũng là một loại thần linh học.

- Người ta dùng phương pháp nào để có được sự trợ giúp đó?

- Trước hết, cần phải biết tên mỗi vị thần linh để có thể ra lệnh cho họ. Kế đó, phải viết trên một tờ giấy một lá bùa gồm có tên của vị thần, một đoạn kinh Coran, một số hệ lồng trong khung của một sơ đồ, thường là một h́nh vuông hay h́nh tam giác.

Điều thứ ba là phải đốt các loại hương trầm, mà thành phần các chất hương liệu sẽ thay đổi tùy theo tính chất vị thần mà ḿnh muốn kêu gọi. Điều thứ tư là phải đọc những câu thần chú. Sau cùng, phải có quyền năng mà nhà phù thủy tiếp nhận được trong khi làm lễ thụ huấn do thầy y ban cho.

Nhà phù thủy ngưng một chút rồi nói tiếp:

- Nhưng muốn có được cái bản lĩnh đó, người học tṛ khoa pháp môn phải trải qua một thời kỳ tập sự lâu dài và nguy hiểm. Bởi đó khoa pháp môn bao giờ cũng vẫn là cái sở đắc của một thiểu số người.

Tôi có thể tŕnh bày cho ông biết những sự tin tưởng của chúng tôi, như tôi đang nói trong lúc này, nhưng c̣n tiết lộ những bí thuật có một giá trị thật sự, th́ tôi đă có lời thệ nguyện với thầy tôi là không bao giờ làm điều đó, trừ khi nào tôi được truyền pháp cho một đệ tử được thâu nhận sau nhiều năm học hỏi.

Thật là một điều nguy hại cho nhân loại nếu những bí mật của chúng tôi bị tiết lộ cho mọi người bởi v́ chừng đó những kẻ hung dữ có thể lợi dụng khoa này để làm hại kẻ khác v́ mục đích ích kỷ, c̣n về phần chúng tôi th́ sẽ mất hết quyền năng, không c̣n hiệu lực ǵ nữa.

Từ trước đến nay tôi vẫn luôn luôn từ chối việc thâu nhận học tṛ. Thật ra, theo những luật lệ của môn phái chúng tôi, th́ tôi có bổn phận truyền pháp cho một đệ tử trước khi tôi qua đời, để cho khoa pháp môn được tồn tại măi măi trong nhân loại. Nhưng v́ tôi đă biết trước được ngày giờ tôi chết, nên tôi sẽ thi hành bổn phận đó vào đúng lúc.

Nhà phù thủy lại ngừng một lúc. Tôi lấy làm hài ḷng mà được y từ bỏ sự dè dặt để nói chuyện cởi mở với tôi. Tôi bèn hỏi thăm về sự nhập môn của y. Y đáp:

- Tôi xin kể một phần tiểu sử của tôi.Tôi sinh ra đă sáu mươi năm nay tại thành Suag, thuộc tỉnh Girga. Cha tôi cũng là một nhà phù thủy và chiêm tinh gia chuyên nghiệp nổi tiếng. Tôi c̣n nhớ rơ, khoa pháp môn của cha tôi hấp dẫn tôi một cách mănh liệt và làm cho tôi rất say mê.

Cha tôi nhận thấy tôi có khuynh hướng đó, người mới tuyên bố là truyền pháp cho tôi, và huấn luyện để chuẩn bị cho tôi nối nghiệp người. Cha tôi có rất nhiều sách cổ viết bằng bút tự Ả Rập và những loại sách quư rất hiếm có về khoa pháp môn, người mới đưa cho tôi học. Sau khi người đă truyền pháp cho rồi, tôi bèn rời khỏi nhà rồi đến Cairo để vào trường Đại Học El Azhar.

Hồi đó tôi mới có 18 tuổi. Tôi học về các khoa văn chương và tôn giáo nhưng tôi vẫn hoàn toàn giữ kín bí mật của tôi. Tôi có đem theo vài quyển bút tự của cha tôi, và tiếp tục học sách ấy ở nhà. Tôi học được một điều, là phân biệt được những tính chất khác nhau của con người, cho đến khi tôi trở nên thuần thục để có thể biết được với cái nh́n thoáng qua, tánh t́nh và ư muốn của một người.

Tôi rời khỏi trường Đại Học lúc tôi 28 tuổi. Sau đó tôi sống biệt lập ở một nơi hẻo lánh, và tiếp tục thực hành khoa pháp môn cho đến khi tôi cảm thấy có đủ bản lănh để có thể hoàn toàn kiểm chếvà làm chủ được những Thần linh.

Khi đó tôi mới thực sự bước vào nghề và bắt đầu nhập thế. Trừ phi người ta có thể đạt được tới bản lănh đó, th́ tốt hơn đừng nên theo đuổi khoa pháp môn. Mấy đứa con tôi đă van xin tôi truyền pháp cho chúng, nhưng tôi đă hướng chúng đi theo con đường khác, v́ tôi thấy chúng nó thiếu sự can đảm cần thiết để trở nên một nhà phù thủy lành nghề và có thể thành công.

Tôi cũng đă thực hành khoa chiêm tinh. Nhiều người Ai Cập có địa vị cao đă đến viếng tôi, và tôi thường tiên đoán vận mạng của họ. Những vị hoàng thân, bộ trưởng, quan chức, phú thương điều có đến hỏi ư kiến tôi.

Một vị quan to của triều đ́nh Abyssinie đă nhờ tôi đoán số; năm ngoái, tôi tiếp đoán vị công chúa của hoàng triều Abyssinie. Quốc Vương xứ Maroc đă gởi đến tôi một vị đặc sứ mang theo quốc thư để hỏi về vận mạng tương lai.

một năm nọ bốn tên ăn trộm lẻn vào nhà tôi lúc ban đêm định giết tôi để cướp của, tôi đuổi chúng đi với chỉ có một cây gậy. Qua ngày hôm sau, tôi dùng bí thuật để biết tên của chúng. Sau đó tôi có đủ bằng chứng để đưa chúng ra trước pháp luật và cho chúng lănh án năm năm tù.

Cách đây không lâu, tôi được gọi đến một nhà bị ma khuấy phá, làm lật đổ bàn ghế và vật dụng trong nhà lúc ban đêm. Tôi đốt một ḷ hương trầm và niệm chú; trong mười lăm phút, vài âm binh đă xuất hiện. Đó là những âm binh đă khuấy phá trong nhà nọ. Tôi ra lệnh cho chúng phải đi ngay và để cho nhà kia được b́nh yên. Chúng bèn đi mất và mọi sự đều trở lại b́nh thường.

Nhà phù thủy vỗ hai tay làm hiệu, tên gia bộc bèn bưng ra một mâm đựng mứt, bánh ngọt và trà thơm Ba Tư. Nhân lúc dùng trà bánh, tôi hỏi:

- Có thể nào làm cho một người khác thấy được những vị thần linh đó không?

- Được chứ, sau những cuộc chuẩn bị lâu dài và nhiều cố gắng, điều đó có thể thực hiện được. Cuộc chuẩn bị gồm có việc đốt trầm hương và niệm thần chú. Khi đó một vị thần xuất hiện từ luồng khói trong gian pḥng tối tăm và nói lớn tiếng. Tôi không thực hành khía cạnh đó của khoa pháp môn v́ tôi đă già để làm những cố gắng dày công như thế.

Tôi lấy làm ngạc nhiên trước nhân vật lạ lùng này, nếu y có thể tiếp xúc với quỷ thần một cách dễ dàng như thế th́ đó thật là một người nguy hiểm. Tuy nhiên, y cũng tỏ ra có những t́nh cảm như mọi người, v́ khi ấy đứa cháu gái y mới lên sáu tuổi và mặc quần áo ngộ nghĩnh bất chợt chạy tung tăng vào pḥng, y cuối xuống hôn nó một cách rất tŕu mến và chơi với nó rất lâu.

Tôi lại hỏi:

- Những điều nguy hiểm của khoa pháp môn này như thế nào?

- Người nào kiểm soát và sai khiến được thần linh phải chịu nhiều điều nguy hiểm. Thần linh không phải chỉ là những vật vô tri trong bàn tay của y. Đó là những nhân vật có trí khôn và ư chí riêng biệt. Họ luôn luôn có thể nỗi loạn chống lại người đă khuất phục được họ.

Tuy họ tuân lệnh nhà phù thủy đă làm chủ được họ và phụng sự người ấy hết ḷng, nhưng nếu nhà phù thủy mất sự tự chủ và ư trí của y bị sút kém, hoặc y lạm dụng quyền năng v́ mục đích tà bậy, th́ khi đó vài loại thần linh có thể phản công trở lại và tác hại, gây cho y những khó khăn bất ngờ, như tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử.

Với sự trợ giúp của những thần linh đó, người ta có thể làm được những việc phi thường, nhưng khi nhà phù thủy không đủ sức kềm chế thần linh, họ có thể phản động lại một cách trắng trợn và hại người đă khuất phục được họ.

- Phải chăng người cổ Ai Cập cũng đă từng biết rơ những hạng thần linh đó?

- Lẽ tất nhiên, sự hiểu biết đó là yếu tố căn bản về quyền năng của các vị tăng lữ trong các đền cổ Ai Cập. Họ sử dụng thần linh như những vị thần canh gác mồ mả hoặc giữ kho tàng của cải rất vĩ đại. Người ta kêu gọi đến thần linh trong những cuộc hành lễ ở các đền thờ. Tôi cần nói thêm rằng có khi người ta cũng dùng các thần linh để thực hiện những mục đích tà bậy, bất chánh.

Tôi thuật lại cho ông lăo nghe kinh nghiệm của tôi trong Kim Tự Tháp lớn, khi tôi thức suốt một đêm trong Vương Cung, và cái kinh ảnh khi tôi nh́n thấy cái vong hồn của hai vị đạo trưởng già và con đường hầm bí mật.

Nhà phù thủy cho biết:

- Bên trong Kim Tự Tháp và ở vùng chung quanh thần tượng Sphinx có một hạng thần linh đặc biệt. Những thần linh này đă bị các vị pháp sư lăo thành của thời cổ Ai Cập bắt nhốt tại đó để ǵn giữ nhưng nơi bí mật ...

Những vị thần linh ấy phóng ra những ảo ảnh để đánh lạc hướng những người nào muốn đột nhập vào những chốn thâm nghiêm bí ẩn trong các đền thờ, và nhờ đó họ giữ ǵn cho những nơi ấy trở nên bất khả xâm phạm.

Tôi cũng tin rằng Kim Tự Tháp lớn có những đường hầm bí mật, những gian pḥng kín và những tài liệu ẩn dấu. Tôi cũng đă đến đó một lần với ư định t́m kiếm những thứ ấy, nhưng v́ những người canh gác không cho bất cứ một ai đi xuống con đường hầm, nên tôi đành thất vọng trở về.

Lẽ dĩ nhiên, những vị thần ǵn giữ những nơi bí mật của Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx có thể bị lôi cuốn và mua chuộc, nhưng muốn như vậy, người ta phải biết rơ h́nh dáng và tên của họ cùng những câu thần chú đặc biệt để kêu gọi các vị thần. Nhưng tiếc thay, những điều đó nay đă mất không c̣n nữa, và đă bị chôn vùi theo các nhà đạo sĩ cổ Ai Cập.

Tôi bèn hỏi những quyền năng mà y đă đề cập đến, v́ tôi được bí nhưng quyền năng đó không phải là vô giới hạn. Y đáp:

- Lẽ tất nhiên chúng tôi không dám tự hào làm được bất cứ việc ǵ. Chúng tôi có thể làm một vài việc, chỉ có thể làm được một vài việc, thế thôi. Chỉ có đấng Allah mới biết hết tất cả và quyết định mọi sự. Chúng tôi chỉ có thể cố gắng thi thố tài nghệ của ḿnh mà thôi, c̣n thành hay bại là tùy nơi đấng Allah.

Tôi xin kiếu từ và lại trở ra con đường hẹp và đầy các bụi, dưới ánh nắng trong sáng của mặt trời thành Cairo. Tôi c̣n cất trong túi áo một viên ngọc lớn, chùi láng bóng, màu nâu đỏ, h́nh bầu dục mà nhà phù thủy đă tặng cho tôi để làm vật kỷ niệm, và theo như lời y cho biết th́ viên ngọc này ngày xưa là vật sở hữu của một vị vua Pharaon.

Tôi ngắm viên ngọc và nghĩ đến nhà phù thủy mà tôi vừa tiếp xúc, cùng những thần linh bí mật vô h́nh mà y nói là lúc nào cũng sẵn sàng vâng lời sai khiến của y. Tôi thấy rằng, khi đạt đến đó, người ta đă bước vào một lănh vực nguy hiểm, gần kề với khoa pháp môn huyền bí và tà môn tả đạo.

Những thần linh ấy phải chăng là những sự bịa đặt cổ truyền và vô căn cứ? Không, tôi phải nh́n nhận rằng trong những cơi giới bí ẩn của thiên nhiên, có những sinh vật không phải là loài người. Một lư luận giản dị bằng cách so sánh có thể đưa đến kết luận đó.

Cũng có thể là trong hàng ngũ những sinh vật vô h́nh đó, có những loại hung ác, tà bậy, cũng như có những loại hiền ḥa và tốt lành. Một vấn đề nữa là xác định xem những thần linh đó có thể làm những việc phi thường chăng như là phù thủy đă tuyên bố. Tôi không thể giải đáp vấn đề đó ngay tại chỗ.

Tôi có ư định nghiên cứu những khía cạnh của khoa pháp môn chính hiệu. Đó là kết quả đầu tiên và lạ lùng mà tôi đă gặt hái trong chuyến du hành sang Ai Cập.











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 122 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 12:31am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



AI CẬP HUYỀN BÍ


NIỀM AN TĨNH CỦA THÁNH ĐỊA ABYDOS


CHƯƠNG SÁU


Trên bảy ngàn năm trước khi đức giáo chủ Mahomet đem cho những bộ lạc du mục xứ Ả Rập cái đức tin nơi một đấng thượng đế hoàn toàn siêu linh, th́ xứ ấy đă từng có một nền tôn giáo cổ thờ những thần tượng không lồ bằng đá mà về sau đức Mahomet chủ trương phải dẹp bỏ.

Tuy vậy những tín đồ ưu tú nhất của nền tôn giáo cổ xưa đó thật ra cũng chỉ tôn sùng một vị thượng đế như đức Mahomet đă khởi xướng. Sự tín ngưỡng của họ không phải chỉ là tôn thờ thần tượng mà thôi.

Những nhà Ai Cập học uyên bác ngày nay không thể biết nhiều hơn về một tôn giáo thuộc về tiền sử có rất ít tài liệu đến nỗi không ai có thể vén tấm màn bí mật của nó, và người ta chỉ c̣n đưa ra những giả thuyết về những nhân vật và những sự việc xảy ra vào một thời kỳ quá khứ xa xăm như thế.

Tại một vài nơi ở Ai Cập, những đến thờ cổ xưa và những ngôi đền Hồi Giáo ở gần sát bên nhau, chẳng hạn như tại Louqsor. Về điểm này, xứ Ai Cập cho ta thấy một sự tương phản lạ lùng. Đă bao lần những đoàn kỵ binh hùng dũng của đạo binh xâm lăng Ả Rập đă từng cắm ngọn cờ xanh màu lục của đấng tiên tri khắp xứ Ai Cập.

Thời gian trôi qua, ngọn cờ màu lục đă có lúc chuyển qua các ngọn cờ màu hồng, màu trắng, màu xanh dương, rồi lại tái xuất hiện. Nhưng trong cái bối cảnh ở tận đằng sau, vẫn c̣n rên rỉ tiếng c̣i yếu ớt trong những ngôi đền cổ.

Xứ Ai Cập không thể làm mất đi những dấu vết của nền tôn giáo cổ của họ. Dĩ văng, giống như con chim phụng hoàng, luôn luôn xuất hiện th́nh ĺnh trước mắt ta do công tŕnh đào xới của các nhà khảo cổ. Những di tích thần tượng bằng đá nhắc lại những thời đại cổ xưa, mà người đời không c̣n biết đến nữa.

Tuy nhiên, cái ranh giới giữa dĩ văng và hiện tại vẫn c̣n mơ hồ. Những người nhạy cảm đều đồng nhận thấy rằng cái bầu không khí cổ thâm nghiêm cùng sự tín ngưỡng đáng quư của những dân tộc biệt tích đó vẫn c̣n phản phất một cách sự thật và đè nặng lên xứ này.

Nếu những ngôi đền cổ của họ ngày nay chỉ c̣n là những di tích hoang tàn, sụp đỗ, làm nơi trú ngụ của những loài dơi vỗ cánh bay lượn trong đêm tối, nếu ở đó nay chỉ c̣n một vài xác chết đă bị moi ruột, được những nhà chuyên môn thời cổ dùng chất hương liệu ướp xác và tẩm liệm để giữ ǵn nguyên vẹn cho đến bây giờ.

Th́ dù sao vong hồn của họ cũng c̣n phản phất không xa những chốn đền đài cổ kín mà xưa kia họ đă từng quen thuộc. Cái mănh lực, quyền uy của người chết vẫn c̣n tồn tại ở Ai Cập một cách bền bỉ hơn bất cứ ở xứ nào mà tôi được biết.

Cái dấu vết tinh anh tế nhị đó, tôi lại có dịp nhận thấy khi tôi ngồi xếp bằng ở một chỗ kín đáo bên trong một dăy hành lang nhiều cột trong ngôi đền Seti ở Abydos. Những h́nh tượng lạ lùng nh́n tôi hoặc biểu dương các tư thế trên vách tường chung quanh. Cái ấn tượng mạnh mẽ của quá khứ xâm chiếm lấy tâm hồn tôi và đưa đến trước mắt tôi những linh ảnh của một thời đại đă bị xóa mờ trong dĩ văng.

Tôi nh́n thấy một cách vô ư thức những đám rước cổ xưa đi vào đền và tiến bước một cách nhịp nhàng vào những nơi thánh điện. Tôi cản thấy cái quyền uy của những vị tăng lữ kiêm pháp sư thời cổ đă từng làm cho Abydos trở thành một trung tâm tôn thờ thần Osiris, vị thần mà họ h́nh dung là đội một cái măo có ba ngấn.

Những lời cầu nguyện của họ đă phóng ra những tiếng vang dội đến tận trời xanh và từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Sự hiển diện im lặng và huy hoàng của một đấng thần linh cao cả bắt đầu bao trùm lấy tôi và làm cho tôi ngây ngất.

Dưới đôi cánh che trở của người, tôi thấy rằng cuộc đời thế tục của tôi với những dục vong lăng xăng của nó, bắt đầu mở dần và biến mất như cát trôi qua kẽ ngón tay. Vào thời trước, Strabon đă viết:

- Tại Abydos, người ta thờ thần Osiris, nhưng trong ngôi đền này th́ không một nhạc công nào được phép dùng nhạc khí như ống sáo hay đàn dây để mở đầu những nghi lễ cúng tế thần theo nghi thức thông thường trong những cuộc hành lễ tôn giáo.

Sự an tĩnh toát ra từ những vách tường trắng của gian pḥng này, một niềm an tĩnh thần tiên mà thế giới bên ngoài không biết được và không thể hiểu. Không phải trong sự náo động ồn ào mà người ta t́m thấy trong những giờ phút tốt đẹp của đời ḿnh, chỉ khi nào sự an tĩnh từ từ lướt nhẹ vào tâm hồn ta, ta mới có được sự hợp nhất thâm thúy với hạnh phúc, minh triết và quyền lực thiêng liêng.

Tôi ngồi một cách thoải mái trong một góc tường, có lẽ giống như một vị tăng lữ thời xưa, một trăm thế hệ trở về trước, và để cho cái ảnh hưởng êm đềm của bầu không khí chung quanh thấm nhuần vào người tôi như một giấc mơ.

Thật là một điều kỳ diệu mà cảm thấy ḿng cô lập trong giây lát, quên đi tất những kết quả mà sự văn minh tiến bộ đem đến cho ta. Quên đi sự ích kỷ cố hữu của thế nhân, những sự hiểu lầm không tránh khỏi, những thù ghét vô lư.

Những sự ganh tị đắng cay nó sẽ ngẩng đầu lên như con rắn để phun nọc và mổ vào ḿnh ta, khi ta trở về với cơi thế tục vô minh hắc ám! Tôi tự hỏi: "tại sao người ta phải trở về đấy nhỉ?"

Sự cô đơn dường như là một điều bất hạnh đối với chúng ta, nhưng một sự minh triết thâm sâu dạy cho ta biết nh́n nó như một ân huệ. Chúng ta phải vượt lên đỉnh núi cao tột của những điều mơ ước và hăy tập quen sống trong sự cô đơn.

Bởi v́ chúng ta muốn t́m thấy sự sống tâm linh giữa đám đông người, ta sẽ thấy ǵ? Linh hồn không có ở đó. Nếu ta muốn t́m chân lư hay sự thật, ta chỉ thấy có sự hư giả, dối trá.

Sự ấm áp vốn ngự trong tâm hồn. Người ta có thể trăi qua một buổi dạ hội trong một pḥng khách lớn, giữa một nhóm độ ba bốn người, và vẫn thấy ḿnh cô độc như ở trên băi sa mạc Sahara. Những thân h́nh có thể ngồi lại gần nhau, những tâm trí họ vẫn cách biệt muôn trùng, và mỗi người vẫn thấy ḿnh cô độc.

Có người mời ta đến nhà v́ phép xă giao bắt buộc, theo những lề lối thông thường, chúng ta đến nơi nhưng chủ nhà không có ở đó để tiếp ta. Y chỉ để lại đó có cái xác không hồn, v́ biết rằng giữa tâm hồn ta với y có một vực quá sâu thẳm để có thể lấp bằng. Làm quen với một người như thế, thà rằng đừng làm quen nữa c̣n hơn! Những ǵ thượng đế đă phân ly, ngăn cách, th́ con người chớ khá kết hợp lại!

Tôi đă lên dường để t́m sự bằng an của cơi trời, một cơi giới bao la mà những tin tức thời sự của trần gian không hề lọt vào. Tại sao ta không chịu sống cô đơn và nhận lấy những ân huệ tốt lành của một cuộc đời ẩn dật, thoát ly khỏi những điều phiền năo vô ích, ở những nơi vắng vẻ tĩnh mịch như tại ngôi đền Abydos này?

Chúng ta thường khinh rẻ những người bỏ cuộc đời thế tục để đi t́m một đời sống cao thượng hơn, trong khi mà sự ẩn dật của họ chỉ có mụch đích là sẽ trở lại để truyền cho người thế gian một vài điều tốt lành.

Tôi nhớ lại lời cam kết long trọng của tôi với những bậc mà tôi kính trọng, tôi biết rằng sự trở về của tôi là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên điều này không làm cho tôi lo buồn, v́ tôi cũng hiểu rằng bao giờ tôi chán nản cuộc đời trần gian, tôi lại có thể trở về với cái nguồn gốc thâm trầm của bản chất tâm linh tôi và lại t́m thấy sự mát mẻ của tâm hồn, ung dung tự tại, bằng an và hạnh phúc.

Thật vậy, trong sự im lặng thiên liêng đó từ trong nội tâm của tôi, tôi có thể rơ ràng nghe tiếng nói của Thượng Đế, cũng như trong cái im lặng thâm trầm của ngôi đền Abydos tôi có thể nghe những tiếng yếu ớt hơn của những đấng thần minh.

Khi ta sống với ngoại cảnh, ta sống giữa những h́nh bóng hư ảo và những sự băn khoăn, ưu phiền, nhưng khi ta hướng vào bên trong, ta sẽ thấy những chân lư siêu việt và những niềm phúc lạc trường cửu.

Chúng ta đă mất cái nghệ thuật ngồi một ḿnh, chúng ta không c̣n biết phải làm ǵ trong những giờ phút cô đơn. Chúng ta không biết t́m hạnh phúc trong cái kho tàng thầm kín của ḷng ta, chúng ta phải bỏ tiền ra để mua lấy sự tiêu khiển từ bên ngoài, hoặc trả tiền thù lao cho những kẻ đem cho ta một thú vui giả tạm trong chốc lát.

Không những chúng ta không biết ngồi một ḿnh, mà chúng ta c̣n không biết giữ im lặng. Nhưng nếu chúng ta biết ngồi im một chỗ trong một thời gian ngắn và sử dụng tâm trí theo một phương pháp nhất định, chúng ta sẽ thu hoạch được một sự minh triết thâm sâu đáng kể, và đem cho tâm hồn ta một sự bằng an tuyệt vời.

Tôi ngồi suốt như thế trong suốt hai tiếng đồng hồ, thời gian trôi qua, tiếng kim đồng tay vẫn chạy đều vọng vào tay tôi, tôi lại mở mắt một lần nữa. Tôi nh́n quanh, những cột trụ lớn và chắc của gian pḥng đỡ lấy cái trần nhà dầy đặc. Những tia nắng xuyên qua những lỗ hở trên nóc chiếu vào pḥng làm nổi bậc lên những h́nh tượng các vị thần chạm trổ trên vách.

Người ta thấy một vị vua Pharaon đứng chiêm ngưỡng một vị thần được tôn sùng vào thời đó hoặc được dắt trước tượng thần Osiris. Ngoài ra, c̣n có những loạt hàng chữ ám tự khắc trên vách, ư nghĩa rất bí hiểm và khó đối với người thường.

Người ta thấy ở khắp nơi h́nh ảnh của vua Pharaon đang chiêm bái, dâng hương và nhận lănh ân huệ của các đấng thần minh. Trong một thánh điện đặc biệt, không dành riêng cho sự thời phượng một đấng thần linh nào nhất định, có nhiều vị thần của Ai Cập được tôn sùng.

Mỗi vị có một bàn thời riêng, thời h́nh tượng hoặc vẽ hoặc tạc trên đá, nhưng tựu trung th́ thần Osiris giữ một ưu thế tuyệt đối và một cấp bậc cao hơn tất cả. Bảy nơi thánh điện xây bằng những tản đá lớn được dành cho các vị thần Horus và Isis, Ptah và Harakht cùng những đấng thần minh khác.

Nữ thần Isis mang tấm màn thưa che mặt, tức nữ thần Minh Triết, được h́nh dung tại đây với vẻ hiền từ của một đức hiền mẫu, đưa cánh tay mặt ra đặt trên vai của vua Pharaon sùng tín. Một bên ngài là chiếc thuyền bát nhă, giữa thuyền có đặt một bàn thờ chạm h́nh hoa sen, ḍng nước dợn sóng sẵn sàng đưa nữ thần lên tận cảnh giới Thiên Đường cực lạc là nơi cư ngụ của các đấng thần minh, các vị nữ thần và những người trần gian được các ngài ban ân huệ.

Trước cảnh tượng này, người du khách sẽ ngạc nhiên tự hỏi sao người cổ Ai Cập lại có thể quá ngây ngô để chấp nhận những sự tin tưởng đó, những vị thần nay đă hoàn toàn biệt tích và những con thuyền bát nhă linh thiêng chở các đấng ấy lên Trời.

Thật ra những chiếc thuyền ấy chỉ là những biểu tượng, yếu tố của một thứ ngôn ngữ huyền bí mà các đạo gia ưu của thời xưa hiểu được dễ dàng nhưng thế giới hiện đại không thể nào hiểu nổi. C̣n những đấng thần minh, đó không phải chỉ là những điều hư giả.

Trong cái vũ trụ vô biên vô tận của Thượng Đế, có những cảnh giới dành cho những nhân vật khác hẳn và tiến hóa cao hơn loài người. Nếu trải qua thời gian tên họ và h́nh dáng của những vị ấy tiến hóa và thay đổi, th́ tính chất căn bản của họ vẫn giữ nguyên vẹn, bất biến.

Tôi đồng ư với Plutarque khi ông ta nói rằng: "Chỉ có bấy nhiêu vị thần chung cho tất cả mọi dân tộc khác nhau, dù là dân Hy Lạp hay dân tộc dă man cũng vậy. Cũng như mặt trời, mặt trăng, các bầu tinh tú, trời cao, đất rộng, biển cả là của chung của muôn loài, th́ những đấng thần minh cũng là sở hữu chung của tất cả mọi người, dẫu rằng mỗi quốc gia hay dân tộc đặt cho các đấng ấy những cái tên khác nhau."

Nếu những đấng ấy lọt ra ngoài tầm nhăn quang của chúng ta, công tŕnh của họ vẫn không phải là đă chấm dứt. Họ hoạt động trên những cơi vô h́nh mà chúng ta không nh́n thấy, nhưng chúng ta vẫn ở trong ṿng ảnh hưởng của họ. Họ luôn luôn ḍm ngó đến bầu thế giới được giao phó cho họ săn sóc chăm nom.

Họ vẫn tiếp tục kiểm soát, điều khiển sự tiến hóa của nhân loại, dẫu rằng họ không c̣n xuất hiện dưới thế gian. Tôi tin nơi các đấng thần minh, cũng như người cổ Ai Cập.

Tôi cho các đấng ấy là một tập đoàn gồm những bậc siêu nhân loại, có sứ mạng trông nom điều khiển vận mạng, và d́u dắt những hoạt động chính yếu của các dân tộc, và sau cùng, hướng dẫn từng cá nhân và từng sự việc thế gian đi đến cứu cánh hoàn hảo và toàn diện.

Bảy thánh điện trong ngôi đềnAbydos đă chứng minh người xưa đă từng dùng lửa và nước, dâgn hương và có những nghi thức lễ bái cầu nguyện. Những cuộc hành lễ này có tính cách thời h́nh tượng hoặc có tính cách tâm linh tùy theo quan niệm và ư đồ của những người hành lễ.

Người nào cho rằng những nghi thức cúng tế bề ngoài là đủ thay thế cho đạo đức, rơi vào sự mê tín dị đoan. Người nào dùng nghi thức lễ bái như những biểu tượng để nhắc nhở, khiêu gợi ḷng sùng tín và ḷng hy sinh mà y muốn hiến dâng suốt đời cho đấng Tạo Hóa, sẽ tăng tiến đạo hạnh trong nền tôn giáo chân chính. C̣n vị tăng lữ dùng những nghi lễ của khoa pháp môn cổ truyền, th́ gánh lấy một trách nhiệm rất lớn, v́ y có thể kêu gọi đến những mảnh lực vô song thuộc về quyềnh năng của ác quỷ hay của Thiên Thần.

Kẻ phàm tục không hề được phép đột nhập vào nơi thánh điện tôn nghiêm này, mà những bàn thời thếp vàng lóng lánh hồi thời cổ xưa, nay đă biệt tích. Trong phần nhiều những đền cổ Ai Cập mà chỉ có giai cấp tăng lữ là đóng vai tṛ cốt yếu. Những vị tăng lữ này đă từng tranh thủ và chiếm giữ uy quyền trong lúc thhịnh thời, sau cùng đă mất hết cả ảnh hưởng đối với dân chúng khi nền tôn giáo cổ bắt đầu suy tàn.

Thời gian đem đến với nó những sự biến thiên lạ lùng, chiếc ḥm đá của nhà vua Pharaon sáng lập ra ngôi đền này, cổ quan tài đựng xác ướp của vua Seti, ngày nay đang nằm ở cách Abydos trên ba ngh́n dậm đường, trong một cổ tàng viện ở giữa thành phố Luân Đôn náo nhiệt phồn hoa. Tôi nghĩ rằng nếu thi hài nhà vua này được chôn sâu hơn độ ba mươi thước nữa dưới ḷng đất, th́ có lẽ xác ướp của ông ta đă tránh khỏi cái lộ tŕnh từ Ai Cập sang Anh Quốc.

Tôi đến ngồi dưới bóng mát của gian pḥng có nhiều cột. Tục truyền rằng chính Abydos là nơi mà Osiris, bậc thánh nhân thời cổ Ai Cập, được tẩm liệm và chôn cất trong nghĩa địa của nhà vua Thinis, một thành phố ngày xưa được dựng lên ở tại đó nhưng nay đă biệt tích.

Vua Neferhotep cho biết rằng ông đă khám phá ra Abydos trong t́nh trạng điêu tàn khi lên ngôi vua Pharaon. Ông cho biết rằng ông đă sưu tầm trong thư viện thành Heliopolis để t́m ra những tài liệu nói về ngôi đền Osiris ngày xưa được dựng lên ở Abydos. Ông nói thêm rằng sau khi nghiên cứu những tài liệu cổ xưa ấy, ông đă có thể phục hồi lại những nghi lễ đă mất.

Những v́ vua kế nghiệp ông sau đó đă dùng tài liệu này để sửa sang lại những chỗ hoang tàn, xây cất lại ngôi đền và cất thêm nhiều kiếntrúc mới chung quanh. Như thế, những đền đài cổ đă được dựng lên trong thành Thinis, nhưng thời gian đă tàn phá tất cả.

Trong thời kỳ sơ khai của xứ cổ Ai Cập, những nghi lễ huyền bí của Orisis là một nghi thức chính đại của nến tôn giáo cổ, và người ta thực hành những nghi lễ này trước tiên tại Abydos. Bởi đó, nơi này, ngày xưa là một trong những thánh địa thiên liêng nhất.

Tôi hiểu rằng chính cái bầu không khí cổ xưa đó hăy c̣n phảng phất đâu đây và gây cho tôi một ấn tượng sâu xa, trong khi tôi vẫn dửng dưng đối với những nghi thức trịnh trọng mà người ta vẫn thực hành hằng ngày trong những ṭa thánh diện rất tráng lệ nhưng kém cổ xưa của vua Seti dựng lên.

Lịch sử buổi sơ khai của thánh địa Abydos có liên hệ mật thiết với tiểu sử của Osiris và thục lùi trong vực thẳm của thời gian về thời kỳ tiền sử của Ai Cập, một cái dĩ văng xa xăm không c̣n dấu vết trước cả thời kỳ xuất hiện của các v́ vua Pharaon, nghĩa là từ thuở ban đầu. Đó là cái thời kỳ xa xưa mà các đấng thần minh vẫn c̣n chưa biệt dạng khỏi tầm nhăn quang của con người, cái thời kỳ mà theo các sử gia Ai Cập, những bậc Thánh Vương hăy c̣n cầm quyền cai trị dân gian.

Tôi nghĩ rằng: Thật là huyền diệu thay! Những luồng từ điển huyền bí vẫn tiếp tục rung động một cách thường xuyên ở tại đây, luôn luôn sống động và duy tŕ cái bầu không khí thần diệu của thánh địa Abydos từ thời tiền sử, mà những tâm hồn nhạy cảm mà có thể cảm xúc được.

Chính tại đây, Abydos, là nơi được thành lập ngôi đền chính và đầu tiên để thời thần Osiris tại Ai cập. Nhưng Osiris là ai? Truyền thuyết và huyền thoại nói rằng đó là một nhân vật bị sát hại và phân thây, nhưng về sau những mảnh thi hài được chấp nối lại làm cho người sống lại.

Tôi đă thiền định rất lâu để t́m hiểu vấn đề này và đợi câu trả lời ... Lời giải đáp đă đến với tôi từ cái im lặng chôn sâu tự muôn đời trong dĩ văng:

Hồi thời kỳ Atlantide, một vị Thánh Vương đă tiên liệu cần phải xây dựng một nơi cư trú mới cho những người đạo đức tâm linh trong giới thế hệ trẻ, và đă di cư cho họ về hướng đông, trên một vùng đất gọi là xứ Ai Cập ngày nay.

Vị Thánh Vương ấy đă biến hóa rất cao đến một tŕnh độ siêu nhân loại, tức tŕnh độ của các bậc thần tiên, bởi đó ngài không những là một nhà lănh đạo cai trị dân gian như người ta hiểu theo lối thường t́nh của thế nhân, mà người ta c̣n suy tôn ngài như thầm thánh.

Ngài mới sắp đặt cuộc di cư cho những phần tử ưu tú đó ra khỏi lục địa, trong khi châu Alantide đang đạt tới mức văn minh tột đỉnh, v́ những đấng Thần Minh đă bắt đầu chuẩn bị những vùng đất mới từ lâu trước khi châu Atlantide bị thiên tai và biệt tích.

Như thế, không để cho châu Atlantie sụp đổ, nhiều đoàn người trong số những phần tử u tú nhất bắt đầu tản cư. Những người ở miền tây châu ấy di cư sang vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ châu, c̣n những người thuộc các đế quốc miền đông châu Atlantide di cư sang Phi Châu, và đặt nền tảng cho văn minh Ai Cập.

Những người ấy sửa soạn tàu bè, trương buồm lướt sóng trực chỉ hướng đông. Vùng này đối với họ hăy c̣n xa lạ, họ đến đó khai phá đất hoang và thiết lập nhiều vùng thuộc địa mới trên những điểm khác nhau dọc theo miền duyên hải Âu Phi.

Đoàn người do sự điều khiển trực tiếp của Osiris đặt chân lên vùng đất Ai Cập thời tiền sử, họ dừng chân trên các vùng bờ biển trước khi đi ngược ḍng sông Nil, vượt qua ba ngọn Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx, những ngôi kiến trúc và tượng đá này đă được xây cất và bỏ sót lại do đoàn người Atlantide đầu tiên đổ bộ lên Ai Cập.

Sau cùng Osiris mới dừng chân tại đó, ở một vùng cách không xa vị trí thành Abydos hiện tại. Đoàn người di cư này thấy miền Bắc Ai Cập đă có một giống thổ dân bản xứ cư ngụ, họ được một nhóm dân này tiếp đón một cách hiền ḥa, và v́ đoàn người Atlante có một nền văn minh cao hơn, nên được dân bản xứ chịu khuất phục và chịu điều khiển. Do đó mới phát sinh ra nền Ai Cập đầu tiên.

Trước khi từ giả dân chúng, Osiris đă đặt ra những nghi lễ tôn giáo thuộc về Huyền Môn mà ngài để lại cho dân Ai Cập như một cái di sản dài hạn, để duy tŕ tên tuổi, công nghiệp và giáo lư của ngài.

Như vậy dân Ai Cập thời tiền sử đă có một nền văn minh và văn hóa trước khi thành phố Luân Đôn mới ngoi lên giữa băi śnh lầy nước đọng. Nhiều thế kỷ trôi qua, đă đến lúc mà người ta phải phục sinh và chấn chỉnh lại nền tôn giáo cổ Osiris. Khi đó mới xuất hiện một bậc giáo chủ, một vị thánh nhân danh hiệu là Thoth, ngài lập ra thành Sais một trung tâm mới để dạy khoa Huyền Môn của Osiris cho những tập đoàn dân bổ xứ của Ai Cập thời tiền sử.

Nhưng c̣n chuyện huyền thoại về việc Osiris bị sát hại do đâu mà ra? Tôi không thể t́m ra một câu trả lời trực tiếp. Bởi vậy tôi dành cho nó một cơn thiền định sau này.

Tôi đành đứng dậy sửa soạn ra về. Tôi bước qua những tản đá lớn nhỏ không đều mà mặt đá đă ṃn từ lâu. Ngày xưa, những mặt đá này có chạm trỗ bông hoa rất đẹp, nhưng bây giờ thời gian đă xóa mờ tất cả.

Tôi c̣n nh́n một lần cuối cùngnhững cột trụ to lớn hùng vĩ, đầu cột trụ nhô lên cao, đă từng nâng đỡ suốt bao nhiêu thế kỷ những tản đá lớn chạm trỗ trên nóc, và nay vẫn c̣n vương ḿnh đỡ lấy nóc đền một cách hùng dũng, oai nghi. Thế là cuộc thăm viếng của tôi ở ngôi đền cổ kết thúc.

Đó là thánh địa Abydos, được coi như là nơi an nghỉ cuối cùng của bậc Thánh Nhân Osiris, nhưng thật ra th́ đó là ngôi đền đầu tiên để làm lễ điểm đạo cho các vị môn đồ của phái Huyền Môn thời cổ Ai Cập.

Tôi đă t́m được một nơi thích thú, v́ tôi biết rằng cái niềm an tĩnh thiêng liêng bất diệt của nó đă xâm chiếm lấy hồn tôi như một bàn tay vô h́nh.

Nếu trong những giờ phút qua mau của cuộc đời, tôi đă có đôi khi sống được dài khoảnh khắc bất diệt mà tôi hằng nhớ đời đời không quên, th́ chỉ khi đó tôi ư thức rằng tôi đă không sống một cách vô ích. Ấy là những giờ phút mà tôi đă trải qua tại Abydos.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 123 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 6:42am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



AI CẬP HUYỀN BÍ


LỄ ĐIỄM ĐẠO HUYỀN BÍ TRONG ĐỀN CỖ AI CẬP


CHƯƠNG BẢY


Câu trả lời mà tôi t́m kiếm để giải đáp sự bí hiểm của câu chuyện huyền thoại về cái chết của Osiris, tôi đă thấy được sau khi đi ngược ḍng sông Ni lđể khảo cứu về ngôi đền nữ thần Hathor ở Denderad. Ngôi đền này rất lớn và được giữ ǵn nguyên vẹn, nhờ nó bị hoàn toàn chôn vùi dưới lớp cát mịn và nóng của sa mạc suốt hơn một ngh́n năm. Từ hướng Bắc, tôi trèo lên một cầu thang rất hẹp và đă ṃn.

Dọc đường thỉnh thoảng tôi ngừng lại để nh́n xem, dưới ánh đuốc cầm nơi tay, những cảnh tượng chạm trổ trên vách tường. Đó là một cảnh tượng một đám rước lễ quan trọng nhất của đền Denderad vào lúc đầu năm, chính vua Pharaon đích thân dẫn đầu cuộc diễn hành.

Các vị tăng lữ, vị tăng lữ, tư tế của phái Huyền Môn, những người cầm cờ nối tiếp nhau đi trên vách tường cũng như họ đă từng diễn hành như thế hồi thuở sanh tiền, và đi từ dưới lên trên chính cái cầu thang này.

Lên khỏi cầu thang, tôi đă ra khỏi bóng tối để ra chỗ đầy ánh nắng chói ḷa và xuyên qua những tản đá khổng lồ của nóc đền, tôi đến trước một thánh điện nhỏ đứng cô lập một ḿnh trong một góc của nốc bằng. Nóc đền được nâng đỡ bằng những cột trụ lớn có chạm h́nh nữ thần Hathor.

Tôi bước vào và nhận ra đó là một thánh điện mà xưa kia người ta dùng để hành lễ điểm đạo theo khoa Huyền Môn của Osiris cho đến thời đại các vị vua Ptolémée. Trên tường, những h́nh chạm nổi phô diễn đức Osiris nằm trên giường, chung quanh là những người trợ tá để giúp đỡ những việc vặt và những ḷ hương trầm.

Những hàng chữ ám tự và tranh ảnh thuật lại lịch sử sự chết và sự phục sinh của Osiris, và những chữ khắc trên tường ghi lại những lời cầu nguyện từng giờ suốt một đêm mười hai giờ.

Tôi ngồi xuống đất, tức là nóc bằng của ngôi đền lớn, và bắt đầu thiền định về câu chuyện huyền thoại cổ xưa. Sau khi đă ngồi yên khá lâu trong cơn trầm tư mặc tưởng, tôi bắt đầu t́m ra manh mối sự thật mà trải qua nhiều thế kỷ, nó đă biến thành một câu chuyện huyền thoại ly kỳ: Osiris bị phân thây và sau đó được ráp lại từng mảnh.

Do đâu mà tôi có cái ch́a khóa của bài toán đố bí hiểm này? Do một sự nhớ lại th́nh ĺnh. Tôi nhớ lại lúc tôi ngồi trong Vương Cung bên trong Kim Tử Tháp lớn, khi mà từ trong bóng tối dầy đặc, hiện ra cái linh ảnh cho tôi thấy hai vị Đạo Trưởng Ai Cập đă cao niên, một trong hai vị này đă làm cho thể xác tôi mê thiếp đi và đưa linh hồn tôi vào một trạng thái ư thức rơ ràng.

Trên thực tế, thể xác hôn mê của tôi lúc đó đă hoàn toàn vô tri giác, sự sống chỉ c̣n tồn tại là do một sự hô hấp vô ư thức, c̣n linh hồn th́ đă thoát ra ngoài. Tôi chỉ là một người chết, mà linh hồn đă từ bỏ thể xác.

Nhưng, khi kinh nghiệm ấy chấm dứt, tôi đă hồi sinh trở lại và trạng thái chết giả cũng không c̣n. Phải chăng đó quảù là một sự phục sinh hẳn ḥi, một sự tái sinh trở lại đời sống phàm trần sau khi đă nh́n xem cơi giới bên kia? Phải chăng đó là một sự sống trong cơi vô h́nh?

Tôi đứng dậy nh́n xem một lần nữa những h́nh ảnh trên tường để xác định lại điều ấy. Osiris nằm duỗi thẳng thân ḿnh, dường như đă chết, xem giống như một xác ướp và liệm vào ḥm. Tuy nhiên, tất cả những chi tiết cho thấy sự chuẩn bị một nghi lễ dành cho người sống chứ không phải cho người chết: Thể xác hôn mê, những vị tăng lữ hành lễ, những b́nh lư hương để làm cho mê thiếp đi.

Những cuộc lễ điểm đạo này luôn luôn được cử hành vào lúc ban đêm. Người thí sinh được đặt trong trạng thái xuất thần trong một thời gian dài ngắn không chừng, tŕnh độ điểm đạo càng cao th́ cơn xuất thần của y càng dài và càng sâu hơn. Những vụ tăng lữ canh chừng y suốt những giờ ban đêm dành cho cuộc hành lễ này.

Đó là cảnh tượng thường diễn ra trong những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn từ những thời đại cổ xưa trong dĩ văng. Nó có ư nghĩa ǵ? Sự Sát Hại Osiris tức là việc đặt người đạo đồ trong một trạng thái chết giả, nghĩa là trong sự kết hợp tâm linh với Osiris, người sáng lập ra tổ chức Huyền Môn này.

Lối kiến trúc các ngôi đền cổ đều theo một kế hoạch song đôi, mỗi ngôi đền đều có hai phần, một phần dành cho những hoạt động tôn giáo thông thường, một phần dành cho những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn. Phần sau này hoàn toàn được ngăn ra thành một chỗ riêng biệt trong đền.

Bằng phương pháp thôi miên, gồm có việc xử dụng những chất hương liệu rất mạnh, dùng hai bàn tay truyền nhân điện dọc theo thân ḿnh, cùng với việc xử dụng một chiếc đủa thần, người thí sinh được đưa vào một trạng thái đồng thiếp làm cho y mê man bất tỉnh như người chết.

Xác thân y tê liệt, nhưng linh hồn y vẫn tỉnh táo và nối liền với thể xác bằng một sợi dây từ điển vô h́nh mà chỉ vị chủ lễ điểm đạo có thần nhăn mới nh́n thấy được. Như vậy mặc dù mọi hoạt động thể xác đă ngưng, nhưng nguồn sinh lực vẫn tồn tại.

Tất cả ư nghĩa và mục đích của cuộc điểm đạo này là để dạy cho người thí sinh biết rằng vốn không có sự chết. Người thí sinh được truyền thụ cái chân lư đó bằng một phương pháp rơ ràng và thật tế nhất, nghĩa là bằng cách làm cho y kinh nghiệm qua chính bản thân ḿnh mọi diễn biến khách quan của sự chết, bằng cách dùng một phương pháp huyền bí để đưa y lọt vào cơi giới bên kia.

Cơn đồng thiếp của y thâm sâu đến nỗi người ta đặt y trong một cái ḥm đựng xác ướp có vẽ tranh ảnh và khắc chữ bên ngoài, nắp ḥm được đóng chặt và khóa lại cẩn thận. Xét về bên ngoài, th́ y là người đă chết!

Nhưng khi cơn đồng thiếp của y hết kỳ hạn, người ta mở nắp ḥm ra, và bằng những phương tiện thích nghi, y được làm cho tỉnh dậy. Đó là ư nghĩa của lời huyền thoại tượng trưng nói rằng những mảnh xác bị tách rời của Osiris được ráp nối và làm cho ngài được hồi sinh. Sự phục sinh bí hiểm và hoang đường của Osiris không khác ǵ hơn là sự tỉnh dậy của người đệ tử Huyền Môn sau cuộc lễ Điểm Đạo.

Ṭa thánh điện mà tôi đang quan sát, ngày xưa đă từng là nơi chứng kiến bao nhiêu những cuộc hạ sát và những cuộc phục sinh như đă diễn tả ở trên. Hồi thời đó, trong pḥng có một cái giường và những vật liệu cần thiết cho cuộc điểm đạo.

Khi người thí sinh đă trải qua trạng thái đồng thiếp và sắp sửa được đánh thức dậy, người ta chở y đến một nơi thoáng khí để cho những tia nắng đầu tiên của mặt trời mọc lúc b́nh minh rọi thẳng vào gương mặt c̣n mê man của y.

Trong những thời đại cổ xưa nhất, nhiề vị tăng lữ cao cấp nhất và tất cả những vị tư tế ở các đền thờ bên Ai Cập đều có sự hiểu biết thâm sâu về những điều huyền bí của các khoa thôi miên và từ điển, và có thể đặt những người thí sinh vào một cơn đồng thiếp thâm sâu đến nỗi dường như họ đă chết.

Những vị tăng lữ thượng tọa c̣n có thể làm hơn thế nữa, hơn cả những nhà thôi miên hiện đại, v́ những vị ấy biết phương pháp làm cho linh hồn người thí sinh vẫn thức tỉnh trong khi thể xác của y nằm trong cơn đồng thiếp, làm cho y thực hiện được những kinh nghiệm siêu phàm, mà y sẽ nhớ lại được sau khi y tỉnh dậy và trở về trạng thái b́nh thường.

Bằng cách đó, họ có thể đem người thí sinh sự hiểu biết về tính chất của linh hồn, và khi bắt buộc linh hồn y tạm thời rút lui ra khỏi thể xác, họ làm cho y nhận thức được sự hiện hữu củ cơi thế giới bên kia cửa Tử, mà những h́nh ảnh trên ḥm được xác ướp có vẽ những biểu tượng đầy ư nghĩa.

Bởi đó, người cổ Ai Cập khắc trên nắp những cổ quan tài bằng đá, hoặc vẽ bằng màu trên những ḥm đựng xác ướp, hoặc tô điểm ngoài b́a những kinh sách tôn giáo của họ những h́nh chim dị kỳ, bay ra khỏi hoặc đứng trên cái xác ướp. Đó là một con chim có đầu người và tay người, thường được h́nh dung một tay cầm một cánh buồm, tượng trưng cho hơi thở, và tay kia cầm một h́nh thập tự cuốn tṛn, tượng trưng cho sự sống.

Những biểu tượng này dù khắc trên đá hay vẽ trên giấy, đều ngụ ư tượng trưng dạy cho ta biết rằng ngoài cơi phàm trần vật chất này c̣n có một cơi giới tâm linh. Trong quyển sách Tử Thư (sách của người chết) có chỗ đề cặp đến những người chết, nhưng thật ra đó là nói về những người chết giả, nằm mê trong cơn đồng thiếp, vô tri bất động như ngươi chết thật, và linh hồn đă đi qua một kẻ khác.

Đoạn sách ấy đề cập đến cuộc điểm đạo. Cơi giới bên kia đi xuyên qua cơi trần một cách huyền diệu, và những vong linh ở cơi ấy có thể ở gần bên chúng ta. Một từ ngữ khoa học nói rằng trong thiên nhiên vốn không có ǵ mất đi đâu. Khi một người từ bỏ cơi trần, bỏ lại cái thể xác vô tri bất động, linh hồn y lại xuất hiện trên cơi vô h́nh, vô h́nh đối với mắt phàm chúng ta, nhưng hữu h́nh đối với những nhân vật tinh anh trên đó.

Tuy rằng phương pháp điểm đạo này có những đặc tính bề ngoài giống như khoa thôi miên hiện đại, nhưng nó vượt rất xa những phương pháp thôi miên, v́ khoa này chỉ thức động đến chỗ tiềm thức, mà không thể làm cho đương sự có ư thức được sự sinh hoạt trên các cơi giới thâm sâu huyền diệu hơn.

Theo sự tin tưởng của quần chúng, th́ Osiris là một nhân vật đă chịu pháp nạn và bị giết, rồi được phục sinh và chui lên khỏi mồ. Tên của ngài đă trở nên đồng nghĩa với sự hồi sinh, sự bất tử của ngài gây cho mọi người một niềm hy vọng trở nên bất tử y như người sau khi chết.

Hồi thời ấy, người ta đă tin tưởng ở sự bất diệt của linh hồn và ở đời sống bên kia nấm mồ. Người ta cũng tin rằng trong khi con người bước vào đời sống mới đo, những đấng thần minh xét đoán linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y trong quá khứ.

Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích dáng, người hiền sẽ được và cảnh thiên đàng hạnh phúc, và hợp nhứt với Osiris. Những điều đó khá thích hợp với quần chúng và đem đến cho những tâm hồn chất phác những viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng. Người ta không nhồi sọ dân chúng với những triết lư thâm sâu hoặc những giải thích tế nhị về tâm lư.

Tất cả những huyền thoại hoang đường và chuyện ngụ ngôn b́nh dân phải được hiểu như là những biểu tượng có hàm xúc một ư nghĩa hợp lư và chứa đựng một chân lư thâm sâu. Để duy tŕ cho giáo lư ấy luôn luôn tồn tại trong dân gian, giai cấp tăng lữ trong trong các đền thờ không những chỉ dùng nghi thức lễ bái thờ phượng, mà thỉnh thoảng c̣n tổ chức những buổi tŕnh diễn kịch nghệ công cộng có tính cách tượng trưng dể tŕnh bày cho dân chúng biết lịch sử của Osiris.

Những nghi thức lễ bái và tŕnh diễn công cộng là để dành cho quần chúng v́ nó thích hợp với phần đông, nhưng có c̣n một phần giáo lư thâm sâu hơn và pháp môn huyền bí th́ để truyền thụ cho những người trí thức. Những người Ai Cập có học thức, có văn hóa và những người có giai cấp quư tộc cũng biết rơ điều ấy, nếu họ cảm thấy có khuynh hướng về con đường này th́ họ t́m cách để xin được nhập môn.

Các ngôi đền gồm có những gian pḥng kiến trúc đặc biệt và cô lập một nơi dành cho những cuộc lễ điểm đạo, mà chỉ có những vị tăng lữ ưu tú và chọn lọc mới có quyền hành lễ, những người này được gọi là Đạo Trưởng hay Thượng Tọa. Những cuộc lễ Điểm đạo này được cử hành trong ṿng bí mật và ngoài phạm vi những nghi lễ hằng ngày để chiêm bái các vị thần. Người Ai Cập gọi những cuộc lễ đặc biệt này là những lễ Điểm Đạo Huyền Môn.

Những vị đạo đồ (đệ tử Huyền Môn đă được điểm đạo, Initié) đă từng nói đến tính cách khác thường của những cuộc điểm đạo, không giống như những nghi lễ thông thường. Thí dụ, một vi đạo đồ đă tuyên bố rằng" nhờ những lễ điểm đạo mà người ta biết rằng sự chết không phải là một điều dở mà là một điều hay cho người thế gian".

Chính v́ vị đạo đồ ấy đă trở nên một xác chết và đă thu hoạch được những điều lợi ích rất lớn sau cái kinh nghiệm đó. Những bài văn viết bằng chữ ám tự nói về người ấy như là" được hồi sinh", và y có thể thêm vào tên họ của y ḍng chữ này: "Người đă tái sinh hai lần". Trên vài ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ đă phát hiện ra câu này, nó diễn tả tŕnh độ tâm linh của người chết.

Những vị môn đồ chọn lọc đă học được những điều bí mật ǵ trong những cuộc điểm đạo ấy? Điều nay tùy nơi tŕnh độ mà họ đă vượt qua, nhưng đại khái người ta có thể đúc kết những kinh nghiệm của họ thành hai loại kết quả chính, tiêu biểu những ǵ họ đă được tiết lộ cho biết.

Ở những tŕnh độ sơ khai, các thí sinh được hiểu biết về Tiểu Ngă, tức linh hồn con người mà khoa ám tự h́nh dung bằng một "Người chim" nhỏ, do đó họ đă giải đáp được điều bí mật về sự chết.

Họ biết rằng người ta chỉ thoát ra một trạng thái sinh hoạt này để bước vào một trạng thái sinh hoạt khác, và sự chết chỉ là của thể xác h́nh hài chứ không tiêu diệt được linh hồn, tức Chân Ngă. Họ cũng biết rằng không những linh hồn c̣n tồn tại sau khi cái thể xác đă mất c̣n tiến hóa lên những cơi giới thanh cao hơn.

Ở những tŕnh độ điểm đạo cao hơn, người thí sinh được biết về Đại Ngă, họ được giao cảm trực tiếp với đấng tạo hóa, nà tiếp ngay với đấng thiêng liêng. Họ nhận được sự giải thích đúng đắn về sự đọa lạc của con người, ngày nay đă xuống quá thấp từ cái trạng thái tâm linh nguyên thủy.

Họ được cho biết về huyền sử của châu Atlantide, có liên hệ chặt chẽ với sự suy vong của nó. Kế đó được đưa lần lần lên những cơi thanh cao huyền diệu hơn, cho đến khi họ đạt tới cái ư thức tâm linh cao cả mà con người đă từng có từ thời kỳ nguyên thủy. Như thế trong khi họ tiếp tục con đường hành hương trong thời gian họ thu thập được những kho tàng tân linh quư báu của cơi vô cùng.

Khi tôi thực lại những cảm tưởng du hành của tôi đến điểm này, có lẽ tôi không ra ngoài đề nếu tôi ghi chép nơi đây vài lời diễn tả những sinh hoạt khác trong các đạo viện Huyền Môn thời cổ, do lời tường thuật của một người đă từng sống vào một thời kỳ cổ điển và đă từng họ điểm đạo, ít nhất là ở vào những cấp bậc đầu tiên.

V́ y có lời thề nguyền là sẽ không tiết lộ từng chi tiết rơ ràng những ǵ y đă kinh nghiệm trong cuộc điểm đạo, y chỉ có đưa ra những lời giải thích đại cương và những sự ngụ ư mơ hồ. Tuy thế, lời tường thuật này cũng là một văn kiện đầy đủ nhất mà chúng ta được biết của một vị đạo đồ để lại.

Vị ấy là Apuleé, được điểm đạo ở cấp bậc đầu tiên của phái Huyền Môn Isis. Tác giả một cuốn sách tự thuật nhan đề Lucius. Trong quyển sách này, tác giả tự thuật lại cuộc đời của ḿnh khi ông ta gơ cửa đền với tấm ḷng nhiệt thành cầu Đạo.

Từ lâu đời, khoa Huyền Môn Ai Cập vẫn được giữ kín và được khép chặt đối với người ngoại quốc. Chỉ trong một thời kỳ về sau này mới có một số ít những người đó được thu nhận và được điểm đạo. Họ luôn luôn tôn trọng lời cam kết giữ ǵn bí mật. Những luật lệ nhập môn đều rất chặt chẽ và nghiêm khắc.

Trong danh sách ấy, Apulée viết:

"Với mỗi ngày trôi qua, sự ước muốn được điểm đạo của tôi càng gia tăng. Tôi tim đến nhiều vị Đạo Trưởng và khẩn cầu người ít nhất hăy bằng ḷng điểm đạo cho tôi. Nhưng vị Đạo Trưởng, có tiếng là người rất cương nghị và áp dụng rất chặt chẽ những luật lệ nghiêm khắc của Đạo, bác bỏ lời thỉnh cầu của tôi với những lời lẽ êm ái dịu dàng, cũng như bậc cha mẹ gạt bỏ những ước vọng điên rồ của con cái hăy c̣n quá non dại.

Người trấn an tâm hồn tôi bằng cách đưa cho tôi bằng điều hy vọng là hăy sở cậy nơi một niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Ngươi nói rằng ngày giờ điểm được chỉ định cho mỗi người do mật lệnh của vị Nữ Thần, và ngươi Đạo Trưởng đứng ra làm chủ lễ trong dịp ấy cũng phải do Thiên Ư chọn lựa.

"Vị Đạo Trưởng bảo tôi hăy chờ mật lệnh ấy cũng như mọi người với một tấm ḷng kiên nhẫn sùng kính, và khuyên tôi nên gạt bỏ ḷng nhiệt thành quá đáng cùng mọi người băn khoăn bồn chồn. Trong khi tôi cố tránh hai điều ấy, tôi cũng phải luôn luôn túc trực sẵn sàng để đáp ứng kịp thời khi có lệnh gọi, va đừng tỏ ra xôn xao nóng nảy khi tôi không được lưu ư đến.

"Đó là bởi v́ cửa vào địa ngục và quyền ban sự sống đều ở trong tay Nữ Thần, và chính cuộc lễ điểm đạo được coi như sự chết t́nh nguyện của người thí sinh, có khi nguy hiểm đến tính mạng của y.

Bởi đó, Nữ Thần thích chọn những người mà cuộc đời đă sắp tàn, và sắp sửa bước vào cơi Tử, đối với những người ấy, những điều huyền bí nhiệm mầu của Nữ Thần có thể được tiết lộ cho họ một cách an toàn.

Do định mệnh thiêng liêng, Nữ Thần bảo đảm cho những người ấy một sự phục sinh mới mẻ, người đặt họ vào chỗ khởi điểm của một giai đoạn sinh hoạt mới. Bởi vậy, trường hợp của con cũng thế, con phải đợi đến khi có lệnh gọi của Thiêng Liêng.

"Ân huệ tốt lành của vị Nữ Thần đă không bỏ rơi tôi sau khi ngài đă bắt tôi phải chịu sự dày ṿ đay nghiến của một sự chờ đợi lâu dài. Nhưng trong ban đêm tăm tối, những mật lệnh rơ ràng của Nữ Thần đă báo cho tôi biết rằng ngày mong ước của tôi đă đến, và ngài chấp nhận những lời khẩn cầu nồng nhiệt của tôi.

"Bằng những lời an ủi khả ái, Nữ Thần đem đến cho tâm hồn tôi một niềm phúc lạc rất lớn, đến nỗi tôi bỏ ngủ thức dậy trước lúc b́nh minh và hối hả đi đến tịnh thất của vị Đạo Trưởng. Tôi vừa đến nơi th́ vị Đạo Trưởng cũng đă vừa bước ra khỏi pḥng, tôi bèn nghiêng ḿnh kính cẩn chào Người.

Tôi nhất định yêu cầu Người làm lễ điểm đạo cho tôi với một giọng khẩn thiết hơn trước, như là một điều mà bây giờ tôi có quyền đ̣i hỏi. Nhưng khi vừa thấy tôi th́ người đă lên tiếng trước:

"À, hữu phước thay cho con, Lucius, Nữ Thần cao cả đă chiếu cố đến con để ban cho con cái ân huệ thiêng liêng đó! Ngày mà con mong đợi từ lâu, nay đă đến, do lệnh dạy thiêng liêng của Nữ Thần đáng tôn kính, ta sẽ làm lễ điểm đạo cho con được bước vào cửa đạo diệu huyền."

"Khi đó, vị Đạo trưởng cao niên đạo mạo đặt bàn tay mặt của người trong ḷng bàn tay tôi và dắt tôi đến trước cửa Thánh Điện. Sau khi đă long trọng làm lễ khai môn và lễ dâng hương hoa buổi sáng, người mới lấy từ những chỗ bí mật của đền thờ vài quyển sách bút tự viết bằng một thứ chữ lạ kỳ.

"Kế đó, Người bước đến trước Thánh Điện và trong lúc mặt trời c̣n chưa ló dạng, Người dắt tôi đến quỳ dưới chân Nữ Thần. Sau khi đă tiết lộ cho tôi vài đều bí mật, những điều này quá thiêng liêng để có thể nói ra bằng lời, Người mới dặn tôi, trước mặt tất cả mọi người đến chứng kiến cuộc lễ hôm đó, hăy giữ ǵn trai giới trong suốt mười ngày liên tiếp, không ăn thịt loài vật và không uống rượu.

"Tôi tuân theo những lời răn đó một cách chặt chẻ. Sau cùng, đă đến hành lễ điểm đạo, tức ngày tôi hiến dâng cuộc đời tôi cho Nữ Thần. Mặt trời đă ngả về tây, đêm tối đă sắp đến trong khi ấy từ bốn phương xuất hiện rất đông đảo những vị đạo đồ thánh thiện của quá khứ đứng vây chung quanh tôi.

Mỗi vị đều ban cho tôi những quà tặng theo nghi lễ cổ truyền. Kế đó, sau khi những vị chưa được điểm đạo đă được mời đi ra ngoài, tôi được cho mặt áo mới và vị Đạo trưởng cầm tay tôi để dắt tôi đến giữa thánh điện.

"Qúy vị độc giả hiếu kỳ có lẽ nóng ḷng muốn biết những ǵ đă xảy ra vào lúc đó. Tôi chắc hẳn là muốn tường thuật lại cho quư vị nghe nếu tôi được phép nói, và nếu quư vị cũng được phép nghe.

Nhưng lưỡi tôi sẽ tê cứng và tai quư vị cũng sẽ điếc như bị đầu độc nếu tôi vi phạm lời thề để làm thỏa mản sự ṭ ṃ của quư vị. Tuy nhiên chắc hẳn quư vị cũng bị thúc đẩy bởi một ḷng mong ước thanh cao, nên tôi không để cho quư vị phải đợi chờ lâu hơn nữa. Vậy quư vị hăy nghe và tin tưởng, v́ điều tôi nói đây là sự thật.

Tôi đă bước đến gần kề địa hạt của Tử Thần, tôi đă đặt chân lên ngưỡng cửa của Âm Ty, tôi đă vượt qua mọi cảnh giới, và rồi tôi đă trở lại cơi trần. Tôi đă nh́n thấy mặt trời chói rạng huy hoàng, giữa lúc đêm tối.

Tôi đă đến gần các đấng Thần Minh ở cơi trên cũng như hạ giới, và tôi đă đến chiêm bái các ngài tận mặt. Qúy vị hăy coi chừng: Tôi đă nói ra những điều mà, mặc dầu đă được nghe, quư vị không bao giờ nên biết."

Một năm sau, Lucius đă được điểm đạo ở cấp bậc Huyền Môn Osiris, cao hơn cấp bậc Isis. Trong số ít những người ngoại quốc khác đă được điểm đạo theo khoa Huyền Môn Ai Cập, có Platon, Pythagore, Thales, Lycurgue, Solon, Jamblique, Plutarque và Hérodote.

Trong những tác phẩm của Hérotote, ông đă nhắc đến điều ấy với một sự dè dặt tối đa. Ông đă diễn tả từng chi tiết những buổi tŕnh diễn văn nghệ tượng trưng và những cuộc lễ bái công cộng, nhưng ông từ chối không chịu tiết lộ những điều bí mật bên trong.

Ông ấy nói như sau: "Đối với những điều huyền bí đó, mà tôi đă được biết đầy đủ, tôi có lời cam kết phải giữ một sự im lặng hoàn toàn." Sử gia Plutarque đă viết rằng:

"Khi ta nghe nói đến huyền thoại của người Ai Cập về các đấng Thần Minh, những chuyến du hành, sự phân thây, và những chuyện huyền hoặc hoang đường khác nữa, ta chớ nên tưởng rằng tất cả những chuyện ấy đều có thật.

Mỗi dân tộc đều có những biểu tượng, khi th́ mờ ám, khi th́ dễ hiểu, để tŕnh bày những điều chân lư bất hủ. Chính bằng cách đó mà ta nên đọc hoặc nghe những chuyện đó với ḷng sùng kính và với một tinh thần triết lư."

Plutarque nói về mục đích điểm đạo ở cấp đẳng Huyền Môn Isis như sau:

"Bằng phương tiện điểm đạo, người thí sinh có thể được chuẩn bị đến mức tối đa để đạt tới sự thông cảm với đấng Tối Cao. Bởi lẽ đó, đền thờ đấng Thiêng Liêng được gọi là Iseion, ám chỉ sự hiểu biết đấng Vô Cùng, bất sinh bất diệt, sự hiểu biết đó có thể đạt được bằng cách điểm đạo nếu người thí sinh đă được chuẩn bị sẵn sàng."

Đó là quan điểm của triết gia Hy lạp Plutarque. Ta hăy nghe nhà hiền triết xứ Syrie tên là Jamblique nói về khoa Huyền Môn Ai Cập mà ông là một vị đạo đồ, như sau:

"Cái tinh hoa và toàn vẹn của mọi đều thiện đều có sẵn nơi các đấng Thần Minh, cái quyền lực đầu tiên và cổ xưa của các ngài cũng là đều sở hữu của các vị tăng lữ ở các đền thờ. Một sự hiểu biết các đấng Thần Minh sẽ phản ảnh lại nơi con người chúng ta, và giúp cho ta tự biết ḿnh.

Cái phần Thiêng Liêng nhất của con người, trước tiên được hợp nhất với Thần Minh, về sau lại bị chướng ngại bởi một sự trói buộc của mọi điều dục vọng trần gian và sự kiềm tỏa của định mệnh. Bởi vậy, cần phải xét xem bằng cách nào con người có thể được giải tỏa khỏi những trái buộc ấy.

Chỉ có sự hiểu biết về Thượng Đế mới phá tan những sợi dây kiềm tỏa đó. Đó là mục đích của Huyền Môn Ai Cập, làm cho con người nâng cao linh hồn ḿnh để ḥa hợp với Thượng Đế".

Một vị đạo đồ khác là Proclus nói rằng:

"Trong một cuộc điểm đạo ở mọi cấp đẳng Huyền Môn, các dấng Thần Minh cho thấy nhiều khía cạnh của các ngài. Đôi khi người thí sinh thấy xuất hiện trước mặt y một vầng sáng không h́nh thể nhất định toát ra từ các ngài, xem dường thể một vầng hào quang.

Có khi vầng hào quang đó khoác lấy h́nh người, có khi khoác lấy một h́nh thể khác. Một vài h́nh thể đó không phải là Thần Minh, và làm cho ta sợ hăi."

Triết gia Platon cũng đả từng được điểm đạo, nói rằng:

"Do hậu quả của lễ điểm đạo thiêng liêng, chúng ta chiêm ngưỡng những linh ảnh giản dị xuất hiện trong một vầng sáng tinh anh, và nhờ được thanh lọc để trở nên tinh khiết, chúng ta được giải thoát được cái xác thân trọng trược, mà từ trước chúng ta vẫn bị dính liền với nó như con ṣ dính trong cái vỏ."

Như vậy ông muốn nói rằng mục đích tối hậu của sự điểm đạo Huyền Môn là đưa con ngươi trở về với những nguyên tắc tâm linh mà nhân loại đă mất đi từ lúc nguyên thủy.

Một vị đạo đồ khác nữa là Moise, người Do Thái lai Ai Cập. Sách Tân Ước nói rằng "Moise đă từng giáo dục trong tất cả nền minh triết của Ai Cập." Ư nghĩa của câu này là nền minh triết thâm sâu nhất của xứ Ai Cập đă được tiết lộ cho Moise, điều đó không khác ǵ hơn là sự hiểu biết mà Moise được truyền dạy bởi giáo lư Huyền Môn Ai Cập.

Sách Tân Ước c̣n nói rằng: "Moise phủ kín mặt bằng một tấm màng che". Tính chất tấm màng che như thế nào, th́ đoạn sau này trong sách ấy đă cho ta thấy ư nghĩa của nó:

"Cho đến ngày nay, tấm màng che ấy vẫn phủ kín lên việc đọc sách Cựu Ước" (2è épitre aux Corinthiens). Như vậy, đó không phải là tấm che bằng vải, mà là một tấm màng che kín ư nghĩa của những chữ trong sách, che lấp sự hiểu biết. Bởi đó, tấm màng che mặt của Moise thật ra lời thệ nguyện giữ im lặng và giữ bí mật mà ngài đă cam kết trong cuộc lễ điểm đạo.

Moise đă thu thập được sự minh triết của ngài tại đạo viện thuộc ngôi đền tại thành phố On, mà người Hy Lạp gọi là He'liopolis khi họ chinh phục xứ Ai Cập, một thành phố đă biệt tích ở cách vài dặm phía Bắc Cairo.

He'liopolis và Memphis, một thành phố khác nữa cũng đă biệt tích ngày xưangười ta có thể nh́n thấy từ trên đỉnh Kim Tử Tháp, đều coi Kim Tử Tháp lớn như một nơi thánh điện tối cao để hành lễ điểm đạo Huyền Môn. Thành He'liopolis và ngôi đền lớn của nó ngày nay không c̣n nữa, những bức tường gạch kiên cố bao bọc chung quanh thành phố và những cột trụ đền đến ngày nay đă bị chôn vùi dưới đống các sâu bốn thước.

Chỉ c̣n cây thạch tiễn (obe'lisque) bằng đá đỏ ở trước cổng thành là c̣n đứng vững. Moise đă từng nh́n thấy cây thạch tiễn này v́ ông đă đi ngang qua đó nhiều lần. Đó là cây thạch tiễn cổ xưa nhất c̣n đứng vững ở Ai Cập. Trong số những vị học giả mộ đạo thời cổ đă từng bước chân đến cổng đền này để t́m ánh sánh minh triết, có triết gia Platon và sử gia Herodote.

Những vị này cũng đă thấy cây thạch tiễn đến ngày nay vẫn c̣n trơ gan cùng tế nguyệt, đứng tro trọi một ḿnh giữa cảnh đồng ruộng bao la. Dưới chân cây thạch tiễn, những nông phu đang cà sâu cuốc bẩm, và hàng ngày dắt trâu ra đồng.

C̣n một cây thạch tiễn khác nữa mà vua Thoutmès III dựng lên trước đền thờ Thái Dương ở He'liopolis và ngày nay đang nhô lên cao vút bên bờ sông Tamise ở Luân Đôn. Được biết dưới cái tên là Mũi Kim của Cléopâtre, nó nhắc nhở cho dân chúng thủ đô Anh quốc náo nhiệt phồn hoa ngày nay nhớ lại cả một thế giới đă biệt tích cùng với một nền văn minh lộng lẫy huy hoàng của một thời đại cổ xưa nay không c̣n nữa.

Cây thạch tiễn có vẽ như một tên quân canh đúng gác cổng đền, c̣n những hàng chữ ám tự khắc trên bốn mặt của nó thuật lại lịch sử của ngôi đền. Nhưng nó không phải chỉ là một mũi tên khổng lồ bằng đa được dựng lên để khắc chữ trên đó, nó c̣n là một biểu tượng thiêng liêng, và mũi nhọn của mỗi cây thạch tiễn đều lấy h́nh dáng một Kim Tử Tháp nhỏ.

Heliopolis ngày xưa là một trung tâm rất lớn về các nghành học thuật cổ điển và đạo lư, nó gồm có đến 13,000 học viên và có một dân số rất đông đảo. Nó có một thư viện nổi tiếng, thư viện này về sau góp phần xây dựng thư viện Alexanrie, danh tiếng nhất của thời đại cổ.

Lúc thiếu thời, Moise đă tiến bộ rất mau chóng, tỏ ra có một học vấn uyên thâm và một đức hạnh gương mẫu đến nỗi ông vượt qua một cách danh dự tất cả những cấp bậc điểm đạo, và đạt tới cấp đẳng cao tột ít người có, là cấp đẳng chân sư. Từ đó, ông đă có thể trở nên một vị đâo trưởng.

Chính tại đạo viện mà ông được thụ huấn trước kia, dính liền với ngôi đền lớn tại Heliopolis, thành phố của mặt trời, mà ông nhận lănh chức vị đó. Ông đứng làm chủ lễ điểm đạo cho những thí sinh khác theo nghi lễ Huyền Môn Osiris, là lễ nghi thuộc về cấp đẳng cao nhất.

Hồi thời đó, ông có tên là Osarsiph, một tên chữ Ai Cập, v́ ông vốn la người Ai Cập lai Do Thái. Đến khúc quanh của đời ông, khi ông nhận sứ mạng mà định mệnh giao phó, ông ghi dấu cơ hội này bằng cách đối lấy một tên người Do Thái. Những người Ai Cập trí thức đều tin rằng tên họ của mỗi người vốn có năng lực thần bí. V́ đó, mà tên Osarsiph đă trở thành Moise.

Vị vua Pharaon trị v́ lúc đương thời, vốn là một hôn quân vô đạo và hung ác, ngược đăi người Do Thái một cách bất nhân độc ác đến nỗi làm cho Moise phải động ḷng v́ chính ông cũng có ḍng máu Do Thái trong huyết quản.

Sử chép rằng ông đă giải phóng những bộ lạc Do Thái ra khỏi t́nh trạng nô lệ, giam cầm, ông đă hướng dẫn họ rời khỏi vùng thung lũng Gochen và noi theo lịch sử ngày xưa vẫn nối liền Châu Phi và Châu Á, con đương mà chính hoàng đế Nă Phá Luân đă cỡi ngựa đi qua và suưt chết ch́m khi ông gần đến thành Suez.

Người ta có thể t́m thấy vài mẩu chuyện về sau của Moise trong Kinh Thánh, nhưng những chuyện này lại bị pha lẫn một cách đáng tiếc với những truyền thuyết và huyền thoại mơ hồ.

Năm quyển đầu tiên của bộ sách Cựu Ước, được góp nhặt lại dưới nhan đề Pentateuque là do Moise soạn ra. Những quyển sách ấy chứa đựng một nền minh triết thâm sâu mà Moise muốn truyền lại cho dân tộc Do Thái, nhưng về sau lại có lẫn lộn những yếu tố lịch sử liên quan đến sự sáng tạo thế giới và những chủng tộc đầu tiên của nhân loại.

Thật ra th́ Moise, với tư cách một chân sư, từng biết rơ và sử dụng lối văn tự huyền bí của các vị đạo đồ nghĩa là dùng chữ ám tự với một ư nghĩa tâm linh ẩn dấu. Ông soạn bộ sách Pentatueque bằng chữ ám tự Ai Cập mà chỉ có những bậc tăng lữ đă điểm đạo mới có thể hiểu.

Nhưng khi người Do Thái tới định cư tại Palestine, trải qua nhiều thế kỷ, sự hiểu biết về khoa ám tự càng ngày càng giảm sút. Lần lần, giới tăng lữ đă không c̣n đọc được thứ chữ ấy nữa, và có thể đoán ṃ một cách khó khăn.

Điều này không co ǵ lạ, nếu người ta nhờ rằng chính ở tại Ai Cập, vào thế kỷ thứ tư sau Thiên Chúa giáng sinh, phép diễn đạt khoa khoa ám tư đă hoàn toàn mất hẳn. Độ một ngh́n năm sau cuộc di cư của dân Do Thái, khi những bậc cao niên lăo thành củ dân tộc ấy góp nhặt một bộ sách mà ngày nay ta gọi là Cựu Ước, th́ họ gặp phải một khó khăn rất lớn khi đem dịch những quyển sách của Moise ra chữ Do Thái.

Đó là v́ Moise đă viết sách ấy bằng thứ chữ riêng của các vị chân sư, c̣n những bậc trưởng lăo Do Thái, dầu có học thức uyên thâm, cũng chưa phải là những vị chân sư đó.

Bởi đó, thường có những chỗ dịch sai nghĩa, những ư nghĩa tượng trưng th́ lại bị hiểu lầm như những sự việc có thật, những sự mô tả bằng ám tự được coi mô tả những việc đă xảy ra, những câu ư nghĩa bóng bẫy bị hiểu lệch lạc thành ra những chỗ dịch sai lầm.

Một thí dụ là "Sá ngày tạo thiên lập địa" đối với Moise có nghĩa làsáu chu kỳ thời gian dài đăng đẳng, được gọi là một cách tượng trưng là sáu ngày v́ những lư do mà chỉ các vị đạo đồ biết được mà thôi. Nhưng câu ấy được dịch lại sát nghĩa từng chữ, v́ các nhà phiên dịch tưởng rằng đó là sáu ngày hai mươi bốn giờ!

Hậu quả là những quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh chứa đựng nhiều sự việc dị kỳ đối với thế hệ hiện tại v́ khoa học tiến bộ càng ngày càng kiểm thảo chặt chẽ những bản dịch cổ tự đó từng điểm một.

Nhưng bộ sách Kinh Thánh sẽ trở nên vô cùng phong phú khi người ta đọc nó với sự hiểu biết những ch́a khóa bí mật được truyền dạy cho những vị đạo đồ trong các đền cổ bên Ai Cập.

Như vậy, Moise phải được coi như một trong những nhân vật đáng kể nhất đă ngộ đạo trong cơn xuất thần huyền bí của những cuộc điểm đạo Huyền Môn.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 124 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 6:51am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



AI CẬP HUYỀN BÍ


NGÔI ĐỀN DENDERAD


CHƯƠNG TÁM


Trước khi rời khỏi thánh điện trên nóc bằng của ngôi đền Denderad, tôi nh́n xem một ṿng Hoàng Đạo (Zodiaque) rất đẹp khắc trên trần. Tôi biết rằng đó chỉ là một phó bổn đă được sao lục lại, v́ bổn chánh đă bị tháo gỡ và đem về Ba Lê cách đây trên một thế kỷ. Nhưng phó bổn được sao lại một cách hoàn toàn đúng đắn.

Cái ṿng tṛn đó chứa đầy những h́nh ảnh các loài thú, h́nh người và các vị thần, được sắp chung trong một bầu tṛn và ở chung quanh là mười hai cung Hoàng Đạo. Tô điểm thêm cho cái biểu tượng này, có h́nh mười hai vị thần và nữ thần khác nhau, kẻ đứng, người qú, sắp chung quanh h́nh bầu tṛn, hai tay đưa lên, ḷng bàn tay duỗi thẳng nối tiếp nhau thành một ṿng tṛn.

Như thế, toàn thể vũ trụ lưng chuyển không ngừng được h́nh dung nơi đây một cách chính xác, tuy rằng dưới h́nh thức tượng trưng. Đó chính là sự tŕnh bày những bầu thế giới luân chuyển theo một nhịp độ bất di dịch trên một nền trời. Những người biết suy nghĩ, dẫu rằng là người có óc hoài nghi nhất, không khỏi cảm thấy thán phục cái trí óc thông minh tuyệt vời đă làm kiểu mẫu cho cái vũ trụ đó.

Hiểu một cách đúng đắn, th́ ṿng Hoàng Đạo của đền Denderad h́nh như mô tả h́nh trời ở vào một thời kỳ nhất định nào đó trong quá khứ. Vậy đó là thời kỳ nào? Đó là một vấn đề khác. Chúng tôi không thể nêu ra đây những sự giải thích thiên văn trừu tượng và phức tạp. Chỉ biết rằng vị trí các tinh tú ở vào thời đó không trùng hợp với thiên tượng mà người ta quan sát vào thời nay. Xuân Phân Điểm (équinoxe du printemps) không chiếm cùng một vị trí như hiện nay, theo đó mặt trời đang đi vào một cḥm sao khác hẳn.

Sự biến chuyển lớn lao đó diễn ra bằng cách nào? Do bởi sự xoay vần của trái đất, mà cái trục liên tục nhắm vào những v́ sao Bắc Đẩu khác nhau. Điều đó có nghĩa là Mặt Trời của chúng ta luân chuyển chung quanh một ngôi định tinh riêng của nó. Sự luân chuyển tế vi, khó nhận thấy, của Đường Phân Điểm (équinoxe) trải qua một thời gian dài và chậm chạp, cũng thay đổi những vị trí mọc và lặn của vài bầu tinh tú đối với cḥm sao.

Khi đă đo lường sự vận chuyển trung b́nh của những bầu tinh tú đó, người ta biết có bao nhiêu ngàn năm đă trôi qua kể từ khi chúng nằm ở vị trí đầu tiên. Khoảng cách biệt đó gọi là Tuế Sai (précession des équinoxes). Đó là điểm giao tiếp của đường xích đạo và đường Hoàng Đạo, là chỗ đánh dấu xuân phân điểm, di chuyển một cách chậm chạp trên bầu trời theo cái tuế sai đó.

Nói cách khác, đều đó có nghĩa là những tinh tú di chuyển ngược chiều với mười hai cung Hoàng Đạo, va mỗi năm chỉ vượt qua một phần tối thiểu của không gian. Sự luân chuyển vĩ đại đó của các tinh cầu trên nền trời, thứ vũ trụ kế mà nền trời là cái mặt đồng hồ, trên đó người ta có thể đọc cả hai chiều và ghi nhận những cuộc vận hành của các tinh cầu trong nhiều ngàn năm.

Khi xem xét một bản đồ thiên văn cũ, một nhà thiên văn học có thể xác định bản đồ đó được thiết lập vào thời kỳ nào. Việc nghiên cứu cái dĩ văng xa xăm đôi khi có thể giúp cho ta t́m ra những sự kiện vô cùng quan trọng.

Khi các nhà tháp tùng theo Napoléon sang Ai Cập phát hiện ra ṿng Hoàng Đạo tai đền Denderad, họ lấy làm vô cùng phấn khởi, và tưởng rằng họ đă t́m được cái ch́a khóa để tri nguyên ra khoảng thời gian của nền văn minh cổ Ai Cập, v́ họ thấy trong ṿng Hoàng Đạo đó, xuân phân điểm cách xa vị trí của nó bây giờ.

Nhưng măi về sau, khi người ta nhận thấy rằng ngôi đền này chỉ mới dựng lên vào thời kỳ đế quốc Hy Lạp La Mă và ṿng Hoàng Đạo Ai Cập này đă phối hợp một Hoàng Đạo Hy Lạp, vấn đề này mới bị dẹp bỏ và từ đó người ta không theo vấn đề đó nữa.

Một ư kiến cho rằng ṿng Hoàng Đạo này chỉ là của Hy Lạp, nhưng đó là một ư kiến sai lầm. Phải chăng nói như thế là kết luận người Ai Cập không có ṿng Hoàng Đạo của họ? Nếu vậy th́ giới tăng lữ Ai Cập đă từng khảo cứu khoa chiêm tinh và khoa thiên văn trong bao nhiêu ngàn năm, trước khi người Hy Lạp đặt chân lên xứ Ai Cập, mà lại không có ṿng Hoàng Đạo chăng?

Giới tăng lữ Ai Cập đă từng tôn trọng khoa chiêm tinh đến nỗi họ đă xáp nhập khoa này vào tôn giáo của họ, làm cho họ có thể thực hành khoa chiêm tinh mà lại không có một ṿng Hoàng Đạo? Ngoài ra những vị tăng lữ Ai Cập cũng rất tinh thông về khoa thiên văn.

Thật vậy, người Ai Cập đă sao lục một phần ṿng Hoàng Đạo của họ theo bản chính đă có từ trước tại đền Denderad, ngôi đền này đă được xây đi dựng lại nhiều lần. Một tài liệu thiên văn như thế hẳn là phải được sao lục làm nhiều phó bổn để bảo đảm cho nó được tồn tại muôn đời.

Những tài liệu văn khố cổ xưa cũng được bảo tŕ bằng cách đó, nhưng lại bị rơi trong quên lăng và rốt cục đă biến mất theo những nhân viên bảo tŕ văn khố, tức là những vị tăng lữ thời cổ Ai Cập.

Những nhà khảo cổ đă phát hiện tại xứ Mésopotamie những viên gạch cổ xưa, trên đó các nhà thiên văn xứ ấy đă ghi nhận rằng mùa xuân bắt đầu khi mặt trời đi vào cḥm sao Kim Ngưu.

V́ lẽ rằng trong kỷ nguyên Thiên Chúa, ngày đó được ghi nhận là ngày Mặt Trời đi vào cḥm sao Bạch Dương, tức là ngày 21 tháng 3 dương lịch, người ta nhận thấy tằng một sự thay đổi lớn lao như thế đưa nền văn minh xứ Chaldée thụt lùi về một thời kỳ dĩ văng xa xăm nhất, đúng như chính người Chaldée đă tuyên bố.

Cũng như thế, cứ xét vị trí của đường điểm phân trong ṿng Hoàng Đạo của đền Denderad, th́ nó đánh dấu một thời kỳ thái cổ hàng bao nhiêu thế kỷ. Nhờ đó, người ta truy nguyên ra nền văn minh cổ nhất của Ai Cập ở vào thời kỳ nào. Cái vị trí đó chỉ rằng từ đó đến nay, có trên ba "đại niên" rưỡi đă trôi qua trên vũ trụ kế, tức là mặt trời đă xoay ṿng chung quanh ngôi định tinh của nó trên ba lần rưỡi.

Sự kiểm điểm chính xác những thống kê thiên văn xác định rằng sự xê dịch trung b́nh củu tuế sai là 50.2 giây mỗi năm, do đó người ta có thể tính tron g dĩ văng để đi đến điểm quy định bở vị trí của Hoàng Đạo đền Denderad. Ví ṿng lớn của Hoàng Đạo chia làm 360 độ, nên khoảng tuế sai 25, 800 năm lập thành một chu kỳ "đại niên."

Như thế, mỗi chu kỳ trọn vẹn của mặt trời trải qua không dưới 25, 800 năm, tính ra th́ ít nhất là 90,000 năm đă trôi qua kể từ cái ngày được ghi nhận trên Hoàng Đạo đền Denderad.

Chín mươi ngàn năm! Phải chăng đó là một điều khó tin? Những vị tăng lữ thông thiên văn Ai Cập không chấp nhận điều đó. Sử gia Hy Lạp Hérodote thuật lại lời các tăng lữ đă nói với ông rằng dân tộc Ai Cập tự cho là dân tộc cổ xưa nhất thế giới, và họ cất giữ trong các đạo viện và các đền thờ cổ những văn khố tài liệu xưa đến 12,000 năm trước khi ông đến viếng xứ này.

Người ta biết Hérodote đă thu thập các tài liệu lịch sử một cách thận trọng tỉ mỉ là dường nào, và ông thực sự xứng đáng gọi là "Người cha của lịch sử." Các vị tăng lữ đó c̣n nói với ông rằng "Mặt trời đă từng mọc lên hai lần ở tai chỗ mà ngày nay nó lặn, và trái ngược lại."

Lời khẳng định lạ lùng này ngụ ư rằng hai miền cực địa của trái đất đă hoàn toàn đảo lộn những vị trí đầu tiên của chúng, điều này ám chỉ rằng trên địa cầu đă từng có những cuộc biến thiên vĩ đại đă làm thay đổi cục diện các vùng lục địa và đại dương. Những cuộc sưu tầm địa chất học đă xác nhận điều đó, nhưng c̣n những thời kỳ xảy ra những cơn biến thiên đó th́ thụt lùi về một cái dĩ văng xa xăm tịt mù.

Một hậu quả khác là khí hậu ở các vùng địa cực ngày xưa không phải lạnh lẽo mà đó là khí hậu của miền nhiệt đới. Trạng thái đó của quả địa cầu chỉ có thể gây ra bởi những sự biến chuyển vĩ đại trong không gian, và điều này đă chúng thực lời nói của các vị tăng lữ Ai Cập.

Những vị tăng lữ ấy không hề biết ǵ về khoa địa chất học hiện đại, họ chỉ có những tài liệu cổ khắc trên mặt đá của những cây thực tiễn, trên những tấm bia đá, những mâm đồng, hoặc viết trên lá cây chỉ thảo. Ngoài ra c̣n có những giáo điều và lịch sử bí truyền chỉ được tiết lộ trong khoa Huyền Môn, hoặc được truyền khẩu cho môn đồ trong các đạo viện trải qua bằng bao nhiêu thế kỷ.

Bằng cách nào giới tăng lữ, tuy không biết ǵ về địa chất học, lại biết được những sự biến thiên và dời đổi cuộc diện trên địa cầu, nếu không phải là nhờ những tài liệu cổ của họ? Sự hiểu biết đó càng xác nhận sự kiện rằng họ đă nắm giữ được những tài liệu đó, và cũng giải thích sự hiện hữu của những ṿng Hoàng Đạo chính cống mà bổn Hoàng Đạo của đền Denderad chỉ ghi chép lại một phần.

Do những sự việc kể trên, một khoảng thời gian 90,000 năm không c̣n là chuyện mơ hồ khó tin. Điều đó không nhất thiết có nghĩa là nền văn minh Ai Cập. Có thể rằng dân tộc và nền văn minh Ai Cập đă từng có trên một vùng lục địa khác và chỉ di cư sang Châu Phi trong một thời kỳ về sau này.

Lịch sử Ai Cập bắt đầu ở triều đại thứ nhất, nhưng ta phải nhớ rằng xứ ấy đă từng có người ở từ lâu trước thời kỳ của tài liệu cổ xưa nhất c̣n tồn tại đến bây giờ. Lịch sử của dân tộc Ai Cập cổ xưa và những tên tuổi của những vị vua chúa của họ là những điều mà các nhà Ai Cập học không hề biết. Lịch sử Ai Cập thời thái cổ dính liền với lịch sử (đă mất) của châu Atlantide.

Các vị tăng lữ Ai Cập cũng là những nhà thiên văn, đă thừa hưởng ṿng Hoảng Đạo của họ từ châu Atlantide. Đó là lư do v́ sao ṿng Hoàng Đạo của đền Denderad có thể cho thấy dấu vết của những cuộc vận hành tinh tú khổng lồ trải qua những gịng thời gian dài vô tận so với những ṿng Hoàng Đạo của kỷ nguyên lịch sử.

Sự khám phá mỗi di tích mới của nền văn minh cổ xưa đó làm cho chúng ta phải thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên. Trong khi mà, Theov những quan niệm của chúng ta về sự "Tiến bộ" chúng ta tưởng rằng càng đi thụt lùi về dĩ văng, th́ chỉ có giống người càng thô kệch và dă man hơn, nhưng trái lại có khi ta lại thấy có những dân tộc văn minh, tiến hóa và rất tôn sùng tín ngưỡng tôn giáo.

Dẫu cho ở vào một vài thời kỳ tiền sử xa xăm, cũng có những dân tộc dă man và những dân tộc văn minh sống đồng thời với nhau trên địa cầu. Khoa học, tuy đă phát họa cho ta thấy một thời quá khứ của địa cầu nó thách thức tầm hiểu biết thiển cận của chúng ta, nhưng vẫn chưa có đủ dữ kiện để tŕnh bày đầy đủ những chi tiết về những thời kỳ đó.

Nhưng khoa học vẫn tiến bộ không ngừng, và sẽ có thể làm được điều đó. Vậy chúng ta chớ nên phủ nhận một cách vội vàng những truyền thống cổ Ai Cập về con số 90,000 ngàn năm, và cũng đừng nên vội chấp nhận con số năm hay sáu ngàn năm lịch sử của nhân loại như người ta vẫn thường nh́n nhận.

Tuổi của quả địa cầu luôn luôn đính chánh sự tin tưởng này của những người có một quan niệm quá nghèo nàn về tổ tiên của chúng ta, sự hiểu biết về quá tŕnh của vũ trụ sẽ có thể đem đến cho họ, tuy không phải là một cách dễ dàng, những tầm nhăn quang bao quát và rộng lớn hơn nữa.

Trong những khoảng không gian bao la vô tận, phải chăng c̣n có những nghĩa địa của càn khôn, ở nơi đó có những tinh cầu chết và những bầu tinh tú tắt nguội, đă từng có một thời phát triển trong những nền văn minh rực rỡ huy hoàng ngày nay đă mất?

Tôi bước xuống cầu thang và trở ra cửa ngoài đă quan sát phía bên trong ngôi đền lớn mà lúc đầu tôi đă đi qua nhanh để t́m nơi thánh điện Huyền Môn mà tôi muốn xem trước hết. Trong gian pḥng rộng, hai mươi bốn cây cột lớn mang trên chớp vuông gương mặt chạm trỗ nhưng đă bị sứt mẻ của nữ thần Hathor, những mặt cột đền có khắc đầy những hàng chữ ám tự.

Thật đáng buồn mà thấy rằng ngôi đền thờ nữ thần Hathor, vị nữ thần Ai Cập tượng trưng Sắc Đẹp và Ái T́nh, đă thoát khỏi sự tàn phá của thời gian để rồi lại bị tàn phá nhiều hơn do bàn tay phủ phàng của con người. Hầu hết pho tượng của nữ thần đều bị chặt, đẽo bằng búa rều, do sự phẫn nộ của những người cuồng tín, những gương mặt bị sứt mẻ chỉ c̣n thấy những vành lỗ tai dài và những mái tóc dầy cộm.

Dền Denderad là một trong những ngôi đền đồ sộ to lớn nhất của Ai Cập, và trong số những đền mà người ta c̣n tế lễ thờ phượng khi hoàng đế La Mă Théodose, vào năm 379 sau Thiên Chúa kỷ nguyên, ban hành một chỉ dụ ngăn cấm nền tôn giáo cổ đă suy tàn và làm cho nó chết hẳn.

Viên sứ giả của hoàng đế là Cynegius đă thio hành lệnh cấm ấy một cách vô cùng gắt gao. Ông tuyên bố đóng cửa tất cả các đền thờ và các đạo viện, ngăn cấm mọi cuộc hành lễ điểm đạo và những nghi lễ cổ truyền.

Lúc đó những đám dân cuồng tín đột nhập đền Denderad, đuổi các tăng lữ và xâm phạm vào những nơi thánh điện thiêng liêng. Họ phá hũy các pho tượng nữ thần Hathor, cướp bốc những đồ vàng ngọc, chặt đẽo gương mặt xinh đẹp và chạm trổ tinh vi của nử thần, ở bất cứ nơi nào họ đi đến.

Ở những nơi khác, sự tàn phá c̣n khóc liệt hơn nữa, v́ người ta phá hủy các tường rào, triệt hạ những cột đền và đập tan từng mảnh những pho tượng khổng lồ, người ta tiêu diệt công tŕnh của bao nhiêu ngàn năm.

Đó là những biến thiên của nền tôn giáo mà những tín đồ lúc đầu đă chịu đựng những sự ngược đăi bắt bớ, chịu pháp nạn rồi tử v́ Đạo, và cuối cùng lại dành một sự ngược đăi tương tự cho kẻ khác. Họ cho rằng bổn phận họ phải phá hủy công tŕnh của tiền nhân, để tạo nên một công tŕnh khác thích hợp với họ.

Lúc bước vào đền, tôi nghĩ đến các v́ vua của triều đại Ptolémeé, những v́ vua kiêu hănh đă từng đến ngôi đền này trên những cổ xe thếp vàng óng ánh, trước một đám quần chúng im lặng và tôn kính. Thời đó, đă có bao nhiêu là đám rước lễ long trọng, náo nhiệt tưng bừng, diễn ra trên sân đền rộng lớn, mà ngày nay sân đền lại vắng tanh không một bóng người!

Nh́n di tích của chánh điện mà ḷng tôi c̣n thấy buồn man mác, huống chi là những hang động âm u ở dưới hầm mà tôi đang bước đến? Những gian pḥng tối đen dưới hầm này được xây bên tron gnhững bức tường nền dầy kinh khủng. Vách tường cũng được tô điểm bằng những h́nh ảnh chạm trổ rất công phu, mô tả những cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng ngày xưa đă từng diễn ra ở dưới hầm này.

Rời những hầm tối đen giống như những nhà mồ, tôi trở lại chỗ cửa chính. Cổng đền ngày xưa được khép bằng những cánh cửa bằng đồng rất kiên cố thếp vàng sáng chói lộng lẫy. Tôi bước ra ngoài và đi quanh một ṿng chung quanh đền.

Thật khó mà tin rằng khio vua Ả Rập Abbas Pacha phát hiện ra ngôi đền này giữa thế kỷ 19, phần lớn đă bị chôn vùi dưới một đồi cát và sỏi vụn. Nó được phơi bày ra ánh sáng trở lại nhờ bởi những nhát cuốc xẻng của những phụ thợ đến làm công việc đồi cát này. Có bao nhiêu người đă đi qua vùng này ngày xưa, mà không hề biết đến cái kho tàng thiêng liêng của dĩ văng mà họ đang dày xéo dưới gót chân của họ.

Tôi ngừng lại một lúc để nh́n lên mặt ngoài tường cái h́nh nổi chạn trổ chân dung nữ hoàng Cléopâtre. Vị nữ hoàng Ai Cập này lúc đương thời đă ra lệnh tu bổ bức tường chung quanh đền, hồi đó đă bắt đầu sụp lở. Để ghi tạ công đức, người ta đă tạc tượng nữ hoàng ở trên tường để làm kỷ niệm.

Hoàng tử Césarion cũng được khắc tượng ở một bên nữ hoàng, giống người cha một cách lạ thường. Nữ hoàng Cléopatre, con gái của vua Ptolémée, cũng là người cuối cùng trong tất cả các nữ hoàng Ai Cập. Khi hoàng đế Jules César cầm quân vượt biển Địa Trung Hải đi chinh phục xứ Ai Cập, th́ nữ hoàng Cléopâtre đă trở nên t́nh nhân của vua ngay từ khi César vừa đổ bộ lên đất liền.

Chính do sự trung gian của Cesar mà nữ hoàng đă hướng xứ Ai Cập đến việc liên kết với một hải đảo xa xôi, mà định mệnh đă đặt để rằng sẽ đóng một vai tṛ quan trọng trong lịch sử Ai Cập trên 18 thế kỷ về sau!

Và những quân sĩ La Mă cũng đă đem vào Anh Quốc tôn giáoSérapis, cùng với bao nhiêu di sản tinh thần khác nguồn gốc Ai Cập. Một sự liên lạc, tuy gián tiếp, đă bắt đầu có giữa hai nước kể từ khi đó.

Trên bức tường chạm trổ, nữ hoàng Cléopatre đội cái thứ măo tṛn như cái dĩa có sừng, giống như măo của nữ thần Hathor, để bộ mái tóc dài thắt bính. Gương mặt đầy đặn và xinh đẹp, tướng mạo uy nghi của một bậc vương giả quren truyền lịnh và sai phái kẻ dưới, cương quyết thực hiện mọi kế hoạch đến cùng, bằng mọi phương tiện.

Chính do ành hưởng của nữ hoàng mà Jules César đă nuôi cái mộng dùng thành Alexandrie làm kinh đô của đế quốc La Mă và trung tâm của thế giới. Khi Cléopâtre qua đời, th́ nền độc lập của Ai Cập cũng không c̣n nữa.

Tôi hồi tưởng lại rằng Cléopâtre cũng là một giai nhân tuyệt sắc củu thế giới cổ xưa, và là một trong những người đàn bà đă từng đóng vai tṛ quyết định của lịch sử. Có ai ngờ rằng vận mệnh của một bậc vĩ nhân, vận mệnh của cả một đế quốc rộng lớn, có đôi khi lại treo lơ lửng dưới cái nụ cười quyền rũ hiện ra trên đôi môi xinh đẹp của một giai nhân?

Phần trên những vách tường đá của ngôi đền đều có khắc hàng chữ ám tự (hiéroglyphes). Truyền thuyết cho rằng loại chữ ám tự của thời cổ Ai Cập là do vị thánh sư Thoth tức Tehuti, phát minh ra. Điều này cũng có một sự thật về lịch sử.

V́ chính một vị siêu nhân, một đấng Chân Sư daqnh hiệu là Thoth, đă đem thứ chữ này, như một sự tiết lộ của thánh thần, cho những con cháu của dân Atlante di cư sang vùng đất mới trên bờ sông Nil, trước khi những luồng sóng cuối cùng đă nhận ch́m châu Atlantide xuống đáy biển. Vị chân sư Thoth cũng là tác giả của quyển Tử Thư (Sách của người chết).

Người Ai Cập mô tả chữ ám tự của họ là thứ ngôn ngữ của Thần Minh. Đó là bởi v́ không những họ tin rằng loại chữ này được Thần Minh ban cho họ, mà cũng v́ nghĩa ẩn dấu của nó được giữ kín đối với quần chúng và chỉ tiết lộ cho những vị môn đồ Huyền Môn đă được điểm đạo.

Những nhà Ai Cập hiện đại chỉ có thể hiểu được ư nghĩa thông thường của chữ ám tự theo sự hiểu biết của người b́nh dân, điều đó đă là một thành quả vẻ quang rồi. C̣n cái ư nghĩa ẩn dấu, bí truyền th́ họ tịt mù chẳng biết ǵ cả.

Đó là bởi v́ muốn thấu triệt loại chữ ám tự, ngôn ngữ của Thần Minh, người ta phải cần dùng đến một thứ đạo nhỡn, để hiểu biết nó trên khía cạnh tâm linh, chứ nếu không, th́ không thể nào hiểu tận cùng đến chỗ sâu xa huyền diệu của nó. Điều này cũng tương tự như trường hợp của người thí sinh muốn thấu hiểu những pháp môn bí truyền được tiết lộ cho y trong các cuộc lễ điểm đạo của phái Huyền Môn Ai Cập.

Nhờ công tŕnh của các nhà Ai Cập học, và nột phần cũng do bàn tay của định mệnh, những kho tàng tâm linh quư báu thể hiện nơi những hàng chữ ám tự khắc trên tường đá trong các đền thờ hoặc viết trong những pho sách cổ bằng lá cây chỉ thảo, mới được phiên dịch ra và lưu truyèn lại cho hậu thế.

Vai tṛ của định mệnh trong sự khám phá này thật là la lùng. Nếu Napoléon không đem binh viễn chinh sang Ai Cập, th́ loại ngôn ngữ huyền bí khắc trên tường và viết trên giấy chỉ thảo ngày nay có lẽ vẫn c̣n câm lặng không hề có người đọc.

Chính Napoléon vẫn từng là người của định mệnh đến một mức độ phi thường. Ông ta không hề tiếp xúc với một quốc gia nào, một cá nhân nào, hay một nhân vật nào mà không ảnh hưởng sâu rộng đến vận mạng của họ. Ông là khí cụ của định mệnh, hay là của thần Némésis.

Cuộc viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập đă dọn đường cho sự t́m ṭi khảo cứu về cách sinh hoạt và tư tưởng xứ Ai Cập thời cổ. Khi xứ Ai Cập bị đặt dưới quyền đô hộ của Hy Lạp, loại ngôn ngữ cổ xưa này bị suy sụp. Lẽ tự nhiên là chính quyền toan tính phổ biến ngôn ngữ và nền giáo dục Hy Lạp trong những giai cấp có học thức.

Những quan chức quan trọng trong chính quyền đều dành cho những người Ai Cập giữ chức giỏi chữ Hy Lạp. Nhà cầm quyền Ai Cập đóng cửa các đạo viện cổ ở He'liopolis, là nơi đào tạo rất đông những tăng lữ thời xưa và nơi truyền bá sự học hỏi ngôn ngữ Ai Cập. Trừ ra một số ít tăng lữ vẫn duy tŕ việc dùng tiếng Ai Cập trong ṿng bí mật, chữ Hy Lạp đă thật sự trở nên một thứ quốc ngữ Ai Cập.

Đến cuối thế kỷ thứ 3 của Thiên Chúa kỷ nguyên, trong xứ Ai Cập người ta không c̣n t́m thấy một người nào có thể giải thích ư nghĩa thông thường b́nh dân của chữ ám tự cổ nữa, đừng nói chi đến việc sử dụng thứ chữ ấy. Mười lăm thế kỷ đă trôi qua.

Việc dùng chữ ám tự dường như đă hoàn toàn biến mất ở Ai Cập, th́ đột nhiên xuất hiện trước hải cảng Alexandrie, do một cơn băo tắp vào bến, và vượt qua sự canh tuần của hạm đội Anh dưới quyền chỉ huy của đô đốc Nelson, chiếc thuyền chở Napoleon và định mệnh của người.

Không bao lâu, quân đội viễn chinh Pháp được chuyển đến sứ Ai Cập. Người ta đào đất ở nhiều nơi để xây móng đắp nền làm những công sự pḥng thủ. Một trong những địa điển lần đầu tiên được lựa chọn do bởi tầm quan trọng chiến lược của nó là vùng châu thổ sông Nil, kế cận hải cảng Rosette.

Một viên sĩ quan trẻ tuổi, trung úy pháo binh Boussard, đă phát hiện một điều vô cùng quan trọng như một sự t́nh cờ đưa đến cái ch́a khóa để truy ra ư nghĩa của các ám tự Ai Cập. Trong khi đào đất đắp nền xây pháo đài St Juluen, những quân sĩ của ông ta th́nh ĺnh đào được một khối đá đen đă bể.

Trung úy Boussard liền hiểu ngay rằng tảng đá này có một tầm quan trọng rất lớn v́ nó có khắc chữ, đó là một sắc lệnh của giới tăng lữ thành Memphis ban bằng sắc danh dự cho vua Ptolémeé thứ 5. Bản chính bằng chữ Hy Lạp khắc trên 54 gịng, kèm theo hai bản dịch ra chữ ám tự và cổ tự.

Viên đá này được gởi về Châu Âu, tại đây các nhà bác học mới ra công nghiên cứu cho đến khi họ có thể thiết lập toàn bộ chữ cái ám tự Ai Cập tương đương với những cái Hy Lạp. Cái ch́a khóa này từ đó đă giúp cho các nhà khảo cổ và Ai Cập học đọc được những bản chữ ám tự khắc trên tường và trong các sách chỉ thảo đă từng là những điều bí hiểm trong bao nhiêu thế kỷ.












Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 125 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 6:59am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



AI CẬP HUYỀN BÍ


BÍ MẬT CỦA NHỮNG KỲ QUAN KARNAK


CHƯƠNG CHÍN


Sau cùng, chúng tôi đă đến xứ Ai Cập cổ kính, thâm nghiêm, và hấp dẫn mà con sông Nil, những đền đài, đồng ruộng, làng mạc và nền trời xanh đậm cùng nhau phối hợp để tạo nên một cảm giác quyến rủ và sống động.

Đó là xứ Ai Cập của những thời đại mà các vị vua Pharaon sang cả quyền uy c̣n đang trở về, mà hết cả ngày này sang ngày kia, những sân đền c̣n vang dội âm hưởng tiếng thánh ca của các vị tăng lữ.

Tôi đến Louqsor, cách thủ đô Cairo 450 dặm sau khi đi ngược ḍng sông Nil. Đến đây, người ta trở về dĩ văng và sống với dĩ văng một cách dể dàng khộng cần một cố gắng nào cả, cảnh vật chung quanh đem đến cho ta một lọat những h́nh ảnh cổ xưa.

Chỉ có miền nam Ai Cập, mà các nhà địa lư học gọi là miền thượng du Ai Cập, c̣n giử được cái phong vị đó trước mắt nhưng du khách thời nay. Cố đô danh tiếng của nó, thành phố cổ điển Thèbes, mà thi hào Homère gọi là "Thành phố một trăm cửa," ngày nay đă biệt tích, nhưng nó c̣n để lại cho chúng ta tại Karnak, một trong những trung tâm tôn giáo của giới tăng lữ Ai Cập.

Ngày nay, Karnak là viên ngọc quư của vùng này. Những đền đài cổ, điêu tàn nhưng vẫn c̣n hùng vĩ của nó nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Một trong những ngôi đền này mà ngôi đền to lớn nhất mà người ta có thể t́m thấy ở Ai Cập, dó là đền thờ Amen Ra.

Thời xưa, tất cả những ngôi đền khác ở Ai Cập đều phụ thuộc vào ngôi đền này. Thế là tôi đă đi hành hương tại Karnak và chiêm ngưỡng những đền thờ hoang tàn sụp đổ dưới ánh mặt trời nắng gắt cũng như dưới ánh trăng khuya êm dịu.

Karnak ở kếcận một khu rừng xanh biếc, cách ba dặm ở phía bắc Louqsor. Người ta đến đây bằng con đường đầy bụi bặm, đi xuyên qua một cánh đồng lớn dưới một nền trời xanh lợt. Dọc đường có một ngôi mộ của một vị vua Ả Rập, nóc bầu tṛn sơn trắng, sau cùng nhô lên trước mắt tôi hai cây cột trụ cao vút của cổng đền.

Cổng đền xem rất hùng vĩ ngoạn mục, đặc biệt hấp dẩn sự chú ư của du khách. Trên chót người ta nh́n thấy tượng vua Ptolémée xây dưng lên ngôi đền này, đang cúng dâng lể vật cho các vị thần thành Thèbes.

Bước vào cổng, tôi đă ở trong ngôi đền thần Khonsou, vị thần đầu chim ưng, mà ngôn ngữ b́nh dân gọi là con của Amen. Trên tường có chạm h́nh nổi diển tả một đám rước lể du thuyền tấp nập trên sông, dưới thuyền chở tượng thần Amen Ra đi ngược ḍng sông Nil đến tận Louqsor.

Tôi bước vào ngôi đền sụp đổ, tại đây ngày xưa người ta giữ chiếc linh thuyền rước tượng thần Konsou. Tất cả những đồ vật dùng để rước lể được cất giữ tại đây có ư nghĩa rất nhiều đối với quần chúng, những tăng lữ tham quyền cố vị và nhất là đối với các vị vua chúa.

Trái lại, nó không phải là quan trọng đối với một số ít đạo đồ, những vị này chỉ coi các nghi lể cúng tế như những nghi thức tượng trưng, chứ không có một giá trị tâm linh thật sự.

Kế đó, tôi phát hiện một lọat những h́nh nôi rất lư thú chạm trổ trên tường phía đông của một gian pḥng bên trong, tiếp cận với chánh điện. Điều làm cho tôi chú ư trước nhất là pho tượng một nhân vật đă từng quen thuộc với tôi trong một đêm suy tư giữa băi sa mạc, thần tượng Sphinx!

Tôi liền hiểu ngay đó là một điều quan trọng và người ta có thể quan sát khắp đền trong nhiều ngày giữa những tường, vách và cột trụ đá mà không t́m thấy có thần tượng này.

H́nh nổi đầu tiên là h́nh vua Ramsès thứ 4, đang đứng trước mặt nữ thần Ament và dâng nữ thần một pho tượng nhỏ. Kế đó là một h́nh nổi trên tường có chạm h́nh hai nhân vật. Phía trước là một h́nh thiếu nhi, không ai khác hơn là Horus, con của Orisis.

Trên đầu Horus có h́nh biểu tượng mặt trời và con rắn, tay trái để lên hai đầu gối, c̣n tay mặt đưa lên, ngó tay trỏ chỉ môi, ngụ ư giữ im lặng. C̣n nhân vật kia, phía sau Horus, là thần tượng Sphinx.

Nữ thần Ament đưa bàn tay về phía Ramsès, tay cầm một thập tự giá có quai h́nh ṿng tṛn ở một đầu, c̣n đầu kia điểm vào giữa mắt của vua Ramsès. Bức h́nh đó có ư nghĩa ǵ?

Một nhà Ai Cập học có chắc sẽ đưa ra một sự giải thích hoàn toàn hợp lư và khá đúng theo quan điểm của y. Y sẽ nói rằng nhà vua đang hiến dâng lể vật cho nữ thần, thế thôi. Y không c̣n nói ǵ hơn. Những cảnh tượng chạm trổ trên vách như thế thường diển tả những mẩu chuyện vặt hoặc nhắc lại điển tích những chiến công rực rỡ của một triều vua nào đó.

Nhưng ở đây lại là môt việc khác. Trước hết người ta nhận ra đó là việc thực hành một nghi lể tối thiên liêng, nhất là bức h́nh được chạm gần bên chánh điện trung ương là chổ thâm nghiêm nhất của ngôi đền này.

Cũng như lọai ám chữ Ai Cập được dùng để diển tả một ư nghĩa bí truyền mà chỉ có những người tăng lữ đă điểm đạo được biết mà thôi, th́ đây cũng vậy, gương mặt các và thần đối với những vị đạo đồ thời cổ có hàm xúc một ư nghĩa thâm sâu hơn là đối với quần chúng. Như vậy, ư nghĩa huyền diệu của các bức h́nh này chỉ có thể hiểu được bởi những người nào đă từng thấu triệt giáo lư Huyền Môn.

Điểm cốt yếu trên bức h́nh nổi, là cử chỉ hành động của nữ thần Ament. Cái thập tự giá có quai h́nh ṿng tṛnmà nữ thần điểm vào giữa hai mắt của vua Ramsès, các tăng lữ điểm đạo gọi là cái ch́a khóa của Huyền Môn, nó tượng trưng cho việc điểm đạo để thu nhận vào tổ chức Huyền Môn thật sự vậy.

Một nhà Ai Câp học sẽ cho rằng nó chỉ tượng trưng cho việc mở cửa, từ lâu vẫn khép chặt, để bước vào tổ chức thiên liêng này. Dưới h́nh thức kỷ hà, nó tượng trưng linh hồn bất diệt của người đạo đồ đă được giải thoát ra khỏi cái thể xác vật chất "Bị đóng chặt trên thập tự giá."

Cái ṿng tṛn, không đầu không đuôi, tượng trưng tính chất bất diệt của linh hồn tương đương với các đấng Thần Minh, c̣n cái thập tự giá tượng trưng cho trạng thái xuất thần của người đạo đồ, do đó có sự chết và bị "đóng chặt vào thập tự giá" của y. Trong vài đền thờ cổ, người ta đặt y nằm trên cái giường gổ h́nh thập tự giá.

Điểm giữa hai chân mày chỉ vị trí của tùng quả tuyến, tức bộ hạch óc mà những động tác phức tạp vẫn chưa được khoa học hoàn toàn biết rơ.

Trong những cấp bật điểm đạo đầu tiên, vị Đạo Trưởng dùng phép làm kích động bộ hạch ấy một phần nào, để giúp cho người thí sinh tạm thời mở rộng thần nhăn và nhận thấy những ma quái hiện h́nh hoặc những nhân vật tâm linh xuất hiện ở gần bên y.

Phương pháp sử dụng vào việc này một phần do mănh lực từ điển, một phần tùy thuộc vào một vài chất hương liệu rất mạnh.

Bởi đó, khi nữ thần Ament cầm cái thập tự giá điểm vào giữa hai mắt của vua Pharaon, cử chỉ đó ngụ ư rằng nhà vua đă được điểm đạo theo tổ chức Huyền Môn, và nhà vua sẽ tạm thời mở thần nh́n trong một thời gian.

Nhưng nhà vua bị cấm nhặt không được tiết lộ cho ai biết những ǵ nhà vua được thấy và những cảm xúc trong cuộc lễ điểm đạo. Điều này được diễn tả bởi nhân vật đầu tiên trong bức h́nh nổi, thiếu nhi Horus, tức là vị thần Hormakhou, mà ngón tay đưa lên môi khép chặt ngụ ư phải tuyệt đối giữ im lặng và bí mật.

Những h́nh ảnh tương tự cũng được phô bày gần bên các thánh điện và những gian pḥng điểm đạo trong tất cả các ngôi đền thờ cổ, luôn luôn với ngón tay trỏ đưa lên môi. Một hiệu lệnh ngầm có ư tượng trưng:

Hăy giữ im lặng về những ǵ liên hệ đến những ǵ bí mật thiêng liêng. C̣n nhà vua cầm pho tượng nhỏ với một cử chỉ hiến dâng có nghĩa là người sẵn sàng hy sinh lời nói của ḿnh và luôn luôn giữ im lặng.

Phía sau thần Hormakhou c̣n có h́nh chạm một nhân vật thứ hai thần tượng Sphinx. Đó là ngụ ư ǵ?

Cũng như vị đạo đồ trong cơn xuất thần đă mất khả năng dùng lời nói trong thời gian điểm đạo, thần tượng Sphinx vẫn luôn luôn im lặng và không hề thốt ra một tiếng nào. Thần tượng Sphinx luôn luôn biết giữ ǵn bí mật. Vậy đó là những bí mật ǵ?

Đó là những điều huyền bí trong cuộc điển đạo.

Thần tượng Sphinx canh gác ngôi đền điểm đạo hùng vĩ nhất của thế giới cổ: Ngọn Kim Tự Tháp. Những người đi hành lể ở Kim Tự Tháp thời xưa đều đến từ bờ sông Nil, trước khi đến nơi họ phải đi ngang qua trước thần tượng Sphinx. Trong cái im lặng của nó, thần tượng Sphinx tượng trưng cho sự im lặng và sự bí mật của cuộc điểm đạo.

Như thế vua Pharaon đă được mới tham dự một nghi lể huyền bí lớn nhất có thể được ban cho con người.

Ba bức h́nh khác hoàn thành một loạt những cảnh tượng làm lể điểm đạo, mà ngày nay du khách có thể xen tự do, nhưng ngày xưa chỉ dành cho một số ít người biệt đại. Trên những bức h́nh đó, người ta thấy những cảnh tượng tiếp theo sau khi nhà vua đă bước qua cửa Huyền Môn.

Trong bức h́nh thứ hai, nhà vua đứng giữa hai vị thần, Horus trưởng thành và Thoth. Mổi vị thần này cầm một cái b́nh rót lên trên đầu vua Ramses, không phải rót nước, mà rót một ḍng những thập tự giá có quai tṛn tràn ngập đầu và rớt xuống chung quanh vua.

Thoth là vị thần minh triết và bí giáo. Trong hính này, ngài ban cho vua sự hiểu biết bí truyền về những sức mạnh thần bí và minh triết tâm linh, là những điều quư báu đă từng làm cho Ai Cập nổi tiếng như cồn vào thời đại cổ. Ngài cũng là vị thần Nguyệt Tinh.

Bởi đó, tất cả các nghi lể tôn giáo và phù phép có tầm quan trọng bí mật, nhất là những cuộc lể điểm đạo Huyền Môn, đều diển ra ban đêm vào những lúc trăng non và trăng rằm, là những giai đoạn mặt trăng có ảnh hưởng lớn nhất.

Hours khi trưởng thành, là thần thái dương. Vai tṛ của thần Horus trong h́nh này chỉ rằng, mặc dầu khởi sự vào lúc ban đêm, lể điểm đạo kết thúc vào lúc ban ngày vào giờ b́nh minh. Khi những tia nắng đầu tiên của mặt trời sớm mai rọi thẳng vào đỉnh đầu người thí sinh th́ vị đạo Trưởng niệm thần chú để y tỉnh dậy.

Trong bức h́nh thứ ba, vua Ramses trở nên vị đạo đồ đầy minh triết, được hai vị thần khác nắm lấy tay vua để chúc mừng, vừa đưa lên trước mặt vua những thập tự giá có quai, ngụ ư rằng từ nay nhà vua trở nên bạn hữu đồng môn với các đấng thần minh do bởi cuộc điểm đạo vừa trải qua. Trong cảnh cuối cùng, nhà vua dâng một pho tượng nhỏ cho thần Ament-Ra.

Đó là pho tượng một vị thần ngồi, có một lông chim cắm trên đầu, tức là thần chân lư, nghĩa là với một sự hiến dâng trọng vẹn, người sẽ hướng mọi tư tưởng và hành vi theo những định luật tâm linh nó cai quản đời sống con người, như đă được tiết lộ cho nhà vua trong cuộc lể điểm đạo.

Như vậy, những bức h́nh chạm trổ này đă cho tôi thấy đời sống tâm linh của một vị Pharaon có đạo đức, và phát hiện cho tôi biết vài điều về những nghi thức lể trong khoa Huyền Môn Ai Cập.

Tôi bước qua cánh cửa ở đầu gian pḥng lớn của chánh điện, và đứng trước một bàn thờ nhỏ, ở hai bên có h́nh tượng vua Pharaon đang chiêm bái và cây linh kỳ của nữ thần Hathor. Ở phía dưới, một lổ hỏng lớn của một nền đá bị sụp lở tối đen ng̣m, tôi lấy đèn bấm soi xuống th́ thấy chổ sụp lở đó đưa xuống một đường hầm dưới đất.

Đó là cái động xây dưới hầm của đền thờ Karnak, có nhiều ngăng cách và hành lang dài. Ở bề mặt cánh cửa lớn, tôi nhận thấy có hai lổ hỏng khác cũng là chổ nền đá bị sụp lở và đưa xuống những đường hầm nhỏ hẹp đầy bụi bặm chưa từng có vết chân người bước đến.

Tôi bèn thám hiểm những con đường hẹp này th́ thấy một đường đi xuyên qua động dưới hầm đến chổ thờ thần Khonsou. Đường dưới hầm bao phủ một lớp bụi dầy đặc đến nổi người ta phải nh́n nhận rằng bụi đă đóng ở đây nhiều thế kỷ, tôi cố t́m thấy dấu vết xem có người đă đến đây chăng.

Nhưng ngoài những dấu bàn chân, hẳn từ người Ả Rập gác đền thờ Khonsou ở gần bên, tôi không thấy ǵ nữa, chỉ thấy có những đường cong ngoằn ngoèo rất nhiều và xem rất có mỹ thuật được vẽ ra từ hai cái lổ đen bởi một vài con rắn nhỏ.

Những đường hầm đen tối kia và cái động đá bí mật kia có ư nghĩa ǵ?

Tôi đang tự hỏi như thế, th́ cái động thâm u dưới hầm, giống như cái nhà mồ, dường như xuất hiện trước mắt tôi. Tôi nhớ lại cuộc hành lể cổ truyền tái diển sự chết và sự hồi sinh của Osiris, và cuộc lể mà tôi đă thấy khắc trên vách đá của thánh điện nhỏ trên nóc bằng của đền thờ Denderah.

Hính cuộc lể mà tôi đă nh́n thấy trong linh ảnh và tôi đă sống qua kinh nghiệm bản thân một đêm trong Kim Tự Tháp, chính cuộc lể mà Osiris đă truyền lại từ châu Atlantide cho những vị Đạo Trưởng và tăng lữ của thời cổ Ai Cập.

Tại sao người ta lại làm lể điểm đạo Huyền Môn ở những nơi đen tối và âm u như những chốn này?

Có ba lư do để giải thích câu hỏi đó. Để giữ ǵn tuyệt đối bí mật và an toàn cho việc ban phép mầu vừa có tính cách riêng tư lại vừa nguy hiểm. Để làm cho người thí sinh bước vào trạng thái xuất thần một cách dể dàng hơn, bằng cách không cho y nh́n thấy vật ǵ ở chung quanh và như vậy, để cho y dễ tập trung sự chú ư vào nội tâm.

Sau cùng, để có được một h́nh thức biểu tượng hoàn hảo mà cổ nhân vẫn thích dùng, phải chăng các vị Đạo Trưởng nhận thấy người thí sinnh vẫn c̣n ở trong trạng thái vô minh u tối về phương diện tâm linh, vào lúc sắp bắt đầu cuộc lễ điểm đạo?

Và sự thức tĩnh của y sẽ dược thực hiện bằng cách mở mắt chào đón những tia sáng mặt trời ở một chỗ khác, nơi đó y sẽ được chở đến sau khi điển đạo, khi đó y đạt được sự giác ngộ tâm linh.

Sau một cuộc điểm đạo kéo dài một cách chậm chạp, bắt đầu lúc ban đêm và kết thúc vào buổi trời rực sáng, người đạo đồ đă vượt qua từ sự vô minh hắc ám (đêm tối) đến sự soi sáng tâm linh (ánh sáng).

Cuộc hành lễ điểm đạo Huyền Môn được thực hiện những động đá dưới hầm, hoặc trong những gian pḥng đặc biệt bên cạnh thánh điện thâm nghiêm, hoặc trong những thánh điện nhỏ trên nóc bằng của ngôi đền, chứ không bao giờ của một nơi nào khác.

Tất cả những nơi này đều bị triệt để cấm nhặt đối với dân chúng, họ không hề dám lại gần, v́ những kẻ nào vi phạm sẽ bị những sự trừng phạt rất nặng nề, khủng khiếp. Những vi Đạo Trưởng nhận lấy việc điểm đạo cho một thí sinh, tức là đảm đương một trách nhiệm nặng nề, v́ vấn đề sống chết của vị thí sinh nằm trong tay các ngài.

Người thí sinh có thể bị thiệt mạng nếu có kẻ nào vô phúc th́nh ĺnh xuất hiện, làm gián đoạn cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng.

Như vậy có khác nào trong khi một người bị bịnh nặng đang chịu một cuộc giải phẩu hiểm nghèo, mà để cho người ngoài cuộc bỗng nhiên đột nhập vào pḥng mổ? Nói cho cùng, th́ lễ điểm đạo phải chăng không khác ǵ một cuộc giải phẫu tách rời linh hồn ra khỏi thể xác? Đó là lư do v́ sao tất cả những pḥng điểm đạo đều được giữ ǵn, canh pḥng cẩn mật và đặt ngoài ṿng xâm nhập của người đời.

Những pḥng gần bên thánh điện của một ngôi đền lớn, người ta chỉ có thể đi đến sau khi đă vượt qua một đường hẹp tối om, ánh sáng mỗi lúc càng mờ dần từ phía cửa vào, để rồi hoàn toàn biến mất khi người ta đến ngưỡng cửa thánh điện.

Khi người thí sinh đă hoàn toàn mê thiếp đi trong cơn xuất thần, th́ thể xác y được đặt trong bóng tối âm u của gian pḥng, cho đến khi cuộc điểm đạo chấm dứt, người ta mới mang y ra bên ngoài ánh sáng.

C̣n ở những pḥng điểm đạo trong động đá dưới hầm, người ta cũng hành lễ một cách tương tự, tất cả mọi thứ áng sáng đều tắt hẳn trong cơn đồng thiếp, và động đá trở thành cái nhà mồ, nói theo cả hai ư nghĩa tượng trưng và thật sự.

Tôi chui xuống động đá dưới hầm do một lỗ hỏng trên nền đá và thám hiểm một gian pḥng tối âm u, tại đây ngày xưa các vị tăng lữ đă cử hành những nghi lễ huyền bí nhất của họ. Xong rồi tôi chui lên khỏi hầm với một cảm giác thoải mái dễ chịu giữa ánh sáng mặt trời êm ấm và không khí trong lành.

Tôi đi qua những cổng vĩ đại của đền thờ Amen Ra, kéo dài cuộc hành hương của tôi giữa những di tích của một thời đại huy hoàng ngày nay đă mất.

Những cổng đền này có lẽ vừa kích thước với những người khổng lồ hơn là với những người trần gian nhỏ bé như chúng ta. Sở thích của người Ai Cập về những kích thước đại quy mô đôi khi đưa đến kết quả là gây một cảm giác rợn người, cũng như trường hợp Kim Tử Tháp lớn gần thủ đô Cairo và những bức tường rào với những cổng đền mà tôi đang đứng núp dưới bóng mát trong lúc này.

Bề dày của những vách tường này đến 15 thước, dẫu cho những thành quách củng không bao giờ cần đến một bề dầy như vậy. Hẳn là người ta ngụ ư rằng thế giới phàm tục bên ngoài phải được ngăn cách để khỏi làm hoen ố ṿng thánh thiêng liêng của ngôi đền mà người cổ Ai Cập gọi một cách hănh diện là "Ngai vàng của thế giới."

Than ôi! Ngai vàng ngày nay đă điêu tàng trong cô quạnh. Khi tôi bước vào sân đền rộng lớn, tôi thấy có một đống gạch ngói c̣n sót lại của những ṭa kiến trúc đồ sộ đă sụp đỗ, chỉ c̣n vài cây cột trụ đứng trơ vơ giữa cảnh đổ nát hoang tàn.

Tôi chậm răi tiến bước, chân tôi dẫm lên nền đất gồ ghề mọc đầy cỏ dại, nay đă dành lấy chổ của thềm đá hoa đẹp lộng lẫy ngày xưa xây trên một diện tích rộng lớn, chiều dài có đến trên một trăm thước.

Qua khỏi sân đền h́nh vuông dài, tôi đă đến một cổng cao có chạm đầy những h́nh nổi sơn màu, và mở ra giữa những tàn tích của một cái cổng khác mà hai cột trụ đá hai bên đă sụp đổ chỉ c̣n trơ lại một đống đá ngổn ngang dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời.

Ngày nay, cổng đền này cao không dưới ba chục thước. Bảy bậc đá tam cấp cũng đă biệt tích mà những nhà kiến trúc thời xưa xây ở ngoài cổng đền, như những h́nh thức biểu tượng ám chỉ sự tuần tự tiến hóa của con người từ cơi hạ giới phàm trần lên đến cơi giới cao siêu nhất mà y có thể đạt tới bằng sự phát triển tâm linh.

Cũng như nhiều dân tộc khác của những nền văn minh cổ, người cổ Ai Cập diển đạt ư nghĩa huyền bí của số hệ theo quy mô trật tự của sự cấu tạo vũ trụ càn khôn.

Họ quan niệm rằng ngày thứ bảy hay cơi thứ bảy đem đến sự nghỉ ngơi, sự bằng an tuyệt vời cho con người cũng như cho muôn loài vạn vật trên thế gian. Tôi đă nhận thấy sự hiện diện của con số bảy trong tất cả các đền thờ ở khắp nơi tại xứ này, và dăy hành lang lớn trong Kim Tự Tháp cũng có sự biểu lộ của con số bảy một cách rơ ràng và lạ lùng.

Bởi đó, thật là một điều tự nhiên mà thấy bảy bậc tam cấp, ngày nay đă sụp đổ, được dựng lên ngoài cổng vào ṭa kiến trúc cao lớn và hùng vĩ nhất của Karnak, ṭa đại sảnh đường của đền thờ Amen Ra.

Tôi bước vào. Một viễn cảnh phi thường, mười sáu hàng cột trụ đá khổng lồ chen chúc nhau xuất hiện trước mắt tôi. Ánh nắng mặt trời rọi xuống cảnh tượng đó, tạo thành một h́nh ảnh độc đáo mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mổi cột trong số 130 cây cột trụ đứng, phát ra một cái bóng dài trên nền đá đă loang lỗ nhiều nơi.

Những cột trụ đá trắng dựng lên chơm chởm như một đạo binh khổng lồ, bề chu vi của mổi cột có đến mười thước tây! Thật là kinh khủng, một kỷ thuật kiến trúc đại quy mô không tiền khoáng hậu, vĩ đại vô cùng! Một rừng cây khổng lồ bằng đá trên một diện tích 100 thước bề rộng, thật là một điều rất là Ai Cập!

Ṭa đại sảnh dường này phần lớn được xây cất vào hồi triều đại vua Seti, chính vị vua Pharaon này cũng đă xây dựng nên ngôi đền Abydos là nơi tôi đă hưởng một sự yên tĩnh lạ thường. Nhưng ở đây th́ cái ấn tượng hùng tráng, oai vệ ngự trị khắp cả, nó khiêu gợi các h́nh ảnh của một thời đại đă tàn, mà người ta đă từng thực hiện một công tŕnh vĩ đại như thế.

Vua Seti đă không sống được lâu để hoàn thành công tŕnh sáng tạo khổng lồ này. Chính vua Ramsès đại đế đă tiếp tục công tŕnh ấy, ông dùng những khối đá của vùng đồi Aswan dể tạc thành những cây cột trụ to lớn của sănh đường.

Bằng lối kiến trúc đại quy mô đó, cổ nhân đă dụng ư khai phóng tâm hồn cho con người thấy những viễn ảnh rộng lớn, làm cho con người thoát ly ra khỏi cái ṿng bẩn chật nhỏ nhen của những tham vọng thường t́nh, gây nguồn cảm hứng cho y có những hoài bảo to tác và chí nguyện cao cả, giúp cho y mở rộng tầm nhăn quan và nung nấu chí khí để làm những việc vĩ đại phi thường.

Nói tóm lại, người ta muốn được giống như vị minh quân Ramsès, xây dựng lên những ngôi đền to lớn vĩ đại, rồi thiết lập chung quanh đó những thành thị kiểu mẫu, nơi đó người ta có thể sống trong ánh sáng của những hoài bảo thanh cao và những lư tưởng siêu việt.

Trời đă sắp sửa về chiều. Tôi c̣n dừng bước ở nán lại, trong khi mặt trời sắp sửa lặn tỏa ra khắp vùng những ánh hào quang rực rỡ đủ màu. Cuộc hành hương của tôi đă kết thúc.

Toàn thể cảnh vật gồn những đền miếu sụp đổ hoang tàn, những cánh đồng và băi sa mạc chung quanh nhuộm bao nhiêu sắc màu dồi dào phong phú của bóng hoàng hôn của vùngnhiệt đới, đă đem đến cho tôi một niềm phúc lạc thâm trầm say sưa, lâng lâng thoát tục.

Cái thú vị thần tiên ở chốn này thật thấm thía đậm đà, nó thấm nhuần vào người chúng ta giống như sương mù bao phủ trên sông, một cách từ từ mà ta không hề hay biết, cho đến khi ta nhận thấy rằng nó đă hiện diện khắp chung quanh ta.

Nếu người ta không có một linh hồn tinh vi, tế nhị, th́ người ta c̣n thấy ǵ hơn trong những ngôi đền sụp đổ này, ngoài những đống gạch đá, cát sỏi và bụi bậm? À, phải chứ!

Trong sự chiêm ngưỡng như nơi cổ tích hùng vĩ này, chúng ta hăy biết t́m thấy những ấn tượng khác nữa, để khi trở về ta sẽ thấy rung động đến tận tâm hồn, trong ḷng tràn ngập một niềm sùng kính thiêng liêng, ư thúc được cái vẻ đẹp huy hoàng và sự tranh trọng tôn nghiêm nó vẫn c̣n phảng phất và tồn tại măi với thời gian.

Bầu không khí vắng vẻ hoang vu của Karnak đă đem đến cho tôi một điều ích lợi rất lớn. Tôi đă có thể đắm ḿnh trong sự im lặng thần tiên của nó để hưởng thụ được nhiều lạc thú tâm linh luôn luôn đổi mới.

Thời đại hiện kim không giúp cho chúng ta hưởng cái thú ngồi cô đơn một ḿnh, thế hệ cơ giới ngày nay không c̣n để cho ta thưởng thức cái vui trong im lặng. Tuy nhiên, tôi tưởng rằng mỗi ngày ta cần phải có một sự ẩn dật tạm thời, dành ít nhiều th́ giờ cho một sự trầm tư vắng lặng.

Chính bằng cách đó mà người ta hồi phục lại sự b́nh an của cơi ḷng, và nguồn cảm hứng tốt lành sẽ trở về với một tâm hồn chán nản. Đời sống của chúng ta hiện nay giống như một cái nồi súp de sôi sục và rú lên từng chập, con người chỉ biết lăn xả vào đó. Mỗi ngày, người ta càng mất đi sự gần gũi thân mật với chính ḿnh, và lại càng gần gũi thân mật nhiều hơn với cái nồi súp de!

Sự suy tu trầm lặng hàng ngày đem đến những kết quả dối dào của sự sinh hoạt tâm linh. Do đó người ta có được sự cương nghị trong những giờ phút quyết định, sự can đảm dám sống một cuộc đời độc lập không tùy thuộc vào dư luận của một số đông người, và sự ổn định tinh thần giữa tất cả những cơn loạn động ồn ào của cuộc đời thế tục.

Đời sống hiện đại có cái tác động tệ hại nhất là nó làm nhục đi cái khả năng suy tưởng thâm trầm. Trong sự náo động ồ ạt của một thành phố lớn, có ai đă dừng chân để nhớ lại rằng đời sống nội tâm của ḿnh đang đi đến chỗ tê liệt? Họ chỉ biết rằng họ đang vội vàng gấp rút, thế thôi.

Nhưng luật tự nhiên không hề gấp rút vội vàng. Nó đă phải cần đến bao nhiêu triệu năm để cấu tạo nên cái nhân vật vừa yếu đuối vừa loạn động như con người thời nay. Và rất có thể rằng nó sẽ đợi chờ đến một thời kỳ mà con người biết sống một cuộc đời b́nh dị hơn, yên tịnh và trầm lặng hơn, để cho y thoát ra khỏi t́nh trạng đọa lạc và đau khổ mà y tự chuốc lấy cho ḿnh.

Chừng đó, con người mới có thể nh́n vào cái nguồn cội thâm sâu của mọi tư tưởng thiêng liêng, nó đă bị vùi lấp đi trong sự náo động cuồng loạn mà y và những kẻ đồng loại đă từng lao đầu vào trong cuộc sống hàng ngày.

Những cuộc thăm viếng của tôi vào giờ ban đêm tại Karnak là những chuyến đi thích thú nhất, nhất là vào đêm trăng rằm. Màn đêm Ai Cập bao phủ những ngôi đền cổ với một ánh trăng huyền ảo, nó hé lộ cho ta thấy những khí cạnh thú vị, và che khuất phần c̣n lại trong một bóng tối thích hợp với những ngôi đền miếu thâm nghiêm này.

Trong những chuyến hành hương về đêm, tôi đă dùng nhiều phương tiện di chuyển khác nhau, mà tất cả đều làm cho tôi thích thú. Tôi đă đi thuyền bườm ngược gịng sông Nil xuôi theo cơn gió thổi mạnh, hoặc cởi lạc đà, hoặc dùng xe ngựa đi theo con đường ṃn cũ kỹ, với ít nhiều tiện nghi.

Nhưng trong đêm trăng rằm như đêm nay, tôi thấy không ǵ thích thú hơn là đi bộ, và tôi đă vượt qua quăng đường hai hay ba dặm bằng chân như các vị tăng lữ thời xưa, dầu trong những ngày lễ long trọng rực rỡ của sứ cổ Ai Cập. Một ánh trăng bạc rọi xuống lớp vụi trắng dày đặc bao phủ con đường ṃn mà tôi đi qua.

Thỉnh thoảng, những con dơi lớn vỗ cánh trên không và kêu to rồi bay mất dạng. Ngoài ra không c̣n tiếng động nào nữa, một cái im lặng thâm trầm xâm nhập chiếm lấy cả vùng chung quanh cho đến khi tôi bước chân đến làng Karnak.

Trên con đường làng, thỉnh thoảng tôi gặp một vài người đi lưa thưa, tay xách một ngọn đèn lồøng nhỏ ánh sáng lập ḷe, những ánh đèn dầu khi mờ khi tỏ chiếu ra ngoài những cửa sổ hai bên đường. Thỉnh thoảng tiếng chân người làm cho vài con chó cất tiếng sủa vang.

Đế đầu đường, tôi thấy nhô lên trước mặt tôi cái cổng đền màu bạc của vua Ptolémeé, giống như một tháp canh khổng lồ ǵn giữ mặt ngoài của ngôi đền lớn mà nóc nhọn vươn lên trên nền trời xanh thẩm.

V́ là ban đêm, nên cổng đền đă bị ngăn lại bằng một bức rào. Tôi đánh thức người gác cổng đang ngủ trong một cái cḥi tranh gần bên, ngọn đèn bấm sáng trưng của tôi làm cho y nheo cặp mắt đỏ ngầu đang ngái ngủ. Sau khi đă mở cổng cho tôi bước vào, tôi đưa cho y một món tiền thù lao để đền bù việc làm y thức giấc nửa đêm, và y đă cho tôi đi lại tự do.

Tôi bước qua sân đền và ngồi trong vài phút giữa đống tảng đá ngỗn ngang của một cái cổng thứ nh́ đă sụp đổ, cổng này ngày xưa đứng ở chỗ cuối sân trước khi đưa vào pḥng đại sảnh đường. Tôi suy tư một lúc về sự cao cả huy hoàng xưa kia của đền thờ Amen Ra ngày nay đă suy tàn.

Một lúc sau tôi đă đứng giữa cột trụ hùng vĩ và những cảng tượng loang lỗ điêu tàn của ṭa đại sảnh đường. Ánh trăng khuya soi xuống các cột trụ, tỏa xuống nền đất những bóng đen dầy, làm cho những hàng chữ ám tự khắc trên cột ẩn hiện chập chờn khi mờ khi tỏ.

Tôi tắt ngọn đèn bấm để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng, nó làm cho toàn thể ngôi đền đượm nét ảo huyền như cảnh mộng. Trước mặt tôi là cây trụ thạch (obe'lisque) của nữ hoàng Hatchepsou, vương ḿnh lên cao giống như một cây kim khổng lồ bằng bạc.

Tôi vừa từ từ bước trong bóng tối mờ đến những nơi thánh điện ở phía sau những dăy cột trụ khổng lồ của đại sảnh đường, th́ tôi có cảm giác mơ màng dường như có sự hiện diện nào ở bên tôi? Tuy nhiên, ít nhất là mười lăm thế kỷ đă trôi qua mà những người sùng tính không c̣n đặt chân đến những nơi đền miếu hoang tàn này nữa.

Những tượng thần bằng đá bị sứt mẻ cũng đă chịu đựng trong sự im lặng cô đơn đó đă từng bấy nhiêu lâu, tôi cũng biết rằng xứ Ai Cập ngày nay không có một người nào c̣n sự tin tưởng và truyền bá nền tôn giáo cổ. Vậy tại sao tôi cảm thấy có sự hiện diện của người sống chung quanh tôi, trong ngôi đền đă chịu sức tàn phá của thời gian và đắm ch́m trong sự im lặng của nhà mồ?

Tôi rọi đèn khắp nơi, soi khắp các cột trụ cùng vách tường, những đống gạch đá sụp đổ ngổn ngang mà những thền đá sứt mẻ, cũng không thấy có dấu vết của một bóng người.

Tôi lại rảo bước tiến tới, một ḿnh cô quạnh trong đêm khuya, tôi vẫn không sao thoát khỏi cái cảm giác ám ảnh đó. Ban đêm luôn luôn đem đến những sự sợ hăi rùng rợn của nó, luôn luôn làm tăng thêm sự sợ sệt của ta dẫu cho lúc đầu đó chỉ là những sự e ngại nhỏ nhặt.

Tôi đă từng chấp nhận và mến yêu những đêm ấm áp và yên tĩnh của xứ Ai Cập, mà cái thú vị thần tiên đă thâm nhập vào người tôi. Nhưng đêm nay th́ lại khác hẳn: Những ngôi đền sụp đổ tàn tạ này dưới ánh trăng huyền ảo có những nét hầu như rùng rợn. Tôi ư thức được một cảm giác bức rức khó chịu dưới ảnh hưởng của giờ đêm khuya khoắt và của nơi chốn này. Tại sao?

Tôi đi lần theo con đường lót đá cũ đưa đến những ngôi kiến trúc điêu tàn ở về hướng bắc, và đến cái miếu nhỏ thờ thần Ptah. Tôi đi qua cái sân hẹp có nhiều cột và một cửa khác, tôi đă bước vào thánh điện.

Một ánh trăng rọi vào một trong những bức tượng kỳ lạ nhất của Karnak, đó là pho tượng nữ thần Sekhmet, với thân thể một nữ nhân, đầu sư tử. Truyện thần thoại Ai Cập gán cho nữ thần này cái vai tṛ trừng phạt và tiêu diệt nhân loại.

Tôi ngồi xuống một bậc thềm đá, và nh́n xem ánh trăng soi xuống những bức tường đổ nát. Từ xa xa, vọng lại một tiếng kêu rùng rợn của một con chó rừng săn mồi. Tại đây trong trạng thái thụ cảm, tôi lại cảm thấy trong ḷng tôi có cái ấn tượng về một sự hiện diện vô h́nh, pha lẫn sư sợ sệt hoang mang.

Phải chăng những vong hồn của các vị tăng lữ thời xưa, của những đám đông tín đồ tôn sùng hăy c̣n lởn vởn ở chung quanh những nơi đền miếu cổ xưa này? Hay họ vẫn c̣n khấn vái cầu nguyện thần Ptah, tay cầm một linh trượng tượng trưng cho quyền lực và sự ổn định?

Phải chăng vong hồn các vị tăng lữ và vua chúa thời xưa nay vẫn c̣n phảng phất trong những ṭa đền đài cổ của họ, những h́nh bóng sống động, tuy không c̣n thể chất?

Tôi t́nh cờ nhớ lại câu chuyện la lùng mà tôi được nghe thuật lại do một người bạn, mộ viên chức người Anh tùng sự với chánh phủ Ai Cập tại Cairo. Người bạn tôi đă gặp một thanh niên gịng quư tộc ở Anh Quốc đến Ai Cập trong vài tuần để đi du ngoạn và xem thắng cảnh.

Đó là một thanh niên vô tư lự, chỉ biết ưa thích sự xa hoa vật chất. Từ Louqsor, y đến Karnak vào một buổi trưa và chụp một bức ảnh ṭa sảnh đường của đền thờ Amen Ra. Khi tấm h́nh được rửa xong, y lấy làm ngạc nhiên mà nh́n thấy trong đó có h́nh một vị đại tư tế Ai Cập, đứng dựa lưng vào một cột trụ đá, hai tay khoanh trên ngực.

Y cảm thấy rúng động trong tâm hồn đến nổi tâm tính y hoàn toàn thay đổi. Kể từ đó, người thanh niên này chăm ch́ khảo cứu học hỏi về các hiện tượng thần bí và các vấn đề tâm linh.

Tôi vẫn ngồi yên trên thềm đá, không c̣n muốn đứng dậy. Lúc ấy tôi đă đắm ch́m trong một cơn suy tư triền miên không dứt, giữa những h́nh tượng câm lặng của các vị thần.

Nửa giờ trôi qua như thế, kế đó tôi bước vào trạng thái mơ màng. Một tấm màn dường như rơi xuống che phủ tầm nhăn quang của tôi, tất cả sự chú ư của tôi đều tập trung vào một điểm ở khoảng giữa hai chân mày, sau đó một luồng ánh sáng kỳ diệu phi thường, không hề thấy ở trần gian, bao phủ lấy tôi.

Trong ánh sáng đó, tôi thấy một người đàn ông màu da sậm, vai rộng và cao, đứng gần một bên tôi. Khi tôi ngẩng mặt lên để nh́n người ấy th́ y cũng day mặt lại và ngó ngay tôi. Tôi run rẩy dưới cơn xúc động, khi tôi nhận ra y. V́ người ấy không phải ai xa lạ, mà..chính là tôi!

Người ấy có một khuôn mặt giống như của tôi bây giờ, nhưng y mặc y phục của xứ Ai Cập thời cổ. Đó không phải là bậc vương giả hay một người dân b́nh thường, mà là một tăng lữ với một cấp bậc nào đó, mà tôi nhận ra ngay do cái măo và chiếc áo của y.

Luồng ánh sáng lan rộng một cách mau chóng chung quanh y và lan ra tận phía sau, cho đến khi nó bao trùm một cảnh tượng diễn ra bên một bàn thờ: Nhân vật trong linh ảnh của tôi bắt đầu cử động và từ từ tiến đến chỗ bàn thờ. Khi y đến nơi bèn chấp tay cầu nguyện th́ thầm ...

Khi y bước đi, tôi cũng bước đi với y; khi y cầu nguyện, tôi cũng cầu nguyện với y, không phải như một người ngoài cuộc đi kèm theo một bên y, mà cũng như chính tôi là người ấy. Một linh ảnh mâu thuẫn: Trong đó tôi vừa là khán giả lại vừa là diễn viên.

Tôi nhận thấy người ấy đang đau xót đến tận đáy ḷng, v́ t́nh trạng xứ sở của y, y động mối thương tâm ví nh́n thấy xứ cổ Ai Cập đang lâm vào cảnh suy tàn.

Trên hết mọi sự, y đang đau khổ mà nh́n thấy nền tôn giáo thiêng liêng của y đang lọt vào bàn tay nhơ bẩn của những kẻ bất lương tàn bạo. Trong cuộc cầu nguyện, y luôn luôn khẩn cầu các vị Thánh Thần hăy ra tay cứu vớt nền chân lư cho dân tộc của y.

Nhưng sau cùng, Cơn buồn thảm của y vẫn không vơi, v́ y không nhận được một lời ứng đáp nào và hiểu rằng sự suy tàn của Ai Cập là một điều không thể cứu văn. Y bèn lui ra trong cơn thất vọng, và nét mặt ưu tư, ḷng buồn rười rượi.

Ánh sáng ấy trở lại, vị tăng lữ đă biến mất cùng với cái bàn thờ. Tôi vẫn ngồi trơ một ḿnh, trần lặng suy tư gần bên đền thờ Ptah, một lần nữa. Lúc ấy tôi cũng đang nét mặt ưu tư và ḷng buồn rười rượi ...

Phải chăng đó chỉ là một giấc mơ, do các khung cảnh đặc biệt chung quanh tôi lúc ấy gây nên? Phải chăng đó là sự cuồng loạn của một khối óc suy tư? Phải chăng đó là sự thoát thai của một ư nghĩ t́m tàng gây nên bởi ḷng tha thiết cuả tôi đối với dĩ văng?

Phải chăng đó là do nhăn quang thần bí khiến cho tôi nh́n thấy vong hồn của một vị tăng lữ thât sự đă xuất hiện ở ngay chổ? Hay phải chăng đó là cái kư ức xa xôi về một tiền kiếp cuả tôi khi xưa ở Ai Cập?

Đối với tôi, th́ v́ tôi nhận biết biết rơ sự cảm xúc của tôi đă căng thẳng đến mức độ nào trong khi và sau khi tôi có cái linh ảnh đó, nên tôi chỉ có thể có một câu trả lời. Người khôn ngoan không bao giờ kết luận vội vàng, v́ sự thật là một cái ǵ quá mỏng manh mà ta khó nắm chắc.

Cổ nhân đă từng nói rằng sự thật nằm ở tận đáy của một cái giếng vô cùng sâu thẩm. Dẫu rằng thế nào, tôi nh́n nhận rằng tôi phải trả lời là đúng cho câu hỏi cuối cùng.

Nhà bác học Einstein đă bỏ cái quan niệm bảo thủ vẫn có từ trước về vấn đề thời gian. Ông đă chứng minh bằng toán pháp rằng người nào có thể quan niệm sự vật theo hệ thống bốn chiều đo sẽ nh́n dĩ văng và hiện tại với một tầm hiểu biết khác hẳn với quan niệm thông thường của người đời.

Điều đó có thể giúp cho ta hiểu rằng thiên nhiên vẫn giữ một kư ức toàn vẹn về dĩ văng, nghĩa là tất cả sự diễn biến trong vũ trụ trong hàng bao nhiêu thế kỷ đă qua đều vẫn c̣n tồn tại trong kư ức thiên nhiên. Do đó tôi mới hiểu bằng cách nào, trong những cơn thiền định thâm sâu, người ta có thể giao cảm một cách bí mật và tự nhiên với cái kư ức đó.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 126 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 7:04am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



AI CẬP HUYỀN BÍ


TÔI GẶP MỘT VỊ CHÂN SƯ


CHƯƠNG MƯỜI


Cách vài dặm phía tây bờ sông Nil ở Louqsor, một dăy đồi màu nâu sậm tách khỏi nền trời, ngăn cách vùng thung lũng ph́ nhiêu với vùng sa mạc Lybie. Dăy đồi này che khuất một truông núi khô khan dưới ánh nắng như thiêu đốt của mặt trời, không một ngọn cỏ mọc, toàn là đá tảng và cát nóng, không một sinh vật nào sống tại đó chỉ trừ loài rắn rết và bồ cạp.

Đó là vùng nghĩa địa chôn xác chết của thành Thèbes thuở xưa, ngày nay đă biệt tích. Nhiều xác ướp hăy c̣n nguyên vẹn đă được bốc ra khỏi những hầm hố tối tăm trưng bày trước mắt công chúng tại những viện bảo tàng lớn ở Âu Mỹ.

Tôi đang sưu tầm khảo cứu về nhiều vấn đề trong những ngôi lăng tẩm và những ngôi đền lộ thiên ở cách thung lũng này chừng vài dặm, và trong những dấu vết c̣n sót lại của thành Thèbes cổ xưa vừa mới được đào xới lên khỏi mặt đất ở ven miền sa mạc phía Tây.

Để thực hiện chuyến đi thám hiểm đó từ Louqsor, không có phương tiện di chuyển nào tốt hơn là một con lừa, v́ giống lừa có một bước đi vững chắc, biết t́m đường vạch lối đi xuyên qua những tảng đá lởm chởm, tránh những đá sỏi bén nhọn và những bờ vực thẳm.

Đó là những cuộc du hành lư thú, do đó tôi có dịp thỏa măn sự khao khát hiểu biết, t́m ṭi những tài liệu cổ về những pháp môn bí truyền và những hoài bảo tâm linh của thành Thébes cổ xưa nay đă bị chôn vùi dưới mặt đất.

Tôi cũng đă ghi nhận những dấu vết huyền linh c̣n xót lại trong bầu không khí của vài ngôi mộ cổ, hăy c̣n chưa xóa mờ cái ảnh hưởng của sự suy tàn và kiệt quệ tâm linh đă làm cho gịng dơi của một dân tộc kiêu hùng và cao cả của thời xưa rơi vào bàn tay ô uế của những kẻ thực hành khoa Bàng môn tả đạo.

Trong chuyến du hành thám hiểm đó, tôi đă gặp một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đă do dự không muốn tường thuật lại câu chuyện giữa chúng tôi, bởi v́ tôi không thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đă tuyên bố.

Và bởi v́ những điều ấy có thể làm cho cài thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy làm một đề tài diễu cợt, và tất nhiên là có cả tôi v́ tôi đă cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quư độc giả.

Tuy nhiên, tôi đă cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần phải thuật lại. Hơn nữa, đó là ư muốn của bậc dị nhân ấy, ngài muốn tôi công bố điều mà h́nh như ngài cho là quan trọng cho thế hệ hiện đại.

Tôi đă sưu tầm trong những ngôi mộ cổ trên thung lũng từ sáng sớm đến quá trưa. Để trở về nhà mau hơn, tôi noi theo con đường tắt vượt qua các ngọn đồi và tránh con đường ṿng quanh xa lắc dưới đồi. Lên đến đỉnh đồi, tôi bước xuống đất để cho con lừa nghỉ mệt một lúc v́ nó đă thở hổn hển.

Thừa dịp đó, tôi ngắm cảnh hùng vĩ ngoạn mục ở xa xa, dài ra đến tận chân trời. Đỉnh ngọn đồi này cao hơn cả các ngọn đồi khác, và ngự tri khắp vùng đồng bằng ở chung quanh. Màu cát vàng của sa mạc tương phản rơ rệt với nền xanh tươi của đồng ruộng đă được tưới nước.

Một sự yên tĩnh lạ thường bao trùm khắp cả, và thấm nhuần vào người tôi với một cảm hứng tâm linh dồi dào. Người ta có thể cảm thông với thiên nhiên một cách tuyệt diệu không đâu hơn chỗ này. Bốn bề hoàn toàn im lặng, tôi cảm thấy rằng h́nh như tôi đă cắt đứt mọi sợi dây liên lạc với thế giới bên ngoài.

Tôi vừa quay lại, và đi vài bước th́ chính lúc đó, tôi nh́n thấy người lạ mặt. Người ngồi xếp bằng hai chân tréo, trên một tảng đá mà người đả cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót. Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc huyền có điểm bạc.

Người ngồi yên bất động, và dường như đắm ch́m trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên diễn ra dưới tận chân đồi. Tác người hơi nhỏ, với đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một cḥm râu ngắn.

Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi không kịp nh́n thấy mắt người trước khi người day mặt về phía tôi. Khi tầm nhăn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả rằng tôi đang đứng trước một người phi thường. Sự gặp gỡ này chắc chắn sẽ in sâu măi vào kư ức tôi.

Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đă làm cho tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, h́nh bầu dục cân đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tṛng trắng tinh anh tương phản rơ rệt với tṛng đen như huyền làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục.

Chúng tôi im lặng nh́n nhau suốt hai phút đồng hồ. Cái phong độ oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không nên mở lời trước. Tiếc thay, tôi không thể nhớ những ǵ người đă nói trước tiên, v́ trí óc của tôi h́nh như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng.

Một bộ phận nào bí mật th́nh ĺnh hoạt động trong người tôi, khiến cho tôi nh́n thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước mắt một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác h́nh như tách rời khỏi nơi tôi và tôi đă rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt, phi phàm.

Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, th́ người lạ mặt đang nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần, th́ mới hiểu rằng lúc ấy tôi vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh tôi.

Tôi bèn cất tiếng chào dị nhân bằng một tiếng thổ ngữ Ả Rập. Người đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt lại, có lẽ tôi đă tưởng đó là của một người Anh tốt nghiệp đại học Oxford hay Cambridge, chớ không phải là một người phương Dông mặc áo rộng. Trước khi tôi định nói câu ǵ để vào đề, th́ như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi cất tiếng nói:

- Thưa ngài, tôi chắc ngài đă biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm khác thường khi tôi vùa đứng đây, ở bên cạnh ngài.

Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nảy. Dị nhân nh́n tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu rồi nói một cách thản nhiên:

- Phải tôi hiểu.

Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, tôi nói tiếp, v́ điều ấy đến với tôi trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những huyền năng lạ lùng.

Đôi mắt của dị nhân lại nh́n tôi một cách chăm chú. Sau một lúc ngài nói:

- Chính tôi đă có ư gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời. Thật đúng như vậy.

- Ngài muốn nói chi?

- Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đă.

Thật đúng như tôi nghĩ. Tôi đă nhận thấy nơi dị nhân tất cả những ấn chứng rơ rệt về cái quả vị cao cả của một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, tôi chỉ nh́n vào đôi mắt của người, cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực giác.

Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ư và khâm phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia điện lực mạnh mẽ oai hùng, và khi người nh́n tôi, th́ đôi mắt ấy đứng yên một chỗ rất lâu.

Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có cái quyền năng soi thấu mọi sự đều có mảnh lực thôi miên. Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi. Dôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên thụ động trước mảnh lực của chúng. Tôi nói:

- Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả ở quả vị của ngài.

- Thật vậy sao? Dị nhân đáp. Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên. Thời giờ đă điểm cho cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự t́nh cờ mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một quyền năng cao cả hơn sự ngẫu nhiên t́nh cờ, trước hết đă ra lệnh, và sau đó sắp đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta.

Tôi lắng nghe, mà trong ḷng hồi hộp trông chờ những ǵ sẽ đến. Những tư tưởng xẹt đảo xáo trộn. Tôi đă phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm vững t́nh h́nh. Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với một người có một tŕnh độ tâm linh cao cả như thế.

Dị nhân mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc đẩy của những mănh lực vô h́nh, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều khoen đă kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên vài hậu quả.

Người c̣n nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề cập đến ḿnh, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng người là một vị chân sư. Người nói:

- Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người xưa, kể cả người cổ Ai Cập, nó cũng thích hợp với tôi. Ngày xưa, một chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nh́n nhận. Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài gây nên những sự châm biếm mỉa mai.

Nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nh́n nhận rằng luật tiến hóa tâm linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm.

Tôi cảm thấy dị nhân nói có lư. Đúng vậy, đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông phương vẫn thường nói đến, một trong những vị chân sư đă từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rơ những điều huyền diệu của cơi giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết.

Thay v́ để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động trong ṿng im lặng và bí mật. Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng các đại tử làm trung gian, những vị này đôi khi cũng phải chịu đựng những sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử.

Vị Chân sư này cho biết rằng người ta có thể trao đổi tư tưởng với những vị Chân sư khác tùy theo ư muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong không gian.

Người nói thêm rằng một vị Chân sư có thể tạm thời xử dụng thể xác của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị Chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn sàng hiến dâng thể xác ḿnh một cách thụ động.

Chân sư nói với tôi với một nụ cười nhỏ nhẹ:

- Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi th́ có một thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do tôi nói cho ông viết, v́ đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton.

Tôi thụt lùi v́ ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi? Thật đúng là các Chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài:

- Tôi có thể được biết quư danh của ngài chăng?

Chân sư im lặng một lúc và nh́n phong cảnh ở đằng xa. Tôi nh́n gương mặt cao quư của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói:

- Được, chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không phải để ông viết sách. Tôi không muốn tiết lộ tên thật của tôi. Ông hăy gọi tôi là Ramak Hotep. Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập học hiện đại có thể hiểu rơ ư nghĩa của nó.

Theo tôi nó nghĩa là Bằng An. Xứ Ai Cập không phải là quê hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thể thế giới. Tôi đă từng châu du khắp cả năm châu bốn bể. Tôi chỉ có thể xác của người phương Đông, c̣n về tinh thần th́ tôi không tùy thuộc mộ xứ nào nhất định. Tâm hồn tôi chỉ thuộc về bằng an.

Ngài nói khá mau với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rơ ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của ḿnh. Trong khoảng trên một tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu v́ chân sư và câu chuyện của ngài chiếm cả tâm hồn tôi.

Ngài nói những vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến một ḿnh tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ thị rơ ràng, và dạy tôi những pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân của tôi để đạt tới một tŕnh độ tâm linh và giác ngộ cao hơn tŕnh độ của tôi hiện giờ.

Ngài nói một cách thành thật, vả thậm chí cũng nghiêm khắc chỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đă gây một vài chướng ngại trên bước đường tu luyện của tôi. Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh điện bên bờ sông Nil, trong đền thờ Louqsor.

Kế đó, vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc rằng ngài không thể kéo dài cuộc đàm luận với tôi v́ ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong lúc ấy.

Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt chân sư, v́ cuộc đàm đạo với ngài vô cùng thú vị và hấp dẫn, nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn.

Đường đi xuống chân đồi rất dốc và trơn trợt, tôi phải đi bộ xuyên qua những tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa. Xuống đồng bằng, tôi liền cỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nh́n lên đỉnh đồi hùng vĩ.

Chân sư Ramak Hotep vẫn chưa đứng dậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm ǵ ở đó, tuy "Rất bận rộn," nhưng vẫn ngồi yên như pho tượng? Ngài sẽ c̣n ngồi ở đó chăng, khi màng đêm rơi xuống bao phủ lấy trọn dăy đồi Lybie?






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 127 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 7:12am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



AI CẬP HUYỀN BÍ


THÔNG ĐIỆP CỦA CHÂN SƯ


CHƯƠNG MƯỜI MỘT


Như đă hẹn, cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa chúng tôi diễn ra giữa những cảnh hoang tàn của đền Louqsor. Tôi ngồi trên một tảng đá dài có khắc đầy chữ ám tự bên cạnh chân sư, ngài cũng ngồi xếp bằng hai chân và nh́n tôi.

Quyển sổ tay của tôi đă mở sẳn, tôi cầm bút ngồi đợi, sẵn sàng ghi chép thông điệp của chân sư bằng tốc kư. Chân sư Ramak Hotep không phí thời giờ với những lời khách sáo rườm rà, ngài vào đề một cách đột ngột:

- "Những người khai quật các mồ mả của xứ cổ Ai Cập để giải tỏa những sức mạnh nguy hiểm cho thế gian. Những nhà khảo cổ cũng như những kẻ đào mồ để cướp của, đă vô t́nh khai quật mồ mả của những kẻ ngày xưa thực hành khoa tả đạo bàng môn.

Trong thời kỳ cuối cùng của lịch sử Ai Cập, những người thuộc thành phần trí thức và tăng lữ đă sa đọa rất nhiều, người ta thực hành công khai những tà thuật ma giáo và pháp môn phù thủy.

Khi ánh sáng chân lư, đầu tiên được phổ biến trong nền tôn giáo chân chính cổ Ai Cập, bắt đầu lu mờ, và những tà thuyết dị đoan, duy vật càng ngày càng lộng hành, người ta thấy xuất hiện việc tẩm xác ướp với tất cả nghi lễ phiền phức kèm theo đó.

Tuy nhiên, đàng sau những tà giáo là bày ra sự thực hành việc tẩm xác người với những mục đích ám muội, đen tối và tà vạy, c̣n có một chi phái chủ trương việc ướp xác để duy tŕ một sự liên lạc lâu bền với cơi hồng trần.

"Lúc khởi thủy th́ khoa ướp xác chỉ áp dụng cho những vị thánh vương cùng hoàng kim thời đại, của thời kỳ tiền sử Ai Cập và cho những vị Đạo Trưởng đă tiến hóa cao về phương diện tâm linh, là những sứ giả chân chính của Thượng Đế, để cho thể xác đă thấm nhuần thần lực thiêng liêng của các ngài vẫn c̣n tồn tại lâu bền và làm cái trung gian ban rải thần lực cho thế gian.

"Từ đó mới nảy sinh ra sự thờ phượng tổ tiên, những thi hài được tẩm chất thơm chỉ là để theo một nghi lễ chánh thức nhằm mục đích để cho con cháu biết mặt những tổ tiên đă qua đời.

Thật ra đó là cách bắt chước sai lạc cách thực hành khoa ướp xác thời cổ Ai Cập để giữ ǵn những di tích thánh thiện của các vị Thánh vương và tăng lữ chân tu.

V́ trong thời gian tàn tạ suy vong trở về sau, khi xứ này mất đi nguồn ánh sáng tâm linh chân chính, và người ta dùng tà thuật để kêu gọi những sức mạnh hắc ám của cơi âm ty, những người trí thức trong giới tăng lữ và giai cấp cầm quyền chỉ định rằng người ta phải ướp xác của họ sau khi chết.

Người ta thực hành việc ướp xác này, hoặc v́ mục đích dùng tà thuật hắc ám, hoặc v́ sợ mất linh hồn trong cơi địa ngục mà họ sẽ bước vào sau khi chết, hoặc chỉ biết làm theo tập tục của phần đông. Trong hầu hết mọi trường hợp, trước khi chết mỗi người đều lo sắp đặt mọi việc và đă chuẩn bị sẵn ngôi mộ của ḿnh từ khi c̣n sống.

Khi đă sắp đặt xong th́ đương sự hoặc một vị tăng lữ rành về khoa pháp môn mới kêu gọi một âm binh hay quỷ thần, có khi là một vị thần tốt lành nhưng thường th́ là thần hung ác, để bảo vệ trông nom cái xác ướp của y và làm thần canh gác giữ mồ.

"Để bảo vệ những xác ướp đó, lúc đầu những ngôi mộ được che dấu mộ cách kỹ lưỡng và sau đó người ta tuyên bố với công chúng rằng người nào động chạm đến các mồ mả sẽ bị các thần linh trừng phạt một cách nặng nề kinh khủng. Dân chúng tin theo lời cảnh cáo đó và những mồ mả được tôn trọng suốt một thời gian rất lâu.

Nhưng v́ các tăng lữ và giới cầm quyền càng ngày càng sa đọa nhiều hơn gấp đôi lần nên dân chúng dần dần không c̣n tin tưởng nữa. Từ đó việc khai quật mồ mả diễn ra một cách công khai để cướp lấy vàng ngọc châu báu được chôn theo những xác ướp của những nhân vật quyền quư thời xưa.

"Trong trường hợp xác ướp là của một người có ít nhiều hiểu biết về khoa pháp môn hoặc đặt dưới sự trông nom của các nhà phù thủy, th́ những vị thần linh được kêu gọi để giữ ǵn mồ mả và trừng phạt những kẻ đào mồ. Những phù phép bí mật đó thường vô cùng nguy hiểm nhưng rất hiệu nghiệm.

Những mảnh lực thần bí của nó vẫn có trong những ngôi mộ khép chặt và có thể tiếp tục tồn tại ở trong suốt nhiều ngàn năm. Bởi vậy những nhà khảo cổ vô t́nh khai quật những mồ mả đó sẽ chuốc lấy những điều tai họa hiểm nghèo.

"Nhưng nếu cơ nguy đó chỉ hăm dọa sự an toàn tính mạng của các nhà khảo cổ và gia đ́nh họ mà thôi, th́ điều mà tôi muốn nói đây không có quan trọng lắm. Trái lại, vấn đề này có liên hệ đến sự an toàn của toàn thể thế giới.

"Đó là v́ trong số những ngôi mộ của các nhân vật quyền quư và tăng lữ mà người ta khai quật lên, có những mồ mả được đặt dưới sự giữ ǵn và bảo vệ nói trên. Từ trong các ngôi mộ đó, hằng hà xa số những âm binh ác quỷ bị giam hăm trong ấy từ lâu, bèn kéo ra tràn đầy khắp nơi ở cơi hạ giới.

Mỗi xác ướp được bốc ra và chở vào những viện bảo tàng bên âu Mỹ có mang theo các vị thần linh cùng với cái ảnh hưởng khốc hại của nó. Điều đó chỉ có thể đem đến cho thế giới những hậu quả tai hại, hậu quả với những tính chất khác nhau, thậm chí có thể gây một ảnh hưởng phá hoại đối với các vận mệnh các quốc gia.

Những người Tây phương v́ không có phương pháp tự vệ chống lại nên đành chịu bất lực trước những kẻ vô h́nh đó.

"Khi thế giới chúng ta hiểu rằng có nhiều thần linh hung ác bị nhốt trong những ngôi mộ cổ, th́ chừng đó có thể là quá trễ. V́ lúc đó tất cả các mồ mả đều đă bị khai quật và những hung thần ác quỷ thoát ra khỏi mồ. Chúng có thể gây nhiều điều tác hại cho thế gian, và ngoài ra chúng ta c̣n gây nên những vụ phản bội trên lĩnh vực quốc tế.

Sự mù quáng của con người đối với những luật thiên nhiên không v́ thế mà không đem lại sự đau khổ cho những kẻ vi phạm. Không biết ǵ về những mảnh lực khốc hại của khoa pháp môn phù thủy, không phải là một lư do để tránh cho thế kỷ này tránh khỏi cái hậu quả trừng phạt dành cho những kẻ đột nhập vào những chốn thâm nghiêm, một hành động ṭ ṃ không cần thiết chút nào cho họ.

"Những hung thần ác quỷ đó, được tạo nên bằng phương pháp phù thủy, đă được giải tỏa trong thế kỷ hiện tại một số khá đông để gây nên sự khủng hoảng cho thế giới. Chúng hành động từ cơi giới vô h́nh, nhưng cũng rất gần với cơi hạ giới để ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống trực tiếp của người trần gian.

Chúng tôi là những người chăm lo săn sóc cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, có thể triệt hạ những mảnh lực hắc ám đó trên địa hạt của chúng, nhưng luật thiên nhiên không cho phép chúng tôi tiêu diệt chúng, cũng như chúng tôi không thể trừ khử những người trong nhân loại mà chúng tôi biết là tối nguy hiểm cho kẻ khác.

Quyền năng của chúng tôi chỉ giới hạn trong việc che chở những người hoặc những cơ quan tốt lành dưới sự bảo vệ đặc biệt của họ.

"Những vật ǵ mà người ta lấy ra từ trong các ngôi mộ cổ cùng với những xác ướp, vàng ngọc, bùa chú, y phục ... đều có thấm nhuần cái ảnh hưởng thần bí của ngôi mộ. Nếu ảnh hưởng đó không phải do người ta đă dùng phù phép trấn ếm quỷ thần th́ việc khai quật mồ mả không có hậu quả ǵ, c̣n nếu ngôi mộ có thần linh giữ ǵn th́ việc đào mồ cướp của sẽ gây nên tai họa hiểm nghèo.

Những nhà khảo cổ và Ai Cập học trái lại, thường không biết rơ điều đó và không biết phân biệt những ngôi mộ nào là có phù phép trấn ếm và ngôi mộ nào là không, nên họ khai quật luôn cả thứ nọ cũng như thứ kia. Dầu người ta có biết hay không, tôi cũng đưa ra cho thế giới cái thông điệp này là "Chớ nên động chạm đến các ngôi mộ cổ mà người ta không hiểu tính chất hiển linh huyền bí của nó.

Người đời phải dừng tay lại không nên khai quật mồ mả, cho đến khi nào họ có được sự hiểu biết đầy đủ để nhận định những hậu quả khốc hại của điều mà họ định làm.

"Phần nhiều các vị vua chúa Ai Cập đều có ít nhiều quyền pháp thần thông, với những ư đồ tốt hoặc xấu, v́ họ được các vị tăng lữ pháp sư truyền dạy cho họ.

"Lúc đầu, người ta chỉ dùng một những phép thuật thần thông để tự vệ hoặc để trừ gian và bênh vực kẻ yếu, nhưng khi xứ Ai Cập đă mất đi những lư tưởng cao thượng của nó, th́ người ta bắt đầu lạm dụng những pháp thuật này.

Chẳng hạn nhà phù thủy dùng tà thuật để ám hại kẻ thù ở cách xa, hoặc chế ngự, khuất phục người khác để thực hiện những tham vọng cá nhân của ḿnh, hoặc để giúp cho thân chủ của y. Người ta đă dùng những pháp thuật thần thông đó để sai khiến âm binh canh gác và giữ mồ.

"Việc khai quật những ngôi mộ cổ ở Ai Cập có thể đặt kẻ vi phạm dưới những ảnh hưởng khốc hại của những mảnh lực huyền bí vô h́nh. Dẫu cho đó là ngôi mộ của một vị hiền minh và có pháp thuật thần thông cao cường, th́ thế gian cũng có thể bị ảnh hưởng lây và chịu sự trừng phạt đau khổ v́ đă làm động mồ mả của một linh hồn tiến hóa.

Tuy nhiên, những đồ bảo vật bị lấy trộm ở ngôi mộ đó sẽ không gây hậu quả tai hại, mà trái lại có một ảnh hưởng tốt lành. Nhưng nếu người sở hữu bảo vật ấy có một tâm địa bất hảo, th́ họ sẽ không thừa hưởng được một ân huệ tốt lành nào cả, mà ân huệ này dành cho những người hiền lành và có tâm địa thanh cao.

Đó là do ảnh hưởng tâm linh trường cửu lâu bền của một vị vua đạo đức có một tâm hồn cao quư hồi thuở sinh tiền. Vua Toutankhamon là một trường hợp tiêu biểu cho những vị vua đó. Người có một sự hiểu biết thâm sâu về khoa huyền môn và một tâm hồn đạo đức.

Sự khai quật ngôi mộ của vị vua này đă gây tai họa cho những người đào mồ và bằng một cách khó hiểu, cho cả thế giới bên ngoài. Trong những năm tới đây, thế giới c̣n phải đau khổ nhiều và phải chịu hậu quả của những sự xúc phạm mồ mả của những bậc tiền nhân thời cổ Ai Cập. Tuy nhiên, những sự khó khăn về vật chất sẽ đưa đến một sự lợi ích về tinh thần.

"Bởi đó, tôi lập lại, những người muốn t́m kho tàng ẩn dấu, hoặc do một sự thúc đẩy của ṭ ṃ quá đáng hơn là một tinh thần khảo cứu khoa học thật sự, mà muốn thám hiểm vào tận những nơi cổ kính phù phép trấn ếm linh thiêng, sẽ không tránh khỏi tai họa hiểm nghèo.

Ở bên Tây Tạng là nơi có những ngôi mộ ẩn dấu của những vị Lạt Ma thời xưa, người ta hiểu tại sao dân chúng không chịu để cho người ngoại chủng đột nhập vào xứ của họ. Nhưng ngày nào mà người ta được phép đến gần đế viếng thăm hay để chiêm ngưỡng những ngôi mộ đó, th́ những kẻ nào làm kinh động đến mồ mả sẽ mắc phải những tai họa khôn lường.

"Hồi thời thượng cổ, trung tâm chánh yếu của khoa pháp môn phù thủy vẫn là Ai Cập. Xứ ấy vượt hẳn cả Ấn Độ về chánh đạo lẫn bàng môn, nghĩa là những pháp môn chân chánh giúp đời hay những tà thuật hại người.

Ngày nay những sức mạnh thần bí đă được phát động trong quá khứ, hăy c̣n ảnh hưởng đến dân tộc và xứ sở Ai Cập, và hậu quả có khi lành khi dữ. Hậu quả đó có thể là những bệnh tật, chẳng hạn như bệnh ung nhọt lở loét, một hậu quả của những mảnh lực phù phép tà vạy luôn luôn hành động trong xứ và ảnh hưởng đến những người dân Ai Cập thời bấy giờ.

"Vậy ông hăy ghi chép và truyền bá những lời cảnh cáo này. Bây giờ ông đă hiểu lư do của sự gặp gỡ của chúng ta. Dẫu cho chúng ta có bị sự chống đối, khinh bị do sự dốt nát vô minh của người đời, ta cũng làm xong bổn phận của ḿnh, bổn phận của tôi, và nếu ông muốn, cả bổn phận của ông.

Định luật thiên nhiên vốn không tha thứ sự vô minh, dốt nát, nhưng trong vấn đề này, thậm chí đến cái lư lẽ đó người ta cũng không được viện ra để tự bào chữa cho ḿnh."

Thông điệp của chân sư Ramak Hotep đă chấm dứt. Tôi đă ghi chép lại đúng nguyên văn và tŕnh bày nơi quyển sách này.

Chân sư c̣n gặp tôi nhiều lần khác, kế đó tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh xa hơn về phía Nam. Trong mỗi lần gặp gỡ như thế, Chân sư đều có cho tôi biết thêm những tài liệu liên quan đến cái cơ quan huyền bí mà ngài có dự phần.

Một ngày nọ, tôi có dịp đề cập đến vài kinh nghiệm của tôi ở Ấn Độ mà tôi có dịp nghe một đạo sĩ trẻ nói rằng thầy y đă có hơn bốn trăm tuổi. Chân sư Ramak Hotep trịnh trọng đưa ra một lời quả quyết lạ lùng và khó tin: Vài vị Chân sư đă từng sống từ thời cổ Ai Cập cho đến nay!

Tôi vẫn không quên những tiếng kêu ngạc nhiên mà tôi đă thốt ra khi tôi nghe ngài nói như vậy. Dị nhân quả quyết rằng thể xác của vị Chân sư nói trên nằm yên trong trạng thái xuất thần ở tận dưới đáy các ngôi mộ chưa được khám phá, và khoa khảo cổ của thế gian không bao giờ phát hiện được. Ngài giải thích cho tôi nghe rằng:

- "Những ngôi mộ của đấng Chân sư cao cả được giữ ǵn vô cùng bí mật đến nỗi những kẻ đào mồ không bao giờ t́m thấy được. Đó không phải là mồ mả của những người chết mà là của người sống.

Những mồ mả đó không chứa đựng những xác ướp, mà chứa đựng thể xác của các vị Chân sư nằm trong một trạng thái đặc biệt mà danh từ xuất thần cũng chỉ diễn tả một cách gần đúng mà thôi. Ông đă nhận thấy rằng bên Ấn Độ các nhà thuật sĩ fakir tự để cho người ta chôn sống trong một thời gian, trong khi đó thể xác của họ nằm trong trạng thái hôn mê, xuất thần.

"Sự hoạt động của bộ máy hô hấp đă hoàn toàn ngưng hẳn trong khi đem chôn sống. Trạng thái của các vị Chân sư Ai Cập cũng giống như vậy một phần nào, nhưng bản lĩnh của các ngài c̣n cao xa hơn nhiều, v́ các ngài vẫn giữ cho thể xác c̣n sống trong khi xuất thần, và kéo dài đến nhiều ngàn năm.

"Hơn nữa, giữa các ngài và những nhà thuật sĩ Ấn Độ có một sự khác biệt rất lớn. Những nhà thuật sĩ đó rơi vào một trạng thái hoàn toàn vô ư thức trong khi bị chôn sống, họ không nhớ ǵ cả cho đến khi thức tỉnh. Trái lại những vị Chân sư Ai Cập vẫn hoàn toàn có ư thức khi ngồi trong ngôi mộ, thể xác của các ngài nằn trong cơn mê thiếp nhưng tinh thần th́ vẫn tự do hoạt động.

Ở Ấn Độ, ông đă đến viếng "Người tu sĩ suốt đời không nói" ở gần Madras. Lần đầu tiên, ông thấy y trong cơn đại định xuất thần, thân ḿnh không cử động, xem dường như một xác chết. Nhưng trong khi đó tinh thần y vẫn tỉnh táo v́ khi ông đến lần thứ hai, không những y biết rơ những ǵ xảy ra trong lần viếng thăm đầu tiên, mà c̣n phản đối việc ông đă định chụp ảnh y.

Trong cơn xuất thần, người tu sĩ ấy vẫn hoạt động trên lĩnh vực tâm linh và ngay trên cả địa hạt hồng trần bằng cách sử dụng một thể tinh anh như chất dĩ thái. Các vị Chân sư Ai Cập được đem chôn sống cũng ở trong một t́nh trạng tương tự, thể xác của các ngài nằm trong một trạng thái đại định c̣n thâm sân hơn nhiều.

Trong khi đó, tinh thần các ngài vẫn tự do di chuyển, ngao du các cơi, và tư tưởng, cảm nghĩ một cách hoàn toàn ư thức. Các ngài có cái đặc quyền đi lại và hoạt dộng trong cả hai cơi giới, cơi giới vật chất và cơi giới tâm linh.

"Thể xác của ngài được ẩn dấu trong các ngôi mộ bất khả xâm phạm, trongkhi chờ đợi linh hồn các ngài trở về. Thật vậy một ngày kia, linh hồn các ngài sẽ trở về nhập vào thể xác nằm yên bất động, và sẽ xuất hiện trở lại ở cơi thế gian.

Phương pháp làm cho các ngài hồi sinh trở lại phải được thực hiện bởi những người có đầy đủ bản lĩnh và thấu triệt những pháp môn cần thiết. Một trong những phương pháp đó là đọc những câu chân ngôn bí mật. Có điều lạ là thể xác các ngài chỉ ướp ở bề ngoài cho có lệ mà thôi, sau khi đă được bọc vải trắng và đặt trong ḥm đựng xác ướp.

Tuy nhiên, những thể xác đó khác hẳn với những xác ướp khác ở chỗ c̣n nguyên vẹn và quả tim chưa lấy ra. Tất cả những bộ phận trong ngũ tạng c̣n y nguyên, chỉ từ cái bao tử đă xẹp xuống, v́ các ngài không c̣n ăn uống ǵ kể từ lúc xuất thần đại định. Một điểm khác nữa là các vị Chân sư đều có bao phủ gương mặt và toàn thân với một lớp sáp khi cơn đại định bắt đầu.

"Những ngôi mộ của các ngài được giữ kín, che dấu cẩn mật và chỉ có rất ít. Đó là v́ những đấng chân sư ở cấp đẳng rất cao mới có thể bước vào trạng thái đó và không phải vị chân sư nào cũng chịu làm như vậy. Trạng thái xuất thần đại định của các ngài khác hẳn với trạng thái của những người đồng tử (medium) và những người chịu phép thôi miên.

Thật ra có những tŕnh độ đại định thâm sâu đến nổi những nhà khảo cứu hiện đại không thể thăm ḍ đến chỗ rốt ráo cùng tận. Những kết quả mà họ thâu thập được hăy c̣n rất nông cạn, so với trạng thái xuất thần đại định thâm sâu độc đáo của những vị Chân sư Ai Cập trong khi chôn sống. Những vị Chân sư này trong khi yên nghĩ dưới mồ, thật ra vẫn luôn luôn hoạt động ráo riết không ngừng.

"Một vị Chân Sư đă bị chôn sống từ năm 260 trước Thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác được hạ nguyệt từ trên 3,000 năm trước thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác nữa từ trên 10,000 năm nay! Tất cả những vị này đều vẫn hoạt động rất tích cực và trong ṿng bí mật cho sự hạnh phúc và tiến hóa tâm linh của nhân loại.

Các ngài vẫn biết rơ những việc ǵ xảy ra trên thế giới, tuy rằng thể xác các ngài vẫn nằm yên dưới mồ. Đó là những người Toàn Thiện. Thể xác của các ngài đă trở nên bất khả xâm phạm, không một loài côn trùng sâu bọ nào có thể động đến, do bởi những nguồn thần lực mạnh kinh khủng toát ra từ toàn thân của các ngài.

Ngoài ra các ngài c̣n luôn luôn tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vi Chân sư khác đang sống hiện nay, chính những vị này cũng có một phần thể xác sinh hoạt như người thường.

Những kho tàng tâm linh quư báu do các vị Chân sư Ai Cập ǵn giữ từ thời cổ xưa sẽ được lưu truyền lại cho hậu thế, khi nào có một vị Chân sư của thời buổi hiện đại biết phép hành lễ để kêu gọi những vị tiền bối thức tĩnh và hồi sinh trở lại, khi ngày giờ đă điểm.

                                                 

Paul Brunton

Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt



















Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 128 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 7:33am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde

Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 129 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:22pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG



BÊN KIA CỬA TỬ


(Charles Leadbearter)



Lời dịch giả: Một trong những bộ sách đặc biệt của Tây Tạng là bộ Tử Thư (Tibetian Book of the Death) viết về đời sống sau khi chết. Cuốn sách đă được nhiều người nghiên cứu và phiên dịch nhưng v́ nó quá hàm súc, khó hiểu nên một số học giả đă rút tỉa vài đoạn trong đó, khai triển rộng ra để an ủi những người đang đau khổ v́ cảnh tử biệt.

Phần dưới đây trích trong cuốn "To Those Who Mourn" của Giám mục Charles Leadbeater, một nhà thần học nổi tiếng của thế kỷ 20.

Bạn thân mến,

Tử thần vừa cướp mất của bạn một người mà bạn yêu quư nhất đời. Đối với bạn, hiện nay đời sống bỗng trở nên trống rỗng vô vị, và có lẽ không c̣n lư do ǵ để sống nữa. Cuộc đời từ nay chỉ c̣n là những chuỗi ngày dài đăng đẳng, đầy tẻ nhạt chán chường.

Hạnh phúc đă mất sẽ không bao giờ trở lại; những cử chỉ âu yếm, những câu nói yêu thương dường như đă ch́m lặn trong màn sương ngăn cách hai thế giới. Có lẽ bạn đang nghĩ về bạn, bạn đang mất mát không thể văn hồi vừa sẩy ra, nhưng có thể bạn c̣n đang nghĩ không biết người bạn thương yêu nay đang lâm vào t́nh trạng nào ?

Tuy bạn biết người đó đă đi xa rồi, đi mất rồi nhưng bạn không biết là đi đâu, số phận người đó như thế nào ? Bạn cầu mong người đó sẽ gặp được những sự b́nh an, tốt đẹp nhưng rồi bạn lại thấy vẫn có một cái ǵ không ổn v́ không ai có thể giải thích cho bạn một cách thỏa đáng về ư nghĩa của đời sống cũng như cái chết.

Giáp mặt trước sự kiện này bạn đâm ra bàng hoàng hoảng hốt, và đời sống đối với bạn bỗng trở nên một gánh nặng không thể gánh vác một ḿnh được nữa.

Này bạn, tâm trạng của bạn là một tâm trạng tự nhiên và thành thật. Tôi ước mong có thể chia sẻ với bạn về sự mất mát lớn lao này bằng sự giúp đỡ chân thành của tôi. Dĩ nhiên bạn nghĩ rằng: Làm sao tôi có thể an ủi bạn được! Làm sao một người như tôi có thể hiểu được nỗi đau khổ vô vàn của bạn kia chứ!

Nhưng bạn hỡi, sự buồn rầu đau khổ của bạn đă xây dựng trên một hiểu lầm. Thưa vâng, một hiểu lầm tai hại và tôi mong khi hiểu rơ được điều này th́ có lẽ bạn sẽ bớt đau khổ hơn. Tôi muốn tŕnh bày cho bạn một quan điểm khác với quan niệm thông thường như sau.

Này bạn, sự đau khổ của bạn chỉ là một ảo giác rất lớn do sự thiếu hiểu biết về những định luật thiên nhiên, hay nói một cách khác, là đời sống bên kia cửa tử. Nếu bạn có một sự hiểu biết đúng đắn về sự kiện này th́ có lẽ bạn sẽ không c̣n đau khổ nữa. Người Phương Đông, nhất là người Tây Tạng, đă nghiên cứu về nó qua nhiều thế kỷ và ngày nay khoa học cũng đă bắt đầu chứng minh được rằng "có một đời sống sau khi chết".

Cửa tử không c̣n là một sự bí mật nữa v́ cái thế giới bên kia, cái thế giới đầy bí mật đó đă không c̣n bí mật nữa. Cái thế giới đó thực sự hiện hữu, là một thế giới tương tự như thế giới hiện nay của chúng ta và dĩ nhiên cũng chịu sự chi phối của những định luật trong vũ trụ, tương tự như những định luật mà chúng ta đă biết.

Tôi sẽ giải thích rơ rệt một vài nguyên tắc căn bản mà dĩ nhiên bạn có thể khảo sát thêm, nếu bạn muốn. Trước hết, tôi mong bạn hăy ngưng than khóc v́ sự đau thương của bạn chỉ làm thương hại cho người bạn thương mếm chứ không giúp được ǵ cho người đó đâu! Một khi bạn hiểu rơ điều mà tôi sắp tŕnh bày th́ có lẽ bạn cũng sẽ đồng ư như vậy.

Có thể bạn cho rằng điều tôi sắp tŕnh bày chỉ là những lời an ủi hay những dự đoán mơ hồ mà thôi. Nhưng tôi muốn hỏi bạn, sự đau khổ và suy nghĩ của bạn hiện nay đă được xây dựng trên nền tảng nào ?

Phải chăng bạn tin tưởng như vậy v́ một vài người trong giáo hội chúng ta đă dạy như thế, hoặc căn cứ trên một vài quyển sách, hoặc là sự tin tưởng của đa số người trong thời đại này rằng chết là hết, là thiên thu cách biệt, là vĩnh viễn chia tay ?

Nếu bạn suy nghĩ thật kỹ mà không bị các thành kiến chi phối, th́ bạn sẽ thấy rằng quan niệm đó cũng chỉ là một dự đoán mơ hồ mà thôi.

Nếu đọc kỹ Thánh Kinh, bạn sẽ thấy một sự thật rằng, theo thời gian, đă có nhiều cách giải thích Kinh Thánh khác nhau. Cái quan niệm rằng chết là hết, là chấm dứt vĩnh viễn đă căn cứ trên sự hiểu biết nào ? Được xây dựng từ thời đại nào ?

Quan niệm Thiên Đàng và Địa Ngục có từ lúc nào ? Phải chăng đó cũng chỉ là những quan niệm như trăm ngàn quan niệm khác? Phải chăng v́ được nhiều người tin tưởng nên người ta đành chấp nhận mà không đ̣i hỏi một sự giải thích nào ?

Nhưng sống và chết là một vấn đề trọng đại, liên quan mật thiết đến đời sống hiện nay. V́ lẽ đó, chúng ta không thể chấp nhận nó một cách dễ dăi được. Đây là một vấn đề lớn, đời hỏi một sự nhiên cứu hết sức đích đáng và phân tích thật cẩn thận.

Tôi không đ̣i hỏi bạn phải tin tưởng một cách mù quáng đâu. Tôi chỉ muốn tŕnh bày những ǵ mà chính tôi biết là có thật, dựa theo kinh nghiệm của tôi và của những bậc thầy Phương Đông mà tôi đă có cơ hội gặp gỡ và học hỏi. Tôi mời bạn cùng quan sát nó.


XÁC THÂN CHỈ LÀ BỘ Y PHỤC


Trước hết chúng ta hăy t́m hiểu về sự cấu tạo con người. Khoa học đă cho chúng ta biết khá rơ về thể chất con người cũng như các hoạt động sinh lư, tâm lư nhưng vẫn c̣n một yếu tố khác mà khoa học chưa thể chứng minh, đó là cái mà người ta gọi là linh hồn.

Đây là một danh từ không chính xác lắm nhưng tôi không muốn đi vào những định nghĩa. Đă từ lâu, các tôn giáo lớn đều đă đề cập một cách mơ hồ rằng con người có một cái ǵ trường tồn gọi là linh hồn và cái này vẫn hiện hữu sau khi thể xác chết đi .

Tôi thấy không cần thiết phải dẫn chứng bằng kinh sách hay lư thuyết về sự hiện hữu của linh hồn, cũng như không cần phải dài ḍng về các hiện tượng như đầu thai, thần đồng, người chết sống lại kể về thế giới bên kia, v́ đă có nhiều sách vở đề cập đến nó rồi. Tôi chỉ mong bạn vững tin rằng linh hồn vốn có thật và nó là một chân lư đứng đắn.

Con người là một linh hồn và có thể xác. Thể xác không phải là con người. Nó chỉ là y phục của con người mà thôi. Điều mà chúng ta gọi là sự chết chỉ là sự cởi đi một cái áo cũ, đó không phải là sự chấm dứt. Khi bạn thay đổi y phục, bạn đâu hề thấy mất ḿnh, bạn chỉ bỏ cái áo mà bạn đang mặc đó thôi.

Cái áo có thể được cất vào tủ, mang đi giặc ủi hoặc vứt bỏ, nhưng người mặc nó chắc chắn vẫn c̣n. Do đó phải chăng khi thương yêu ai, bạn thương yêu người ấy chứ đâu phải thương yêu chiếc áo của người ấy ?

Trước khi bạn có thể hiểu được t́nh trạng của người mà bạn thương yêu, bạn cần phải hiểu rơ t́nh trạng của chính bạn đă. Bạn là một linh hồn bất tử; bất tử v́ tinh hoa của bạn vốn có tính chất thiêng liêng, bởi v́ bạn là một phần của một đại thể cao cả hơn nhiều. Bạn đă từng sống trong nhiều thế kỷ.

Trước khi mặc bộ quần áo này, bộ quần áo mà hiện nay bạn gọi là xác thân, th́ bạn đă từng mặc những bộ quần áo khác, và bạn c̣n sẽ mặc nhiều bộ quần áo khác nữa trong tương lai, khi bộ quần áo hiện tại đă tan thành tro bụi. Kinh Thánh đă nói: "Thượng Đế sinh ra con người từ h́nh ảnh bất diệt của Ngài".

Đây không phải là một giả thiết hay một sự tin tưởng nào mà có bằng chứng hẳn hoi. Điều bạn cho là một đời thật ra chỉ là một ngày nho nhỏ trong một kiếp sống kéo dài vĩnh viễn thiên thu và điều này cũng xảy ra cho người bạn yêu. Tóm lại, người bạn yêu thương không hề chết, không hề mất đi, mà chỉ cởi bỏ bộ áo của họ mà thôi.

Bạn đừng tưởng chết chỉ như một luồng hơi, không có h́nh dáng chi cả hoặc thua kém lúc c̣n sống về một điểm nào đó. Cách đây nhiều thế kỷ, Thánh Paul đă nói: "Có một cái thể vật chất và có một cái thể tinh thần".

Nhiều người đă hiểu lầm mà cho rằng những thể đó nối tiếp nhau chứ không hiểu rằng chúng ta đều có cả hai thể đó trong cùng một lúc. Thưa vâng, cái thể vật chất đó chính là cái xác thân mà bạn đang thấy, và cái thể tinh thần kia chính là cái mà bạn không thấy và thường gọi bằng danh từ "linh hồn". Khi bạn bỏ thể xác th́ bạn giữ lại cái thể tinh thần kia.

Nếu bạn đồng ư, hay tạm thời đồng ư về quan niệm này th́ chúng ta có thể đi xa hơn. Nếu bạn biết rằngchẳng phải khi chết bạn mới cởi bỏ "bộ áo" đó mà ngây khi ngủ bạn cũng tạm thời cởi bỏ nó và đi vẩn vơ trong một cơi giới khác trong cái thể tinh thần của bạn.

Dĩ nhiên khi tĩnh dậy th́ bạn lại mặc vào bộ áo thể xác đó trong khi người chết th́ không c̣n mặc lại bộ áo đó được nữa. V́ sự cấu tạo và rung động nguyên tử của hai cơi vốn khác nhau nên cơi nào chỉ có thể nh́n được cơi đó mà thôi. Đôi khi tỉnh dậy, bạn mơ hồ như ḿnh có thấy một cái ǵ đó, dĩ nhiên nó đă bị thay đổi rất nhiều bởi sự sắp xếp lại qua kư ức và bạn gọi điều này là chiêm bao.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 130 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


LÀM THẾ NÀO ĐỂ TIẾP XÚC VỚI NGƯỜI CHẾT


Chương Hai


   ...Chúng ta đang sống ở thời kỳ khoa học và không chấp nhận những ư tưởng vu vơ, hoàn toàn trái với lư thuyết khoa học cũng như trái ngược với những lời dạy bảo đầy bác ái, nhân từ và sáng suốt của đấng Cứu Thế. Chúng ta những linh hồn đang sống trong cơi vật chất và chỉ biết đến những sự kiện liên quan đến cơi vật chất này mà thôi.

Tất cả mọi sự hiểu biết của chúng ta đều dựa trên những giác quan của thể xác. Nhưng các giác quan này th́ bất toàn. Thí dụ như chúng ta có thể thấy được những vật thuộc thể lỏng hay thể rắn nhưng lại không thể thấy được thể hơi mặc dù chúng ta biết rằng thể hơi hiện hữu. Hiển nhiên nếu có những thể khác thanh nhẹ hơn thể hơi th́ làm sao chúng ta có thể thấy được.

Nói tóm lại, v́ giác quan của chúng ta bất toàn mà chúng ta không thấy được một số dữ kiện, tuy nhiên chúng ta không thể kết luận v́ không thấy được mà chúng không hiện hữu. Người Phương Đông đă ư thức được điều này từ lâu qua các công phu luyện tập đặc biệt mà nhiều người cho là phi thường.

      Thật ra nguyên lư của nó rất giản dị. Người nào biết rèn luyện tinh thần, phát triển các "giác quan" của tinh thần th́ họ sẽ có các quyền năng về tinh thần. Nếu các bạn biết rằng thể tinh thần cũng giống như thể vật chất (thể xác), đều có những giác quan riêng biệt th́ bạn sẽ hiểu điều tôi nói.

Nếu thể xác có thị giác th́ thể tinh thần cũng có một thị giác tương tự, nhưng đây là một thứ thị giác đặc biệt, có thể nh́n thấy những cái mà nhăn quan của thể xác không nh́n thấy được.

Người Tây Tạng gọi quyền năng này là Thần Nhăn hay là con mắt thứ ba (Third eyes). Sách vở huyền môn Tây Tạng nói rơ rằng, thể tinh thần có những giác quan tương ứng với những giác quan của thể xác nhưng bao trùm một giới hạn bao la, rộng răi hơn nhiều.

Các danh sư Tây Tạng gọi đó là các năng khiếu mà con người có thể sử dụng được nếu họ biết cách chủ trị tinh thần, khai triển các giác quan này. Dĩ nhiên những người đă khai mở những quyền năng đó có thể ư thức được nhiều điều mà người thường không thể biết được.

Chính nhờ khai mở được các giác quan đặc biệt này mà các danh sư Tây Tạng đă nghiên cứu về đời sống cơi giới bên kia, cơi giới mà chúng ta thường gọi là "cơi chết" hay "bên kia cửa tử". Họ xác định rằng chết không phải là sự chấm dứt của kiếp sống mà chỉ là một bước đi từ giai đoạn sống này qua giai đoạn sống khác.

Xác thân phục vụ tinh thần và là một phương tiện liên lạc (communicate) với cơi trần. Nếu không có xác thân th́ phần tinh thần không thể liên lạc được với cơi trần được và dĩ nhiên không thể ảnh hưởng hoặc thọ lănh ảnh hưởng của nó.

Cơi trần là một trường học hết sức quan trọng để linh hồn học hỏi, kinh nghiệm; và những điều học hỏi đều được lưu trữ trong kư ức tâm linh, một thứ kư ức vô cùng giới hạn. Chỉ riêng ở cơi trần người ta mới có thể thực sự học hỏi và áp dụng hay thực hành những điều đă học.

Ở những cơi khác, v́ sự cấu tạo của nguyên tử quá thanh, quá nhẹ nên việc học hỏi chỉ có tính cách lư thuyết chứ không thể thực hành được.
     
Điều chúng ta cần biết là những người mà ta cho rằng đă chết thực ra không hề chết, không hề ĺa xa chúng ta. V́ một lư do mơ hồ mà người ta tin rằng chết là chấm dứt, là chia ly, sau đó linh hồn được lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục rồi ở đó vĩnh viễn.

Tác động của Thượng Đế chắc chắn vô cùng huyền diệu, nhiều khi chúng ta không thể hiểu được nhưng không bao giờ trái ngược với định luật thiên nhiên. Khi một người cởi bỏ bộ áo choàng ra th́ họ vẫn đứng ở chỗ củ chứ nào có thể biến mất được.

H́nh dáng của họ thay đổi phần nào nhưng chắc chắn họ không thể phút chốc biến ra người khác được. V́ thể xác đă bỏ lại nên bạn không c̣n thấy người đó nữa mà chỉ thấy cái thể xác bất động nằm ở đó thôi. Nhưng điều này không có nghĩa là người bạn yêu thương đă đi xa rồi.

Khoa học đă chứng minh mắt của chúng ta chỉ đáp ứng được với một số rung động tối thiểu trong vũ trụ. Nếu sử dụng các dụng cụ tinh vi hơn, người ta có thể nh́n thấy được các sự rung động mà mắt thường không thể nh́n thấy như tia hồng ngoại, tia tử ngoại v.v...

Nếu bạn tin rằng các giác quan của thể xác đă giúp bạn cảm nhận được những vật chất cấu tạo bằng nguyên tử của cơi hồng trần th́ các giác quan của thể tinh thần cũng sẽ giúp bạn cảm xúc được các nguyên tử cấu tạo bởi cơi đó.

Nhờ xúc giác, chúng ta có thể sờ mó các vật chất của cơi trần th́ một thứ xúc giác đặc biệt của thể tinh thần cũng giúp chúng ta sờ mó được các vật chất cấu tạo bởi nguyên tử cơi này. Bạn đừng nghĩ rằng cơi tinh thần đó nằm đâu xa xôi, thực ra nó và cơi trần này ở cùng một chỗ, chiếm cùng một vị trí trong không gian và thời gian.

Nhưng v́ cấu tạo bởi các nguyên tử khác nhau nên người ta không cảm thấy nhận được nó đó thôi. Quy tắc của điều mà khoa học gọi là "chiều không gian" (dimension) hiển nhiên đă vén lên một phần của sự bí mật này. Dĩ nhiên ngoài cơi tinh thần c̣n nhiều cơi giới khác nữa nhưng điều đó không quan hệ đến chúng ta hiện nay.

Tóm lại, người mà bạn tưởng đă đi xa rồi thật ra vẫn ở bên cạnh bạn và có thể đứng sát kề vai với bạn nữa ḱa. Dĩ nhiên bạn c̣n mặc một tấm áo choàng dầy, c̣n người kia th́ đă cởi bỏ chiếc áo đó rồi, do đó bạn không c̣n nh́n thấy người ấy nữa nhưng người ấy vẫn c̣n nh́n thấy bạn v́ sự rung động của các nguyên tử của cơi kia thanh nhẹ hơn nên có thể nh́n thấy được nhiều hơn.

Trong khi ngủ, khi bạn tạm thời cởi bỏ bộ áo vật chất này ra th́ bạn và người đó có thể tiếp xúc với nhau dễ dàng. V́ đa số mọi người thiếu sự chuẩn bị công phu hàm dưỡng tinh thần nên vẫn luôn luôn có một khoảng cách giữa tri thức của thể xác và thể tinh thần, do đó họ không thể nhớ lại được việc làm của thể tinh thần trong giấc ngủ. Hiển nhiên nếu chúng ta có thể nhớ trọn vẹn th́ sự chết đâu c̣n nữa.

Một số đạo sư phương Đông đă tập luyện được công phu ǵn giữ cái trí nhớ liên tục này mà giao tiếp với cơi tinh thần trong giấc ngủ hoặc khi hành thiền. Dĩ nhiên đôi lúc ngủ cũng có người nhớ lại một vài chi tiết trong lúc ngủ nhưng họ thường kết luận là chuyện chiêm bao vô giá trị. Một người biết đoán điềm giải mộng có thể nói cho họ biết nhiều điều lư thú mà họ không ngờ.

Đối với những người thân quyến vừa ĺa đời, nếu họ ngủ được một giấc thoải mái th́ khi tỉnh dậy họ đều có cảm giác an tĩnh, phúc lạc như vừa được gần người thương yêu. Điều này không lạ v́ hiển nhiên họ đă tiếp xúc được với người thân trong giấc ngủ.

Nếu bạn biết rằng cơi trần của chúng ta là cơi thấp, và cơi bên kia cửa tử vốn cao hơn th́ hiển nhiên cơi cao bao trùm cơi thấp theo định luật thiên nhiên. Ở cơi tinh thần người ta có thể nhớ lại rất rơ ràng các chuyện ǵ đă xảy ra trong cơi trần.

Cũng như thế, khi ngủ người ta có thể hồi tưởng được nhiều chuyện đă quên từ lâu rồi, v́ không c̣n bị cản trở bởi các chướng ngại thuộc thể xác. Khi thức giấc, con người khoác lấy bộ ác vật chất, kư ức bị chi phối bởi các ảnh hưởng của thể xác, nó che khuất các linh năng cao hơn nên ít ai nhớ được điều ǵ rơ ràng.

Các danh sư Tây Tạng chỉ dẫn rằng, nếu muốn chuyển đạt tin tức cho người quá cố, bạn có thể giữ trong tư tưởng điều bạn muốn nói th́ chuyện đó sẽ xảy ra. Tuy nhiên bạn nên biết rằng ở cơi tinh thần, người ta có thể đọc được tư tưởng của người sống.

Nếu người quá cố vẫn c̣n luẩn quẩn gần đó th́ họ có thể đọc được tư tưởng của bạn dễ dàng. Ở cơi tinh thần, người ta không rảnh rỗi ngồi không mà có những việc khác để thi hành, do đó nếu có thể, bạn không nên làm rộn đến họ....

Cho đến nay, tôi chỉ đề cập đến vấn đề tiếp xúc với người chết bằng cách vào thế giới bên kia trong giấc ngủ v́ đó là đường lối tự nhiên thông thường. Dĩ nhiên vẫn có những đường lối khác thường và không tự nhiên.

Có người chết tạm thời mượn lấy một h́nh thể khác trong chôc lát (trường hợp lên đồng, nhập cốt) hoặc sử dụng một h́nh nộm, một cái bóng, tạo ra bởi các nguyên tử vật chất, để tiếp xúc với người cơi trần. Đây là những điều không đứng đắn, mơ hồ, khó kiểm chứng, dễ bị lợi dụng, có thể đưa đến sự bịp bợm, phỉnh gạt của một số thầy pháp, thực hành tà thuật.

Do đó, theo sự nghiên cứu và hiểu biết của tôi, đây là điều nên thận trọng v́ việc vong linh cố gắng liên lạc với cơi trần bằng cách này thường bắt nguồn từ những nguyên nhân đặc biệt.

Có thể v́ họ có điều ǵ oan ức cần biện bạch, hoặc các đau khổ lo âu cần được giúp đỡ. Trong trường hợp này, tốt nhất là ráng t́m hiểu xem họ muốn ǵ rồi chúng ta giúp họ giải quyết những việc đó sớm chừng nào tốt chừng nấy để tâm hồn họ được an tĩnh...
      
Tôi mong bạn hiểu rằng sự chết không đem lại một thay đổi ǵ cho con người thật sự cả. Không thể nào một người vừa chết đă trở nên một vị thánh, hay một đấng thiên thần. Người chết không thể trở thành một bậc vĩ nhân hiểu biết tất cả mọi sự được, mà chỉ là một người giống như trước khi chết một ngày hay một vài giờ mà thôi.

Hiển nhiên người đó cũng có t́nh cảm, kiến thức, sự hiểu biết; chỉ khác ở chỗ họ đă cở bỏ bộ áo mặc trên người ra, cởi bỏ gánh nặng trên vai (bệnh tật, mệt nhọc của xác thân) và có cảm giác thảnh thơi tự tại.

Khi c̣n sống, ai ai cũng phải làm việc để giải quyết những nhu cầu vật chất như thực phẩm, nơi chốn cư ngụ, quần áo che thân, v.v... Tại cơi tinh thần, những thứ này trở nên vô dụng. Thể tinh thần không cần thực phẩm hay nơi chốn cư ngụ, do đó người ta dường như thoát được cái áp lực lớn lao về sự sinh sống. Đây là cả một sự cởi bỏ gánh nặng rất lớn nên người ta thường thấy nhẹ nhàng thoải mái.

Theo các danh sư Tây Tạng, trong cơi tinh thần, không gian không c̣n là một trở ngại nữa. Người ta tự do di chuyển đó đây tùy theo ư muốn. Nếu thích phong cảnh trời biển, họ tha hồ ngao du những chỗ nào đẹp đẽ nhất.

Nếu thích mỹ thuật, họ có thể chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sẽ tài ba mà không phải chờ đợi xếp hàng hay mua vé vào cửa. Nếu thích âm nhạc họ có thể di chuyển từ hí viện này đến hí viện khác để thưởng thức các khúc nhạc tuyệt diệu.

Bất cứ thích điều ǵ họ có thể thưởng thức điều đó hết sức dễ dàng, miễn là những cái đó thuộc về phạm vi tinh thần hay xuất phát từ các t́nh cảm cao thượng. Tại sao ? V́ những thứ này không cần phải sử dụng đến một thể xác vật chất. Dĩ nhiên nếu điều họ thích là một thú vui dựa trên các cảm xúc của thể xác th́ vấn đề hoàn toàn khác hẳn v́ họ sẽ không thoải măn được.
      
Một người nghiện rượu sẽ không uống được rượu v́ đâu c̣n xác thân nữa để mà uống. Cũng như thế một kẻ thèm ăn sẽ khổ sở, luôn luôn có cảm giác đói khát!

Một kẻ tham lam, bỏn xẻn tiền bạc sẽ khổ sở v́ không c̣n ǵ để chất chứa. Kẻ ham nhục dục sẽ điên cuồng v́ thèm khát mà không được thoải măn. Người ghen tuông sẽ bị t́nh cảm dày ṿ, nhất là khi họ không c̣n xen vào công việc của người mà họ ghen tức được nữa.

Tóm lại, sự khổ sở chỉ bắt nguồn từ những đam mê xây dựng trên căn bản xác thịt, trên thể vật chất. Nếu biết kiềm chế những cảm giác này th́ họ bớt đau khổ hơn v́ nguyên nhân của đau khổ bắt nguồn từ ham muốn. Khi hết ham muốn th́ những đau khổ sẽ chấm dứt ngay.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 131 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHI CHẾT KHÔNG ĐAU KHỔ


Chương Ba


Cơi giới bên kia cửa tử cấu tạo bởi các nguyên tử hết sức thanh nhẹ nên thích hợp với những người sống về tâm linh. Những người này sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi c̣n ở cơi trần v́ cơi bên đây có các rung động thanh cao, thuận lợi cho việc trau dồi kiến thức, phát triển khả năng tinh thần.

Nếu các nhà trí thức, nghệ sĩ; những người có tâm hồn hướng thượng đều cảm thấy thoải mái, ung dung tự tại; th́ người giàu ḷng bác ái, không mưu cầu hạnh phúc cá nhân mà chú tâm đến hạnh phúc của người khác; c̣n sung sướng hơn nữa, v́ họ có thể làm việc một cách đắc lực.

Tuy cơi này không có ai nghèo khổ, lạnh lẽo nhưng vẫn có những tâm hồn buồn rầu, đầy hoang mang sợ hăi, cần được sự giúp đỡ an ủi. Do đó các danh sư Tây Tạng thường chú tâm nghiên cứu cơi vô h́nh để hướng dẫn và giúp đỡ cho những kẻ này.

V́ đa số mọi người không biết ǵ về thế giới bên kia cửa tử nên họ đều thiếu chuẩn bị. Chính v́ thiếu chuẩn bị mà nhiều người chịu đau khổ, mê muội; cứ lang thang sợ hăi trong một cảnh giới kỳ lạ, mơ mơ màng màng hư hư thực thực, không siêu thoát được. Thượng Đế thường hành động một cách bí mật, không mấy ai có thể hiểu.

Có khi nào bạn tự hỏi tại sao phần lớn con người khi già yếu, các cơ quan thể xác dần dần thoái hóa, các ham muốn như ăn uống, thèm khát cảm xúc xác thịt cũng theo đó mà giảm bớt đi. Khi bệnh tật đau ốm, người ta chỉ mong sao chóng khoẻ thôi chứ đâu mấy ai c̣n ham muốn ǵ khác.

Phải chăng đó là một cách gián tiếp giúp con người kiềm chế các thú vui xác thịt, bớt ham muốn vật chất để tránh khỏi phải đau khổ khi từ giă cơi đời, khi ham muốn mà không thể thỏa măm được nữa ?

Hiển nhiên nếu biết vậy, người ta cần phải chuẩn bị, phải tập làm chủ các giác quan, kiềm chế các ham muốn vật chất, phát triển đời sống tinh thần ngay từ lúc này, để tránh không bị khổ sở khi bước vào thế giới bên kia.

Thật đáng tiếc khi đa số người ta cứ mải mê lo lắng cho đời sống phù du, giả tạo, ngắn ngủi ở cơi này mà không biết ǵ đến những đời sống khác. Học có thể bỏ ra cả tuần hoạch định chương tŕnh cho một chuyến du lịch trong khi không hề chú ư ǵ đến một nơi mà trước sau ai cũng phải đến.

Có lẽ bạn tự hỏi những người chết trẻ khi ḷng ham muốn vật chất c̣n mănh liệt th́ sẽ ra sao ? Dĩ nhiên họ gặp nhiều khó khăn hơn người chết già hay chết v́ bệnh. Họ dễ bị lôi kéo, thu hút vào những cảnh giới thấp thỏi, ngột ngạt, bị ch́m đắm trong các rung động xấu xa, sống trong t́nh trạng hoang mang đau khổ, đầy thèm khát cho đến khi biết kiềm chế ḷng ham muốn th́ mới siêu thoát được.

V́ đă mấy ai biết được giờ chết, tử thần có bao giờ báo trước nên con người cần chuẩn bị một đời sống thanh khiết, hướng thượng ngay từ bây giờ. Điều chính yếu là nên giảm bớt các ham muốn vật chất để tránh khỏi lâm vào t́nh trạng như đói mà không được ăn, khát mà không được uống, thèm muốn không được thỏa măn, toàn thân nóng rực như than hồng v́ ham muốn hành hạ...

Tiếc thay phần đông nhân loại cứ nhởn nhơ vui chơi, t́m khoái lạc qua các cảm xúc của thể xác mà không ư thức rằng thể xác vốn vô thường, nay c̣n mai mất, trước có sau không; những thú vui ngắn ngủi phù du của một kiếp người trong chốc lát đă dọn đường cho sự đau khổ trền miên ở cơi bên kia.

Thời gian ở cơi trần bị giới hạn bởi các điều kiện vật chất v́ thể xác được cấu tạo bởi các nguyên tử trọng trược, không thể kéo dài quá lâu. Trong khi thời gian ở cơi bên kia hoàn toàn tùy thuộc vào sự rung động của các nguyên tử cấu tạo nên tinh thần.

Nếu ḷng ham muốn c̣n mănh liệt, sự rung động c̣n thô thiển nặng trọc, th́ thể tinh thần không thể siêu thoát lên cơi trên mà lưu lại nơi đây rất lâu.


CÁCH HAY NHẤT ĐỂ GIÚP ĐỠ NGƯỜI MỚI QUA ĐỜI


Này bạn, tôi muốn nhân dịp này đề cập đến tâm trạng của những người vừa cởi bỏ bộ áo vật chất v́ đây là một điều hết sức quan trọng. Dĩ nhiên khi vừa qua đời, ai cũng hoang mang, hốt hoảng v́ sự thay đổi đột ngột bất ngờ. Tuy nhiên nếu khóc than thảm thiết th́ bạn chỉ làm cho người đó thêm bối rối, đau khổ, quyến luyến mà thôi.

Khi từ bỏ bộ áo vật chất, các giác quan thể xác đă hư hoại, người bạn yêu không thể sử dụng ngũ quan như nh́n, nghe, ngửi, nói hay sờ mó được nữa và không thể biết được những sự kiện xảy ra trên cơi trần.

Tuy nhiên các giác quan của thể tinh thần từ lâu vẫn bất động (inactive) bỗng được khích động dần dần và trở nên linh hoạt. Chỉ một lúc sau họ bắt đầu nhận thức ít nhiều về các sự kiện xảy ra chung quanh.

Tùy tâm trạng lúc chết b́nh tĩnh hay hoảng hốt, đau khổ hay thoải mái mà các giác quan của thể tinh thần sẽ hoạt động nhanh hay chậm. Có khi v́ quá xúc động mà các giác quan này bị tê liệt không hoạt động được nữa, hiển nhiên người chết sẽ không ư thức được ǵ mà cứ mơ mơ màng màng như người say ngủ.

Cũng có trường hợp các giác quan này hoạt động ngay khiến người chết có thể đọc được tư tưởng của người thân, biết họ sung sướng hay đau khổ ngay khi vừa ĺa bỏ bộ áo vật chất. Sự khóc lóc than van có thể làm người chết hoảng hốt, lo lắng, luyến tiếc, đúng vào lúc mà họ cần phải b́nh tĩnh hơn bao giờ hết để thích hợp với hoàn cảnh mới.

Tâm trạng người chết khi đó ở giữa hai cảm giác kỳ lạ: Cảm giác trước các sự kiện vật chất đang dần dần tan biến, và cảm giác trước các sự kiện mới lạ đang bắt đầu thành h́nh v́ các giác quan mới bắt đầu hoạt động. Khi linh hồn trút khỏi thể xác, nó tạo ra một thay đổi trong bộ óc, khơi động "cuốn phim kư ức" vẫn chứa đựng trong tiềm thức.

Tất cả mọi chuyện buồn hay vui; thành công hay thất bại; danh vọng, giàu sang hay nghèo đói, khổi sở; các hậu quả mà họ nhận lănh, nguyên nhân mà họ gây ra; nỗi đau khổ, sự đam mê, hành vi tội lỗi cũng như ḷng quả cảm hy sinh... đều lần lượt hiện ra trong tâm thức một cách rơ rệt. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng v́ nó quyết định số phận người chết trên đường tiến hóa tâm linh.

Nếu b́nh tĩnh, biết chấp nhận mọi sự, không luyến tiếc th́ họ dễ dàng thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Nhờ các giác quan thể tinh thần được khơi động mà họ ư thức được thế giới bên kia và có những quyết định sáng suốt. Đa số thường có cảm giác như đang trôi nổi, vật vờ trogn một luồng ánh sáng êm dịu và dần dần hiểu biết mọi sự.

Tâm trạng của họ khi đó ảnh hưởng đến sự rung động của các nguyên tử cấu tạo của thể tinh thần. Nếu hoảng hốt, sợ hăi hay luyến tiếc hối hận một điều ǵ th́ các rung động của thể tinh thần sẽ bị rối loạn khiến họ bị thu hút vào những rung động tương tự theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu".

Họ sẽ lôi cuốn ngay vào bầu ánh sáng lờ mờ, nhầy nhụa như bùn cu"a các cảnh giới nặng trọc, xấu xa. Nếu thoải mái, b́nh tĩnh, th́ họ sẽ thấy nhẹ nhơm, an vui tự tại, người họ lơ lửng trong bầu ánh sáng chói lọi, trong suốt như pha lê.

Họ thấy khỏe khoắn và có thể sử dụng các giác quan mới để theo dơi sự việc xảy ra quanh đó. Dĩ nhiên họ có thể hoảng hốt, mất b́nh tĩnh nếu thấy người thân kêu la, khóc lóc. Cái cảm giác ung dung tự tại lúc ban đầu có thể thay đổi ngay, và hậu quả không thể lường được.

Trong thế giới tinh thần, tư tưởng chiếm vai tṛ hết sức quan trọng v́ nó chủ động tất cả mọi việc. Thử tưởng tượng, tự nhiên bạn bị bịt mắt dẫn ra khỏi nhà, đến một nơi xa lạ với tiếng người la hét, than khóc cùng các tiếng động ồn ào phức tạp mà bạn không thể hiểu th́ tâm trạng của bạn sẽ ra sao ?

Phải chăng bạn không thể b́nh tĩnh được? Cũng như thế, sự b́nh tĩnh, sáng suốt là điều hết sức quan trọng khitrong nhà có người từ trần. Theo các danh sư Tây Tạng, không ǵ đẹp hơn sự chân thành cầu nguyện của những người thân quyến.

Các rung động âm thanh của lời kinh có một oai lực rất lớn, ảnh hưởng rất mạnh đến cơi bên kia. Một sự tha thiết chí tâm chí thành cầu nguyện, hay việc được một tu sĩ đạo hạnh cao dầy chú tâm hành lễ là một bảo vật không ǵ có thể sánh bằng.

Một lần nữa, v́ sự kiện hết sức quan trọng này mà tôi mong các bạn hăy ngưng việc khóc than vô ích; hăy lắng ḷng, b́nh tĩnh cầu nguyện cho người ở thế giới bên kia. Họ có thể nhận được ḷng thương yêu chân thành của bạn ngay khi bạn vừa phát tâm v́ ở thế giới bên kia, tư tưởng có sức mạnh rất lớn và mầu nhiệm.

Này bạn, người thân của bạn không hề đi đâu xa mà vẫn ở gần bên bạn. Người đó không nh́n được thể xác vật chất của bạn nhưng vẫn thấy được thể tinh thần của bạn. Dĩ nhiên họ cũng cố gắng liên lạc với bạn mà nào bạn có biết. V́ bạn không để ư đến họ nữa nên họ tưởng như bạn đă quên họ rồi.

Nếu thấy một người c̣n sống đang ngủ say, bạn biết người đó đang ngủ nhưng người ngủ say đâu hề biết ǵ về bạn. Cũng thế, đối với người đă qua đời th́ bạn cũng như người đang ngủ say, họ thấy bạn nhưng không thể nói chuyện với bạn được nữa...
      
Này bạn, tôi đă tŕnh bày những hiểu biết của tôi về thế giới bên kia. Tôi mong bạn hăy bớt buồn rầu v́ sự chia ly tạm thời này. Có chi phải lo lắng buồn phiền khi người bạn yêu thương đă bước vào một đời sống rộng răi, thoải mái với những ư nghĩa đặc biệt của nó?

Nếu buồn rầu về sự chia ly tưởng tượng đó th́ trước hết điều bạn lo âu chỉ là ảo tưởng, v́ người đó đâu hề xa cách bạn... Bạn nên biết rằng ḷng yêu thương chân thành của bạn với người đă qua đời vẫn c̣n măi chứ không thể mất đi được. Tại cơi bên kia, nó c̣n gia tăng thêm mănh lực v́ tại đây nó không c̣n bị trở ngại hay giới hạn bởi thể xác.

Ở cơi tư tưởng, người ta không thể dối trá được; cách h́nh thức bên ngoài như khóc than, bi lụy không xuất phát từ bên trong chỉ là những h́nh thức giả dối và người ở cơi bên kia biết rơ điều này hơn ai hết, v́ họ đọc rơ tư tưởng của bạn.

Dù thành thật, nhưng nếu than khóc, buồn rầu th́ bạn đă phóng ra những tư tưởng có ư "kềm chân, níu giữ" người kia lại th́ làm sao họ có thể ung dung tự tại mà siêu thoát được?












Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 132 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


KHI RỜI THỂ XÁC LINH HỒN NHẸ NHÀNG NHƯ BAY


Chương Bốn


      Cuối tháng 4 năm 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston v́ chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đă chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn pḥng riêng chờ thân nhân đến làm giấ y tờ tẩm liệm.

Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lăo đă hồi sinh. Trường hợp bệnh nhân tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có ǵ lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đă nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:

"Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo th́ thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết ḿnh đang ở đâu.

Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu. Tôi ṃ mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc th́ nhận thức rằng có lẽ ḿnh đă chết. Tôi biết ḿnh mắc chứng đau tim đă lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng c̣n sống được bao lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn.

Điều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều này th́ tôi thấy ḿnh đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ rằng ḿnh sống như thế cũng là đủ rồi.

Trong khi xúc động th́ luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện th́ thấy trong ḿnh dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đăng hơn.

Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy ḿnh lơ lửng trên không nh́n xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nh́n xuống, tôi thấy có một chùm ch́a khoá màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc.

Tôi thầm nghĩ ai lại để ch́a khoá ở đó làm chi ? Đang suy nghĩ vẫn vơ th́ tôi thấy ḿnh đă đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim.

Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào. Đa số có vẻ vội vă, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác ḿnh một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi.

V́ một lư do ǵ không rơ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta v́ đă không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đă lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đă lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất b́nh tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác.

Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy ḿnh đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu. Mỗi khi trong người khó chịu th́ lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hăi.

Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai th́ thấy ḿnh đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đă không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rơ tư tưởng của các con tôi như vậy.

Càng đứng đó tôi càng bực bội v́ hai đứa cứ căi nhau măi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi. Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Đến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của ḿnh.

H́nh như tôi đă sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng. Tôi thấy rất rơ những quyết định của ḿnh, những lỗi lầm mà tôi đă tạo ra.

Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rơ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó; v́ sao tôi đă hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó... Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước.

Tôi không hiểu tại sao ḿnh lại có thể b́nh tĩnh nhận xét như thế được. Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rơ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của ḿnh. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất:

Tôi là một người quá tự hào về ḿnh, quá hănh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cơi sống này. Chính v́ tự hào mà tôi đă khoác lên ḿnh những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lư trong mọi công việc.

Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đă làm? Chưa bao giờ tôi lại có ư nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.

Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy b́nh tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa.

Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Đế hăy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mănh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy ḿnh đang nằm trên giường bệnh viện... Tôi đă tỉnh lại".

Lời khai của bà Houghton đă được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đă thuật lại.

Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đă căi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Điều bất ngờ là một bác sĩ trực đánh mất chùm ch́a khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vă, ông đă ném đại nó lên nóc tủ thuốc.

Chiếc tủ này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nh́n thấy nó được nên mặc dù t́m kiếm măi mà vẫn không ai thấy... trừ khi họ đứng trên trần nhà nh́n xuống




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 133 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


BƯỚC QUA CỬA TỬ GẶP NGƯỜI CẬU ĐĂ CHẾT


Chương Năm


Steve Buckley là một tân binh vừa nhập ngũ. Anh được huấn luyện tại một căn cứ quân sự tại tiểu bang Carolina. Trong buổi thực tập cách gài ḿn, gỡ ḿn th́ một quả ḿn đă nổ ngay gần chỗ anh đứng. Tuy thân thể không bị thương nhưng anh bị sức chấn động làm ngất đi và trút hơi thở cuối cùng trên đường đến bệnh viện.

Mọi phương pháp làm hồi sinh đều vô hiệu. Khi đến bệnh viện, một y sĩ khám nghiệm xác nhận anh đă chết. Xác anh được quàn tạm trong nhà xác chờ thông báo cho thân nhân. Khoảng vài giờ sau đó, anh tỉnh dậy trước sự ngạc nhiên của mọi người. Sau đó anh đă thuật lại câu chuyện như sau:

"Tôi không hề ư thức ǵ về quả ḿn nổ, tôi chỉ biết rằng bỗng dưng tất cả đều im lặng, một thứ im lặng tuyệt đối. Tôi lên tiếng gọi lớn nhưng không nghe ai đáp lại, cả sân tập bỗng trở nên vắng hoe, bao nhiêu bạn đồng ngũ bỗng biến đâu mất hết.

Tôi đang phân vân chưa biết phải làm ǵ th́ thấy có một người mặc đồng phục, tay cầm một cây dù đang đứng giữa băi ḿn. Tôi tự hỏi tại sao giữa quân trường lại có một thường dân đứng khơi khơi như vậy? Lúc đó trời quang đăng mà tại sao người này cầm dù? Người lạ nh́n tôi mỉm cười và rảo bước đến tôi.

Tôi bèn la lớn để cảnh cáo rằng ông ta đang đi trên một băi ḿn nhưng chưa kịp nói th́ ông ta đă đến sát bên cạnh. Ông ta lên tiếng bằng một giọng thân mật:

- Có phải cháu Steve đó không? Tôi là cậu Jules đây.

Rồi ông ta thân mật hỏi thăm về mọi người trong gia đ́nh tôi như một người thân thuộc. Không nhữa ông ta biết rơ gia đ́nh tôi mà c̣n biết đến cả con chó Bassette mà mẹ tôi rất cưng nữa. Linh tính báo cho tôi biết một sự chẳng lành. Tôi nhớ mang máng rằng mẹ tôi có một người em ruột đă chết từ lâu rồi kia mà. Ông Jules thong thả nói:

- Này cháu Steve, mẹ cháu nhớ cháu lắm đó. Hôm nay bà làm món lassagna, một món mà cháu rất thích ăn.

Tôi đâm ra bối rối:

- Làm sao ông biết được chứ?

Ông Jules mỉm cười một cách bí mật.

- Thế cháu có muốn về thăm nhà không?

Tôi ấp úng đáp:

- Làm sao có thể về được? Nhà tôi ở tận New York kia mà... Hơn nữa tôi đang thực tập quân sự, phải sáu tháng nữa mới được về phép.

Ông Jules mỉm cười nắm lấy tay tôi xiết chặt:

- Không sao đâu, cháu chỉ cần nghĩ đến mẹ cháu là được.

Tôi luống cuống không biết phải làm ǵ th́ vừa vặn thấy thượng sĩ York đang đi gần đó, tôi bèn lên tiếng gọi nhưng ông này không nghe, cứ cắm cúi đi thẳng. Tôi vội chạy đến chặn đầu thượng sĩ York nhưng dường như ông ta không trông thấy tôi mà cứ tiếp tục đi. Đến lúc đó ông Jules bước lại, ôn tồn khuyên:

- Ông ta không nh́n thấy cháu đâu. Cháu có muốn về thăm nhà không?

Sau một hồi thuyết phục, tôi bằng ḷng và nghĩ đến mẹ tôi. Tự nhiên cảnh vật chung quanh đều thay đổi, tai tôi vẫn nghe giọng ông Jules ôn tồn:

- Cháu cứ b́nh tĩnh và tập trung tư tưởng để nghĩ đến mẹ cháu là được rồi.

Tôi thấy ḿnh đang đứng trong nhà trước mặt mẹ tôi. Bà đang làm món lassagna thơm phức. Các em tôi đang ngồi xem ti-vi, chúng nói chuyện ồn ào và không chú ư ǵ đến sự hiện diện của tôi cả. Trong lúc xúc động tôi chạy đến ôm chầm lấy mẹ tôi nhưng bà vẫn thản nhiên nấu nướng, không hề biết ǵ.

Đến lúc đó tự nhiên tôi thấy lạnh ḿnh. Lúc năy thượng sĩ York cũng không hề thấy tôi. Phải chăng tôi đă chết? Tôi vừa hoảng hốt th́ chung quanh bỗng như tối sầm lại, dường như có một sức mạnh kỳ lạ nào đó lôi kéo tôi vào một lớp sương khói màu xám đục...

Tôi chưa biết phải phản ứng như thế nào th́ ông Jules đă đến bên cạnh. Khi đó tôi mới thấy h́nh như đứng cạnh ông, tôi thấy ḿnh b́nh tĩnh hơn.

- Chuyện ǵ đă xảy ra cho tôi vậy? Tôi đă ra sao?

Ông Jules nắm lấy tay tôi trấn an và ôn tồn:

- Cháu đă về nhà rồi, có đúng không? Phải chăng là điều cháu vẫn ao ước trong suốt thời gian học tập quân sự?

Tôi thắc mắc:

- Nhưng tại sao mọi người không ai nh́n thấy tôi hết? Tại sao tôi không thể nói chuyện với ai được?

Ông Jules thong thả giải thích:

- Cháu phải hiểu rằng cháu đă về nhà nhưng không bằng thể xác mà bằng một thể khác... Chính cái tư tưởng mong muốn trở về nhà trong suốt thời gian cháu học tập quân sự đă khiến cậu t́m đến gặp cháu để giúp cháu hoàn tất tâm nguyện trên.

Tôi thút thít khóc:

- Như vậy là cháu đă chết rồi phải không?

Ông Jules thong thả:

- Rồi cháu sẽ hiểu. Hiện nay cậu chỉ có thể cho cháu biết rằng cháu khôgn c̣n ở cái thế giới quen thuộc của cháu nữa... Nhưng cháu không nên phí th́ giờ vô ích, cháu chẳng mong trở về thăm nhà hay sao?

Tôi định thần nh́n quanh, cả nhà đă bắt đầu ngồi vào bàn ăn. Cha tôi vừa rót một ly rượu chát lớn, thong thả thưởng thức mùi vị trước khi ăn. Các em tôi đang cười đùa bàn tán về chương tŕnh ti-vi mà chúng vừa xem.

Mẹ tôi vừa cắt đĩa lassagna vừa lẩm bẩm :"Phải chi có thằng Steve ở đây, nó vẫn thích món này lắm!". V́ một lư do thầm kín nào đó, tôi đọc rơ tư tưởng của mẹ tôi và xúc động mạnh. Ông Jules giải thích:

- Ở cơi trần, người ta có thể nhận thức mọi vật bằng năm giác quan thông thường như nghe, nh́n, ngửi, nếm và sờ mó nhưng ở cơi này, các giác quan trên không c̣n sử dụng được nữa mà chỉ có tư tưởng mà thôi. Nếu cháu muốn tiếp xúc với mẹ cháu, cháu hăy tập trung tư tưởng gửi đến mẹ cháu những niềm yêu thương tốt đẹp nhất th́ mẹ cháu sẽ nhận được.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 134 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:37pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


GẶP NGƯỜI T̀NH CŨ


Chương Sáu


Ông giơ tay chỉ ra phía sau và tôi thấy có một bầu ánh sáng chói lọi trong không trung khiến tôi phải nhắm mắt lại cho khỏi loá. Tôi nghe một giọng nói êm dịu:

- Này anh Steve, anh c̣n nhớ em không?

Tự nhiên tôi nhận ra ngay giọng nói của Marjorie, một người bạn gái ngày trước nhưng cô ta đă chết v́ một tai nạn khi c̣n ở trung học kia mà. Tôi mở mắt ra và thấy Marjorie đang đứng trước mặt tôi, toàn thân bao phủ trong một lớp ánh sáng chói lọi. Cô bật cười:

- Anh đừng ngạc nhiên, em vẫn như xưa chứ đâu có khác ǵ... Ơ ḱa! Tại sao anh lại nghĩ rằng em là một thiên thần?

Tôi bối rối:

- Nhưng... nhưng tại sao cô lại biết như vậy?

Marjorie bật cười liếng thoắng:

- Em biết chứ! Em đọc được tư tưởng của anh... anh ngạc nhiên v́ màu sắc hào quang ư? Anh cũng có hào quanh đấy chứ, anh không thấy sao?

Chưa lúc nào tôi lại bối rối như lúc này. Sự có mặt của ông Jules và bây giờ của Marjorie, một người bạn gái đă qua đời từ nhiều năm, khiến tôi mệt mỏi muốn ngồi xuống đất. Tuy nhiên Marjorie không để tôi yên, cô vẫn liếng thoắng như hồi nào:

- Này anh Steve, anh không hề mệt đâu, anh chỉ mệt v́ anh tưởng anh mệt đó thôi. Lúc năy anh đâu có mệt, anh đang vui vẻ khoẻ khoắn kia mà. Anh nghĩ nhiều quá... Chuyện đă qua rồi anh nghĩ làm chi?

Quả thật tôi đă nghĩ đến cái chết của Marjorie năm xưa, chính tôi đă đi đưa đám tang nàng và ngồi bên cạnh mộ nàng rất lâu. Marjorie dường như cảm động, mắt cô chớp chớp một lúc rồi vui vẽ hồn nhiên trở lại:

- Anh Steve thân yêu, em biết điều đó. Hồi đó em biết hết, thấy hết và nghe hết những điều anh nói bên mộ em. Sau đám tang, em thấy anh đi thơ thẩn ngoài nghĩa địa một ḿnh, em thấy anh khóc nhiều. Anh c̣n đi theo con đường dẫn đến trường mà trước kia chúng ta thường dạo mát. Lúc đó em vẫn đi bên cạnh anh mà anh đâu có biết.

Tôi kêu lên thất thanh:

- Thật sao, em vẫn ở bên anh hay sao?

Marjorie thản nhiên gật đầu:

- Đúng thế. Em thấy anh buồn quá nên quàng lấy vai anh để an ủi, nhưng anh nào có hay. Em biết ḿnh đă chết nên không thể tiếp xúc với anh được nữa, nhưng thật ra danh từ "chết" không đúng đâu. Sự thật th́ chúng ta không bao giờ chết cả. Đúng vậy, em và anh cũng như mọi người khác chẳng bao giờ chết.

Anh thấy không, hiện nay chúng ta vẫn linh động, thoải mái, sống mạnh mẽ hơn bao giờ hết kia mà! Chúng ta đang tiến về nguồn, nguồn sống thương yêu tràn đầy ân phước của Đấng Tối Cao. Dĩ nhiên lúc này anh c̣n đang bán tín bán nghi nhưng em mong anh tin em. Nhiều người không tin em mặc dù em cố gắng thuyết phục họ, nhưng anh th́ phải khác chứ.

Anh biết không, em đă gặp rất nhiều người cũng bị tai nạn xe cộ như em vậy. Họ than khóc quá chừng, kẻ oán hận người đă gây ra tai nạn, người th́ tiếc đă không làm được những việc khi c̣n sống.

Em đă đến bên họ, khuyên can họ, an ủi họ để họ hiểu rằng đời sống của họ không hề chấm dứt như họ nghĩ mà là một sự chuyển tiếp. Trong giai đoạn này họ được sống trong một t́nh thương tuyệt vời nhưng chẳng mấy người chịu nghe.

Càng nói bầu ánh sáng bao quanh Marjorie càng sáng chói, bao phủ quanh thân nàng khiến nàng trông càng đẹp, một vẻ đẹp thanh cao, đáng kính khiến tôi phải lùi lại. Marjorie nheo mắt nh́n tôi và thong thả:

- Đó là công việc của em, một công việc quan trọng. Trước khi giao việc này cho em, ngài đă dặn em phải suy nghĩ kỹ. Em đă đắn đo rất cẩn thận trước khi nhận lời. Công việc thật nặng nhọc nhưng em rất sung sướng đă an ủi, giúp đỡ cho những người vừa từ trần. Em ở kề cận bên họ, nhắc nhở cho họ rằng đời sống thật sự chỉ có sự thương yêu chứ không có sự hối tiếc, giận hờn.

Tôi ngạc nhiên:

- Em nói ngài đă giao việc cho em, vậy ngài là ai?

Marjorie chỉ về phía sau tôi:

- Chính cậu Jules đă đưa em đến gặp ngài. Ngài chính là Thượng Đế chứ ai nữa!

Quả thật tôi rất bối rối. Tôi đưa mắt nh́n ông Jules và Marjorie không biết phải nói như thế nào nữa. Phải chăng tôi đang mê ngủ? Phải chăng đây chỉ là một giấc chiêm bao? Ông Jules âu yếm:

- Cháu không chiêm bao đâu. Hiện nay cháu đang ở một cơi giới khác với cơi trần. Ở đây thời gian và không gian không c̣n chi phối nữa, cũng không có các ràng buộc vật chất. Khi muốn đến đâu người ta có thể đến đó ngay, lúc này cháu chẳng đă trở về nhà hay sao? Bây giờ cháu hăy đi theo cậu, chúng ta có việc phải làm sau này cháu sẽ có dịp gặp Marjorie sau






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 135 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


STEVE CÙNG VỚI CẬU ĐI AN ỦI NHỮNG NGƯỜI LÍNH VỪA TỬ TRẬN


Chương Bảy


Tôi ngạc nhiên:

- Nhưng cậu muốn đưa cháu đi đâu?

Ông Jules từ tốn trả lời:

- Có lẽ cháu đă quen ít nhiều với đời sống bên này rồi nên cậu sẽ giải thích cho cháu về những việc đă và sẽ xảy ra. Trước hết nhân loại đang trải qua một cuộc chiến tranh lớn. Tại sao lại có cuộc chiến này và trong cuộc chiến cháu sẽ được giao phó nhiệm vụ ǵ. Cuộc chiến hiện tại là một điều không thể tránh được mặc dù nó có vẻ phi lư và dă man.

Con người không thể tránh được hiểm họa của chiến tranh v́ đă có nguyên nhân th́ phải có hậu quả. Mặc dù những người gây chiến tranh phải chịu trách nhiệm về việc họ đă làm nhưng mọi người, v́ những nguyên nhân sâu xa trong quá khứ, cũng đều chia phần trách nhiệm và phải học lại bài học mà họ cần phải học.

Đời sống là một trường học mà trong đó chiến tranh là một bài học quan trọng. Trong hoàn cảnh đau khổ, tang tóc, nhiều người nghĩ rằng thế giới đă đến lúc suy tàn, sức mạnh của bạo lực sẽ đàn áp tất cả, điều ác sẽ thắng điều thiện, kẻ áp chế sẽ đạt được điều họ muốn. Điều này hoàn toàn không đúng.

Một khi Thượng Đế đă điều khiển th́ trước sau mọi sự sẽ đều tiến đến chỗ tốt đẹp, toàn thiện. Một côn trùng nhỏ bé chết ngài cũng biết, và cũng do ư ngài th́ cuộc chiến dù tàn khốc đến đâu cũng không thể xảy ra ngoài ư muốn của ngài được. Tuy nhiên dù sao đi chăng nữa, những kể góp phần gây ra cuộc chiến vẫn phải chịu trách nhiệm về hành động của họ.

Vẻ mặt của ông Jules bỗng trở nên dịu dàng, đôi mắt ông như đắm ch́m trong một cơi giới nào đó, h́nh như ông đang ôn lại dĩ văng xa xưa của những kinh nghiệm tranh đấu, đau khổ mà rồi nhân loại sẽ phải trải qua trước khi nhận thức về hành động của họ và thay đổi để trở nên thánh thiện, hiền lành. Ông mỉm cười bảo tôi:

- Bây giờ chúng ta sẽ ra mặt trận v́ một người bạn cũ của cháu sắp từ giă cơi trần, cháu hăy t́m cách an ủi và giải thích cho anh ta hiểu các sự kiện diễn ra ở cơi giới bên này, như vậy cháu sẽ quen với công việc mà cháu sẽ đảm nhiệm từ nay.

Tôi theo ông Jules đến một khu rừng rậm, có tiếng súng nơi, tôi biết ḿnh đă ra đến mặt trận. Tôi nh́n thấy các binh sĩ ẩn núp dưới giao thông hào, một số đang chuẩn bị cho một cuộc xung phong. Có tiếng đạn rít bên tai khiến tôi hoảng sợ, bảo ông Jules nên t́m chỗ tránh đạn th́ ông mỉm cười lắc đầu:

- Cháu không phải lo, bom đạn không làm ǵ được cháu đâu. Hiện nay cháu đâu c̣n thể xác nữa mà sợ!

Ông Jules chỉ cho tôi thấy một binh sĩ đang ḅ dưới đất. Anh này định ṿng ra phía sau một mô đất lớn để đánh tập hậu nhóm lính Đức đang trấn giữ ổ súng liên thanh gần đó. Điều anh không ngờ là vị trí của anh đă bị phát giác, một người lính Đức giơ súng lên nhắm anh bóp c̣. Tôi chưa kịp la lên th́ anh đă bật ngửa ra sau, đầu bị một viên đạn bắn trúng.

Ngay lúc đó tôi nhận ra người lính là Andrew, một người bạn láng giềng đă nhập ngũ trước tôi ít lâu. Tôi thấy Andrew từ từ thoát ra khỏi thể xác và vẫn tiếp tục ḅ mà không hề biết rằng anh ta đă trúng đạn, bỏ lại cái xác nằm sóng sượt phía sau. Ông Jules thúc nhẹ vào hông tôi như ra dấu, tôi vội bước về phía Andrew. Anh này ngạc nhiên la lớn:

- Ủa, Steve đấy ư? Anh làm ǵ ở đây vậy?

Tôi chưa kịp trả lời th́ Andrew đă kéo tôi nằm sát xuống đất:

- Cẩn thận kẻo lính Đức nh́n thấy!

Nhưng không kịp rồi, ba người lính Đức đă ở sau g̣ đất xông ra. Andrew hốt hoảng giơ súng lên nhưng đến lúc đó anh nhận rằng anh không hề cầm súng. Trông điệu bộ luống cuống của anh, tôi bật cười:

- Này Andrew, anh đă chết rồi c̣n đâu!

Nhưng Andrew không nghe câu tôi vừa nói, anh bận nh́n sững ba tên lính Đức đang khám xét cái xác của anh. Một người lục túi áo anh lấy ra bao thuốc lá trong khi hai người kia tháo súng và bao đạn trên vai anh. Andrew nổi giận xông đến đấm đá túi bụi nhưng ba người lính kia vẫn thản nhiên như không có chuyện ǵ xảy ra.

Andrew giận dữ la om x̣m cho đến lúc ba người lính thu thập xong chiến lợi phẩm, rút vào g̣ đất th́ anh mới xúc động ôm lấy xác ḿnh khóc oà. Tôi lúng túng nh́n anh không biết phải an ủi như thế nào cho đến khi anh ngửng lên nh́n tôi:

- Này bạn Steve, anh cũng chết rồi sao?

Tôi gật đầu. Andrew im lặng suy nghĩ, bất chợt anh thốt lên:

- Thôi thế là hết. Bạn chết trước tôi vậy bạn có thấy thiên đàng ở đâu, địa ngục và quỷ sứ ở đâu không?

Từ trước đến nay tôi chưa hề suy nghĩ về điều này nên thoạt nghe cũng hốt hoảng, tôi nh́n quanh nhưng không thấy cảnh vật có ǵ khác lạ. Andrew cũng lên tiếng:

- Tôi chẳng thấy có ǵ khác lạ hết, ở đây giống hệt như cơi trần chỉ khác ở chỗ tôi nói mà mấy tên lính kia không nghe, tôi đánh chúng cũng không được. Bây giờ chúng ta phải làm sao đây? Nếu lính Đức đến, ḿnh có đánh nữa không?

Tôi lắc đầu:

- Anh quên rằng chúng ta đă chết rồi sao?

Andrew gật đầu đồng ư, rồi theo thói quen anh móc túi lấy thuốc lá ra hút nhưng dĩ nhiên không thể hút được. Anh lẩm bẩm chửi một hồi rồi than:

- Trời ơi, tôi không hút thuốc được nữa, có ǵ khổ bằng không được hút thuốc nữa, như vậy là chết tôi rồi...

Tôi đập nhẹ lên vai anh nhắc nhở:

- Nhưng chúng ta đều chết rồi kia mà.

Andrew giật ḿnh sờ tay lên trán và la lớn.

- Trời ơi, làm sao đầu tôi lại lủng một lỗ lớn như thế này! Có ai băng bó giùm cho tôi, làm ơn gọi y tá cho tôi... Thôi chết rồi, lủng một lỗ to như vầy th́ mất hết máu rồi c̣n ǵ...

Ngay lúc đó ông Jules bước đến bên Andrew. Ông vừa băng bó vừa thoa thuốc:

- Thuốc này thần diệu lắm, chỉ thoa vào là khỏi ngay, bảo đảm không có thẹo... Anh nh́n xem, vết thương lành rồi đó.

Andrew giơ tay sờ lên trán. Vết thương đă hoàn toàn biến mất. Anh bật cười sung sướng:

- Hay thật! Hay thật! Làm sao lại có thứ thuốc kỳ diệu như vậy. Này bác sĩ, thuốc này chế tạo ở đâu vậy?

Ông Jules mỉm cười từ tốn:

- Này anh bạn, không phải thuốc này công hiệu đâu, tôi chỉ bày tṛ ra vậy thôi. Chính anh đă chữa lành cho anh đó. Bên này là cơi của tư tưởng và do sức mạnh của tư tưởng mà anh thấy ḿnh b́nh phục.

Dù có mất cả tay chân nhưng khi nghĩ rằng ḿnh lành lặn th́ tức khắc sẽ lành lặn ngay. Điều đáng tiếc là nhiều người không nghĩ vậy. Họ cứ nghĩ là ḿnh đang đau đớn, khổ sở v́ cụt tay, cụt chân, cụt đầu và sống măi trong t́nh trạng khủng hoảng như vậy rất lâu.

Chính cái tâm trạng đau khổ kéo dài đó sẽ tạo ra những nổi ám ảnh trong tiềm thức, ảnh hưởng vào những kiếp sống mai sau. Cũng như thế, một người chết v́ nước, v́ lửa thường bị ám ảnh bởi những yếu tố này và sau đó thường sợ lửa hay nước.

Điều anh cần biết là chính cái tâm trạng khi chết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống ở kiếp sau, làm sao có thể chết một cách thoải mái, an lành, chấp nhận sự chết mà không chống lại nó.

Nghệ thuật chết là làm sao không mong cầu kéo dài thêm đời sống, không hối tiếc về những điều có thể làm nhưng đă không làm, không giận hờn oán ghét bất cứ ai mà thanh thản bước qua cơi tư tưởng này một cách ung dung tự tại.

Bây giờ anh đă biết cách chữa lành bệnh rồi, tôi nghĩ anh có thể giúp đỡ cho các bạn bè anh cũng vừa từ trần, họ rất đông và đang đau đớn, khổ sở cần được giúp đỡ.

Các anh cần biết rằng, ở cơi này không có chiến tranh nữa, chúng ta có thể giúp đỡ nhau, d́u dắt nhau mà không sợ bị ngộ nhận hay hiểu lầm v́ các giá trị ở cơi trần qua đến bên này không c̣n nghĩa lư ǵ nữa.

Tất cả mọi thứ như tiền bạc, địa vị, danh vọng, quyền lực đều trở nên vô giá trị; chỉ có t́nh thương và sự hiểu biết là c̣n giá trị vĩnh cửu mà thôi.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 136 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:41pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


NHỮNG NGƯỜI LÍNH VỪA TỬ TRẬN


Chương Tám


Điều anh cần biết là chính cái tâm trạng khi chết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đời sống ở kiếp sau, làm sao có thể chết một cách thoải mái, an lành, chấp nhận sự chết mà không chống lại nó. Nghệ thuật chết là làm sao không mong cầu kéo dài thêm đời sống, không hối tiếc về những điều có thể làm nhưng đă không làm, không giận hờn oán ghét bất cứ ai mà thanh thản bước qua cơi tư tưởng này một cách ung dung tự tại.

Bây giờ anh đă biết cách chữa lành bệnh rồi, tôi nghĩ anh có thể giúp đỡ cho các bạn bè anh cũng vừa từ trần, họ rất đông và đang đau đớn, khổ sở cần được giúp đỡ. Các anh cần biết rằng, ở cơi này không có chiến tranh nữa, chúng ta có thể giúp đỡ nhau, d́u dắt nhau mà không sợ bị ngộ nhận hay hiểu lầm v́ các giá trị ở cơi trần qua đến bên này khôgn c̣n nghĩa lư ǵ nữa.

Tất cả mọi thứ như tiền bạc, địa vị, danh vọng, quyền lực đều trở nên vô giá trị; chỉ có t́nh thương và sự hiểu biết là c̣n giá trị vĩnh cửu mà thôi.

Andrew rụt rè đặt câu hỏi:

- Thưa ông, vậy gặp lính Đức tôi phải làm sao?

Ông Jules mỉm cười:

- Quân Đức cũng là bạn của anh và anh nên giúp đỡ họ.

Andrew nhăn mặt tỏ vẻ không đồng ư nhưng anh cũng cố gắng:

- Nhưng họ đâu biết tôi là bạn, nếu gặp tôi họ xông lại đánh tôi th́ sao? Tôi cần phải tự vệ chứ.

Ông Jules lắc đầu:

- Anh nên tránh đi. Ở cơi trần anh phải tự vệ chứ bên này th́ họ không thể làm ǵ được anh đâu. Dù họ có bao vây bắn anh vẫn vô ích thôi. Anh vừa qua đây chưa hiểu biết mọi việc, anh nên nghe theo lời khuyên của tôi.

Hiện nay chúng ta đang ở cơi tư tưởng, tất cả mọi hiện tượng vật chất đều không thể làm hại được chúng ta, v́ chúng ta đâu c̣n xác thân nữa. Này các bạn, những vừa người từ trần chưa biết điều đó. Họ đang đau khổ, cần được an ủi, và anh hăy coi họ như một con người đang cần được trợ giúp...

Anh đừng nghĩ họ là thù hay là bạn v́ các danh từ đó hoàn toàn vô giá trị ở cơi bên này. Khi anh hành động với cái tâm trong sạch, đầy bác ái, thương yêu th́ không một mănh lực ǵ có thể hại anh được.

Nếu anh không oán ghét hay giận hờn mà chỉ một ḷng thương xót, giúp đỡ người khác th́ luồng ḥa quang bao quanh anh sẽ trở nên sáng chói, kẻ hung ác sẽ không dám nh́n chứ đừng nói ám hại anh. Dù anh ở bất cứ nơi đâu, anh cũng sẽ được Thượng Đế che chở v́ anh đang làm những việc đúng với thiên ư.

Andrew vội vă đứng thẳng người lên theo thói quen của một quân nhân và nghiêm giọng:

- Xin tuân lệnh ngài.

Ông Jules mỉm cười quay qua phía tôi:

- C̣n cháu Steve, công việc của cháu khác với Andrew. Thời gian cháu ở cơi này không c̣n lâu nữa, vậy hăy cố gắng quan sát, học hỏi những ǵ cháu có thể học được. Cháu sẽ trở lại cơi trần.

Tôi ngạc nhiên kêu lớn:

- Cậu nói sao? Cháu sẽ trở lại cơi trần?

Ông Jules gật đầu:

- Đúng thế. Cháu chưa chết. Lúc trái ḿn nổi, cháu bị sức ép dồn ngay lên ngực nên tắt thở, cháu đă hôn mê mấy giờ liền nhưng t́nh trạng này sắp chấm dứt. Nhiệm vụ của cháu quan trọng hơn của Andrew, cháu sẽ tiết lộ cho nhân loại biết về những điều cháu đă học hỏi ở cơi này.

Tôi bối rối rồi rụt rè:

- Thưa cậu Jules, nếu cháu không chết, phải chăng đây chỉ là một giấc mộng? Làm sao cháu có thể giải thích cho mọi người biết rằng cháu không chiêm bao? Làm sao cháu không bị người mọi người lên án là bịp bợm hay điên loạn?

Ông Jules mỉm cười gật đầu:

- Không đâu! Đây không phải là một giấc mộng. Sự trở về của cháu rất quan trọng và hữu ích cho nhân loại, nhất là trong giai đoạn này. Cháu cứ làm hết sức ḿnh và nên nhớ c̣n có ơn trên phù hộ cháu nữa. Không bao lâu nữa cháu sẽ tỉnh lại và cậu sẽ giúp cháu nhớ lại những điều mà cháu chứng kiến ở cơi này.




Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 137 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde






TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


NHỮNG NGƯỜI LÍNH VỪA TỬ TRẬN (tiếp theo)


Chương Chín


Tôi ngạc nhiên:

- Nếu cậu không giúp th́ khi tỉnh lại cháu sẽ quên hết sao?

Ông Jules gật đầu:

- Thông thường th́ người ta không nhớ được nhiều những chuyện xảy ra trong giấc ngủ. Trí óc con người sẽ thu xếp những dữ kiện này một cách lộn xộn vô trật tự và đầu óc phán đoán của con người sẽ không chấp nhận nó nên đa số đều loại bỏ những kư ức này.

Cháu nên biết ngoài thể xác, c̣n có những thể khác nữa, mỗi đều có những giác quan riêng của chúng. Nếu không biết kiểm soát các thể này, các dữ kiện ở cơi tư tưởng sẽ bị ghi nhận một cách sai lạc, méo mó và trở nên mơ hồ, lộn xộn, vô lư...

Do đó người ta sẽ không thể nào suy luận được nó một cách hữu hiệu. Một lúc khác, cậu sẽ giảng cho cháu nghe sau, bây giờ chúng ta hăy lên đường v́ thời giờ không c̣n nhiều lắm đâu.

Tôi đi theo ông Jules đến một căn nhà nhỏ, trong nhà có một người đàn bà và hai đứa con nhỏ. Hai đứa bé đang đùa nghịch một cách vô tư nhưng người đàn bà th́ đang đau khổ. Bà đă khóc hết nước mắt v́ vừa nhận được giấy báo tin chồng bà tử trận. Ngay lúc đó một quân nhân quần áo dính đầy máu ở ngoài bước vào. Ông nói với vợ:

- Này Emma, anh đă về đây.

Dĩ nhiên người đàn bà không nghe thấy ǵ nên vẫn khóc, nhưng hai đứa bé ngừng chơi kêu lên:

- Cha! Cha đă về!

Người đàn bà đưa tay bồng hai đứa bé và khóc lớn:

- Cha các con chưa về đâu.

Ông Jules nói với tôi:

- Cháu thấy không, hai đứa bé c̣n nhỏ, đầu óc vô tư và nhạy cảm nên chúng nhận ngay được sự hiện diện của cha chúng mặc dù mắt không nh́n thấy.

Ông quay ra nói với người quân nhân:

- Này anh bạn, chị nhà không thấy anh đâu nhưng anh hăy đợi một lúc nữa khi chị ngủ, khi tâm hồn của chị thoải mái, không bận bịu hay bị chi phối bởi các tư tưởng tiêu cực th́ chị có thể tiếp xúc được với anh.

Dĩ nhiên khi thức dậy, chị sẽ không nhớ ǵ hết nhưng nếu anh khéo léo khuyên bảo th́ chị sẽ cảm thấy được an ủi rất nhiều. Anh đă hiểu và biết chấp nhận số phận nên anh không c̣n đau khổ bao nhiêu nhưng anh có thể giúp cho chị bớt đau khổ...

Người quân nhân cung kính nghiêng ḿnh trước ông Jules:

- Xin cám ơn Ngài. Ngài đă giúp đỡ tôi và các anh em trong binh chủng của chúng tôi rất nhiều. Thay mặt các anh em, tôi xin cảm tạ ngài.

Ông Jules chỉ tay về phía tôi:

- Đây là thanh niên mà tôi đă nói với anh trước đây.

Người quân nhân bắt tay tôi một cách nồng nàn:

- Nhờ anh nói giùm với nhà tôi rằng "Bông hồng dù ở đâu cũng đều là một bông hồng và lúc nào cũng đẹp hết". Anh cứ nói vậy là nhà tôi hiểu. Sau đây là địa chỉ của nhà tôi...

Cậu Jules chờ tôi nói chuyện với người quân nhân kia xong rồi mới ra hiệu cho tôi đi theo. Lần này đă quen nên tôi lướt đi một cách nhẹ nhàng, hai chân không hề đụng đất và chỉ thoáng giây chúng tôi đă đến một căn nhà khác. Trong nhà có hai người già đang ngồi than khóc dưới ngọn đèn leo lét.

Họ vừa nhận được điện tín báo tin người con trai của họ đă tử trận. Tuy nhiên họ không biết rằng anh này cũng đang có mặt trong nhà, dĩ nhiên dưới một thể dạng khác. Anh mặc bộ quân phục dính đầy máu, cố gắng tiếp xúc với cha mẹ nhưng không được nên rất đau khổ. Anh kêu lên:

- Trời ơi, mẹ tôi không nghe thấy tôi. Mẹ tôi tưởng tôi đă chết nhưng tôi vẫn c̣n sống kia mà. Làm sao tôi có thể nói cho mẹ tôi hiểu được đây!

Cậu Jules vỗ vai người quân nhân, an ủi:

- Anh hăy b́nh tĩnh. Tôi sẽ giúp anh nhưng trước hết anh hăy nghe tôi nói đă. Anh hăy nh́n bức h́nh chụp khi anh vừa tốt nghiệp trường vơ bị treo trên tường kia, khi đó anh mặc bộ quân phục mới và sạch, người không bị một vết thương nào, anh hoàn toàn khoẻ mạnh, vui vẻ. Bây giờ anh hăy tưởng tượng rằng hiện nay anh cũng y hệt như thế.

Người quân nhân làm theo lời ông Jules. Lạ thay chỉ một thoáng giây sau anh đă mặc bộ quân phục mới tinh. Gương mặt anh hết đau khổ, nhăn nhó mà trở nên sáng sủa, tươi tắn.

Các vết thương trên thân thể anh hoàn toàn biến mất. Chính người quân nhân cũng ngạc nhiên về sự kiện này nên anh sững sờ một lúc rất lâu trước khi quay nh́n về phía cha mẹ. Cậu Jules nói tiếp:

- Anh hăy nghĩ đến tâm trạng của anh trong ngày tốt nghiệp đó. Anh đă hănh diện và sung sướng biết bao, phải không? Bây giờ anh hăy hồi tưởng hoàn cảnh tốt đẹp lúc đó rồi đến bên cạnh cha mẹ anh, chia sẽ sự sung sướng đó với họ. T́nh thương có một sức mạnh an ủi phi thường, anh hăy làm như tôi nói đây...

Người quân nhân làm y hệt như lời khuyên, và tôi thấy rơ một luồng hào quang từ thân thể anh tỏa ra, lan rộng khắp pḥng, bao bọc cả hai người già đang ngồi đó. Tự nhiên bà mẹ bớt khóc và trở nên b́nh tĩnh hơn. Bà nói với chồng:

- Henri, tôi có cảm giác rằng con ḿnh không đến nỗi nào, chắc nó được ơn trên phù hộ... Tôi chắc nó thế nào cũng được ơn trên phù hộ.

Ông già cũng ngưng khóc. Ông nh́n vợ một lúc rồi nhẹ nhàng:

- Có lẽ bà nói đúng. Chúng ta hăy cầu nguyện Thượng Đế.

Cả hai bước đến bên chiếc thánh giá treo trên tường và quỳ xuống cầu nguyện. Người quân nhân cũng bước đến quỳ bên cha mẹ. Tự nhiên căn pḥng bỗng bừng sáng lên một thứ ánh sáng chói lọi, tinh khiết khiến tôi cũng cảm thấy sung sướng, thoải mái lây. Cậu Jules nói với tôi:

- Cháu thấy không, sự đau khổ của người chết có thể ảnh hưởng đến người sống và ngược lại, nếu người sống đau khổ, than khóc th́ họ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến người chết. Điều quan trọng là phải làm sao để giúp cho họ b́nh tĩnh trở lại, sáng suốt ư thức về sự việc đang xảy ra.

Một phương pháp rất hữu hiệu là biết cách gợi lại những kỷ niệm đẹp nhất, những cảm giác sung sướng nhất, để giúp họ thoát khỏi t́nh trạng hoảng hốt kia. Chỉ khi nào họ thoải mái an lạc và sáng suốt th́ cháu mới có thể giúp đỡ họ được.

Người quân nhân này là sĩ quan trường vơ bị, từ nhỏ đă say mê binh nghiệp, ngày tốt nghiệp là ngày anh sung sướng nhất v́ đă thoải măn được niềm mong ước từ trước. Biết cách nhắc nhở anh ta hồi tưởng lại kỷ niệm đó để anh b́nh tĩnh trở lại, thoát khỏi ảnh hưởng đau khổ của cái chết, giảm bớt sự giằng co quyến luyến với gia đ́nh th́ anh mới có thể siêu thoát được.

- Nhưng siêu thoát là thế nào?

Ông Jules mỉm cười:

- Con người là một thực thể phức tạp gồm có nhiều thể khác nhau chứ không phải chỉ có thể xác mà thôi. Điều này khoa học không thể giải thích rơ rệt v́ đối tượng của khoa học chỉ xây dựng trên căn bản của các giác quan thuộc về thể xác, vốn hết sức giới hạn.

Khi xác thân không c̣n sử dụng được nữa, các thể khác cần được giải phóng ra khỏi xác thân càng sớm chừng nào càng hay chừng đó, đó là sự siêu thoát. Cháu nên biết rằng tâm trạng con người khi từ trần hết sức quan trọng v́ nếu có sự quyến luyến th́ sự giải phóng này sẽ bị tŕ hoăn lại rất lâu, gieo các ấn tượng đau khổ lên các thể kia, và ảnh hưởng đến các kiếp sống mai sau.

Đó cũng là lư do người ta cần tránh than khóc, kêu gọi kể lễ trong các đám tang mà phải b́nh tĩnh đặt hết tâm hồn vào sự cầu nguyện cho người quá cố được siêu thoát. Cháu nên biết rằng tâm trạng con người lúc từ trần hết sức kinh khủng đối với những ai tin rằng chết là mất hết tất cả.

Đa số thường cố gắng bám vào sự sống một cách tuyệt vọng. Có người cho rằng có một thế giới khác, một cảnh âm ti địa ngục ghê sợ, đang chờ đón họ nên họ nhất định không chịu từ bỏ cơi trần. Do đó có một sự phấn đấu mạnh mẽ giữa phần thân xác sắp tan ră và phần tâm linh cố gắng giữ nó lại.

Đó cũng là lư do nhiều người cứ hấp hối măi mà cũng không chết (comatose). Sau khi chết, nhiều người cứ quanh quẩn bên cạnh xác thân của ḿnh, dù thấy xác thân đó rữa ra, bị gịi bọ đục khoét cho đến khi xác thân hoàn toàn tan ră th́ mới siêu thoát được.

T́nh trạng này có thể kéo dài nhiều năm, gieo vào tâm thức người đó những ấn tượng hết sức ghê gớm, đau khổ và sự ám ảnh này sẽ ảnh hưởng nhiều đến cá tính của người đó trong kiếp sau.

Sau khi cầu nguyện xong, người quân nhân bước đến cạnh cậu Jules:

- Cám ơn ngài đă giúp cho tôi và cha mẹ tôi. Bây giờ tôi phải làm ǵ?

- Anh hăy đợi khi cha mẹ anh ngủ say, khi các giác quan thể xác của cha mẹ anh tạm thời yên nghỉ th́ anh có thể tiếp xúc được với hai ông bà ở một b́nh diện khác. Điều cần nhất là chính anh phải có sự thoải mái, b́nh an đă rồi anh mới có thể an ủi được cha mẹ anh, giúp họ bớt đau khổ.

Người quân nhân gật đầu như hiểu lời khuyên bảo:

- Xin cám ơn ngài. Nếu cha mẹ tôi bớt đau khổ th́ tôi có thể yên tâm được rồi.

- Anh cứ yên tâm. Tôi biết cha mẹ anh sẽ được thoải mái. Ông bà đă biết chấp nhận và đặt tất cả vào bàn tay Thượng Đế. Một khi đă để cho Thượng Đế hành động th́ mọi sự sẽ tốt đẹp. C̣n về phần anh, chút nữa có một thiếu nữ tên là Marjorie sẽ đến gặp anh. Cô ta sẽ giúp đỡ và hướng dẫn anh. Anh nên nghe theo lời khuyên của cô ấy.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 138 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


STEVE GẶP MỘT LINH HỒN KHÔNG TIN M̀NH ĐĂ CHẾT


Chương Mười

      
Cậu Jules giới thiệu tôi với người quân nhân kia và nói rơ về trường hợp đặc biệt của tôi. Người quân nhân mừng rỡ xiết chặt tay tôi:


- Nếu anh có thể, phiền anh ghé thăm cha mẹ tôi và nói với ông bà rằng "Robbie vẫn khoẻ mạnh như thường". Tên tôi là Robert, bạn bè thường gọi tôi là Bob nhưng cha mẹ tôi lại thích gọi tôi là Robbie, đây là một tên riêng chỉ cha mẹ tôi biết mà thôi. Đây là địa chỉ của cha mẹ tôi....

Sau khi từ giă người quân nhân đó, ông Jules và tôi tiếp tục đi nữa. Vừa ra đến đường chính, tôi giựt ḿnh thấy một xe chở lính Đức đi ngang. Tôi giật ḿnh kêu lớn:

- Cậu ơi, lính Đức ḱa!

Cậu Jules mỉm cười:

- Phải rồi, chúng ta đang ở tại nước Đức nhưng cháu đừng lo, họ không trông thấy chúng ta đâu. Cháu quên rằng chúng ta không đâu c̣n thể xác nữa.

Chúng tôi thấy một ông già gầy g̣, quần áo nhàu nát, đầu đội nón nỉ, vẻ mặt đau khổ đang đứng trước cửa một căn nhà. Cậu Jules nói:

- Đó là Lebowitz, một thương gia giàu có đă qua đời từ mấy năm nay nhưng không siêu thoát v́ c̣n quyến luyến tài sản, sự nghiệp.

Ông già ngước cặp mắt lờ đờ nh́n cậu Jules rồi nói:

- Thưa ông, căn nhà này do chính tay tôi xây cất, chính tôi đă lựa từng cục gạch, từng khúc gỗ. Hăy nh́n cái cửa bằng gỗ sồi kia, chính tay tôi đă chọn nó từ bên Đan Mạch, c̣n chiếc cửa sổ bằng kính màu nữa, nó đă được hoàn tất bởi những thợ giỏi nhất miền Florence. Căn nhà này của tôi và tôi không thể bỏ nó được.

Cậu Jules nh́n ông già bằng cặp mắt thương hại rồi nói với tôi:

- Năm trước, chính quyền Đức ra lệnh cho người Do Thái phải rời bỏ khu này để tập trung vào một khu biệt lập. Ông Lebowitz không chịu nên bị họ đánh trọng thương. Tuy mang thương tích trầm trọng nhưng ông nhất định không chịu vào bệnh viện điều trị mà cứ bám riết căn nhà nên vài hôm sau bị nhóm SS giết chết. Từ đó ông cứ quanh quẩn bên căn nhà này.

Tôi bèn hỏi:

- Như vậy ông ấy sẽ ở đây đến bao giờ?

- Ông ta sẽ tiếp tục sống ở t́nh trạng này cho đến khi nào ḷng quyến luyến kia tiêu tan hết. Có thể là một vài năm, chục năm hay có khi lâu hơn thế nữa.

Cậu Jules nói với ông già:

- Này ông bạn, ông bạn đă chết rồi, đă rời bỏ thế giới này rồi th́ c̣n luyến tiếc căn nhà đó làm chi nữa! Hiện nay căn nhà đă thuộc về người khác rồi...

Ông lăo khăng khăng lắc đầu:

- Không... không... đây là nhà của tôi, sống tôi ở với nó và chết tôi cũng ở với nó. Không ai có thể buộc tôi rời bỏ nó được.

Ngay lúc đó có một nhóm người từ đâu bước tới mở cửa bước vào nhà. Ông Lebowitz xông ra cản lại nhưng không được. Ông vừa xô đẩy họ vừa quát lớn:

- Quân ăn cướp! Đồ sát nhân! Bọn ngươi hăy cút khỏi nhà của ta!

Dĩ nhiên những người đó đâu hay biết, họ vẫn thản nhiên bước vào mặc cho ông già la hét om ṣm. Cậu Jules thở dài:

- Một ngày nào đó ông ta sẽ hiểu và hối tiếc cho sự điên rồ này.

- Phải chăng người chết nào cũng thế?

Cậu Jules lắc đầu:

- Không hẳn như thế. Sau khi chết, người ta bước vào một giai đoạn chuyển tiếp (transition period), khi các điều kiện vật chất mà họ thường bám víu vào đang từ từ tan ră và một thế giới mới lạ bắt đầu xuất hiện rơ dần. Cái thế giới này là thế giới của ánh sáng, nhiều người gọi đây là "cơi sáng" cũng không sai.

Đây không phải là thứ ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mà là một thứ ánh sáng rọi khắp cùng một nơi, không một cái ǵ có thể che khuất được nó. Một người có tâm trạng xấu xa, hèn kém th́ không dám nh́n thứ ánh sáng này và thường t́m cách tránh né nó; nhưng một người hiền lành, thánh thiện th́ thoải mái hơn v́ họ biết chấp nhận sự thật.

Dù sao chăng nữa khi từ giă xác thân, ai cũng thấy bầu ánh sáng này và nó soi rơ tâm thức họ, cho họ thấy rơ các diễn tiến xảy ra trong cuộc đời vừa qua. Họ sẽ thấy ḿnh thành công chỗ nào, thất bại chỗ nào, đă học hỏi được những ǵ hay thiếu học hỏi được những ǵ. Học sẽ thấy lại những cảnh đổ máu do chính họ gây nên hay những đau khổ mà họ đă gây ra cho người khác.

Họ cũng ư thức được các hành vi nhân đức, hy sinh, quả cảm của ḿnh và rút tỉa kinh nghiệm học hỏi. Dần dần họ ư thức rằng chính các hành động trong quá khứ đă đưa đẩy họ đến hoàn cảnh trong cuộc sống này và hành động của họ trong kiếp này sẽ quyết định số kiếp tương lai của họ.

Sau khi đă duyệt xét lại tất cả mọi hành động của ḿnh, họ sẽ có những quyết định riêng, dù đó là quyết định ǵ chăng nữa cũng là bước đầu quan trọng của sự tự biết ḿnh. Chính sự tự biết ḿnh này là khởi điểm cần thiết cho sự tiến hoá của con người







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 139 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


TRỞ LẠI CƠI TRẦN


Chương Mười Một


Trong lúc ông nói, vầng hào quang bao phủ quanh ông phát ra những tia sáng chói lọi, lấp loé như kim cương. Cậu Jules mỉm cười:

- Sắp đến lúc cháu phải trở lại cơi trần và Marjorie cũng muốn nói với cháu vài lời từ biệt nên cậu chỉ vắn tắt thôi. Cháu nên nhớ những điều cháu được chứng kiến và học hỏi nơi đây không phải là một giấc mộng hăo huyền mà là sự thật.

Điều cháu học hỏi không phải là một đặc ân nào đâu nhưng chính nhờ đức hạnh của cháu. Cháu và cậu đă làm việc với nhau từ lâu, từ nhiều kiếp sống trong quá khứ, hiện nay cháu không nhớ được bao nhiêu nhưng sẽ có lúc cháu biết được những điều cháu đă làm cũng như hạnh nguyện của cháu.

Ư thức được điều này, nhiệm vụ của cháu sẽ c̣n quan trọng hơn trước rất nhiều. Chúng ta tạm thời chia tay ở đây, trong một thời gian không lâu nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau và sẽ làm việc chung.

Cậu Jules vừs dứt lời th́ tôi đă thấy Marjorie từ xa đi đến. Cô lướt đi nhẹ nhàng như một người khiêu vũ. Quanh cô có một bầy ánh sáng chói lọi khiến tôi không khỏi ngây ngất. Marjorie liếng thoắng:

- Này anh Steve, anh hiểu điều cậu Jules nói rồi chứ?

- Đại khái anh cũng hiểu được ba đôi điều nhưng cậu Jules nói là anh sắp phải trở về... Như vậy làm sao anh có thể gặp lại cậu Jules hay em đây ?

- Anh đừng lo. Em sẽ đến gặp anh mỗi khi anh ngủ. Nếu cần, anh cứ tập trung tư tưởng trước khi ngủ để nghĩ đến em th́ em sẽ đến gặp anh ngay. Thôi, đă đến lúc anh phải trở về rồi...

Tự nhiên tôi thấy mệt mỏi một cách lạ lùng, ngục tôi đau nhói và hơi thở trở nên khó khăn khiến tôi phải đưa tay ôm lấy ngực. Tai tôi c̣n nghe văng vẳng tiếng Marjorie:

- Tạm biệt anh Steve, chúng ta sẽ gặp lại nhau...

Khi tỉnh dậy, tôi biết ḿnh đă hôn mê gần một ngày. Cô y tá trực kể rằng tưởng tôi đă chết, người ta đem tôi xuống nhà xác để tẩm liệm nhưng may thay tôi tỉnh dậy kêu la om ṣm. Bác sĩ khám nghiệm, xác nhận tôi c̣n sống và cho chuyển lên pḥng hồi sinh.

Cô y tá Louise Clayton kể rằng khi vừa tỉnh lại tôi đă hỏi ngay tại sao cô ta không có hào quang. Tưởng tôi c̣n mê sảng nên cô nhẹ nhàng hỏi tôi muốn nói hào quang nào. Tôi trả lời rằng tại sao cô không toát ra hào quang giống như Marjorie.

Nghi rằng tôi muốn t́m một người tên Marjorie nên cô trả lời rằng cô là Louise Clayton, và ở đây không có ai tên Marjorie hết, phải chăng tôi muốn t́m một người tên Marjorie. Tuy nhiên tôi lại nói rằng Marjorie đă chết rồi, chết từ lâu rồi nhưng tôi đă gặp lại cô ta, quanh người cô ta toát ra hào quang và lúc nào cũng lướt đi như khiêu vũ vậy.

Cô y tá cho rằng tôi đă nói mê nhưng tôi nhấn mạnh rằng tôi không mê sảng chút nào cả. Tôi gặp cậu Jules và Marjorie mặc dù cả hai đă chết từ lâu. Tôi c̣n thấy hạ sĩ Andrew Shaw bị trúng đạn ở trán trên chiến trường Âu Châu, gặp Thượng Sĩ Lawrence Sorgen và Trung Úy Robert Stevenson, cả hai đều tử trận hôm đó. Thấy vậy người y sĩ trực ra lệnh cho cô y tá chích cho tôi một liều thuốc ngủ.

Hai hôm sau, khi tôi hoàn toàn tỉnh táo th́ Louise Clayton bước vào:

- Hôm trước trong lúc mê sảng ông nói rằng ông thấy Andrew Shaw, Lawrence Sorgen và Robert Stevenson bị trúng đạn tử trận ở Âu Châu...

- Đúng thế.

Louis Clayton im lặng nh́n tôi rồi đưa ra một bản báo cáo mới nhất của bộ quốc pḥng thông báo tên những quân nhân tử trận và dĩ nhiên có cả tên ba người này. Việc một người bị hôn mê bất tỉnh tại North Carolina biết được những sự kiện xảy ra bên chiến trường Âu Châu quả là một việc kỳ lạ.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 140 of 1146: Đă gửi: 16 June 2010 lúc 5:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TRỞ VỀ TỪ CƠI SÁNG


NHIỆM VỤ CỦA STEVE Ở CƠI TRẦN...


NHỮNG NGƯỜI UỐNG RƯỢU VÀ SỬ DỤNG MA TÚY...


THƯỜNG DỄ BỊ CÁC VONG HỒN BẤT HẢO NHẬP VÀO.


Chương Mười Hai


Ngày hôm sau tôi rủ Louise ra ngồi ở chiếc ghế ngoài sân bệnh viện. Tôi nói:

- Này cô Louise, hôm đó khi vừa tỉnh dậy tôi có nói với cô về hào quang chi đó. Dĩ nhiên cô nghĩ rằng tôi đă nói mê sảng nhưng khi lên pḥng bà y tá trưởng để phúc tŕnh về bệnh t́nh của tôi, cô lại kể chuyện này cho bà đó nghe.

Lúc đó v́ đang xem một hồ sơ bệnh lư nên bà y tá trưởng không hề ngước mắt lên nh́n cô mà chỉ nói: "Chắc ông đó c̣n mê sảng chứ làm ǵ có ai có hào quang".

Sau đó cô rời pḥng để trở về, trên hành lang cô gặp một quân nhân ngă trẹo chân ở sân tập nên cô bước đến phụ giúp việc băng bó cho anh ta. Liệu tôi nói có đúng không?

Louise Clayton hoảng hốt không sao trả lời được:

- Ông Buckley, tại sao ông biết được chuyện đó? Khi ấy tôi nhớ là đă chích cho ông một liều thuốc ngủ và ông đă ngủ li b́ kia mà!

- Đúng thế, tôi không biết ǵ về chuyện đó cả, nhưng hôm qua khi chúng ta nói chuyện với nhau th́ cô tỏ ra không tin. Phần tôi cũng thế, tôi đă suy nghĩ rất nhiều về chuyện này và không biết rằng tôi đă mê hay tỉnh nữa đây.

Tôi nhớ lại lời dặn của Marjorie nên đêm qua trước khi đi ngủ tôi đă tập trung nghĩ đến cô này. Tôi nghĩ rằng điều tôi kinh nghiệm thật mơ hồ, không có bằng chứng và nếu nói ra chắc cũng không ai tin, không chừng người ta c̣n cho rằng tôi loạn trí.

Tuy nhiên sáng nay th́ tôi chắc rằng tôi không mê nữa, tôi đă gặp lại Marjorie trong giấc ngủ và cô ta đă dặn tôi kể lại điều này cho cô.

Louise Clayton im lặng một lúc rồi nói:

- Marjorie c̣n nói ǵ nữa ?

- Marjorie nói rằng được cô trông nom săn sóc là một việc rất quư. Đây không phải một việc ngẫu nhiên đâu mà đă có sự thu xếp để cô săn sóc cho tôi. Cô là một người có ḷng từ ái, làm việc thoải mái, chân thành và có những rung động thanh cao, rất tốt cho việc phục hồi sức khoẻ của các bệnh nhân.

Từ nhỏ cô thích âm nhạc và muốn trở nên một nhạc sĩ dương cầm, nhưng lúc chiến tranh xảy ra, cô t́nh nguyện trở nên một y tá để góp phần vào việc săn sóc, an ủi cho các thương bệnh binh...

Louise Clayton giật ḿnh. Cô suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Theo như ông nói th́ Marjorie có một nhiệm vụ ở cơi bên kia ?

- Đúng thế. Marjorie được giao phó nhiệm vụ giúp đỡ những người vừa từ trần c̣n đang hoang mang, hốt hoảng. Cô ấy giúp họ b́nh tĩnh, thoải mái để chấp nhận sự thật là họ đă bước qua thế giới khác, rồi khuyên họ hăy xă bỏ những ràng buộc với cơi này để siêu thoát.

- Thế c̣n nhiệm vụ của ông?

- Cậu Jules nói rằng nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ những người sống v́ người chết không giúp được người sống, chỉ những người c̣n sống mới có thể khuyên bảo được người sống mà thôi.

- Như vậy ông sẽ làm ǵ?

- Tôi sẽ giúp những người sống hiểu biết về thế giới bên kia, biết rằng chết không phải là hết như mọi người thường nghĩ. Kiếp sống của chúng ta thật ra chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi của một tiến tŕnh rất dài.

Mục đích của cuộc đời không phải là tranh giành, chém giết để đoạt lấy một địa vị, tài sản nhưng để học hỏi về thương yêu. Chúng ta được tạo ra trong t́nh thương của đấng sáng tạo và bản chất thật sự của chúng ta là thương yêu nhưng v́ không ư thức được điều này nên càng ngày chúng ta càng hành động trái với mục đích được tạo ra từ ban đầu.

Cũng v́ thế cuộc đời thường có những biến động để nhắc nhở chúng ta rằng cái mà chúng ta tưởng là những giá trị lớn lao thật ra chỉ là những bọt nước hời hợt, chóng thành mà cũng chóng tan.

Sự chết là một giai đoạn cần thiết trong tiến tŕnh của sự sống để con người duyệt xét lại những việc làm của ḿnh, rút kinh nghiệm để học hỏi, rồi chuẩn bị cho sự tái sinh...

Từ đó Louise Clayton thường đến gặp tôi để nghe kể về những kinh nghiệm học hỏi của tôi ở cơi giới bên kia. T́nh thân ái giữa chúng tôi bắt đầu nảy nở. Tuy không nói ra chúng tôi đều hiểu được t́nh cảm của nhau cho đến khi thời gian điều trị chấm dứt, tôi trở lại quân trường và được đưa qua mặt trận Âu Châu.

Vào lúc đó trận chiến đă tàn, quân đội đồng minh đă giải phóng được nhiều nước và đang trên đường tiến về Bá Linh. Đơn vị tôi trú đóng tại nước Pháp, giữ nhiệm vụ tiếp tế cho các đơn vị khác.

Tuy công việc hàng ngày rất bận rộn nhưng tôi vẫn tiếp tục áp dụng phương pháp mà cậu Jules đă chỉ dạy để thanh lọc bản thân, nhờ thế khả năng của tôi càng ngày càng tiến bộ. Hàng đêm tôi vẫn theo cậu Jules đi an ủi những người vừa từ trần. Hôm đó chúng tôi đi ngang qua một quán rượu, cậu Jules chỉ một đám người đang chen chúc quanh đó.

- Cháu thấy không, đó là vong linh những kẻ nghiện rượu. Khi c̣n sống họ nghiện rượu nên khi chết dục vọng đó vẫn tiếp tục chi phối khiến họ vô cùng đau khổ. Khi c̣n thể xác, uống rượu nhiều quá cơ thể không chịu nổi sẽ lăn ra ngủ, dục vọng tạm thời ngưng hoạt động.

Khi chết, dục vọng này được tự do biểu lộ; không c̣n thể xác kềm chế nữa, nó nung nấu tâm can kẻ nghiện rượu khiến lúc nào y cũng thèm khát đến phát điên phát cuồng. Do đó những vong linh này thường lân la những quanh các trà đ́nh, tửu quán để thưởng thức mùi rượu, nhưng v́ không c̣n thể xác để thoả măn sự ham muốn đó nên dục vọng càng ngày càng gia tăng dữ dội khiến vong linh hết sức khổ sở.

Tôi thấy một số binh sĩ đang uống rượu trong quán, có người uống nhiều quá, nôn mửa đầy xuống đất. Các vong linh nghiện rượu xô đẩy nhau chạy đến cúi sát xuống mặt đất để hít những chất thối tha này.

Họ say mê hít hơi rượu một cách đắm đuối mà trên thế gian chưa thấy ai thưởng thức mùi vị như thế. Thực ra họ không ngửi thấy mùi vị ǵ, bởi v́ họ đâu c̣n các giác quan thể xác nữa, nhưng cái ư nghĩ được thưởng thức rượu quá mạnh đă xui khiến họ hành động như thế. Chỉ nh́n hành động điên cuồng đó mà tôi thấy rợn người.

Cậu Jules chỉ cho tôi thấy một số vong linh khác đang cố gắng nhập vào xác những người say rượu để thưởng thức một vài dư vị của khoái cảm xác thân. Những người say rượu hay sử dụng ma túy thường dễ bị các vong linh nhập vào.

Sự nhập xác này tuy chỉ có tính cách tạm thời trogn chốc lát nhưng nó cũng gây nhiều hậu quả tai hại cho người bị nhập. Càng bị nhập xác, họ càng dễ bị xui khiến làm điều xằng bậy. Theo sự hiểu biết của tôi, khi sự sống th́nh ĺnh bị chấm dứt như trường hợp chết bất đắt kỳ tử th́ người chết khó có thể siêu thoát được v́ dục vọng và sinh lực c̣n quá mạnh mẽ.

Một cái chết bất ngờ luôn tạo ra những chấn động, tán loạn tâm thần khiến cho người chết hết sức hoang mang và đau khổ. Đôi khi họ trở nên thù hằn, oán hận và chính tâm trạng lúc chết này sẽ khiến họ trở nên một động lực hết sức nguy hiểm, có thể xúi giục người sống làm những việc ghê gớm như giết người, hành hạ, hiếp đáp người khác v.v...

Đôi khi các vong linh cũng t́m cách xâm chiếm thể xác của những kẻ yếu bóng vía, những người nhạy cảm, hay những trẻ em yếu ớt những trường hợp này chỉ có tính cách nhất thời v́ bản ngă con người thường rất mạnh, không dễ ǵ có thể đuổi nó đi để cướp lấy thể xác được.

Thường th́ các vong linh trong lúc quá thèm muốn, bị dục vọng nung nấu, t́m cách chiếm cứ xác thân của một con thú nào đó v́ bản năng con thú thường yếu hơn sự đ̣i hỏi điên cuồng của một vong linh. Các loài thú kém tiến hoá như heo, cừu, dê, trâu, ḅ dễ trở thành nạn nhân hơn là các loài thú khôn ngoan như chó, mèo, khỉ, ngựa vốn có ư chí kháng cự mạnh mẽ.

Sự xâm nhập xác thú này có thể trọn vẹn hoặc có khi chỉ trong giây lát nhưng nhờ cơ thể con thú làm trung gian mà vong linh gần gũi được với cơi trần, cảm nhận được mọi sự qua các giác quan của con thú và thoả măn được một ít dục vọng như ăn uống, đ̣i hỏi xác thịt.

Dĩ nhiên khi con thú bị đánh đập hành hạ, vong linh cũng cảm thấy đau đớn khổ sở và khi con thú bị mổ thịt th́ vong linh sẽ hoảng hốt, đau đớn, tuyệt vọng và trạng thái này sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống sau này của vong linh.

Ngoài ra v́ nhập xác thú, các nguyên tử vật chất của con thú sẽ tiêm nhiễm vào thể vía của vong linh nên sau này dù có đầu thai lại thành người, nó cũng có khuôn mặt, h́nh dáng của con thú đó, hoặc tính t́nh hung bạo, tàn ác hay ngu si đần độn như con thú kia. Điều này có thể giải thích được trường hợp những kẻ hung dữ, nhiều dục vọng sẽ đầu thai trở lại thành thú vật.

V́ tâm trạng khi chết có ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống về sau nên cậu Jules và Marjorie phải làm việc rất nhiều để giúp đỡ, cảnh tỉnh và an ủi các vong linh. Phần tôi được giao trọng trách giúp đỡ thân nhân người chết hoặc giúp người chết hoàn tất một tâm nguyện nào đó mà họ chưa làm xong, nhờ thế họ có thể cởi bỏ các ràng buộc với cơi trần để siêu thoát.

Dĩ nhiên sự hoạt động của tôi chỉ giới hạn trong lúc ngủ nên việc làm này không có kết quả nhiều so với công việc của cậu Jules hay Marjorie, nhưng tôi rất thích công việc này. Khi muốn đi đâu hay gặp ai, tôi chỉ cần tập trung tư tưởng trước khi đi ngủ th́ sẽ đến gặp người đó ngay, nhưng tôi không dám sử dụng năng khiếu này để gặp Louise Clayton v́ như thế là lạm dụng quyền năng tâm linh.

Cậu Jules đă dặn tôi rất kỹ rằng một người hiểu biết các định luật thiên nhiên không bao giờ làm một việc ǵ có tính cách ích kỷ hay riêng cho cá nhân ḿnh. V́ biết thế, chúng tôi chỉ tiếp xúc với nhau qua thư từ hoặc thỉnh thoảng bằng điện thoại.






Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 1.7188 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO