Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 53 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Truyện tâm linh - hiendde Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 81 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:33am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



VỊ TU SĨ KHINH THÂN


CHƯƠNG SÁU


Đêm qua, trong một phiên họp, tôi đă thấy một vị tu sĩ Yogi khinh thân ngồi lơ lững trên không, độ chừng một thước tây khỏi mặt đất.

Bạn tôi, Upendra, nói với một giọng xúc động. Tôi mỉm cười:

-Tôi có thể đoán tên ông ta, phải chăng là tu sĩ Bhaduri Mahasaya ở tại đường Upper Circular Road?

Upendra gật đầu, hơi bẽn lẽn v́ anh ta thấy rằng câu chuyện ấy không c̣n là mới mẻ đối với tôi. Các bạn tôi để biết rơ sự thích thú của tôi đối với các vị tu sĩ nên họ lấy làm vui sướng mỗi khi họ có thể mách bảo cho tôi một vị có những thành tích dị thường. Tôi nói:

-Người tu sĩ này ở gần nhà tôi, nên tôi thường gặp ông ta.

Lời nói đó làm cho Upendra rất ṭ ṃ, tôi nói tiếp:

-Tôi gặp ông ta trong một trường hợp đặc biệt. Y đă luyện thành thục những phép khí công theo đạo pháp Patanjali. Có một lần tu sĩ Bhaduri Mahasaya biểu diễn trước mặt tôi phép khí công Bhastrika Pranayama cực mạnh như có một cơn giông băo thổi trong pḥng! Kế đó, y dịu bớt hơi thở ồ ạt của y và ngồi yên bất động, đắm ch́m trong một trạng thái siêu tâm thức. Cái ấn tượng yên tĩnh sau cơn giông tố trong pḥng làm cho tôi không bao giờ quên được.

Upendra có vẻ không tin:

-Người ta nói rằng người tu sĩ ấy không bao giờ bước ra khỏi nhà.

Quả đúng như vậy. Tu sĩ sống bế môn nhập thất từ trên hai chục năm nay, người chỉ bỏ luật lệ ấy trong dịp thánh lễ long trọng, khi đó người bước ra khỏi hàng ba trước nhà trong giây lát. Trong những dịp đó, những kẻ hành khất đều tề tựu đông đảo trước cửa nhà, v́ họ biết tu sĩ có hạnh bố thí rất cao.

-Làm sao tu sĩ có thể ngồi lơ lững trên không, bất chấp cả luật thiên nhiên?

Một vài phép khí công có thể làm cho thân thể tu sĩ mất cả trọng lượng và trở nên nhẹ nhàng. Khi đó, người có thể khinh thân bay bổng trên không trung, hoặc ít nhất người có thể nhảy vọt như con ếch. Vài vị tu sĩ không thực hành pháp môn Yoga cổ truyền của Ấn Độ cũng có thể khinh thân trong trạng thái thiền định thâm sâu.

-Tôi muốn t́m hiểu thêm về vị tu sĩ này. Anh có đến dự những buổi họp vào lúc chiều tối đó không? Upendra hỏi với sự ṭ ṃ hiện ra trong đôi mắt.

-Có, tôi thường dự các buổi họp. Tôi hưởng thụ được nhiều điểm minh triết thâm sâu của ông. Đôi khi cái cười kéo dài của tôi làm gián đoạn sự trang nghiêm của các buổi họp. Điều đó cũng không hề làm phật ḷng tu sĩ, nhưng có lẽ các đệ tử không có được cái thái độ hồn nhiên đó.

Buổi chiều đi học về, tôi đi ngang nhà tu sĩ Bhaduri và ghé vào thăm ông. Tu sĩ thường không hay tiếp khách. Người đệ tử có nhiệm vụ canh gác ngoài cửa chận tôi lại hỏi xem tôi có hẹn trước không. Mya khi ấy tu sĩ xuất hiện đúng lúc giúp tôi khỏi bịđuổi ra:

-Hăy để cho Mukunda vô nhà khi nào y muốn.

Đôi mắt tu sĩ điểm một tia sáng:

-Sự bế môn nhập thất của tôi không phải v́ lư do tiện nghi riêng cho tôi, mà là cho kẻ khác. Những người ngoài đời không thích nghe lời thành thật nó làm tiêu tan những ảo ảnh của họ. Những vị chân tu không những hiếm có, mà lại c̣n làm cho người ta hoang mang. Thánh kinh cũng có nói rằng: “Các vịấy thường làm cho người đời đâm ra lúng túng trong cuộc sống của họ!”

Tôi theo chân tu sĩ vào pḥng riêng trên lầu, một gian pḥng đơn sơ mà người không bao giờ bước ra khỏi. Các vị minh sư thường được lánh xa cuộc đời náo nhiệt ồn ào và sống tuyệt đối ngoài ṿng thế tục.

-Bạch Tôn Sư, ngài là vị tu sĩ đài tiên sống bế môn mà tôi được biết.

-Tạo hóa đặt để các nhà hiền giả trên những địa hạt vô cùng khác biệt nhau để cho chúng ta đừng nghĩ rằng Ngài có thể tự giới hạn những luật lệ nhất định.

Tu sĩ ngồi yên trong tư thế Liên Hoa. Người đă trên bảy mươi tuổi, nhưng không có mang dấu vết của sự già nua. Lưng thẳng, vóc dáng lực lưỡng, người có một thân h́nh cân đối lư tưởng về mọi phương diện. Người có cái gương mặt đạo mạo của một vị minh sư, như được diễn tả trong các kinh sách tôn giáo; với một bộ râu chải chuốt, cốt cách thanh cao, người ngồi yên bất động như một pho tượng. Đôi mắt yên lặng đứng tṛng trong cơn đại định, xuất thần.

Tu sĩ và tôi cùng đắm ch́m trong một cơn thiền định thâm sâu. Một giờ sau, giọng nói thanh tao của người kéo tôi ra khỏi cơn thiền định:

- Con nhập thiền khá dễ dàng đấy, nhưng con đă cảm thông được với Thượng Đế hay chửa

Tu sĩ có ư nhắc nhở tôi rằng người ta phải t́m sự Hợp Nhất với Thượng Đế chứ không phải thiết tha với sự tham thiền.

- Con đừng lầm lộn cái phương tiện với mục đích.

Gương mặt người luôn luôn biểu lộ sự bằng an, nở một nụ cười đầy phúc lạc, đôi mắt dịu hiền ưu ái:

-Những thơ tín này từ Mỹ Châu đến; người vừa nói vừa chỉ những gói lớn trên bàn. Tôi giao dịch với nhiều hội tinh thần ở Mỹ, mà hội viên chú trọng đến pháp môn Yoga. Họ đă t́m lại xứ Ấn Độ, nhưng không đi nhầm đường như Kha Luân Bố ngày xưa. Tôi vui ḷng giúp họ. Pháp môn Yoga, cũng như ánh nắng mặt trời, là sở hữu của tất cả mọi người. Điều mà các chân sư coi như cần thiết cho sự giải thoát cũng có giá trịở phương Tây. Cùng một tâm hồn, cùng một quan niệm nhân sinh như nhau, Đông Phương và Tây Phương sẽ phát triển như nhau nhờ ở phép tu giải thoát của pháp môn Yoga.

Tu sĩ đưa cái nh́n yên lặng về phía tôi. Lúc đó tôi chưa hiểu những lời nói đó có tính cánh tiên tri như thế nào. Đến bây gị, trong khi viết những gịng chữ này, tôi mới hoàn toàn nhận định rơ ư nghĩ của những cách nói bóng gió đó, ám chỉ sứ mạng của tôi trong việc truyền bá sang Mỹ Quốc nền minh triết thâm sâu của Ấn Độ.

-Bạch Tôn Sư, ngài nên viết một quyển sách về pháp môn Yoga để giúp ích cho đời.

-Tôi chỉ dẫn các môn đồ. Họ và những đệ tử của họ sẽ là một bằng chứng linh động và có giá trị hơn một quyển sách, nó sẽ bị sừ phá hoại của thời gian và chịu những lời phên b́nh hẹp ḥi nông cạn của người đời.

Tôi c̣n ngồi một ḿnh với tu sĩ cho đến khi các đệ tử tề tựu đến. Tu sĩ Bhaduri có một tài hùng biện lưu loát độc đáo nó làm cho cử tọa say mê. Ngồi nghe tu sĩ thuyết pháp mà có cảm giác như là những luồn sóng êm đềm đưa đẩy chúng tôi một cách nhẹ nhàng ra khỏi bến mê và lôi kéo chúng tôi đến bờ giác.

Những môn đệ bước tới bỏ vài đồng rupees vào cái bao vải bên cạnh tu sĩ, trong khi tu sĩ đang ngồi thiền. Cử chỉ trọng vọng đó là một tập quán thông thường ở Ấn Độ, có ư nghĩa tượng trưng rằng người đệ tử từ bỏ mọi thứ của cải vật chất lại dưới chân Thầy. Một môn sinh lúc từ giă tu sĩ, nói một cách thán phục:

-Bạch thầy, thật là kỳ diệu thay: Thầy đă từ bỏ sự giàu sang sung sướng để t́m Đạo và dạy cho chúng con sự Minh Triết!

Người ta biết rằng tu sĩ Bhaduri lúc thiếu thời đă từ bỏ gia đ́nh giàu có để theo con đường tu luyện pháp môn Yoga. Tu sĩ đáp:

-Con đă nói trái với sự thật! Thầy bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này th́ đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đă từ bỏ và hưinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm, vô thường!

Vị tu sĩ khất thực, áo quần rách rưới tả tơi, lại biến thành một phú ông tâm linh, c̣n người tỷ phú kiêu hănh lại là một kẻ chịu pháp nạn mà không hề hay biết! Đó mới là một điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ, hy sinh! Tu sĩ nói tiếp:

-Thiêng Liêng lo cho tương lai của chúng ta một cách vô cùng minh triết và sáng suốt hơn là bất cứ một công ty bảo hiểm nào!

Sau cùng lời kết luận của tu sĩ là một thông điệp đầy đạo lư:

-Thế gian dẫy đầy những kẻ băn khoăn chờ đợi một sự cứu giúp đến từ bên ngoài. Những tư tưởng đắng cay của họ hiện rơ trước mắt, không dấu được ai. Nhưng đấng tối cao đă ban cho con người từ thuở sơ sinh bầu không khí trong lành và nguồn sữa mẹ, chắc hẳn cũng lo liệu cung cấp mọi thứ nhu cầu hàng ngày cho những đứa con của ngài.

Như thường lệ, sau giờ tan học, tôi vẫn đến tịnh thất của tu sĩ. Với một ḷng ưu ái thầm lặng, tu sĩ đă giúp tôi đạt tới sự ngộ đạo trong cơn tham thiền.

Về sau, các đệ tử thân tín của tu sĩ mới xây cất cho người một đạo viện mới gọi là Nagendra Math.

Tôi xin kể lại đây những lời mà nhiều năm sau, tu sĩ Bhauri đă nói với tôi khi tôi gặp người lần cuối. Ít ngày trước khi tôi lên đường sang Mỹ Quốc, tôi đến từ giă tu sĩ và khiêm tốn qú dưới chân người để xin người ban ân huệ. Người nói:

- Con hăy b́nh yên lên đường sang Mỹ Quốc. Nền minh triết của Ấn Độ sẽ là thần hộ mạng che chở cho con. Con có mang trên trán cái ấn chứng của sự thành công, các dân tộc ở nơi xa xôi kia sẽ dành cho con một sự tiếp đón nồng hậu.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 82 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:34am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NGƯỜI CON YÊU CỦA PHẬT MẪU


CHƯƠNG BẢY


-Con hăy ngồi đợi một lát. Ta đang bận chiêm ngưỡng đức Phật Mẫu.

Với ḷng tôn kính, tôi yên lặng bước vào gian pḥng và lấy làm ngạc nhiên trước tác phong hiền đức của Tôn Sư Mahasaya (vị này là đệ tử của đức Ramakrishna, khác với Lahiri Mahasaya đệ tử của đức Babaji). Với cḥm râu bạc trắng và nhuyễn như tơ, đôi mắt lớn chiếu sáng ngời, người có vẻ như hiện thân của sự tinh khiết. Cái cằm ngẩng lên, hai bàn tay nắm chặt là dấu hiệu cho thấy rằng tôi đă gặp tôn sư giữa những cơn tham thiền.

Những lời để tiếp đón giản dị đó gây cho tôi cái phản ứng mănh liệt nhất mà tôi chưa từng cảm thấy bao giờ. Sự bi thảm lớn nhất của tôi là khi mẹ tôi qua đời, bây giờ cơn ray rứt v́ chia ly với đức Phật Mẫu thiêng liêng làm cho tôi đau khổ vô ngần; tôi kêu khóc và nằm vật ḿnh xuống đất. “Con hỡi, hăy b́nh tĩnh lại!” Tôn sư nói với ḷng ưu ái và xúc động.

Trong cơn bi thảm, tôi nắm lấy hai bàn chân của Tôn sư như người bị trôi dạt trên mặt biển vói lấy cái phao cứu mệnh.

-Bạch Tôn Sư, xin tôn sư hăy cầu xin giúp cho con. Tôn Sư hăy hỏi đức Phật Mẫu xem con có thể được Ngài ban ân phúc hay chăng?

Một lời hứa về sự yêu cầu này không phải dễ làm. Tôn Sư phải định tĩnh lại tinh thần. Tôi không nghi ngờ chút nào về việc đức Mahasaya có thể tiếp xúc với đức Quan Thế Âm (Đức Mẹ thế gian, tức phương diện mẫu nghi của Vũ Trụ, được người Ấn giáo tôn thờ dưới biểu tượng nữ thần Kali).
Thật là một điều đáng buồn mà nghĩ rằng tôi mù quáng trước sự hiện diện của đức Phật Mẫu, trong khi Ngài xuất hiện ở gần bên tôi trước nhăn quang tinh khiết của tôn sư! Không chút hổ thẹn, tôi bám chặt lấy chân tôn sư; không màng để ư đến những lời quở trách nhẹ nhàng của tôn sư, tôi không ngớt khẩn cầu người hăy giúp tôi. Sau cùng, tôn sư bằng ḷng với một nụ cười thương hại:

-Ta sẽ chuyển đạt lời cầu xin của con lên đức Phật Mẫu.

Những lời nói ấy có một hàm xúc rất mănh liệt và nhiệm mầu đến nổi trong giây phút tôi đă không c̣n cảm thấy đau đớn.

-Bạch Tôn Sư, xin Tôn Sư hăy giữ lời hứa! Con sẽ trở lại ngay để biết kết quả.

Ḷng tôi tràn ngập một niềm trông đợi đầy hoan lạc, mặc dầu trước đó tôi đă khóc nức nở quên thôi.

Tôi bước xuống cầu thang dài nhiều nấc và những kỷ niệm cũ đă trở lại với tôi. Chính tại ngôi nhà số 50 đường Amherst mà tôn sư Mahasaya hiện đang ở là nơi gia đ́nh tôi cư ngụ trước kia; cũng tại đây là nơi mẹ tôi từ trần. Chính tại đây là nơi mà khi tôi c̣n thơ ấu, tôi đă trăi qua một cơn sầu khổ v́ mất mẹ, và cũng chính tại đây mà ngày hôm nay, tâm hồn tôi bịđau khổ dày ṿ v́ vắng bóng đức Phật Mẫu thiêng liêng... Ḱa là những bức tường vô tri giác, những nhân chứng câm lặng đă chứng kiến sự tuyệt vọng thâm trầm sâu xa của tôi, và sự hồi phục sau rốt của tôi...

Với bước đi nhanh nhẩu, tôi trở về nhà ở đường Gurpar Road. Tôi ẩn trú trong sự biệt lập của gác lầu nhà tôi để đắm ch́m trong cơn thiền định cho đến mười giờ tối. Th́nh ĺnh, một linh ảnh chóa mắt xé tan cái bóng tối ấm cúng của một đêm xuân Ấn Độ. Đức Phật Mẫu thiêng liêng xuất hiện trong một vầng hào quang rực rỡ chói ḷa. Gương mặt ngài điểm một nụ cười dịu hiền, hiện ra với một vẻ đẹp khôn tả:

-Mẹ vẫn luôn luôn thương con, và t́nh thương của Mẹ không bao giờ dứt!

Giọng nói thốt ra với một thứ âm thanh của cơi trời, không hề nghe thấy ở trần gian, vang lên trong như tiếng bạc. Kế đó linh ảnh biến tan dần.

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, tôi đă hối hả chạy đến nhà tôn sư Mahasaya. Tôi bước lên thang lầu của ngôi nhà cũ c̣n dấu vết những kỷ niệm đau buồn và bước vào pḥng tôn sư trên tầng lầu thứ bốn. Cái nắm tay ngoài pḥng có bọc một cái khăn vải, điều này chắc ngụ ư rằng tôn sư không muốn bị ai quấy rầy. Trong khi tôi đang đứng do dự ngoài cửa th́ bàn tay khả ái của vị Tôn Sư đă mở cửa pḥng. Tôi bèn qú xuống chân người. Tuy ḷng tôi tràn đầy nỗi vui mừng, tôi cũng giả vờ nghiêm nét mặt để che dấu niềm phúc lạc thiêng liêng của tôi.

-Bạch Tôn Sư, con biết rằng con đến đây quá cớm để hỏi kết quả. Đức Phật Mẫu có trả lời cho con chăng?

-À! Con láo thật!

Tôn Sư không nói thêm một điều ǵ nữa. Dường như sự nghiêm trang giả tạo của tôi không làm cho người chú ư.

-Tại sao con có vẻ bí mật và tránh né như vậy? Các tu sĩ há chẳng thường hay nói bằng những lời vắt tắt đó sao?

Thấy tôi có vẻ lúng túng, tôn sư nói tiếp:

-Con muốn thử ta chăng?

Nhưng đôi mắt yên lặng của người tràn đầy một niềm thông cảm :

-Ta có thể nói ǵ nữa chăng, ngoài những lời trấn an mà con đă nhận được của đức Phật Mẫu tối hôm qua lúc mười giờ?

Tôn sư Mahasaya có cái bí quyết làm vơi bớt nỗi niềm tân sự tràn đầy của tâm hồn tôi; tôi bèn qú dưới chân người, nhưng lần này, tôi tuôn tràn ḍng lệ v́ quá sung sướng.

-Con nghĩ rằng ḷng sùng kính của con không làm cho đức Phật Mẫu cảm động hay sao, với tấm ḷng từ bi ác ái vô lượng vô biên của ngài? Cái nguyên lư mẫu nghi của vũ trụ mà con đă tôn sùng dưới h́nh thức thiên liêng của đức Phật Mẫu không bao giờ làm ngơ mà không xúc động trước những lời cầu khẩn nhiệt thành của con!

Tôn sư Mahasaya là ai mà mở lời cầu nguyện của người đều được đức Phật Mẫu chiếu cố và ban ân phước? Địa vị của người ở trên thế gian thật là khiêm tốn, cũng như tất cả những bậc hiền nhân thánh triết mà tôi đă biết. Tại tư gia của người Amherst, tôn sư Mahasaya có mở một lớp dạy các nam học sinh ban trung học. Người không hề thốt ra những lời nghiêm khắc; cũng không dùng những biện pháp trừng phạt hay luật lệ để giữ ǵn kỷ luật. Do những lời giáo huấn của người không hề rút trong sách vở, mà tôn sư ban bố sự minh triết bằng tấm gương đạo hạnh hơn là bằng những giáo điều khô khan. Người đặt để trọn cả tâm hồn vào sự chiêm ngưỡng tôn sùng đức Phật Mẫu nên không bắt buộc học tṛ phải biểu lộ sự tôn kính thầy dưới một h́nh thứ bề ngoài. Tôn Sư nói với tôi:

-Ta không phải là Thầy của con. Thầy của con sẽ đến với con trong tương lai. Dưới sự chỉ dẫn của người, con sẽ đạt tới sự minh triết trên đường Đạo.

Mỗi buổi chiều, tôi đều viếng tư thất của tôn sư. Sự có mặt của người là nguồn suối tâm linh dồi dào mà hàng ngày tôi t́m đến để thỏa măn ḷng khát khao đạo lư. Từ trước đế nay tôi không hề biết qú lạy ai với một tấm ḷng sùng kính nhiệt thành như vậy. Bây giờ, tôi coi như một diễm phúc vô biên mỗi khi tôi có dịp đến ngồi bên cạnh người.
Một hôm, tôi đến nhà tôn sư với một tràng hoa tươi.

-Bạch Tôn Sư, đây là ṿng hoa champak mà chính tự con đă kết lại để hiến dâng người.

Tôi vừa nói vừa nân ṿng hoa định quàng lên cổ tôn sư. Nhưng tôn sư tránh qua một bên, và từ chối sự lễ nghi trịnh trọng đó. Sau cùng, khi người thấy tôi bẽn lẽn, người mới nở một nụ cười bằng ḷng:

-V́ lẽ cả hai chúng ta đều tôn sùng đức Phật Mẫu thiêng liêng, bây giờ con có thể dùng tràng hoa để tô điểm cái thánh điện bằng xương thịt này, là nơi trú ẩn của Ngài.

-Tánh chất tâm linh phong phú của người không có chỗ để dung nạp những lư do ích kỷ.

-Ngày mai chúng ta hăy đến viếng đền Dakshineswar mà tôn sư ta đă thánh hóa một cách vĩnh viễn.

Tôn Sư Mahasaya trước kia là đệ tử của bậc thánh sư Sri Ramakrishna.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi một quăng đường dài bốn dặm trên sông Hằng. Chúng tôi vào đền thờ Phật Bà Quan Âm với tám mái bầu tṛn nhô lên cao vút, tại đây tượng đức Phật Mẫu được dựng lên trên một hoa sen khổng lồ đúc bằng bạc với một ngh́n cánh hoa, được chạm trỗ rất công phu và mài dũa sáng bóng. Đức Mahasaya đến chiêm ngưỡng một cách say sưa sùng kính đức Phật Mẫu thiêng liêng, ḷng tôi tràn ngập một niềm kính yêu khôn tả.

Đó là chuyến hành hương đầu tiên của tôi tại ngôi đền này. Tôn Sư giảng dạy cho tôi nghe ư nghĩa của đức Phật Mẫu, phương diện mẫu nghi của vũ trụ càn khôn, biểu tượng của ḷng Từ Bi Bác Ái thiêng liêng.

Một hôm tôn sư đưa tôn đế lớp học. Niềm vui của tôi bỗng bị che ám bởi một người quen cũ từ đâu xuất hiện th́nh ĺnh và rót vào tai chúng tôi một câu chuyện dài tràng giang đại hải. Tôn Sư kề tai tôi nói nhỏ:

-Ta thấy con không thích người này. Ta đă nói với đức Phật Mẫu thiêng liêng, ngài đă hiểu t́nh h́nh bí lối của chúng ta và hứa rằng khi chúng ta đi đến cái nhà ngói đỏ đằng kia, ngài sẽ làm cho y nhớ lại một chuyện gấp để y đi cho khuất mắt.

Người bạn vô duyên kia măi lo nói độc thoại huyên thuyên nên chẳng nghe thấy ǵ, c̣n tôi kiên nhẫn chờ và nh́n về phía căn nhà đỏ đằng trước. Khi chúng tôi vừa đến ngang qua cửa nhà sơn đỏ, ông bamn nói nhiều kia bỗng xoay gót trở lại và hối hả rút lui trong khi y nói chưa dứt câu, cũng không kịp chào từ giă. Chúng tôi thốt lên một tiếng thở dài nhẹ nhơm.

Tôn Sư quàng tay trên vai tôi một cách thân mến:

- Con có thích xem chớp bóng không?

Câu hỏi đó làm cho tôi ngơ ngác. Tuy vậy, tôi cũng nhận lời v́ tôi cảm thấy sung sướng được ở gần bên tôn sư bất cứ trong trường hợp nào. Chúng tôi rảo bước đi mau vào một công viên trước trường đại học Calcutta. Tôn Sư chỉ một cái ghế dài gần bên hồ nước:

Chúng ta hăy ngồi đây trong giây lát. Thầy ta luôn luôn khuyên ta hăy ngồi thiền trước một hồ ao mặt nước phẳng lặng, nó gợi cho ta cái ư niệm yên tĩnh tuyệt đối của tính chất thiêng liêng.

Kế đó, chúng tôi bước vao nhà giảng đường của trường đại học, tại đây đang có một cuộc thuyết tŕnh về một đầu đề khoa học mà tôi nhận thấy vô vị và chán phèo, mặc dù có chiếu h́nh ảnh nhưng cũng vô phương vô vị không kém! Tôi thầm nghĩ: “Đây chắc là cuộc chiếu mà tôn sư đă nói lúc năy.”

Tuy tôi không thích nhưng tôi không muốn bày tỏ một cách quá bộc lộ sự chán ản của tôi, v́ e làm mất ḷng tôn sư. Nhưng tôn sư đă day qua phía tôi và kề vai nói nhỏ:

-Ta thấy rằng con không ưa chiếu bóng này. Ta đă nói với đức Phật Mẫu thiêng liêng. Ngài cũng thông cảm với chúng ta và cho biết rằng điện sẽ tắt trong giây lát và đèn sẽ bật sáng lại khi chúng ta đă ra khỏi gian pḥng này.

Ngay khi đó, cả gian pḥng bị đắm ch́m trong bóng tối. Giọng nói vang rền của vị giảng sư ngưng bặt giữa sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, rồi tiếp tục: “Hệ thống giây điện trong pḥng này chắc bị hỏng.” Tôn sư và tôi thừa dịp đó bèn đứng dậy bước ra khỏi cửa một cách an toàn. Ra ngoài hành lang, tôi quay lại nh́n th́ thấy giảng đường lại bật đèn sáng trưng.

-Con hỡi, buổi chiếu bóng này làm cho con thất vọng, nhưng ta sẽ cho con xem một cuộc chiếu bóng hoàn toàn khác hẵn.

Lúc ấy chúng tôi đang đứng trên vĩa hè trước trường đại học. Tôn Sư lấy tay đặt nhẹ trên ngực tôi, ở ngay chỗ quả tim.

Khi đó tôi cảm thấy một cơn im lặng lạ thường. Cũng như một cuốn phim chớp bóng nói, trở thành một cuốn phim câm khi hệ thống âm thanh bị hỏng, bàn tay sờ nhẹ của tôn sư, do một quyền năng nhiệm mầu nào đó, đă dẹp tan mọi tiếng động chung quanh tôi, làm cho tôi không c̣n nghe thấy ǵ nữa. Cảnh vật ngoài đường người đi bộ, xe điện, xe hơi, xe ḅ, xe ngựa với những bán xe niềng sắt di chuyển khắp nơi mà không có một tiếng vang. Dường như có nhăn quang thần thông, tôi nh́n thấy sự vật diễn ra đằng sau lưng tôi, và ở hai bên tôi cũng rơ ràng như trước mặt. Tất cả mọi hoạt động trong khu vực ấy của thành phố Calcutta diễn ra trước mắt tôi mà không có một tiếng độnh hay một giọng nói của một người nào. Cũng như ánh lửa than hồng c̣n le lói xuyên qua một lớp tro dầy phủ ở trên, một ánh sáng dịu mờ chiếu xuyên qua cái linh ảnh tổng quát của tôi.

Thân thể tôi chỉ c̣n là một cái bóng giữa bao nhiêu những cái bóng khác, với sự khác biệt này là nó bất động, trong khi những cái bóng khác lưu thông, di chuyển qua lại không ngớt. Nhiều thanh niên trong số các bạn hữu của tôi đến gần tôi và đi qua mà không nhận ra tôi, tuy rằng họ dường như nh́n tôi thẳng vào tận mắt.

Cái linh ảnh lạ lùng này làm cho tôi say sưa ngây ngất trong một niềm phúc lạc không thể tả nổi, cũng ví như tôi đă được uống suối cam lồ của cơi tiên giới. Th́nh ĺnh tôi cảm thấy Tôn Sư Mahasaya lại vỗ nhẹ một lần nữa vào chỗ quả tim của tôi. Sự náo nhiệt ồn ào của đám quân chúng lại tràn vào cơi ư thức của tôi. Tôi lảo đảo v́ bị lôi kéo một cách phủ phàng ra khỏi một cảnh mộng mê ly. Chén nước cam lồ đem niềm phúc lạc thần tiên lại một lần nữa lọt ra ngoài tầm tay của tôi. Tôn sư mỉm cười và nói:

- Con hỡi, ta hy vọng rằng con đă thấy cuộc chiếu bóng sau này hạp với sở thích của con?

Tôi sửa soạn cúi lạy dưới chân người. Người bèn phản đối:

- Con không được làm thế. Con biết rằng con cũng là một thánh điện của vị Phật Tánh ngự bên trong! Ta không chịu để cho đức Phật Mẫu hạ ḿnh làm lễ đối với ta qua sự trung gian của con!

Lúc ấy nếu có ai nh́n thấy chúng tôi tránh né đám đông người, chắc sẽ nghĩ rằng chúng tôi đang say rượu. Tôi có cảm tưởng rằng thậm chí những bóng tối của ban đêm cũng say sưa mùi Đạo!

Khi ánh b́nh minh vừa ló dạng, và bóng tối đă lui dần, một ngày mới xuất hiện đă lấy đi mất cái niềm phúc lạc say sưa của tôi trong đêm vừa qua. Nhưng cái kỷ niệm của tôn sư, người con yêu quí của đức Phật Mẫu thiêng liêng, không bao giờ mất trong ḷng tôi.





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 83 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:35am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TÔI GẶP SƯ PHỤ SRI YUTESWAR


CHƯƠNG TÁM


“Đức tin nơi Thiêng Liêng có thể giúp ta làm nên mọi việc, trừ việc thi đậu mà không có học bài!” Tôi ngạo nghễ xếp lại quyển sách mà tôi đă giở ra trong một lúc nhàn rỗi và thầm nghĩ:

-Sự dè dặt của tác giả này chứng tỏ sự hoàn toàn thiếu đức tin. Có lẽ y chú trọng thái quá đến việc thi cử.

Tôi đă hứa với cha tôi là sẽ học cho hết chương tŕnh ban Tú Tài. Tôi không tự hào là ḿnh chăm học. Những tháng sau cùng, tôi thường đến ngồi suy tư ở những nơi vắng vẻ trên bờ sông Hằng thay v́ đến lớp học.

Khu đất dành cho việc hỏa táng xác chết, đặt biệt rùng rợn lúc ban đêm, có một sức hấp dẫn rất lớn đối với những tu sĩ Yogi. Người đi t́m chân lư, t́m cái tinh hoa của sự Bất Tử, ắt không cảm thấy ghê rợn trước những cảnh thây ma và sọ người. Tính chất vô thường của sự vật trần gian càng biểu lộ rơ hơn ở gần bên cảnh tượng rùng rợn của những đống xương tàn. Đó là bối cảnh của những cuộc đi chơi đêm của tôi, thật khác xa với lối tiêu khiển của bao nhiêu đứa học tṛ khác!

Tuần lễ thi Tú Tài ở trường Trung Học đă sắp đến. Thời gian chờ đợi thật là một giai đoạn cực h́nh: Tâm trí tôi không hề được phút nào nghĩ ngơi. Trong những đêm làm bạn với xác chết và sọ người, tôi đă thu thập một kiến thức không có dạy ở nhà trường, nhưng c̣n thiếu cái quyền năng của tu sĩ Swami Pranabananda là phân thân để xuất hiện cùng một lúc ở hai nơi!

-À! Mukunda! Mấy hôm nay, anh đi đâu mà biệt tích vậy? Một bạn học gọi tên tôi ngoài đường vào một buổi chiều.

- À, Nantu, chào anh! V́ biệt tích nên bây giờ tôi mới nguy như thế này!

Nantu là một học tṛ giỏi, y cười một cách thoải mái về sự thú nhận của tôi.

-Tự nhiên là anh không đủ chuẩn bịđể ứng phó với những bài thi năm nay. Có lẽ tôi nên giúp anh.

Những lời đó vang dội bên tai tôi như một lời hứa hẹn thiêng liêng. Tôi bèn hối hả đi đến nhà bạn tôi. Y chỉ dẫn cho tôi nghe một cách vắn tắt cách giải đáp những câu hỏi mà y cho rằng các giám khảo có thể đưa ra trong kỳ thi năm nay.

Đó là những câu hỏi hóc búa mà họ sẽ dùng để hạ một số thí sinh. Anh hăy học kỹ những bài giải đáp của tôi, rồi anh sẽ trúng tủ!

Đêm đă khuya khi tôi từ giă bạn tôi ra về. Sau khi đă tự nhồi sọ với những kiến thức mới đó, tôi nhiệt thành cầu nguyện sao cho tất cả những điều đó đừng tiêu tan như mây khói vào những ngày quyết định. Chương tŕnh thi Tú Tài gồm nhiều môn học khác, nhưng trong khi vội vàng, Nantu đă quên môn Phạn Ngữ. Tôi cầu nguyện đấng Thiêng Liêng hăy giúp tôi vượt qua sự thiếu sót đó.

Sáng ngày hôm sau, tôi đi bách bộ dạo chơi và ôn lại trong trí những bài giải đáp vừa học được. Khi tôi đi vào một đường nhỏ qua một khoảng đất trống, tôi thấy trên băi cỏ có vài trang giấy có chữ in; tôi lượm lên xem th́ đó là một bài văn thơ Phạn Ngữ cổ điển. Tôi bèn t́m một học giả hay chữ để giúp tôi b́nh luận về bài văn thơ này. Giọng ngâm nga phong phú của ông ta làm nổi bật những âm điệu và vần thơ bất hủ của thứ cổ ngữ này.

Những câu thơ đặc biệt này chắc sẽ không phải là đầu đề thi năm nay! Nhà học giả nói với một nụ cười hoài nghi.

Tuy vậy, sự hiểu biết tường tận, dầu chỉ có một bài thơ duy nhất, đă giúp cho tôi vượt qua bài thi Phạn Ngữ trong ngày hôm sau. Sự chỉ dẫn của Nantu cũng giúp tôi có một số điểm trung b́nh về những môn học khác.

Cha tôi lấy làm sung sướng mà thấy rằng tôi đă giữ đúng lời hứa. Tôi biết ơn Thượng Đế đă giúp tôi qua sự trung gian của Nantu và đă khiến cho tôi đi rẽ qua con đường tắt trên mảnh đất hoang có rải rác giấy tờ vụn vặt. Như vậy Ngài đă hai lần che chở cho tôi.

Quyển sách mà tác giả đă phủ nhận quyền năng thiêng liêng đối với vấn đề thi cử, lại hiện ra trước mắt tôi. Tôi mỉm cười và thầm nghĩ, “Y sẽ phân vân đến đâu nếu tôi cho y biết rằng sự tham thiền giữa những thây ma nơi nghĩa địa đă giúp cho tôi thi đậu tú tài!”

Với tư cách một cậu tú tài tân khoa, tôi có thể chuẩn bịđể công khai rời khỏi gia đ́nh. Sau khi hội ư với Jitendra Mazumdar, tôi quyết định đến một đạo viện Sri Bharat Kharma Mahamandal ở Banaras để theo một khóa huấn luyện tâm linh.

Tuy nhiên tôi cảm thấy nghẹn ngào khi nghĩ đến việc chia ly với gia đ́nh. Từ khi mẹ tôi qua đời, tôi cảm thấy nẩy nở một t́nh thương đậm đà đối với hai em trai tôi là Sanada và Bishnu. Tôi bèn lui vào nơi ẩn trú của tôi trên gác lầu, là chỡ tôi vẫn công phu tham thiền hàng ngày. Tôi khóc thật lâu và sau cùng tôi cảm thấy có một sự thay đổi diệu huyền trong người tôi, dường như dưới ảnh hưởng của một mănh lực vô h́nh nào. Sợi dây trói buộc của t́nh thương gia đ́nh bị bẻ găy. Quyết định xuất gia tầm đạo của tôi đă trở nên cứng rắn không sao lay chuyển. Tôi lo hoàn tất việc chuẩn bị lên đường.

Cha tôi bằng ḷng cho tôi ra đi một cách luyến tiếc. Tôi hối hả lên đường để đúng hẹn với Jitandra, y đă có mặt tại đạo viện Banaras. Khi tôi đến nơi, tu sĩ Đayananda, vị sư tưởng hăy c̣n trẻ, tiếp đón tôi một cách nồng hậu. Tác cao, hơi gầy, vẻ mặt suy tư trầm tĩnh, tu sĩ gây cho tôi một ấn tượng tốt lành. Gương mặt khôi ngô của tu sĩ phảng phất những nét giống như đức Phật.

Tôi lấy làm sung sướng mà thấy rằng nơi tư thất mới của tôi có một cái gác nhỏ ở đó mỗi buổi sáng tôi có thể tham thiền trong vài giờ. Những đệ tử trong đạo viện không quen thực hành môn thiền định, bèn quyết định giao cho tôi một công việc tổ chức. Họ khen tặng tôi về công việc mà tôi làm ở văn pḥng mỗi buổi chiều. “Huynh không nên nhập Niết Bàn quá sớm!” một bạn đồng môn nói với tôi khi tôi rút lui lên gác. Tôi bèn đến gặp tu sĩ Dayananda trong am thất nhỏ của người, có cửa sổ nh́n xuống sông Hằng:

-Thưa sư trưởng, tôi không hiểu ở đây người ta muốn tôi phải làm ǵ. Tôi đang công phu để đạt tới Đạo một cách trực tiếp. Không được như vậy, th́ không một địa vị, một tín ngưỡng, một sứ mạng nào có thể làm tôi được thỏa măn.

Vị sư trưởng mặc áo vàng sậm vỗ nhẹ lên vai tôi một cách thân mật. Người rầy một cách nhẹ nhàng một vài đệ tử đang đứng gần bên:

-Hăy để yên Mukunda! Y sẽ quen dần với lối sống ở đây.

Tôi nén ḷng một cách lễ phép để khỏi nói rằng tôi lấy làm ngờ về việc đó! Những đệ tử rời khỏi pḥng, không để ư bao nhiêu đến lời khiển trách vừa rồi. Tu sĩ Dayananda nói với tôi:

-Mukunda, cha em gửi tiền cho em đều đều. Em hăy gửi trả về nhà, v́ ở đây em không cần tiền. Một điểm kỷ luật khác là vấn đề ăn uống; khi em đói em hăy đừng để cho người ngoài nh́n thấy!

Tôi không biết bề ngoài tôi có lộ vẻ đói hay không. Nhưng điều mà tôi biết quá rơ, ấy là tôi đói. Ở đạo viện buổi cơm đầu tiên dịon ra vào lúc giữa trưa; ở nhà tôi vẫn có thói quen ăn một bữa thịnh soạn lúc chín giờ sáng.

Khoảng sai biệt ba tiếng đ̣ng hồ đó càng ngày càng trở nên không chịu nổi! C̣n đâu những vàng son ở Calcutta, khi đó tôi có thể quở trách người đầu biếp v́ dọn cơm trễ có mười phút! Có một lần, v́ muốn tự chủ trong sự ăn uống, tôi tập nhịn đói hai mươi bốn giờ. Tôi càng chờ đọi một cách nôn nao hơn đến trưa ngày hôm sau.

-Chuyến xe lửa của sư trưởng Dayananda bị trễ giờ; chúng ta sẽ đợi sư trưởng về mới ăn!

Jitendra đem đến cho tôi cái tin chẳng lành đó. Sư trưởng đi vắng hai tuần nay, để tiếp đón người một cách lễ phép, các đệ tử đợi đến lúc người về đến mới dọn cơm cùng ăn. Mùi hương vịđồ ăn ngào ngạt bay qua lỗ mũi tôi. Tôi phải nằm đo ván để chịu đựng cơn nhịn đói kéo dài vô tận. “Cầu xin Thượng Đế khiến cho xe lửa về sớm.”

Tôi nghĩ rằng lời ngăn cấm của tu sĩ Dayananda bảo tôi đừng lộ vẻ đói ra noài chắc sẽ không áp dụng đối với Thượng Đế! Tuy nhiên, ngài vẫn không đáp ứng lời cầu nguyện của tôi, v́ trời đă về chiều. Màn đêm đă rơi xuống khi sư trưởng bước vào cửa đạo viện; tôi tiếp đón người với một hy vọng tràn trề.

“Sư trưởng c̣n đi tắm và tham thiền xong ,chúng ta mới khởi sự ăn,” đó là lời thông báo của Jitendra, sứ giả của tai họa.

Tôi sắp sửa thấy khó chịu trong ḿnh. Cái bao tử c̣n non nớt vủa tôi không quen chịu nhịn ăn, cồn cào kêu đói. Những cảnh chết đói rùng rợn lởn vởn trong trí tôi. Tôi thầm nghĩ, “Nạn nhân đầu tiên của nạn chết đói sắp đến tại Banaras chắc sẽ là tôi!” Cái cực h́nh đó chỉ chấm dứt vào lúc đồng hồ gơ đúng chín giờ. Than ôi! Buổi cơm tối hôm đó hăy c̣n ghi dấu trong kư ức như một trong những giờ phút tốt đẹp nhất của đời tôi!

Tôi ăn bằng bốn người, và nhận thấy rằng vị tu sĩ Dayananda ăn uống một cách uể oải vô tâm.

-Thưa Sử Trưởng, Sư Trưởng không đói sao? Tôi hỏi tu sĩ sau khi ăn uống no ḷng, bước vào pḥng của người.

-Có chứ! Tôi không ăn uống ǵ cả trong bốn ngày qua. Tôi không bao giờ ăn trên xe lửa, v́ ở đó đầy những rung động nặng nề sấu xa của kẻ phàm tục. Tôi triệt để tuân theo những qui luật của gịng tu của tôi. Tôi bị bận rộn v́ nhiều vấn đề tổ chức, nên chiều nay tôi chỉăn uống sơ sài. Nhưng không sao, ngày mai tôi sẽ ăn cẩn thận.

Tu sĩ nói xong bèn cười một cách thoải mái.

Tôi lấy làm hổ thẹn thầm trong bụng. Nhưng trọn một ngày chịu cực h́nh không thể nào quên được một cách dễ dàng; tôi đánh bạo đưa ra một câu hỏi cuối cùng:

-Thưa Sư Trưởng, tôi có sự nghi ngờ. Nếu theo lời dặn của Sư Trưởng tôi không đ̣i ăn uống khi đói bụng, và nếu không ai mời tôi ăn chắc là tôi sẽ chết đói.

- Chừng đó, em hăy chịu chết!

Những lời nói đó có tác fụng như tiếng quất của ngọn roi da.

- Chừng đó, Mukunda, em hăy chết, nếu cần! Em đừng bao giờ nghĩ rằng em sống không phải nhờ Thượng Đế, mà chỉ nhờ ở đồ ăn! Đấng Thiêng Liêng đă ságn tạo ra đồ vật thựcvà đă cho chúng ta biết đói bụng, chắc hẵn là sẽ lo chu đáo cho chúng ta khỏi phải thiếu thốn điều ǵ. Em đừng nghĩ rằng cơm gạo ban cho em sự sống và tiền bạc hay người đời có thể nuôi dưỡng em được. Họ có thể nuôi em sống được chăng nếu Thượng Đế thu hồi lại ở nơi em hơi thở của sự sinh tồn? Họ chỉ là những khí cụ thụ đọng của Ngài mà thôi. Em có thể bắt buộc cái bao tử tiêu hóa đồ ăn tùy theo ư muốn được chăng? Em hăy suy nghic kỹ, Mukunda, để nhận thấy cái Nguyên Lư độc nhất ở bên ngoài cái hiện tượng biến hóa vô cùng tận.

Những lời nói cương nghị này làm cho tôi cảm thấy lạnh tê người. Thế là cái thành kiến cố hữu cho rằng thể xác thắng đoạt được tinh thần không c̣n đứng vững. Thỉnh thoảng, tôi đă có dịp thưởng thức cái thú vị về sự độc lập huyền diệu của Tinh Thần. Trong bao nhiêu thành phố mà tôi đi ngang qua suốt cuộc đời luôn luôn di chuyển không ngớt của tôi, tôi đă có dịp nhận xét thấy cái hiệu lực của bài học ấy, mà tôi đă thọ lănh trong một đạo viện ở Banaras!

Món của cải duy nhất mà tôi đem theo từ Calcutta là cái linh vật hộ phù bằng bạc của vị tu sĩ thánh đức, mà mẹ tôi đă để lại cho tôi. Tôi đă giữ ǵn nó kỹ lưỡng trong nhiều năm và bây giờ nó được cất giữ dính đáo trong pḥng tôi.

Một buổi sáng, tôi mở cái nắp hộp để ngắm nh́n nó. Những ổ khóa đều c̣n nguyên vẹn, nhưng món linh vật đă biến mất. Buồn rầu, tôi xé cái vỏ bọc ngoài của nó và biết rằng nó đă không cánh mà bay, đúng như lời tiên tri của vị tu sĩ đă làm cho nó xuất hiện từ lúc đầu.

Sự giao thiệp của tôi với những đệ tử của tu sĩ Dayananda càng ngày càng trở nên căng thẳng. Sự tự do của tôi làm phật ḷng đến cả vị sư trưởng. Sự áp dụng giờ giấc tham thiền quá chặt chẽ của tôi, nó vốn là cái lư tưởng v́ đó mà tôi rời khỏi gia đ́nh, đă đem đến cho tôi những sự chỉ trích nặng nề từ mọi giới.

Đau ḷng, một hôm tôi quyết định cầu gnuyện cho đến khi tôi được một sự trả lời. “Hỡi đức Phật Mẫu đại từ bi của Vũ Trụ, xin Ngài hăy dạy con tánh chất từ bi của ngài qua những linh ảnh, hay qua một vị tôn sư mà Ngài sẽ gửi đến con!” Tôi khóc và nguyện cầu rất lâu, giờ khắc vẫn trôi qua mà tôi không nhận được một sự trả lời. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy như bị lôi cuốn thể xác lẫn linh hồn, lên tận những cơi giới cao siêu huyền diệu.

-Tôn sư con sẽ đến trong ngày hôm nay!

Giọng nói ấy, một giọng nói thanh tao của phái nữ với những âm điệu của cơi trời, dường như vọng đến từ khắp nơi và cũng không từ nơi nào.

Cái kinh nghiệm siêu linh đó bị gián đoạn bởi một tiếng kêu lanh lảnh; một đệ tử trẻ ten Habu gọi tôi từ sau bếp ở tầng dưới:

-Mukunda! Thôi đừng tham thiền nữa! Người ta cần anh đi chợ mua đồ.

Nếu trong trường hợp khác, tôi đă phản ứng kịch liệt. Nhưng không hiểu sao lúc ấy, tôi lấy khăn lau nước mắt và lẳng lặng nghe theo. Habu và tôi bước ra cửa đi về phía một chợ ở xa, trong khu vực Bengali của thành Banaras. Mặt trời nóng gắt của Ấn Độ chưa lên đến tột đỉnh, chúng tôi đă mua xong những đồ vật dụng cần thiết và vạch một con đường đi xuyên qua một đám rừng người đông đảo; những đàn bà nội trợ chen lẫn những tăng lữ, hướng dẫn viên du lịch, quả phụ ăn mặc nâu ṣng, người Bà La Môn, người hành khất, và ḅ... Khi đi qua một con đường nhỏ hẹp có vẻ nghèo nàn, tôi quay đầu lại và nh́n thấy một người có vẻ giống như Chúa Giê Su, mặc áo màu vàng sậm của giới tu sĩ và đứng ở phía đầu đường. Người ấy trông dường như một người quen cũ, khiến tôi càng chú ư nh́n kỹ. Bỗng nhiên một sự nghi ngờ xâm chiếm lấy tôi và tôi tự chủ, “Có lẽ ḿnh lầm người tu sĩ này với một người nào khác. Thôi ta đi!”
Mười phút trôi qua, tôi cảm thấy hai chân tôi nặng như ch́, dường như chúng đă trở thành đá và không c̣ng tuân theo ư muốn của tôi. Tôi thử quay lại th́ hai chân tôi đi được như thường. Tôi lại thử tiến bước theo lối đi ngược chiều th́ hai chân tôi lại nặng như ch́, không thể cử động.

“Vị tu sĩ hấp dẫn tôi đến với người bằng một thứ mănh lực từ điển nào đó.” Với cái ư nghĩ đó trong trí, tôi giao những gói đồ cho Habu; y đă quan sát những cử chỉ của tôi một cách ngạc nhiên, sau cùng y bật cười:

-Anh làm ǵ vậy? Chắc anh điên rồi!

Trí óc huyên náo của tôi lúc ấy làm cho tôi không màng đáp lại. Tôi quay đầu trở lại và lẳng lặng noi theo con đường nhỏ hẹp mà tôi đă đi qua. Gần đến đầu đường, tôi nhận thấy gương mặt trầm lặng ấy đang nh́n chăm chú về phía tôi. Chỉ c̣n vài bước nữa và tôi đă qú mọp dưới chân người.

-Kính lạy sư phụ!

Gương mặt thiêng liêng ấy không ǵ khác hơn là gương mặt đă từng xuất hiện trong vô số những linh ảnh của tôi. Đôi mắt yên tĩnh, cái đầu tóc dài dợn sóng xỏa xuống vai như đầu sư tử và bộ râu ngắn vuốt nhọn dưới cằm, chính gương mặt ấy đă chinh phục tôi trong những cơn linh ảnh mê ly, nó tượng trưng một sự hứa hện nào đó mà tôi không hoàn toàn hiểu rơ ư nghĩa.

-Con đây rồi, con đă đến!

Sư phụ tôi lập lại câu ấy bằng tiêng Bengali (thổ ngữ tỉnh Bengale, miền Đông Ấn), giọng nói hơi rung v́ cảm động:

-Ta đă đợi con từ bao nhiêu năm nay!

Kế đó là một cơn yên lặng kéo dài, trong lúc ấy những lời nói cũng bằng thừa. Một nhạc khúc du dương không lời đang vang lên trong ḷng của vị tôn sư và đệ tử. Một tiếng nói trong nội tâm bảo cho biết rằng Sư Phụ đă đắc Đạo và có thể dắt dẫn tôi đến chân lư. Những sự vô minh đen tối của dĩ văng đă tiêu tan trước ánh b́nh minh mới ló dạng trong cuộc đời tôi, tự nó cũng đă xuất hiện từ một tiền kiếp xa xăm nào. Dĩ văng, hiện tại, tương lai, chỉ là một cuộc tuần hoàn tiếp diễn vô tận. Đây không phải là vầng Mặt Trời đầu tiên đă chứng kiến việc tôi ngồi dưới chân thiêng liêng của người!

Bàn tay trong bàn tay, Sư Phụ dắt tôi đến nơi am thất tạm thời của người ở khu Rana Mahal tại Banaras. Người đi với những bước đi chắc chắn. Cao lớn và lưng thẳng, tuy đă có đến năm mươi lăm tuổi đời vào thời kỳ đó, người vẫn nhanh nhẹn và lực lưỡng như một thanh niên. Đôi mắt đen sậm, lớn và đẹp, chiếu sáng ngời ánh mắt minh triết. Những lọn tóc dài hơi xoắn tṛn to tô điểm gương mặt cao quí của người. Nơi người, sức mạnh đi đôi một cách điều ḥa với sự dịu dàng.

Khi chúng tôi đi đến nơi sân thượng của một ngôi nhà trổ ra phía bờ sông Hằng, Sư Phụ nói với một giọng ưu ái:

- Ta cho con cái đạo học viện này và tất cả những ǵ ta sở hữu.

-Bạch sư phụ, con đi t́m sự Minh Triết và ước mong đạt tới chân lư. Đó là những kho tàng mà con đang thèm muốn nơi Sư Phụ!

Bóng hoàng hôn qua mau ở Ấn Độ đă sắp tàn, khi sư phụ lại nói tiếp, đôi mắt người phản chiếu một t́nh thương rộng răi vô biên:

-Ta cho con tất cả t́nh thương của ta, và không điều kiện.

Đó là những lời vô cùng quí báu! Một phần tư thế kỷ trôi qua trước khi Sư Phụ nói lại một lần nữa với tôi về t́nh thương của người.

-Để đáp lại, con có cho ta cái t́nh thường cũng vô điều kiện đó không?

-Bạch sư phụ, con xin kính yêu Sư Phụ măi măi!

-T́nh của thế gian vốn ích kỷ và bắt nguồn từ những ham muốn và thỏa măn dục vọng. T́nh thiêng liêng, vốn cho ra không điều kiện, là vô giới hạn và không thay đổi. Tâm hồn con người khi được tiếp xúc với t́nh thiêng liêng ấy, sẽ vĩnh viễn trở nên siêu thoát.

Kế đó, người đứng dậy và đưa tôi vào một gian pḥng. Chúng tôi ăn xoài và bánh ngọt hạnh nhân, trong khi đó Sư Phụ lái câu chuyện để thăm ḍ tâm hồn của tôi. Tôi rất thán phục về sự minh trết ḥa lẫn với đức khiêm tốn của người.

-Con đừng buồn về việc cái linh vật hộ phù đă biến mất, v́ nó đă hoàn tất sứ mạng của nó.

Sư phụ tôi, chẳng khác như tấm gương thiêng liêng, đă phản ảnh trọn cả cuộc đời tôi.

-Bạch Sư Phụ, sự hiện diện của Sư Phụ là một ân huệ nó bù lại gấp bội phần sự thất lạc đó. Đă đến lúc con cần thay đổi không khí, v́ con cảm thấy không vui trong cái đạo viện này.

Tôi không nói ǵ về dĩ văng của tôi, vả lại điều đó cũng là thừa. Tôi hiểu rằng với đức giản dị và khiêm tốn, Sư Phụ không hề muốn thấy tôi thán phục cái nhăn quang siêu linh của người.

-Con phải trở về Calcutta. Tại sao con lại đặt gia đ́nh ra ngoài t́nh thương của con đối với toàn thể nhân loại.

Lời đề nghịđó làm tôi không vui. Gia đ́nh đă tiên sự trở về của tôi, tuy tôi vẫn dửng dưng trước những lời kêu gọi khẩn thiết trong các bức thư của nhà gửi cho tôi. Ananta, anh cả tôi, đă tuyên bố: “Chúng ta hăy để cho con chim non vỗ cánh tung bay trên những từng trời triết lư siêu h́nh. Rốt cuộc nó sẽ mệt mỏi và sẽ khiêm tốn bay trở về tổ ấm gia đ́nh.”

Những lời nói khiêu khích này hăy c̣n vang dội trong kư ức của tôi, tôi cương quyết không chịu trở về Calcutta.

-Bạch Sư Phụ, con không trở về nhà. Nhưng con sẽ theo Sư Phụ khắp mọi nơi. Xin Sư Phụ cho con biết quư danh và địa chỉ.

-Ta là tu sĩ Swami Sri Yukteswar Giri. Đạo viện chính của ta ở Serampore, đường Rai Ghat Lane. Ta chỉở đây có vài ngày để thăm viếng mẫu thân.

Tôi thầm nghĩ:

-Thiên ư thật là một điều bí hiểm khôn lường! Serampore chỉ cách Calcutta có độ mười hai dặm đường; tuy vậy để cho cuộc gặp gỡ của chúng tôi được thực hiện, chúng tôi phải đến tận nơi thánh địa Kashi (Banaras), là nơi được thánh hóa bởi kỷ niệm của đức Lahiri Mahasaya. Chính đức Phật, đức Shankaracharya, và những bậc hiền nhân thánh triết khác của Ấn Độ cũng đă đặt gót chân lên Banaras và làm cho thành phố ấy trở nên bất tử!

-Con hăy đến với ta trong bốn tuần lễ.

Lần đầu tiên, Sri Yukeswar nói với một giọng nghiêm khắc.

-Ta đă bày tỏ t́nh thương bất diệt và niềm vui của ta khi ta t́m thấy con, và bởi đó mà con đă cải lời ta. Lần tái ngộ sau này con phải làm sao cho ta lại chú ư đến con. Ta rất nghiêm khắc trong việc chọn lựa đệ tử; họ phải tuyệt đối tuân theo kỹ luật tâm linh của ta.

Tôi giữ một sự im lặng kéo dài. Sư Phụ đoán biết dễ dàng sự khó nghĩ của tôi.

- Con sợ về gia đ́nh sẽ bị gia đ́nh chế diễu chăng?

- Con sẽ không trở về nhà.

- Con phải trở về trong ba mươi ngày.

-Bạch Sư Phụ, không khi nào!

Tôi kính cẩn qú xuống chân SưPhụ và từ biệt mà không nói ǵ thêm để làm dịu bầu không khí căng thẳng. Vừa bước chân ra đi trong đêm tối, tôi vừa tự hỏi tại sao sự gặp gỡ huyền diệu đó lại kết thúc bằng một điểm không vui? Sự tương đối ảo ảnh (maya) ở cơi thế gian luôn luôn pha lẫn lộn cái vui với cái buồn. Trí óc c̣n non nớt của tôi chưa đủ tinh luyện thuần thục để chịu nép ḿnh dưới uy quyền của một vị tôn sư.

Sáng ngày hôm sau, tôi nhận thấy rằng sự thù nghịch của các bạn đồng môn trong đạo viện đối với tôi đă tăng gia rơ rệt; mỗi ngày, tôi đều bịđụng chạm với họ một vài lần. Sau đó ba tuần lễ, tu sĩ Dayananda rời đạo viện để di dự một phiên họp tại Bombay. Sự thù nghịch của cả đạo viện bèn có dịp đổ dồn lên đầu tôi:

-Mukunda là một kẻăn bám, y chịu sự nuôi dưỡng của đạo viện mà không đóng góp phí tổn!

Nghe nói vậy, lần đầu tiên mới hối tiếc là đă tuân lệnh của sư trưởng và gởi tiền trả lại cho cha tôi. Buồn rầu, tôi mới t́m gặp Jitendra, bạn duy nhất của tôi và nói:

- Tôi đi đây. Anh hăy vui ḷng chuyển đạt sự hối tiếc và lời chào kính cẩn của tôi cho sư trưởng khi người trở về.

- Tôi cũng sẽ đi! Những công phu thiền định của tôi cũng bị ngăn trở và chỉ trích giống như trường hợp của anh. Jitendra than thở. Tôi vừa gặp một hiền giả lạ chưa từng có. Chúng ta hăy đến gặp người tại Serampore.

Nhân dịp đó, con “chim non” sửa soạn vỗ cánh bay về miền đông, gần bên Calcutta.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 84 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:36am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



MỘT CHUYẾN DU LỊCH KHÔNG TỐN TIỀN


CHƯƠNG CHÍN


“Em sẽ làm ǵ, Mukunda, nếu cha không chia phần gia tài cho em. Em đă lăng phí cuộc đời một cách vô lư!” anh cả tôi rầy tôi một ngày nọ.

Sau cuộc hành hương tại Banaras vừa rồi, Jitendra và tôi liền đến nhà Ananta, anh tôi vừa được thuyên chuyển từ Calcutta đến thành phố cổ kính Agra. Banh tôi làm chuyên viên kế toán cho Công Ty Hỏa Xa Bengale Nagpur.

-Ananta, anh biết rằng em không trông mong gia tài nào khác hơn là của Thượng Đế!

-Tiền bạc trước đă, rồi sau mới tới Thượng Đế! Biết đâu cuộc đời c̣n dài!

-Thượng Đế trên hết! Tiền bạc là do Ngài mà có. Biết đâu cuộc đời rất ngắn ngủi!

Câu trả lời của tôi chỉ là ứng khẩu trong một lúc và không có ngụ ư một sự tiên tri nào. Tuy nhiên cuộc đời của Ananta đă sắp kết liễu v́ anh ta từ trần sau đó có vài năm, để bước vào một cơi giới mà tiền bạc không c̣n giá trị ǵ nữa.

-Cái triết lư đó chắc hẵn là em mới học được ở đạo viện, phải chăng? À, tuy vậy em lại rời bỏ Banaras.

Một sự khoái trá chiếu sáng trong đôi mắt của Ananta; anh ta vẫn nuôi hy vọng đem tôi trở về với gia đ́nh.

-Không phải là vô ích mà em sống tại Banaras! Em đă t́m thấy tại thành phố đó tất cả những ǵ mà ḷng em ngưỡng mộ. Tuy vậy, đó không phải là nhà học giả có thần nhăn, hay con trai ông ta!

Ananta, cười lớn về câu chuyện kỷ niệm đó; anh ta phải nh́n nhận rằng nhà học giả nọ chỉ là một kẻ có nhăn quang tầm thường!

-Chương tŕnh em hiện giờ như thế nào, hỡi nhà tu sĩ đi ta bà?

-Jitendra đang rủ em đi Agra để viếng thăm lăng tẩm Taj Mahal. Sau đó chúng em sẽ đến viếng một vị tôn sư mà em vừa mới gặp, vị này có một đạo việng ở Serampore.

Ananta lo sắp đặt mọi thứ tiện nghi cho chúng tôi tạm trú trong nhà. Tối hôm đó, tôi nhiều lần bắt chợt anh ta ngắm nh́n tôi một cách nghĩ ngợi suy tư. Tôi thầm nghĩ rằng cái nh́n đó hẳn là có ngụ ư ǵ, chắc là anh ta đang mưu toan một việc ǵ đây.

Lời giải đáp đă đến ngay sáng ngày hôm sau, vào giờ ăn điểm tâm.

-Như vậy là em không thèm hưởng phần gia tài của cha?

Ananta giả vờ lấy một điệu bộ vô tư để nối lại câu chuyện ngày hôm trước. Tôi đáp với một giọng cương quyết:

-Em ư thức rằng em chỉ trông cậy nơi một ḿnh Thượng Đế mà thôi.

- Nói th́ dễ! Cuộc đời sẽ chứng minh cho em biết trái ngược lại. Nếu em bị dồn vào một t́nh thế nguy cấp không ai giúp đỡ mà chỉ trông cậy vào Thượng Đế th́ em sẽ phải đi ăn mày!

-Không khi nào! Không bao giờ em ngửa tay đi xin, khi mà Thượng Đế có hàng ngh́n cách để bảo dưỡng cho những đứa con của Ngài, để cho họ không cần phải ngữa tay xin ăn!

-Điều đó chỉ là lư thuyết. Nếu anh thách đố em đem những lư thuyết đó ra thực hành, em có dám không?

-Em nhận cuộc thách đố! Quyền năng của Thượng Đế vốn vô biên.

-Để rồi xem. Ngày hôm nay, em sẽ có dịp xác nhận hay bác bỏ điều anh vừa nói.

Ananta ngừng một lúc rồi nói tiếp với một giọng trầm và gằng từng tiếng:

-Anh định gửi em và bạn em Jitendra đi đến Brindaban, thành phố ở gần đây. Hai em sẽ lên đường mà không có một đồng rupee nào, không được xin ăn hoặc xin tiền ở dọc đường hoặc tiết lộ việc thách đố này cho một người nào biết. Các em cũng không được nhịn đói hay thất cơ lỡ vận ở Bridaban. Nếu sau khi đă thực hiện tất cả những điều kiện đó mà các em trở về nhà anh trước nửa đêm, th́ chừng đó anh sẽ là người ngạc nhiên nhất của thành phố Agra này!

-Em nhận cuộc thử thách! Tôi nói không chút do dự.

Như một tia chớp, hiện ra trong trí tôi tất cả những ân huệ tốt lành mà tôi đă được hưởng qua sự can thiệp của Thiêng Liêng; một lần được chữa khỏi bệnh thời khí một cách mầu nhiệm do bức chân dung của đức Lahiri Mahasaya; hai con diều giấy bắt được ngay tại trước mắt Uma do sự cầu nguyện Phật Mẫu tại Lahore; món linh vật an ủi lọt vào tay tôi những giờ tuyệt vọng; thông điệp quyết định của vị tu sĩ lạ mặt ở Banaras, gần nhà của vị học giả Phạn ngữ; cái linh ảnh đức Phật Mẫu, những lời nói từ bi của ngài, sự cầu nguyện đức Phật Mẫu giùm cho tôi qua sự trung gian của đức Mahasaya; sự trợ giúp vào giờ chót trong cuộc thi tú tài; và sau cùng, sự gặp gỡ đức Sư Phụ mà tôi thường thấy trong giấc mộng... Bởi đó, tôi sẽ không bao giờ nh́n nhận rằng những lư thuyết của tôi sẽ tiêu tan khi bị đụng chạm với sự thật phủ phàng!

-Thiện chí của em thật đáng khen!

Anh cả tôi quay lại phía Jitendra, lúc ấy đang trố mắt nh́n chúng tôi, miệng há hốc:

-C̣n em nữa, em sẽ đi theo làm chứng và cũng làm nạn nhân luôn thể!

Nửa giờ sau, Jitendra và tôi mua vé xe lửa đi Brindaban. Trong một góc hẻo lánh của nhà ga, Ananta lục soát ḿnh chúng tôi rất tỉ mỉ và lấy làm hài ḷng mà thấy chúng tôi không có đem theo tiền bạc, ngoài một cái chăn vận ngang lưng!

Jitendra nhận thấy rằng vấn đề đức tin lấn lướt quá nhiều trên lănh vực tài chánh, bèn nói:

-Ananta, ít nhất anh hăy đưa cho tôi vài rupees để tôi có thể gọi điện thoại về nhà khi có việc cấp bách.

- Jitendra! Tôi kêu lên vói một giọng trách móc. Tôi sẽ từ chối không chịu nhận cuộc thử thách này nếu anh đem theo dẫu rằng chỉ có một xu!

-Tiền bạc kêu rổn rảng trong túi sẽ có tác dụng chấn an tinh thần!

Bạn tôi nói xong liền im bặt khi thấy tôi nh́n y với một vẻ mặt nghiêm khắc.

-Mukunda, em đừng cho rằng anh quá tàn nhẫn trong cơn thử thách này.

Ananta hơi dịu giọng. Có lẽ anh ta cảm thấy hối hận, hoặc v́ chuyện gửi hai thanh niên không tiền bạc đi đến một thành phố xa lạ, hoặc v́ anh ta thiếu hẳn đức tin. Anh ta nói:

-Nếu do sự may mắn, hoặc do ân huệ thiêng liêng là em thắng cuộc thách đố ở Brindaban, th́ anh hứa sẽ tôn em làm thầy.

Đề nghị lạ thường này cũng tương xứng với t́nh trạng hi hữu lúc ấy. Trong một gia đ́nh Ấn Độ, người anh cả không bao giờ chịu khuất phục trước một người em; y được các em tôn trọng và vân lời tuyết đối theo tục lệ quyền huynh thế phụ. Nhưng lúc ấy không phải là lúc nói nhiều, v́ chuyến xe lửa đă lăn bánh và bắt đầu chạy.

Jitendra giữ một im lặng nặng nề trong khi chuyến xe lửa nuối cây số trenn đoạn đường dài. Sau cùng, y tự chủ được ḿnh, nghiêng về phía tôi và véo tôi một cái rất đau trên bắp đùi:

-H́nh như Thượng Đế có vẻ không nghĩ đến bữa cơm ch́êi của chúng ta!

- Anh hăy an tâm. Thượng Đế luôn luôn che chở chúng ta.

- Anh có ư định nhắc nhở cho Ngài mau lên một chút chăng: Tôi cảm thấy đói lắm khi nghĩ đến việc ǵ sẽ xảy ra. Tôi rời khỏi Banaras để viếng lăng tẩm Taj Mahal chứ không phải để xây mả của tôi tại đó!

-Hăy can đảm lên, Jitendra! Lát nữa chúng ta sẽ đến viếng thành phố Brindaban từng nổi tiếng v́ nhiều phép lạ đă xảy ra tại đó. Tôi cảm thấy không c̣n ǵ sung sướng hơn là bước chân lên mảnh đất đă được thánh hóa bởi đức Lord Krishna.

Xe ngừng tại một nhà ga, toa xe của chúng tôi mở cửa, có hai người hành khách mới bước vào. Trạm sắp tới đây cũng sẽ là trạm cuối cùng.

-Này các bạn, các bạn có bạn bè quen thuộc ở Brindaban không?

Người hành khách ngồi trước mặt có vẻ rất chú ư đếng chúng tôi. Tôi quay mặt đi chỗ khác:

-Xin lỗi, ông hơi ṭ ṃ nhưng việc ấy không can dự ǵ đến ông!

-Chắc là các bạn rời bỏ gia đ́nh để đi tầm đạo? Tôi cũng vậy, tôi là người rất mộ đạo. Tôi thấy có bổn phận lo lắng cho các bạn không thiếu thốn thứ ǵ, và t́m cho các bạn một nơi trú ngụ dưới ánh mặt trời nóng gắt.

-Thưa ông, ông không cần phải lo cho chúng tôi, ông rất tốt bụng, nhưng ông đă lầm mà tưởng chúng tôi là những kẻ trốn gia đ́nh.

Đến đây, câu chuyện đứt ngang. Đoàn xe lửa ngừng tại nhà ga. Khi Jitendra và tôi vừa bước chân lên bến, hai người hành khách mới quen trên toa xe cùng nắm tay chúng tôi và gọi một cỗ xe ngựa.

Chúng tôi ngừng trước một đạo viện rất đẹp giữa một vườn cây xinh tươi và vun quét sạch sẽ tươm tất, những cây to lớn sầm uất tỏa bóng mát rợp trời. Hai người đồng hành với chúng tôi hẳn là những khách hàng quen thuộc: một người gia bộc tươi cười lễ phép đưa chúng tôi vào pḥng khách. Một bà mệnh phụ đứng tuổi, cốt cách trang trọng cùng bước vào ngay khi đó.

-Thưa ni trưởng, hai vị hoàng thân không thể đến được. Một người đồng hành của chúng tôi thưa với bà ni trưởng của đạo viện. Chương tŕnh của hai vịđă bị thay đổi vào giờ chót; hai vị có nhờ chúng tôi chuyển đạt tất cả sự hối tiếc của các ngài. Nhưng hôm nay chúng tôi có dắt đến hai người khách. Khi chúng tôi nh́n thấy họ trên xe lửa, tôi cảm thấy ngay rằng họ là những người mộ đạo hành hương.

Nói xong, hai người bạn mới vừa đi ra cửa quay lại phía chúng tôi:

- Thôi chào các bạn! Chúng ta sẽ gặp lại nhau, do ư muốn của Thượng Đế!

Bà ni trưởng nói với chúng tôi với một nụ cười của bậc hiền mẫu:

- Chào hai vị tân khách, hai vịđến thật đúng lúc, tôi cũng đang chờ đợi hai vị hoàng thân là những ân nhân của đạo viện. Thật bẽ bàng đến bực nào, nếu phải ra công làm bếp mà lại không có khách đến chiếu cố!

Những lời nói đầy hứa hẹn này có tác dụng gây xúc động manh đối với Jitendra, y bèn khóc sướt mướt. Thay v́ chết đói, y lại gặp tại Brindaban một bữa tiệc sang trọng! Việc ấy thật quá sức trông đợi của y. Bà ni trưởng nh́n y với cặp mắt ngạc nhiên nhưng không nói ǵ. Có lẽ bà ấy đă từng quen thuộc với những cơn “dở chứng” của bọn thanh niên?

Bữa ăn đă sẵn sàng. Bà ni trưởng đưa chúng tôi vào một pḥng ăn phảng phất mùi vị ngon lành thơm phức và lui vào nhà bếp ở gần bên.

Tôi đợi đến lúc ấy mới véo một cái thật đau vào bắp đùi non của Jitendra như y đă véo tôi trên xe lửa:

-Thế nào, ông bạn vô tín ngưỡng? Thượng Đế quả thật có nghĩ đến chúng ta, và lại không trễ giờ tí nào đấy chứ?

Bà ni trưởng bước vào với một cái quạt tay bằng tre đan. Bà quạt mát cho chúng tôi theo kiểu Đông Phương trong khi chúng tôi ngồi trên những tấm nệm thêu màu rực rỡ. Những đệ tử trong đạo viện lo dọn ăn và đi lại lăng xăng không ngớt. Từ thuở bé đến giờ, Jitendra và tôi chưa từng ăn bữa nào ngon như thế!

-Thưa ni trưởng, đó thật là những món ăn xứng đáng với bậc đế vương. Tôi tự hỏi khong biết công việc ǵ cấp bách hơn là bữa tiệc hôm nay đă cầm chân hai vị hoàng thân, quí khách của ni trưởng! Chúng tôi sẽ không bao giờ quên bữa tiệc này suốt cuộc đời chúng tôi!

Lời hứa của chúng tôi với Ananta bắt buộc chúng tôi phải im lặng, nên chúng tôi không thể giải thích cho ni trưởng biết rằng chúng tôi c̣n biết ơn ni trưởng gấp đôi. Nhưng sự thành thật của chúng tôi đă quá rơ rệt. Khi chúng tôi kiếu từ ra về, ni trưởng bèn ban ân huệ và mời chúng tôi khi nào có dịp sẽ trở lại viếng thăm đạo viện.

Bên ngoài, ánh nắng mặt trời nóng như thêu đốt. Chúng tôi đến ẩn núp dưới bóng mát của cây cổ thụ cadamba ở trước cửa đạo viện. Chúng tôi trao đổi những lời gay gắt, v́ Jitendra lại cảm thấy lạc lỏng bơ vơ:

-Anh đă gạt tôi! Bữa tiệc chỉ là một sự may mắn t́nh cờ mà thôi! Làm sao đi viếng thành phố mà không có một xu trong túi và anh làm cách nào để đưa tôi về nhà?

- Anh quên Thượng Đế chóng thật, sau khi anh đă ăn no đầy bao tử!

Những lời nói của tôi trở nên một sự tố giác: -Con người rất chóng quên những ân huệ thiêng liêng; tuy vậy cuộc đời không phải là không có ít nhất một vài lần mà những lời cầu nguyện của ta được chấp thuận.

-Dầu sao, tôi cũng không quên sự lầm lạc mà tôi đă làm khi tôi chịu đi theo anh!

-Anh hăy im đi, Jitendra! Nếu Thượng Đế đă cho chúng ta ăn no, ắt là Ngài cũng có thể cho chúng ta phương tiện đi viếng Brindaban và trở về Agra!

Đến đây, bỗng có một thanh niên mặt mũi khôi ngô từ đâu rảo bước đi thật nhanh đến gần chúng tôi. Y ngừng bước dưới bóng cây và day về phía chúng tôi:

-Nếu tôi không lầm th́ các bạn chắc là những du khách mới đến thành phố này. Các bạn hăy để tôi dẫn đường cho các bạn đi ngắm cảnh.

Một người Ấn Độ không hề tái mặt một cách dễ dàng, tuy vậy, đó chính là trường hợp của Jitendra. Tôi lễ phép từ chối.

-Các bạn hẳn là không có ư muốn đuổi tôi đi chứ?

Người lạ mặt nói với vẻ mặt lo ngại, nó có thể làm buồn cười ở vào trường hợp khác.

-Tại sao không?

-Bạn chính là thầy tôi! Y giải thích với một giọng khẩn thiết:

- Trong lúc tôi ngồi thiền trưa nay, đức Lord Krishna đă xuất hiện đến với tôi trong một cơn linh ảnh. Ngài chỉ cho tôi hai nhân vật đứng dưới gốc cây này mà một người chính là bạn, là Thầy tôi! Tôi đă nhiều lần nh́n thấy bạn như thế trong cơn tham thiền. Thật là một điều rất hân hạnh nếu các bạn chấp nhận sự giúp đỡ khiêm tốn của tôi!

-Tôi rất sung sướng về cuộc hội ngộ giữa ông bạn với chúng tôi hôm nay. Thật là Trời Phật và người đều không bỏ chúng tôi.

Tôi mỉm cười với người bạn và thầm tạ ơn đấng Thiêng Liêng với sự kính dâng hết tất cả tấm ḷng thành dưới chân Ngài.

-Các bạn hỡi, xin mời các bạn chiếu cố đến nhà tôi.

-Ông bạn thật quá tốt bụng, nhưng việc ấy không thể thực hiện được v́ chúng tôi hiện là khách của anh tôi tại Agra.

-Ít nhất các bạn cũng cho tôi cái hân hạnh được hướng dẫn các bạn đi chơi Brindaban chứ.

Tôi vui vẻ nhận lời. Người thanh niên tên là Prâtp Chatterji, gọi một cỗ xe ngựa. Chúng tôi đến viếng ngôi đền Madanamohana Temple và những nơi thánh điện khác thờ thần Krishna. Trong khi chúng tôi cúng lễ xong ở các đền thờ th́ trời đă tối.

- Các bạn hăy đợi tôi đi mua ít bánh kẹo.

Pratap bước vào một tiệm gần bên nhà ga. Jitendra và tôi đi dạo chơi giữa đám đông người; không khí lúc chiều tối đă mát lạnh. Người bạn mới phút chốc đă trở lại với bánh kẹo và thức ăn.

- Các bạn hăy hạ cố mà nhận cho món quà mọn này.

Pratap vừa tươi cười vừa cầm đưa cho chúng tôi một cuộn giấy và hai vé xe lửa đi Agra! Tôi âm thầm thành kính cảm tạ Thượng Đế đă ban cho chúng tôi quá nhiều ân huệ thiêng liêng.

Chúng tôi đi đến một chỗ hẻo lánh gần nhà ga.

- Pratap, tôi sẽ chỉ dẫn cho anh pháp môn Kriya Yoga của đức Lahiri Mahasaya, vị Yogi lớn nhất của thời đại hiện kim. Bạn sẽ không cần có thầy v́ từ nay pháp môn này sẽ là thầy của bạn.

Lễ nhập môn được hoàn tất trong ṿng nửa giờ.

-Pháp môn Kriya Yoga sẽ là món bửu bối của bạn, tôi nói với người học tṛ mới. Pháp môn rất giản dị này, như bạn đă thấy, có cái quyền năng hối thúc sự tiến hóa tâm linh hồn người chuyển kiếp xuống trần phải trải qua một khoảng thời gian một triệu năm mới có thể thoát khỏi sự trói buộc của ảo giác (maya). Pháp môn Kriya Yoga có thể thu ngắn kỳ hạn đó lại rất nhiều. Cũng như nhà bác học Jagadis Chandra Bóe đă chứng minh rằng sự tăng trưởng của một cái cây có thể được thúc hối mau lẹ vô cùng dưới một tỷ lệ không thể tưởng tượng, th́ sự tiến hóa của linh hồn người cũng được thúc hối mau gấp bội phần do khoa học tâm linh. Bạn hăy trung kiên tập luyện pháp môn ấy rồi bạn sẽ đến gần vị Tôn Sư của các Tôn Sư.

Tôi rất sung sướng mà được truyền thụ cái bí quyết của pháp môn Yoga này, mà tôi đă ra công t́m kiếm từ lâu! Prâtp nói với một vẻ mặt im lặng. Sự tác động của nó, vốn có hiệu năng cát đứt mọi sợi dây trói buộc con người với giác quan, sẽ có thể giải thoát cho tôi bước vào những trạng thái sinh hoạt tâm linh cao siêu hơn. Sự xuất hiện của đức Lord Krisna trong cơn linh ảnh thật đă báo hiệu nhiều việc tốt lành.

Chúng tôi đồng ư tịnh tâm trong giây lát, rồi từ từ đi chậm từng bước về phía nhà ga. Tôi sung sớng bước lên toa xe lửa nhưng Jitendra lại khóc sướt mướt. Những lời từ giă đầy ưu ái của tôi và Pratap lại xen lẫn với những tiếng khóc của người bạn trẻ. Một lần nữa, Jitendra lại nổi khùng, nhưng lần này th́ lại là với chính ḿnh:

-Tôi c̣n thiếu đức tin, tim tôi thật sắt đá! Tôi sẽ không bao giờ c̣n nghi ngờ sự che chở của Thiêng Liêng!

Lúc ấy đă gần nửa đêm. Chúng tôi bước vào pḥng ngủ của Ananta. Nh́n thấy chúng tôi, trên mặt y lộ một vẻ kinh hoàng. Lẳng lặng không nói ǵ, tôi ném cuộn giấy bạc lên bàn.

-Jitendra, hăy nói thật! Các em đă âm mưu những chuyện ǵ rồi?

Những câu chuyện tường thuật kéo dài, nét mặt Ananta mỗi lúc càng có vẻ nghiêm trọng.

-Định luật cung cầu lại c̣n có một khía cạnh hành động khác hẳn và tế nhị hơn là anh vẫn tưởng, Ananta nói với một đức tin nhiệt thành mà anh ta chưa từng biểu lộ bao giờ. Lần đầu tiên anh mới hiểu sự thản nhiên của em đối với những của cải vật chất trần gian.

Một lát sau đó, anh tôi khẩn khoảng yêu cầu tôi truyền dạy pháp môn Kriya Yoga cho anh. Thế là chỉ trong ṿng một ngày, tiểu sư Mukunda đă phải dảm nhiệm việc nhập môn của hai người đệ tử bất ngờ.

Sáng ngày hôm sau, một bầu không khí ḥa hợp chưa từng thấy đă có giữa chúng tôi trong bữa ăn điểm tâm.

Sau khi đă viếng lăng tẩm Tạ Mahal, tôi chỉ c̣n một điều ước mong duy nhất là đến gặp Sư Phụ tôi. Jitendra và tôi liền đón chuyến xe lửa đi về phía tỉnh Bengale.

-Mukunda, đă từ lâu tôi không về thăm gia đ́nh; bây giờ tôi phải về nhà trước đă, rồi có lẽ sau này tôi sẽ đến viếng đạo viện ở Serampore.

Bạn tôi bản tính vốn do dự không nhất quyết định điều ǵ, như chúng ta đă thấy, bèn từ giă tôi ở Calcutta. Chuyến xe lửa địa phương sau đó đă đưa tôi đến Serampore, cách mười hai dặm về phía bắc Calcutta, tôi lấy làm ngạc nhiên mà nhận thấy rằng vừa đúng hai mươi tám ngày đă trôi qua từ khi tôi gặp Sư Phụ tôi ở Bnaras. Chính người đă nói trước với tôi rằng: “Con sẽ đến với ta trong bốn tuần lễ!” Tôi hồi hộp đứng chờ ngoài sân tịnh thất của người ở đường Rai Ghat Lane. Lần đầu tiên tôi sắp sửa bước vào cửa đạo viện, tại đây tôi sẽ trải qua mười hai năm tốt đẹp nhất của đời tôi bên cạnh một vị tôn sư minh triết của Ấn Độ.











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 85 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:37am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



NHỮNG NĂM SỐNG TẠI ĐẠO VIỆN


CHƯƠNG MƯỜI


-À, con đă đến.

Sri Yukteswar ngồi trên một tấm da cọp trải dưới sàn một pḥng khách nhỏ có bao lơn. Người nói với một giọng lạnh lùng, không biểu lộ một sự xúc cảm nào.

-Bạch Sư Phụ, con đến để xin làm đệ tử của Người. Tôi vừa nói vừa qú lạy dưới chân Sư Phụ.

-Con không xứng đáng, v́ con đă căi lời ta.

-Bạch Sư Phụ, con sẽ không làm như vậy nữa! Từ nay, con xẽ triệt để tuân lịnh sư phụ dạy bảo.

-Tốt lắm! Bây giờ ta có thể chịu trách nhiệm về cuộc đời của con.

-Con xin đặt tương lai con trong tay Sư Phụ.

-Trước hết, ta muốn con hăy trở về với gia đ́nh. Con phải vào trường đại học Calcutta để tiếp tục sự học.

-Bạch Sư Phụ, con xin vâng.

Tôi cố dấu sự bất măn. Những sách vỡ nhồi sọ sẽ theo đuổi tôi măi suốt đời hay chăng? Trước hết cha tôi muốn vậy, rồi bây giờ lại đến thầy tôi!

Một ngày kia con sẽ đi truyền giáo ở phương Tây. Quần chúng ở các xứ ấy sẽ sẵn sàng thưởng thức nền minh triết cổ truyền của Ấn Độ hơn, nếu vịĐào Sư Ấn Độ có một cấp bằng khoa cử đại học.

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ biết nhiều hơn con.

Sự bất măn của tôi đă tiêu tan. Việc truyền giáo ở Tây Phương đối với tôi hăy c̣n là một chuyện quá xa vời, nhưng trước hết mọi sự tôi chỉ mong ước làm vui ḷng Sư Phụ.

-Calcutta cách đây không xa, con có thể đến đây mỗi khi con có thời giờ.

-Mỗi ngày nếu có thể được! Con sẽ vui ḷng tuân theo ư muốn của Sư Phụ.

Thế là sự mong ước lớn nhất trong đời tôi đă được thực hiện; những sự ḍ dẫm vô ích và những sự t́m kiếm lâu dài trước kia nay đă chấm dứt. Tôi đă t́m thấy nơi trú ẩn thực sự ở dưới chân Thầy.

-Con lại đây, ta sẽ đưa con đi viếng đạo viện.

Sư Phụ bàn rời tấm da cọp. Tôi liếc nh́n chung quanh và lấy làm ngạc nhiên mà nh́n thấy một bức chân dung của đức Lahiri Mahasaya trên vách. Tôi bấc giác buộc miệng kêu:

-Lahiri Mahasaya!

-Phải, đó là Sư Phụ của ta.

Giọng nói của Sri Yukteswar vang lên với một âm điệu đầy hứng khởi:

-Ngài là một vị tôn sư cao cả nhất trong các vị tôn sư mà ta được biết.

Tôi kính cẩn cúi đầu trước bức chân dung quen thuộc và chiêm bái tự trong đáy ḷng vị tôn sư cao cả đă từng che chở cho tôi từ thuở ấu thơ và đă hướng dẫn bước chân tôi đến đây vào giờ phút đáng ghi nhớ này.

Tôi đi một ṿng xem khắp đạo viện và những dăy nhà phụ thuộc với sự hướng dẫn của Sư Phụ. Đạo viện là một ngôi nhà gạch rộng lớn có hai tầng, kiến trúc theo lối cổ coi rất chắc chắn, chung quanh có sân rộng. Các vách tường ngoài có rêu phủ xanh um, những con chim bồ câu bay lượn trên mái nhà. Phía sau nhà có vườn cây ăn trái với những cây xoài, chuối, và nhiều loại kỳ hoa dị thảo. Những bao lơn của đạo viện nh́n ra sân từ ba phía nhà. Gian pḥng rộng lớn ở tầng dưới hằng năm dùng làm chỗ hành lễ Dủga Pụa. Một cầu thang nhỏ đưa đến phía đường lộ. Đạo viện có bày những bàn ghế, tràng kỷ ở bên trong, tất cả mọi thứ đều rất giản dị, sạch bóng và tiện lợi cho việc sử dụng hàng ngày.

Sư Phụ mời tôi ở lại đạo viện một đêm. Bữa ăn chiều gồm có cơm và rau đậu nấu với đồ gia vị, do sự đảm trách của hai người đệ tử trẻ tuổi có phận sự đi chợ nấu ăn và lo việc nội bộ của đạo viện.

-Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ để cho con nghe vài điều về cuộc đời của Ngài.

Tôi ngồi trên chiếc chiếu, gần bên tấm da cọp của Sư Phụ. Bên ngoài bao lơn, ánh sao chói rạng ngời trong đêm của vùng nhiệt đới.

-Tục danh ta là Priya Nath Karar. Ta sinh ở Serampore, tại đó thân phụ ta có một cơ nghiệp thương mại đồ sộ. Người để lại cho ta cái di sản này, trước kia là nhà ở của gian đ́nh, nay đổi làm đạo viện. Ta không thích sự học ở nhà trường v́ đối với ta nó có vẻ nông cạn. Khi trưởng thành ta quyết định lập gia đ́nh và có một con gái nay đă thành gia thất. Vào độ trung niên, ta có cái diễm phúc gặp gỡ đức Lahiri Mahasaya và theo học Đạo với Ngài. Khi hiền nội của ta qua đời, ta bèn xuất gia theo ḍng của các tu sĩ Swami và lấy tên mới là Sri Yukteswar Giri. Đó là câu chuyện giản dị về cuộc đời của ta.

Sư Phụ mỉm cười mà thấy tôi chăm chú nghe. Những lời nói của người chỉ tŕnh bày những điểm sơ lược của một tiểu sử mà không biểu lộ phần nào về tính chất tâm linh.

Sư Phụ lại im lặng. Tối đến, người đưa tôi tới một pḥng nhỏ để an nghĩ. Giấc ngủ của tôi ở nhà Sư Phụ trong đêm ấy thật mới êm đềm và ngon lành làm sao!

Sáng ngày hôm sau, Sri Yukteswar mới cho tôi làm lễ nhập môn để được truyền thụ pháp môn Kriya Yoga. Trước kia tôi đă thụ giáo về khoa Yoga này với hai vị đệ tử của đức Lahiri Mahasaya, là cha tôi và tu sĩ Swami Kebalananda, vịđỡi đầu của tôi. Nhưng bây giờ với sự hướng dẫn của thầy tôi, tôi lại càng tinh tiến thêm nhiều. Dưới bàn tay ban phép mầu của Sư Phụ tôi cảm thấy nơi tôi chiếu một Ánh Sáng diệu huyền, dường như là ánh hào quang cấu tạo nên bởi vô số vầng Thái Dương rực rỡ huy hoàng. Một nguồn an tĩnh và phúc lạc vô biên tràn ngập tâm hồn tôi; niềm an lạc ấy kéo dài cho đến tận ngày hôm sau. Sau đó, tôi bèn kiếu từ ra về. Sư Phụ dặn tôi:

-Con sẽ trở lại đây trong ba mươi ngày.

Tôi trở về nhà ở Calcutta với lời tiên tri đó ghi nhớ trong ḷng. Trái hẳn với điều tôi e ngại, không ai trong gia đ́nh nhắc nhở tới sự trở về của người con bỏ nhà ra đi hoang.

Tôi trèo lên gác nhỏ và ngắm nh́n nó với cái nh́n tŕu mến, dường như nó làm một bạn cũ. Thật vậy, nó đă tường chứng kiến trong im lặng những buổi tham thiền, những giọt lệ sầu, những cơn băo ḷng, cùng những công phu tu luyện của tôi. Bây giờ, tôi đă t́m được một niềm an tĩnh thiêng liêng dưới chân Sư Phụ.

-Con hỡi, cha lấy làm sung sướng cho cả hai chúng ta. Cha tôi nói khi ngồi với người ngoài sân vào một buổi chiểu. Con đă t́m thấy Sư Phụ con một cách nhiệm mầu, cũng như cha. Bàn tay thiêng liêng của đức Lahiri Mahasaya che chở cho cả hai ta. Sư Phụ con không phải là một vị tu sĩ ẩn dật trên dăy Hy Mă Lạp Sơn hẻo lánh mà gần như một người láng giềng. Những lời cầu nguyện của ta đă được đáp ứng, ta sẽ không bị mất con trong khi con theo đuổi việc học Đạo.

Cha tôi cũng vui ḷng mà thấy tôi định tiếp tục sự học; người liền lo làm những thủ tục cần thiết. Qua ngày hôm sau tôi đă ghi tên vào trường Đại Học Calcutta.

Ngày tháng trôi qua trong cuộc sống yên vui với gia đ́nh. Quư vị chắc hẳn đă đoán biết rằng tôi không chăm chú học lắm! Đạo viện Serampore gây cho tôi một sự hấp dẫn rất mạnh. Sư Phụ chấp nhận sự có mắt thường xuyên của tôi mà không nói ǵ, và điều làm tôi yên ḷng là người ít khi nhắc đến trường đại học. Tuy ai cũng biết rơ là tôi không chú tâm vào việc học, thỉnh thoảng tôi cũng cố gắng làm sao cho có được số điểm trong b́nh cần thiết.

Đời sống tại đạo viện trôi qua một cách lặng lẽ êm đềm. Sư Phụ tôi thức dậy trước lúc b́nh minh và ngồi tĩnh tọa ngay trên giường trong cơn nhập định.

Trước khi ăn điểm tâm, Sư Phụ và tôi cùng đi dạo một ṿng trên bờ sông Hằng. Những cuộc đi bách bộ sớm mai này đèu ghi khắc trong kư ức của tôi! Tôi vẫn không quên những giờ phút thần tiên khi tôi đi bên cạnh Sư Phụ: Mặt trời sớm mai hâm nóng mặt nước sông c̣n sương mờ bao phủ; giọng nói của Sư Phụ chứa đầy minh triết vang dội rơ ràng bên tai tôi...

Bữa cơm trưa do hai người đệ tử trẻ lo việc bếp núc nấu ăn theo chỉ thị của Sư Phụ. Sư Phụ ăn chay trường tuy rằng hồi trước khi xuất gia người có dùng trứng gà và cá. Người dạy các đệ tử nên ăn thức ăn giản dị, phù hợp với thể chất của họ.

Buổi xế trưa, khách thập phương thường đến viếng đạo viện; Sư Phụ luôn luôn tiếp đón họ một cách nhă nhặn lịch sự. Đối với ai đă hiểu rằng ḿnh là một linh hồn chư không phải chỉ là một thể xác vật chất, một phàm ngă giả tạo th́ tất cả mọi người đều như nhau.

Sự vô tư của Sư Phụ vốn căn cứ trên sự minh triết. Những vị tôn sư đạo hạnh cao thâm đă thoát khỏi ṿng tương đối ảo ảnh (maya), mà những đối tượng không c̣n làm cho họ băn khoăn chú ư. Sri Yukteswar không hề biểu lộ một dấu hiệu tôn kính, trọng vọng quá mức những kẻ bần cùng hay dốt nát. Người sẵn ḷng chú ư nghe một điểm chân lư thốt ra từ cửa miệng một đứa trẻ nhỏ hơn là nghe ư kiến của một nhà bác học tự phụ, kiêu căng.

Bữa ăn chiều dọn ra lúc tám giờ tối và đôi khi có những quan khách đến th́nh ĺnh. Sư Phụ cho là ḿnh không làm tṛn bổn phận chủ nhà nếu một vị khách nào rời khỏi đạo viện trong sự bất măn hoặc không được no ḷng. Người không bỏ sót một điều ǵ, không bao giờ bị bối rối v́ có khách đến bất ngờ; không bao giờ cạn hết phương tiện, người có thể bày ra một bữa ăn đầy đủ ngon lành với những vật liệu tối thiểu, hầu như chẳng có ǵ! Tuy vậy, người biết tiết kiệm mà không quá ư hà tiện. Người thường hay nói: “Hăy biết ăn ở rộng răi tùy theo phương tiện của ḿnh,” và “Thói xa xỉ chỉđem đến sự thất vọng, đắng cay.”

Trong những giờ yên tĩnh của trời chiều, chúng tôi ngồi nghe những lời giảng huấn đầy minh triết của Sư Phụ. Mỗi lời nói sâu xa của người đều có mang dấu vết của sự kinh nghiệm tâm linh. Người nói với một lối hùng biện ít ai có. Những tư tưởng của người được cân nhắc kỹ lưỡng do một khối óc phân biện xác đáng, chỉ xuất khẩu thành những câu nói linh động và hùng hồn. Linh hồn người đă ḥa nhập với chân lư một cách chặt chẻ đến nỗi sự thốt ra những chân lư ấy, đối với người thường, dường như là một hoạt động của cơ thể. Tôi ư thức rằng tôi đang đứng trước một hiện thân của Thượng Đế, quyền năng của người bắt buộc tôi đương nhiên phải cúi đầu chịu khuất phục.

Nếu vài người khách đến trễ giờ nhận thấy Sri Yukteswar sắp sửa nhập thiền th́ người liền đánh lạc hướng sự chú ư của họ bằng cách lôi cuốn họ vào một cuộc đàm thoại, v́ người không hề thích phô trương những khả năng siêu đẳng của ḿnh. V́ người đă ḥa hợp thường xuyên với Chân Như Đại Thể nên người có thể nhập thiền bất cứ lúc nào mà không cần phải theo đúng giờ khắc nhất định. Một vị tôn sư đă thực hiện được chân ngă ắt là đă vượt lên cao hơn mức độ tham thiền. “Cái hoa rụng khi trái đă thành h́nh.” Nhưng các vị tôn sư thường tôn trọng những h́nh thức bề ngoài trong việc công phu tu luyện để khuyến khích các đệ tử.

Những cuộc thảo luận về đạo lư thường kéo dài suốt đêm; đôi khi vịđệ tử bắt đầu những cuộc thảo luận này bằng cách nêu ra một vấn đề thật nghiêm trọng. Khi đó tôi cảm thấy mọi sự mệt nhọc và buồn ngủ đều tiêu tan; những lời dạy tốt lành của Sư Phụ là quá đủ đối với tôi.

“Trời đă sáng rồi, chúng ta hăy đi dạo một ṿng trên bờ sông,” những lời nói này của Sư Phụ thường chấm dứt những đêm thức sáng trắng một cách thú vị đó.

Trong những tháng đầu tiên ở tại đạo viện, tôi đă học được một bài học thực tế: “Làm sao để khỏi bị muỗi cắn!” Ở nhà, chúng tôi để ngủ có mùng và tôi lấy làm kinh ngạc mà thấy rằng người ta chỉ ngủ trần ở đạo viện Serampore mặc dù ở đây rất nhiều muỗi. Toàn thân từ đầu đến chân đều có đầy những vết muỗi cắn. Sư Phụ lấy làm thương hại tôi:

-Con hăy mua một cái mùng cho con và một cái cho Thầy.

Người vừa cười vừa nói thêm:

-Nếu con chỉ mua một cái, th́ tất cả muỗi đạo viện này đều bu lại cắn một ḿnh Thầy!

Tôi vui vẻ nhận lời. Mỗi đêm tôi ngủ tại đạo viện, Sư Phụ đều bảo tôi giăng luôn cả hai cái mùng.

Một đêm có thật nhiều muỗi, Sri Ykteswar quên không ra lệnh cho tôi giăng mùng như mọi khi. Tôi lắng tai nghe ngóng và chờ đợi nhưng không nghe thấy ǵ. Tôi bèn lên giường nằm và cầu nguyện thiêng liêng che chở cho tôi khỏi bị muỗi cắn. Nửa giờ sau, tôi ho lớn để làm cho Sư Phụ phải chú ư đến tôi, v́ bầy muỗi khát máu tấn công tôi từ bốn phía với tiếng bay kêu inh ỏi làm cho toi muốn phát điên.

Sư Phụ vẫn nằm yên bất động; tôi bèn rón rén đến gần nhưng không nghe có hơi thở. Đó là lần đầu tiên mà tôi thấy Sư Phụ trong trạng thái xuất thần đại định và tôi lấy làm sợ hăi. Tôi thầm nghĩ: “Hay là Sư Phụ bịđứng tim.” Tôi lấy một tấm kiếng để trước miệng người nhưng không thấy dấu vết hơi thở. Tôi bèn đánh bạo lấy ngón tay bịt hay lỗ mũi và miệng người trong vài phút để kiểm chứng những sự nghi ngờ của tôi. Toàn thân người đều cứng đơ và lạnh buốt. Tôi hoảng sợ vừa chạy ra phía cửa vừa la thất thang để kêu cứu.

-Thế nào, ông y sĩ tí hon! Ông làm khổ cái mũi tôi!

Sư Phụ cười vang lên một cách thật t́nh.

-Tại sao con không đi ngủ? Con tưởng rằng tất cả thế gian phải thay đổi để làm vừa ḷng con hay sao? Nếu con muốn thay thế gian, con hăy bắt đàu ở tự nơi con trước đă, và trước hết, con hăy tự giải thoát khỏi việc sợ muỗi cắn!

Tôi lủi thủi trở lại giường nằm th́ không c̣n thấy bóng một con muỗi nào ở gần bên. Tôi hiểu rằng Sư Phụ chỉ chấp nhận cái mùng để làm vui ḷng tôi mà thôi, chứ thực ra người không hề bị muỗi cắn. Người có quyền năng hoặc khiến cho muỗi đừng cắn hoặc trở nên bất khả xâm phạm trước sự tấn công của chúng. Tôi thầm nghĩ rằng Sư Phụ đă chứng minh cho tôi thấy cái bản lĩnh của người Yogi mà tôi c̣n phải cố gắng tu luyện để đạt tới. Quên hẳn tất cả những sụ chi phối của ngoại cảnh, người Yogi phải trụ tâm hồn vào trạng thái siêu thức. Sự khuyất rối của loại côn trùng sâu bọ, tia nắng gắt của mặt trời v.v... tất cả những sự cảm xúc của giác quan đều phải bị loại trừ. Trong trạng thái đó người Yogi tiếp nhận những âm thanh, những linh ảnh, nhưng đó là thuộc về những cơi giới cao siêu huyền diệu hơn.

Loài muỗi c̣n là đầu đề của một bài học tâm linh khác nữa trong những ngày đầu tiên của tôi ở tu viện. Một buổi chiều, tôi đang thưởng thức cảnh vật êm đềm khi tôi ngồi dưới chân Sư Phụ, th́nh ĺnh con muỗi bay đến quấy rầy sự yên lặng của tôi. Khi nó vừa sửa soạn cắn vào bắp đùi non của tôi, tôi đưa bàn tay lên nhưng rồi lại ngừng tay vào giây phút chót, khi tôi nghĩ đến lời giới răn của đạo sư Patanjali về đức bất sát (Ahimasa) hay bất bạo hành:

-Tại sao con không giết nó?

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ định bảo con sát hại loài sinh vật chăng?

-Không phải vậy, nhưng con đă có ư mưu sát ngay trong tư tưởng rồi đấy!

-Con không hiểu.

-Patanjali dạy rằng người ta phải diệt trừ ngay cả ư định giết chóc.

Như vậy, Sri Yukteswar đọc được tư tưởng tôi một cách rơ ràng như một quyển sách đang mở. Cơi thế gian thật là một nơi khó thực hành thuyết bất bạo động một cách tuyệt đối. Con người có thể bị bắt buộc phải tiêu diệt những ḷai sinh vật nguy hiểm mà không cảm thấy thù ghét hay căm hờn. Mọi sinh vật đều có quyền thở không khí của Maya (ảo ảnh). Vị tu sĩ khám phá ra cái bí quyết của sự sinh hóa, sáng tạo, sẽ ḥa hợp với mọi sắc tướng biểu hiện ra dưới thiên h́nh vạn trạng. Người nào đă thắng được ở tự nơi ḿnh cái tính đa sát, bạo hành, cũng sẽ hiểu được điều đó.

-Bạch Sư Phụ, ta có nên hy sinh tánh mạng ḿnh thay v́ phải giết một con thú dữ chăng?

-Không! Xác thân con người là quí. Nó có khả năng tiến hóa ẩn tàng mà vị trí nằm trong bộ óc và những bí huyệt trong tủy xương sống có thể giúp cho những vị đệ tử tiến hóa cao đạt được những trạng thái tâm linh siêu đẳng. Không một loài sinh vật nào có được một thể xá cấu tạo tinh vi như thế. Thật ra th́ con người mắc một tội lỗi nhỏ nhặt nếu y bắt buộc phải giết một con thú hay một loài sinh vật nào khác. Nhưng kinh Phệ Đà dạy rằng giết hại một mạng người tức là vi phạm luật nhân quả một cách nặng nề.

Tôi thốt ra một tiếng thở dài nhẹ nhơm: những trường hợp mà Thánh Kinh chấp nhận những bản năng thấp kém của con người rất là ít!

Tôi không bao giờ có dịp chứng kiến Sư Phụ đương đầu với một con cọp hay một con beo. Nhưng một ngày nọ người đă khuất phục một con rắn hổ mang dữ tợn chỉ bằng mănh lực của ḷng bác ái. Rắn hổ mang là một loại rắn dữ ở Ấn Độ và mỗi năm có đến trên năm ngàn người bị rắn cắn chết. Việc ấy xảy ra tại Puri, nơi đó Sri Yukteswar có một đạo viện khác tọa lạc trong một khung cảnh thơ mộng thần tiên trên bờ biển vịnh Bengale. Lúc ấy có một vịđệ tử trẻ tuổi tên Prafulla ở bên cạnh Sư Phụ. Prafulla kể chuyện:

Chúng tôi đang cùng Sư Phụ đứng ngoài sân ở gần bên đạo viện. Một con rắn hổ mang dài độ một thước rưỡi th́nh ĺnh xuất hiện, phùng mang to tướng và phóng tới chúng tôi. Sư Phụ b́nh tĩnh mỉm cười tiếp đón con vật chẳng khác như đó là một đứa trẻ nhỏ. Tôi kinh hoàng mà thấy người vỗ hai bàn tay làm nhịp (v́ loại rắn này thường tấn công những vật đang cử động, muốn thoát nạn phải đứng im một chỗ) dường như người muốn cảm hóa con rắn dữ! Tôi bèn đứng yên, hoàn toàn bất động và lặng lẽ khấn vái cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Con rắn ḅ đến gần Sư Phụ rồi ngừng lại, dường như nó bị hấp dẫn bởi cách xử êm ái dĩa bàn lúc năy cũng từ từ xẹp xuống, nó lẵng lặng ḅ qua giữa hai bàn chân của Sư Phụ rồi biến mất dạng trong đám cỏ rậm. Hồi đó tôi không hiểu tại sao Sư Phụ lại vỗ tay làm nhịp và tại sao con rắn không cắn người, nhưng về sau tôi biết chắc chắn rằng Sư Phụ không hề sợ sệt bất cứ một loài mănh thú nào.

Trong những tháng đầu tiên tôi ở đạo viện, một buổi trưa tôi nhận thấy Sri Yukteswar nh́n tôi một cắch chăm chú:

-Mukunda, con gầy ốm quá!

Lời nhận xét ấy làm tôi rất xúc động. Tôi đă uống rất nhiều thứ thuốc bổ nhưng vô hiệu v́ tôi bị chứng đau bao tử kinh niên từ thuở bé. Tôi thất vọng lớn lao đến nỗi có lúc tôi đă tự hỏi rằng cuộc đời có đáng sống hay chăng với một xác thân bịnh hoạn và suy nhược như thế?

-Sự công hiệu của thuốc men chỉ có giới hạn, c̣n cái nguồn sinh lực sáng tạo ra muôn loài th́ vô biên. Con sẽ khỏi bệnh và sẽ trở nên cường tráng.

Những lời nói đó của Sư Phụ đánh thức dậy nơi tôi một đức tin dũng mănh mà không một nhà chữa bệnh nào có thể gây ra được mặc dù tôi đă viếng rất nhiều y sĩ và lang băm!

Tôi càng ngày càng nặng cân. Hai tuần lễ sau, ân huệ bí mật của Sư Phụ đă làm cho tôi trở nên lực lưỡng và nặng cân thêm gấp bội. Chứng đau bao tử kinh niên cũng đă dứt tuyệt.

Trong những trường hợp khác, tôi nhận thấy Sư Phụ cũng đă chữa khỏi một cách mầu nhiệm những chứng bệnh hiểm nghèo: bệnh lao, bệnh đái đường, động kinh hay tê bại. Hơn ai hết, tôi biết Sư Phụ đă chữa khỏi bệnh cho tôi và làm cho tôi từ nay không c̣n vẻ suy nhược như cái xác khô héo nữa.

Về cách chữa bệnh một cách mầu nhiệm này, Sri Yukteswar giải thích:

-Mọi sinh hoạt trong Vũ Trụ Càn Khôn đều chịu sự chi phối của những định luật. Những định luật mà các nhà bác học đă khám phá, nó cai quản cái thế giới bên ngoài, là những định luật thiên nhiên. Nhưng ngoài ra nó cai quản địa hạt của tâm thức, mà chỉ có khoa học huyền môn gọi là Yoga mới có thể xác định được mà thôi. Những cơi giới tâm linh, vô h́nh, huyền bí, cũng có những định luật thiên nhiên, những nguyên tắc tiến hóa riêng của những cơi ấy. Cái tinh hoa của vật chất có thể sở đắc được không phải bởi nhà bác học của thế giới hữu h́nh mà chỉ bởi bậc tu sĩ giác ngộ đă thực hiện Chân Ngă. Chính bởi lẽ đó mà đấng Christ (Chúa) đă chữa lành vết thương cho người gia nô bị một vị tông đồ chém đứt vành tai.

Sri Yukteswar b́nh luận Thánh Kinh một cách tinh vi thâm thúy đến một mức độ hoàn hảo. Những buổi giảng thuyết của Sư Phụ khêu gợi nơi tôi nhiều kỷ niệm êm đềm. Nhưng những viên ngọc quí tiềm tàng trong những tư tưởng của người, không phải dùng để lăn trong vũng bùn của sự lăng trí. Tôi chỉ làm một cử chỉ vô ích, hoặc lo ra, là Sư Phụ liền ngưng bặt:

-Con không nghe ta nói!

Sư Phụ cắt đứt ngang câu chuyện đang nói vào một buổi chiều nọ, nhân dịp theo thói quen, người theo dơi ḍng tư tưởng của tôi.

-Bạch Sư Phụ, con không hề cử động và cũng không chớp mắt; con có thể lập lại từng lời nói của Sư Phụ!

-Tuy vậy, con không hoàn toàn chú ư đến câu chuyện; sự phản đối của con bắt buộc ta phải nói rằng con đang nghĩ trong trí việc thành lập ba đạo viện: một ở vùng đồng bằng, một ở vùng đồi núi, và một ở bờ biển.

Những tư tưởng mơ màng đó thật sự đă có thoáng qua trong trí tôi. Tôi nh́n Sư Phụ như để thú nhận việc ấy:

- Con c̣n làm ǵ được trước một vị tôn sư nh́n thấu suốt cả những tư tưởng thầm kín nhất của ḿnh?

-Con đă cho ta cái quyền đó. Những chân lư thâm sâu tế nhị mà ta vừa nêu ra chỉ có thể lănh hội được dưới điều kiện của một sự chú ư hoàn toàn. Thấy chỉ bước vào địa hạt những tư tưởng thầm kín riêng tư của một người trong trường hợp tối cần thiết; đó là một địa hạt mà mỗi người đều có trọn quyền để tư tưởng tự do phiêu lưu tùy ư muốn. Dẫu cho Thượng Đế cũng không lọt vào đó nếu không được mời! Thầy cũng không mạo hiểm bước vào đó nếu con không muốn.

-Bạch Sư Phụ, con rất hân hạnh được Sư Phụ chiếu cố.

-Những ước mơ lập đạo viện của con sẽ được thực hiện về sau này. C̣n bây giờ, hăy bắt tay vào việc!

Như thế, Sư Phụ đă tiên đoán ba việc quan trọng trong đời tôi. Từ thuở thiếu niên, tôi thường thấy xuất hiện trước nhăn quang của tôi những linh ảnh lạ lùng về ba ngôi kiến trúc tọa lạc trên ba khu đất khác nhau. Những ngôi kiến trúc đó được thực hiện theo thứ tự mà Sư Phụ đă tiên đoán. Trước hết là một trường dạy Yoga cho thanh thiếu niên ở miền đồng bằng tỉnh Ranchi; kế đó là tổng hành dinh của tôi ở Mỹ Quốc trên một ngọn đồi ở Los Angeles; và sau cùng là một đạo viện trên bờ biển Thái B́nh Dương ở California.

Sư Phụ không bao giờ tự hào mà tuyên bố rằng, “Ta đă tiên tri việc nọ việc kia,” mà chỉ nói rằng, “Con có nghĩ rằng việc nọ hay việc kia có thể xảy đến chăng?” Tuy nhiên, những lời nói giản dịấy có hàm xúc một ư nghĩa sâu xa thâm trầm, tuy rằng che dấu nhưng luôn luôn được xác nhận bởi những sự kiện xảy ra về sau.

Sri Yukteswar xét đóan mọi sự một cách rất dè dặt và rất đúng đắn. Người không phải là một triết gia mơ tưởng, nói những lư thuyết vu vơ trong khoảng không. Đầu óc nghĩ trên mây nhưng hai chân đứng vững chắc trên mặt đất, Sư Phụ thu hút được sự thán phục của những người thực tế.

Tấm gương cuộc đời của Sư Phụ đă cho phép tôi qui định một đường ranh giới giữa thực tế tâm linh và khoa thần bí mơ hồ. Sư Phụ không thích những cuộc thảo luận viễn vong sieu h́nh: tâm hồn của người thật rất giản dị. Sư Phụ không hề dùng lời nói ám chỉ hoặc nhắc đến những hiện tượng siêu nhiên mà chỉ làm những việc đó một cách thật sự. Những người khác nói chuyện về những phép lạ mà không làm được: Sri Yukteswar ít khi nói đến những định luật của thế giới vô h́nh nhưng sử dụng những định luật đó trong ṿng bí mật và tùy theo ư muốn. Người giải thích:

Người đă giác ngộ chỉ thực hiện những việc nhiệm mầu tùy theo mệnh lệnh của Chân Ngă. Thượng Đế không muốn những bí mật của Trời Đất được tiết lộ cho kẻ phàm tục. Mặt khác, mỗi người đều có quyền bất khả xâm phạm xử dụng tự do ư chí của ḿnh. Dẫu cho một bậc thánh cũng không được xâm phạm đến cái quyền tự do thiêng liêng đó.

V́ Sư Phụ có một thái độ khiêm tốn, không thích khoa trương nên ít ai biết rằng người là một bậc siêu nhân. Câu nói “Điên rồ thay cho kẻ nào không biết dấu diếm sự minh triết của ḿnh” bao giờ cũng vẫn đúng.

Khi tôi sờ hai bàn chân thiêng liêng của Sư Phụ, tôi cảm thấy như có một luồng điện chạy khắp châu thân. Các đạo sĩ Yoga dạy rằng người đệ tử khi tiếp xúc với tôn sư, tiếp nhận được một luồng từ điển tâm linh làm cho mọi dấu vết xấu xa của dĩ văng được xóa bỏ, mănh lực của dục vọng trần gian được điều chỉnh lại thăng bằng, và bức màn ảo vọng, vô minh được vén lên trong một lúc để cho y thực nghiệm chân hạnh phúc. Toàn thân tôi dường như được tinh luyện và chiếu diệu một vầng hào quang giải thoát khi mà, theo tập quán Ấn Độ, tôi quỳ dưới chân Sư Phụ. Sư Phụ kể lại:

-Dẫu cho Lahiri Mahasaya im lặng hoặc nói về những vấn đề không liên quan đến đạo lư, ta cũng thâu thập nơi ngài một nền minh triết thâm sâu khôn lường.

Đó chính là điều mà tôi cảm xúc được khi có sự hiện diện của Sri Yukteswar. Những khi tôi mệt mỏi hoặc chán nản, tôi đến đạo viện và tâm trạng của tôi thay đổi lần lần. Một sự yên tĩnh tốt lành xâm chiếm tâm hồn tôi khi tôi nh́n thấy Sư Phụ. Mỗi ngày sống gần bên Sư Phụ đều đem đến cho toi một kinh nghiệm mới về sự minh triết, bằng an và phúc lạc. Sư Phụ không bao giờ cảm thấy thất vọng, ganh ghét, giận hờn hay tha thiết theo thói thường t́nh của thế nhân.

“Tấm màn ảo ảnh vô minh bao phủ thế gian một cách từ từ và êm lặng. Chúng ta hăy t́m nơi trú ẩn bên trong nội tâm của ḿnh.” Đó là câu mà Sư Phụ nhắc nhở các đệ tử hăy công phu theo pháp môn Kriya Yoga vào mỗi buổi chiều tà. Ngày nọ một đệ tử mới bày tỏ sự nghi ngờ khả năng của ḿnh trong việc thực hành pháp môn Yoga, Sri Yukteswar an ủi y:

-Hăy quên cái dĩ văng. DĨ văng của mỗi người đều đầy dẫy những điều hổ thẹn. Cách xử thế của con người không được toàn vẹn khi mà nó không ḥa hợp với thiêng liêng. Trong tương lai, con sẽ tiến bộ dưới những điều kiện cố gắng công phu không ngừng về phương diện tâm linh.

Ở đạo viện của Sư Phụ luôn luôn có những đệ tử trẻ tuổi. Sư Phụ đặt hết cả tâm hồn vào việc trí dục và đức dục của họ. Những môn sinh trong đạo viện đều yêu mến và kính trọng Sư Phụ; người chỉ cần vỗ nhẹ hai bàn tay cùng đủ làm cho họ chạy đến ngay một cách mau mắn. Khi người ngồi yên bất động trong cơn tọa thiền th́ tất cả đều im lặng không ai thốt ra một lời nào. Khi tiếng cười gịn giă của Sư Phụ vang lên một cách vui vẻ th́ tất cả đều thoải mái và coi người như một người bạn.

Sư Phụ ít khi đ̣i hỏi sự phục dịch của các đệ tử và chỉ nhận công tác đó của những vị nào thành thất và sẵn ḷng muốn giúp đỡ. Sư Phụ tự giặt giũ lấy quần áo của ḿnh khi nào các đệ tử quên làm công việc đó. Người khoác chiếc áo màu vàng sậm của giới tu sĩ và mang giầy bằng da cọp hay da hươu theo thói quen của các đạo sĩ Yogi.

Sư Phụ có vẻ hài ḷng về sự tiến hóa tâm linh của tôi v́ người ít khi sửa chữa tôi về khía cạnh đó. Những lỗi lầm chính của tôi là sự lăng trí, tính cau có gắt gỏng, sự vi phạm một vài điểm kỷ luật và đôi khi làm việc cẩu thả, thiếu phương pháp. Về điểm này một hôm Sư Phụ nói với tôi:

-Con hăy xem: những hoạt động của lịnh tôn Bhagabati Charan Ghosh, thật là sắp đặt có mực thước và tổ chức qui của khéo léo dưới tất cả mọi phương diện.

Cha tôi và Sri Yukteswar đều là đệ tử của đức Lahiri Mahasaya. Hai vịđă gặp nhua ít lâu sau khi tôi bắt đầu những chuyến hành hương đến Serampore. Hai người đều có sự quí mến lẫn nhau và cả hai đều xây dựng đời sống tâm linh của ḿnh trên một nền tảng vững chắc.

Tính chất riêng của tôi làm cho tôi thiên hẳn về con đường sùng tín. Lúc đầu tôi lấy làm hoang mang mà nhận thấy rằng Sư Phụ tuy thấm nhuần đức Minh Triết (Jnana) lại có vẻ xa lạ với đức sùng tín (Bhakti) v́ người thường giảng chân lư bằng một phương pháp thuần lư trí, khô khan, máy móc và lạnh lùng. Nhưng khi tôi tự đặt ḿnh trong sự ḥa hợp tâm linh với Sư Phụ, tôi cảm thấy rằng con đường sùng tín mà tôi noi theo để đạt tới Chân Lư lại càng tăng trưởng chứ không giảm sút. Một vị tôn sư đă hoàn toàn giác ngộ có thể d́u dắt các đệ tử trên bất cứ con đường nào thích hợp với họ.

Những sự giao cảm giữa tôi với Sư Phụ tuy im lặng không lời nhưng có ư nghĩa rất nhiều. Lắm khi sự im lặng của người đưa đến một sự giải đáp cho những tư tưởng thầm kín của tôi, làm cho lời nói cũng bằng thừa. Ngồi bên Sư Phụ tôi cảm thấy ảnh hưởng tốt lành của người thấm vào tận chỗ thâm sau bí ẩn nhất của tâm hồn tôi.

Tôi đă có dịp nhận xét sự công b́nh vô tư của Sri Yukteswar trong những tháng nghỉ hè ở trường đại học. Cái viễn ảnh sẽ sống trong nhiều tháng liên tiếp tại đạo viện gây cho tôi một sự hứng thú say sưa. Khi tôi vừa đến, Sư Phụ liền thông báo:

-Con sẽ làm quản đốc đạo viện. Bổn phận của con sẽ gồm có việc tiếp khách và giám sát công việc của những đệ tử khác.

Nửa tháng sau có một thanh niên miền đông tỉnh Bengale tên là Kumar được thu nhận. Y rất thông minh nên không bao lâu y được Sư Phụ mến thương, và v́ một lư do khó tả, Sư Phụ dành cho y một sự ưu đăi rất đặc biệt.

-Mukunda, từ rày về sau Kumar sẽ làm quản đốc đạo viện, c̣n con sẽ lo việc nội trợ và bếp núc.

-Sư Phụ lại ra lệnh như thế khi Kumar vừa đến ở đạo viện mới được một tháng!

Hănh diện với chức vụ mới, Kumar bèn lên giọng hách dịch quyền hành trong đạo viện. Các đệ tử khác ngầm thỏa thuận với nhau để tiếp tục đến nhận chỉ thị của tôi hàng ngày.

-Mukunda thật là khó chịu! Sư Phụ đă giao chức quản đốc cho con nhưng các huynh đệ khác lại đến t́m y và vâng lời y!

Kumar lên tŕnh với Sư Phụ như thế sau đó ba tuần lễ, và tôi nghe lỏm được câu chuyện từ gian pḥng bên cạnh.

-Bởi đó nên ta mới cho nó xuống nhà bếp c̣n con th́ lên pḥng khách!

Giọng nói khinh bỉ của Sư Phụ là một điều bất ngờ đối với Kumar.

-Như vậy, con sẽ hiểu rằng một người lănh đạo có khả năng phải dốc ḷng phụng sự chứ không phải ỷ thế lạm quyền. Con muốn lănh chức vụ của Mukunda nhưng con lại bất lực không kham nổi địa vịđó bằng tài đức của ḿnh. Bây giờ con hăy trở về với công việc ở nhà bếp mà con đă làm từ lúc đầu.

Sau khi xảy ra chuyện ấy, Sư Phụ lại tiếp tục dành cho Kumar một sự biệt đăi và khoan dung như trước. Có ai lường được sự bí ẩn của t́nh thương? Sư Phụ dành cho Kumar những sự ưu đăi tế nhị mà người không dành cho những đệ tử khác. Tuy Kumar đă rơ ràng là người thân tín chọn lọc của Sư Phụ, nhưng tôi không cảm thấy ganh tị.

Thâm chí các tôn sư cũng có những sự biệt đăi, thiên vịđối với một vài đệ tử. Điều này làm cho cuộc đời có những khía cạnh vô cùng phong phú. Bản tính tôi ít khi chú ư đến những chuyện nhỏ nhặt. Tôi ḥai vọng ở Sri Yukteswar những kho tàng tâm linh quí giá khác hơn là những sự biệt đăi hoặc những lời khen tặng.

Một hôm, Kumar gây gỗ với tôi một cách vô lư và thốt ra những lời lẽ nặng nề. Tôi bị chạm tự ái rất nặng.

-Huynh đừng quá nóng, tôi trả lời và cảnh cáo y. Nếu huynh không sửa đổi tánh hạnh, chắc có ngày huynh sẽ bị trục xuất ra khỏi đạo viện.

Kumar phát lên giọng cười ngạo nghễ và lập lại những lời nói của tôi cho Sư Phụ khi người vừa bước vào. Tôi tưởng chắc phen này ḿnh bị quở trách nặng nề, bèn khép nép đứng thu ḿnh vào một góc pḥng.

- Có thể là Mukunda nói có lư!

Sư Phụ đáp lại với một giọng lạnh lùng khác hẳn mọi khi c̣ng tôi không bị trách mắng.

-Một năm sau, Kumar về quê thăm gia đ́nh bất kể đến sự bất măn câm lặng của Sư Phụ, v́ người không bao giờ sử fụng uy quyền đối với các đệ tử. Vài tháng sau đó, khi trở lại đạo viện y thay đổi một cách bất ngờ. Y không c̣n là một chàng thanh niên hiên ngang có gương mặt khôi ngô sáng sủa và trầm lặng, mà là một anh nông dân thô tục mắc phải nhiều tật xấu.

Sư Phụ gọi anh ta lại và lấy làm đau ḷng mà nhận thấy rằng người thanh niên ấy không c̣n thích hợp với đời sống đạo viện.

-Mukunda, con hăy nói với Kumar rằng y phải rời khỏi đạo viện vào sáng ngày mai. Ta không đủ can đảm nói với y!

Sư Phụ rưng rưng giọt lệ nhưng người bèn trấn tĩnh ngay: -Nếu y biết vâng lời ta mà đừng về nhà để bị bạn bè bất hảo lôi cuốn th́ y đă không đến nỗi quá trụy lạc như vậy. Y đă khước từ sự che chở của ta, từ nay cuộc đời cay đắng phủ phàng sẽ là thầy của y.

Sự ra đi của Kumar không gây nơi tôi một sự thỏa măn tự ái nào cả, ḷng buồn man mác, tôi tự hỏi v́ sao một người có cái diễm phúc được Sư Phụ mến yêu lại có thể coi trọng những thú vui phàm tục hơn Thầy. Rượu chè, đàng điếm có tác dụng như những thứ thuốc độc hại người. Trong nội tâm ta vốn có sẵn một niềm phúc lạc mà chúng ta phí công đi t́m một cách vô ích ở khắp mọi nơi.

Có lần Sư Phụ b́nh phẩm về Kumar:

- Trí thông minh có hai mặt: nó có thể xây dựng hay phá hoại, cũng như con dao bén có thể dùng để giải phẫu một mụt nhọt ung thư hoặc để giết người. Trí thông minh chỉđi đúng đường khi nào con người đă phát triển tâm linh và hiểu biết Đạo lư.

Trong số các đệ tử ở đạo viện, có vài người thuộc về phái nữ: Sư Phụ săn sóc tất cả mọi người cũng như những người con trong gia đ́nh. Ư thức được sự b́nh đẳng của tất cả mọi linh hồn, người không phân biệt vấn đề nam nữ. Người nói:

Trong giấc ngủ, người ta không ư thức rằng ḿnh là đàn ông hay đàn bà. Cũng như một người nam không trở thành một người nữ khi y mặc áo quần của người đàn bà, th́ linh hồn cũng vậy: linh hồn khoác lấy một thể xác đàn ông hay đàn bà nhưng thật ra nó vốn không có tính chất nam hay nữ. Linh hồn con người chỉ là một h́nh ảnh thuần khiết và bất tử của đấng Thiêng Liêng.

Sri Yukteswar không tránh né phụ nữ, người không cho rằng phụ nữ là mục tiêu cám dỗ người đàn ông, và nói rằng: “Đàn ông cũng là một sự cám dỗ đối với đàn bà!” Tôi bèn hỏi v́ sao một vị thánh nhân thời cổ đă nói rằng đàn bà là cửa vào địa ngục? Sư Phụ giải thích:

-Chắc hẳn là trước kia một thiếu nữ đă gây nhiều xáo trộn và làm mất sự b́nh an trong ḷng của ông ta. Nếu không, th́ ông ta đă không lên án đàn bà mà chỉ trách ḿnh không biết tự chủ.

Những đệ tử thật ḷng muốn diệt trừ ảo vọng đă tị thấy nơi Sư Phụ những lời khuyên sáng suốt:

-Cũng như người ta ăn uống để giải bớt sự đói khát chứ không phải để thỏa măn sự tham ăn th́ bản năng sinh lư là để lưu truyền ṇi giống theo định luật thiên nhiên chứ không phải để thỏa măn nhục dục thấp hèn. Hăy diệt trừ dục vọng xấu xa ngay bây giờ kẻo nó sẽ theo dơi ta qua tận cơi trung giới khi ta rời bỏ xác phàm. Nếu xác thịt yếu đoosi th́ tinh thần phải được dũng mănh. Trước một sự cám dỗ quá mạnh, ta phải chống lại bằng một sự phân tích khách quan và một ư chí bất khuất. Như thế những dục vọng mạnh mẽ tự nhiên sẽ được chế ngự.

-Chúng ta hăy biết bảo toàn sinh lực. Ta hăy làm như biển đại dương, thu hút về ḿnh tất cả mọi nguồn sông, rạch của giác quan. Trong cái kho vô tận của niềm an tịnh bên trong nội tâm, những mối xúc cảm nhỏ nhặt nhất của thất t́nh lục dục đều là những lổ hổng làm chảy mất đi những nguồn sinh khí bảo dưỡng, nó sẽ bị khô cạn trên băi cát khô khan của duy vật chủ nghĩa. Áp lực chuyên chế của những dục tính xấu xa là kẻ thù lớn nhất của hạnh phúc con người. Các con hăy tập lấy tính tự chủ và đừng bao giờ mở rộng cửa để dung dưỡng sự yếu đuối.

Ngoài các Kinh Thánh, Sri Yukteswar rất ít chú trọng đến sách vở. Tuy thế, người vẫn biết rơ những phát minh khoa học mới nhất và những nghành học thuật khác của nhân loại. Sư Phụ rất hùng biện trong những cuộc đàm thoại với những vị khách viếng thăm đạo viện: tính t́nh vui ve, người làm cho câu chuyện trở nên sôi nổi hào hứng. Người thường nghiêm trang nhưng không bao giờ có nét mặt sầu thảm. Người nói: “Tu hành không có nghĩa là lúc nào phải có một bộ mặt đưa đám. Các con hăy nhớ rằng tu hành đắc Đạo tức là chấm dứt tất cả mọi điều phiền năo, nghiệp chướng.”

Trong số những nhà trí thức, học giả, bác học từng đến viếng đạo viện, nhiều người tưởng rằng ở đây họ sẽ gặp một tu sĩ thuộc về loại tầm thường cũng như bao nhiêu tu sĩ khác. Họ biểu lộ tâm trạng đó đôi khi bằng một cái cười ngạo nghễ hay cặp mắt khinh thường. Nhưng đến khi ra về họ lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng Sri Yukteswar đă tỏ ra có những kiến thức rộng răi và tầm hiểu biết sâu xa trên mỗi lănh vực chuyên môn của họ.

Sư Phụ rất hiền ḥa và khả ái đối với những khách viếng thăm và tiếp đón họ một cách lịch sự. Tuy nhiên những kẻ ích kỷ, lố lăng ngạo mạn đều bị người cho những bài học thích đáng. Trong những dịp đó, họ bị người dành cho một sự thờ ơ lạnh nhạt hoặc bị chống đối mănh liệt.

Ngày nọ, một nhà khoa học trứ danh đă có dịp chạm trán với Sư Phụ. Ông ta từ chối không nh́n nhận là có Thượng Đế bởi v́ khoa học không thể chứng minh được việc ấy. Sư Phụ nói mỉa mai:

-À, thế là ông chưa t́m ra cái Quyền Năng Thiêng Liêng bằng những công thức hóa học trong pḥng thí nghiệm ư? Tôi đề nghị là ông hăy thử làm một cuộc thí nghiệm khác thường này: ông hăy theo dơi và phân tích những tư tưởng của ông không ngừng trong hai mươi bốn giờ liên tiếp. Chừng đó ông không c̣n thắc mắc về sự không t́m thấy Thượng Đế.

Những người hănh diện về quyền thế và địa vị cao sang của họ ở ngoài đời đă có dịp nhận một bài học khiêm tốn trước mặt Sư Phụ. Một vị thẩm phán địa phương một hôm t́nh cờ đến viếng đạo viện của Sư Phụ trên bờ biển ở Puri. Vị này từng nổi tiếng là một viên chức khắc nghiệt và có đủ quyền hành để đuổi chúng tôi ra khỏi đạo viện nếu ông muốn. Tôi dặn trước Sư Phụ hăy nên cẩn thận tiếp đón ông ta, nhưng Sư Phụ không màng để ư đến lời dặn của tôi chút nào và thậm chí không đứng dậy để tiếp đón vị khác quí ấy. Tôi hơi e ngại và đứng khép nép một bên ở phía gần cửa ra vào. Vị thẩm phán buộc ḷng phải chịu ngồi trên một cái ghế đẩu nhỏ bằng gỗ v́ Sư Phụ không ra lệnh cho tôi lấy ghế bành. Vị thẩm phán hẳn là trông đợi một sự tiếp đón trọng hậu hơn với những nghi lễ xứng đáng với quyền chức của ḿnh, bèn lộ vẻ thất vọng rơ rệt.

Kế đó diễn ra một cuộc thảo luận về đạo lư. Người khách b́nh luận các Thánh Kinh với rất nhiều điểm sai lầm. Khi Sư Phụ vạch cho thấy những điểm đó, th́ ông ta nổi nóng cải lại và nói lớn:

-Đại đức có biết rằng tôi đă đậu thủ khoa trong kỳ thi Tiến Sĩ Triết Học?

Sư Phụ đáp:

-Này ông thẩm phán, ông không phải đang ngồi trước một phiên ṭa. Những lời b́nh luận kém cỏi của ông làm cho tôi nghĩ rằng có lé sự học của ông không được chu đáo lắm. Một bằng cấp khoa cử, tuy vậy, không có liên hệ đến cái tinh hoa thâm thúy của thánh kinh Phệ Đà. Người ta không sản xuất thánh nhân từng kỳ hạn như những vị tân khoa.

Vị thẩm phán bị “chỉnh” bằng cách đó rốt cuộc đành cười lớn một cách thật t́nh. Ông ta nói:

-Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với một vị thẩm phán của trời!

Ít tháng sau đó, ông ta làm một lá đơn chánh thức với những danh từ luật pháp nó đă trở thành bản tính tự nhiên thứ nh́ của ông ta, để xin nhập môn vào đạo viện với tư cách một đệ tử tập sự.

Sư Phụ đích thân chăm lo việc quản lư tài sản của ḿnh. Những kẻ bất lương đă nhiều lần âm mưu chiếm đoạt đất hương hỏa của Sư Phụ. Sri Yukteswar đă cương quyết lật tầy âm mưu đen tối của họ, thậm chí đă đưa họ ra trước pháp luật. Người tự ḿnh đảm nhiệm việc kiện thưa rắc rối này để khỏi phải làm gánh nặng cho các đệ tử. Tôi không bao giờ nghe Sư Phụ đ̣i hỏi tiền bạc hoặc ám chỉ việc cần dùng tiền v́ mục đích này hay mục đích khác. Việc giảng huấn tại đạo viện được hoàn toàn miễn phí cho tất cả các đệ tử.
Ngày nọ một viên thừa phát lại đột nhiên xuất hiện tại đạo viện Serampore với một trát ṭa và có vẻ hỗn láo với Sư Phụ:

-Ông nên từ giả đạo viện để đến thở bầu không khí lương thiện của pháp đ́nh.

Y vừa nói vừa có một nụ cười khinh mạn. Tôi không thể tự chủ được nữa, giận dữ tiến tới:

-Nếu ông c̣n hỗn láo, tôi sẽ đập ông một trận nên thân.

Kanai, một đệ tử trẻ đứng gần đó cũng nói trong cơn thịnh nộ:

-Đồ hỗn láo, chớ buông lời xúc phạm trong chốn đạo viện thiêng liêng.

Sư Phụ bèn can gián chúng tôi: -Các con hăy b́nh tĩnh, đừng nóng giận. Người này chỉ làm bổn phận của y đó thôi.

Viên thừa phát lại ngạc nhiên v́ sự can thiệp đầy hảo ư đó, bất giác thốt ra vài lời xin lỗi và liền kiếu từ ra về mà không đ̣i hỏi ǵ nữa.

Thật là một điều lạ lùng mà thấy một vị tôn sư với một ư chí dũng mănh bất khuất lại có thể b́nh tĩnh được như vậy. Người thật là tiêu biểu cho một bật siêu nhân đúng theo định nghĩa của kinh Phệ Đà: “Nói về sự tốt lành th́ người c̣n êm dịu hơn bông hoa, nhưng khi những nguyên tác đạo lư bị xâm phạm th́ người c̣n dũng mănh hơn sấm sét.”

Cách sử thế toàn vẹn của một bậc thánh nhân gây cho ta một ấn tượng mạnh mẽ sâu sa hơn những lời nói: “Kẻ nào thắng được cơn nóng giận c̣n cương dũng hơn một bậc anh hùng, và người tự chủ được ḿnh c̣n cao cả hơn một viên hỗ tướng chiếm đoạt thành tŕ.”

Tôi thường suy nghiệm rằng Sư Phụ đă có thể trở nên một bậc Hoàng Đế hay một nhà chinh phục tiếng tăm lừng lẫy nếu người chọn con đường lợi danh và những sự thành công theo thế tục. Nhưng trái lại, người đă chọn việc đả phá những thành tŕ của sự hận thù và ḷng ích kỷ, sự triệt hạ những thành tŕ đó mới là ghi dấu sự cao cả của con người.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 86 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:38am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



VỊ TU SĨ KHÔNG NGỦ


CHƯƠNG MƯỜI MỘT


-Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ cho phép con đi lên dăy Hy Mă Lạp Sơn. Con hy vọng rằng trong vùng núi non cô tịch trên đó, con có thể đạt tới sự giao cảm tâm linh với Thiêng Liêng.

Tôi tŕnh với Sư Phụ những lời nói bạc bẽo ấy một ngày nọ. Nhưng điều này đôi khi xảy đến cho tất cả những người tu sĩ, tôi cảm thấy chán nản; những bổn phận hàng ngày ở đạo viện, những bài vở phải làm ở trường đại học bắt đầu làm cho tôi nhàm chán. Tuy rằng tôi chỉ tŕnh bày sự yêu cầu đó sau mọt thời gian sáu tháng sống tại đạo viện của Sri Yukteswar, điều ấy không đủ là một trường hợp giảm khinh: Tôi vẫn chưa hiểu biết rơ tầm mức cao cả tâm linh của Sư Phụ.

Sư Phụ cảnh cáo tôi với một giọng yên tĩnh:

-Những thổ dân trên dăy Hy Mă Lạp Sơn không phải đă đắc Đạo. Chi bằng hăy t́m sự minh triết ở gần bên một người đă giác ngộ tâm linh hơn là giữa những đống đá vô tri bất động.

Không biết đến lời ngụ ư của Sri Yukteswar ám chỉ rằng thầy tôi chính là người chứ không phải là một quả núi, tôi lập lại lời yêu cầu của tôi một lần nữa. Sư Phụ không nói ǵ, tôi lại hiểu lầm rằng sự im lặng đó có nghĩa là sự bằng ḷng, v́ người ta luôn luôn sẵn sàng tưởng mộng là thật.

Tại nhà tôi ở Calcutta, trọn buổi tối hôm đó tôi bận rộn lo việc chuẩn bị lên đường. Khi tôi sửa soạn hành lư gói trong một cái mềm, tôi nhớ đến một cái gói tương tự mà tôi ném qua cửa sổ trên gác nhỏ của tôi cách đây vài năm. Tôi tự hỏi rằng không biết chuyến đi lên núi lần này cũng sẽ thất bại nữa chăng? Lần trước tôi cảm thấy một sự khích động tâm linh rất lớn; nhưng tối hôm nay tôi lấy làm buồn bực với ư nghĩ phải từ biệt Sư Phụ.

Sáng ngày hôm sau, tôi đến t́m nhà học giả Bebari, giáo sư Phạn ngữ của tôi tại trường đại học.

-Thưa ông, ông có nói chuyện với tôi về t́nh bạn giữa ông và một đệ tử của đức Lahiri Mahasaya. Ông có thể cho tôi địa chỉ của ông ấy?

-Anh muốn nói Ram Gopal Muzumdar chăng? Tôi vẫn gọi y là nhà tu sĩ không ngủ. Y luôn luôn thức trinh và đắm ch́m trong một trạng thái đại định. Y ở tại Ranbajpur gần Tarakeswar.

Tôi cám ơn nhà học giả và lập tức đáp chuyến xe lửa đi Tarakeswar. Tôi nghe nói h́nh như tu sĩ đă đạt tới sự giác ngộ tâm linh sau nhiều năm tu luyện pháp môn Kriya Yoga trong các động đá âm u cô tịch.

Ở Tarakeswar có một ngôi đền danh tiếng được người Ấn Độ sùng bái cũng như Lộ Đức của người Thiên Chúa Giáo. Tại đây đă xảy ra vô số những trường hợp chữa khỏi bệnh một cách mầu nhiệm, trong số đó có trường hợp của một người trong thân quyến của tôi.

Bà cô của tôi thuật chuyện cho tôi nghe như sau:

-Cô ở lại ngôi đền hết trọn một tuần. Cô vừa tuyệt thực vừa cầu nguyện cho cậu Sarada của con được khỏi một chứng bệnh kinh niên. Vào ngày thứ bảy, một nhánh dược thảo hiện ra trong bàn tay của cô! Cô đem về làm thuốc sắc cho cậu con uống. Cơn bệnh liền dứt ngay không trở lại nữa.

Tôi bước vào ngôi đền Tarakeswar; trên chánh điện chỉ có một tảng đá mà chu vi h́nh tṛn không đầu không đuôi là biểu tượng của Vô Cực.

Lúc ấy tôi nghĩ rằng người ta chỉ nên chiêm bái Thượng Đế tự trong ḷng mà thôi, nên tôi không chịu qú lạy trước một tảng đá biểu tượng Sức Mạnh Thiêng Liêng. Bước ra khỏi đền tôi liền đi mau đến làng Ranbajpur. Tôi hỏi thăm địa chỉ của tu six với một người đi đường; sau khi suy nghĩ rất lâu, y đáp trịnh trọng như bói quẻ:

Ông đi tới ngă tư, ông quẹo sang tay mặt rồi đi thẳng tới trước.

Theo lời chỉ dẫn đó, tôi đi dọc theo một con kên đào. Trời đă tối. Tiếng rú rùng rợn của những con sơn cẩu, và những ánh đèn lửa lập ḷe là những nét linh động của một vùng làng mạc ở ven rừng già với những cḥm cây rậm rạp diễn ra đến tận chân trời. Ánh trăng mờ làm cho cảnh vật đượm thêm một nét huyền ảo.

Tôi đi lang thang như thế đă được hai tiếng đồng hồ th́ nghe có tiếng lục lạc khua vang bên tai. Một nông dân từ dưới ruộng bước lên đường lộ với một con ḅ. Tôi hỏi:

-Ông cho tôi hỏi thăm tu sĩ Ram Gopal.

-Không có ai tên đó ở trong làng này.

Người nông dân có vẻ nghi ngờ tôi là một thám tử. Để dẹp tan mọi sự nghi hoặc, tôi giải thích cho y nghe mục đích sự t́m kiếm của tôi. Y đưa tôi về nhà và dọn chỗ cho tôi nghĩ một cách rất khả ái. Y giải thích:

- Ranbajpur cách đây rất xa. Lúc năy đến ngă tư, đáng lẽ ông phải quẹo sang bên tay trái chứ không phải tay mặt.

Tôi buồn mà nghĩ rằng người chỉđường đầu tiên quả là một nguy cơ đáng sợ cho khách lữ hành. Sau một bữa ăn ngon lành gồm có cơm xào với ca ri, súp đậu, khoai tây và chuối, tôi bèn lui vào ngơi nghĩ trong một cḥi lá ở ngoài sân. Từ xa vọng lại tiếng ca của dân làng cùng với tiếng trống mridangam (tên một loại trống nhỏ có buộc dây để quàng lên cổ và đánh bằng hai tay, chỉ dùng trong các buổi lễ âm nhạc tôn giáo). Tôi không ngủ được trong đêm ấy.

Sáng ngày hôm sau, tôi lên đường để về làng Ranbajpur. Đi một quăng rất xa tôi mới gặp một nông dân để hỏi thăm đường; đi nhiều chặn như vậy, những người nào tôi gặp cũng đều nói giống như nhau là chỉ c̣n độ chừng hai dặm đường nữa là đến nơi. Đến xế trưa tôi đă đi bộ hết sáu tiếng đồng hồ mà chỉ thấy có đồng trống ở hai bên đường. Mặt trời nóng gắt trên một nền trời xanh thẳm không có một cụm mây làm cho tôi choáng váng. Th́nh ĺnh có một người chậm răi bưới đến gần và ngừng bước trước mặt tôi. Tác người nhỏ thó, gầy ốm, người ấy không có ǵ đáng chú ư trừ ra đôi mắt đen sáng rơ và linh động vô cùng. Y nói:

-Tôi định rời khỏi Ranbajpur nhưng v́ em đến đây với hảo ư nên tôi c̣n đợi em.

Y nói thêm trong khi tôi chưa dứt sự ngạc nhiên:

- Em điên hay sao mà tưởng rằng có thể gặp tôi khi em không báo trước! Giáo sư Behari không có quyền cho em địa chỉ của tôi.

Thấy rằng không cần phải tự giới thiệu nữa, tôi đứng im nhưng hơi bị chạm tự ái v́ sự đón tiếp ấy. Người ấy đột nhiên hỏi tôi:

- Em hăy nói cho tôi biết Thượng Đế ở đâu?

-Ở nơi tôi, ở nơi ông và ở khắp cả.

-Phải chăng là Ngài toàn thông?

Tu sĩ cười và nói tiếp:

-Như thế, này người bạn trẻ, tại sao ngày hôm qua em không qú lạy đấng Thiêng Liêng trong h́nh biểu tượng bằng đá tại đền Tarakeswar? Chính v́ để trừng phạt tội ngạo mạn đó mà em bị một kẻ lạ mặt chỉ lầm đường để cho hôm nay em phải trăi qua một ngày vất vả cực khổ như thế này!

Tôi vui vẻ chấp nhận sự việc đă xảy ra; một nhăn quang sáng suốt như vậy ở nơi người có bề ngoài khiêm tốn nghèo nàn đó làm cho tôi vô cùng kinh ngạc. Một nguồn thần lực tốt lành từ người tu sĩ thoát ra làm cho tôi cảm thấy hết cả mệt nhọc. Y nói:

-Người tu hành thường cho rằng chỉ có con đường của ḿnh là con đường duy nhất. Đức Lahiri Mahasaya dạy rằng đạo pháp Yoga là pháp môn tối thượng giúp cho hành giả đạt tới Thượng Đế ở tận chỗ thâm sâu bí ẩn của nội tâm ḿnh. Nhưng khi đă đạt Đạo trong ḷng ḿnh, hành giả cũng thấy đạo khắp ở mọi nơi. Một ngôi thánh điện dẫu rằng ở Tarakeswar hay ở bất cứ nơi nào khác, cũng đều được sùng kính ngang nhau như một trung tâm thần lực.

Tu sĩ đă từ bỏ thái độ chê trách, đôi mắt người đă lắng dịu. Người vỗ nhẹ trên vai tôi một cách thân ái:

-Này người bạn trẻ, tôi thấy rằng em đă bỏ Thầy ra đi. Lịnh tông sư có đủ những ǵ em cần; em phải trở về với Thầy. Những quả núi đá không phải là Thầy của em!

Tu sĩ Ram Gopal đă lập lại chính cái ư tưởng mà Sri Yukteswar đă thốt ra trong buổi đàm luận cuối cùng của chúng tôi.

- Không có một định luật thiêng liêng nào bắt buộc các vị tôn sư phải chọn một nơi trú ẩn đặc biệt.

Tu sĩ nói tiếp với một cái nh́n mỉa mai:

-Dăy Hy Mă Lạp Sơn dù ở Ấn Độ hay ở Tây Phương không phải là chỗ ở riêng biệt của các vị thánh nhân hiền triết. Điều mà người ta không chịu khó t́m ra trong cái Chân Ngă thâm sâu bí ẩn của ḿnh, th́ người ta không thể t́m thấy bằng cách đi đó đi đây. Khi người hành giả sẵn sàng đi đến tận chân trời góc bể để t́m Đạo th́ Thầy y sẽ xuất hiện ở một bên y.

Tôi im lặng biểu đồng t́nh và nhớ lại lời cầu nguyện của tôi tại đạo viện ở Banaras, rồi tiếp theo đó là sự gặp gỡ của tôi với Sri Yukteswar ở giữa đám đông người.

-Em có một gian pḥng nhỏ để sống biệt lập trong sự yên tịnh chăng?

-Phải, tôi có.

Tôi nghĩ rằng tu sĩ đang lập luận từ đại cương đến chi tiết một cách mau chóng lạ thường.

- Đó chính là cái động đá của em!

Người Yogi phóng đến tôi một cái nh́nh nẩy lửa mà tôi không bao giờ quên:

- Đó chính là ngọn núi thiêng của em! Chính đó là nơi em sẽ đạt tới cơi Đạo diệu huyền!

Những lời nói giản dị đó làm tiêu tan sự ám ảnh của dăy núi Hy Mă Lạp Sơn nó vẫn theo đuổi tôi từ thuở nhỏ. Chính ở giữa những ruộng lúa nóng cháy dưới ánh mặt trời như thiêu đốt mà tôi vĩnh viễn thức tỉnh khỏi cơn mê tuyết lạnh giá băng trên đỉnh núi Hy Mă Lạp Sơn!

-Này người bạn trẻ, sự khác khao tầm đạo của em thật rất đáng khen. Tôi rất mến em.

Tu sĩ Ram Gopal nắm lấy tay tôi và dắt tôi đến một ấp nhỏ với những mái nhà tranh lợp lá dừa, cửa bằng cây mộc mạc.

Tu sĩ mời tôi ngồi dưới mái nhà trang của y. Y mời tôi dùng nước chanh c̣n y bước vào chái bên để ngồi thiền. Bốn giờ sau đó, tôi xă thiền và dưới ánh trăng tôi nh́n thấy đạo sĩ vẫn c̣n ngồi yên bất động. Bụng đói như cào, tôi mới nhận thấy rằng người ta không phải chỉ sống bằng nước lă. Ram Gopal bước đến gần tôi và nói:

-Tôi biết em đang đói bụng. Ḿnh cũng sắp ăn cơm.

Tu sĩ đi nhúm lửa trong cái ḷ đất sét ở bên chái, rồi trong giây lát cơm và đậu nấu đă được dọn ra trên những mảnh lá chuối. Tu sĩ lễ phép từ chối sự giúp đỡ của tôi trong vịec dọn ăn. Từ ngh́n xưa người Ấn vẫn có truyền thống hiếu khách và tiếp đăi trọng hậu khi có khách đến nhà.

Trong cảnh hoang vắng của tôi nơi thôn ấp nhỏ bên ven rừng già, ở bên cạnh người Yogi, những tiếng động ồn ào của thế gian chỉ c̣n là một dư âm đă tàn. Một ánh sáng êm dịu và huyền bí chiếu lóng lánh trong gian pḥng. Ram Gopal trải nệm dưới đất để cho tôi ngủ, c̣n y th́ ngồi trên một chiếc chiếu bằng rơm. Bị lôi cuốn bởi luồng từ điển tâm linh của tu sĩ, tôi đánh bạo hỏi:

-Bạch thầy, xin thầy hăy hạ cố ban phép nhập định cho tôi.

-Tôi rất sung sướng được giúp em có sự giao cảm với thiêng liêng, nhưng đó không phải là vai tṛ của tôi.

Tu sĩ nh́n tôi qua đôi mắt hé mở:

-Không bao lâu thầy em sẽ cho em cái kinh nghiệm đó. Hiện giờ thể xác em chưa được chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế. Cũng như một bóng đèn nhỏ không thể chịu đựng nổi một điện thế quá cao, những dây thần kinh của em chưa sẵn sàng để lưu chuyển luồng từ điển của vũ trụ. Nếu tôi đưa em vào trạng thái đại định như bây giờ, em sẽ bốc cháy như bó đuốc chẳng khác nào tất cả những tế bào trong thân thể em đều bắt lửa.

Người YoGi nói tiếp với một giọng suy tư:

-Em trông mong rằng tôi có thể giúp em đạt tới sự giác ngộ trong khi tôi tự hỏi rằng không biết tôi đă thành công hay chưa, và đă được Thiêng Liêng ban ân phước hay chưa?

-Bạch Thầy, nhưng Thầy đă dốc ḷng t́m Đạo và công phu tu luyện trong hằng bao nhiêu năm.

- Tôi không có công trạng ǵ cả! Đáng lẽ Behari phải thuật lại cho em nghe cuộc đời của tôi. Tôi đă tham thiền suốt hai mươi năm trời trong một hang núi cô tịch, trung b́nh mười tám giờ mỗi ngày. Sau đó, tôi di chuyển đến một động đá c̣n xa xôi hẻo lánh hơn nữa, tại đây tôi ông phu tu luyện trong hai mươi lăm năm và tham thiền hai mươi giờ mỗi ngày. Tôi không càn phải ngủ v́ tôi luôn luôn giao cảm với Thiêng Liêng. Thể xác tôi t́m thấy trong an tĩnh của cơi siêu thức một sự bồi dưỡng c̣n bổ khỏe hơn sự nghĩ ngơi trong trạng thái tiềm thức của giấc ngủ thông thường.

-Trong giấc ngủ, những bắp thịt được thoải mái, bớt căng thẳng nhưng tim, phổi và bộ máy tuần hoàn không hề nghỉ. Trong trạng thái siêu thức, sự hoạt động của những cơ quan trong thân thể tạm thời gián đoạn, và những bộ phận asy được truyền điện do nguồn sinh lực của vũ trụ. Chính nhờ bởi phương pháp này mà tôi không cần ngủ trong nhiều năm. Em cũng vậy, thời gian sẽ đến khi đó em cũng sẽ không ngủ nữa.

Tôi nh́n tu sĩ với đôi mắt ngạc nhiên:

-Bạch thầy, thầy đă thiền định lâu năm như vậy mà c̣n không chắc chắn được ân huệ thiêng liêng, th́ những kẻ sơ cơ như tôi đây c̣n có hy vọng ǵ!

-Em há biết rằng Đạo vốn là vô cùng! Thật là dại dột mà tưởng rằng người ta có thể đạt tới cơi Đạo diệu huyền sau bốn, năm mươi năm thiền định. Tuy vậy, Babaji nói rằng dù cho tham thiền rất ít cũng giúp chúng ta khỏi bị những khổ đau trong cơn hấp hối, và trong những trạng thái sau khi chết em đừng đặt sở vọng tâm linh của em nơi một ngọn núi, em hăy nhắm vào sự giao cảm, hợp nhất với Thiêng Liêng! Nếu kiên tâm bền trí, có ngày em sẽ thành công.

Triển vọng đó làm tôi vô cùng phấn khởi, tôi bèn yêu cầu tu sĩ nói rơ thêm vài chi tiết. Tu sĩ mới thuật lại cho tôi nghe câu chuyện nhiệm mầu về sự gặp gỡ đầu tiên của y với Babaii, Sư Phụ của Lahiri Mahasaya. Đến nửa đêm, Ram Gopal lại đắm ch́m trong im lặng, c̣n tôi nằm xuống sửa soạn đi ngủ. Khi tôi nhắm mắt, tôi nh́n thấy những tia chớp; toàn thân tôi là một ánh hào quang sáng rực. Tôi mở mắt ra: ánh hào quang đó chiếu sáng khắp pḥng, gian nhà tranh trở nên một phụ ốc của cơi Vô Cùng và thấm nhuần những tia sáng vô h́nh mà tôi cảm xúc được bằng một nhăn quang siêu nhiên.

-Tại sao em không ngủ?

-Bạch thầy, làm sao tôi ngủ được với những tia sáng chớp nhoáng xẹt đến từ bốn phía, trong khi tôi nhắm mắt hay mở mắt cũng vậy?

-Thật là một ân phước mà có cái kinh nghiệm đó; những tia sáng vô h́nh không dễ ǵ mà nh́n thấy được đâu!

Tu sĩ nói thêm vài lời đầy cảm t́nh thương mến.

Đến sáng là lúc chúng tôi phải chia tay nhau. Tôi cảm thấy buồn mà phải từ biệt tu sĩ đến nỗi không ngăn được hai gịng lệ chảy trên g̣ má tôi. Tu sĩ nói với giọng thân ái:

-Tôi không để cho em trở về tay không. Tôi sẽ ban cho em một vài ân huệ.

Tu sĩ mỉm cười và nh́n thẳng vào mắt tôi một cách chăm chú. Tôi cảm thấy một niềm an tĩnh tràn ngập tâm hồn tôi như một luồng ân huệ tốt lành, và dột nhiên tôi được chữa khỏi chứng bệnh đau lưng mà tôi đă bị trong nhiều năm qua! Được b́nh phục sức khỏe, đắm ch́m trong một biển đại dương an tĩnh và phúc lạc vô biên, tôi không c̣n khóc nữa.

Tôi cúi ḿnh xuống làm lễ và nắm hai bàn chân của tu sĩ để từ biệt, và đi bộ băng rừng để t́m đường đến Tarakeswar. Vừa trở về thành phố này, tôi lại viếng thăm ngôi đền một lần thứ nh́ và qú lạy trước chánh điện. Tảng đá h́nh tṛn dường như nới rộng chu vi trước nhăn quang siêu linh của tôi cho đến tận những cơi giới xa xăm trong càn khôn vũ trụ, để sau cùng ḥa hợp với Thiêng Liêng.

Một giờ sau, tôi vui vẻ đáp chuyến xe lửa trở về Calcutta. Chuyến du hành của tôi không đưa tôi đến chân núi Hy Mă Lạp Sơn mà lại đến dưới chân Sư Phụ.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 87 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:40am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



MỘT KINH NGHIỆM VỀ TÂM THỨC SIÊU ĐẲNG


CHƯƠNG MƯỜI HAI


-Bạch Sư Phụ, con đă về.

Sri Yukteswar hẳn đă thấy rơ sự băn khoăn của tôi nhưng người vẫn b́nh tĩnh dường như tôi chỉ vắng mặt có vài giờ chứ không phải vài ngày:

-Chúng ta hăy ra sau bếp để xem có ǵ ăn không?

-Bạch Sư Phụ, sự ra đi vội vàng của con chức hẳn là đă làm mất ḷng Sư Phụ, con tưởng là Sư Phụ đă giận con.

-Không, chắc chắn là không! Sự giận hờn thường chỉ do sự thất vọng mà ra. Ta không trông cậy điều ǵ ở kẻ khác, bởi đó những hành động của họ không thể làm ta phật ḷng. Ta không lợi dụng con để thực hiện những mục đích ích kỷ; chỉ có sự hạnh phúc của con mới có thể làm cho ta được sung sướng.

-Bạch Sư Phụ, người ta thường hay nói một cách mơ hồ về t́nh bác ái. Đây là lần đầu tiên mà con nh́n thấy cái bản chất thiêng liêng của Sư Phụ! Ở ngoài thế gian một người cha cũng không dễ ǵ tha thứ một người con bỏ dở công việc gia đ́nh và bỏ nhà ra đi mà không báo trước. Nhưng Sư Phụ không hề tỏ vẻ bất măn, trong khi con bỏ dở công việc đạo viện ra đi và đặt Sư Phụ trong t́nh trạng bối rối!

Thầy tṛ chúng tôi nh́n nhau, bốn mắt long lanh ứa lệ. Ḷng tôi tràn ngập một niềm hạnh phúc vô biên; tôi ư thức được rằng Sư Phụ tôi, hiện thân của ḷng Từ Ái Thiêng Liêng, đă nhen nhúm ngọn lửa thiêng trong ḷng tôi cho nó trở thành một t́nh thương bao la khắp vũ trụ.

Vài ngày sau, tôi đến ngồi tại pḥng khách của Sư Phụ, lúc ấy vắng người. Tôi định tham thiền nhưng không thể tập trung tư tưởng; tư tưởng tôi tán lọan như một bầy chim bay tản mác trước tiếng súng của người đi săn.

-Mukunda, Mukunda!

Tiếng gọi của Sư Phụ vọng đến tai tôi từ một bao lơn gần đó. Tôi cảm thấy trái ư và thầm nghĩ rằng: “Sư Phụ vẫn thường bảo tôi nên tham thiền; nay người không nên quấy rầy tôi, v́ người biết tôi vào đây để làm ǵ.”

Sư Phụ lại gọi tôi; tôi vẫn im lặng không đáp lại. Lần thứ ba tiếng gọi của người có một giọng trách móc. Tôi phản kháng:

-Bạch Sư Phụ, con đang bận tham thiền!

-Ta biết con tham thiền như thế nào rồi! Tư tưởng con tản mác như là bay trước gió. Hăy lại đây!

Bị nói đúng ngay tâm trang của ḿnh, tôi lẳng lặng cúi đầu đi về phía Sư Phụ.

-Con hỡi, những ngọn núi cao không đem lại cho con những ǵ con muốn.

Sư Phụ nói với một giọng dịu dàng, thương hại tôi. Cái nh́n im lặng của người biểu lộ một tâm hồn tế nhị sâu sắc khôn lường.

-Ước vọng của con sẽ thành sự thật!

Sri Yukteswar ít khi nói những lời bóng bẩy cao xa nên tôi lấy làm bối rối. Người vỗ nhẹ một cái lên ngực tôi, ở chỗ trên quả tim. Đột nhiên, thân ḿnh tôi dường như ngay cứng; hơi thở thoát ra khỏi hai luồng phổi của tôi, dường như bị thu hút bởi một đá nam châm vĩ đại; linh hồn tôi dường như bị dứt ra khỏi thể xác và toát ra ngoài do mỗi lỗ chân lông như một thứ hào quang sáng rỡ. Tôi không c̣n cảm giác được xác thân tôi, tuy rằng những quan năng bị kích động mănh liệt làm cho tôi có ư thức một cách toàn vẹn về sự sống mà tôi chưa từng cảm giác bao giờ. Cái bản ngă của tôi không c̣n giới hạn trong thể xác mà bao trùm cả những nguyên tử của cảnh vật chung quanh. Những nhân vật ở ngoài đường dường như nhẹ nhàng uyển chuyển đi xuyên qua thân ḿnh đă trở nên vô giới hạn của tôi. Những rễ cây lơn nhỏ xuất hiện dưới ḷng đất trở nên trong vắt trước nhăn quang của tôi, và tôi nh́n thấy cả nhựa cây luân chuyển mănh liệt bên trong những rễ và thân cây.

Cái viễn ảnh của vùng chung quanh diễn ra đến vô tận trước mắt tôi. Tầm nhăn quang của tôi đă nới rộng đến khắp nơi khắp chốn làm cho tôi có thể nh́n thấy tất cả mọi sự cùng một lúc. Tôi nh́n thấy cả phía sau lưng tôi, người người qua lại trên đường lộ và tôi thấy một con ḅ trắng từ từ đến gần; con ḅ đi đến cửa đạo viện và lọt vào tầm nhăn quang thông thường của tôi. Khi nó đi qua khỏi cửa tôi vẫn c̣n nh́n thấy nó một cách rơ ràng xuyên qua bức tường rào bằng gạch.

Trong tầm nhăn quang siêu linh của tôi, những vật rung động và rung chuyển như những h́nh ảnh trong phim chớp bóng. Thể xác tôi, thân thể của Sư Phụ, những cột trụ ngoài sân, bàn ghế, sàn gạch trong nhà, cây cỏ ngoài đường cùng vầng mặt trời mọc lúc ban mai rung động mỗi lúc càng mănh liệt hơn cho đến khi tất cả đều biến tan trong một biển lớn với những luồng sóng chớp sáng ḷe như chất lân tinh, chẳng khác nào như chất đường biến tan trong nước.

Một niềm phúc lạc say sưa khôn tả xâm chiếm lấy tâm hồn tôi từng đợt như những luồng sóng dập dồn ngoài biển cả. Một vầng hào quang rực rỡ huy hoàng nẩy nở từ bên trong thân ḿnh tôi nới rộng măi cho đến khi nó bao trùm cả những vùng lục địa, thung lũng, đất điền, biển đại dương, những vầng thái dương và tinh tú, tinh vân, cḥm sao, thậm chí đến cả những giải ngân hà vĩ đại vô biên...

Toàn thể vũ trụ lóng lánh một ánh sáng êm dịu như một thành phố nh́n từ xa lúc ban đêm đều hỗn hợp với cái Chân Ngă vô biên giới của tôi. Những vành ngoài thật rơ rệt xuất hiện ở chỗ chi vi cái linh ảnh của tôi, nhưng tôi c̣n nhận thấy ở xa hơn nữa một thứ hào quang tinh anh chiếu sáng không hề giảm bớt cường độ rực rỡ huy hoàng của nó; giữa cái bối cảnh huyền diệu là h́nh ảnh những bầu hành tinh chiếu một thứ ánh sáng đục và thô thiển hơn nhiều.

Vầng ánh sáng huyền diệu xuất hiện từ Nguồn Gốc thiêng liêng, từng đúc kết những bầu tinh tú, thêu dệt những dăy Ngân Hà, từ từ biến thành muôn ngàn ṿng hào quang rực rỡ huy hoàng khôn tả. Liên tiếp không ngừng, tôi nh́n thấy những tia điển lực sáng tạo kết tinh thành những cḥm sao và phóng ra những tia lửa chói sáng. Hằng hà sa số những bầu thế giới nối tiếp nhau luân chuyển nhịp nhàng từng đợt trong một ṿng hào quang trắng đục, toàn thể nền trời rực sáng lên như một cơn hỏa hoạn khổng lồ.

Tôi biết rằng trung tâm của những linh ảnh đó nằm ở một vị trí trong quả tim của tôi tức là trung tâm trực giác. Bao nhiêu linh ảnh rực rỡ huy hoàng đó toát ra từ những tế bào trong xơ thể của tôi và thâm nhạp vào tận nguồn máy vô h́nh huyền diệu của vũ trụ! Nước cam lồ thiêng liêng của sự trường sinh bất tử vọt ra từ bên trong con người của tôi như một ṿi suối nóng. Tiếng nói của Thượng Đế, Động Từ của sức sáng tạo thiêng liêng vang lên trong thánh ngữ AUM, một rung động của Thiên Cơ huyền diệu.

Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hơi thở đă trở lại với tôi. Với một sự thất vọng lớn lao, tôi nhận định rằng tính chất bao la vô cùng của Vũ Trụ ở chung quang tôi đă không c̣n nữa. Lại một lần nữa tôi bị giam hăm trong cái thể xác ngục tù đốn mạc này, ở trong đó Linh Hồn tôi phải chịu ẩn trú một cách gượng gạo, miễn cưỡng. Như một người con bỏ nhà đi hoang, tôi vừa rời khỏi cái vũ trụ bao la là chỗ cư trú vĩnh viễn của tôi để tự giam cầm trong sự chật hẹp tù túng của thể xác vật chất này.

Sư Phụ đứng yên lặng trước mặt tôi; tôi liền quỳ lạy dưới chân người để tỏ ḷng biết ơn về sự kinh nghiệm siêu linh mà tôi đă từng mong ước từ lâu một cách say sưa nồng nhiệt. Sư Phụ giữ tôi lại và nói một cách b́nh tĩnh, không chút tự hào:

-Không nên mê mẫn say sưa trong cơn đại định! Con c̣n có nhiều việc phải làm ở thế gian này. Thôi, con đi quét bao lơn đi, và sau đó chúng ta sẽ đi dạo một ṿng trên bờ sông Hằng.

Tôi cầm cái chổi và liền hiểu rằng Sư Phụ vừa dạy tôi những bí quyết của một đời sống quân b́nh. Linh hồn phải bay cao trong Vũ Trụ Càn Khôn bao la vô tận, trong khi thể xác phải làm công việc hàng ngày.

Sau đó, khi Thầy tṛ chúng tôi đi dạo trên bờ sông, một niềm phúc lạc say sưa khó tả vẫn c̣n xâm chiếm lấy tôi. Tôi cảm thấy hai thân ḿnh chúng tôi dường như hai h́nh bóng lướt trên đường lộ dọc theo một con sông màu lửa đỏ. Sư Phụ giải thích:

-Tinh thần của Thượng Đế tích cực bảo dưỡng mọi h́nh thể và vật chất trong vũ trụ; những Ngài vốn toàn thông và tiêu diêu trong chỗ hư không bên ngoài hiện tượng giới. Những vị thánh đă thực hiện bản chát thiêng liêng của ḿnh trong khi c̣n ở thế gian, từng kinh nghiệm một đời sống song đôi giống y nhau. Trong khi họ vẫn làm công việc thế gian, tâm hồn họ đắm ch́m trong một trạng thái phúc lạc bên trong nội tâm. Thượng Đế sáng tạo ra con người để cho họ có thể tham dự vào niềm phúc lạc tự tại vô biên của Ngài. Tuy bị dính liền với thể xác, những linh hồn được tạo ra theo h́nh ảnh của Thượng Đế, rốt cuộc phải giải thoát khỏi sự trói buộc của giác quan và hợp nhất với Ngài.

Tôi thu thập được một sự ích lợi rất lớn do sự kinh nghiệm siêu linh vừa qua. Cố gắng hằng ngày để kiểm soát tư tưởng, tôi đă có thể thoát sự nhận định sai lầm rằng tôi là cái thể xác bằng xương bằng thịt này, và chọc thủng cái vỏ cứng của vật chất. Hơi thở, tư tưởng luân phiên hoạt động không ngừng, giống như cơn giông băo làm giao động mặt biển Ánh Sáng với vô số những ngọn sóng vật chất: đất, trời, người, động vật, chim muông, cây cỏ. Người ta chỉ có thể nh́n thấy chân tướng của sự vật trong những lúc biển lặng sóng êm.

Một vị tôn sư chỉ ban cho đệ tư cái kinh nghiệmtâm thức siêu linh khi nào người đệ tử, bằng cách tham thiền, đă tăng cường tinh thần của ḿnh đến mức độ có thể dung túng được những chân trời rộng lớn đó. Tâm trí thức và quan điểm rộng răi cũng chưa đủ. Chỉ có sự kiên tâm tu luyện và thực hành... mới có thể chịu đựng nổi cái kinh nghiệm giải thoát đó. Người hành giả thật tâm tu luyện chắc chắn sẽ đạt tới trạng thái đó; đức tin mănh liệt của y tự nhiên sẽ thúc đẩy y đến gần Thượng Đế.

Sri Yukteswar dạy tôi làm thế nào để nhớ lại cái kinh nghiệm huyền linh ấy tùy ư muốn, và làm sao chuyển đạt nó cho những người nào đă phát triển trực giác một cách khá đầy đủ. Tôi trải qua nhiều tháng trong trạng thái phúc lạc triền miên do sự hợp nhất với Thiêng Liêng. Một hôm tôi hỏi Sư Phụ:

-Bạch Sư Phụ, con muốn biết xem bao giờ con sẽ t́m thấy Thượng Đế.

-Nhưng con đă thấy Ngài rồi!

-Bạch Sư Phụ, không phải. Con không tin như vậy.

Sư Phụ mỉm cười:

-Ta chắc con không nghĩ rằng Ngài là một ông già đạo mạo râu tóc bạc phơ ngồi trên một chiếc ngai vàng ở một góc cạnh nào đó trong vũ trụ càn khôn! Chắc hẳn con tưởng tượng rằng biết được Thượng Đế tức là thủ đắc được những quyền năng nhiệm mầu? Người ta có thể chinh phục cả vũ trụ mà không t́m thấy Thượng Đế, sự thủ đắc tâm linh không thể đo lường bằng quyền năng của ta trên địa hạt vật chất, mà chỉ bởi niềm phúc lạc say sưa mà người hành giả cảm giác được trong cơn tham thiền.

Thượng Đế tức là niềm phúc lạc luôn luôn thay đổi mới không ngừng. Niềm phúc lạc ấy không bao giờ khô cạn; người ta có thể tham thiền trong nhiều năm nhưng vẫn không nắm được nó. Người hành giả nào đă t́m thấy con đường đưa đến niềm phúc lạc ấy sẽ không bao giờ đem đổi nó với bất cứ giá nào.

Người đời chóng chán những lạc thú trần gian! Sự đ̣i hỏi thật là vô cùng, sự thỏa măn chỉ trong chốc lát; con người theo đuổi từ một mục đích này, đến một mục đích khác. Cái mà y khát khao t́m kiếm nhưng vẫn không gặp, đó là Thượng Đế, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người nguồn hạnh phúc vô tận.

Bây giờ con đă hiểu tại sao các vị thánh gọi Thượng Đế là Đấng Vô Cùng. Một đời sống trường cửu vô tận cũng không đủ để đạt tới Ngài.

Thật vậy, nhưng Ngài cũng rất gần chúng ta. Khi mà tinh thần giải thoát khỏi sự kềm hăm của giác quan, th́ chừng đó sự thiền định đưa đến một chứng minh song đôi về Thượng Đế. Trước hết, một niềm phúc lạc luôn luôn đổi mới thấm nhuần vào tâm hồn chúng ta cho đến tận những nguyên tử tế bào trong châu thân. Kế đó, người hành giả luôn luôn được Ngài d́u dắt trong cơn thiền định và những câu hỏi băn khoăng thắc mắc sẽ được giải đáp.

Tôi mỉm cười biết ơn:

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ đă giải tán mọi sự nghi ngờ của con. Bây giờ con biết rằng ḿnh đă t́m thấy Thượng Đế, v́ trong khi tham thiền, tâm hồn con được từ từ thấm nhuần một niềm hạnh phúc và an lạc vô biên, và trong những giờ họat động con được hướng dẫn một cách tế nhịđể có một phép xử thế đúng đắn tốt lành trong mọi công việc, chí đến những phần chi tiết nhỏ nhặt.

Cuộc đời sẽ c̣n đau khổ phiền năo khi con người chưa biết sống đúng theo Thiên Ư.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 88 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:41am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CÂY BÔNG CẢI BỊ MẤT TRỘM


CHƯƠNG MƯỜI BA


-Bạch Sư Phụ, đây là món quà tặng của con: sáu cây bông cải do chính tay con trồng và săn sóc đặc biệt.

Với một cử chỉ trịnh trọng, tôi dân lên cho Sư Phụ cái rổ đựng bông cải. Sư Phụ đáp lại với một giọng sốt sắng:

-Cám ơn con. Con hăy cất trong pḥng con. Ngày mai, Thầy sẽ cần dùng để nấu một bữa tiệc lớn.

Tôi vừa đến Puri để nghỉ hè tại đạo viện trên bờ biển của Sư Phụ. Đó là một ngôi nhà nhỏ, khang trang, với hai tầng lầu do Sư Phụ và các đệ tử dựng lên và day mặt ra vịnh Bengale.

Sáng hôm sau, tôi thức rất sớm và cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng trong bầu không khí miền biển cả với phong cảnh đẹp quanh vùng. Nghe giọng nói thanh tao của Sư Phụ, tôi nh́n thấy mấy bông cải quí và cất kỹ dưới gầm giường. Sư Phụ bảo tôi:

-Chúng ta hăy đi dạo một ṿng trên bờ biển.

Sư Phụ mở đường đi trước, vài đệ tử và tôi đi từng nhóm lẻ tẻ. Sư Phụ nh́n chúng tôi bằng cặp mắt đầy khoan dung:

-Khi các đệ tử bên Tây Phương đi chơi chung với nhau, họ thường đi ăn rập từng bước. Bây giờ các con hăy sắp hàng đôi và tiến tới...

Chúng tôi cất bước đi nhịp nhàng; Sri Yukteswar vừa đi theo vừa hát một bài ca hành khúc. Tôi nh́n theo và thán phục sự tự nhiên b́nh thản của Sư Phụ khi người cùng ḥa ḿnh thi đua sự hăng say với các đệ tử.

-Ngừng lại... ngừng! Đôi mắt của Sư Phụ nh́n quanh để t́m tôi:

-Mukunda, con có nhớ đóng cửa sau của đạo viện?

-Bạch Sư Phụ, con nhớ là đă đóng rồi!

Sri Yukteswar im lặng trong vài phút với một nụ cười trên môi. Sau cùng người nói:

-Không, con đă quên. Sự thiền định công phu không phải là một cái cớ để bào chữa cho sự cẩu thả trong đời sống hằng ngày. Con đă xao lăng bổn phận trông nom đạo viện và con sẽ bị trừng phạt về cái tội đó.

Tôi tưởng Sư Phụ nói đùa khi người nói thêm:

- Trong sáu cây bông cải của con, lát nữa chỉ c̣n lại có năm!

Theo lịnh Sư Phụ, chúng tôi quay trở lại và trong giây lát đă về gần tới đạo viện.

-Hăy đợi một lát, Mukunda; ḱa con hăy nh́n về đằng xa, trên con đường ở bên đạo viện. Một người đang đi trên con đường đó, y là cái lư do sự trừng phạt của con!

Tôi cố dấu sự bất măn với những lời nói lạ lùng đó. Th́nh ĺnh, một người nông dân xuất hiện trên đường lộ với tướng đi xiêu vẹo, hai tay y múa may quay cuồng với những cử chỉ lạ lùng của một người điên. Vừa kinh ngạc, tôi vừa nh́n xem cảnh tượng buồn cười đó. Khi người ấy vừa đi đến một nơi trên đường lộ mà y sẽ khuất tầm nhăn quang của chúng tôi, Sri Yukteswar nói:

-Bây giờ, y sẽ quay đầu trở lại.

Quả thật, người nông phu đổi chiều hướng và noi theo con đường về đạo viện. Sau khi vượt qua một mảnh đất trống, y lọt vào đạo viện do cánh cửa sau mà tôi đă quên khóa lại cẩn thận theo lời dặn của Sư Phụ. Trong giây lát, người ấy bước ra, tay ôm theo một cây bông cải trong sau cây bông cải quí báu của tôi. Bây giờ, y đi một cách vững chải, dường như y đă làm xong một kỳ công hiển hách.

Cuộc đùa nghịch vô lư này không làm cho tôi ngỡ ngàng quá mức, tôi bèn rượt theo tên ăn trộm. Tôi chạy theo đến nửa đường th́ Sư Phụ gọi tôi trở lại và ôm bụng cười lớn. Giữa hai trận cười gịn giă, Sư Phụ giải thích:

-Người điên này đang mơ ước một cây bông cải. Thầy nghĩ rằng thật không phải là một điều dở mà cho y vào lấy một cây trong mấy cây bông cải của con, khi con không biết giữ ǵn cẩn thận.

Tôi vội chạy vào pḥng riêng của tôi và nhận thấy rằng tên ăn trộ hẳn là bị ám ảnh bởi một loại ra cải, nên không đá động đến những chiếc nhẫn vàng, đồng hồ tay và tiền bạc của tôi để răi rác trên giường. Thay v́ lấy trộm của quí này y lại ḅ xuống gầm giường là nơi cát những cây bông cải của tôi, hoàn toàn che dấu đối với những cặp mắt không để ư, lại khêu gợi ḷng tham của y.

Đến chiều, tôi yêu cầu Sư Phụ giải thích hiện tượng khó hiểu đó. Sư Phụ chậm răi lắc đầu:

-Một ngày kia con sẽ hiểu. Không bao lâu khoa hịc sẽ khám phá vài định luật huyền bí về loại đó trong thiên nhiên.

Về sau, khi toàn thể thế giới lấy làm ngạc nhiên trước những phát minh nhiệm mầu về khoa vô tuyến điện, tôi mới nhớ lại lời tiên tri của Sư Phụ. Những quan niệm cổ xưa về thời giang và không gian đều bịđảo lọn, không một gian nhà nào là quá nhỏ để không thể chứa đựng cả Luân Đôn hay Vọng Các! Bằng chứng không thể chối cải về một trong những khía cạnh toàn thông của con người từ nay dường như đă nằm trong tầm hiểu biết của những bộ óc hoài nghi nhất.

Sự so sánh với khoa vô tuyến có thể giúp cho ta hiểu rơ hơn câu chuyện cây bông cải. Sri Yukteswar chẳng khác nào như một vô tuyến điện. Tư tưởng con người không ǵ khác hơn là một rung động truyền đi xuyên qua chất dĩ thái. Cũng như một máy vô tuyến điện thu thanh một bản nhạc nhất định trong số hàng trăm ngh́n chương tŕnh phát thanh truyền đi từ khắp mọi nơi trên thế giới, Sư Phụ tôi đă bắt được những tư tưởng của một người điên bị ám ảnh bởi sự mông ước có một cây bông cải, giữa hằng sa số những tư tưởng của tất cả mọi người, tức bao nhiêu máy truyền thanh trên thế giới. Ư chí mạnh mẽ của Sư Phụ đă hành động xuyên qua không gian và bắt buộc người nông dân đổi chiều hướng quay trở đầu lại do cửa sau bước vào nhà lấy một cây bông cải trong pḥng tôi!

Mọi việc có ư nghĩa đă xảy ra vài ngày sau vụ ăn trộm bông cải. Một cây đèn dầu lửa bị thất lạc. Đă nhiều lần chứng kiến khả năng tiên tri của Sư Phụ, tôi cho rằng đối với Sư Phụ th́ t́m lại cây đèn chỉ là một tṛ chơi trẻ con.

Sư Phụ đoán biết ư nghĩ của tôi. Người hỏi tất cả các đệ tử trong đạo viện với một vẻ mặt nghiêm trọng khác thường. Một đệ tử thú nhận đă dùng cây đèn để đi ra giếng nước ngoài sân sau.

Sri Yukteswar trịnh trọng đưa ra lời khuyên.

-Hăy t́m cây đèn ở gần cái giếng.

Tôi hối hả chạy nhanh đến nơi th́ không thấy đèn đâu cả! Thất vọng, tôi trở lại tịnh xá, Sư Phụ thốt ra một chuỗi cười dài không màng đến sự thất vọng của tôi:

-Tại sao con muốn cho ta phải t́m thấy lại cây đèn? Ta đâu phải là nhà phù thủy!

Người nói thêm với một tia sáng tinh ranh trong cặp mắt:

-Và cũng không phải là một thám tử tài ba!

Khi ấy tôi mới nhận định rằng Sư Phụ từ chối không dùng đến những quyền năng siêu phàm khi bị thử thách hoặc v́ một mục đích tiểu mọn.

Thời gian trôi qua trong cuộc sống ḥa hợp vui vẻ giữa Thấy tṛ Sri Yukteswar định tổ chức một cuộc rước lễ tôn giáo. Người giao cho tôi điều khiển cuộc diễn hành của các đệ tử qua thành phố và vịnh Puri. Ngày rước đèn đă đến, mặt trời b́nh minh xuất hiện với một nhiệt độ nóng bức khác thường.

Tôi hỏi trong cơn tuyệt vọng:

-Bạch Sư Phụ, làm sao con có thể hướng dẫn các huynh đệ đi chân trần trên băi cát nóng như thiêu đốt?

Sư Phụ đáp:

-Ta sẽ tiết lộ cho con biết một điều bí mật. Thượng Đế sẽ đưa đến một cụm mây che bớt ánh nắng và các con sẽ đi đứng dễ dàng không chướng ngại.

Tôi vui vẻ nhận công tác tổ chức cuộc rước lễ. Nhóm đệ tử rời khỏi đạo viện, người đi đầu cầm cây đạo kỳ Sat Sanga (Sat Sanga có nghĩa là “Môn phái của Chân Lư.”) Trên cây cờ có vẽ một con mắt thánh tượng trưng cho Huệ Nhăn thiêng liêng. (“Nếu mắt ngươi chỉ có một, toàn thân ngươi sẽ chiếu sáng.” Trong cơn thiền định thâm sâu, Huệ Nhăn thức động ở một điểm trên trán, giữa hai chân mày. Các Kinh Sách gọi đó là con mắt Toàn Tri, con mắt thứ ba, con mắt của Thần Shiva, con mắt trực giác v.v...)

Khi chúng tôi rời khỏi đạo viện th́ góc trời ở ngay trên đầu chúng tôi có mây kéo đen nghịt dường như do một phép mầu. Giữa những tiếng kêu ngạc nhiên của tất cả mọi người, một cơn mưa lấm tấm nhẹ hột rơi xuống làm dụi bớt sức nóng trên đường lộ và băi cát nóng cháy da. Trong hai tiếng đồng hồ của cuộc diễn hành, mưa vẫn rơi đều hột không ngừng, đem đến sự mát rượi trong không khí và cả trong ḷng người! Khi chúng tôi trở về đạo viện, cả mây lẫn mưa đều biến tan không c̣n để lại dấu vết.

Khi tôi tỏ ḷng biết ơn Sư Phụ, người đáp:

-Con thấy rằng Thượng Đế che chở chúng ta, Thượng Đế thương yêu và giúp đỡ tất cả mọi người. Cũng như Ngài đă đem mây mưa để ứng lời cầu nguyện của Thầy Ngài thỏa măn mọi điều mong ước chân thành của những người sùng tín. Người đời ít khi nhận thấy Thượng Đế đă đáp ứng bao nhiêu lần những ước vọng của họ. Ngài không thiên vị một vị thiểu số nào, nhưng Ngài lóng nghe những kể nào cầu nguyện Ngài với tất cả tâm hồn. Như vậy, người đời phải có một đức tin tuyệt đối nơi ḷng Từ Bi Bác Ái của đấng Cha Lành trên trời.

Hằng năm, Sri Yukteswar hành lễ bốn mùa, trong những dịp đó các đệ tử tề tựu kéo về đông đảo từ khăp chốn xa gần. Cuộc rước lễ mùa đông cử hành tại Serampore, đó là lần rước lễ đầu tiên mà tôi tham dự, và nó đă đem đến cho tôi một niềm an lạc lạ thường.

Cuộc lễ bắt đầu từ lúc sáng sớm mai bằng một đám rước gồm những đệ tử sắp hàng đi chân trần diễn hành qua các đường phố. Giọng hát của hàng trăm đệ tử cùng ḥa tấu một khúc thánh ca tôn giáo làm dịu tâm hồn, những nhạc công thổi sáo, đánh trống và chụp chơa. Dân chúng làm hứng khởi ném bôn hoa dưới chân chúng tôi, họ lấy làm sung sướng mà nghe chúng tôi suy tôn danh hiệu đấng Chí Tôn trong một khúc thánh ca vang lừng, đem đến cho họ một nét thay đổi mới lạ trong cuộc sống lặng lẻ với những bổn phận quen thuộc hàng ngày. Sau cuộc diễn hành khắp các đường phố, đám rước đă trở về sân đạo viện, tại đó chúng tôi đứng vây quanh Sư Phụ trong khi những bạn đồng môn khác từ những bao lơn trên đầu ném xuống chúng tôi từng đợt những cành hoa cúc và hoa mẫu đơn vàng ánh.

Những quan khách dự lễ bước lên từng lầu trên, tại đây họ được tiếp đăi với món sữa chua và cam ngọt. Tôi vạch một lối đi xuyên qua nhóm bạn đồng môn đang làm bếp. Trong dịp lễ long trọng này, với một số quan khách và đệ tử đông đảo như thế, những nồi chảo khổng lồ được đem ra sử dụng và việc nấu bếp được dặt ở ngoài sân. Những đám lữa củi nhúm trong các ḷ gạch xây tạm phát ra một luồng khói khét làm nghẹt thở, nhưng chúng tôi vẫ làm việc một cách vui vẻ hết ḷng. Ở Ấn Độ, những cuộc thánh lễ tôn giáo không bao giờ bị coi như một việc khó nhọc, mỗi người đều làm bất cứ việc ǵ tùy sức ḿnh, họ đóng góp tiền bạc, cơm gạo, rau trái hoặc phụ giúp một cánh tay lao lực.

Sư Phụ phút chốc đă đến với chúng tôi, người theo dơi mọi công việc chuẩn bị hành lễ. Không hề mệt mỏi, người thi đua sức vóc và niềm hứng khởi trong việc làm với những đệ tử trẻ nhiệt thành nhất.

Trên tầng lầu hai, một nhóm nhạc công và ca sĩ hát các bài thánh ca theo nhịp đàn kéo và trống nhỏ. Sư Phụ lắng tai nghe như một người sành điệu, v́ người có một lỗ tai âm nhạc toàn hảo:

-Hát sai nhịp rồi!

Sau khi đi một ṿng quan sát chỗ nhà bếp, Sư Phụ trở lại nhóm nhạc công lúc năy. Bản nhạc du dương vang lên nhưng lần này th́ hoàn toàn đúng nhịp.

Ở Ấn Độ, âm nhạc được coi như một nghệ thuật thiêng liêng, ngang hàng với hội họa hay kịch nghệ. Thần Brahama, thần Vishnu và thần Shiva, tức Ba Ngôi bất tử của Thượng Đế đều là những vị nhạc sĩ đầu tiên. Trong truyện Thần Thoại Ấn Độ, thần Shiva biểu hiện vị Vũ Công Thiêng Liêng với những vũ điệu thần bí, diễn tả cuộc sống sáng tạo, bảo dưỡng và biến tan của Vũ Trụ, trong khi thần Brahma đánh nhịp theo âm điệu những chụp chơa khua động vang tai và thần Vishnu đánh trống mridanga. Thần Krishna, một hậu thân của thần Vishnu luôn luôn được h́nh dung với một ống sáo mà những âm điệu du dương làm thức tỉnh những linh hồn c̣n đang mê muội trong giấc mơ của ảo giác, tức ảo ảnh của vũ trụ và nhắc nhở họ hăy quay trở về gốc cũ trường cửu muôn đời. Saraswati, vị nữ thần minh triết, được h́nh dung khảy đàn vina, mẹ của tất cả các thứ đàn dây. Bộ kinh Sama Veda chứa đựng những thiên luận nhạc cổ nhất thế giới.

Trong ngày lễ, ban nhạc công trên từng lầu hai đă làm hứng khởi đến cả những tay đầu bếp t́nh nguyện ở chung quanh những ḷ chảo sôi bỏng của họ. Các bạn đạo và tôi cùng vui vẻ hát những bài thánh ca và đánh nhịp bằng hai bàn tay.

Đến chiều, chúng tôi đă dọn cơm chiên với đậu, rau cải nấu với cari và bánh hấp cho hằng trăm quan khách. Sau bữa cơm chiều, chúng tôi trải nệm bằng vải cứng ở ngoài sân, tất cả mọi người đều ngồi xếp bằng trên nệm vải dưới màn trời đầy sao, chăm chú nghe lời giảng đầy minh triết của Sư Phụ về pháp môn Kriya Yoga, theo đó người nêu lư tưởng sống của cuộc đời thanh cao, yên tĩnh, tinh tiến, theo phép ăn uống giản dị và hoạt động cơ thể hàng ngày. Kế đó, nhóm đệ tử trẻ hát những bài thánh ca và cuộc lễ kết thúc bằng một khúc nhạc ḥa tấu. Từ mười giờ tối đến nửa đem, các đệ tử chia nhau rửa chén bát và quét sân đạo viện. Sư Phụ gọi tôi lại gần:

-Thầy hài ḷng về công việc mà con đă làm ngày hôm nay và suốt cả tuần lễ chuẩn bị. Thầy cần dùng đến con, đem nay con có thể ngủ trên giường Thầy.

Đó là một đặc ân mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến. Chúng tôi ngồi yên lặng trong một lúc, đắm ch́m trong cơn tọa thiền thiêng liêng. Chúng tôi vừa nằm nghĩ trên giường được độ mươi phút th́ Sư Phụ bèn ngồi dậy mặc áo chỉnh tề:

-Bạch Sư Phụ, có chuyện chi?

Tôi c̣n cảm thấy tràn đầy một niềm sung sướng với ư nghĩ được nằm gần bên Sư Phụ.

-H́nh như có vài đệ tử đến trễ do chuyến xe lửa đêm, họ sẽ đến đây trong giây lát. Chúng ta hăy sửa soạn vài món ăn.

-Bạch Sư Phụ, ai lại đến đây vào lúc một giờ sáng?

-Con hăy ngủ yên, hôm nay con đă làm việc nhiều, để Thầy tự làm bếp.

Có một giọng quả quyết trong câu nói của Sư Phụ làm cho tôi phải ngồi dậy và theo người vào bếp. Trong giây lát, nồi cơm nóng và chảo đậu xào gia vịđă bốc khói nghi ngút.

Sư Phụ nở một nụ cười đầy vẻ ưu ái:

-Đêm nay con đă thắng đoạt sự mệt nhọc và không ngại làm một công việc bất ngờ, từ nay về sau không một công việc nặng nhọc nào có thể làm cho con e ngại được nữa.

Khi người vừa dứt lời, tôi nghe có tiếng chân người ở ngoài sân. Tôi bèn chạy xuống cầu thang và đưa vào một nhóm đệ tử. Một người trong nhóm nói thấp giọng:

-Thưa sư huynh, chúng tôi không dám quấy rầy Sư Phụ vào một giờ khuya khoắt như vầy. Chúng tôi đi nhằm chuyến xe khuya, biết là đến trễ nhưng chúng tôi không lẽ trở về mà không chào Sư Phụ.

Sư Phụ đang đợi các huynh, giờ này người đang lo cơm nước cho các huynh đó.

Giọng nói của Sư Phụ vang lên, tôi dắt nhóm đệ tử c̣n vẻ ngạc nhiên vào bếp. Đôi mắt chớp sáng, Sư Phụ quay sang phía tôi:

-Bây giờ con đă được nghe xong tin tức, Thầy hy vọng con lấy làm sung sướng mà thấy các vị khách của ta thật sự đă đi trễ chuyến xe lửa đêm nay!

Nửa giờ sau, tôi theo Sư Phụ vào buồng ngủ và lấy làm hănh diện mà được nằm gần bên một vị tôn sư thánh thiện.













Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 89 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:41am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



ĐỂ ĐÁNH LỪA CÁC TINH TÚ


CHƯƠNG MƯỜI BỐN


-Mukunda, tại sao con không đeo một vật phù hộ chiêm tinh?

-Bạch Sư Phụ, bởi v́ con không tin khoa chiêm tinh.

-Vấn đề không phải là tin hay không tin! Thái độ khoa học duy nhất là t́m hiểu xem một vấn đề có đúng không đúng. Luật hấp dẫn vẫn có trước cũng như sau Newton. Thế giới này sẽ hỗn loạn nếu những định luật thiên nhiên chỉ hành động dưới điều kiện là phải được chấp nhận bởi con người.

Những tay thấy bói giả mạo đă làm hoen ố khoa học khảo sát tinh tú. KHoa chiêm tinh có một tầm bao quát trên địa hạt tóan học và triết lư, nó rộng rải đến nỗi chỉ người nào có một tầm hiểu biết kiến thức bao la mới có thể lănh hội được nó một cách toàn diện. Bởi thế, kể ngu dốt không biết quan sát càn tượng, chỉ nh́n thấy ở đó một sự rối rắm không ư nghĩa, nhưng hiền triết lại có một quan niệm khác hẳn.

Những dây liên lạc vô h́nh, những sự tương quan ảnh hưởng, văn có luôn luôn giữa vjn vật trong vũ trụ. Nhịp độ điều ḥa của vũ trụ căn cứ trên sự tương quan. Con người, trong cáo lớp vỏ bằng xương bằng thịt, phải chiến đấu với hai thứ mănh lực: trước hết, sự nhu cầu của thể xác cấu tạo nên bởi tứ đại giả hiệp: đất, nước, lửa, gió; sau đó là những mănh lực phá hoại trong thiên nhiên, thuộc về ngoại cảnh. Khi con người c̣n chịu sự chi phối, kềm tỏa của xác thịt, y c̣n chịu ảnh hưởng của những sức mạnh biến chuyển không ngừng trong vũ trụ càn khôn.

Khoa chiêm tinh nghiên cứu những phản ứng của con người dưới ảnh hưởng khích động của các cầu tinh tú. Những bầu tinh tú vốn không lành không dữ mà chỉ phát ra những làn sóng rung động tích cực hay tiêu cực, thuộc âm hay thuộc dương. Chúng không phù trợ, cũng không làm hại con người, mà chỉ là những khí cụ trung gian do đó được biểu lộ một cách đúng đắn không hề suy chuyển, những mối tác động quân b́nh về nhân quả gây nên bởi những hành động trong quá khứ.

Một người sinh ra đời vào một ngày giờ mà những ảnh hưởng của các bầu tinh tú ḥa hợp một cách đúng đắn với nghiệp quả cá nhân của y. Lá số chiêm tinh của người ấy tiết lộ cái dĩ văng và những ǵ có thể xảy ra trong tương lai. Chỉ những người nào có khiếu linh giác và minh triết sâu xa mới có thể diễn đạt lá số ấy một cách đúng đắn, và những người ấy rất hiếm.

Bức thông điệp khắc trên bầu tinh tú đúng vào ngày giờ sinh của một người không phải là để tăng cường cái định mệnh của y (kết quả của những hành động thiện ác trong quá khứ) mà để gây ra nơi con người cái ư chí giải thoát khỏi cái ngục tù kiềm tỏa của vũ trụ. Người ấy không thể xóa bỏ kết quả của những việc mà y đă làm. Y đă gây ra những duyên nghiệp trong quá khứ, nó sẽ đơm bông kết quả từ từ trong cuộc đời hiện tại của y. Y có thể vượt qua mọi chướng ngại bởi v́ y có những hành động của ḿnh, và bởi v́ y có những khả năng tâm linh vượt ra ngoài ṿng ảnh hưởng độc đoán của các bầu tinh tú.

Sự sợ sệt dịđoan về khoa chiêm tinh biến con người thành một vật thụ động, nô lệ của một sức mạnh mù quáng. Người khôn ngoan sáng suốt thắng đoạt được những bầu hành tin, tức dĩ văng của ḿnh. Khi người ta càng nhận thức được sự hợp nhất tâm linh của ḿnh với Tinh Thần, hay Đại Thể của vũ trụ người ta càng thoát khỏi sự kềm tỏa của vật chất. Linh hồn người vốn tự do trường cửu; vốn bất sinh bất diệt, nó không thể chịu áp lực trói buộc của các bầu tinh tú.

Thượng Đế, chính là Công Lư. Người hành giả ḥa hợp bản thể của ḿnh với đấng Thiêng Liêng sẽ không bao giờ làm một việc bất công. Sự hoạt động của y từ nay sẽ phù hợp một cách tự nhiên với những định luật chiêm tinh. Sự cầu nguyện, sự tham thiền quán tưởng sẽ giúp y giao cảm với Thiên Ư và không một mănh lực nào là cao hơn sự che chở của sức mạnh đó từ bên trong.

-Bạch Sư Phụ, như vậy tại sao Sư Phụ muốn cho con đeo một vật hộ phù chiêm tinh?

Tôi đưa ra câu hỏi đó sau một cơn im lặng kéo dài, trong khi đó tôi suy gẫm rất lâu về những lời vàng ngọc của Sư Phụ.

-Chỉ khi nào người lữ hành đă đi đến mục tiêu cuộc hành tŕnh, y mới không c̣n cần đến bản đồ. Trên đường thiên lư, y phải biết xử dụng mọi con đường thắt để tiết kiệm sinh lực và thời giờ. Những vị chân sư thời cổ đă khám phá được nhiều phương tiện thương ngắn khoảng thời gian mà con người trải qua giữa cảnh vô minh hắc ám của thế gian. Trong cái guồn máy phức tạp của luật nhân quả, có những bộ phận mà một bàn tay minh triết có thể điều chỉnh một cách khéo léo.

Tất cả những tai họa thống khổ của con người đều do bởi y đă vi phạm những định luật thiên nhiên. Các Thánh Kinh nói rằng con người phải tuân theo những định luật thiên nhiên đó trước khi kêu gọi đến quyền lực tối cao của Trời...

Sự cầu nguyện, sức mạnh ư chí, sự tham thiền, sự gần gũi các bậc chân tưởng, việc sử dụng những vật hộ phù chiêm tinh giúp cho ta có thể làm dịu bớt họac tiêu trừ nghiệp chướng do quả báo gây nên.

Cũng như một cái nhà có ống thương lôi được che chở khỏi bị sét đánh, th́ săc thân chúng ta cũng có thể được che chở bằng nhiều biện pháp. Từ nhiều thế kỷ, các nhà đạo sĩ Yogi đă nghiệm thấy rằng vài loại kim khí phát ra một thứ hào quang có thể ngăn ngừa ảnh hưởng khốc hại của các bầu tinh tú. Những luồng từ khí tinh vi lưu chuyển thường xuyên trong vũ trụ, con người không hề biết những luồng từ điển đó ảnh hưởng ra sao, có lợi hay có hại cho thân thể và không thể làm ǵ được để đề pḥng những ảnh hưởng đó.

Vấn đề này đă từng khêu gợi sự chú ư của các vị chân sư thời cổ, các vịấy khám phá những phối hợp tốt lành của những loại khí, thậm chí cả những loại thảo mộc nhưng trên hết là các loại ngọc quí không tỳ vết nặng ít nhất là hai carats. Ngoài xứ Ấn Độ, ít có xứ nào đem việc sử dụng khoa chiêm tinh vào mục đích ngăn ngừa bệnh tật, tai họa, làm một đầu đề nghiên cứu quan trọng. Người ta thường không biết rằng những linh vật hộ phù bằng khí, đá quí hay thảo mộc, chỉ có hiệu nghiệm khi nào người ta đeo những vật ấy dính trên da thịt ḿnh.

-Bạch Sư Phụ, con sẽ nghe theo lời khuyên của Sư Phụ và con sẽ mua một vật hộ phù. Con cảm thấy thích thú với ư nghĩ có thể đánh lừa các bầu tinh tú.

-Thường th́ Thầy khuyên nên đeo một chiếc neo vàng pha bạc và đồng. Nhưng trong trường hợp riêng của con, Thầy muốn con hăy đeo một chiếc neo bằng bạc và ch́.

Kế đó Sư Phụ đưa ra thêm một vài chi tiết.

-Bạch Sư Phụ, trường hợp của con là như thế nào?

-Không bao lâu, những tinh tú sẽ chiếu cố đến con một cách không được thuận thảo lắm, Mukunda! Nhưng con đừng sợ, con sẽ được che chở. Trong chừng một tháng, lá gan của con sẽ gây cho con nhiều lo lắng. Bịnh ấy đáng lẽ kéo dài đến sáu tháng, nhưng món vật hộ phù se thương ngắn thời gian ấy lại c̣n hai mươi bốn ngày!

Qua ngày hôm sau, tôi đến một tiệm kinh hoàn và đặt làm một vật hộ phù. Lúc ấy sức khỏe tôi dồi dào nên tôi quên lững lời tiên tri của Sư Phụ! Người cũng đă rời Serampore để đi Banaras. Một tháng sau, tôi cảm thấy đau nhói bên hông ở chỗ vị trí của lá gan. Những tuần lễ tiếp theo sau đó, tôi bị chứng đau gan nhưng tôi do dự không muốn làm phiền Sư Phụ tôi và hy vọng sẽ có đủ sức chịu đựng cơn thử thách.

Nhưng hai mươi bốn ngày đau đớn đă làm suy yếu quyết định của tôi. Tôi đáp xe lửa đi Banaras, tại đây Sư Phụ tiếp đón tôi với một ḷng ưu ái khác thường, nhưng không để cho tôi có dịp gặp riêng để nói chuyện với người về chứng bệnh của tôi. Nhiều đệ tử hôm ấy đếng viếng Sư Phụ để có dịp chiêm ngưỡng tôn nhân. Bị bỏ rơi, lại đau yếu, tôi bèn ngồi riêng một góc. Sau bữa cơm chiều, những người khách đă rút lui. Sư Phụ mới gọi tôi lên bao lơn lầu bát giác của tịnh xá.

-Phải chăng con đến đây v́ chứng bệnh đau gan?

Sri Yukteswar day mặt qua chỗ khác, rồi đứng dậy đi bách bộ qua lại trong pḥng, vóc dáng cao lớn của người thỉnh thoảng che khuất ánh trăng rọi xuyên qua cửa sổ.

-Con đă đâu hai mươi bốn ngày, có phải không?

-Thưa vâng.

-Con hăy tập môn thể dục trị chứng bao tử mà Thầy đă chỉ dẫn cho con trước đây.

Nếu Sư Phụ biết rơ con đau đớn là dường nào th́ chắc Sư Phụ sẽ không bảo con tập thể dục nữa!

Tuy vậy, tôi cố gắng vâng lời:
Con nói rằng con đau, nhưng thầy nói là không. Làm sao có một sự tương phản như thế được?

Sư Phụ nh́n tôi với đôi mắt ḍ xét.

Tôi lặng người v́ ngạc nhiên. Th́nh ĺnh tôi lấy làm vui mừng mà thấy rằng cơn bịnh của tôi đă nhẹ, tôi không c̣n cảm thấy sự đau đớn nó đă làm cho tôi mất ngủ trong nhiều tuần! Một lời nói của Sư Phụ cũng đủ làm tiêu tan sự đau đớn của tôi dường như là tôi chưa hề bịđau bao giờ.

Với tấm ḷng biết ơn, tôi định qú xuống dưới chân Sư Phụ th́ người đă chận tôi lại:

-Đừng làm tṛ trẻ con! Hăy đứng dậy và nh́n xem vầng trăng đẹp trên khu rừng già!

Nhưng đôi mắt của Sư Phụ long lanh một niềm hạnh phúc, trong khi tôi đứng lặng im trước mặt người. Nh́n thái độ của Sư Phụ tôi hiểu rằng người muốn tôi hăy cám ón, không phải Sư Phụ, mà là Thượng Đế.

Đến nay tôi vẫn c̣n đeo món vật hộ phù bằng bạc và chỉđể tưởng niệm cái ngày đă qua không c̣n trở lại, ngày mà tôi hiểu rằng tôi đă sống bên cạnh một bậc siêu nhân. Trong những dịp khác, khi tôi đưa những bạn bè của tôi đến đạo viện để nhờ Sư Phụ chữa bệnh cho họ, người luôn luôn khuyên họ dùng những vật hộ phù hay ngọc quí và giải thích sự hiệu nghiệm của những vật ấy để ngăn ngừa những sự chẳng lành, căn cứ trên khoa chiêm tinh.

Từ thuở nhỏ, tôi đă từng dùng những vật hộ phù như vậy, một phần bởi v́ tôi thấy rất nhiều người có thái dộ sợ sệt dịđoan vói khoa chiêm tinh, và cũng bởi v́ nhà chiêm tinh của gia đ́nh tôi đă thốt ra lời tiên tri như sau: “Em sẽ cưới hỏi ba lần và bị hai lần góa vợ!” Tôi ngẫm nghĩ đến số mạng đáng buồn của tôi, và có cảm giác như linh hồn một con trừu bị hy sinh trước bàn thờ của ba cuộc hôn nhân!

Em phải chấp nhận số mệnh, Ananta khuyên tôi như thế. Lá số của em đă tiên liệu việc em trốn lên dăy Hy Mă Lạp Sơn hồi c̣n thơ ấu nhưng sẽ bị bắt lại. Như vậy lời tiên tri về ba cuộc hôn nhân cũng sẽ thành sự thật.

Một đêm kia, tôi có linh cảm rơ rệt rằng lời tiên tri ấy là sai. Tôi bèn đem đốt lá số của tôi và gói nhúm tro vào trong bao giấy, trên đó tôi viết gịng chữ: “Những mầm nghiệp quả của quá khứ không c̣n đâm chồi mọc nhánh, một khi nó đă bị cháy tiêu trong ngọn lửa minh triết thiêng liêng.” Tôi để cái gói giấy ở một nơi mà Ananta có thể nh́n thấy rơ ràng, anh tôi đọc xong lời thách thức của tôi bèn có nụ cười khinh miệt:

-Em không thể đốt cháy sự thật một cách dễ dàng như là đốt lá số này.

Quả thật, trước khi đến tuổi trưởng thành, gia đ́nh tôi đă ba lần mưu toan xếp đặt việc hôn phối của tôi. Mỗi lần như thế tôi đều phá hỏng kế hoạch của họ, v́ tôi biết rằng ḷng yêu Đạo Lư của tôi c̣n mạnh mẽ hơn ảnh hưởng của tinh tú gây nên bởi sự hành động của luật quả báo.

Khi một người càng tiến hóa trên đường tâm linh th́ những rung động tinh vi của y càng ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ và y càng ít bịảnh hưởng hơn bởi những chuyển biến không ngừng trong hiện tượng giới.

Những lời nói đó của Sư Phụ thường trở lại trong trí nhớ để trấn tĩnh tâm hồn tôi.

Tôi đă từng yêu cầu các nhà chiêm tinh hăy hoạch định những thời kỳ xung khắc căn cứ theo lá số của tôi, trong những thời kỳ đó tôi vẫn tiếp tục hành động và coi như không có chuyện ǵ; tôi vẫn làm những công việc theo chương tŕnh mà tôi đă vạch sẵn, không màng để ư đến sự sung khắc hay thất bại. Quả thật, tôi chỉđạt được sự thành công bằng một cái giá rất đắt, là va chạm với những khó khăn trắc trở vô cùng lớn lao. Tuy vậy tôi đă có sự quả quyết chắc chắn, đức tin nơi sự che chở thiêngliêng, việc sử dụng khôn khéo quyền tự do ư chid, là những mănh lực vô cùng mạnh mẽ hơn là tất cả những sự phối hợp ảnh hưởng của các tinh tú.

Tôi hiểu rằng lá số chiêm tinh của một người, không có nghĩa là người ấy chỉ là một kẻ nô lệ của quá khứ. Trái lại, nó có một ư nghĩa vinh diệu hơn: do Khoa Chiêm Tinh, đấng Thiêng Liêng t́m cách thức tỉnh nơi con người cái quyết định tự giải thoát khỏi mọi sự trói buộc, hạn chế. Thượng Đế sáng tạo ra con người như một linh hồn có cá tính riêng biệt, một phần tử cần thiết cho cơ cấu toàn diện của vũ trụ, bất luận trong vai tṛ tạm thời nào, dù quan trọng hay nhỏ nhặt tầm thường. Sự giải thoát của y sẽ là một việc tối hậu, nó tùy thuộc nơi sự thành công về đường tâm linh chứ không phải về phương diện vật chất.











Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 90 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:44am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



VÀI KỶ NIỆM LẠ LÙNG


CHƯƠNG MƯỜI LĂM


- Nghe em và con tôi quá đề cao và khâm phục Sri Yukteswar, tôi sẽ đến viếng ông ấy một lần xem sao!

Bác sĩ thú y Narayan Chunder Roy nói với một giọng trịnh thượng, nhưng tôi không tỏ ra bất măn. Ông ta là một người duy vật hạng nặng. Con trai ông, Santosh, khẩn khoản yêu cầu tôi giúp đỡ cha y, nhưng trường hợp này có vẻ tuyệt vọng.

Qua ngày hôm sau, bác sĩ Roy cùng đi với tôi đến đạo viện Serampore, Sư Phụ bằng ḷng tiếp ông ta, cuộc hội kiến ngắn ngủi chỉ là một cơn im lặng kéo dài ở cả đôi bên, sau cùng người khách đứng dậy bỏ về.

-Con đem một người chết tới đây làm ǵ? Sri Yukteswar hỏi tôi khi cánh cửa vừa đóng lại phía sau lưng bác sĩ.

-Bạch Sư Phụ, bác sĩ Roy vẫn c̣n sống!

-Nhưng y sắp chết đến nơi rồi!

Lời nói đó làm tôi xúc động:

-Đó là một điều nặng nề cho người con của ông ta. Santosh hy vọng rằng thời gian sẽ đánh tan những ư tưởng duy vật của cha y. Cầu xin Sư Phụ hăy giúp đỡ người này.

-Được, Thầy sẽ làm vừa ḷng con; gương mặt Sư Phụ vẫn thản nhiên. Người bác sĩ thú ư này không biết rằng y bị chứng đái đường rất nặng và y sẽ phải nằm liệt giường trong ṿng mười lăm ngày. Các bác sĩ phải bó tay và y sẽ từ giă cơi đời trong ṿng sáu tuần lễ kể từ ngày hôm nay nhờ sự can thiệp của con nên y sẽ khỏi bệnh vào ngày đó. Nhưng ta đặt một điều kiện: con hăy khuyên y đeo một vật hộ phù chiêm tinh, chắc chắn là y sẽ nhảy dựng lên như ngựa trước khi bịđem giải phẫu!

Sau một lúc im lặng, trong khi đó tôi ngẫm nghĩ nên làm cách nào để thuyết phục vị bác sĩ thú y, Sư Phụ nói tiếp:

-Khi y cảm thấy khá, con hăy khuyên y nên kiêng ăn thịt. Y sẽ không nghe lời khuyên đó và y sẽ chết trong sáu tháng, đúng vào lúc mà y tưởng là đă khỏi bệnh. Sáu tháng phụ trội đó chỉđược ban cho y là do lời cầu xin của con!

Ngày hôm sau, tôi dặn Santosh hăy đăt làm một vật hộ phù tại tiệm kim hoàn, bảy ngày sau đó, vật ấy đă làm xong nhưng bác sĩ Roy từ chối không chịu đeo.

-Tôi cảm thấy sức khỏe dồi dào. Các con đừng nhát tôi với những bùa phép chiêm tinh dịđoan đó.

Bác sĩ vừa nói vừa nh́n tôi cười ngạo nghễ. Tôi thích thú mà nhớ lại rằng Sư Phụ vừa so sánh vị thú y với một con ngựa chứng. Một tuần lễ trôi qua, vị thú y th́nh ĺnh nhuốm bịnh, nên đành chịu đeo vật hộ phù. Hai tuần sau, viên y sĩ khám bệnh cho y nói vói tôi rằng trường hợp ấy đă tuyệt vọgn và nói thêm nhiều chi tiết về những sự tàn phá trong cơ thể do bệnh đái đường gây ra.

Tôi lắc đầu:

-Sư Phụ tôi nói rằng bác sĩ Roy sẽ b́nh phục, bịnh này chỉ kéo dài trong ṿng một tháng.

Viên y sĩ nh́n tôi với cặp mắt nghi ngờ. Nhưng hai tuần sau, ông ta gặp lại tôi và nói:

-Bác sĩ Roy đă hoàn toàn b́nh phục! Đây là trường hợp lạ lùng nhất trong đời bác sĩ của tôi. Tôi chưa từng thấy một người nào bịnh đang hấp hối mà tự nhiên lại b́nh phục một cách đột ngột như vậy. Thầy của anh chắc chắn là một nhà tiên tri và chữa bệnh!

Trong cuộc gặp gỡ với bác sĩ Roy, tôi có nói cho ông ta biết Sri Yukteswar có lời cảnh cáo ông ta không nên ăn thịt. Sau đó tôi không gặp ông ta trong sáu tháng. Một hôm tôi đang đứng trước hành ba nhà tôi, ông ta từ đâu tiến đến và nói:

-Em hăy nói với Thầy em rằng sở dĩ tôi mau lại sức là nhờ ăn rất nhiều thịt. Quan niệm phản khoa học của ông về vấn đề dinh dưỡng không thuyết phục được tôi!

Lúc ấy bác sĩ Roy quả thật là hiện thân của sức khỏe. Nhưng qua ngày hôm sau, Stantosh hốt hoảng chạy đến nhà tôi:

-Cha tôi th́nh ĺnh ngă lăn ra chết hồi sáng này!

Đó là một trong những kinh nghiệm lạ kỳ nhất của đời tôi trong thời kỳ tôi sống chung với Sư Phụ. Người chữa khỏi bệnh cho viên thú y ngoan cố, không màng để ư đến sự hoài nghi thiển cận của ông ta, và kéo dài đời sống thế gian của ông ta thêm sáu tháng chỉ v́ có lời cầu khẩn của tôi. Sri Yukteswar thường tỏ ra có ḷng ưu ái vô bờ bến đối với những đệ tử chân thành cầu xin người giúp đỡ với tấm ḷng khẩn thiết.

Điều làm tôi hănh diện là tôi có đặc quyền đem những bạn học của tôi đến gặp Sư Phụ. Phần nhiều các bạn tôi trong những dịp đó đă từ bỏ thái độ hoài nghi của họ về vấn đề tôn giáo, một thái độ thịnh hành lúc đương thời.

Một trong những người bạn đó tên Sasim đă trải qua nhiều dịp nghỉ cuối tuần thích thú tại đạo viện. Sư Phụ có nhiều cảm t́nh với người thanh niên này và lấy làm buồn về cuộc đời phóng đăng, vô kỷ luật của y.

-Sasi, nếu con không sửa đổi cách sinh hoạt của con, con sẽ bịđau nặng! Sri Yukteswar vừa nói vừa nh́n bạn tôi một cách tuyệt vọng.

- Ta nói có Mukunda làm chứng; con sẽ không c̣n nói rằng ta không khuyên giải con từ trước.

Sasi cười và nói:

-Bạch Thầy, con xin nhờ Thầy cầu nguyện giùm cho con! Con có nhiều thiện chí nhưng thiếu can đảm. Trên đời này, Thầy là vị cứu tinh của con, con không tin được ai nữa ngoài Thầy ra.

- Con phải đeo một hột đá xanh nặng hai carats. Đeo nó có lợi cho con.

- Con không đủ sức sắm vật ấy. Tuy nhiên, nếu con bị chuyện ǵ nguy cấp, con xin Thầy che chở cho con.

Sri Yukteswar trả lời với một vẻ bí hiểm:

- Trong ṿng một năm, con sẽ đem đến đây ba hột ngọc bích, nhưng lúc bấy giờ th́ những viên ngọc ấy không có ích ǵ cho con nữa.

Câu chuyện vẫn trở lại chung quanh một vấn đề. Sasi thú nhận với một sự tuyệt vọng đáng buồn cười:

-Con không thể tự sửa đổi! Đức tin của con đặt nơi Thầy, c̣n quư báu hơn mọi loại ngọc quí!

Một năm sau, tôi đến Calcutta cùng với Sư Phụ, người ở tại nhà một đệ tử tên là Naren Babu. Vào lúc mười giờ sáng, Sư Phụ và tôi đang ngồi nghỉ trong pḥng khách trên lầu, th́nh ĺnh tôi nghe tiếng mở cửa. Sư Phụ bèn nhỏm dậy và nói một cách nghiêm trọng:

-Sasi đă đến. Một năm vừa trôi qua, hai buồn phổi của y đă hỏng! Y không nghe lời Thầy. Con hăy nói rằng Ta không muốn tiếp y.

Tôi chạy xuống lầu th́ thấy Sasi cũng đang lần từng bước thang đi lên.

-Mukunda, tôi hy vọng rằng Thầy có ở đây!

-Có, nhưng người không muốn bị ai quấy rầy.

Sasi vừa khóc sướt mướt vừa vượt qua trước mặt tôi để thụp xuống lạy Sư Phụ và đặt dưới chân người ba viên ngọc bích thật bích.

-Bạch Sư Phụ, các y sĩ nói rằng con bị chứng hoàn lao cấp số! Họ nói con sẽ không sống được tới ba tháng. Con khẩn cầu Sư Phụ giúp con v́ con biết chỉ có Sư Phụ mới cứu được con.

-Phải chăng đă quá trễ để nghĩ đến việc cải tạo cuộc đời? Con hăy đi đi với những viên ngọc bích vô dụng này, thời kỳ hiệu nghiệm của nó đă qua rồi.

Sư Phụ nói xong th́ ch́m vào một cơn im lặng kéo dài, chỉ c̣n tiếng khóc nức nở của người thanh niên.

Tôi linh cảm rằng Sri Yukteswar chỉ nói vậy để thử thách đức tin của Sasi nơi quyền năng chữa bện của người. Bởi đó tôi không ngạc nhiên khi mà một giờ sau, Sư Phụ ban cho tôi một cái nh́n thương hại và nói:

-Con hăy đứng dậy, Sasi, và đừng làm mất sự yên tĩnh trong nhà người khác! Hăy trả các viên ngọc bích cho người kim hoàn v́ hiện giờ đó là một sự phí tổn vô ích. Con đừng sợ, trong vài tuần con sẽ cảm thấy khỏi bệnh!

Một nụ cười chói sáng trên gương mặt đẫm lệ của Sasi chẳng khác nào như mặt trời xuất hiện sau cơn mưa:

-Bạch Sư Phụ, con cần phải uống thuốc chăng?

Sri Yukteswar tỏ ra giàu ḷng tha thứ:

-Nếu con muốn. Uống thuốc hay không cũng chẳng hại ǵ. Dẫu cho mặt trời mặt trăng dời đi chỗ khác, con cũng không chết v́ bệnh lao! Người nói thêm một cách đột ngột. Bây giời con hăy đi đi kẻo có khi ta lại đổi ư.

Sasi kiếu từ và rút lui. Trong những tuần lễ sau đó, tôi đến thăm y nhiền lần và lấy làm thất vọng mà sức khỏe của y càng ngày càng hao ṃn.

-Sasi sẽ không qua khỏi đêm nay!

Lời tuyên bố của vị y sĩ và t́nh trạng nguy kịch của bạn tôi làm cho tôi phải hối hả lên đường đến đạo viện. Sư Phụ lạnh lùng nghe lời báo cáo của tôi trong khi tôi vừa nói vừa khóc v́ xúc động.

-Tại sao con đến làm phiền ta như vậy? Ta há chẳng nói trước rằng Sasi sẽ khỏi bệnh sao?

Tôi kính cẩn cúi đầu trước Sư Phụ và âm thầm rút lui. Sư Phụ không nói ǵ những trầm ḿnh trong im lặng, đôi mắt hé mở của người đang chiêm ngưỡng một cơi giới xa xăm nào. Tôi trở lại nhà Sasi ở Calcutta ngay khi đó và lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy bạn tôi đang ngồi tỉnh táo và uống sữa!

-Mukunda hỡi! Thật là kỳ diệu. Trong mấy tiếng đồng hồ qua, tôi cảm thấy trong pḥng có sự hiện diện của Sư Phụ, ngay tức khắc chứng bệnh tôi liền thuyên giảm và biến tan đi mất. Tôi biết rằng chính nhờ Sư Phụ mà tôi được hoàn toàn b́nh phục!

Chỉ trong vài tuần, Sasi đă lên cân và sức khỏe dồi dào hơn bao giờ hết. Những sự khỏi bệnh của y lại có những hậu quả bất ngờ: y tỏ ra vô ơn bạc nghĩa, những cuộc viếng thăm đạo viện của y cũng thưa thớt lần lần. Một ngày nọ bạn tôi tâm sự với tôi rằng y cảm thấy hổ thẹn v́ thái độ của ḿnh đến nỗi y không dám đến gặp Sri Yukteswar.

Việc ấy đưa tôi đến kết luận rằng chứng bệnh của Sasi có cái hậu quả bất ngờ là làm cho y bị lệch lạc ư chí và không c̣n biết phép xử thế lịch sử ở đời!

Tôi thường bị xâm chiếm bởi những tư tưởng hoài nghi, vô thần. Tuy nhiên, một ư nghĩ băng khoăn đôi khi cũng thoáng qua trong trí tôi: linh hồn có hay chăng những tiềm năng chưa hề khai thác? Con người có lăng quên mục đích thật sự của ḿnh chăng khi họ không quan tâm đến vấn đề này?

Dijen Babu, một người bạn học cùng lớp, tâm sự với tôi như thế khi tôi mời y đến viếng thăm đạo viện. Tôi bèn đáp:

-Sư Phụ Sri Yukteswar sẽ khai tâm cho anh theo pháp môn Kriya Yoga. Pháp môn này sẽ làm lắng dịu những sự cuồng loạn của ảo vọng bằng một sự giác ngộ thiêng liêng trong nội tâm.

Chiều hôm ấy, Dijen theo tôi đến đạo viện. Trước mặt Sư Phụ, bạn tôi cảm thấy một niềm an lạc thâm trầm xâm chiếm lấy tâm hồn y, và từ đó y thường đến viếng đạo viện luôn. Những điều lo lắng nhỏ nhạt của đời sống hằng ngày không đủ làm thỏa măn con người, trong tánh chất của y cũng c̣n có sự khát khao chân lư. Trong những lời giảng huấn của Sri Yukteswar, Dijen nhận thấy một sự khích lệ thúc đẩy y t́ kiếm tận nơi thâm sâu bí ẩn của nội tâm cái Chân Ngă bất diệt, khác hẳn với phàm ngă chật hẹp, ích kỷ của con người.

Dijen và tôi cùng theo học ban Cử Nhân tại trường Serampore College, trực thuộc trường đại học Calcutta và thường có thói quen đến đạo viện ngay sau giờ học. Sri Yukteswar thường nh́n thấy chúng tôi từ trên bao lơn từng lầu hai và tiếp đón chúng tôi với một nụ cười.

Một hôm, Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, đợi chúng tôi ở ngoài cửa và nói:

-Sư Phụ hôm nay vắng mặt, người có việc gấp phải đi Calcutta.

Ngày hôm sau, tôi nhận được một bử phiếu của Sư Phụ viết như sau: “Thầy sẽ rời khỏi Calcutta sáng ngày thứ Tư, con và Dijen hăy đón Thầy ở ga Serampore trên chuyến xe lửa 9 giờ.”

Sáng thứ Tư, vào lúc 8 giờ rưỡi, một thông điệp thần giao cách cảm của Sư Phụ đi xuyên qua trí tôi: “Thầy mắc bận vào giờ chót, đừng đón chuyến xe 9 giờ.”

Tôi liền báo tin cho Dijen, y đă sửa sọan ra đi những nghe tin ấy th́ nói với giọng bất măn.

-Anh cứ hay nói chuyện linh cảm với linh giác! Tôi chỉ tin những việc đó khi nào có chữ viết của Sư Phụ.

Tôi nhún vai, lặng lẽ ngồi xuống và quyết định ở lại, Dijen vừa bước ra cửa vừa nói lầm bầm và đóng sầm cánh cửa khi đi ra.

Trong pḥng hơi u ám, tôi bèn đi đến chỗ cửa sổ trổ ra ngoài đường. Bỗng nhiên ánh sáng dịu lúc ban mai đổi thành một thứ ánh sáng chói ḷa trong đó cửa sổ song sắt hoàn toàn biến mất dạng. Trên sàng gạch chói sáng, đứng sừng sững giữa pḥng chính là Sri Yukteswar bằng xương bằng thịt rơ ràng!

Bàng hoàng và vô cùng kinh ngạc, tôi thụp xuống dưới chân Sư Phụ và sờ nhẹ hai bàn chân người để tỏ ḷng tôn kính như thường lệ. Sư Phụ mang đôi giày bố màu da cam, đến giày bằng da dừa; tôi nhận ra một cách rơ ràng đó là đôi giầy mà Sư Phụ vẫn thường dung hằng ngày. Chiếc vạt áo màu vàng sậm của người phất qua đụng da mặt tôi, tôi cảm xúc được không những cái vạt áo mà c̣n nhận thấy mặt nhám của đôi giày bố và hai ngón chân cái cộm lên ở bên trong. Quá xúc động đến không thể nói chuyện được, tôi chỉ có thể nh́n Sư Phụ bằng cặp mắt dọ hỏi:

- Thầy rất vui ḷng mà thấy con nhận được bức thông điệp thần giao cách cảm của Thầy.

Giọng nói của Sư Phụ vẫn b́nh thường không thay đổi.

-Thầy không thể hoàn tất mọi công việc kịp thời ở Calcutta và sẽ về đến Serampore trên chuyến xe lửa 10 giờ.

Câm lặng v́ ngạc nhiên, tôi vẫn tiếp tục nh́nh Sư Phụ. Sri Yukteswar nói tiếp:

-Không, đây không phải là một sự hiện h́nh, mà chính là Thầy bằng xương bằng thịt. Thầy ban cho con cái kinh nghiệm hiếm có này do bởi Thiên Ư. Con hăy đợi Thầy tại nhà ga, Dijen và con sẽ gặp Thầy cũng trong bộ áo Thầy đang mặc lúc này, và đi trước Thầy có một thiếu nhi cầm một cái b́nh bằng bạc.

Sư Phụ bèn đặt hai bàn tay lên đầu tôi và nói th́ thầm những lời ban ân huệ. Vừa dứt lời th́ tôi nghe một tiếng động đặt biệt. Thể xác của Sư Phụ từ từ tan ră trong ánh sáng chói ḷa. Hai bàn chân, rồi hai chân biến mất trước hết, kế đó tới thân ḿnh và đầu, cũng ví như một cuộn giấy bị cuốn tṛn lại. Cho đến phút chót, tôi cảm thấy sự đụng chạm nhẹ nhàng của những ngón tay luồn trong mái tóc tôi. Trong giây lát, ánh sánh chói lọi lúc năy đă lu mờ dần, tôi chỉ c̣n nh́n thấy cái cửa sổ song sắt và những tia nắng mặt trời êm dịu.

Tôi ch́m trong một cơn bàng hoàng như tỉnh như mê và tự hỏi phải chăng đó là một cơn nắng quáng đèn ḷa, khiến cho tôi nh́n thấy một ảo ảnh. Trong lúc đó, Dijen mặt mày ngơ ngác bước vào gian pḥng và nói:

-Sư Phụ không về trên chuyến xe 9 giờ, và luôn cả chuyến xe 9 rưỡi! Bạn tôi nói câu đó dường như để xin lỗi.

-Anh hăy đi theo tôi! Tôi biết Sư Phụ sẽ về trên chuyến xe 10 giờ.

Tôi kéo Kijen đi theo tôi, hầu như cưỡng bách, mặc dù y không bằng ḷng. Mười phút sau chúng tôi đến nhà ga th́ chuyến xe cũng vừa đến. Tôi kêu lên:

-Hào quang của Sư Phụ chói ḷa khắp các toa xe lửa! Người đă về!

-Anh chỉ tưởng tượng! Dijen nói giọng châm biếm.

-Chúng ta hăy đợi ở đây.

Tôi diễn tả từng chi tiếh h́nh dáng của Sư Phụ khi người sẽ trở về. Tôi vừa nói xong th́ Sri Yukteswar đă xuất hiện với bộ áo vàng sậm mà tôi đă thấy từ lúc năy. Người đi chậm bước và theo sau một đứa trẻ nhỏ mang một cái b́nh bằng bạc.

Trong một lúc tôi cảm thấy lạnh ḿnh v́ kinh hăi trước sự kiện lạ lùng vừa xảy ra. Cả một bầu thế giới quen thuộc của thế kỷ 20 duy vật dường như sụp đổ trước đôi mắt ngạc nhiên của tôi, tôi tưởng chừng như sống thụt lùi trở lại thời kỳ mà đức Jesus xuất hiện trước thánh Pierre trên bờ biển Galilée!

Khi Sri Yukteswar đi đến chỗ mà Dijen và tôi ngồi bàng hoàng và câm lặng v́ kinh sợ, Sư Phụ vừa mỉm cười vừa nói với người bạn tôi:

Ta cũng có gửi đến cho con một thông điệp, nhưng con không nhận được.

Dijen lặng thinh và nh́n tôi với một vẻ nghi ngờ. Sau khi đưa Sư Phụ về đạo viện, chúng tôi đi đến trường đại học Serampore College. Dijen ngừng lại giữa đường và nói với giọng bực tức:

- À, th́ ra là như vậy! Sư Phụ có gửi thông điệp cho tôi! Tại sao anh dấu tôi? Anh phải trả lời cho tôi rơ.

Có phải lỗi tại tôi chăng nếu tấm gương của linh hồn anh quá lu mờ nên không thể phản chiếu những thông điệp của Sư Phụ?

Dijen liền b́nh tĩnh lại ngay và nói với một giọng đầy hối hận:

-Tôi hiểu anh muốn nói ǵ. Nhưng anh hăy giải thích do đâu mà anh biết trước có một đứa trẻ nhỏ mang một cái b́nh bằng bạc?

Khi tôi vừa kể hết câu chuyện Sư Phụ xuất hiện một cách nhiệm mầu hồi lúc sáng sớm, th́ chúng tôi đă đến trước cửa trường Serapore. Dijen bèn kết luận:

Những ǵ tôi vừa được nghe về quyền năng của Sư Phụ làm cho tôi nghĩ rằng tất cả những trường đại học của thế giới chỉ là những vườn chơi trẻ con!









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 91 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:45am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



CHUYẾN DU HÀNH LÊN TỈNH KASHMIR


CHƯƠNG MƯỜI SÁU


-Thưa cha, con muốn mời Sư Phụ và bốn người bạn cùng đi với con lên dăy Hy Mă Lạp Sơn trong dịp nghĩ hè. Cha có thể cho con sáu vé xe lửa đi Kashmir và tiền túi để đi đường?

Như tôi đă đoán trước, cha tôi liền bật cười:

-Đây là lần thứ ba mà con xin cha chuyện đó! Phải chăng con đă xin cha như thế trong dịp hè cách đây hai năm? Vào giờ chót, Sri Yukteswar đă từ chối không đi.

-Thưa cha, đúng vậy. Con không biết lần này Sư Phụ có định đi không. Nhưng nếu con cho người biết rằng vé xe lửa đă sẵn sàng th́ con hy vọng Sư Phụ rốt cuộc sẽ chịu đi.

Cha tôi không tin chuyện ấy lắm, tuy nhiên ngày hôm sau người đưa cho tôi sáu tấm vé biếu đặc biệt và một cuộn giấy bạc mười rupees:

- Cha không nghĩ rằng cuộc du hành tưởng tượng của con phải cần dùng đến những thứ này, nhưng dù sao con cũng cứ cầm lấy!

Trong ngày hôm đó, tôi phô trương món quà đó trước mặt Sư Phụ, người mỉm cười về sự hứng khởi của tôi và nói một cách phân đôi, không quả quyết lắm:

-Thầy cũng mong có thể đi được, để xem sao.

Ngoài ra tôi c̣n mời bốn người bạn trong số đó Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, Rajendra Nath Mitra, Jotin Auddy và một bạn khác, ngày lên đường đă định là thứ Hai tuần tới.

Ngày thứ Bảy và Chủ Nhật tôi có mặt ở Calcutta để dự lễ cưới của một người anh họ tổ chức tại nhà tôi. Sáng sớm ngày thứ Hai, tôi đến Serampore với đồ hành lư. Rajendra đă đợi tôi trước cửa đạo viện và nói:

Sư Phụ không chịu đi, người mới bước ra đi dạo một ṿng.

Tôi cảm thấy bất măn, và sau cùng tôi quyết định: -Tôi không thể để cho cha tôi cười một lần thứ ba về những kế họach ngao du tưởng tượng của tôi nữa. Chúng ta cũng cứ đi dù không có Sư Phụ.

Rajendra bằng ḷng. Tôi rời khỏi đạo viện để t́m một đứa gia nô v́ tôi biết rằng Kanai sẽ không đi nếu không có Sư Phụ và tôi cần một người để coi sóc hành lư. Tôi nghĩ đến Behari, trước kia đă từng giúp việc trong gia đ́nh tôi và hiện đang giúp việc nhà cho một vị giáo chức ở Serampore. Trong khi tôi đang đi mau, tôi gặp Sư Phụ ở trước nhà thờ Gia Tô cách ṭa án Serampore không xa. Sư Phụ có vẻ không vui:

-Con đi đâu?

-Bạch Sư Phụ, con nghe Kanai không chịu đi trong chuyến du ngoạn mà con đă sắp đặt. Con phải đi t́m Begari. Sư Phụ có nhớ chăng năm ngoái, nó thích đi chơi Kashmir đến nỗi nó đ̣i đi theo phục dịch chúng con mà không nhận tiền thù lao.

-Thầy nhớ. Tuy nhiên, Thầy không tin rằng lần này nó chịu đi.

Tôi càng bực ḿnh:

-Nhưng, bạch Sư Phụ, đó là cái mộng mà nó vẫn ôm ấp từ lâu kia mà!

Sư Phụ lặng thinh và tiếp tục cuộc đi dạo, c̣n tôi th́ đi đến nhà vị giáo chức. Đến trước sân, Behari tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt nhưng thái độ ấy liền đổi thành một sự dè dặt khó hiểu khi tôi vừa nói đến Kashmir. Với vài lời xin lỗi, y bèn kiếu từ và đi vào nhà người chủ của y. Tôi đợi mất nửa giờ ngoài sân, hy vọng một cách mơ màng rằng chắc có lẽ y vào nhà trong để chuẩn bị hành trang lên đường. Sau cùng tôi gơ cửa. Người chủ nhà bước ra, mỉm cười và nói:

-Behari đă đi chợ bằng cửa sau cách đây độ nửa giờ.

Tôi bước đi trong sự thất vọng và tự hỏi phải chăng v́ lời mời của tôi quá đột ngột hay đó là do ảnh hưởng vô h́nh của Sư Phụ. Khi tôi đi gần đến nhà thờ, tôi thấy Sư Phụ từ từ bước đến. Không đợi cho tôi nói ǵ, người bèn nói trước:

-À vậy là Behari cũng không đi! Bây giờ chương tŕnh con ra sao?

Tôi cảm thấy như một đứa con ngỗ nghịch, quyết định đương đầu với cha:

-Bạch Sư Phụ, con sẽ yêu cầu chú con cho mượn người gia nô tên là Lai Dhari.

Sri Yukteswar đáp với nụ cười:

-Con cứ đi hỏi cậu con nếu con thấy cần. Nhưng Thầy không tin rằng con sẽ thành công.

Tôi từ biệt Sư Phụ và đi vào pháp đ́nh Serampore. Chú tôi là Sarada Gosh làm luật sư tại ṭa án, tiếp đón tôi một cách cởi mở. Tôi nói:

- Hôm nay cháu cùng với vài người bạn đi du ngoạn lên xứ Kashmir. Từ mấy năm nay cháu vẫn hằng mong ước có dịp đi chơi trên dăy núi Hy Mă Lạp Sơn.

-À, chú cũng chung vui với cháu. Cháu có muốn chú giúp đỡ điều ǵ trong cuộc đi chơi này không?

Những lời chú cởi mở đó có vẻ khích lệ đối với tôi:

-Thưa chú, cháu có thẻ mượn người gia nô Lai Dhari chăng?

Lời yêu cầu khiêm tốn này có ảnh hưởng như một tiếng sét đánh. Chú tôi nhảy dựng lên mạnh đến nỗi nó làm lật đổ bàn ghế, những giấy tờ trên bàn bay tản mác tứ phía, cái ống điếu dài đẽo bằng cây dừa của chú lăng long lóc xuống cái sàn gạch. Chú hét lớn trong cơn thịnh nộ:

-Đồ ích kỷ! Thật là hỗn láo! Ai sẽ lo việc nhà cho tao nếu mày đem người nô bộc của tao đi theo mày chơi?

Tôi cố dấu vẻ ngạc nhiên và nghĩ rằng sự thay đổi tâm lư đột ngột này lại là một trong những sự kỳ lạ bí hiểm trong ngày hôm đó. Tôi bèn hối hả rút lui, không màng nghĩ đến ḷng tự ái bị va chạm!

Tôi trở lại đạo viện, tại đây các bạn tôi đă đợi sẵn. Trong trí tôi bắt đầu nảy sinh ra một sự tin tưởng chắn chắn rằng thái độ của Sư Phụ hẳn là có lư do chính đáng. Tôi cảm thấy hối hận vfi đă không chịu vâng lời Sư Phụ.

Sri Yukteswar thấy tôi bèn hỏi:

-Mukunda, con có muốn ở nán lại với Thầy thêm ít lâu chăng? Rajendra và các bạn có thể đi trước và đợi con ở Calcutta, khi đến đó con sẽ có thừa thời giờ đáp chuyến xe cuối cùng lúc chiều để đi lên Kashmir.

-Bạch Sư Phụ, con cảm thấy không vui nếu không có Sư Phụ cùng đi.

Các bạn tôi không hề để ư đến lời tuyên bố này. Họ kêu một cổ xe ngựa, chất hành lư lên xe và đi thẳng Kanai c̣n tôi lẳng lặng ngồi dưới chân Sư Phụ. Sau độ ba mươi phút im lặng hoàn toàn, Sri Yukteswar đứng dậy đi lên pḥng ăn trên lầu hai và nói:

- Kanai, con hăy theo săn sóc Mukunda. Chuyến xe lửa đă sắp khởi hành.

Th́nh ĺnh tôi vặn ḿnh đau đớn với cơn buồn mửa, trong bụng quặn đau một cách kinh khủng. Cơn đau nhức nhối như dùi nhọn đâm vào ruột, tôi cảm thấy như một tội nhân bị quỉ sứ hành h́nh moi ruột dưới địa ngục. Tôi ḅ lết đến chỗ Sư Phụ ngồi và ngă vật xuống chân người, khi đó tôi mới biến tôi đă bị bệnh thời khí Á Châu, một chứng bệnh vô cùng hiểm nghèo! Sư Phụ cùng với Kanai khiêng tôi vào pḥng khách. Bị dày ṿ trong cơn đau đớn, tôi rên siết:

-Bạch Sư Phụ, con xin giao mạng sống của con vào tay Sư Phụ.

Tôi cảm thấy dường như linh hồn tôi sắp sửa bị dứt ra khỏi thể xác một cách tàn nhẫn, phủ phàng!

Sri Yukteswar đặt đầu tôi lên hai đầu gối của người, vuốt trán tôi một cách nhẹ nhàng và nói:

-Con thấy việc ǵ sẽ xảy ra cho con nếu con cùng với các bạn đi ra nhà ga từ lúc này! Thầy đă phải coi chừng săn sóc con một cách kín đáo v́ con đă căi lời Thầy mà muốn đi du ngoạn vào thời kỳ bất lợi.

Sau cùng tôi đă hiểu. Khi một vị tôn sư không chịu phô trương quyền năng của ḿnh trước mắt mọi người th́ người ta có thể nghĩ rằng sự việc đă diễn ra một cách b́nh thường. Sự can thiệp của Sư Phụ đă diễn ra một cách qua âm thầm tế nhị nên không ai hay biết ǵ cả. Sư Phụ đă ảnh hưởng đến Behati; vị luật sư Sarada, tức chú tôi; Rajendra và những người khác; một thứ ảnh hưởng vô h́nh vô ảnh đến nỗi tất cả mọi người trừ tôi ra đều nghĩ rằng sự việc đă xảy ra một cách tự nhiên và không có ǵ ngoài sự b́nh thường. V́ Sư Phụ không bao giờ quên noi theo những tập quán thông thường, người khiến Kanai đi gọi một y sĩ chuyen khoa và báo tin cho chú tôi hay. Tôi kêu nài:

-Bạch Sư Phụ, chỉ có Sư Phụ mới có thể chữa khỏi bịnh cho con. Bịnh trạng của con quá nguy kịch, một y sĩ có thể làm được ǵ?

-Con hỡi, cầu xin Thượng Đế ban ân huệ thiêng liêng cho con! Con đừng băn khoăn về việc gọi y sĩ; y sĩ không c̣n thấy con ở vào t́nh trạng nguy kịch ấy nữa, v́ con đă khỏi bệnh!

Sư Phụ vừa nói xong, cơn đau bụng dữ dội của tôi liền biến mất. Tôi ngồi dậy nhưng hăy c̣n yếu. Không bao lâu vị y sĩ đă đến nơi và khám tôi rất tỉ mỉ rồi nói:

-Em vừa trải qua một cơn đau kinh khủng. Tôi phải lấy máu để thử vi trùng xem sao.

Sáng ngày hôm sau, vị y sĩ hối hả trở lại th́ thấy tôi đă ngồi dậy và cười nói vui vẻ.

-À, em đă nói chuyện được và lại tươi cười dường như mới ngày hôm qua đây em không ở dưới manh vuốt của Tử Thần!

Y vỗ nhẹ vào bàn tay tôi:

- Tôi không chắc là sẽ thấy em c̣n sống hôm nay khi cuộc khảo nghiệm hóa học cho biết là em bị chứng thời khí Á Châu. Em thật là phúc đức có được một vị tôn sư có quyền năng chữa bệnh, một quyền năng thiêng liêng của Trời Phật ban cho! Tôi không nghi ngờ ǵ về việc ấy.

Tôi cũng hoàn toàn đồng ư. Khi vị y sĩ kiếu từ ra về, Rajendra và Auddy xuất hiện ở trước cửa. Họ có vẻ bất măn những sắc mặt họ liền ḥa dịu trở lại khi họ nh́n thấy vị y sĩ và gương mặt hăy c̣n xanh mét của tôi.

-Chúng tôi rất tức giận khi thấy anh không đến với chúng tôi tại Calcutta như đă hẹn trước. Anh bịđau hay sao?

-Phải.

Tôi không thể nín cười khi tôi thấy các bạn tôi đặt đồ hành lư xuống ngay chỗ ngày hôm qua.

Lúc đó Sư Phụ bước vào gian pḥng. Tôi lấy tư cách một kẻ đang nằm dưỡng bệnh để tự cho phép nắm lấy bàn tay Sư Phụ một cách tŕu mến:

-Bạch Sư Phụ, từ năm con mười hai tuổi đến nay con đă mưu toan thất bại nhiều lần để đi lên dăy Hy Mă Lạp Sơn. Bây giờ con tin rằng nếu không có ân huệ của Sư Phụ, đức Phật Mẫu Quan Âm chắc sẽ từ chối không chịu tiếp con ở trên đó!

“Nay con đă khá mạnh khỏe để co thể lên đường, Thầy sẽ cùng đi với con lên Kashmir.” Sư Phụ nói với tôi hai ngày sau khi tôi được chữa khỏi bệnh thời khí Á Châu một cách mầu nhiệm. Chiều hôm ấy, sáu người trong nhóm chúng tôi đáp chuyến xe lửa lên miền Bắc. Trạm ngừng đầu tiên là Simla, một thành phố hùng vĩ dưới chân Hy Mă Lạp Sơn. Chúng tôi đi dạo chơi trên những con đường dốc và chiêm ngưỡng phong cảnh đẹp của miền núi.

-Ai mua dâu không?

Một bà già bán dâu tươi ngồi rao hàng tại một góc chợ của thành phố. Những trái dâu đỏ thắm khêu gợi sự chú ư của Sư Phụ. Người mua một giỏ đầy và đưa cho chúng tôi ăn. Tôi nếm thử một trái nhưng liền nhăn mặt và nhả ra:

-Bạch Sư Phụ, dâu chua quá! Chắc không bao giờ con ăn nữa!

Sư Phụ bèn cười và nói:

-Trái lại, sau này con sẽ thích ăn dau hơn, khi con sang Mỹ Quốc. Trong một bữa cơm tối, bà chủ nhà sẽ dọn ra cho con món dâu chua với đường và kem. Bà ấy sẽ nghiền nát những trái dâu bằng một cái nĩa và con sẽ khen rằng, “Thật là ngon tuyệt diệu!” Chừng đó con sẽ nhớ đến ngày hôm nay ở Simla.

Tôi hoàn toàn quên lửng lời tiên tri đó và chỉ nhớ lại nhiều năm về sau. Sau khi đến Mỹ Quốc, một hôm tôi được mời dùng cơm tối tại nhà bà Alice T. Hasey tại West Somerville, Massachusetts. Đến lúc ăn tráng miệng, bà chủ nhà cầm một cái nĩa, nghiền nát những trái dâu đỏ rồi thêm kem và đường. Bà mời toi dùng và nói:

-Những trái dâu này rất chua, tôi mong đại đức sẽ thích dùng nó với kem và đường.

Tôi nếm thử một muỗng bất giác thốt lên:

-Thật là ngon tuyệt trần!

Khi đó lời tiên tri của Sư Phụ mới trở lại trong kư ức của tôi. Tôi lấy làm kinh ngạc mà thấy rằng nhiều năm trước đây, tinh thần Sư Phụ ḥa hợp với Thiêng Liêng, đă nh́n thấy sự liên hệ về nhân quả giữa các sự việc diễn biến sẽ xảy ra trong tương lai.

Nhóm chúng tôi lại rời Simla để đáp chuyến xe lửa đi Rawalpindi. Tại đây chúng tôi thuê một chiếc xe song mă để thực hiện một chuyến đi bảy ngày đến Srinagar, thủ phủ tỉnh Kashmir. Qua ngày thứ hai của cuộc hành tŕnh bằng xe song mă lên miền bắc, chúng tôi đă thấy xuất hiện dăy Hy Mă Lạp Sơn trước cặp mắt kinh ngạc của chúng tôi. Những bánh xe bằng sắt của chiếc xe song mă kêu rít lên treen con đường lót đá nóng như thiêu đốt dưới ánh mặt trời, nhưng phong cảnh vĩ đại của miền núi đưa tâm hồn chúng tôi lên một trạng thái lâng lâng thoát tục. Auddy bèn thưa với Sư Phụ:

-Bạch Tôn Sư, con rất hân hạnh mà được thưởng thức toàn vẹn phong cảnh huy hoàng này bên cạnh tôn sư.

Lời nói đó của Auddy làm cho tôi khoái chí v́ tôi cảm thấy vai tṛ hướng dẫn của tôi có vẻ quan trọng. Sri Yukteswar đọc được tử tưởng của tôi v́ Sư Phụ day qua tôi và nói nhỏ:

-Con đừng quá vui thích như thế! Auddy ít thưởng thức cảnh đẹp hơn là muốn t́m một góc nào đó để được tự do hút thuốc lá.

Tôi cảm thấy dội ngược, và nói nhỏ lại:

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ quá nghi ngờ chăng? Con không tin rằng Auddy lại nghiện thuốc lá.

Tôi vừa nói vừa nh́n Sư Phụ một cách do dự v́ người thường hay nói đâu trúng đó. Sư Phụ cười nói:

Được rồi. Thầy sẽ không nói ǵ với Auddy. Nhưng con sẽ thấy rằng đến trạm ngừng tới đây, Auddy sẽ không để lỡ cơ hội.

Chiếc xe ngựa ngừng trước một trạm nghỉ. Khi người ta dắt ngựa đi uống nước, Auddy liền thưa:

-Bạch tôn sư, lát nữa xin tôn sư cho phép con ngồi đàng trước với người đánh xe. Con muốn ngồi ngoài để hứng luồng gió cho mát.

Sư Phụ gật đầu và quay qua nói nhỏ với tôi:

-Nó không phải muốn hứng gió mà là thèm thuốc lá.

Chiếc xe song mă lại lăn bánh kêu rít lên trên đường lộ. Đôi mắt Sư Phụ long lanh sáng, người bảo tôi:

-Con hăy tḥ đầu qua cửa sổ và nh́n xem Auddy hứng gió!

Tôi vâng lời và lấy làm ngạc nhiên mà nh́n thấy Auddy đang thở ra những ṿng khói tỏa theo chiều gió. Tôi liền xin lỗi Sư Phụ:

-Bạch Sư Phụ, Sư Phụ luôn luôn nói có lư. Auddy thật sự đang thở khói mù mịt như ống khói tàu!

Tôi chắc là bạn tôi đă xin một điếu thuốc của người đánh xe, v́ tôi biết y không có mua thuốc lá tại Calcutta.

Chúng tôi dong ruỗi trên đường núi gập ghềnh khúc khuỷu và một viễn ảnh huy hoàng đẹp đẽ diễn ra trước mắt chúng tôi đến tận chân trời: sông rạch, thung lũng, vực thẳm, sườn núi cheo leo. Chúng tôi ngủ đêm trong những quán trọ đơn sơ ở dọc đường và tự nấu lấy các bữa ăn. Sri Yukteswar đặc biệt chăm nom bữa ăn của tôi và bảo tôi phải uống nước chanh. Tuy hăy c̣n yếu, tôi lấy lại sức lần lần mặc dù đi du lịch bằng xe ngựa chạy trên đường núi không lấy ǵ làm tiện nghi cho lắm.

Tâm hồn chúng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi khi chúng tôi đến gần trung tâm tỉnh Kashmir, một nơi đất lành với những hồ sen rộng lớn, những vườn hoa mọc trên mặt nước, những chiếc du thuyền màu mè sặc sỡ, con sông Jhelum với vô số những chiếc cầu vồng, những đồng cỏ xanh tươi điểm lác đác những đóa hoa rừng được bao bọc chung quanh bằng dăy Hy Mă Lạp Sơn hùng vĩ!

Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện hàng cầy cổ thụ có tàn che bóng mát và htuê pḥng tại một lữ quán hai tầng. Mùa hè năm ấy, tiết trời tuyệt đẹp, ban ngày th́ nóng, ban đêm hơi lạnh.

Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện Shankara, trong khi tôi đang ngắm nńn đạo viện trên đỉnh một ngọn núi mà nóc nhọn chỏ lên trên nền trời xanh biếc, th́nh ĺnh tôi rớt vào một trạng thái bằng an phúc lạc lạ thường. Dưới mắt tôi, đạo viện Shankara biến thành cái linh ảnh của mọt ngôi kiến trúc mà nhiều năm về sau tôi dùng làm tổng hành dinh Cơ Quan Thực Hiện Chân Ngă của tôi ở Mỹ Quốc. Khi tôi viếng thành phố Los Angeles lần đầu tiên và nh́n thấy ngôi biệt thứ này từ ngọn núi Washington, tôi liền nhận ra ngay ngôi nhà kiến trúc đồ sộ đă từng xuất hiện trong vô số những cơn linh ảnh của tôi.

Sau khi đă trải qua vài tuần lễ nghĩ hè ở tỉnh Kashmir, tôi phải trở về tỉnh Bengale nhân dịp tựu trường ở Serampore College. Sư Phụ c̣n ở lại Srinagar với Kanai và Auddy. Trước khi tôi lên đường, Sư Phụ nói cho tôi biết người sẽ bịđau nặng ở Kashmir. Tôi nói:

-Nhưng Sư Phụ đang dồi dào sức khỏe kia mà.

-Thậm chí, có lẽ Thầy cũng phải từ giă cơi trần.

-Ô, Sư Phụ!

Tôi vừa nói vừa thụp xuống chân người:

-Sư Phụ hăy hứa với con là không rời bỏ thể xác trong lúc này. Con sẽ không thể được nếu không có Sư Phụ.

Sri Yukteswar giữ im lặng nhưng nụ cười đầy vẻ từ ái của người làm tôi yên ḷng. Tôi bèn từ giă người một cách luyến tiếc.

Vài ngày sau khi tôi trở về đạo viện Serampore, tôi nhận được bức điện tín của Auddy, “Sư Phụ đau nặng.”

Tôi gửi một điện tín cho Sri Yukteswar, “Sư Phụ đă hứa không từ bỏ con. Sư Phụ đừng rời bỏ thể xác, nếu không con sẽ chết theo.”

Từ Kashmir, Sư Phụ gửi điện tín trả lời, “Sẽ y như điều con mong ước.”

Vài ngày sau đó, tôi nhận được thư của Auddy cho biết rằng Sư Phụ đă b́nh phục. Nửa tháng sau, khi Sư Phụ và các đệ tử đă về tới Serampore, tôi lấy làm buồn mà nhận thấy rằng Sư Phụ đă sụt cân rất nhiều.

Sri Yukteswar bịđau nặng để cứu chuộc những tội lỗi của các đệ tử! Phương pháp chuyển di bệnh tật là một điều mà các nhà đạo sĩ cao tay vẫn biết rơ. Một người khỏe mạnh có thể giúp đỡ một người yếu đuối bằng cách mang theo một đồ vật nặng thế cho y; cũng giống như thế, một bậc siêu nhân có tŕnh độ tiến hóa cao có thể làm nhẹ bớt gánh nặng thể chất hoặc tinh thần của các đệ tử bằng cách tự ḿnh gánh chịu lấy cái nghiệp quả của họ. Cũng như một người giàu chịu mất một ít tiền để trả nợ cho con cái y để cứu họ thoát khỏi hậu quả của những việc làm bất chánh, một vị tôn sư hy sinh một phần sức khỏe thể chất của ḿnh để làm nhẹ bớt những nỗi đau khổ bệnh tật của các đệ tử.

Người đạo sĩ Yogi biết cái bí thuật giao cảm trên cơi giới vô h́nh với một người b́nh thường, bởi thế bệnh của người này được truyền một phần hoặc tất cả sang thể xác của người Yogi. Một vị tôn sư đă đạt tới hợp nhất tâm linh với Chân Như Đại Thể của Vũ Trụ không c̣n bận tâm đến việc ǵ xảy ra cho cái thể xác bằng xương bằng thịt của ḿnh. Tuy rằng vịấy t́nh nguyện cho xác thân ḿnh nhuốm bệnh để giúp đỡ kẻ khác, tinh thần của người vẫn c̣n nguyên vẹn và không hề thương tổn, người lấy làm sung sướng mà có thể làm nhẹ bới nỗi khổ của kẻ khác.

Người tu sĩ đạt tới sự giải thoát tâm linh, biết rằng thể xác của ḿnh đă hoàn tất cái vai tṛ của nó; từ nay người có thể sử dụng nó bằng cách nào tùy ư. Sứ mạng của người ở trên thế gian là làm nhẹ bớt những nỗi khổ đau của nhân loại bằng mọi phương diện tâm linh, vật chất hay trí huệ; giúp đỡ bằng lời khuyên sáng suốt tốt lành, sức mạnh của ư chí, hay bằng việc chuyển di bệnh tật của người khác sang cho ḿnh. Một vị tôn sư đă hoạt động tự do trên cơi siên thức có thể tự làm cho ḿnh không c̣n biết cảm xúc những sự đau đớn của xác thân. Đôi khi người cũng t́nh nguyện chịu đựng sự đau đớn thể xác một cách can đảm để làm gương cho các đệ tử. Người Yogi hứng chịu sự đau khổ của kẻ khác về phần ḿnh, tức là thanh toán giùm cho họ những oan nghiệt nợ nần mà họ phải chịu theo định luật nhân quả: định luật này vốn hành động một cách máy móc theo phép số học và có thể được điều chỉnh một cách khoa học bởi v́ các bậc siêu nhân đă nếm mùi giải thoát.

Những định luật siêu nhiên không bắt buộc một vị tôn sư phải bịđau nặng nề để chữa khỏi bệnh cho người khác. Sự khỏi bệnh thường xảy ra bởi v́ vị tôn sư biết rơ các phương pháp chữa bệnh một cách nhiệm mầu mà không làm tổn đến sức khỏe của ḿnh. Tuy nhiên trong vài trường hợp rất hiếm, vị tôn sư v́ muốn thúc đẩy mau chóng sự tiến hóa tâm linh của các đệ tử, có thể t́nh nguyện hứng chịu lấy một phần nghiệp quả xấu của họ trên bản thân ḿnh.

Chính bằng cách đó mà đức Giê-Su đă t́nh nguyện cứu chuộc tội lỗi thế gian. Thánh thể của Chúa đáng lẽ không bao giờ có thể bị tử nạn trên thập tự giá nếu Ngài không có t́nh nguyện hợp tác với những định luật huyền bí về nhân quả trong vũ trụ. Ngài đảm nhiệm lấy cái khối nghiệp quả chung của toàn thể nhân loại và đặc biệt nhất là của các vị thánh tông đồ, đệ tử của Ngài, nhờ đó các vị này mới được tinh luyện và trở nên xứng đáng nhận lănh sự giác ngộ tâm linh siêu đẳng.

Chỉ có những bậc tôn sư đă giác ngộ mới có thể thực hiện sự chuyển di tôn sinh lực của ḿnh cho kẻ khác, hoặc hứng chịu lấy bệnh tật của kẻ khác trên xác thân ḿnh. Bí thuật chữa bệnh bằng phương pháp Yoga này thật là ngoài ṿng khả năng của kẻ thế nhân phàm tục, đối với họ nó lại là một điều không nên khuyến khích, bởi v́ một thể xác đau ốm bệnh tật là một chướng ngại cho sự công phu tưởng luyện. Các Thánh Kinh Ấn Độ đều nói rằng bổn phận đầu tiên của con người là giữ cho thể xác được mạnh khỏe, nếu không, tinh thần sẽ không thể bước vào trạng thái thiền định thâm sâu.

Tuy nhiên, một tinh thần dũng mănh có thể bất chấp những chướng ngại của thể chất để thực hiện sự giác ngộ tâm linh. Nhiều vị Thánh đă đạt tới mục đích đó mà khinh thường bệnh tật của thể xác. Thánh Francoise d’Assise trong một t́nh trạng ốm đau tuyệt vọng, đă thực hiện những cuộc chữa bệnh rất nhiệm mầu và thậm chí đă cải tử hồi sinh cho một người.

Tôi được biết một vị tưởng sĩ Ấn Độ bị chứng ung nhọt lở loét khắp cả nửa thân ḿnh, cùng với bệnh đái đường rất nặng đến nỗi xét về những trường hợp thông thường th́ vịấy không thể nào ngồi được hơn một khắc đồng hồ, nhưng tinh thần của người thật tinh tiến dũng mănh phi thường. Bằng một ư chí mănh liệt tưởng sĩ có thể ngồi thiền trong tư thế liên hoa suốt mười tám giờ mỗi ngày không gián đoạn trong trạng thái xuất thần nhập định. Về sau vị ấy thuật cho tôi nghe rằng:

Sau ba năm thiền định công phu, Ánh Sáng thiêng liêng tràn ngập vào thể xác bịnh tật của tôi mà trong cơn xuất thần say sưa mùi Đạo, tôi quên hẳn không c̣n cảm giác được nó nữa. Về sau, do ân phước thiêng liêng, cái thể xác của tôi đă hoàn toàn khỏi hết các bệnh tật.

Một trường hợp lịch sử về việc chữa khỏi bịnh một cách nhiệm mầu là của vua Baber (1983-1530), nhà sáng lập nên đế quốc Mogul ở Ấn Độ. Khi thái tử Humayun vướng phải một chứng bệnh hiểm nghèo thập tử nhất sinh, nhà vua trong cơn lo sợ bèn cầu nguyện Thiêng Liêng hăy để cho người nhuốm bệnh thay cho thái tử. Khi các vị y sĩ đă tuyệt vọng, thái tử Humayun đột nhiên b́nh phục một cách bất ngờ, nhưng Baber hoàng đế lại bịđau nặng và băng hà v́ một chứng bệnh giống như của thái tử. Về sau, thái tử nối nghiệp cha lên ngôi hoàng đế xứ Ấn Độ.

Nhiều người tưởng rằng một vị tôn sư chắc là phải có một sức khỏe phi thường như Hercules. Điều đó hoàn toàn không đúng. Một thể xác đau yếu không phải là một dấu hiệu chỉ rằng vị tôn sư không thể đắc Đạo, cũng như một sức khỏe tát biển dời non không phải là triệu chứng của sự giác ngộ tâm linh. Nói cách khác, sức khỏe của thể xác không phải là cái tiêu chuẩn để xét đoán sự giác ngộ thiêng liêng, người ta phải xét đoán một vị tôn sư ở ngay trên lănh vực tâm linh mà thôi.

Nhiều học giả Tây Phương tưởng lầm rằng một vị tôn sư là người giảng thuyết các vấn đề đạo lư, siêu h́nh bằng lời nói hay bằng sách vở. Trái lại, các bậc hiền triết đă nói rằng một vị tôn sư phải có thể đạt tới các trạng thái siêu thức tùy ư muốn, và ở trong trạng thái đại định một cách thường xuyên không gián đoạn. Chỉ có một băn lĩnh như thế mới có thể chứng tỏ rằng người hành giả đă chế ngự được mọi điều vô minh ảo vọng của trần gian.

Chỉ có những bậc Tôn Sư siêu thoát mới có thể đảm trách việc gánh chịu lấy nghiệp quả của các đệ tử. Sri Yukteswar chỉ bịđau nặng ở Kashmir sau khi đă được các đấng thiêng liêng cho phép giúp đỡ những đệ tử bằng các phương pháp lạ lùng đó. Ít có vị thánh nhân nào có đầy đủ minh triết như Sư Phụ tôi v́ người đă được tới sự ḥa hợp với Chân Như Đại Thể của vũ trụ.

Khi tôi tỏ ḷng ưu ái về sự gầy ốm và sụt cân của người, th́ Sư Phụ vui vẻ trả lời:

Trong cái họa ắt có cái phúc! Bây giờ nhờ gầy bớt Thầy đă có thể mặc cái áo lót của ḿnh hơi chật mà Thầy đă bỏ không mặc đến từ nhiều năm nay!

Tiếng cười vang với một âm thanh trong trẻo của Sư Phụ làm cho tôi nhớ lại lời nói của St. Francois d’Assise: “Một ông thánh buồn rầu là một ông thánh đáng thương hại.”








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 92 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:47am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



MỘT CUỘC HOÁN CẢI LẠ LÙNG


CHƯƠNG MƯỜI BẢY


-Với tư cách một người vợ hiền Ấn Độ, chị không phiền trách chồng chị, nhưng chị mong ước làm sao y từ bỏ những quan điểm duy vật của y. Y thường chế diễu những h́nh ảnh treo trong pḥng tham thiền của chị! Em hỡi, chị tin tưởng chắc chắn rằng em có thể giúp chị.

Roma, chị cả tôi, nh́n tôi với cặp mắt van lơn. Tôi đến viếng chị tôi trong giây lát tại nhà chịở Calcutta. Lời yêu cầu của chị làm tôi cảm động v́ chị tôi từ thuở nhỏ vẫn gây cho tôi một ảnh hưởng tâm linh rất lớn và từ khi mẹ tôi mất, chịđă cố gắng điền khuyết sự trống trải đó trong gia đ́nh bằng t́nh thương của chịđối với chúng tôi.

-Thưa chị, lẽ tự nhiên em sẽ cố gắng hết sức để giúp chị.

Tôi mỉm cười để t́m cách dẹp tan sự buồn rầu hiện trên gương mặt chị, trái hẳn với nét mặt b́nh thản và vui tươi hàng ngày.

Một năm trước đây, chị tôi đă yêu cầu tôi chỉ dẫn pháp môn thiền định và chị đă thực hiện những tiến bộ đáng kể trên con đường đó.

Bỗng nhiên tôi có ư kiến:

-Ngày mai tôi sẽ đi viếng thăm ngôi đền thờ đức Phật Mẫu Quan Âm ở Dakshineswar. Chị hăy cùng đi và cố gắng thuyết phục chồng chị cùng đi với chúng ta. Tôi cảm thấy rằng tại nơi đền miếu trang nghiêm đó, đức Phật Mẫu sẽ cảm động được ḷng y, nhưng chị đừng bao giờ hoàn y biết lư do hành hương này.

Chị tôi nhận lời với tấm ḷng tràn đầy hy vọng. Sáng ngày hôm sau, tôi sung sướng mà tháy chị và anh rễ tôi sẵn sàng lên đường. Trong khi chiếc xe ngựa của chúng tôi dong ruỗi trên đường lộ trực chỉ Dakshineswar, anh rễ tôi Satish Chandra Bóe buông lời diễu cợt những vị Chân Sư của quá khứ, hiện tại và vị lai. Tôi nhận thấy Roma khóc thầm trong im lặng. Tôi an ủi chị:

-Chị hăy can đảm lên. Đừng cho y có sự thỏa măn mà thấy chúng ta bực tức những lời nói chế nhạo của y.

Satish nói mỉa mai: -Mukunda, làm sao cậu có thể bị hấp dẫn bởi những kẻ bịp đời giả mạo đó? Chỉ nội một cái h́nh dáng của người tu sĩ cũng làm cho ta dội ngược; có người gầy đét như bộ xương, có người lại to béo như một con voi!

Tôi bất giác bật cười vang lên, sự phản ứng này làm cho Satish cụt hứng, y trở nên im lặng trầm ngâm. Khi cổ xe vừa tới Dakshineswar, y bèn đùa cợt và nói với giọng châm biếm:

-Có phải chăng cuộc đi chơi này có dụng ư để thuyết phục tôi?

Tôi không nói ǵ nhưng y lại nắm lấy tay tôi:

-Này ông tu sĩ, ông đừng quên thương lượng trước với nhà chùa về bữa cơm trưa nay của chúng ta!

-Bây giờ tôi phải tham thiền. Anh đừng lo lắng về bữa cơm trưa. Đức Phật Mẫu sẽ đảm nhiệm việc đó.

-Tôi không cần biết đức Phật Mẫu là ai! Nhưng cậu phải chịu trách nhiệm về bữa cơm trưa của tôi!

Giọng nói của Satish có vẻ như một sự hăm dọa. Tôi đi một ḿnh về phía hành lang có nhiều cột của ngôi đền thờ đức Quan Thế Âm. Tôi chọn một góc có bóng mát gần một cây cột và ngồi xếp bằng theo tư thế liên hoa. Tuy lúc ấy mới khoảng bảy giờ sáng nhưng ánh nắng mặt trời có vẻ sắp sửa nóng gắt. Quên hẳn sự vật ngoại cảnh, tôi sửa soạn ngồi thiền. Tâm trí tôi tập trung vào đức Phật Mẫu Quan Thế Âm mà vị tu sĩ Ramakrishna trước đây đă từng chiêm ngưỡng một cách nhiệt thành tại Dakshineswar. Đáp ứng những lời kêu gọi khẩn thiết của tu sĩ, pho tượng đức Phật Mẫu đă cử động và đă nói chuyện với tu sĩ ở chính ngôi đền này.

Tôi cầu nguyện, “Hỡi đức Phật Mẫu Quan Thế Âm từ bi vô lượng, hằng im lặng trong pho tượng bằng đá, ngài đă cử động, sinh hoạt trước sụ khẩn cầu của đức Ramakrishna, xin ngài cũng chiếu cố đến lời cầu xin khẩn thiết của con hằng khao khát được chiêm ngưỡng sự có mặt của ngài.”

Sự nhiệt thành của tôi mỗi lúc càng tăng, kèm theo với một sự bằng an thiêng liêng trong tâm hồn. Tuy nhiên, năm tiếng đồng hồ đă trôi qua, đức Phật Mẫu mà tôi ghi khắc h́nh dáng trong tư tưởng vẫn không đáp ứng; tôi cảm thấy hơi thất vọng. Đôi khi Thiêng Liêng cũng thử thách người hành giả bằng cách chậm ứng đáp lời cầu nguyện của y. Nhưng Ngài thường xuất hiện trước mắt người tu sĩ kiên tâm bền chí dưới một h́nh thức mà y thường chiêm bái. Người Gia Tô có khi nh́n thấy Phật Thích Ca hoặc đức Quán Âm, người Phật Giáo nh́n thấy đức Giê Su, hoặc thấy một vầng hào quang từ từ nới rộng, nếu sự chiêm bái của y khoác lấy một h́nh thức trừu tượng.

Tôi mở đôi mắt một cách luyến tiếc và thấy một vị tăng lữ bước tới đóng cửa đền vào giờ trưa như thường lệ. Tôi bèn đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi và bước ra sân. Mặt trời giữa trưa rọi thẳng xuống nền gạch như thiêu đốt làm cho hai bàn chân của tôi rất đau đớn như bị phỏng. Tôi vừa đứng giữa sân day mặt vào chánh điện vừa cầu nguyện một lần cuối cùng, "Ôi, Phật Mẫu, ngài đă không xuất hiện trong linh ảnh trước nhăn quang của con và bây giờ th́ ngài đă khuất dạng trong đền thờ, phía sau những cánh cửa đă đóng. Hôm nay con đặc biệt cầu xin Phật Mẫu độ cho anh rễ con.”

Lời cầu nguyện đó tức khắc được đáp ứng. Trước hết một luồng từ điển mát rượi, tốt lành từ trên đi xuống dọc theo xương sống sau lưng tôi, xuống dưới tận hai bàn chân và đem cho tôi một cảm giác khoan khoái dễ chịu vô cùng. Kế đó tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy ngôi đền dường như từ từ nới rộng đến những kích thước khổng lồ không thể tưởng tượng! Những cánh cửa vĩ đại từ từ mở rộng để lộ pho tượng đá của đức Phật Mẫu, lúc đầu c̣n đứng yên, sau đó ngài từ từ cử động và nở một nụ cười tiếp đón làm cho tôi say sưa ngây ngất. Hơi thở toát ra từ hai buồng phổi của tôi dường như bị thương hút bởi một thứ đá nam châm khổng lồ. Toàn thân tôi vẫn yên tịnh nhưng không phải là bất động.

Tâm thức tôi đắm ch́m trong cơn đại định, đă nới rộng một cách kinh khủng; tầm nhăn quang của tôi phóng ra xa đến mấy dặm đường cho thấy sông Hằng ở bên tay trái, phía bên mặt là khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswar. Những vách tường của ngôi đền đều trong suốt, xuyên qua đó tôi nh́n thấy ở đằng xa những người nông dân đang cầy bừa trên những đồng ruộng diễn ra tận chân trời. Tuy tôi không mất hơi thở và toàn thân tôi đắm ch́m trong một sự yên tĩnh lạ lùng nhưng tôi vẫn có thể cử động tay chân. Trong nhiều phút tôi chỉ mở mắt và nhắm mắt, trong cả hai trường hợp tôi đều nh́nh thấy rơ ràng khung cảnh bao quát của vùng Dakshineswar. Cũng như quang tuyến X, nhăn quang tâm linh soi thấu mọi vật v́ con mắt thần thông đặt trung tâm ở khắp chốn nhưng không đặt chu vi ở đâu cả. Tôi lại hiểu thêm một lần nữa, trong sân đền nóng như thiêu đốt dưới ánh nắng gắt của mặt trời, rằng chỉ khi nào con người không c̣n say mê vật chất, đắm ch́m trong cơn mơ ảo vọng của cuộc đời thế gian, chừng đó y mới co được sự sống trường cửu muôn đời.

Trong cái linh ảnh của tôi tại Dakshineswar, những vật duy nhất được phóng đại lạ thường là ngôi đền và pho tượng đức Phật Mẫu, kỳ dư đều hiện ra dưới h́nh dáng b́nh thường, tuy rằng bao bọc trong một ánh hào quang lạ lùng, với đủ tất cả các màu sắc rực rỡ của chiếc cầu vồng. Thể xác tôi dường như mỏng như sương và sẵn sàng bay bổng! Hoàn toàn ư thức được cảnh vật ở chung quanh, tôi nh́n chung quanh tôi và thậm chí bước đi vài bước mà không làm gián đoạn giây phút huyền diệu đó. Bên ngoài các bức tường của ngôi đền th́nh ĺnh tôi thấy anh rể tôi ngồi dưới bóng mát của một cây đại thọ. Tôi theo dơi một cách dễ dàng gịng tư tưởng của y: bầu không khí thiêng liêng của ngôi đền làm cho y có đôi chút giảm bớt những ư nghĩ trần tục nhưng y lại có ư nghĩa oán trách tôi. Tôi bèn quay lại pho tượng khổng lồ của đức Quán Thế Âm:

-Bạch Phật Mẫu! Xin Ngài hăy cứu độ tâm linh cho anh rể con!

Pho tượng từ trước vẫn câm lặng bèn thốt ra những lời này, “Lời cầu nguyện của con đă được đáp ứng.”

Tôi sung sướng nh́n Satish. Dường như một giọng nói bí mật nào đă cho y biết rằng y đang chịu ảnh hưởng của một quyền năng thiêng liêng, y bèn đứng dậy và đi tới ngôi đền. Hầm hầm nét mặt, y đến gần tôi với hai bàn tay nắm chặt.

Cái linh ảnh thiêng liêng liền biến mất. Tôi không c̣n nh́n thấy đức Phật Mẫu: ngôi đền lúc năy vấn toàn lớn vĩ đại, nay đă trở lại b́nh thường và không c̣n trong suốt nữa. Một lần nữa thân thể tôi lại quằn quại dưới những tia nắng gắt của mặt trời. Tôi lao ḿnh vào bóng mát của dăy hành lang nhiều cột. Satish bèn giận dữ đuổi theo tôi. Tôi nh́n đồng hồ, lúc ấy vừa đúng một giờ trưa! Cái linh ảnh thiêng liêng đă kéo dài đúng sáu mươi phút.

-Thằng ngốc! Anh rể tôi la lên. Thế là mày vẫn ngồi khoanh tay khoanh chân ở một chỗ suốt sáu tiếng đồng hồ không nhúc nhích! Tao bắt gặp mày tại trận đó nhé! Bữa cơm trưa của tao đâu? Bây giờ đền đă đóng cửa, mày đă không dặn trước cho họ nấu cơm, thế là chúng ta phải ngồi trơ mơm ra đây phải không?

Sự xuất hiện của Đức Quan Thế Âm trong linh ảnh của tôi lúc này hăy con làm cho tôi say sưa ngây ngất. Tôi bèn đáp:

-Đức Phật Mẫu sẽ cho chúng ta ăn no.

Satish nổi cơn thịnh nộ đến cực điểm:

-Đây là lần chót, tao muốn xem thấy đức Phật Mẫu dọn cơm cho chúng ta ăn mà không cần có sự thỏa thuận của nhà chùa.

Y vừa nói dứt lời th́ một vị tăng lữ đi ngang qua sân đền và đến gần chúng tôi:

-Con hỡi, ta đă nh́n thấy ánh hào quang hiện trên gương mặt con trong những giờ tham thiền vừa rồi. Sáng nay, khi các con vừa đến, ta cảm thấy cần để phần cơm dành cho bữa trưa của các con. Thật là trái luật lệ nhà chùa mà mời khách dùng bữa khi họ không dặn trước, tuy vậy ta cũng vui ḷng dành một ngoại lệ cho các con.

Tôi cảm ơn vị tăng lữ và nh́n Satish thẳng vào đôi mắt y. Sự cảm xúc làm cho y đỏ mặt và cúi đầu. Khi một bữa ăn thịnh soạn được dọn ra cho chúng tôi, thậm chí có cả xoài ngon và trái mùa, tôi nhận thấy ông anh rể tôi chỉăn lấy lệ nhưng tâm hồn y vơ vẩn ở đâu đâu. Y có vẻ đắm ch́m trong cơn suy tư thâm trầm. Trong chuyến trở về Calcutta, Satish ḷng đă lắng dịu, nh́n tôi như có ư xin lỗi. Nhưng y vẫn lẳng lặng không nói ǵ kể từ khi vị tăng lữ mời chúng tôi dùng cơm trưa, việc này có cái tác dụng như một phép mầu nó đảo lộn tất cả những ư nghĩ duy vật của y.

Ngày hôm sau, tôi đến thăm chị tôi. Chịđón tiếp tôi một cách nồng nhiệt và nói:

- Này em, thật là một phép lạ! Tối hôm qua, Satish đă khóc trên đầu gối của chị. Y vừa khóc vừa nói: “Em yêu quí, anh thật là sung sướng vô bờ bến mà thấy rằng Mukunda đă thành công trong ư định muốn hoán cải anh. Anh sẽ sửa chữa lại tất cả những điều lầm lỗi của anh đối với em. Kể từ nay, buồng ngủ của chúng ta sẽ dành riêng cho sự cầu nguyện mà thôi, c̣n em sẽ ngủ trong pḥng tham thiền nhỏ của em. Anh cảm thấy vô cùng hối tiếc mà đă diễu cợt Mukunda. Anh sẽ cứu chuộc lại tội lỗi bằng cách sẽ giữ im lặng đối với Mukunda cho đến khi nào anh đă tiến bộ khá nhiều trên đường Đạo. Kể từ ngày nay, anh sẽ tôn thờ đức Phật Mẫu Quan Thế Âm và hy vọng một ngày kia sẽ được đức Phật Mẫu ban phước lành!”

Nhiều năm sau, tôi đến viếng anh rể tôi ở Delhi. Tôi lấy làm vô cùng vui sướng mà thấy y đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh khá cao, và đức Phật Mẫu đă hạ cố mà xuất hiện trong những linh ảnh của y. Trong những ngày tôi tạm trú tại nhà y, tôi nhận thấy Satish dùng phần lớn thời giờ mỗi đêm để tham thiền trong ṿng bí mật, dẫu trong những khi đau ốm và ban ngày c̣n phải làm việc tại văn pḥng.

Đó là câu chuyện lạ lùng của anh rể tôi, từ một người duy vật đă trở thành vị tu sĩ thánh thiện.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 93 of 1146: Đă gửi: 01 June 2010 lúc 11:48am | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



TÔI TRỞ THÀNH TU SĨ XUẤT GIA


CHƯƠNG MƯỜI TÁM


Kỳ thi Cử Nhân Văn Khoa của trường đại học Calcutta đă đến. Tôi không phải là một học tṛ chăm học, rất ít khi đi đến trường và chỉ học bài một cách hối hả, gấp rút vào giờ chót, vài ngày trước khi đi thi. Tuy vậy, do một sự may mắn lạ thường, tôi được ưu điểm về môn triết học và có đủ số điểm trung b́nh về các môn học khác.

Cha tôi không c̣n nỗi vui mừng nào lớn hơn khi nghe tin tôi thi đậu. Người nói:

-Thật cha không dám hy vọng rằng con sẽ thi đậu, Mukunda, con dành quá nhiều thời giờ gần bên Sư Phụ con ở đạo viện!

Trong nhiều năm, tôi không hề dám ước mong có ngày danh hiệu “Cử Nhân Văn Khoa” sẽ đi kèm đàng sau tên tôi. Tôi ít khi dùng danh hiệu ấy mà không nghĩ rằng đó là một ân huệ thiêng liêng ban cho tôi v́ một lư do bí ẩn nào đó mà tôi không được biết rơ.

Bạch Sư Phụ, cha con muốn con nhận một chức vụ trong Công ty Hỏa xa Bengal-Nagpur Railway nhưng con đă quyết liệt từ chối, tôi thưa với Sri Yukteswar một ngày nọ và tôi nói thêm một cách tuyệt vọng. Xin Sư Phụ hăy cho con làm lễ xuất gia.

Tôi nh́n Sư Phụ bằng cặp mắt van xin một cách khẩn thiết. Trong nhiều năm, Sư Phụ đă từ chối lời yêu cầu của tôi để đặt tôi trong một cuộc thử ḷng, nhưng lần này người vui vẻ nhận lời:

-Được rồi. Ngày mai Thầy sẽ làm lễ xuất gia cho con. Thầy rất vui mà thấy con vẫn kiên quyết mong muốn trở thành một tu sĩ. Đức Lahiri Mahasay vẫn thường nói: “Nếu ta không mời Thượng Đế vào nhà trong thời kỳ c̣n xuân xanh th́ Ngài sẽ không đến với ta vào lúc mùa đông của cuộc đời.”

-Bạch Sư Phụ, con không bao giờ quên mục đích ấy, là được xuất gia theo ḍng tưởng sĩ Sưami như Sư Phụ vậy.

Tôi mỉm cười nh́n Sư Phụ với tất cả tấm ḷng quí mến và nhớ đến một câu trong thánh kinh, “Người không lập gia đ́nh th́ lo việc Đạo và t́m cách làm vui ḷng Thượng Đế, c̣n người lập gia đ́nh th́ lo việc đời và t́m cách làm vui ḷng vợ nhà.” (Corinthiens, 1.7:32-33)

Tôi đă quan sát cuộc đời của nhiều bạn hữu đă từng lập gia đ́nh sau khi muốn theo đuổi một đời sống tâm linh. Đắm ch́m trong biển trần gian tục lụy với những nỗi lo âu vô bờ bến, họ đă quên hẳn chí nguyện công phu hành Đạo, tham thiền.

Ngày hôm sau là một trong những ngày đáng ghi nhớ nhất của đời tôi. Đó là một ngày hè sáng sủa đẹp trời vào tháng bảy năm 1914, vài tuần sau khi tôi nhận cấp bằng Cử nhan Văn Khoa. Trên bao lơn đjao viện ở Serampore, áo Sư Phụ nhuộm màu vàng sậm, tức màu áo cổ truyền của giới tưởng sĩ, một mảnh lụa trắng mới nguyên. Khi mảnh lụa đă khô ráo, Sư Phụ quấn nó trên ḿnh tôi để mặc vào cho tôi như biểu tượng của sụe dứt bỏ cuộc đời trần gian. Sư Phụ giải thích:

-Một ngày kia, con sẽ sang các nước Âu Mỹ, ở nơi đó người ta thích lụa hơn. Với ư nghĩa tượng trưng, Thầy chọn cho con manh áo lụa thay v́ manh áo vải theo truyền thống của các ḍng tu sĩ.

Bên Ấn Độ là nơi mà các tu sĩ đều lập nguyện thanh bần, một vị tu sĩ mặc ấo lụa là một cảnh tượng ít có. Tuy nhiên nhiều tu sĩ Yogi cũng mặc áo lụa v́ nó ǵn giữ những gịng từ điển của thể xác hơn là áo vải.

Trong dịp làm lễ cho một người trở thành một tu sĩ xuất gia, có nhiều lễ nghi phiền phức nhưng Sri Yukteswar vốn chủ trương giản dị tối đa trong mọi việc, đă miễn tất cả những nghi lễ đó và chỉ yêu cầu tôi chọn lấy một pháp danh. Người mỉm cười và nói:

-Thầy cho con cái đặc quyền tự ḿnh chọn lấy một pháp danh.

Sau một lúc suy nghĩ, tôi đáp:

-Pháp danh của con là Yogananda.

Danh hiệu này có nghĩa là “Phúc lạc (Ananda) sở đắc được nhờ bởi Hợp Nhất với Thiêng Liêng.”

-Được lắm! Kể từ nay con sẽ từ bở tên Mukunda Lal Ghosh và sẽ lấy pháp danh Yogananda thuộc ḍng tu sĩ Swami.

Tôi quỳ trước mặt Sư Phụ và khi tôi nghe Sư Phụ xướng pháp danh mới của tôi lần đầu tiên, ḷng tôi tràn ngập một nỗi niềm biết ơn sâu xa đối với người. Với một t́nh thương bao la, Sư Phụ đă cố gắng huấn luyện không ngừng để đào tạo chàng thanh niên Mukunda trở nên tu sĩ Yogananda.

Người tu sĩ Sưami thuộc về một ḍng tu cổ xưa do đức giáo chủ Shankara thành lập. Ḍng tu này đă trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ do một truyền thống liên tjuc gồm có các vị Tăng thống đạo hạnh cao thâm để duy tŕ sự nghiệp tâm linh của vị thủy tổ Shankara. Ḍng tu sĩ Swami chủ trương lập nguyện thanh bần, khiết bạch và vâng lời.

Cái lư tưởng phụng sự nhân loại, dứt bỏ mọi điều tham vọng và ái dục trói buộc cuộc đời với thế gian làm cho phần nhiều các tu sĩ Swami đảm trách lấy một công tŕnh cứu tế hay giáo dục ở Ấn Độ và đôi khi cũng ở ngoại quốc. Gjat bỏ tất cả mọi thành kiến về giai cấp, tôn giáo, màu da, nam mữ hay chủng tộc, một tu sĩ Swami hoàn toàn thấm nhuần lư tưởng bác ái đại đồng trong nhân loại. Người nêu cao một mục đích: đó là sự hoàn toàn hỗn hợp với Tinh Thần. Dù trong lúc tỉnh giấc hay khi ngủ mê, tâm thức của người tu sĩ luôn luôn thấm nhuần tư tưởng: “Ta là Chân Ngă, hay Chân Như Phật Tánh,” bởi đó vị tu sĩ Swami tuy thân c̣n ở nơi trần thế nhưng ḷng đă thoát tục và không c̣n vướng bận chuyện trần gian. Chỉ khi đó người mới xứng đáng với danh hiệu của người, v́ danh từ Phạn Ngữ Swami có nghĩa là: người đang t́m cách hợp nhất với Đại Ngă hay Chân Như Phật Tánh. Lẽ tự nhiên cũng cần nói thêm rằng không phải tất cả cát tu sĩ Swami đều đă đạt tới cái lư tưởng tối cao đó một cách đồng đều nhau.

Sri Yukteswar vừa là một tu sĩ Swami lại vừa là một người Yogi. Người tu sĩ Swami xuất gia theo ḍng tu truyền thống của đức giáo chủ Shankara, không hẳn phải là một người Yogi. Người Yogi là người tu luyện theo một pháp môn nhất định dắt dẫn tới sự ngộ Đạo hay giao cảm với Thiêng Liêng; y có thể la người độc thân hay có gia đ́nh, tu tại gia hay xuất gia. Người tu sĩ Swami noi theo con đường luận thuyết triết lư và từ bỏ thế gian: c̣n người Yogi thực hành một pháp môn được qui định một cách chặt chẽ nhằm mục đích chủ trị thể xác lẫn tinh thần và đưa linh hồn đến mục đích giải thoát. Ở mỗi thế kỷ pháp môn Yoga đă từng đem đến cho Ấn Độ những bậc siêu nhân đă đắc đạo giải thoát.

Trái hẳn với người thuwofng, một người Yogi chân chính có thể sống ngoài thế gian mà vẫn trung thành với lư tưởng tối cao của ḿnh. Thật là một điều cao quí mà làm tṛn những bổn phận thế gian, đồng thời chủ trị những dục vọng ích kỷ thấp hèn để nhằm mục đích trở nên một khí cụ hoạt động có ư thức và thuận theo Thiên Ư.

-Những ngày cuối cùng của Ananta sắp đến, y sẽ không c̣n sống được bao lâu nữa!

Những lời nói nầy vang dội trong trí tôi một buổi sáng, khi tôi đang đắm ch́m trong cơn thiền định. Ít lâu sau khi tôi xuất gia theo ḍng tu sĩ Swami, tôi trở về quê quán ở Gorakhpurr để thăm nhà và tạm trú tậ nha của anh tôi. Một cơn bệnh bất ngờ làm cho anh tôi phải nằm liệt giường, tôi săn sóc anh tôi hết ḷng.

Lời báo điềm gở kể trên làm cho tôi rất buồn. Tôi cảm thấy không thể ở nán lại Gorakhpur để chứng kiến một cách bât lực cơn hấp hối của anh tôi. Trước lời xét doán gay gắt của cha tôi, tôi rời khỏi Ấn Độ bằng chuyến tàu đầu tiên khởi hành sang Miến Điện rồi vượt biển Trung Hoa để sang Nhật Bản. Tôi bước chân lên hải cảng Kobé và lưu trú tại đây vài ngày. Trong ḷng buồn bực, tôi không cảm thấy có hứng thú để đi ngoạn cảnh.

Trên đường về Ấn Độ, tàu ghé bến Thượng Hải. Bác sĩ Misra, y sĩ trên tàu, đưa tôi đi dạo phố ngắm cảnh. Tôi có dịp viếng những cửa tiệm để mua ít quà lạ đem về biếu thân nhân và bạn bè. Tôi mua mônt món quà bổn xứ cho Ananta. Người chủ tiệm Trung Hoa vừa đưa cho tôi món quà mới mua, tôi liền đánh rơi xuống đất và nghẹn ngào kêu lên:

-Anh tôi đă mất rồi!

Bác sĩ Misra nh́n tôi với một nụ cười hoài nghi:

-Đại đức chớ vội bi quan, để chờ xem có tin ǵ không đă.

Khi tàu cặp bến Calcutta, tôi cùng lên bờ với bác sĩ Misra. Em út tôi, Bisnu, đă đợi tôi trên bến. Tôi liền nói trước:

-Anh biết rằng Ananta đă từ trần. Em hăy nói trước mặt bác sĩ đây cho biết xem anh mất vào ngày nào.

Bishnu liền nói đúng ngày mà tôi mua món quà biếu cho Ananta ở Thượng Hải. Bác sĩ Misra liền nói:

-Lạ thật! Nhưng chúng ta không nên loan tin nầy, kẻo các giáo sư lại thêm một năm học thần giao cách cảm vào chương tŕnh ban Y Khoa vốn dĩ đă nặng nhọc lắm rồi!

Khi tôi về đến nhà, cha tôi ôm chầm lấy tôi một cách nồng nhiệt khác thường:

-Con đă về!

Cha tôi nói một cách thân ái. Hai gịng lệ chảy xuống hai bên g̣ má cha tôi. B́nh nhật không hề biểu lộ t́nh cảm ra ngoài, người chưa bao giờ tỏ ra với tôi những cử chỉ yêu mến như thế. Tuy nhiên bề ngoài có vẻ nghiêm nghị, người có bên trong một quả tim ưu ái của một người mẹ. Trong gia đ́nh, người đóng một vai tṛ song đôi của bậc phụ mẫu.

Ít lâu sau khi Ananta từ trần, Nalini, em gái tôi, được cứu thoát khỏi nanh vuốt của Tử Thần v́ em được chữa khỏi bệnh một cách nhiệm mầu. Trước khi kể lại chuyện này, tôi xin nói vài lời về cuộc đời của em gái tôi.

Từ thuở nhỏ, tôi và em gái tôi vẫn không thuận nhau. Tôi là một thiếu nhi rất gầy ốm, nhưng Nalini th́ lại c̣n gầy hơn nữa! Do bởi một thứ “mặc cảm” vô ư thức nào đó mà những nhà phân tâm học có lẽ nhận biết được dễ dàng, tôi thường hay trêu ghẹo em tôi về h́nh htù gầy đét như bộ xương của nó, và em tôi cũng trả đũa lại tôi với một sự thất thà ngây ngô của tuổi thơ ấu. Đôi khi mẹ tôi cũng can thiệp vào những cuộc gây gỗ giữa chúng tôi và kéo lỗ tai tôi v́ tôi là nah mà không chịu nhường nhịn em gái.

Thời gian trôi qua, Nalini được cha mẹ tôi đính hôn cho một viên y sĩ trẻ tuổi ở Calcutta tên Panchanon Bose. Chàng rễ được một món tiền hồi môn dồi dào chắc hẳn là để bù trừ lại việc y phải cưới một cô vợ gầy đét như vậy!

Hôn lễ được cử hành rất long trọng. Tối hôm ấy tôi cũng có mặt cùng với một nhóm bạn bè thân quyến vui vẻ tề tựu trong pḥng khách nhà chúng tôi ở Calcutta. Chàng rể ngồi trên ghế dài lót nệm thêu chỉ vàng óng ánh, c̣n Nalini ngồi bên cạnh với một chiếc áo cưới tuyệt đẹp, nhưng than ôi, chiếc áo tân hôn vẫn không thể nào che kín những khía cạnh xương xẩu của cô dâu. Tôi bước lại ngồi gần bên ông em rể mới của tôi và mỉm cười với y một cách thân t́nh. Y chỉ mới nh́n thấy mặt Nalini lần đầu tiên khi cử hành hôn lễ vào sáng ngày hôm ấy, và lúc ấy y mới biết số phần của y phải gặp một người vợ như thế nào trong cuộc sống lứa đôi.

Cảm thấy ḷng ưu ái của tôi đối với y, chàng rể mới đưa mắt ám chỉ Nalini và kề tai tôi hỏi nhỏ:

- Cái đó là cái ǵ vậy?

Tôi đáp:

- Cái đó, thưa bác sĩ, là một bộ xương để cho ông khám nghiệm.

Cả hai chúng tôi đều phát tiếng cười vang trước cử tọa đông đảo gồm quan khách hai họ, sau khi đă cố nín cười mà không được!

Trong những năm kế đó, bác sĩ Bose đă chinh phục được ḷng ưu ái của gia đ́nh chúng tôi và thường được mời đến nhà xem bệnh mỗi khi trong gia đ́nh có người đsau ốm.

Chúng tôi đă trở nên đôi bạn thân và thường nói đùa với nhau về cô em gái tôi. Một hôm em rể tôi tâm sự với tôi:

-Vợ em thật là một trường hợp y khoa kỳ lạ. Em đă thử tất cả mọi thứ bổ dưỡng như dầu gan cá thương, bơ, sữa, mạch nha, mật ông, cá, thịt, trứng gà và nhiều thứ thuốc bổ khác. Rốt cuộc vẫn không mập hêm ra chút nào cả.

Chúng tôi lại cùng nhau cười lớn.

Vài ngày sau đó tôi đến nhà em rể tôi. Tôi không có ư định ở lại lâu và định rời khỏi nhà mà không cho Nalini biết có tôi đến. Khi tôi vừa ra đến cửa th́ tôi nghe giọng nói thân mật của em gái tôi:

- Anh ơi, hăy ở lại. Lần này anh sẽ không trốn thoát. Em có chuyện muốn nói với anh.

Tôi bước lên pḥng của em tôi và ngạc nhiên thấy em rưng rưng nước mắt:

- Anh hỡi, chúng ta hăy quên đi mọi hiềm khích thuở xưa! Em biết rằng từ nay anh đă theo con đường xuất gia tầm đạo và em cũng muốn được như anh.

- Anh đă trở nên lực lưỡng khỏe mạnh như vậy. Anh có thể giúp em chăng?

Kế đó em tôi nói tiếp với niềm hy vọng: Em rất yêu chồng em, nhưng ảnh lúc nào cũng tránh né em, làm em rất tủi thân. Em lo trau dồi tâm tính và công phu tu niệm, nhưng phải chăng em phải chịu gầy ốm và vô duyên bạc phước suốt cuộc đời?

Lời khẩn cầu của em tôi làm tôi rất cảm động. Tôi cảm thấy thương xót cho số phận của em tôi. Một hôm Nalini yêu cầu tôi nhận em làm đệ tử. Em nói:

- Anh hăy thử thách em bằng cách nào tùy ư. Từ nay em chỉđặt đức tin nơi Thượng Đế chớ không c̣n tin tưởng ở thuốc men.

Nói đoạn, em tôi mở nút những chai thuốc bổ trút sạch tất cả xuống máng xối.

Để thử đức tin của em, tôi dặn em hăy kiêng cử ăn thịt, cá và trứng, và chỉ dùng toàn là rau trái mà thôi. Khi Nalini đă ăn chay trường trong nhiều tháng, không ngại nhiều nỗi khó khăn và đă theo đúng những qui luật khác của tôi đưa ra, tôi mới trở lại thăm em. Tôi nói:

-Em đă tôn trọng và tuân theo những qui luật của đời sống tâm linh, phần thưởng của em đă sắp đến!

Tôi mỉm cười và nói một cách trào phúng:

- Em tôi muốn trở nên mập béo như d́ Tám nhà ḿnh không, d́ không c̣n thấy hai bàn chân của d́ từ nhiều năm nay.

- Ôi thôi! Em chỉ muốn được như anh vậy thôi.

Tôi bèn long trọng tuyên bố:-Do ân huệ thiêng liêng, cũng như tôi vẫn luôn luôn nói sự thật, điều ước vọng mà tôi tuyên bố ngày hôm nay sẽ trở thành sự thật.

(Thánh kinh Ấn Độ nói rằng người nào có thói quen nói lên sự thật có thể đạt được quyền năng làm cho lời nói của ḿnh được thể hiện theo ư muốn. Điều mong ước mà y thốt ra với tất cả tâm hồn sẽ được thực hiện.)

-Kể từ bây giờ, thân thể của em sẽ chịu một sự thay đổi nhiệm mầu và trong ṿng một tháng em sẽ cân nặng cũng như tôi.

Điều mong ước mà tôi nói lên bằng tất cả tâm hồn đă được đấp ứng. Trong ṿng một tháng, Nalini đă cân nặng bằng tôi! Những nét tṛn trĩnh duyên dáng làm cho thân h́nh em trở nên vô cùng hấp dẫn và chồng em càng yêu em thêm. Cuộc hôn nhân của em bắt đầu trong những điều kiên không toàn hảo nay đă trở thành một cuộc hôn nhân lư tưởng.

Từ Nhật Bản trở về, tôi nghe nói rằng trong khi tôi vắng mặt, Nalini bịđau chứng bịnh thương hàn. Tôi bèn hối hả đến nhà em th́ lấy làm kinh ngạc mà thấy em ḿnh gầy đét như bộ xương và đang mê man bất tỉnh. Em rể tôi thuật lại rằng lúc em c̣n tĩnh th́ em luôn luôn lập đi lập lại những lời này, “Nếu Mukunda có mặt ở nhà th́ tôi đă không bịđau đến nỗi này.” Y cho biết:

-Tôi và các bác sĩ khác đều tuyệt vọng. Bệnh kiết lại xuất hiện cùng một lúc với bệnh thương hàn!

Tôi bèn cầu nguyện với tất cả tấm ḷng thành và áp dụng những phương pháp chữa bệnh theo khoa Yoga. Bệnh kiết của Nalini liền dứt hẳn nhưng bác sĩ Bose lắc đầu với một vẻ mặt u ám và nói:

-Điều ấy chỉ có nghĩa là vợ em không c̣n chút máu nào nữa.

Tôi liền trấn tĩnh y với một giọng quả quyết:

-Em tôi sẽ hết bệnh. Trong bảy ngày cơn nóng sốt sẽ dứt hẳn.

Một tuần lễ sau tôi lấy làm mừng mà thấy Nalini mở mắt và nhận ra tôi. Kể từ lúc đó em đă lần lần b́nh phục. Khi em đă thấy khỏe hẳn và nặng cân trở lại như trước, than ôi, em lại phải bù trừ cơn bệnh ấy với một giá quá đắt: hai chân em đă bị liệt bại. Những y sĩ chuyen khoa người Anh và Ấn đều tuyên bố rằng em sẽ phải mang tật suốt đời.

Mệt mỏi v́ sự cố gắng mà tôi đă làm để cứu Nalini, tôi bèn đến Serampore để yêu cầu Sư Phụ giúp tôi. Sư Phụ động ḷng trắc ẩn về bịnh trạng nguy kịch của em tôi và nói:

-Em con sẽ sử dụng hai chân lại được vào cuối tháng này. Con bảo nó hăy đeo một hạt trân châu nặng hai carat, không được đục lỗ và cột dính trên da thịt bằng một sợi dây.

Tôi qú dưới chân Sư Phụ để tạ ơn mà mừng rỡ trong ḷng.

-Bạch Sư Phụ, lời nói của Sư Phụ cũng đủ chữa khỏi bệnh cho em con, tuy nhiên, nếu Sư Phụ muốn, con sẽ kiếm mua một hột trân châu ngay lập tức.

Sư Phụ gật đầu bằng ḷng rồi diễn tả h́nh dáng và tính t́nh Nalini, tuy người chưa biết mặt em gái tôi bao giờ.

Tôi trở về Calcutta và mua một hột trân châu cho Nalini. Một tháng sau, hai chân liệt bại của em tôi đă hoàn toàn được chữa khỏi.

Em tôi yêu cầu tôi chuyển đạt sự biết ơn sâu xa của em cho Sư Phụ. Sư Phụ nghe tôi đưa tin lành về trong cơn im lặng và khi sửa soạn kiếu từ, người nói:

-Các bác sĩ đều nói rằng Nalini sẽ không bao giờ có con. Con hăy chuyển đạt cho em con bức thông điệp của thầy, rằng trong vài năm, nó sẽ sanh hai đức con gái.

Quả thật sau đó vài năm, Nalini sanh một đứa con gái và nhiều năm kế đó, lại sanh thêm một đứa con gái nữa. Em tôi vui mừng vô hạn và nói:

-Sư Phụ của anh đă ban phước lành cho gia đ́nh em và cả nhà chúng ta. Một bậc siêu nhân như thế thật là thánh hóa cả xứ Ấn Độ do bởi sự hiện diện của người. Anh hỡi, anh hăy thưa với Sư Phụ rằng nhờ anh mà bây giờ em cũng xin làm đệ tử của Người để được thụ giáo theo phép môn Krisya Yoga.




                                       Sri Yogananda

                                    Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt



Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 94 of 1146: Đă gửi: 14 June 2010 lúc 7:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde




Á CHÂU HUYỀN BÍ



Chương Một


1. Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên Với Các Vị Chân Sư


Trên thế giới ngày nay, những sách vở nói về các vấn đề huyền linh có rất nhiều, sau khi sưu tầm sự thật về những bậc làm cho tôi cảm thấy khích lệ tinh thần để tŕnh bày kinh nghiệm riêng của tôi về những đấng Chân Sư của Phương Đông.

Trong những chương sách này, tôi không có ư diễn tả một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào. Tôi chỉ đưa ra một tóm lược những kinh nghiệm cá nhân của ḿnh về các đấng Chân Sư, để tŕnh bày những chân lư căn bản trọng đại trong giáo lư của ngài.

Để kiểm điểm tập du kư này, tôi đă dùng mất nhiều thời giờ cũng dài bằng cái thời gian dành cho cuộc khảo cứu. Thật vậy, các Chân Sư nằm rải rác trên vùng lục địa rộng lớn, và những cuộc sưu tầm về đạo lư của chúng tôi diễn ra trên một phần lớn các xứ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư.

Phái bộ sưu tập của chúng tôi gồm mười một nhà khoa học nỗi lạc, đă từng dành một phần lớn cuộc đời ḿnh cho những công tŕnh sưu khảo. Chúng tôi đă tập thói quen không chấp nhận bất cứ chuyện ǵ mà không có sự phối kiểm chặt chẽ trước khi nh́n nhận việc ấy là đúng với sự thật. Khi đến tận nơi, chúng tôi hoàn toàn là những kẻ hoài nghi.

Nhưng bận về, chúng tôi hoàn toàn bị thuyết phục và tin tưởng đến nỗi ba người trong nhóm chúng tôi đă trở lại chỗ cũ, quyết định ở lại cho đến khi họ có thể sống cuộc đời của các Chân Sư và thực hiện những công tŕnh giống như của các ngài.

Những vị cao cả đă đem đến một sự giúp đỡ lớn lao trong công việc sưu tầm của chúng tôi, luôn luôn yêu cầu chúng tôi chỉ nhắc đến các ngài bằng những tên giả tạm, trong trường hợp chúng tôi viết hồi kư. Tôi sẵn ḷng tuân theo ư muốn của ngài.

Tôi chỉ tường thuật lại những việc đă phối kiểm, và dùng những danh từ hay những thành ngữ của chính những nhân vật mà chúng tôi đă gặp gỡ và sống chung hằng ngày trong cuộc hành tŕnh này.

Trong số những điều kiện tiên quyết được đặt ra cho sự hợp tác giữa chúng tôi với các ngài, có điều này bắt buộc chúng tôi phải tuân theo: Chúng tôi phải chấp nhận như một sự thật mọi việc ǵ xảy ra mà chúng tôi đă chứng kiến tận mắt. Chúng tôi không được đ̣i hỏi một sự giải thích nào trước khi đă đi sâu vào bên trong của một vấn đề, đă nhận được những lời chỉ giáo của các ngài, đă sống quan sát cuộc đời hàng ngày của các ngài.

Chúng tôi phải đi theo các Chân sư, sống với các ngài, và tự ḿnh quan sát mọi sự. Chúng tôi có quyền ở lại với các ngài bao lâu tùy ư, hỏi bất cứ điều ǵ, và đi sâu vào mọi vấn đề tùy ư muốn, rồi tự ḿnh rút lấy những kết quả đă thu lượm được. Sau đó, chúng tôi được tự do quyết định rằng những điều chúng tôi đă nh́n thấy là sự thật hay ảo ảnh.

Các ngài không bao giờ t́m cách ảnh hưởng đến sự xét đoán của chúng tôi bất cứ về vấn đề ǵ. Các ngài luôn luôn nghĩ rằng nếu chúng tôi quan sát chưa đúng mức để có được sự tin tưởng hoàn toàn, th́ các ngài không mong ước chúng tôi phải tin. Tôi cũng hành động y như vật đối với quư vị độc giả, và để cho độc giả có quyền tự do hay không tin những chuyện kể lại sau đây, tùy sở thích của mỗi người.

Chúng tôi đă sang Ấn Độ được chừng hai năm, và hằng ngày theo dơi những công việc sưu tầm, th́ một ngày nọ tôi gặp vị Chân sư mà tôi xin mệnh danh là "Tuệ Minh". Ngày ấy tôi đang đi dạo chơi đi qua các đường trong thành phố, th́ thấy có một đám đông làm cho tôi chú ư.

Một đám quần chúng đang vây chung quanh một người thuật sĩ, thuộc loại các nhà đạo sĩ đi ra bày tṛ ảo thuật mà bên xứ này có rất nhiều. Tôi bước đến gần nhà và ngay lúc đó tôi nhận thấy ở bên tôi một người đă trọng tuổi, với một phong độ khác thường, hẳn là không giống những người khác trong đám đông.

Người ấy nh́n tôi và hỏi và tôi sang Ấn Độ đă được bao lâu. Tôi đáp:

- Độ chừng hai năm.

Người ấy hỏi tiếp:

- Ông ấy là người Anh?

Tôi đáp:

- Không, tôi là người Mỹ.

Ngạc nhiên và thích thú mà gặp một người nói được tiếng mẹ đẻ của ḿnh, tôi mới hỏi người nghĩ sao về cuộc biễu diễn của người thuật sĩ. Người ấy đáp:

- À! Ở xứ này thường vẫn có những cuộc biểu diễn như thế. Người ta gọi họ là thuật sĩ, đạo sĩ hay pháp sư, cái đó tùy. Nhưng ở đằng sau những tṛ ảo thuật đó, có ẩn dấu một thiểu số người biết được mà thôi. Có ngày người ta sẽ nhận thấy cái hay của các tṛ ảo thuật đó.

Nhưng điều mà ông nh́n thấy chỉ là cái ảo ảnh của sự thật nguyên thủy. Việc đó đă từng gây lên nhiều tranh luận, nhưng các nhà tranh luận dường như chưa bao giờ nắm vững sự thật. Tuy nhiên, hẳn là phải có một sự thật ở đằng sau những cuộc biểu diễn đó.

Đến đây, chúng tôi chia tay từ biệt nhau và thỉnh thoảng mới gặp nhau trở lại trong bốn tháng sau đó. Kế đó, nhóm khoa học gia chúng tôi gặp phải một vấn đề khó khăn nó gây cho chúng ta nhiều nỗi lo âu quan trọng. Vài ngày sau đó, tôi gặp lại Tuệ Minh. Người hỏi lư do những sự lo âu của tôi và nói với tôi về cái vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải.

Tôi lấy làm ngạc nhiên, v́ tôi chắc rằng không ai có thể biết ǵ ngoài vấn đề này ngoài ra nhóm thiểu số chúng tôi. Người có vẻ thông thạo về t́nh h́nh của chúng tôi đến nỗi tôi có cảm rằng người biết rơ tất cả vấn đề.

V́ lẽ vấn đề ấy đă không c̣n là một điều bí mật nữa, nên tôi thấy không có hại ǵ mà nói ra một cách tự nhiên, và đó là điều mà tôi đă làm. Khi đó, Tuệ Minh mới nói với tôi rằng người cũng biết ít nhiều về việc ấy và cố gắng giúp đỡ chúng tôi.

Một hai ngày sau đó, mọi việc đều được giải quyềt thỏa đáng, và mọi sự lo âu cũng đă tiêu tan. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên, nhưng không bao lâu việc ấy đă lui dần vào trong quên lăng và chúng tôi không c̣n nghĩ đến nữa.

Những vấn đề khó khăn khác lại xuất hiện, và tôi thường có thói quen đem ra bàn luật một cách thân mật với Tuệ Minh. Dường như mọi nỗi khó khăn của chúng tôi liền biến mất khi tôi vừa đem ra giải quyết với người khách lạ.

Tôi bèn giới thiệu các bạn tôi cho Tuệ Minh, nhưng tôi không hề nói ǵ với họ về nhân vật lạ lùng này. Vào thời kỳ đó, tôi đă đọc nhiều sách do ngài chọn, lựa, nói về những truyền thống của nền văn minh Ấn Độ, và tôi đă hoàn toàn tin tưởng rằng một vị Chân sư. Sự ṭ ṃ của tôi đă bị kích thích, và sự thích thú của tôi ngày càng tăng thêm.

Một buổi trưa chúa nhật, tôi cùng đi dạo với đức Tuệ Minh trên một cánh đồng, th́nh ĺnh ngài chỉ cho thấy một con bồ câu đang bay lượn trên đầu chúng tôi. Tuệ Minh nói rằng con bồ câu đang t́m kiếm ngài. Ngài bèn đứng yên một chỗ không cử động, và con bồ câu liền đáp xuống đậu trên một cánh tay của ngài đưa ra.

Đức Tuệ Minh nói rằng con chim này đem đến cho ngài một thông điệp của người em trai hiện đang sống ở miền bắc Ấn. Người này cũng là một vị cao sĩ cùng phái, nhưng chưa đạt tới tŕnh độc tâm thức siêu đẳng để có thể tiếp xúc với ngài bằng thần giao cách cảm. Bởi vậy, người mới phải dùng đến phương tiện giao thông này.

Về sau, chúng tôi mới biết rằng các các đấng Chân Sư có quyền năng thần giao cách cảm trực tiếp với nhau cấp thời bằng phương pháp di chuyển tư tưởng; các ngài c̣n cho biết rằng phương pháp này sử dụng một năng lực c̣n tế nhị tinh anh hơn là điện khí hay vô tuyến điện.

Tôi bắt đầu đưa ra những câu hỏi. Đức Tuệ Minh chứng minh cho tôi thấy rằng ngái có thể kêu giọi loài chim đến với ngài và điều khiển hướng bay của chúng, rằng các loại bông hoa, thảo mộc nghiên về phía ngài khi ngài đi qua, và các loài thú dữ đến gần ngài mà không sợ sệt.

Có lần ngày phân rẽ hai con sơn cẩu đang tranh mồi và cấu xé lẫn nhau. Khi ngài bước đến gần, chúng nó bèn thôi không cắn nhau nữa, nằm đặt xuống cái đầu chúng một cách đầy tin tưởng trên hai bàn tay ngài đưa ra, rồi mỗi con lại tiếp tục ăn phần thịt của ḿnh một cách ôn ḥa. Ngài lại c̣n bắt lấy một con đưa cho tôi cầm trên hai tay.

Sau đó ngài nói:

- Cái Phàm Ngă hữu h́nh hữu loại không thể làm được những việc này, mà đó là cái Chân Ngă thâm diệu hơn, cái mà anh gọi là Thượng Đế. Đó chính là Thượng Đế toàn năng ngự trong tôi, và trong tất cả muôn loài, chính ngài biểu hiện xuyên qua tôi để làm những việc ấy. Do tôi, do cái Phàm Ngă hữu loại của tôi, tôi không thể làm ǵ được.

Tôi phải hoàn toàn gạt vỏ cái phàm ngă bên ngoài, để cho cái Chân Ngă bên rong tự biểu lộ vàhành động. Bằng cách phát biểu toàn vẹn t́nh Bác Ái của thượng Đế, tơi có thể làm những điều mà anh ta đă thấy. Bằng cách để cho t́nh Bác Ái biểu lộ xuyên qua ḿnh và ban răi cho tất cả chúng sinh muôn loài, ta sẽ cảm hoá được thú dữ và không một tai họa nào có thể đến với ta nữa.

Vào thời kỳ đó, tôi thụ huấn hằng ngày về đạo lư với đức Tuệ Minh. Có khi ngài th́nh ĺnh xuất hiện trong pḥng tôi, dẫu rằng tôi đă khoá cửa lại cẩn thận. Lúc đầu, việc này làm cho tôi hoang mang bỡ ngỡ, nhưng không bao lâu tôi thấy rằng ngài coi sự thông cảm của tôi về đó như là một chuyện đương nhiên.

Tôi đă quen với những cách xử sự của ngài với tôi mở cửa cho ngài ra vào tự do. Sự tin cậy của tôi có thể làm cho ngài hài ḷng. Tôi không thể hiểu tất cả những lời dạy của ngài và cũng không thể hoàn toàn chấp nhận những lời dạy đó, dẫu rằng tôi đă chứng kiến nhiều sự việc lạ lùng ở phương Đông, tôi cũng không bao giờ có thể chấp nhận mọi việc ngay lập tức. Tôi phải trải qua nhiều năm suy tư thiền định để nhận thức được ư nghĩa tâm linh sâu xa về cuộc đời của các đấng Chân Sư.

Các Chân Sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng năng lực của t́nh thương che chở các ngài. Các ngài nuôi dưỡng t́nh Bác Ái đến mức độ làm cho muôn loài trong cơi thiên nhiên đều cảm mến và trở nên thân thiện với các ngài.

Loài rắn và thú dữ cắn chết hàng ngàn người mỗi năm ở Ấn Độ. Nhưng các Chân Sư biểu lộ t́nh Bác Ái bao la từ trong nội tâm các ngài đến mức nào làm cho loài rắn và thú dữ đều trở lên vô hại.

Đôi khi các ngài sống trong những vùng rừng thiêng nước độc, hoang vu hẻo lánh nhất. Đôi khi các ngài cũng nằm phơi ḿnh trước cổng một làng để che chở làng ấy khỏi những tàn phá của thú dữ. Sau đó các ngài đứng dậy đi an toàn và làng ấy được b́nh yên vô sự.

Trong trường hợp cần thiết, các ngài đi trên mặt nước, đi trên lửa đỏ, đi ngao du trong cơi vô h́nh, và làm nhiều việc lạ lùng khác mà chúng ta cho là nhiệm mầu, và chỉ có những người có quyền phép thần thông mới có thể làm được.

Có một sự giống nhau lạ lùng giữa cuộc đời và giáo lư của đức Jesus với cuộc đời và giáo lư mà đấng Chân Sư từng nêu gương cho chúng ta hằng ngày. Người ta cho rằng con người không thể nào lấy bánh ḿ trực tiếp từ kho Tiên Thiên Khí tự nhiên của Trời Đất, thắng đoạt Tử Thần, và làm những phép lạ như Đức Jesus đă làm trong kiếp hóa thân của ngài.

Các đấng Chân Sư vẫn thường làm những việc ấy. Tất cả các ngài cần dùng hàng ngày, như đồ thực vật, áo quần và tiền bạc, các ngài đều rút lấy từ trong khoTiên Thiên Khí tự nhiên. Các ngài đă thắng đoạt sự chết và có nhiều vị trong các ngài sống đă trên năm trăm năm. Chúng tôi có đủ bằng chứng quyết định do những tài liệu riêng của các ngài cung cấp.

Vài môn phái ở Ấn Độ dường như xuất xứ từ giáo lư Huyền Môn của các ngài. Các Chân Sư chỉ gồm có một thiểu số rất ít ở Ấn Độ. Bởi đó, số đệ tử của các ngài lẽ ra là tất nhiên rất có giới hạn. Nhưng các ngài có thể tiếp xúc với một số rất nhiều đệ tử trong cơi vô h́nh. Dường như phần lớn công việc của các ngài là hoạt động trong cơi vô h́nh để giúp đỡ các linh hồn thụ cảm đối với giáo lư Huyền Môn.

Giáo lư của Chân Sư Tuệ Minh là nền tảng của công việc mà chúng tôi sẽ thực hiện nhiều năm về sau, trong cuộc hành tŕnh lần thứ ba của chúng tôi sang các xứ ấy. Cuộc hành tŕnh này kéo dài đến ba năm rưỡi, trong thời gian đó chúng tôi luôn luôn sống chung với các đấng Chân Sư, cùng di chuyển khắ nơi với các ngài, cùng quan sát cuộc đời và công việc hằng ngày của các ngài ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư.



2. Ư Nghĩa Ngày Lễ Giáng Sinh



Cuộc hành tŕnh lần thứ ba của chúng tôi có mục đích sưu tầm về đạo lư. Trước ngày lên đường, các đoàn viên chúng tôi họp tại Potal, một làng nhỏ Ấn Độ ở một nơi hẻo lánh. Tôi đă viết thư báo tin trước cho đức Tuệ Minh rằng chúng tôi sắp đến, nhưng không nói ǵ về mục đích cuộc hành tŕnh có bao nhiêu người đi.

Khi đến nơi chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức Tuệ Minh và các cộng sự viên đă chuẩn bị sẵn cho toàn bộ phái đoàn và biết rơ các kế hoạch của chúng tôi từng chi tiết. Đức Tuệ Minh đă từng giúp đỡ chúng tôi rất nhiều ở miền Nam Ấn, nhưng từ giờ phút này trở đi th́ sự trợ giúp của ngài không sao kể hết. Tất cả sự thành công của cuộc hành tŕnh đều mà do nơi ngài mà có, và cũng nhờ các linh hồn cao quư mà chúng tôi gặp gỡ giữa đường.

Chúng tôi đến Potal, khởi điểm của cuộc hành tŕnh, chiều ngày Hai mươi hai tháng Mười hai năm 1894. Ngày lên đường, cũng là ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời chúng tôi, là sáng ngày lễ Giáng Sinh.

Tôi không bao giờ mà quên lời mà đức Tuệ Minh nói với chúng tôi sáng ngày hôm ấy. Tuy rằng ngài không tự hào có một nền học vấn của người Anh và không hề rời khỏi phương Đông, ngài vẫn c̣n nói trôi chảy tiếng Anh. Ngài nói:

- Hôm nay là ngày lễ Giáng Sinh. Ngày này nhắc nhở với các bạn sự Giáng Sinh của đức Jesus ở Nazareth, tức đấng Christ. Chắc hẳn các bạn nghĩ rằng ngài giáng thế để chuộc tội cho nhân loại và ngài là vị Trung Gian cao cả giữa các bạn và Chúa Trời.

Các bạn cầu nguyện đức Jesus như một vị cứu rỗi để xin tội giùm với một đấng Chúa Trời nghiêm khắc, đôi khi thịnh nộ, ngồi chễm chệ ở một nơi nào đó trên cơi trời. Tôi không biết cơi trời đó ở nơi nào, nếu không phải là ở trong lương tri của các bạn.

Dường như các bạn chỉ có thể đạt tới Chúa Trời do sự trung gian của đức Con ngài, một vị ít nghiêm khắc và dễ cảm mến hơn, đấng Cao Cả mà tất cả chúng ta gọi là đấng Trọn Lành, mà ngày hôm nay là ngày kỷ niệm Giáng Sinh của ngài xuống thế gian.

Đối với chúng ta, ngày này c̣n có ư nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó không chỉ nhắc nhở ngày giáng trần của đức Jesus, mà c̣n tượng trưng sự xuất hiện của đấng Christ trong lương tri của mỗi người. Ngày lễ Giáng Sinh có nghĩa là ngày nhập thế của đức Chưởng Giáo đă giải thoát nhân loại khỏi mọi sự hệ luỵ và giới hạn của vật chất.

Đấng Cao Cả ấy giáng trần để chỉ cho chúng ta con đường đưa đến Thượng đế toàn năng, toàn thông và toàn trí... Khi một người đă tiếp xúc được với nguồn cảm hứng thiêng liêng ấy bằng lời nói, phải chăng những người khác cũng có thể tiếp xúc với cái nguồn cảm hứng đó, nó vẫn hằng có trong Vũ trụ càn khôn?

Khi một người đă nhận được sự cảm hứng thiêng liêng, nó không phải là vật sở hữu riêng của y. Nếu y bắt được cái nguồn ân huệ đó rồi giữ lấy cho riêng ḿnh, y đâu c̣n chỗ trống để tiếp nhận thêm những ân huệ khác nữa? Muốn thọ lănh thêm nhiều hơn nữa, ta phải cho đi những ǵ ḿnh đă nhận được. Nếu ta giữ lấy để làm của riêng, th́ sẽ có sự bế tắc, ứ đọng ngay.

Điều này giống như cái bánh xe vận chuyển bằng sức nước trong một nhà máy thủy điện. Nếu th́nh ĺnh cái bánh xe giữ lại cái ḍng nước đă làm cho nó vận chuyển và xoay ṿng, th́ nó sẽ bị ngưng trệ ngay lập tức. Nó phải để cho nước chảy lưu thông tự do th́ mới có trở lên hữu dụng và tạo nên điện lực.

Con người cũng vậy. Thượng đế ban cho, y phải phổ biến những tư tưởng tốt lành ấy mới có thể hưởng thụ được điều lợi ích của nó. Y phải để cho mỗi người có dịp hưởng thụ và phổ biến những tư tưởng thiêng liêng để tiến triển tâm linh cũng như vậy.

Theo ư tôi, tất cả những ǵ đến với đức Jesus đều là một sự ban ân trực tiếp của Thượng đế, cũng như đó là trường hợp của tất cả các bậc đại giáo chủ. Thật ra, phải chăng tất cả mọi sự đều xuất xứ từ Thượng Đế, và điều ǵ mà một người đă làm th́ những người khác cũng có thể làm được? Các bạn hăy tin rằng Thượng Đế luôn luôn muốn tự biểu lộ và sẵn sàng làm như vậy, như ngài đă làm đối với đức Jesus và những vị khác.

Chúng ta chỉ cần có sự mong muốn để cho ngài hành động. Thật ra, chúng ta tin rằng tất cả đều b́nh đẳng. Tất cả mọi người đều là một. Mỗi người đều có thể thực hiện những công tŕnh giống như của đức Jesus và sẽ thực hiện những công tŕnh ấy khi thời giờ đă điểm. Không có ǵ là bí mật hay huyền diệu trong những công tŕnh đó. Sự bí mật chỉ có trong cái ư niệm vật chất mà loài người đă gán cho các sự việc ấy.

Các bạn đến với chúng tôi với ít nhiều sự hoài nghi. Chúng tôi tin rằng các bạn sẽ ở lại đây để nh́n xem tận mắt chúng tôi làm như thế nào. C̣n những công việc làm của chúng tôi và kết quả của những việc ấy ra sao, th́ các bạn có trọn quyền tự do chấp nhận hay bác bỏ tùy ư...



3. Người Có Quyền Năng Xuất Quỷ Nhập Thần



Chúng tôi giă từ Potal đi Asmah, một làng nhỏ hơn ở cách độ Một trăm năm mươi cây số. Đức Tuệ Minh chỉ định hai người thanh niên để dẫn đường cho chúng tôi. Cả hai nguời này đều là người Ấn Độ tốt tướng và khỏe mạnh. Họ đảm trách việc hướng dẫn cuộc hành tŕnh mộc cách thông thạo và hoàn toàn chu đáo mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ.

Để tiện việc, tôi xin gọi họ bằng những tên tạm là Dật Sĩ và Nê Bưu. Chân Sư Tuệ Minh cao tuổi hơn họ rất nhiều. Dật Sĩ là người đứng ra chỉ huy cuộc hành tŕnh, c̣n Nê Bưu, phụ tá của y, coi sóc việc thừa hành mọi mệnh lệnh. Đức Tuệ Minh kiếu từ chúng tôi và nói:

- Các bạn hăy đi trước, đă có Dật Sĩ và Nê Bưu dẫn đường. Tôi sẽ ở lại đây thêm vài ngày, v́ với phương tiện di chuyển hiện tại, các bạn phải mất ít nhất là năm ngày mới đến trạm sắp tới cách ở đây một trăm năm mươi cây số. Tôi không cần mất nhiều thời giờ như vậy để vượt qua chặng đường ấy, nhưng tôi sẽ có mặt ở đó để đón các bạn.

Các bạn hăy để lại đây một người đoàn viên để quan sát và kiểm điểm mọi việc có thể xảy ra. Các bạn sẽ có rộng thời giờ, và người đoàn viên ở lại sẽ theo kịp các bạn trong mười ngày là cùng. Chúng tôi chỉ yêu cầu y quan sát mà thôi, và tường thuất lại cho các bạn những ǵ y đă thấy.

Chúng tôi bèn lên đường. Dật Sĩ và Nê Bưu lănh trách nhiệm điều khiển mọi việc một cách hoàn toàn chu đáo. Mọi việc đều được giải quyết êm đẹp vào đúng lúc với một tiết điệu và một sự đúng đắn toàn hảo. T́nh trạng đó vẫn tiếp tục trong ba năm rưỡi suốt thời gian của cuộc hành tŕnh.

Dật Sĩ có một bản tính thanh cao thiên phú, dễ thương, làm việc hữu hiệu, không khoe khoang, khoác lác. Y ra tất cả mọi chỉ thị với một giọng ḥa nhă, và được tuân theo một cách đúng đắn và kịp thời nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên. Từ lúc đầu, chúng tôi đă nhận thấy tính hạnh tốt đẹp của y và chúng tôi vẫn thường khen ngợi.

Nê Bưu cũng có một đức hạnh tốt đẹp không kém, và dường như c̣n có khả năng hiện diện ở khắp nơi. Luôn luôn b́nh tĩnh, y có một năng suất lạ lùng, với một khả năng suy gẫm và hành động rất vững vàng, chắc chắn. Mỗi người đều đă nhận thấy khả năng đó của y, và chúng tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở đến.

Qua ngày thứ năm của chuyến đi này, vào độ bốn giờ chiều, chúng tôi đến làng Asmah. Như đă hẹn trước, đức Tuệ Minh đă có mặt tại đó để đón chúng tôi. Quư vị độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi đến đây do một con đường duy nhất có thể đi được và bằng những phương tiện di chuyển mau chóng nhất.

Chỉ có những bưu tín viên thiện nghệ người bản xứ, đi luân phiên nhau từng chặng đường và đi suốt ngày đêm mới có thể đi mau hơn. C̣n đây là một người mà chúng tôi cho là đă có tuổi và tuyệt đối không thể nào đi mau hơn chúng tôi trên một quăng đường dài một trăm năm chục cây số, nhưng lạ thay, người ấy lại đến trước chúng tôi và có mặt tại chỗ. Trong cơn thắc mắc, lẽ tự nhiên chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rất nhiều điều, và ngài trả lời như sau:

- Khi các bạn sắp sửa lên đường, tôi có nói rằng tôi sẽ có mặt tại đây để đón các bạn, và tôi đă đến đây. Tôi xin đặc biệt lưu ư các bạn về điểm này là con người vốn toàn năng khi y tiến hóa trong cái chân lănh vực của ḿnh. Y không c̣n bị giới bạn trong thời gian và không gian. Khi y tự biết ḿnh, không cần phải lê gót chân chậm chạp dọc theo đường trong năm ngày để vượt qua một trăm năm chục cấy số.

Trong cái địa hạt chân thật của y, trong khoảng khắc con người có thể vượt qua mọi quăng đường dầu xa bao nhiêu. Chỉ mới lúc năy đây, tôi c̣n ở làng Potal mà các bạn đă từ giă ra đi cách đây năm ngày. Thể xác tôi vẫn c̣n nằm yên tại đó. Người đoàn viên mà các bạn đă để lại Potal sẽ nói cho các bạn biết rằng tôi đă nói chuyện với y cho đến gần bốn giờ chiều, khi ấy tôi nói rằng tôi đi đón các bạn, v́ chắc các bạn đă gần đến nơi.

Người đoàn viên ấy hăy c̣n thấy thể xác bất động của tôi ở đó. Tôi chỉ làm như vậy để cho các bạn thấy rằng chúng tôi có thể dời thể xác để gặp lại các bạn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Dật sĩ và Nê Bưu cũng có thể di chuyển bằng cách đó như tôi. Nhưng nhờ vậy các bạn sẽ hiểu rơ hơn rằng chúng tôi cũng vẫn là những người thường, cũng xuất thân từ một nguồn gốc như các bạn. Không có ǵ bí mật cả.

Chúng tôi chỉ phát triển những năng lực mà Thượng Đế toàn năng đă ban cho tất cả chúng ta. Thể xác tôi nằm tại chỗ cũ cho đến chiều tối. Kế đó, tôi sẽ đem nó về đây, và người đoàn viên nọ cũng sẽ ra đi cùng một con đường của các bạn. Y sẽ đến đây vào đúng lúc. Chúng ta sẽ chỉ có một ngày, rồi đi đến một làng nhỏ cách đây chừng một ngày đường.

Chúng ta sẽ trở lại đây để đón người đoàn viên nọ và để nghe y tường thuật lại mọi việc. Chúng ta sẽ tụ họp lúc chiều nay tại nhà trọ tạm thời chúng ta hăy chia tay.

Chiều đến, chúng tôi tề tựu đông đủ tại nhà trọ. V́ thời tiết lạnh trên miền núi nên chúng tôi để cửa pḥng khép kín. Th́nh ĺnh đức Tuệ Minh xuất hiện trong pḥng mà không cần mở cửa, và nói:

- Các bạn vừa thất tôi xuất hiện trong gian pḥng này bằng một cách mà người ta gọi là nhiệm mầu. Nhưng sự thật, không có ǵ là mầu nhiệm cả. Để tôi làm một cuộc thí nghiệm nhỏ mà các bạn sẽ tin bởi v́ các bạn có thể nh́n thấy tận mắt.

Mời các bạn hăy bước lại gần. Đây là một cái ly nhỏ đựng nước mà các bạn vừa múc ở suối lên. Một cục nước đá nhỏ li ti đang tượng h́nh ở giữa ly nước. Các bạn hăy nh́n xem nó càng lớn dần do sự kết nạp thêm nhiều cục nước đá khác. Và bây giờ th́ tất cả ly nước đều đông đặc. Tại sao vậy? Đó là v́ tôi duy tŕ trong chất Tiên Thiên Khí những phân tử trung ương của chất nước cho đến khi chúng đông đặc lại.

Nói một cách khác, tôi đă hạ thấp những rung động của chúng đến mức làm cho chúng trở thành nước đá, và những phân tử chung quanh cũng đều đông đặc lại cho đến khi tất cả đều trở thành một khối nước đá. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho một ly nước uống, một bồn nước tắm, một cái ao, hồ, biển và toàn thể các đại dương trên quả địa cầu.

Nhưng việc ǵ sẽ xảy ra? Phải chăng tất cả sẽ đông đặc lại, nhưng v́ mục đích ǵ? Không v́ mục đích ǵ cả. Bởi nguyên động lực nào? Đó là sự vận chuyển một định luật thiên nhiên, nhưng nhằm sự lợi ích ǵ? Không có lợi ích ǵ cả.

Nếu tôi vẫn cứ tiếp tục cho đến cùng, việc ǵ sẽ xảy đến? Sự phản ứng. Phản ứng vào ai? Vào tôi. Tôi biết rơ luật trời. Điều mà tôi gây ra sẽ dội ngược trở lại vào tôi cũng chắc chắn như là khi tôi gây nó ra vậy. Bởi đó, tôi chỉ gây những điều lành, và điều lành sẽ trở lại với tôi.

Các bạn thấy rằng nếu tôi cứ tiếp tục gây sự giá lạnh xung quanh tôi, sự đông giá sẽ phản ánh vào ḿnh tôi trước khi tôi kết thúc, và tôi sẽ bị chết cóng, đó là kết quả mà tôi gặt hái được do việc làm của ḿnh. Trái lại nếu tôi chỉ làm việc lành, tôi sẽ gặt hái kết quả của việc lành ấy một cách trường cửu.

Sự xuất hiện của tôi chiều nay trong gian pḥng này có thể giải thích một cách tương tự. Trong gian pḥng nhỏ của tôi ở, tôi đă nâng cao những rung động của thể xác tôi cho đến khi nó trở về chất Tiên Thiên Khí và tôi giữ nó ở đó.

Đó tức là tôi trả cái thể xác tôi lại cho thiên nhiên, là cái kho chứa đựng mọi tinh lực vật chất. Kế đó, do bởi ư chí thiêng liêng (Atma) tôi giữ cái thể xác tôi trong tư tưởng cho đến khi tôi hạ thấp những rung động của nó và để cho nó tượng h́nh trở lại ngay trong gian pḥng này mà bây giờ các bạn có thể nh́n thấy.

Có ǵ là bí mật đâu? Phải chăng tôi đă sử dụng cái quyền năng, hay cái định luật mà Thượng Đế đă ban cho tôi xuyên qua cái Chân Ngă linh diệu? Cái Chân Ngă đó phải chăng là anh, là tôi, là tất cả nhân loại? Có sự mầu nhiệm nào đâu? Quả thật là không có.

Các bạn vừa thấy những ǵ đă được thực hiện ở đây, và các bạn c̣n đang ngờ vực chính đôi mắt của ḿnh, tôi không trách các bạn điều đó. Tôi nh́n thấy trong tư tưởng các bạn có vài người đang nghĩ rằng đây chắc là một cuộc thôi miên.

Như vậy là trong số các bạn có người không tin rằng họ có thể sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Thượng Đế ban cho mà họ vừa thấy biểu lộ lúc chiều nay. Phải chăng họ tin rằng tôi đă chế ngự tư tưởng hay thị giác của họ? Phải chăng các bạn tin rằng tôi đă làm một cuộc thôi miên tập thể v́ tất cả các bạn đều thấy những ǵ xảy ra?

Các bạn có nhớ chăng trong Kinh Thánh có thuật lại rằng Đức Jesus đă từng xuất hiện trong một gian pḥng mà các cửa đều đóng kín? Tôi đă làm y như ngài. Các bạn có thể nghĩ rằng Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, lại cần phải dùng đến phép thôi miên hay sao? Ngài đă dùng những quyền năng mà Thượng Đế ban cho ngài, như tôi đă làm chiều nay. Tôi không có làm ǵ mà mỗi người trong các bạn đều không thể làm được.

Và không phải chỉ có các bạn mà thôi đâu. Mỗi người sinh ra trên thế gian này đều có những quyền năng tương tự. Tôi ước mong sao tất cả đều rơ ràng minh bạch trong tư tưởng của các bạn. Các bạn là những nhân vật có cá tính, chứ không phải là những người thụ động, vô tri giác. Các bạn có quyền tự do ư chí của ḿnh.

Đức Jesus không cần phải thôi miên ai cả và chúng tôi cũng thế. Các bạn hăy cứ nghi ngờ chúng tôi bao nhiêu tùy ư, cho đến khi nào các bạn đă dứt khoát tư tưởng. Nhưng bây giờ, th́ các bạn hăy gạt bỏ cái ư nghĩ về sự thôi miên, hoặc ít nhất hăy để yên nó một chỗ cho đến khi các bạn đă đi sâu vào vấn đề. Chúng tôi chỉ yêu cầu các bạn hăy giữ một tinh thần cởi mở...



4. Thuật Phân Thân



Cuộc di chuyển sắp tới của chúng tôi là một chuyến khứ hồi theo chiều ngang (chúng tôi c̣n trở về chỗ cũ trước khi tiến xa hơn nữa). Bởi đó chúng tôi để lại tại chỗ các đồ hành lư và sáng ngày hôm sau chúng tôi lên đường đi đến một làng nhỏ ở cách đó chừng ba mươi lăm cây số. Chỉ có Dật Sĩ đi theo chúng tôi.

Con đường ṃn rất quanh co, khúc khuỷu, và đôi khi rất khó theo dơi xuyên qua rừng rậm. Vùng này là một vùng núi non cheo leo hiểm trở, và con đường ṃn này dường như không có người đi.

Đôi khi chúng tôi phải mở đường đi xuyên qua những đám nho rừng. Mỗi lần chậm trễ, Dật Sĩ tỏ vẻ bực bội. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên v́ điều đó v́ y thường là người rất b́nh tĩnh trong mọi việc. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót trong khoảng thời gian ba năm rưỡi sống chung giữa chúng tôi, mà y đă mất sự b́nh tĩnh. Về sau chúng tôi mới hiểu lư do.

Chúng tôi đi đến mục tiêu ngay chiều hôm ấy, vừa mệt vừa đói, v́ chúng tôi đă đi suốt ngày, chỉ nghỉ có một lúc ngắn để ăn buổi trưa.

Nửa giờ trước khi mặt trời lặn, chúng tôi bước vào làng nhỏ, làng này có độ hai trăm dân cư. Khi họ nghe nói có Dật Sĩ đi theo trong đoàn du khách, tất cả dân làng già trẻ bé lớn, đem theo cả thú vật nhà, đều ra tiếp đón chúng tôi.

Tuy rằng chúng tôi là mục tiêu sự ṭ ṃ của dân làng, nhưng sau đó chúng tôi nhận thấy rằng sự chú ư của họ tập trung vài Dật Sĩ. Mỗi dân làng đều chào Dật Sĩ một cách tôn kính. Sau khi y đă nói vài lời, phần nhiều dân làng đều trở về với công việc hằng ngày của họ.

Dật Sĩ hỏi xem chúng tôi có muốn đi theo y chăng, trong khi người ta dựng lều cắm trại để nghỉ ban đêm. Năm người trong chúng tôi trả lời rằng họ muốn ở lại để nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc. Những người khác và vài dân làng đi theo Dật Sĩ đến tận ven rừng ở chung quanh làng.

Chúng tôi đi sâu vào rừng, và không bao lâu, chúng tôi thấy có một người nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên chúng tôi tưởng rằng đó là một xác chết, nhưng nh́n kỹ chúng tôi mới nhận thấy đó là tư thế nằm của một người đang ngủ chứ không phải là một tử thi. Gương mặt người ấy lại là Dật Sĩ, điều này làm cho chúng tôi lặng người v́ kinh hoàng!

Th́nh ĺnh trong khi Dật Sĩ bước đến gần, th́ thể xác ấy cử động và đứng dậy. Thể xác ấy và Dật Sĩ đứng đối diện với nhau trong một lúc. Không thể nào có sự lầm lẫn được nữa: Cả hai người đều là Dật Sĩ! Rồi bỗng nhiên, chàng Dật Sĩ đi theo chúng tôi biến mất, và chỉ c̣n có một người đứng trước mặt chúng tôi. Sự việc ấy diễn ra rất mau chóng, và điều lạ lùng là không ai hỏi điều ǵ cả.

Lúc ấy, năm người c̣n lại ở lại sau cũng vừa chạy đến nơi, mà không ai kêu họ đến. Về sau, chúng tôi hỏi tại sao họ đến nơi, th́ họ trả lời:

- Chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ nhớ lại rằng chúng tôi đang chạy đến đây với các anh. Chúng tôi không nhớ rằng có ai kêu chúng tôi đến. Chúng tôi chỉ thấy rằng ḿnh đang chạy, và chúng tôi chạy đă xa trước khi biết rằng ḿnh đang làm ǵ.

Một người trong chúng tôi kêu lên:

- Đôi mắt mở lớn đến nỗi tôi nh́n thấy cơi giới bên kia cửa Tử. Biết bao nhiêu điều mầu nhiệm lạ lùng được tiết lộ cho tôi, làm cho tôi không kịp suy nghĩ ǵ cả.

Một người khác nói:

- Tôi thấy toàn thể thế giới đă thắng đoạt được Tử Thần. Khi đó một câu trong sách hiện ra trong trí tôi một cách rơ ràng và sáng chói: Kẻ thù cuối cùng của loài người, Sự Chết, sẽ bị loại trừ. Phải chăng những lời này đă được thực hiện?

Chúng ta có một trí khôn rất tầm thường nhỏ nhen so với cái quan niệm lớn lao vĩ đại đó, tuy vậy nó thật là giản dị biết bao. Và chúng ta đă dám tự cho ḿnh là những khối óc thông minh tuyệt vời. Chúng ta chỉ là những phường trẻ con. Tôi bắt đầu hiểu những lời này: "Các ngươi phải tái sinh trở lại." Những lời này thiệt là chí lư xiết bao!

Độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên và ngơ ngác của chúng tôi. Đây là một người đă cùng đi với chúng tôi và giúp đỡ chúng tôi hằng ngày, người ấy lại có thể nằm phơi ḿnh trên mặt đất để bảo vệ cho một thôn ấp và đồng thời tiếp tục công việc phụng sự một cách chu đáo và toàn hảo ở một nơi khác.

Chúng tôi bị bắt buộc nhớ lại câu nói trong Thánh Kinh: "Người cao cả nhất trong các ngươi, là người nào dốc ḷng phụng sự kẻ khác." Kể từ khi đó, tất cả chúng tôi không ai c̣n sợ chết nữa.

Dân bổn xứ có thói quen đặt một xác người nằm trong rừng rậm trước một thôn ấp, khi mà trong vùng có nạn xâm lăng quấy nhiễu bởi những phần tử bất hảo đi hai chân hoặc bốn chân. Nhờ đó làng mạc khỏi bị trộm cướp hay thú dữ quấy phá, và được an toàn như ở giữa đô thị. Thể xác của Dật Sĩ hiển nhiên là đă nằm tại đó trong một thời gian rất lâu.

Đầu tóc của y đă mọc loạn xạ và có chứa những ổ chim, đó là một loại chim nhỏ đặc biệt của vùng này. Giống chim này đă làm tổ trên đầu y, nuôi những chim non cho đến khi chúng lớn lên và bay mất đi; đó là cái bằng chứng tuyệt đối về thời gian mà xác thân của Dật Sĩ đă nằm yên bất động tại đó.

Giống chim này rất nhát gan, mỗi cử động nhẹ cũng làm cho chúng dợ sệt và dọn ổ đi nơi khác. Điều này chứng tỏ rằng chúng đă đặt sự mến yêu và tin cậy vào nơi chúng đă làm tổ.

Giống cọp núi ăn thịt người gieo tại họa khủng khiếp trong đám dân làng đến nỗi đôi khi họ bỏ hết mọi sự chống cự và tin rằng định mệnh của họ là bị cọp ăn. Giống cọp này đột nhập vào làng xóm và chọn mồi để ăn thịt.

Chính ở trước một thôn ấp này, ở giữa chốn rừng sâu hoang vắng, mà chúng tôi nh́n thấy thể xác của một người khác cũng nằm dưới đất v́ mục đích bảo vệ xóm làng. Dân làng này đă bị cọp ăn thịt mất gần hai trăm người. Chúng tôi thấy một trong những con cọp này bước đi một cách vô cùng thận trọng ngang qua chân của thể xác nằm dưới đất.

Hai người trong chúng tôi quan sát cái thể xác này trong gần ba tháng. Khi họ rời khỏi làng, thể xác ấy vẫn c̣n nằm yên tại chỗ và không có một tai nạn ǵ xảy đến cho dân làng. Chính người này về sau đă tháp tùng với phái đoàn chúng tôi trong chuyến hành tŕnh sang Tây Tạng.

Đêm đó, trong trại chúng tôi có một sự xúc động mănh liệt đến nỗi không ai nhắm mắt ngủ được, trừ ra Dật Sĩ. Y ngủ thẳng giấc như một đứa trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng, một người trong chúng tôi ngồi dậy nh́n xem y ngủ, rồi lại nằm xuống và nói với người nằm bên cạnh:

- Anh hăy véo tôi một cái để xem có phải thật là tôi đang tỉnh giấc hay không!



5. Ngôi Đền Im Lặng



V́ chúng tôi có rất nhiều công việc phải hoàn thành trước khi vượt qua dăy Tuyết Sơn, nên làng Asmah là nơi căn cứ tốt nhất của chúng tôi. Người bạn mà chúng tôi đă để lại ở Potal để quan sát đức Tuệ Minh cũng đă về đến nơi. Y thuật lại rằng y đă nói chuyện với đức Tuệ Minh cho đến gần bốn giờ chiều ngày mà ngài hẹn có mặt tại chỗ đến tiếp đón chúng tôi ở Asmah.

Vào lúc đó đức Tuệ Minh nói rằng ngài phải đi ngay đến chỗ hẹn. Thể xác ngài bèn trở nên cứng đơ, nằm yên như người ngủ trên nệm. Ngài nằm trong tư thế đó độ chừng ba tiếng đồng hồ, cái thể xác trở lên lu mờ dần và biến mất. Đó là giờ phút mà đức Tuệ Minh tiếp đón chúng tôi vào buổi chiều tại quán trọ làng Asmah.

Mùa này chưa thuận tiện để cho chúng tôi vượt qua các truông núi. Ba người bạn cao cả của chúng tôi có thể vượt qua các đoạn đường núi một cách dễ dàng và mau chóng hơn chúng tôi nhiều, nhưng không có vị nào phàn nàn về sự chậm trễ này. Tôi gọi các vị ấy là cao cả, bởi v́ họ thất sự xứng đáng với danh từ ấy do đức hạnh của họ.

Tại Asmah, chúng tôi đă xuất hành nhiều lần đi ra các vùng chung quanh, có khi th́ đi với Dật Sĩ, có khi th́ đi với Nê Bưu. Mỗi lần như vậy, họ đều chứng tỏ được những đức tính quư báu. Một trong những chuyến ngao du này nhằm mục đích viếng thăm một làng trong đó có một ngôi đền gọi là đền Im Lặng.

Làng này gồm có ngôi đền và nhà cửa của những người giúp việc công quả trong đền. Trước kia, vùng này là nơi tọa lạc của một làng khác đă hầu như hoàn toàn bị tàn phá bởi các bệnh truyền nhiễm và loài thú dữ. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu cùng đi với chúng tôi và nói cho chúng tôi biết rằng thuở xưa kia khi các Chân Sư đến viếng thăm nơi này, các ngài chỉ thấy có một thiễu số lưa thưa những người c̣n sống sót trong số ba ngàn dân cư trong làng.

Các ngài săn sóc họ, và sau đó những thú dữ và bệnh tật đều biến mất. Những kẻ sống sót mới cầu nguyện rằng trong trường hợp họ được b́nh yên, họ sẽ xin lập công quả suốt đời và phụng sự trong bất cứ công việc nào do Thượng Đến sắp đặt. Các Chân Sư bèn ra đi, và về sau khi các ngài trở lại, các ngài thấy ngôi đền này dựng lên và những dân làng sống sót trước kia chăm lo việc công quả thờ phụng trong đền.

Đó là một ngôi đền rất đẹp, xây trên một ngọn đồi cao, ngự trị khắp vùng xung quanh. Đền xây bằng đá trắng và đă có từ sáu ngàn năm nay. Nó không bao giờ cần có một sự tu bổ nào.

Đức Tuệ Minh nói:

- Đây là ngôi đền Im Lặng, tức là nơi chỗ của Quyền Năng. V́ im lặng là đồng nghĩa với quyền năng, khi chúng ta đạt tới chỗ im lặng trong tư tưởng, chúng ta đến tại chỗ của quyền năng, nơi đó tất cả đều là sự hợp nhất, một quyền năng duy nhất, tức là Thượng Đế vậy.

Quyền năng hao tán là động, quyền năng tập trung là tĩnh. Khi ta tập trung mọi sức mạnh vào một trung tâm tinh lực duy nhất, chúng ta tiếp xúc với Thượng Đế trong im lặng. Chúng ta hợp nhất với Ngài và do đó hơp nhất với mọi quyền năng. Đó là cái gia tài thừa kế của mỗi con người: "Thượng Đế và tôi chỉ là một."

Phương pháp duy nhất để hợp nhất với quyền năng của Thượng Đế là tiếp xúc một cách ư thức với Thượng Đế. Điều này không thể thực hiện được từ bên ngoài, v́ Thượng Đế xuất phát từ bên trong nội tâm.

Chúng ta hăy từ bỏ ngoại cảnh để quay về sự yên tĩnh của nội tâm. Nếu không như vậy, chúng ta không thể hy vọng hợp nhất một cách ư thức với Thượng Đế. Chúng ta sẽ hiểu rằng quyền năng của Ngài cũng trong tầm tay chúng ta, và chúng ta sẽ luôn luôn sử dụng quyền năng ấy.

Chừng đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta hợp nhất với quyền năng của ngài và chúng ta sẽ cảm thông với nhân loại. Con người sẽ từ bỏ những ảo giác của ḷng tự ái, sẽ nhận thức được sự vô minh và hèn kém của ḿnh, và sau cùng sẽ sẵn sàng chịu học hỏi.

Y sẽ thấy rằng người ta không thể truyền dạy điều ǵ cho những kẻ kiêu căng tự phụ, và chỉ có những người có ḷng khiêm tốn nhỏ nhoi mới có thể hiểu được Chân Lư. Hai chân y sẽ đứng vững trên một nền tảng cứng rắn, y sẽ không c̣n hoang mang bấp bênh nữa, y sẽ có ư thức về sự quân b́nh và ḷng cương nghị...

Thượng Đế không nghe những lời cầu xin tuôn tràn như suối của chúng ta, cũng không nghe những lời kêu gọi thiết tha ầm ĩ lập đi lập lại nhiều lần một cách vô ích. Chúng ta phải t́m kiếm Ngài bằng cái Chân Ngă trong nội tâm, đó là sự liên lạc vô h́nh giữa ta với Ngài mà ta vốn có sẵn ở tự nơi ḿnh.

Ngài nghe lời kêu gọi của linh hồn chân thành cởi mở để tiếp đón ngài, nếu người cầu xin biết sùng kính ngài bằng tâm hồn và trong im lặng. Người nào tiếp xúc với Thượng Đế trong âm thầm sẽ nhận biết được quyền năng của Ngài do sự thực hiện được tất cả những điều mong ước của họ. V́ Thượng Đế công khai ban thưởng cho kẻ nào t́m kiếm Ngài trong chỗ thâm sâu kín của tâm hồn.

Trong một cơn linh ảnh hiện ra trước mắt đức Jesus trong băi sa mạc, ngài thấy "Các cơi Trời rộng mở" và thấu hiểu cái định luật "Biểu lộ" theo đó những ư niệm có sẵn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng sẽ xuất hiện ra để biểu lộ trong những h́nh thể sắc tướng.

Luật này được tiết lộ cho ngài một cách hoàn toàn, đến nỗi ngài thấy rằng ngài có thể biến đổi tất cả mọi h́nh thể bằng cách điều chỉnh những trạng thài tâm thức của ḿnh đối với chúng.

Trước hết ngài có ư muốn biến đổi những ḥn đá tảng thành bánh ḿ để ăn để dịu bớt cơn đói ḷng. Nhưng trong khi đó, ngài cũng tiếp nhận được sự diễn đạt đúng đắn về "Luật biểu lộ." Các viên đá tảng, cũng như tất cả mọi vật hữu h́nh, đều xuất xứ từ cái Chất Liệu của Tư Tưởng Thiêng Liêng, tức là Thượng Đế.

Chúng nó là những biểu lộ thật sự của Tư Tưởng của Ngài. Mọi vật mà ta mong muốn, nhưng chưa h́nh thành, vẫn có sẵn trong chất Tiên Thiên Khí, nó sẵn sàng cung cấp vật liệu cho cơ Sáng Tạo, sẵn sàng tự biểu hiện ra ngoài để thỏa măn mấy điều ước vọng của con người.

Sự cần dùng bánh ḿ dùng để chứng minh rằng cái chất liệu dùn để làm bánh ḿ vốn ở trong tầm tay của ta và có sẵn với những số lượng vô biên bất tận. Cái chất liệu đó, nó vốn là tinh hoa của mọi vật, có thể tự biến đổi thành đá tảng hay thành bánh ḿ.

Khi con người mong ước điều lành, sự mong ước của y cùng với một sự mong ước của Thượng Đế. Cho Chất Liệu Thiên Nhiên, hay Tiên Thiên Khí bao bọc chung quanh chúng ta, có chứa đựng một nguồn tài nguyên vô tận để làm thỏa măn tất cả mọi sự mong ước tốt lành.

Chúng ta chỉ cần tập sử dụng lấy những ǵ mà Thượng Đế đă sáng tạo ra trước cho chúng ta. Ngài muốn rằng chúng ta hăy sử dụng cái kho thiên nhiên đó để vượt qua mọi giới hạn vật chất của ḿnh và trở nên "Tự do trong sự sung măn..."





Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 95 of 1146: Đă gửi: 14 June 2010 lúc 7:55pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG HAI


1. Quyền Năng Sáng Tạo Và Tâm Thức Bồ Đề


Bận về, chúng tôi thấy có một số đông nhưng người lạ tề tựu ở làng Asmah. Họ đến từ những vùng chung quanh. Một số các vị Chân Sư đă tựu họp lại để sắp sửa đi hành hương đến một vùng hẻo lánh cách đó gần bốn trăm cây số.

Điều này làm chúng tôi ngạc nhiên, v́ chúng tôi đă đi xuất hành một chuyến về hướng ấy và nhận thấy rằng cách đấy một trăm hai mươi cây số, con đường ṃn đi ngay vào một băi sa mạc hoang vu.

Băi sa mạc này thật ra là một vùng cao nguyên bao phủ bởi những đồn cát di động luôn luôn dưới những cơn gió lớn, và ở đó cỏ cây rất thưa thớt. Bên kia đồng cát, con đường ṃn vượt lên những dăy núi nhỏ trong dăy Tuyết Sơn.

Chiều hôm đó, chúng tôi được mời cùng đi trong chuyến hành hương, và sẽ lên đường vào ngày thứ hai kế đó. Chúng tôi được cho hay trước rằng không cần đem theo những đồ hành lư nặng v́ chúng tôi sẽ c̣n trở về Asmah trước khi vượt qua dăy Tuyết Sơn.

Dật Sĩ và Nê Bưu dĩ nhiên là đă chuẩn bị tất cả mọi việc, và ngày thứ hai lúc trời c̣n chưa sáng, chúng tôi đă nhập bọn với ba trăm đoàn viên của nhóm người hành hương.

Phần nhiều những người này bị đau v́ những bệnh tật mà họ hy vọng sẽ được chữa khỏi trong chuyến đi này. Mọi việc đều trôi chảy êm đẹp cho đến ngày thứ bảy, trời th́nh ĺnh nổi lên một cơn giông băo dữ dội nhất mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ.

Trong ba ngày và ba đêm, những cơn mưa lũ rơi xuống không dứt, báo hiệu sắp đến mùa hè. Chúng tôi cắm trại ở một nơi cao ráo sạch sẽ, và cơn giông không gây cho chúng tôi một sự trở ngại nào. Chúng tôi lo ngại nhất là vấn đề tiếp liệu, v́ chúng tôi biết rằng một sự tŕ hoăn kéo dài sẽ rất bất tiện cho tất cả mọi người.

Thật vậy, những người này chỉ đem theo một số lương thực tối thiểu, vừa đủ dùng cho chuyến hành hương, và không có pḥng bị những trường hợp tŕ hoăn có thể xảy đến. Sự tŕ hoăn này lại càng nghiêm trọng gấp đôi, v́ chúng tôi không thấy có giải pháp nào khác hơn là quay trở về Asmah để tiếp tế lương thực.

Trong trường hợp này, chúng tôi phải vượt qua hai trăm cây số đường trường, mà phần lớn đi xuyên qua băi sa mạc như đă nói ở trên.

Sáng ngày thứ năm, mặt trời chói rạng trên bầu trời quang đăng, và chúng tôi quyết định lên đường. Nhưng người ta cho hay cho hay là tốt hơn chúng tôi nên đợi cho đường khô ráo và mực nước sông giựt xuống thấp, để chuyến đi được dễ dàng hơn.

Một người trong chúng tôi bày tỏ nỗi lo ngại chung của tất cả mọi người là lương thực sẽ cạn. Đức Tuệ Minh là vị đảm trách việc tiếp liệu, bèn nói với chúng tôi:

- Không cần phải lo ngại chi cả. Thượng Đế há chẳng săn sóc tất cả chúng sinh, lớn cũng như bé, và chúng ta há chẳng phải là chúng sinh của ngài hay sao? Các bạn hăy nh́n xem những hột giống lúa ḿ này. Tôi trồng nó xuống đất. Cử chỉ đó xác nhận rằng tôi cần dùng lúa ḿ, tôi đă tạo lúa ḿ trong trí tôi.

Tôi đă làm đúng theo luật tự nhiên và lúa ḿ sẽ mọc đúng theo thời kỳ của nó. Phương pháp trồng lúa ḿ theo luật tự nhiên rất lâu dài và khó nhọc. Chúng ta cần phải chịu khó chờ đợi lâu lắc như vậy chăng?

Tại sao không kêu gọi đến một định luật cao siêu và toàn vẹn hơn để làm cho lúa ḿ mọc lên mau lẹ? Người ta chỉ cần định thần một lát trong sự yên tĩnh, quan niệm rơ lúa ḿ trong tư tưởng, và đây là những hột lúa ḿ sẵn sàng để đem xay giă. Nếu các bạn nghi ngờ, các bạn hăy lượng lấy nó, trước măt chúng ta có lúa ḿ đă đập xong, chúng ta chỉ cần đem xay ra bột và làm bánh ḿ.

Đức Tuệ Minh nói tiếp:

- Các bạn đă thấy và tin. Nhưng tai sao chúng ta không kêu gọi đến một định luật c̣n toàn vẹn hơn nữa và sản xuất một vật c̣n toàn vẹn hơn, nghĩa là đúng cái món ăn mà ta cần dùng, tức là bánh ḿ! Các bạn sẽ thấy rằng các định luật c̣n toàn vẹn hơn, tế nhị hơn ấy, sẽ giúp cho tôi làm đúng cái món ăn mà tôi cần: đó là bánh ḿ.

Trong khi chúng tôi ngồi nghe một cách thích thú, th́ một ổ bánh ḿ mới xuất hiện trên tay đức Tuệ Minh, rồi nhiều ổ nữa mà ngài đặt lên bàn cho đến khi chúng tôi đếm tất cả bốn chục ổ. Đức Tuệ Minh nói:

- Các bạn thất rằng có đủ bánh ḿ cho tất cả mọi người. Nếu ăn không đủ, th́ sẽ có các ổi khác nữa cho đến khi chúng ta ăn c̣n dư thừa.

Tất cả chúng tôi đều ăn bánh ḿ đó và cảm thấy rất ngon. Đức Tuệ Minh lại nói tiếp:

- Khi đức Jesus hỏi thánh Philips ở thành Galilée: "Chúng ta sẽ mua bánh ḿ ở đâu?" Th́ đó là để thử thách vị môn đồ. Đức Jesus biết rơ rằng bánh ḿ mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ở ngoài chợ hay ở các thị trường thương mại. Ngày mượn dịp đó để chỉ các môn đồ thấy rằng người ta có thể tạo ra bánh ḿ bằng sức mạnh của Tinh Thần.

Người đời thường thường có quan niệm vật chất như Phips! Vị môn đồ này cũng tính như mọi người: "Ta có bấy nhiêu bánh ḿ, bấy nhiêu lương thực hay bấy nhiêu tiền bạc..."Đức Jesus biết rằng khi người ta sống ở tâm thức Bồ Đề hay sống với tâm thức Chân Ngă, th́ người ta không c̣n bị thiếu thốn hay g̣ bó ǵ trong sự giới hạn nào cả.

Ngài nh́n về Thượng Đế là Nguồn Gốc của đấng Sáng Tạo ra muôn loài và tạ ơn ngài đă luôn luôn đặt trong tầm tay của loài người và chất liệu cần thiết để thỏa măn tất cả các nhu cầu của họ. Ngài bèn bẻ bánh ḿ và bảo các môn đồ hăy phân phát cho tất cả mọi người. Khi tất cả mọi người đều ăn đă no, th́ hăy c̣n thừa tới mười hai rổ bánh.

Đức Jesus dạy rằng trong Tiên Thiên Khí có chứa đựng chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể t́m ra lương thực của ḿnh từ trong đó. Chúng ta rút cái chất liệu ấy ra để tạo lên mọi thứ cần dùng.

Cũng bằng cách đó Elisée làm cho người quả phụ thành Jéruasalem có giàu để ăn thừa thăi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có thừa dầu ăn trong nhà, v́ như thế số dầu chỉ có giới hạn.

Ngài tiếp xúc với cơi Thiên Nhiên, và số dầu tạo ra không có giới hạn nào khác hơn là dung lương của những b́nh chứa. Nếu người ta có đủ số lu, b́nh, vại để chứa, th́ có lẽ đến bây giờ, dầu ấy vẫn chảy chưa hết!

Đức Tuệ Minh nói tiếp:

- Đây không phải là một cuộc thôi miên. Không có người nào trong các bạn đă có cảm giác rằng ḿnh bị thôi miên. Nhưng các bạn đă tự ḿnh thôi miên lấy ḿnh từ lúc đầu bằng cách tin tưởng rằng người ta không thể nào thực hiện công việc toàn vẹn của Thượng Đế, hay tạo nên những đồ vật mà ḿnh mong ước.

Sự nhu cầu phải chăng cũng là ư muốn sáng tạo? Thay v́ vươn ḿnh lên để sáng tạo theo như ư muốn của Thượng Đế, người ta tự thu ḿnh trong một cái ṿng chật hẹp và nói "Tôi không thể". Do sự tự kỷ ám thị đó, rốt cuộc người ta tin rằng ḿnh là một thực thể cách biệt với Thượng Đế.

Họ đă đi lệch ra ngoài con đường toàn vẹn, họ đă bỏ lỡ mất cái mục đích sáng tạo. Họ không để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua họ như Ngài muốn.

Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, há chẳng nói rằng:

"Những việc ǵ mà ta đă làm, các ngươi sẽ cũng làm được, và các ngươi c̣n sẽ làm được những việc lớn lao hơn nữa."

Con người trong cương vị chân thật của họ, là con của Thượng Đế, sứ mạng của đức Jesus trên thế gian phải chi là để chứng tỏ rằng trong cương vị đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn hảo và tốt đẹp như Thượng Đế?

Khi đức Jesus ra lệnh cho người mù mà hăy đứng dẩy rửa mắt y trong nước ao Siloè, phải chăng là để cho đám quân chúng thấy rằng ngài được Chúa Trời gửi xuống thế gian để sáng tạo cũng như Chúa Trời vậy? Đức Jesus muốn rằng mỗi người trong chúng ta cũng làm y như vậy bằng cánh thực hiện Chân Ngă nơi ḿnh và nơi kẻ khác.

Tôi có thể tiến thêm một bước xa hơn nữa. Cái ổ bánh ḿ mà tôi nhận được và cầm trên tày đă tiêu hủy dường như bị lửa đốt cháy. Tại sao? Tôi đă lạm dụng cái định luật huyền bí mà nó đă giúp Philips tôi thể hiện ư muốn. Tôi đă đốt cháy món đồ vật mà tôi vừa sáng tạo nên.

Làm như vậy, tôi đă lạm dụng cái định luật toàn vẹn đó, định luật cũng đúng đắn như những luật của âm nhạc chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục lạm dụng hoài, th́ không những luật ấy sẽ đốt cháy những vật tôi đă tạo nên, mà c̣n đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo, là chính tôi nữa.

Mới đây, các bạn đă thấy một cục nước đá tượng h́nh trong ly nước mà không có nguyên nhân rơ rệt. Tuy vậy, vẫn có một nguyên nhân, và đó cũng là cái nguyên nhân đă tạo nên ổ bánh ḿ.

Tôi có thể sử dụng cái định luật huyền bí đó khi mà tôi dùng ổ bánh ḿ hay khối nước đá để làm việc lợi ích cho nhân loại, hay là tôi hành động với t́nh thương, phù hợp với luật ấy, hoặc là khi mà tôi biểu lộ sự hành động của tôi theo ư muốn của Thượng Đế.

Làm ra ổ bánh ḿ, nước đá hay một vật mà ḿnh mong ước, là điều tốt. Mỗi người nên đi mau đến nơi chỗ mà người ta có thể làm những vật ấy. Các bạn có thấy là các bạn nên sử dụng cái định luật cao cả nhất, tức là luật tuyệt đối của Thượng Đế chăng? Các bạn sẽ tạo nên những ǵ mà các bạn cần dùng và thực hiện được những ǵ mà các bạn đă quan niệm sẵn trong trí như là cái lư tưởng cao đẹp nhất của ḿnh.

Các bạn sẽ được đẹp ḷng Thượng Đế bằng cách tự biểu lộ và toàn vẹn hơn, với điều kiện là phải biết, cũng như đức Jesus, rằng ḿnh là những người con hoàn hảo của Thượng Đế.



2. Thuật Đi Trên Mặt Nước



Sau tám ngày dừng chân một chỗ, một buổi sáng chúng tôi dỡ trại và tiếp tục lộ tŕnh. Vào lúc xế trưa ngày thứ ba, chúng tôi đến bờ một con sông lớn chừng sáu hay bảy trăm thước bề rộng, nước chảy tràn bờ với một tốc lực rất mau chóng.

Chúng tôi được biết rằng người ta có thể đi qua một chiếc cầu ở phía thượng lưu gịng nước để vượt qua sông, nhưng phải đi ṿng quanh mất bốn ngày trên những con đường ṃn rất cheo leo hiểm trở. Chúng tôi nghĩ rằng nếu phải chờ nước giựt xuống, th́ tốt hơn nên đợi vài ngày ở tại chỗ.

Như đă được đức Tuệ Minh chứng tỏ cho thấy, chúng tôi không cần phải lo ngại về vấn đề tiếp tế. Thật vậy, từ ngày chúng tôi bị cạn lương thực cho đến ngày trở về căn cứ điểm ở Asmah, tức là trong sáu mươi bốn ngày, tất cả đoàn gồm trên ba trăm người hành hương đều được tiếp tế đầy đủ với những đồ vật thực xuất xứ từ "Cơi vô h́nh."

Cho đến khi đó, không một ai trong nhóm chúng tôi đă hiểu ư nghĩa thật sự của những sự việc đă xảy ra. Chúng tôi không thể hiểu rằng tất cả đă được thực hiện do bởi một định luật huyền bí mà mỗi người đều có thể sử dụng.

Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có năm người lạ ở trong trại chúng tôi. Họ được giới thiệu với chúng tôi như là thuộc về một nhóm người cắm trại ở bờ bên kia sông và vừa về đến nơi từ một làng mà chúng tôi định sẽ đến viếng.

Chúng tôi không để ư ǵ đến chi tiết này, v́ lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng chắc là họ đă t́m thấy một chiếc đ̣ để vượt qua sông. Khi đó một người trong bọn chúng tôi muốn nói:

- Nếu những người này có đ̣ qua sông, th́ tại sao chúng ta không mượn dùng tạm để qua sông như họ vậy?

Chúng tôi tưởng là có lối thoát cho vấn đề khó khăn này, nhưng người ta nói cho chúng tôi biết rằng không có đ̣ v́ chỗ này ít có hành khách qua sông nên không ai nghĩ đến việc đưa đ̣.

Sau bữa ăn điểm tâm, tất cả chúng tôi đều tựu họp trên bờ sông. Chúng tôi nhận thấy rằng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu và bốn người trong nhóm chúng tôi đang nói chuyện với năm người khách lạ.

Dật Sĩ bước đến gần chúng tôi và nói rằng tất cả bọn họ đều muốn qua sông cùng với năm người khách lạ để ở lại chơi giây lát trong trại ở bên kia sông. Họ c̣n nhiều thời giờ v́ họ đă quyết định ở lại đến ngày hôm sau để đợi cho mực nước sông hạ xuống thấp. Lẽ tự nhiên, sự ṭ ṃ của chúng tôi bị kích thích.

Chúng tôi cho rằng thật là một việc táo bạo mà muốn lội qua sông giữa gịng nước cuốn mau như vậy chỉ v́ mục đích thăm viếng xă giao một trại láng giềng! Chúng tôi không nghĩ rằng chuyến đi qua sông lại có thể thực hiện một cách khác hẳn.

Khi Dật Sĩ đă trở lại nhóm bạn của y, mười hai người trong nhóm có mặc áo quần đầy đủ, liền đi ngay xuống sông, và bước chân lên trên mặt nước (tôi không nói xuống nước). Tôi không bao giờ quên những cảm giác của tôi khi tôi thấy mười hai người ấy nối tiếp nhau đi hàng một từ đất liền xuống sông và đi trên mặt nước một cách tự nhiên!

Tôi nín hơi thở, v́ tôi lo ngại rằng họ sẽ ch́m đắm và bị gịng nước cuốn trôi đi mất. Về sau tôi được biết rằng tất cả các bạn tôi cũng đều cảm nghĩ giống như tôi lúc ấy. Nhưng khi đó, mỗi người trong chúng tôi đều lặng người nín thở cho đến khi tất cả mười hai người kia đă đi qua khỏi giữa sông, v́ chúng tôi ngạc nhiên xiết bao mà thấy họ đi b́nh yên trên mặt nước, không hề sợ sệt, v́ nước không ngập quá gót giầy của họ.

Khi họ đă qua sông và lên đến bờ bên kia, tôi có cảm giác như trút được một gánh nặng ngh́n cân. Tôi tin rằng các bạn gái của tôi cũng có những cảm giác như vậy, cứ xét về nụ cười thoải mái của họ khi tất cả mười hai người kia đều đă qua sông. Đó hẳn là một kinh nghiệm chưa từng có đối với chúng tôi.

Bảy người trong nhóm của chúng tôi đă vượt qua sông trở lại để dùng bữa ăn trưa. Tuy rằng bận về của họ ra đi lần đầu tiên, mỗi người chúng tôi đều thở dài nhẹ nhơm khi tất cả đều đă bước lên chân bờ. Không có người nào trong nhóm chúng tôi đă rời khỏi bờ sông ngày hôm đó. Chúng tôi không b́nh phẩm ǵ về sự việc nói trên v́ chúng tôi đă quá đắm ch́m trong những cơn suy tư trầm lặng.

Đến xế trưa, v́ thấy mực nước sông không giựt xuống nên chúng tôi đành phải đi thêm đường rừng. Chúng tôi thức dậy sớm vào sáng ngày hôm sau và chuẩn bị lên đường. Trước khi chúng tôi ra đi, năm mươi hai người trong trại chúng tôi lẳng lặng tiến về phía bờ sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông như mười hai người ngày hôm trước.

Người ta nói cho chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể cùng đi qua sông với họ, nhưng không một ngày nào trong nhóm chúng tôi có đủ đức tin để làm thử. Dật Sĩ va Nê Bưu đ̣i đi ṿng lớn theo đường rừng cùng chúng tôi. Chúng tôi cố gắng thuyết phục họ đừng làm vậy, viện lẽ rằng chúng tôi có thể t́m đường đi, để tránh cho hai vị khỏi tốn công nhọc sức. Hai vị không nghe, nhất định cùng đi cùng với chúng tôi, và nói rằng điều ấy không có ǵ là khó nhọc đối với họ cả.

Trong bốn ngày đi bộ ṿng quanh đường núi cheo leo để theo kịp những người đă qua sông bằng cách đi trên mặt nước, chúng tôi không có đề tài nói chuyên hay suy ngẫm nào khác hơn là những diễn biến ly kỳ mà chúng tôi đă chứng kiến trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi đă trải qua cùng với những nhân vật lạ lùng này.

Qua ngày thứ nh́, chúng tôi đang vất vả khó nhọc để trèo lên một con đường dốc đứng, dưới ánh mặt trời nóng gắt, th́ vị trưởng nhón của chúng tôi, vẫn im lặng từ suốt hai ngày qua không nói một câu nào, th́nh ĺnh nói lớn:

- Này các bạn, tại sao con người lại bị bắt buộc phải ḅ lết trên mặt đất?

Chúng tôi đồng thanh đáp lại rằng ông ta đă nói lên đúng cái ư nghĩ của chúng tôi lúc ấy. Vị trưởng nhóm nói tiếp:

- Nếu có những người mà có thể làm được những ǵ mà chúng ta vừa thấy, th́ tại sao tất cả lại không thể làm được như vậy? Tại sao con người lại bằng ḷng chịu ḅ lết trên đất, và không những bằng ḷng thôi, mà bị bắt buộc phải ḅ và lết?

Nếu con người có cái quyền năng chế ngự như mọi loài, th́ chắc hẳn là y phải có thể bay cao hơn loài chim. Nếu như vậy, tại sao y không chứng tỏ quyền năng của ḿnh từ lâu? Đó chắc hẳn là do tư tưởng của con người.

Tất cả đều do cái quan niệm duy vật của con người về bản chất của ḿnh. Trong tư tưởng của y, con người chỉ có nghĩ rằng y đang ḅ lết trên mặt đất thôi. Bởi đó nên y chỉ có thể ḅ và lết!

Dật Sĩ liền chụp ngay lấy cơ hội nói:

- Ông bạn hoàn toàn có lư, tất cả đều do tâm trạng của con người. Tùy theo sự cảm nghĩ của con người, mà y bị giới hạn hay toàn năng, tự do hay nô lệ. Các bạn tưởng rằng những người mà ngày hôm qua các bạn đă thấy đi trên mặt nước để vượt qua sông để tránh khỏi con đường đi ṿng quanh vất vả này, là những người đặc biệt và có ân huệ thiêng liêng chăng?

Không, họ không khác ǵ các bạn cả. Họ không có được mảy may quyền năng nào hơn các bạn. Họ chỉ có phát chuyển quyền năng thiêng liêng của họ bằng cách sử dụng đúng đắn cái sức mạnh của tư tưởng. Những ǵ các bạn đă thấy chúng tôi làm, các bạn cũng có thể làm được một cách tự do và hoàn hảo như vậy, bởi v́ tất cả những hành động của chúng tôi đều ḥa hợp với một với một định luật thiên nhiên mà mỗi người đều có thể sử dụng tùy theo ư muốn.

Tới đây câu chuyện chấm dứt. Chúng tôi gặp lại năm mươi hai người đă vượt qua sông, và cùng nhau đi đến nơi thôn ấp, mục tiêu của chuyến hành hương.



3. Ngôi Đền Chữa Bịnh



Ngôi Đền Chữa Bịnh nằm ở trong thôn ấp nói trên. Tục truyền rằng từ ngày dựng lên ngôi đền này, tại đó người ta chỉ có thốt ra những lời nói biểu lộ ḷng hiếu sinh, t́nh bác ái, và sự b́nh an. Những làn âm ba rung động tại đây có một mănh lực phi thường làm cho phần nhiều khách hành hương được khỏi bịnh ngay trong khoảnh khắc.

Người ta cũng đồn rằng nững lời nó biểu lộ đức hiếu sinh, bác ái và b́nh an tại đây được lập đi lập lại nhiều lần và toát ra từ ngôi đền này từ lâu đến nỗi những âm ba rung động có đủ mănh lực để phá tan ảnh hưởng của mọi lời nói xung khắc và bất hảo mà người ta thốt ra tại đây.

Điều này cũng tiêu biểu cho sự tác động trong con người. Nếu người ta tập được thói quen chỉ thốt ra những lời nói có tính cách hiếu sinh, bác ái, điều ḥa và chí thiện, th́ không bao lâu người ta sẽ không c̣n có thể thốt ra một lời nói chướng tai nghịch nhĩ nào nữa. Chúng tôi đă thử dùng những danh từ xấu xa và mỗi lần như vậy đều nhận thấy rằng chúng tôi không thể nào thốt ra nên lời.

Ngôi đền này là mục tiêu hành hương của những người muốn được chữa khỏi các chứng bệnh tật. Các vị Chân Sư ở vùng kế cận thường có những cuộc tựu họp định kỳ tại làng này để tiếp với họ và những người muốn thừa cơ hội để học Đạo.

Ngôi đền được hoàn toàn cống hiến cho việc chữa bịnh và luôn luôn mở cửa cho công chúng. V́ công chúng không phải lúc nào cũng được gặp các Chân Sư nên các ngài khuyên họ hăy lại ngôi đền này mỗi khi có dịp thuận tiện v́ mục đích chữa bịnh.

Bởi đó, các Chân Sư không có chữa bịnh cho những người hành hương này từ lúc đầu. Các ngài đă cùng đi một lượt với họ để chỉ cho họ thấy rằng cái ngài không khác biệt chi với họ cả, và mỗi người có tự nơi ḿnh những quyền năng thiên phú mà Thượng Đế đă ban cho.

Khi các ngài nêu gương vượt qua sông bằng cách đi trên mặt nước, tôi nghĩ rằng các ngài muốn chứng minh cho những người hành hương và chúng tôi thấy khả năng thắng đoạt mọi chướng ngại khó khăn của các ngài và khuyến khích chúng tôi hăy bắt chước làm theo các ngài.

Ở những nơi cheo leo cách trở mà từ đó người ta không thể nào đi tới ngôi đền này, người nào đến cầu xin sự cứu giúp của các Chân Sư đều được những kết quả tốt lành. Luôn luôn cũng có những kẻ ṭ ṃ và những kẻ vô ngưỡng, nhưng dường như họ không nhận được một sự giúp đỡ nào rơ rệt.

Chúng tôi tham dự nhiều cuộc hội họp từ hai trăm đến hai ngh́n người, trong đó tất cả những người có bịnh tật nan y đều được khỏi bịnh chỉ bằng cách âm thầm bày tỏ ư muốn được chữa khỏi. Chúng tôi có dịp quan sát một số rất lớn những người được chữa khỏi bịnh như vậy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, sự khỏi bịnh được lâu bền, và đối với những người được chữa khỏi bịnh trong ngôi đền th́ tỷ lệ đó lên đếm một trăm phầm trăm. Ngôi đền này luôn luôn mở rộng cửa cho những ai muốn t́m đến. Người ta có thể đến đó bao nhiêu lần và ở lại đó bao nhiêu tùy ư. Một lư tưởng được h́nh thành bằng cách tư tưởng của những khách đến viếng và in sâu trong trí họ.

Đức Tuệ Minh nói:

- Chính ở đây là nơi xuất phát cái mầm móng tư tưởng đưa đến việc tôn sùng thần tượng của thời quá khứ. Con người t́m cách tạc trong gỗ, đá, vàng, bạc hay đồng, h́nh ảnh cái lư tưởng của họ. Khi cái h́nh tượng vừa thành h́nh xong, th́ cái lư tưởng đă vượt lên cao hơn cái h́nh tượng ấy rồi.

Bởi vậy, người ta phải nh́n thấy cái diện ảnh, yêu và lư tưởng hóa những ǵ đến với ta từ chỗ kín đáo trong linh hồn chứ không phải đưa ra một vật thể làm thần tượng để tiêu biểu cho cái lư tưởng mà chúng ta muốn nêu cao. Một trạng thái gần đây hơn của sự mê tín là suy tôn như một thần tượng người nào phát biểu cái lư tưởng của ḿnh. Trái lại, người ta chỉ nên sùng kính cái lư tưởng được nêu lên, chứ không phải là cái cá nhân đă biểu lộ cái lư tưởng đó.

Đức Jesus quyết định bỏ ra đi v́ ngài thấy rằng dân chúng bắt đầu suy tôn cái cá nhân ngài, thay v́ yêu cái lư tưởng mà ngài là tiêu biểu. Người ta muốn tôn ngài lên làm vua. Dân chúng chỉ nh́n thấy một điều, họ chỉ thất đức Jesus là người cung cấp đầy đủ mọi thứ để thỏa măn nhu cầu vật chất của họ.

Không ai là người nh́n nhận rằng họ vốn có tự nơi ḿnh cái khả năng thỏa măn lấy mọi thứ nhu cầu của chính ḿnh. Không ai nhận thấy rằng họ phải sử dụng cái quyền năng đó như đức Jesus vậy. V́ lẽ đó, ngài nói:

- Tốt hơn là ta phải ra đi, v́ nếu ta không bỏ đi, th́ đấng hằng An Ủi sẽ không bao giờ đến với các ngươi.

Nói cách khác, khi mà người ta ỷ lại vào cá nhân đức Jesus, người ta sẽ không nhận thức được cái quyền năng mà họ vốn có từ nơi ḿnh. Người ta phải tuyệt đối tin tưởng ở nơi ḿnh. Nếu người ta trông cậy nơi kẻ khác, họ suy tôn kẻ khác ấy làm thần tượng thay v́ tự ḿnh biểu lộ cái lư tưởng của ḿnh.

Chúng tôi đă chứng kiến tận mắt những trường hợp khỏi bịnh thật lạ lùng. Vài người bịnh chỉ cần đi ngang qua đền cũng được chữa khỏi. Những người khác phải ở lại đó trong một thời gian rất lâu. Không bao giờ có ai đứng ra làm bất cứ một cuộc hành lễ nào.

Dường như không cần phải hành lễ bởi v́ những âm ba rung động toát ra từ trong đền có hiệu lực đến nỗi bất cứ người nào bước vào trong ṿng ảnh hưởng của nó cũng đều cảm nhận được những ảnh hưởng tốt lành. Chúng tôi thấy người ta chở đến một người bị bịnh cứng khớp xương. Những khớp xương đă cứng đơ của y được hoàn toàn chữa khỏi trong ṿng một tiếng đồng hồ và y đă có thể đi đứng lại được.

Sau đó y đă làm công tác trong bốn tháng để giúp đỡ trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi. Một người khác bị cụt mất hết năm ngón tay và được thấy cả năm ngón tay đều mọc lại. Một đứa trẻ nhỏ bị tàn phế và tứ chi liệt bại được chữa khỏi ngay tức khắc và chạy ra khỏi đền. Những người bị các chứng phong cùi, đui mù, câm điếc, và nhiều chứng bịnh nan y khác cũng được chữa khỏi ngay lập tức.

Sự thật, tất cả những người đến hành hương tại đây đều được chữa khỏi bịnh. Chúng tôi có dịp quan sát một số lớn những người được khỏi bịnh hay hai ba năm về sau bịnh tật đă khỏi hẳn không c̣n tái phát. Người ta nói rằng những trường hợp bịnh tái phát trở lại là bởi v́ người bịnh thiếu đức tin và không có nhăn quang tâm linh thật sự.



4. Phép Chuyển Di Tư Tưởng



Khi chúng tôi về cứ điểm ở làng Asmah, th́ mọi việc đă chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua truông núi. Sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi thay đổi toán phu khuân vác và lừa ngựa, và khởi đầu giai đoạn thứ nh́ của cuộc hành tŕnh, tức là vượt qua dăy núi Tuyết Sơn.

Trong hai mươi ngày kế đó, sự việc diễn biến một cách b́nh thường, không có ǵ đáng kể. Đức Tuệ Minh nói với chúng tôi về tâm thức Bồ Đề. Ngài nói:

- Chính do bởi sự tác động quyền năng của tư tưởng mà chúng ta có thể biểu lộ tâm thức Bồ Đề hay tâm thức của đấng Christ. Bằng quyền năng của tư tưởng, chúng ta có thể phát triển thể xác của chúng ta đến mức độ làm cho nó trở thành bất tử, ở mức độ mà chúng ta không c̣n chịu sự biến đổi gọi là sự chết.

Do sự tác động của tư tưởng, do sự tác động của tâm thức Bồ Đề, chúng tôi có thể hoán cải những người chung quanh và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt của ḿnh. Tất cả những điều đều do cái quyền năng mà Thượng Đế ban cho con người để quan niệm một lư tưởng và thực hiện một mục đích.

Trước hết, phải biết cảm nhận và tin tưởng bằng đức tin rằng đấng Christ, tức Bồ Đề tâm, vốn ngự trị bên trong chúng ta. Kế đó, phải hiểu ư nghĩa thật sự của giáo lư Jesus, hợp nhất cái linh thể của ḿnh với Thượng Đế, cái linh thể đó vốn được tạo nên h́nh ảnh của Ngài và giống như Ngài.

Phải chan ḥa, hỗn hợp nó với linh thể toàn vẹn của Thượng Đế, v́ chính trong trạng thái chan ḥa, hỗn hợp đó mà Thượng Đế nh́n thấy chúng ta...

Nói đến đây, đức Tuệ Minh ngừng lại và cho biết rằng Ngài sẽ giă từ chúng tôi trong vài ngày để đến gặp vài người bạn đang hội họp trong một làng cách đó độ bốn trăm cây số, trong một làng nhỏ ở biên giới mà chúng tôi sẽ đi đến trong bốn ngày. Kế đó ngài biến mất và vài ngày sau ngài đă đến chỗ hẹn vào đúng lúc, cùng với bốn người bạn.

Khi chúng tôi đến làng biên giới nói trên, trời mưa tầm tă không ngớt và tất cả chúng tôi đều bị ướt loi ngoi. Người ta dành cho chúng tôi một quán trọ đầy đủ tiện nghi, gồm có một gian pḥng lớn có đủ bàn ghế, có sưởi ấm và trang hoàng lịch sự, dùng làm pḥng khách và pḥng ăn.

Một người trong chúng tôi hỏi nhiệt lực làm sưởi ấm gian pḥng này do đâu mà có? Quan sát kỹ, chúng tôi không thấy có ḷ sưởi hay củi lửa ǵ cả. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, nhưng không b́nh phẩm ǵ v́ chúng tôi đă bắt đầu quen những sự việc lạ lùng và chúng tôi chắc rằng sau này mọi người sẽ được giải thích rơ.

Chúng tôi vừa ngồi vào bàn ăn để dùng cơm tối th́ đức Tuệ Minh và bốn người bạn của Ngài bước vào pḥng mà chúng tôi không biết các ngài vào bằng cách nào. Tất cả năm vị đều xuất hiện ở một góc pḥng, mà gần đó không có cửa nẻo chi cả.

Việc ấy xảy ra một cách giản dị, âm thầm và không một tiếng động. Đức Tuệ Minh giới thiệu với chúng tôi bốn người khách lạ, và các ngài ngồi vào bàn ăn với chúng tôi một cách tự nhiên như ở nhà. Chúng tôi chưa kịp để ư nh́n thấy ǵ, th́ bàn ăn có đầy đủ những thức ăn ngon lành, nhưng không có thịt, v́ các vị toàn dùng chay.

Sau bữa ăn, một người trong chúng tôi hỏi gian pḥng được sưởi ấm bằng cách nào. Đức Tuệ Minh nói:

- Hơi ấm mà các bạn cảm thấy trong gian pḥng này là do một sức mạnh cụ thể mà mỗi người đều có thể sử dụng. Người ta có thể tiếp xúc với mănh lực ấy, và sử dụng nó dưới h́nh thức ánh sáng, nhiệt điện hay tinh lực để vận chuyển máy móc, cơ khí.

Đó là điều mà chúng ta gọi là vũ trụ lực, một mănh lực thiên nhiên mà Thượng Đế ban cho loài người. Sức mạnh ấy có thể vận chuyển mọi loại cơ khí, thực hiện những cuộc chuyên chở mà không tốn nhiên liệu, và cung cấp ánh sáng và nhiệt lực. Mănh lực ấy có ở khắp nơi để cho con người sử dụng, không bao giờ cạn và không cần phải mua.

Một người trong chúng tôi hỏi phải chăng các món ăn vừa rồi là xuất xứ từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ và đến một cách trực tiếp dưới h́nh thức các món vật thực mà chúng tôi đă ăn, cũng như bánh ḿ và các món vật phẩm khác vẫn được cung cấp cho chúng tôi từ trước.

Đức Tuệ Minh mời chúng tôi đi theo ngài đến nhà của một trong bốn người bạn, ở cách đó độ ba trăm năm chục cây số. Chúng tôi cũng gặp thân mẫu ngài tại đó. Ngài nói:

- Thân mẫu tôi là một trong những người đă tinh luyện thể xác đến mức độ có thể phân thân đi khắp mọi nơi và để học đạo trên những cơi cao. Bởi đó, bà sống thường xuyên trong cơi vô h́nh. Điều này là một việc t́nh nguyện, v́ nhờ học Đạo thượng đẳng, bà có thể giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.

Nói rơ hơn cho các bạn dễ hiểu, bà đă tiến hóa đến mức đạt tới cơi Trời là nơi hiện diện của đức Jesus, tức là nơi mà đôi khi người ta gọi là cảnh giới thứ bảy của cơi Thiên Đường. Đối với các bạn, cảnh giới đó sẽ là điều bí mật lớn nhất trong mọi điều bí mật, nhưng thật ra không có ǵ bí mật cả.

Đó là một trạng thái tâm thức mà tất cả mọi điều huyền bí đều được tiết lộ. Người hành giả đạt tới đó rồi, th́ sẽ trở lên vô h́nh vô ảnh đối với kẻ thế nhân phàm tục, nhưng họ có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người thụ cảm và có căn duyên. Họ trở lại trong thể xác của họ, v́ thể xác ấy đă được tinh luyện đến mức toàn hảo để có thể được di chuyển khắp mọi nơi tùy ư.

Những vị đạo đồ ở cấp đẳng có thể trở lại thế gian mà không cần phải đầu thai chuyển kiếp. Những người nào đă bước qua cửa Tử bị bắt buộc phải đầu thai trở lại để khoác lấy một thể xác mới.

C̣n thể xác của chúng tôi là những thể xác tâm linh toàn hảo và có thể được giữ ǵn rất lâu. Người nào đă từ bỏ thể xác để thăng lên các cơi giới tinh thần sẽ nhận thấy rằng họ phải tái sinh trong một thể xác mới để tiếp tục tiến hóa nữa...

Tối hôm đó, trước khi rời khỏi bàn ăn, chúng tôi quyết định chia cuộc hành tŕnh ra làm năm toán, mỗi toán đặt dưới sự trông nom của một trong những người khách lạ đă th́nh ĺnh xuất hiện trong pḥng để dùng bữa với chúng tôi.

Cách sắp đặt này sẽ giúp chúng tôi có thể thám hiểm nhiều vùng rỗng lớn. Nó sẽ làm cho công việc của chúng tôi được dễ dàng và giúp chúng tôi có thể kiểm chứng những hiện tượng huyền linh như là đi ngao du trong cơi vô h́nh và giao thông với nhau bằng phép di chuyển, tư tưởng.

Mỗi toán sẽ gồm ít nhất hai đoàn viên và do một trong năm vị Chân Sư lănh đạo. Mỗi toán sẽ ở cách biệt rất xa với những toán khác, nhưng sự liên lạc sẽ được thực hiện bởi các vị Chân Sư, các ngài đă tỏ ra rất nhiều cảm t́nh ưu ái đối với chúng tôi, và không bỏ qua một dịp nào để cho chúng tôi kiểm chứng lại công việc của các ngài.



5. Những Sơn Nhân



Qua ngày hôm sau, tất cả mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng từng chi tiết. Toán của tôi gồm có tôi và hai đoàn viên, đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi dẫn đường. Sáng ngày kế đó, mỗi toán đều sẵn sàng ra đi theo những chiều hướng khác nhau. Chúng tôi đồng ỳ rằng mỗi toán sẽ quan sát cẩn thận những ǵ xảy ra đến ghi chép làm tài liệu.

Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trở lại trong hai tháng ở quê hương của đức Tuệ Minh, một làng nhỏ cách đó ba trăm năm chục cây số. Sự liên lạc giữa các toán khác nhau sẽ do các vị Chân Sư đảm nhiệm việc đó mỗi buổi chiều, nói chuyện với nhau bằng tư tưởng và di chuyển từ toán nọ đến toán kia.

Khi chúng tôi muốn tiếp xúc với vị trưởng toán hay với một đoàn viên, chúng tôi chỉ cần giao bức thông điệp của ḿnh cho các Chân Sư. Sự trả lời đến với chúng tôi trong một thời gian rất ngắn không thể tưởng tượng. Khi chúng tôi đưa những bản thảo thông điệp như thế, chúng tôi viết tay và có ghi ngáy giờ cẩn thận.

Chúng tôi cũng ghi chép trong bức thơ trả lời ngày giờ chúng tôi nhận được. Khi chúng tôi tựu họp với nhau trở lại, chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu đă ghi chép và nhận thấy mọi việc đều ăn khớp với nhau một cách hoàn toàn. Ngoài ra, các Chân Sư di chuyển từ trại này sang trại khác và nói chuyện với các đoàn viên của mỗi toán khác nhau.

Chúng tôi ghi chép cẩn thận những địa điểm và ngày giờ khi các ngài xuất hiện và biến mất, cùng những đề tài đă đề cập tới. Về sau, khi chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu ghi nhận, th́ mọi sự cũng đều hoàn toàn ăn khớp với nhau.

Cuộc thăm viếng hiện thời cũng để đáp ứng một lời kêu gọi tương tự và cũng nhằm mục đích cứu giúp những người bịnh không thể di tản ra khỏi làng. Dường như những "Người tuyết" này là những kẻ ngoài ṿng luật pháp đă từng ở những vùng sơn cước đầy tuyết lạnh trong nhiều thế hệ, và sau cùng đă thành lập nên những bộ lạc du mục có thể sống tự túc trong những vùng núi non hoang vắng, hoàn toàn cách biệt cách biệt với thế giới văn minh của loài người.

Tuy dân số của chúng không bao nhiêu, chúng rất hung dữ và hiếu chiến. Đôi khi chúng bắt cóc những người nào không may lọt vào tay chúng và hành hạ những người ấy. V́ có bốn người dân làng đă bị bắt đi trong hoàn cảnh đó những người khác không biết phải làm sao, mới gửi một người đi cầu cứu với Dật Sĩ. Dật Sĩ bèn ra đi với đức Tuệ Minh và đem cả chúng tôi theo.

Lẽ tự nhiên là chúng tôi rất mong mỏi được thấy những người sơn nhân đó, mà chúng tôi có nghe nói đến nhưng vẫn chưa tin. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng người ta nên thành lập một đoàn nghĩa binh cấp cứu mà chúng tôi có thể gia nhập. Nhưng hy vọng đó đă tiêu tan khi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chúng tôi biết rằng hai vị sẽ đi một ḿnh và cùng đi ngay tức khắc.

Trong chốc lát, hai vị đă biến mất dạng và trở về vào lúc chiều ngày hôm sau, cùng với bốn người dân làng vừa được giải thoát. Những người này thuật lại nhiều câu chuyện quái đản về cuộc phưu lưu của ḿnh và về những người sơn nhân đă bắt cóc họ.

Dường như những "Người tuyết" lạ lùng này sống hoàn toàn khỏa thân. Chúng mọc lông khắp ḿnh như những loài thú và chịu đựng nổi thời tiết lạnh kinh khủng trên miền sơn cước. Chúng di chuyển rất mau lẹ. Người ta c̣n nói rằng chúng có thể rượt bắt những loài thú rừng ở vùng của chúng ở.

Chúng gọi các Chân Sư là những "Người của Mặt Trời," và khi các ngài đến giải thoát cho những kẻ bị bắt, th́ chúng không chúng cự.

Chúng tôi được biết rằng các Chân Sư đă nhiều lần thử mở một cuộc tiếp xúc với những "Người tuyết", th́ chúng bỏ ăn, bỏ ngủ và chạy trốn trong những chỗ núi rừng hoang vu v́ quá sợ sệt.

Chúng đă mất mọi sự liên lạc với đời sống văn minh và thậm chí cũng quên rằng trước kia chúng đă có mối tương quan với những chủng tộc loài người và tổ tiên của chúng đă xuất phát từ đó mà ra. Quả thật là chúng đă hoàn toàn biệt lập với xă hội loài người.

Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ không muốn nói nhiều với chúng tôi về những "Người tuyết." Chúng tôi cũng không thể xin hai vị cho chúng tôi đi theo tận nơi để nh́n xem chúng Đáp lại những câu hỏi của chúng tôi, hai vị chỉ nói như sau:

- Chúng cũng là con của Thượng Đế như chúng ta nhưng từ lâu chúng đă nuôi ḷng sợ hăi và thù ghét kẻ đồng loại, và những tật đố này ngày càng tăng trưởng. Như vậy, chúng đă tự ly khai với xă hội loài người đến mức quên mất đi sự liên hệ của ḿnh trong đại gia đ́nh nhân loại và tưởng rằng chúng là những loại thú rừng.

Đi lần đến chỗ cực đoan, thậm chí chúng cũng mất cả bản năng của loài thú rừng, v́ loài thú rừng do bản năng d́u dắt c̣n nhận biết được những người thương yêu chúng và đáp lại cái t́nh thương đó. Khi con người tự ly khai với Thượng Đế và với nhân loại đến mức đó, y có thể rớt xuống thấp hơn loài vật.

Không có ích ǵ mà đưa các bạn đến gặp những "Người tuyết", vả lại điều ấy c̣n làm hại cho chúng.Chúng tôi hy vọng rằng một đứa trong chúng nó có ngày sẽ trở nên thụ cảm đối với sự dạy dỗ của chúng tôi, và do người tuyết ấy làm trung gian, chúng tôi sẽ độ cho tất cả chúng nó...

Chúng tôi được cho biết rằng chúng tôi được tự do t́m cách nào tùy sáng kiến riêng của ḿnh để nh́n thấy những "Người tuyết" lạ lùng đó; các Chân sư chắc chắn sẽ che chở chúng tôi khỏi mọi tai nạn và có thể ra tay giải cứu nếu chúng tôi bị bắt.

Theo chương tŕnh được thiết lập cho ngày hôm sau, chúng tôi phải đi viếng một ngôi đền rất cổ xưa, ở cách làng này độ sáu chục cây số. Hai người đoàn viên trong toán của tôi quyết định không tham dự cuộc viếng thăm này để đi thu thập tài liệu về những "Người tuyết".

Họ khẩn khoản yêu cầu hai người dân làng cùng đi theo họ, nhưng hai người này quyết liệt từ chối. Không một người nào chịu rời khỏi làng, khi mà có nguy cơ gặp phải "Người tuyết" ở vùng chung quanh. Hai đoàn viên này bèn ra đi một ḿnh.

Họ được đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chỉ thị về lộ tŕnh và những ǵ phải làm. Họ giắt súng ngắn vào lưng và chuẩn bị lên đường. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đă bắt họ phải hứa rằng chỉ bắn chết người trong trường hợp chẳng đặng đừng.

Họ có thể bắn súng trơn, không lắp đạn, hay bắn chỉ thiên tùy ư muốn để thị oai với bọn sơn nhân, nhưng họ phải hứa trên danh dự rằng họ chỉ bắn chết trong trường hợp không thể nào làm khác hơn.

Tôi ngạc nhiên mà thấy có một khẩu súng ngắn trong hành lư của chúng tôi, v́ chúng tôi không bao giờ cần phải sử dụng khí giới. Tôi đă bỏ những khẩu súng của tôi từ lâu, thậm trí cũng không nhớ rơ là bỏ ở đâu. Nhưng sau mới biết là một trong những người lao công giúp chúng tôi sửa soạnhành lư, đă xếp vào đó hai khẩu súng ngắn mà không ai hay biết.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 96 of 1146: Đă gửi: 14 June 2010 lúc 8:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG BA


1. Một Ngôi Đền Cổ Một Trăm Hai Mươi Thế Kỷ

Trưa hôm đó, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và tôi cùng đi đến ngôi đền, và đến nơi vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Tại đây, chúng tôi được hai người coi đền tiếp rước và dọn chỗ cho chúng tôi nghỉ lại ban đêm. Đền này được xây cất bằng đá trên một ngọn núi cao, tục truyền rằng đă có từ mười hai ngàn năm.

Đền này vẫn c̣n trong trạng thái nguyên vẹn, toàn hảo. Có lẽ đó là một trong những ngôi đền đầu tiên được dựng lên bởi các vị Đạo Sư của môn phái tu luyện trường sinh hồi thời cổ. Các vị xây đền này với mục đích tạo nên một nơi tu tịnh hoàn toàn yên tĩnh, và có lẽ không có một cuộc đất nào khéo chọn hơn là chỗ này.

Đó là một đỉnh núi cao nhất trong vùng, chiều cao ba ngàn năm trăm thước. Con đường núi đưa lên đây hầu như dốc đứng trong đoạn cuối cùng dài mười hai cây số. Có chỗ nó vượt qua những chiếc cầu treo bằng dây thừng.

Một đầu những dây thừng này buộc chặt với những tảng đá lớn tận trên cao, và đầu kia buông tḥng xuống trong khoảng không, cột những thân cây ghép lại làm cầu treo lủng lẳng ở một chiều cao hai trăm thước. Ở những chỗ khác, chúng tôi bắt buộc phải trèo lên những nấc thang buộc vào những sợi dây thừng từ trên cao tḥng xuống.

Đoạn đường dài một trăm thước cuối cùng là một đoạn hoàn toàn dốc đứng. Chúng tôi trèo lên con đường này toàn là bằng những cái thang dây thuộc loại kể trên. Khi đến nơi, tôi có cảm giác như ở trên tột đỉnh của thế giới.

Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy vào lúc mặt trời mọc. Sau một đêm ngủ ngon giấc, tôi hoàn toàn quên mất sự leo núi vất vả nhọc mệt của ngày hôm trước. Từ trên đỉnh núi nh́n xuống dưới, người ta không nh́n thấy ǵ trong khoảng một ngàn thước, thành thử nơi này có vẻ như treo lủng lẳng trên không trung.

Thật là khó mà xoá bỏ cái cảm giác đó. Ba ngọn núi khác nhô lên ở tận đằng xa. Người ta nói rằng trên đỉnh mỗi ngọn núi ấy đều có một ngôi đền giống như ngôi đền này, nhưng các ngọn núi ấy ở cách xa đến nỗi tôi nh́n qua ống ḍm cũng không nh́n thấy ǵ.

Đức Tuệ Minh cho tôi biết rằng nhóm đoàn viên của Tô Mặc, vị trưởng nhóm của chúng tôi, có lẽ đă đến ngôi đền ở trên đỉnh ngọn núi xa nhất cùng một lượt với chúng tôi tại đây. Ngài nói rằng nếu tôi muốn tiếp xúc với Tô Mặc, tôi có thể nói chuyện được, v́ y cùng với các đoàn viên cũng đang đứng trên nóc đền như chúng tôi vậy.

Tôi lấy bút ra viết một bức thông điệp gởi cho Tô Mặc: "Tôi đang ở trên nóc đền, ba ngàn năm trăm thước cao hơn mặt biển. Đền cho tôi cái cảm giác bị treo lủng lẳng trên không gian. Đồng hồ tôi chỉ đúng Bốn giờ năm mươi lăm phút sáng ngày thứ Bảy mồng Hai tháng Tám."

Đức Tuệ Minh đọc bức thông điệp và đắm ch́m một lúc trong im lặng. Kế đó, tôi được sự trả lời của Tô Mặc: "Đồng hồ tôi chỉ Năm giờ một phút sáng ngày thứ bảy mồng hai tháng tám. Chỗ này hai ngàn tám trăm thước cao hơn mặt biển. Cảnh rất đẹp, vị trí này thật là độc đáo."

Đức Tuệ Minh nói: Nếu các bạn muốn nói ǵ thêm, tôi sẽ đem đi bức thông điệp và đem về câu trả lời. Nếu các bạn không thấy ǵ trở ngại, tôi sẽ đi nói chuyện với những người ở ngôi đền đằng ấy.

Tôi bèn đưa thông điệp cho ngài và ngài liền biến mất. Một giờ ba khắc sau đó, ngài trở vê với một thông điệp của Tô Mặc nói rằng đức Tuệ Minh đă đến năm giờ mười sáu phút và nhóm của y đang sung sướng nghĩ đến những ǵ sắp thực hiện trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi. Sự sai biệt về giờ khắc trên đồng hồ của chúng tôi là do sự khác biệt của kinh tuyến trên trái đất.

Chúng tôi ở lại đền này trong ba ngày, trong khi đó đức Tuệ Minh đi viếng thăm tất cả những toán đoàn viên trong cuộc hành tŕnh, có đem đi thông điệp của tôi và đem về những thông điệp của toán khác. Sáng ngày thứtư, chúng tôi sửa soạn trỡ về làng, nơi mà chúng tôi đă để lại những người bạn đă đi t́m những "người tuyết."

Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ c̣n muốn đến một làng nhỏ ở trong thung lũng, cách chổ lộ tẻ trên con đường ṃn của chúng tôi độ năm chục cây số. Tôi tán đồng việc đó và đề nghị để cho tôi đi theo hai vị.

đêm đó chúng tôi nghiû trong một túp lều tranh của bọn mục đồng, và ra đi từ lúc sáng sớm để kịp đến nơi vào sáng ngày hôm sau, v́ chúng tôi đi bộ. V́ không thể đi đến ngôi đền bằng ngựa, nên chúng tôi đă để ngựa ở lại với các bạn tôi trong làng nhỏ nói trên.

Sáng ngày hôm đó, khoảng mười giờ, đột nhiên có một cơn giông bảo dữ dội sấm chớp không ngừng, hăm dọa sẽ có cơn mưa lũ tầm tả đêm ngày. Nhưng trời vẫn tạnh ráo không rơi một giọt mưa. Chúng tôi đi qua một khu rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất bao phủ cằng một loại cỏ rất khô và cứng. Trọn vùng chung quanh dường như khí hậu khô ráo một cách đặt biệt khác thường.

Sét đánh làm cho cỏ khô bắt lửa cháy lan tràn ở nhiều nơi, và trước khi chúng tôi nhận biết được việc ǵ xảy ra, chúng tôi đă bị vây phủ chung quanh bởi một đám cháy rừng. Không bao lâu, cơn hỏa hoạn đă bọc phát dữ dội và đồng loạt tiến đến gần chúng tôi từ ba phía với một tốc lực nhanh chóng kinh khủng.

Khói bốc lên từng đám dày đặt làm cho tôi hoang mang lo sợ. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ có vẽ b́nh tĩnh ung dung, điều cũng làm cho tôi trấn tĩnh được ít nhiều. Hai vị nói:

- Có hai cách đi thoát khỏi nơi đây. Cách thứ nhất là đi đến một ḍng suối chảy dưới đáy một vực sâu ở gần đây. Muốn vậy, chúng ta phải vượt qua tám cây số đường rừng. Đến đó chúng ta có thể trú ẩn an toàn cho đến khi đám cháy tự nó tàn rụi dần v́ không có chỗ bốc cháy thêm được nữa. Cách thứ nh́ là vượt qua đám cháy, nhưng bạn phải tin tưởng nơi khả năng của chúng tôi là có thể độ cho bạn đi an toàn qua vùng khói lửa.

Tôi nhận thấy rằng các vị luôn luôn tỏ ra có đủ bản lĩnh tháo vát trong tất cả mọi trường hợp, và tôi liền hết sợ ngay lập tức. Tôi bèn đặt cả thể xác lẫn linh hồn tôi dưới sự che chở của hai vị, tôi đi giữa, hai vị quàng vai tôi đi kèm hai bên.

Chúng tôi thẳng tiến về hướng mà đám cháy đang hoành hành với một cường độ mănh liệt nhất. Ngay lúc đó dường như có một cái ṿm mở rộng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đi xuyên qua đám cháy mà không một mảy may bị khó chịu v́ khói, hơi nóng hay những đống lửa cháy đỏ rực trên đường đi của chúng tôi.

Chúng tôi đi như vậy trên mười cây số một cách yên ổn và an toàn dường như không có hỏa hoạn ở chung quanh. Sau cùng chúng tôi vượt qua một con rạch nhỏ, và sau đó chúng tôi đă ta khỏi vùng hỏa hoạn. Bận về, tôi đă có thời giờ để quan sát con đường mà chúng tôi đi qua trong lúc đó. Trong khi chúng tôi vượt qua khỏi đám cháy, đức Tuệ Minh nói với tôi:

- Bạn có thấy chăng, trong trường hợp tuyệt đối khẩn cấp, thật rất dễ mà kêu gọi đến những định luật thượng đẳng huyền bí của Trời để thay thế vào những định luật hạ đẳng của trần gian? Vừa rồi, chúng tôi đă nâng nâng những rung động của thể xác chúng tôi lên một nhịp độ cao hơn nhịp độ của lửa, và bởi đó, lửa không c̣n làm hại chúng tôi được nữa.

Nếu một người thường có thể nh́n thấy chúng tôi lúc đó, họ sẽ tưởng rằng chúng tôi biến mất, nhưng thật sự chúng tôi vẫn có mặt tại chỗ. Thật ra chúng tôi không thấy có sự khác biệt. Trong trạng thái đó, chúng tôi không c̣n ư thức về những giác quan của thể xác. Một người thường có lẽ cho rằng chúng tôi đă dùng thuật thăng thiên, và điều đó có lẽ cũng đúng như vậy.

Chúng tôi đă vượt lên một tŕnh độ tâm thức siêu đẳng mà người thường không thể với lên tới được. Mỗi người có thể bắt chước chúng tôi. Chúng tôi đă sử dụng một định luật mà Thượng Đế ban cho để cho chúng ta sử dụng. Chúng tôi có thể sử dụng định luật ấy để di chuyển thể xác của ḿnh đến tận bất cứ nơi nào dù xa đến đâu trong không gian.

Chính đó là cái định luật mà chúng tôi đă sử dụng để xuất hiện và biến mất trước mặt người đời, để thắng đoạt không gian, như người ta thường nói. Chúng tôi chỉ thắng đoạt mọi khó khăn chướng ngại bằng cách nâng cao tâm thức của ḿnh cho nó vượt lên trên những khó khăn đó. Điều đó giúp chúng tôi thắng đoạt tất cả những giới hạn mà con người thường tự đặt ra cho ḿnh trong cái tâm thức phàm trần của họ...

Tôi có cảm giác dường như chúng tôi chỉ đi lướt trên mặt đất. Khi chúng tôi ra khỏi vùng hỏa hoạn và được an toàn ở bên kia bờ rạch, trước hết tôi có cảm giác như vừa thức dậy sau một cơn ngủ mê và đó chỉ là một giấc mộng.

Nhưng sự hiểu biết những ǵ đă xảy ra lần lần tăng trưởng ở nơi tôi, và ư nghĩa thật sự của những diễn biến đó bắt đầu hiện rơ từ từ và soi sáng tâm hồn tôi. Chúng tôi t́m một nơi có bóng mát trên bờ rạch, và ăn một bữa lót dạ, kế đó chúng tôi nghỉ ngơi trong một giờ đồng hồ và trở về làng.



2. Vượt Qua Khu Rừng Cháy



Làng này tỏ ra là một nơi đầy thú vị, v́ tại đây có những tài liệu lịch sử được giữ ǵn rất kỹ lưỡng. Những tài liệu khi này được phiên dịch ra, đă đem đến một bằng chứng không thể chối căi rằng Thánh Jean Baptiste đă từng sống ở tại đây năm năm. Sau đó, chúng tôi đă có dịp xem và dịch những tài liệu khác nữa chứng tỏ rằng ngài đă ở lại trong vùng này độ mười hai năm.

Măi về sau, người ta đưa cho chúng tôi xem những tài liệu dường như chứng tỏ rằng ngài đă cùng với người địa phương đi du lịch trong hai mươi năm xuyên qua các sứ Tây Tạng, Trung Hoa, Ba Tư và Ấn Độ. Chúng tôi có cảm tưởng rằng có thể theo dơi bước chân của ngài trên lộ tŕnh mà các tài liệu đă ghi rơ.

Những văn kiện này làm chúng tôi thích thú đến nỗi chúng tôi đă trở lại một vài làng để sưu tầm sâu rộng thêm. Bằng cách soạn lại những dự kiện thâu thập được, chúng tôi có thể vẽ ra một bản đồ ghi rơ lộ tŕnh và những sự di chuyển của Thánh Jean Baptiste.

Vài sự việc được diễn tả cho chúng tôi trong những câu chuyện tường thuật hấp dẫn và linh động đến nỗi chúng tôi tưởng tượng rằng ḿnh đang đi cùng một con đường với Thánh Jean Baptiste và theo những đường ṃn mà ngài đă đi qua trong quá khứ xa xăm đó.

Chúng tôi ở lại làng này trong ba ngày, sau đó chúng tôi sẵn sàng trở về làng mà nơi đó chúng tôi đă bỏ lại vài người bạn. Sứ mạng của đức Tuệ Minh và Dật Sĩ ở làng này chỉ là để chữa bịnh cho những người đau yếu. Hai vị có thể trở về làng trong một thời gian ngắn hơn tôi rất nhiều, nhưng v́ tôi không thể đi nhau như hai vị, nên hai vị đă dùng cách di chuyển của tôi.

Các bạn tôi chúng tôi tại làng. Họ đă hoàn toàn thất bại đi t́m những "Người tuyết." Sau năm ngày đi t́m, họ đă mệt mỏi và bỏ cuộc. Trên đường về, họ chú ư cái bóng đen của một người in rơ trên nền trời xanh trên một đỉnh núi cáchh đó gần hai chục thước. Trước khi họ có thể sử dụng ống ḍm, th́ người ấy đă biến mất.

Họ chỉ nh́nh thấy cái bóng ấy trong thời gian rất ngắn, và chỉ có ấn tượng rằng người ấy có h́nh thù giống như khỉ có lông dài. Họ hối hả đi đến nơi mà cái bóng đen đă xuất hiện, nhưng không thấy dấu vết ǵ cả. Họ dùng thời gian c̣n lại trong ngày để thám hiểm vùng chung quanh những không kết quả. Và sau cùng đành phải bỏ qua việc ấy.

Sau khi nghe lời tường thuật của tôi, các bạn tôi muốn trở lại viếng ngôi đền, nhưng đức Tuệ Minh cho họ biết rằng chúng tôi sắp viếng ngôi đền tương tự nên họ bèn bỏ ư định trên. Một số lớn các dân vùng lân cận đă tựu họp tại làng để xin chữa bịnh, v́ những người biết chuyện đă đồn đại tin tức khắp nơi, và thuật chuyện bốn dân làng bị bọn "Người tuyết" bắt đi đă được cứu thoát.

Ngày hôm sau, chúng tôi tham dự các cuộc hội họp và đă chứng kiến vài trường hợp chữa bịnh thật lạ kỳ. Một thiểu phụ độ chừng hai mươi tuổi bị cóng lạnh và tê liệt hai bàn chân trong mùa đông năm trước, nay đă b́nh phục. Chúng tôi được nh́n thấy chỗ thịt hư nát nay đă liền lại trước mắt chúng tôi cho đến khi hai bàn chân trở lại b́nh thường và cô ấy có thể đi đứng một cách hoàn toàn tự nhiên.

Hai người mù đă thấy lại được ánh sáng trong số đó h́nh như có một người bị mù từ thủa mới sinh ra. Nhiều chứng bịnh khác cũng được chữa khỏi. Tất cả những người bịnh đều có vẻ rất xúc động bởi những lời nói của các Chân Sư.

Sau buổi họp, chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng việc chữa khỏi bịnh này có lôi cuốn được nhiều người hay chăng? Ngài đáp:

- Nhiều người thật sự đă được giúp đỡ nên điều ấy đă khêu gợi sự chú ư của họ. Vài người bắt đầu làm việc công quả trong một thời gian. Nhưng phần nhiều th́ không bao lâu sẽ quay về đường cũ với những thói quen cố hữu của họ. Họ đo lường sự cố gắng mà họ phải làm, và thấy nó quá lớn. Hầu hết đều sống một cuộc đời dễ dăi và không lo lắng.

Trong số những người tự cho ḿnh có đức tin, chỉ có độ một phần trăm là bắt tay vào việc một cách nghiêm chỉnh. Kỳ dư đều hoàn toàn sở cậy nơi kẻ khác để được giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là cái nguyên nhân chính của những phiền lụy của họ, Họ quả quyết có thể giúp đỡ bất cứ ai họ muốn giúp đỡ nhưng tỏ ra bất lực không giúp đỡ được ai.

Họ có thể nói về cái kho ân huệ thiêng liêng mà họ sử dụng để giúp đỡ những người bịnh của họ. Nhưng muốn thật sự tắm gội trong cái kho ân huệ đó, người ta phải chấp nhận và chứng minh sự hiện hữu của nó bằng cách thật sự lập công bồi đức và làm những công quả của một đời sống thánh thiện.



3. Những Di Tích Của Thánh Jean Baptiste



Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng cùng với hai người dân làng dường như đă có làm việc công quả tâm linh. Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một làng ở cách làng của Thánh Jean Baptiste hai mươi cây số. Tôi rất mong ước các bạn tôi có thể được xem những tài liệu mà tôi đă thấy.

Chúng tôi bèn quyết định ở làng thứ hai này và Dật Sĩ cùng đi với chúng tôi. Những bản văn kiện làm cho các bạn tôi vô cùng thích thú và giúp tôi vẽ bản đồ với những lộ tŕnh di chuyển của Thánh Jean Baptiste.

Chiều hôm đó, vị Chân Sư cùng đi với toán thứ tư đến và nghỉ lại ban đêm với chúng tôi. Ngài đem đến cho chúng tôi những thông điệp của toán thứ nhất và toán thứ ba. Ngài sinh ra ở làng và đă sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Chính những vị tổ tiên của ngài đă soạn thảo những văn kiện này và những tài liệu đă được gia tộc luôn luôn giữ ǵn cẩn thận.

Ngài thuộc gịng dơi nhiều đời của của vị tác giả trên, và không có người nào trong gia tộc đă từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đều có khả năng di chuyển thể xác đi ngao du trong cơi vô h́nh và trở về tùy ư muốn.

Chúng tôi hỏi rằng có điều chi trở ngại chăng, nếu chúng tôi mời vị tác giả các văn kiện vui ḷng đến nói chuyện với chúng tôi. Vị Chân Sư đáp rằng không có ǵ trở ngại và định rằng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ta vào ngay tối hôm đó.

Chúng tôi đang ngồi đợi trong ít lâu, th́ một người trạc độ ba mươi lăm tuổi th́nh ĺnh xuất hiện trong gian pḥng. Người ấy được giới thiệu cho chúng tôi, và chúng tôi bắt tay nhau. Diện mạo người ấy làm cho chúng tôi ngạc nhiên đến mức câm lặng, v́ chúng tôi tưởng rằng sẽ gặp một vị rất cao tuổi.

Người ấy có vóc dạc trung b́nh với những nét vạm vỡ, nhưng gương mặt đượm một vẻ hiền lành nhân hậu rơ rệt mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mỗi cử chỉ người biểu lộ một tâm hồn cương nghị và dũng mănh. Một vầng hào quang lạ lùng toát ra từ toàn thân người.

Trước khi an tọa, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, vị Chân Sư, và người khách lạ cùng nắm tay nhau một lúc trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, tất cả chúng tôi đều ngồi xuống, và người lạ mặt vừa xuất hiện trong gian pḥng bèn cất tiếng nói:

- Các bạn yêu cầu Trời cầu sự gặp gỡ tối nay để hiểu rơ hơn những bản văn kiện đă được đọc và diễn đạt cho các bạn. Chính tôi là người đă soạn thảo và giữ ǵn những văn kiện đó. Những tài liệu nói về Thánh Jean Baptiste và đă làm cho các bạn ngạc nhiên, tường thuật những sự việc có thật về thời gian lưu trú của ngài ở tại đây với chúng tôi.

Như người ta được biết, ngài là một người có kiến thức sâu rộng, và một trí óc tuyệt vời. Ngài nhận thức cái chân lư của giáo phái chúng tôi, nhưng dường như ngài không bao giờ có thể đồng hóa một cách trọn vẹn, v́ nếu như vậy th́ ngài đă không bao giờ chết. Tôi vẫn thường hay ngồi trong gian pḥng này, và nghe Thánh Jean cùng chúng tôi đàm luận.

Chính tại đây mà Thánh Jean đă được thụ huấn của cha tôi truyền lại. Chính là tại đây mà cha tôi qua đời và đem cả thể xác của người đi luôn, điều này Thánh Jean đă chứng kiến tận mắt. Tất cả những người trong gia đ́nh bên nội cũng như bên ngoại tôi đều đă đem thể xác đi luôn khi họ qua đời.

Sự qua đời đó, tức là một giai đoạn chuyển tiếp, có nghĩa là thể xác của họlà một vật hoàn hảo về mặt tâm linh. Người ta trở lên ư thức được cái ư nghĩa tâm linh của cuộc đời, ư nghĩa của Thượng Đế, đến mức độ nh́n cuộc đời bằng cái tầm nhăn quang của Thượng Đế. Khi đó, người ta thụ hưởng cái đặc ân tiếp nhận đuợc những giáo lư cao siêu nhất và người ta có thể giúp đỡ tất cả mọi người.

Chúng tôi không bao giờ đi xuống từ trạng thái tâm thức đó, v́ những người nào đă đạt tới đó không có ư muốn rớt xuống thấp hơn. Họ biết rằng đời người là một sự tiến hóa không ngừng. Không có thoái bộ hay thoái hóa, và không ai muốn đi thụt lùi trở lại.

Tất cả đều đưa tay ra để giúp đỡ những người đi t́m ánh sáng. Họ gửi thường xuyên những thông điệp trong vũ trụ càn khôn. Trong tất cả các vùng trên thế giới ngày nay đều có những thụ cảm đă diễn đạt những thông điệp đó. Chính là để làm cái việc phóng sự đó mà chúng tôi muốn đạt tới cái cơi giới, hay cái trạng thái tâm thức kể trên.

Tất cả chúng ta đều có thể và đều muốn giúp đỡ, phụng sự bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi có thể nói chuyện với những tâm hồn thụ cảm, giáo dục họ, và nâng cao tâm thức họ hoặc trực tiếp, hoặc do một người trung gian. Chúng tôi làm tất cả những công việc đó.

Nhưng một người trung gian không thể làm công việc giùm cho kẻ khác hoặc huấn luyện họ măi măi. Người ta phải quyết định tự ḿnh làm công việc đó và bắt tay vào việc. Chừng đó người ta được tự do và chỉ trông cậy vào sức ḿnh.

Đức Jesus ư thức được rằng thể xác là một vật tâm linh và bất diệt. Khi tất cả mọi người đều đạt tới trạng thái tâm thức đó, chúng ta có thể cảm thông với tất cả và phổ biến trong quần chúng cái giáo lư mà chúng ta đă nhận được. Chúng tôi thụ hưởng cái đặc ân được biết rằng mỗi người đều có thể thực hiện những công tŕnh giống như của chúng tôi và giải quyết tất cả mọi vấn đề khó khăn của cuộc đời.

Tất cả những khó khăn và phiền toái sẽ trở nên giản dị. Dung mạo bề ngoài của tôi không khác ǵ các bạn hay những người các bạn hay gặp thường ngày. Và tôi không thấy một sự khác biệt nào giữa các bạn với tôi.
Chúng tôi nói rằng chúng tôi nhận thấy nơi một người một cái ǵ tốt đẹp hơn chúng tôi vô cùng. Người đáp:

- Đó chỉ là sự so sánh giữa cái hữu diệt và cái bất tử. Các bạn hăy nh́n thấy tính chất thiêng liêng của mỗi người mà không cần phải so sánh người ấy với những người khác, rồi các bạn sẽ thấy họ cũng giống như tôi. Các bạn hăy t́m kiếm Phật tánh trên gương mặt mỗi người rồi các bạn sẽ thấy ngay Phật tánh sẽ hiện trên mặt họ.

Chúng tôi tránh mọi sự so sánh. Chúng tôi chỉ nh́n thấy Phật tánh ở tất cả mọi người và bất cứ lúc nào. Làm như thế, chúng tôi trở lên vô h́nh vô ảnh đối với các bạn. Nhờ có tầm nhăn quang toàn vẹn, bao quát nên chúng tôi nh́n thấy sự toàn thiện toàn mỹ, trái lại, với một nhăn quang thiếu sót, các bạn chỉ nh́n thấy có sự bất toàn.

Các bạn có thể cho rằng giáo lư của chúng tôi xuất xứ từ nguồn cảm hứng thiêng liêng cho đến khi mà các bạn thụ huấn với một vị Chân Sư và có thể nâng cao tâm thức của ḿnh đến mức nh́n thấy và nói chuyện với chúng tôi như bây giờ. Không có sự cảm hứng nào trong việc nói chuyện hay thử nói chuyện với một người.

Giáo lư của chúng tôi đưa người hành giả đến mức độ mà họ có thể nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng thật sự. Nhưng nguồn cảm hứng đó chỉ có thể đến trực tiếp từ Thượng Đế mà thôi. Bằng cách để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua các bạn, các bạn sẽ sống với chúng tôi...



4. Những Cuộc Chữa Bịnh Nhiệm Mầu



Sáng ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sẵn sàng dùng điểm tâm vào lúc sáu giờ rưỡi. Khi chúng tôi đi từ quán trọ ngang qua đường lộ để đến tiệm ăn, chúng tôi gặp các Chân Sư cùng đi một đường.

Các ngài vừa đi vừa nói chuyện với nhau như mọi người thường. Các ngài lên tiếng chào chúng tôi và bày tỏ sự ngạc nhiên mà thấy các ngài sống b́nh dị như vậy. Các ngài đáp:

- Chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn vậy. Tại sao các bạn lại cứ một mực coi chúng tôi là khác thường? Chúng tôi không khác các bạn ở một điểm nào cả. Chúng tôi chỉ có phát triển nhiều hơn những quyền năng mà Thượng Đế ban cho tất cả chúng ta.

Chúng tôi bèn hỏi:

- Vậy tại sao chúng tôi không thể thực hiện những công tŕnh giống như của các ngài?

- Tất cả những người mà chúng tôi tiếp xúc, tại sao họ không theo chúng tôi và không bắt ta vào việc làm của chúng tôi? Chúng tôi không thể và cũng không muốn bắt buộc ai theo chúng tôi.

Mỗi người có quyền tự do sinh hoạt và đi theo con đuờng mà họ chọn lựa tùy sở thích. Chúng tôi chỉ muốn vạch cho họ thấy con đường dễ dàng và giản đơn mà chúng tôi đă đi thử và nhận thấy là rất mỹ măn.

Chúng tôi ngồi vào bàn ăn và câu chuyện xoay về những diễn biến của đời sống hằng ngày. Tôi lấy làm say mê thích thú và vô cùng thán phục. Bốn vị siêu nhân ngồi trước mặt chúng tôi.

Một vị đă hoàn thành từ hai ngh́n năm nay phép tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển thể xác đi bất cứ nơi nào tùy ư muốn. Ngài đă sống một ngh́n năm trên địa cầu và vẫn duy tŕ sự hoạt động trẻ trung của một người ba mươi lăm tuổi.

Ngồi kế bên ngài là một người trong thân quyến, nhưng trẻ hơn đến năm thế hệ. Vị này tuy đă sống trên bảy trăm năm trên Trái Đất, nhưng bề ngoài xem có vẻ chưa đến bốn mươi tuổi. Ngài và vị tổ tiên năm đời của ngài có thể nói chuyện với nhau một cách rất tự nhiên như hai người thường.

Kế đó là đức Tuệ Minh, ngài đă sống trên năm trăm năm và bề ngoài xem như một người mười sáu tuổi. Sau cùng là Dật Sĩ, bốn mươi tuổi và có cái dung mạo tương đương với người ở tuổi ấy. Bốn vị nó chuyện với nhau như anh em, không một mảy may lộ vẻ tự tôn.

Tuy câu chuyện thật giản dị khả ái, mỗi lời nói của các ngài đều biểu lộ một sự hợp lư hoàn toàn và chỉ rằng các ngài biết rơ tận tường đề tài thảo luận. Các ngài không lộ vẻ ǵ là huyền thoại hay bí mật. Các ngài sự sự như những người thường trong công việc hằng ngày. Tuy vậy, đôi khi tôi vẫn cảm thấy khó tin rằng đó không phải là chuyện xảy ra trong giấc mơ.

Sau bữa ăn sáng, một trong những người bạn tôi đứng dậy để trả tiền. Đức Tuệ Minh nói:

- Ở đây các bạn là khách của tôi.

Nói xong, ngài đưa tay về phía bà chủ quán, mà chúng tôi c̣n tưởng rằng đó là một bàn tay không. Chừng xem lại, chúng tôi thấy bàn tay ngài cầm đúng số tiền ghi trên tờ hóa đơn tính tiền bữa ăn.

Các vị Chân Sư không đem tiền bạc theo trong ḿnh và không cần ai cung cấp tiền bạc. Khi cần dùng, tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tầm tay, mà các ngài lấy trực tiếp từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ.

Khi bước chân ra khỏi quán, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư bắt tay chúng tôi và nói rằng ngài phải trở về toán của ngài, rồi biến mất dạng. Chúng tôi ghi nhận giờ phút mà ngài biến mất và về sau chúng tôi có kiểm điểm lại th́ thấy ngài đă trở về toán của ngài không đầy mười phút sau khi giă từ chúng tôi.

Suốt ngày hôm đó, chúng tôi cùng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, đi dạo chơi trong làng và các vùng phụ cận. Vị Sư Tổ thuật lại cho chúng tôi nghe với rất nhiều chi tiết, và sự việc xảy ra trong khoảng mười hai năm mà Thánh Jean Baptiste đă lưu trú trong làng này.

Những chuyện đó được kể lại một thời dĩ văng xa xăm bên cạnh Thánh Jean. Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn coi ngài như một nhân vật huyền thoại do thiên hạ bày đặt ra để ḷe đời. Kể từ ngày đó, đối với tôi ngài đă trở nên một nhân vật lịch sử có thật.

Tôi tưởng tượng lúc đương thời ngài cũng đă từng đi dạo như chúng tôi trong làng này và các vùng chung quanh, và được các Chân Sư cao cả truyền dạy những pháp môn mà ngài không hoàn toàn hấp thụ được những chân lư căn bản.

Trong ngày hôm đó, chúng tôi đi đó đi đây, vừa nghe kể lại những câu chuyện lịch sử thú vị, vừa nghe giảng dạy và phiên dịch những sự kiện lịch sử ở ngay tại chỗ mà những câu chuyện tường thuật ấy đă xảy ra hằng bao nhiêu ngàn năm trở về trước. Kế đó, chúng tôi trở về làng trước khi trời tối, ai nấy đều mệt mỏi.

Ba vị siêu nhân cũng đi bộ như chúng tôi, nhưng không lộ vẻ mệt mỏi chút nào. Trong khi chúng tôi ḿnh mẩy lấm bùn lầy, cát bụi và mồ hôi, th́ các ngài đều có vẻ tươi tỉnh, thư thái và y phục của các ngài mặc đều trắng tinh như lúc mới bắt đầu ra đi.

Chúng tôi đă nhận thấy, trong những chuyến xuất hành đi qua, rằng y phục của các Chân Sư không hề bị hoen ố, và chúng tôi vẫn thường nói lên sự nhận xét đó, nhưng không được trả lời.

Chiều hôm đó, chúng tôi lại nêu câu hỏi về vấn đề ấy th́ vị Sư Tổ đáp:

- Điều ấy làm các bạn ngạc nhiên hơn nhiều mà thấy rằng một mảy bụi bặm vật chất của Thượng Đế tạo ra lại có thể dính vào một nhân vật cũng do Thượng Đế sáng tạo mà nó không tùy thuộc quyền sở hữu, ở một nơi mà người ta không muốn cho nó dính vào.

Với một quan niệm đúng đắn, điều ấy sẽ không thể xảy ra, v́ không một mảy bụi bặm vật chất nào của Thượng Đế có thể được đặt vào một chỗ mà người ta không muốn.

Một lát sau đó, chúng tôi nhận thấy rằng y phục và thân thể của chúng tôi cũng sạch sẽ và trơn tru như các Chân Sư, sự biến đổi này diễn ra trong nháy mắt trên thân ḿnh tôi và các bạn của tôi.

Mọi dấu vết của sự mệt nhọc đều đă biến mất và chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng cũng như ḿnh vừa mới ngủ thức dậy và đă tắm rửa xong. Đó là cách trả lời cho những sự thắc mắc của chúng tôi. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ với một niềm yên tĩnh thâm trầm sâu xa nhất trong tâm hồn mà chúng tôi chưa hề cảm thấy bao giờ kể từ khi chúng tôi bắt đầu sống chung với các vị Chân Sư.

Sự kính sợ của chúng tôi đă nhanh chóng thành một t́nh thương sâu xa đối với những tấm ḷng cao quư hồn nhiên của các ngài, là những đấng Cao Cả đă làm biết bao việc tốt lành cho nhân loại.

Các ngài gọi tất cả mọi người là bằng hữu, anh em, và chúng tôi cũng bắt đầu coi các ngài như những bậc Anh Cả. Các ngài không tự gán cho ḿnh một giá trị nào cả, và luôn luôn nói rằng chính Thượng Đế đă biểu lộ xuyên qua các ngài. Các ngài nói:

- Riêng tôi, tôi không thể làm ǵ được. Chính Thượng Đế ngự nơi tôi, ngài đă làm tất cả mọi việc.

Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có người báo tin cho biết rằng ngày ấy chúng tôi sẽ đi đến một làng ở tận trên cao trong vùng núi. Từ đó chúng tôi sẽ đi viếng ngôi đền trên đỉnh của một ngọn núi mà tôi đă nh́n thấy ở đằng xa từ trên một đỉnh núi cao hơn mà tôi diễn tả trước đây.

V́ đường núi cheo leo, chúng tôi không thể đi ngựa trên một quăng đường dài hơn hai mươi lăm cây số. Chúng tôi đem hai người dân làng đi theo trên hai quăng đường này, rồi giao ngựa cho họ dắt đi đến một thôn nhỏ ở gần bên và giữ ngựa ở tại đó để chờ chúng tôi đi bận về. Mọi việc xảy ra như đă dự định.

Chúng tôi giao ngựa cho hai người dân làng và bắt đầu đi theo con đường núi nhỏ hẹp đưa đến làng trên núi. Vài đoạn đường núi này là những nấc thang tam cấp đục trong vách đá.

Chúng tôi đến nơi vào lúc bốn giờ chiều. Ngôi đền dựng trên một đỉnh núi nh́n thẳng xuống xóm làng. Vách núi dốc đứng cheo leo đến nỗi muốn lên tới đỉnh, người ta phải tḥng xuống một cái thúng đương bằng mây để du khách ngồi vào đó và dùng dây kéo lên. Cái thúng dùng để đưa khách lên tới đỉnh núi và cũng dùng để đưa khách từ trên đỉnh đi xuống phía dưới.

Khi chúng tôi đă sẵn sàng, người ta tḥng cái thúng xuống và chúng tôi được kéo lên từng người một cho đến nơi có một mơm đá nhô ra ngoài, chỗ này bề cao đến một trăm ba chục thước khỏi mặt đất. Đến đây, chúng tôi bước ra khỏi thúng và theo đường nhỏ lên tận ngôi đền ở trên đỉnh núi cách đó một trăm bảy mươi lăm thước bề cao, vách của ngôi đền liền với vách của núi đá.

Chúng tôi được cho biết rằng c̣n phải lên một chuyến thứ nh́ cũng giống y chuyến thứ nhất. Thật vậy, chúng tôi thấy từ ngôi đền nhô ra một cây đà bằng gỗ rất lớn giống như cây đà gie ra từ mơm đá lúc năy. Từ cái trục ở phía trên người ta tḥng xuống một sợi dây cói để cột vào một cái thúng bằng mây lúc năy, và chúng tôi lại được kéo lên từng người một đến tận nóc bằng của ngôi đền.

Lại một lần nữa, tôi có cảm tưởng như đang ở trên nóc tột đỉnh của thế giới. Đỉnh núi này nhô lên ba trăm thước cao hơn các ngọn núi ở vùng chung quanh. Làng mà từ đó chúng tôi bắt đầu ra đi, c̣n ở trên cao hơn nữa, trên đỉnh một truông núi mà người ta dùng để vượt qua dăy Hi Mă Lạp Sơn.

Đền này c̣n ở ba trăm năm chục thước thấp hơn ngôi đền mà trước đây chúng tôi đă viếng chung với đức Tuệ Minh và Dật Sĩ, nhưng ở đây tầm nhăn quang có thể nh́n bao quát hơn nhiều. Dường như chúng tôi có thể nh́n vào chỗ không gian vô tận.

Người ta dọn cho chúng tôi một chỗ nghỉ đêm thật thoải mái tiện nghi. Ba vị siêu nhân cho chúng tôi biết rằng các vị sắp đi viếng vài nhóm đoàn viên ở rải rác khắp nơi và các vị sẵn lóng chuyển thông điệp của chúng tôi cho họ. Chúng tôi bèn viết thơ cho các bạn hữu và có ghi cẩn thận ngày giờ và địa điểm.

Chúng tôi giữ lại một bản sao của các thông điệp, về sau chúng tôi kiểm điểm lại th́ được biết rằng tất cả các thông điệp đều được giao tận nơi không đầy hai mươi phút sau khi gửi đi. Khi chúng tôi đưa những thông điệp cho các vị siêu nhân, các vị bắt tay từ giă chúng tôi và hẹn gặp nhau lại vào sáng ngày hôm sau, rồi các vị biến mất.

Sau bữa ăn chiều ngon lành do những người coi đền dọn ra, chúng tôi lui về pḥng yên nghỉ nhưng không ngủ được, v́ những kinh nghiệm vừa qua bắt đầu gây cho chúng tôi những ấn tượng sâu xa.

Chúng tôi đang ở trên một chiều cao ba ngàn thước khỏi mặt đất, không một người nào ờ kế cận trừ ra những người coi đền, và không một tiếng động nào khác hơn là giọng nói của chúng tôi. Bầu không khí chung quanh thật hoàn toàn yên lặng.

Chúng tôi có dặn một người coi đền hăy đánh thức chúng tôi khi trời vừa dạng sáng. Y gơ cửa trong khi tôi vừa chợp mắt ngủ chưa được bao lâu. Chúng tôi sửa soạn mặc quần áo xong, hối hả chạy mau ra sân thượng để ngắm nh́n mặt trời mọc ở vùng núi.

Trong cơn vội vàng chúng tôi gây nhiều tiếng động ầm ĩ đến nỗi những người gác đền hoảng kinh chạy ra xem có phải chúng tôi đă loạn trí chăng! Tôi nghĩ rằng chắc là không bao giờ ngôi đền này đă trải qua cơn náo động như thế từ ngày nó được dựng lên, nghĩa là từ trên mười ngh́n năm nay. Thật vậy, ngôi đền này cổ xưa đến nỗi nó đồng hóa làm một với cái đỉnh núi.

Khi ra đến sân thượng, không ai cần bảo ai nên giữ im lặng nữa, v́ mọi sự dặn ḍ đều là thừa. Vừa nh́n ra ngoài, hai bạn tôi đă đứng lặng người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chừng chắc là tôi cũng đă làm như vậy. Tôi c̣n đợi xem họ nói ǵ, th́ họ đă đồng thanh la lớn:

- Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trong không gian!

Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa lên tới nóc đền ở đỉnh núi bên kia trước đây không lâu. Họ đă quên trong một lúc rằng hai chân họ vẫn chấm đất và họ có cảm giác như đứng phất phơ trong không gian. Một bạn tôi nói:

- Tôi không ngạc nhiên nếu các vị Chân Sư có thể bay nhẹ trên không gian sau khi đă có cái cảm giác như chúng ta vừa rồi.

Một chuỗi cười ngắn kéo chúng tôi trở về thực tế. Chúng tôi quay lại nh́n thấy ngay sau lưng chúng tôi có đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện. Một bạn tôi cao hứng muốn chạy lại bắt tay hết thảy các vị cùng một lúc, và nói:

- Thật là kỳ diệu. Không ai lấy làm ngạc nhiên nếu các vị có thể bay bổng trên không, sau khi đă lưu trú tại đây.

Các vị mỉm cười, và một vị nói:

- Các bạn cũng có thể bay bổng như chúng tôi. Các bạn chỉ cần biết từ nội tâm rằntg các bạn có cái quyền năng đó rồi các bạn hăy sử dụng nó.

Chúng tôi ngắm nh́n phong cảnh. Sương mù đă hạ thấp xuống và bay từng đợt phất phơ theo chiều gió, nhưng cũng hăy c̣n khá cao nên người ta không thể nh́n thấy dưới đất. Những đợt sương mù di chuyển làm cho chúng tôi có cái cảm giác như được chở đi trên đôi cánh im lặng của một con chim khổng lồ.

Nh́n về phía xa, người ta mất cả ư thức về trọng lượng của ḿnh, và thật là khó mà tưởng tượng rằng ḿnh đang bay lướt trong không gian. Riêng phần tôi, tôi đă thấy mất ư thức về trọng lượng của ḿnh đến nỗi tôi đă nhẹ ḿnh bay lơ lửng trên nóc đền. Th́nh ĺnh một tiếng động làm cho tôi té nặng đến nỗi tôi cảm thấy một sự xúc động mà hậu quả hăy c̣n tồn tại nhiều ngày mới hết.

Sáng hôm ấy, chúng tôi quyết định ở lại ngôi đền này trong ba ngày, v́ chỉ có một nơi thú vị để đi thăm viếng trước khi gặo lại các toán khác. Đức Tuệ Minh đă đem tới những thông điệp. Một thông điệp cho biết rằng toán của vị trưởng nhóm chúng tôi đă đến viếng ngôi đền này chỉ mới cách đây ba ngày.

Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi bước ra ngoài chúng tôi bước ra ngoài để nh́n xem sương mù tan dần. Chúng tôi ngắm nh́n cho đến khi sương mù tan đi mất và mặt trời ló dạng. Người ta nh́n thấy thôn ấp nhỏ ẩn dưới triền núi và thung lũng diễn ra tận đằng xa. V́ các vị siêu nhân đă quyết định đến viếng thôn ấp này, nên chúng tôi xin phép đi theo các vị.

Các vị vừa nhận lời vừa cười, và khuyến khích chúng tôi nên sử dụng cái thúng bằng mây để tḥng xuống đất. Các vị nói rằng đi bằng cách đó th́ khi đến nơi, chúng tôi sẽ có cái h́nh dáng bề ngoài dễ coi hơn là nếu chúng tôi sử dụng phương pháp di chuyển của các vị.

Người ta bèn dùng cái thúng tḥng chúng tôi từng người một xuống tận chỗ mơm đá nhô ra ở giữa chừng, và từ đó, xuống vùng cao nguyên nh́n xuống dưới làng. Khi tất cả chúng tôi vừa bước ra khỏi cái thúng, th́ lạ thay, các vị siêu nhân đă có mặt tại đó. Chúng tôi cùng nhau đi xuống làng, và ở lại đây suốt ngày hôm đó.

Đó là một làng cổ có những nét dị kỳ, đặc biệt của vùng sơn cước này. Nó gồm có độ hai mươi nhà đục trong triền núi, và cửa nẻo đều đóng kín bằng những phiến đá lớn. Người ta xây cất nhàkiểu này để tránh cho nhà khỏi bị đè bẹp dưới trọng lượng của tuyết mùa đông.

Chúng tôi được cho biết rằng Thánh Jean Baptiste đă từng sống tại làng này và được thụ huấn và Đạo lư trong đền. Đền này vẫn c̣n nguyên vẹn như hồi xưa. Làng và ngôi đền đă được lập nên ít nhất sáu ngh́n năm trước khi Thánh Jean đến viếng nơi này.

Vào lúc năm giờ chiều, vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, bắt tay từ giă chúng tôi và nói ngài phải vắng mặt nhưng sẽ trở lại trong giây lát. Kế đó ngài biến mất dạng.

Chiều hôm đó, từ trên nóc đền chúng tôi ngắm nh́n cảnh mặt trời lặn lạ lùng nhất chưa từng thấy, tuy rằng tôi đă có dịp may nh́n thấy cảnh trời chiều ở hầu hết khắp nơi trên thế giới.

Chúng tôi ngồi trên sân thượng đến nửa đêm, vừa nói chuyện vừa hỏi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ về nhiều vấn đề, nhất là về địa h́nh, địa vật và lịch sử của vùng này. Đức Tuệ Minh đưa ra nhiều chú thích trong các văn kiện mà các Chân Sư từng biết rơ. Những văn kiện ấy chứng tỏ rằng xứ này đă từng có người ở từ nhiều ngàn năm trước thời kỳ có lịch sử của thế giới.

Chúng tôi đang ngắm vầng trăng rằm trong sáng xuất hiện trên dảy núi đằng xa ở tận chân trời. Th́nh ĺnh, chúng tôi nghe có tiếng động ở phía sau lưng. Chúng tôi quay lại nh́n thấy một bà mệnh phụ trạc độ ngũ tuần đang đứng đó và mỉm cười vừa hỏi rằng sự xuất hiện th́nh ĺnh của bà có làm cho chúng tôi sợ hăi không?

Trước hết chúng tôi có cảm tưởng rằng bà ấy đă nhảy từ trên bờ tường xuống sân thượng, nhưng sự thật th́ bà ấy chỉ có dậm chân để làm cho chúng tôi chú ư, và sự im lặng thâm trầm của miền núi lúc ban đêm đă làm vang dội âm thanh ấy lên gấp bội phần. Đức Tuệ Minh mau bước tới chào mệnh phụ và giới thiệu chị ngài với chúng tôi. Bà mỉm cười và hỏi bà có làm rộn chúng tôi không?

Chúng tôi an tọa, và câu chuyện xoay chung quanh những kỷ niệm cùng những kinh nghiệm về công việc phụng sự trong cuộc đời tu hành của bà. Bà có ba người con trai và một người con gái, tất cả đều được giáo dục trong cùng một tinh thần như của bà. Chúng tôi hỏi có các con bà cùng đi không?

Bà đáp rằng hai người con nhỏ nhất không bao giờ rời bà. Chúng tôi yêu cầu được gặp các con bà. Bà đáp rằng họ cũng đang rảnh việc, và ngay lúc đó xuất hiện hai người, một người nam và một người nữ. Hai người này chào cậu và mẹ, rồi tiến tới để được giới thiệu với tôi và hai bạn tôi. Người con trai cao lớn vạm vỡ, có dáng hào hùng, đầy nam tính, trạc độ chừng ba mươi tuổi.

Người con gái vóc dáng hơi nhỏ, dáng điệu thanh tân, với những nét diễm kiều. Đó là một thiếu nữ đẹp và trạc độ hai mươi tuổi. Về sau chúng tôi được biết rằng người nam có đến một trăm mười lăm tuổi và người nữ đă một trăm hai mươi tám tuổi. Chúng tôi c̣n ngồi đàm đạo đến quá nửa đêm mới chia tay nhau.

Qua ngày hôm sau, các vị siêu nhân tỏ ư muốn từ giă chúng tôi để ra đi. Chỉ c̣n có Dật Sĩ ở lại với chúng tôi, và ngày kế đó đến lượt chúng tôi cũng sửa soạn lên đường. Mặc dầu trời hăy c̣n chưa sáng, hầu hết tất cả dân làng đều thức dậy rất sớm để tiễn đưa chúng tôi.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 97 of 1146: Đă gửi: 14 June 2010 lúc 8:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG BỐN


1. Vị Mẫu Thân Của Chân Sư Tuệ Minh

Trong năm ngày kế đó, con đường của chúng tôi đi xuyên qua vùng mà ngày xưa Thánh Jean đă từng đi qua. Qua ngày thứ năm, chúng tôi đến nơi thôn ấp mà những người giữ ngựa đă ở lại để chờ đợi chúng tôi. Đức Tuệ Minh đă có mặt tại đây và kể từ lúc đó, cuộc hành tŕnh được tương đối dễ dàng cho đến khi chúng tôi đến nơi làng của ngài sinh trưởng.

Khi gần đến làng, chúng tôi nhận thấy vùng này có khá đông dân cư, những đường lộ và đường ṃn đều tốt hơn những đường mà chúng tôi đă đi qua từ trước đến giờ. Nhưng trong những giờ kế đó, chúng tôi đi qua một vùng cao nguyên lồi lơm với một địa thế vô cùng cheo leo hiểm trở. Làng có tường đá bọc chung quanh như thành quách để làm hệ thống pḥng thủ.

Người ta nói rằng vùng này trước kia là nơi cư trú của một bộ lạc thổ dân sống biệt lập với thế giới bên ngoài; về sau họ đă lần lần biệt tích và không c̣n để lại dấu vết. Một thiểu số c̣n lại đă xáp nhập với những bộ lạc khác ở quanh vùng.

Đó là nơi quê hương của đức Tuệ Minh và là nơi mà các đoàn viên của phái bộ chúng tôi hẹn gặp nhau trở lại. Những đoàn viên này đă chia ra từng toán nhỏ để thi hành công tác trên một vùng lănh thổ rộng lớn.

Khi hỏi lại th́ được biết rằng chúng tôi là toán đến đây trước tiên, và những toán khác cũng sẽ đến nơi nội trong ngày hôm sau. Chúng tôi được chỉ định nơi trú ngụ trong một ngôi nhà ba tầng lầu dựa vách tường làng. Người ta dọn cho chúng tôi một nơi tạm nghỉ khá tiện nghi và cho biết rằng bữa cơm chiều sẽ được dọn ra ở từng dưới.

Khi chúng tôi bước xuống từng dưới th́ thấy ngồi quanh bàn ăn có bà chị của đức Tuệ Minh, chồng bà, và hai người con mà chúng tôi đă gặp gỡ tại ngôi đền, cùng với đức Tuệ Minh cũng hiện diện tại đó.

Chúng tôi vừa dùng cơm chiều xong, th́ nghe có tiếng động trước sân nhà. Một dân làng đến cho hay rằng một trong các toán đoàn viên vừa mới đến. Đó là toán của vị trưởng nhóm Tô Mặc.

Người ta dọn bữa ăn chiều cho họ và xếp đặt cho họ nghỉ lại ban đêm cùng với chúng tôi, kế đó tất cả chúng tôi đều bước lên trên nóc bằng của ngôi nhà. Tuy mặt trời đă lặn, nhưng bóng hoàng hôn hăy c̣n phảng phất, và trời chưa tối hẳn.

Trong khi chúng tôi đang b́nh luận về giá trị pḥng thủ của bức tường rào chung quanh làng, th́ bà chị và cô cháu gái của đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Một lát sau đó, người anh rể và người cháu trai của ngài cũng đến. Chúng tôi nhận thấy các vị tỏ dấu băn khoăn mong đợi một sự ǵ, và bà chị của đức Tuệ Minh bèn nói cho chúng tôi biết rằng chiều nay bà trông đợi cuộc viếng thăm của thân mẫu bà. Bà nói:

- Chúng tôi sung sướng đến nỗi cầm ḷng không đậu, v́ ḷng yêu mến của chúng tôi đối với mẫu thân đậm đà dường nào. Chúng tôi yêu mến tất cả những người sống tâm linh cao cả, v́ tất cả các vị ấy đều có tâm hồn cao quư và thiêng liêng.

Nhưng mẫu thân chúng tôi c̣n có ḷng từ bi, nhân hậu, vị tha, cứu đời đến nỗi chúng tôi không thể nào không yêu mến bà gấp ngàn lần. Vả lại, chúng tôi đối với bà c̣n có t́nh mẫu tử, cốt nhục. Chúng tôi biết rằng các ông cũng sẽ yêu mến bà như vậy.

Chúng tôi hỏi đức bà có thường đến đây không, th́ được đáp:

Có chứ! Mẫu thân thường đến luôn luôn khi nào chúng tôi cần đến bà. Nhưng bà mắc bận rộn công việc trong lănh vực hoạt động của bà nên bà chỉ đến đây một năm có hai lần, và ngày hôm nay chính là ngày thăm viếng định kỳ của bà. Lần này bà sẽ ở lại với chúng tôi một tuần. Chúng tôi sung sướng đến nỗi không c̣n biết làm ǵ trong khi chờ đợi.

Câu chuyện xoay qua những kinh nghiệm của chúng tôi kể từ khi chúng tôi chia nhau đi riêng từng toán, và cuộc thảo luận đang đến hồi sôi nổi hào hứng th́ th́nh ĺnh một cơn im lặng xâm chiếm lấy chúng tôi. Trước khi nhận biết điều đó, tất cả chúng tôi đều ngồi im không ai nói ǵ và cũng không ai nghĩ ngợi điều ǵ.

Bóng tối của ban đêm đă bao trùm khắp nơi, và dăy núi tuyết ở xa xa coi giồng như một con quái vật khổng lồ. Kế đó chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ, giống như tiếng con chim sẽ đậu dưới đất. Một đám sương mù dường như đông dặc lại từ từ ở hướng đông của vách tường rào, rồi th́nh ĺnh tượng h́nh một cách rơ rệt.

Trước mặt chúng tôi lúc đó là một người đàn bà nhan sắc diễm kiều bao phủ bởi một vầng hào quang sáng chói đến nổi chúng tôi không thể nh́n thấy rơ tận mắt.

Cả gia quyến đều đổ xô về phía người đàn bà đó, hai tay đưa thẳng ra phía trước và đồng thanh kêu to:

Mẫu thân!

Bà Mă Ly nhẹ nhàng từ bờ tường bước xuống sân thượng và ôm hôn mỗi người thân quyến như mọi người hiền mẫu trong dịp tái ngộ với con cái. Kế đó, chúng tôi được giới thiệu với bà. Bà nói:

- À! Các ông là những huynh đệ từ Mỹ quốc xa xôi đến đây để thăm viếng chúng tôi? Tơi rất sung sướng chúc mừng các ông. Chúng tôi ban rải t́nh thương cho tất cả, và nếu những người đàn ông sẵng ḷng để cho chúng tôi tự nhiên, th́ chắc hẳn là chúng tôi cũng ôm lấy họ trong ṿng tay như tôi vừa đón mừng những người mà tôi gọi là thân bằng quyến thuộc của tôi.

V́ thật ra chúng ta chỉ là thành phần của một đại gia đ́nh, tức là gia đ́nh những người con của Thượng Đế. Vậy tại sao chúng ta không thể sum họp tất cả với nhau như anh em một nhà?

Chúng tôi vừa nhận thấy rằng thời tiết miền núi về đêm cũng khá lạnh. Nhưng khi đức bà Mỹ Ly xuất hiện, th́ sự hiện diện của bà tỏa ra một mănh lực nó biến đổi bầu không khí nơi đây trở thành bầu không khí của một đêm mùa hè.

Khí trời dường như đượm mùi hương của bông hoa. Một ánh sáng dịu giống như ánh trăng rằm thấm nhuần mọi vật, và làm cho cảnh vật chung quanh được bao phủ trong một sự ấm cúng lạ lùng khó tả. Tuy nhiên, các Chân Sư không biểu lộ một cử chỉ nào gọi là kiểu cách. Các ngài có một lối xử thật khả ái hồn nhiên và vô cùng giản dị.

Có một người đề nghị đi xuống nhà dưới. Đức bà Mỹ Ly và các bà phu nhân dẫn đường đi trước. Chúng tôi nối gót đi theo sau, và những người gia nhân đi sau cùng. Trong khi chúng tôi đi xuống cầu thang như thường lệ, chúng tôi nhận thấy rằng bước chân chúng tôi không gây một tiếng động nào.

Tuy nhiên, chúng tôi không hề cố gắng giữ im lặng. Một người trong chúng tôi c̣n thú thật là y đă thử đi nặng bước nhưng cũng không gây tiếng vang. Dường như bàn chân chúng tôi đi không chấm đất trên sân thượng hay trên những nấc cầu thang.

Trên tầng lầu các buồng ngủ, chúng tôi bước vào một gian pḥng trang hoàng rất đẹp và ngồi an tọa. Chúng tôi liền nhận thấy mỗt sự ấm áp dễ chịu, và một ánh sáng dịu tỏa khắp pḥng, mà chúng tôi không hiểu từ đâu đến.

Gian pḥng đắm ch́m một lúc trong cơn im lặng thâm trầm, kế đó đức bà hỏi thăm chúng tôi có chỗ nghỉ đàng hoàng tươm tất không, có được săn sóc tử tế không, và cuộc hành tŕnh có làm chúng tôi được thỏa măn không?

Chúng tôi nói chuyện thường về cuộc đời hằng ngày, mà bà có vẻ rất thành thạo. Kế đó câu chuyện xoay về vấn đề đời sống của chúng tôi trong gia đ́nh. Đức bà kể tên họ của cha mẹ, và anh chị em trong gia đ́nh chúng tôi, và làm chúng tôi ngạc nhiên bằng cách diễn tả cuộc đời chúng tôi từng chi tiết mà không hỏi chúng tôi một câu nào.

Đức bà kể những xứ mà chúng tôi đă viếng thăm, những công tŕnh mà chúng tôi đă thực hiện, và những lỗi lầm mà chúng tôi đă mắc phải. Đức bà không nói một cách mơ hồ nó bắt buộc chúng tôi phải rán nhớ lại những kỷ niệm cũ, mà trái lại mỗi chi tiết đều rơ ràng dường như chúng tôi sống lại những giai đoạn đă qua.

Khi các vị quư khách kiếu từ để lui về pḥng riêng, chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà nghĩ rằng không có ai trong các vị đă sống ít hơn một trăm tuổi, và đức bà đă có bảy trăm tuổi, trong số đó bà đă trải qua sáu trăm năm trên địa cầu và sống trong thể xác vật chất.

Tuy vậy, tất cả các vị đếu đầy nhiệt tính và vui tươi như tuổi hai mươi, điều đó thật là tự nhiên và không kiểu cách hay gượng ép chút nào. Mọi việc đă xảy ra dường như chúng tôi sống chung với những giới người trẻ.

Trước khi lui gót để về pḥng riêng, các vị đă cho chúng tôi biết trước rằng sẽ có đông quan khách đến dự bữa ăn tại quán trọ chiều ngày hôm sau, và chúng tôi cũng được mời tham dự.



2. Một Buổi Dạ Tiệc Với Các Chân Sư



Trưa hôm sau, tất cả các toán trong cuộc hành tŕnh của chúng tôi về đến nơi. Chúng tọi trải qua suốt buổi chiều hôm đó để đối chiếu những bản ghi nhận của chúng tôi và thấy mọi sự đều ăn khớp nhau một cách đúng đắn.

Khi mọi việc đă xong xuôi, chúng tôi được mời đi thẳng đến quán trọ để dùng cơn chiều, khi đến quán trọ, chúng tôi thấy có độ ba trăm người chung quanh những bàn tiệc dài. Người ta dành cho chúng tôi những chỗ ngồi ở một đầu của gian pḥng.

Tất cả những bàn ăn đều có trải khăn bằng vải trắng mịn rất đẹp, trên có bày chén dĩa bằng bạc và bằng sứ như một bữa dạ tiệc long trọng, tuy nhiên chỉ có một cái đèn nhỏ duy nhất để thắp sáng khắp gian pḥng.

Sau khi chúng tôi đă ngồi an tọa được chừng hai mươi phút và tất cả các chỗ ngồi đều đầy đủ những quan khách trừ ra một vài chỗ c̣n trống ở rải rác đó đây, một cơn im lặng thâm trầm ngự khắp pḥng và trong khoảnh khắc một ánh sáng mờ nhạt đă tỏa khắp chốn.

Ánh sáng ấy mỗi lúc càng tỏ rạng thêm dường như hằng ngh́n bóng đèn diện ẩn dấu một cách khéo léo ở đâu đây đă từ từ được thắp lên. Gian pḥng trong giây lát đă trở lên sáng rực, và tất cả các đồ vật đều chiếu rạng ngời. Về sau chúng tôi được biết rằng làng này không hề có hệ thống cung cấp điện lực.

Sau đó, cơn im lặng kéo dài độ một khắc đồng hồ; h́nh như có một đám sương mù từ từ đông đặc lại, chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ giống như ngày hôm trước, rồi th́nh ĺnh xuất hiện bà Mă Ly, thân mẫu của đức Tuệ Minh. Đám sương mù tan dần, và chúng tôi thấy cùng đứng rải rác trong gian pḥng, bà Mă Ly và một người khác, gồm có chín người nam và hai người nữ.

Tôi không biết dùng danh từ nào để diễn tả cái đẹp của cảnh tượng ấy. Thật không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng những nhân vật ấy đă xuất hiện như một đoàn thiên thần, nhưng không có cánh. Các vị đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng về phía trước, trong một cử chỉ chờ đợi.

Kế đó, vang lên những âm thanh của một ban hợp ca vô h́nh kèm theo một điệu nhạc thanh tao huyền diệu nhất mà người ta có thể tưởng tượng. Tôi đă từng nghe nói về những nhạc điệu thần tiên, nhưng chưa hề được nghe bao giờ; cho đến ngày hôm ấy, tôi mới biết thế nào là những âm thanh của cơi Trời. Có thể nói rằng chúng tôi nghe nhạc điệu ấy mà có cảm giác như cất nhẹ ḿnh lên khỏi mặt ghế.

Sau bản hợp ca, mươi hai vị bèn bước đến chỗ ngồi của ḿnh, Chúng tôi lại có dịp nhận thấy rằng các vị bước đi êm như ra không gây tiếng động, tuy rằng các vị không làm một cố gắng đặc biệt nào để giữ im lặng.

Khi các vị đă an tọa, một đám sương mù giống như lúc năy lại xuất hiện, và lại tan dần, rồi mười hai vị khác nữa xuất hiện, gồm có một người nữ và mười một ngườ nam, trong số đó có vị tổ sư, tác giả văn kiện. Các vị đứng yên một lúc, và giọng hợp ca vô h́nh lại trổi lên lần thứ nh́. Sau bài hát, mười hai vị bước đến chỗ ngồi vàcũng không gây lên một tiếng động.

Khi các vị vừa an tọa, đám sương mù lại xuất hiện lần thứ ba, và khi nó vừa tan th́ mười vị khác đứng xếp thành hàng, sáu người nam và bảy người nữ, xuất hiện ở đầu kia gian pḥng.

Ở chính giữa là một thiếu phụ trẻ dưới hai mươi tuổi với ba người nam và ba người nữ đứng ở hai bên. Tất cả những người nữ đă xuất hiện cho đến khi đó đều rất đẹp, những người thiếu phụ này lại c̣n đẹp hơn tất cả các vị khác.

Mười ba vị đến sau cũng đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng và nhạc điệu lại trổi lên lần nữa. Sau vài điệp khúc, tiếng hợp ca lại ḥa điệu với âm nhạc. Chúng tôi đứng dậy, và trong khi nhạc khúc vẫn tiếp diễn, dường như chúng tôi thấy hằng ngàn h́nh bóng thần tiên vừa múa lượn chung quanh vừa hát theo một lượt.

Không có giọng hát nào buồn cũng không có âm điệu bi thương. Nhạc điệu trổi lên với những âm thanh vui tươi nhẹ nhàng, xuất phát tự tâm hồn và truyền cảm đến người nghe, làm cho tâm hồn chúng tôi được nâng cao lần lần cho đến khi chúng tôi có cảm giác lâng lâng thoát tục.

Sau điệu hợp ca, mười ba vị mới đến sau bước tới chỗ ngồi và an tọa, nhưng nhăn quan chúng tôi không thể tách rời khỏi nhân vật chính giữa, người thiếu phụ đẹp tuyệt trần này tiến đến bàn của chúng tôi cùng với hai người nữ khác đi kèm ở hai bên. Thiếu phụ ngồi an tọa cùng với hai người vị đi kèm ở đầu bàn chúng tôi.

Người ta mau đặt một chồng dĩa ở bên tay trái của thiếu phụ. Ánh sáng trong pḥng lu mờ trong một lúc, chúng tôi nhận thấy chung quanh mỗi người trong ba mươi sáu vị đă xuất hiện, đều có một vầng sáng nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên, và một vầng hào quang đẹp lộng lẫy chói sáng trên đầu của vị nữ quư khách danh dự. Trong cử tọa, chúng tôi là những người duy nhất bị xúc động sâu xa bởi cảnh tượng này, c̣n những vị khác th́ không thấy ǵ khác thường.

Khi tất cả mọi người đều an tọa, cơn im lặng kéo dài một lúc trong gian pḥng, kế đó phần động những người có mặt đều cất tiếng hợp ca một khúc nhạc vui tươi dưới sự điều khiển của ba mươi sáu vị đă xuất hiện.

Khi bài hợp ca chấm dứt, vị nữ quư khách danh dự đứng dậy đưa hai bàn tay ra, th́ thấy xuất hiện trên tay một ổ bánh ḿ nhỏ dài độ ba tấc rưỡi, đường kính năm phân tây. Mỗi người trong ba mươi sáu vị đứng dậy bước đến gần bà, và nhận được một ổ bánh ḿ tương tự.

Kế đó, các vị đi ṿng quanh tất cả các bàn để phân phát cho tất cả mỗi người một mẫu bánh ḿ. Người thiếu phụ cũng làm như y vậy ở tại bàn chúng tôi.

Vừa phân phát bánh ḿ cho chúng tôi, bà nói:

- Các bạn có biết chăng đấng Christ ngự trong các bạn cũng như trong mỗi người? Các bạn có biế chăng thân thể các bạn vốn trong sạch, hoàn hảo, trẻ trung, luôn luôn tốt đẹp và thiêng liêng?

Các bạn biết chăng Chúa Trời đă tạo ra các bạn đúng theo h́nh ảnh của Ngài và giống y như Ngài, và đă ban cho các bạn quyền năng đối với mọi vật? Trong bản chất, các bạn luôn luôn là một đấng Christ,

Con của Chúa Trời. Các bạn vốn tinh khiết, toàn hảo, thánh thiện, thiêng liêng, hợp nhất với Chúa Trời là đấng Trọn Lành. Và mỗi người Con của Ngài đều có quyền tuyên bố sự hợp nhất và thiêng liêng đó.

Sau khi đă ban cho chúng tôi mỗi người môt mẫu bánh ḿ, thiếu phụ bèn an tọa. Ổ bánh ḿ nhỏ của bà vẫn c̣n nguyên vẹn như trước khi chia cho chúng tôi. Khi cuộc lễ khai mạc chấm dứt, th́ thức ăn bắt đầu được đem tới. Thức ăn đến với mọi người trong những cái tộ lớn có đậy nắp, những tộ này xuất hiện trước mặt các vị nữ khách dường như được đặt bởi những bàn tay vô h́nh.

Người thiếu phụ mở các nắp tộ để qua một bên, và bắt đầu múc thức ăn ra dĩa. Mỗi khi múc đầy một dĩa, bà đưa luân phiên qua hai vị nữ khách ngồi hai bên, hai vị này chuyền dĩa khắp các bàn, và tất cả các quan khách đều được cung cấp thức ăn đầy đủ. Khi đó các quan khách bắt đầu ăn và nhận thấy thức ăn rất là ngon.

Khi bữa ăn vừa bắt đầu, Tô Mặc hỏi người thiếu phụ rằng theo bà th́ đức tính nào của Thượng Đế là cao quư nhất. Không chút do dự, bà đáp:

- T́nh thương. Kế đó bà nói tiếp Cái "Cây Sinh Hoạt" vốn ở giữa cơi Thiên đàng của Chúa Trời, ở tận nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn con người. Trái cây phong phú và tốt lành nó mọc và trở nên chín mùi một cách toàn vẹn nhất, trái cây ngon lành và bổ dưỡng nhất, chính là T́nh Thương.

Những người nhận thức được chân tính của nó, đă định nghĩa nó như vật cao cả nhất trên thế gian. Tôi xin nói thêm rằng đó là cái mănh lực hàn gắn cứu chữa lớn nhất trên đời. T́nh thương không bao giờ làm ngơ trước sự đ̣i hỏi của ḷng người.

Người ta có thể sử dụng nguyên tắc thiêng liêng của T́nh Thương để ứng đáp tất cả những nhu cầu của nhân loại và loại trừ mọi sự buồn thảm, tật ách, và những sự lầm than thống khổ của người đời.

Nhờ hiểu biết và sử dụng t́nh thương đúng chỗ, nhờ ảnh hưởng tế nhị và vô biên của T́nh Thương, tất cả những vết thương của thế gian có thể được chữa khỏi. T́nh bác ái thiêng liêng có thể sửa chữa, hàn gắn tất cả mọi sự bất ḥa, vô minh và tội lỗi của nhân loại.

Khi T́nh Thương chan ḥa khắp chốn, nó thức rộng đến những nơi khô khan tẻ lạnh của ḷng người và những nơi khốn khổ của cuộc đời. T́nh Thương có thể cứu chuộc được nhân loại và biến cái thế gian như một phép mầu. T́nh Thương là Thượng Đế, nó vốn trường cửu, vô biên, bất biến rộng răi và bao la ngoài sự tưởng tượng.

Bạn bị đè bẹp dưới áp lực nặng nề của cuộc đời hằng ngày chăng? Bạn cần có ḷng can đảm và sức mạnh tinh thần để đối phó với những khó khăn trắc trở của ḿnh chăng? Bạn bị đau ốm, sợ hăi chăng? Nếu vậy bạn hăy nâng cao tâm hồn và cầu nguyện đấng Tối Cao chỉ đường cho bạn.

T́nh Thương bất diệt của Thượng Đế che chở cho bạn, bạn không cần phải sợ sệt ǵ cả. Đức Chưởng Giáo há chẳng nói rằng: "Trước khi người khấn nguyện, Ta đă đáp ứng, trước khi người nói dứt lời, Ta đă nghe."

Bạn hăy can đảm tiến đến gần ngài, bạn hăy từ bỏ thái độ cầu khẩn van xin của ḿnh, hăy cầu nguyện với một đức tin minh mẫn, và biết rằng sự giúp đỡ mà bạn cần, đă được ban bố cho bạn. Bạn đừng bao giờ nghĩ nản. Bạn hăy cố làm hơn thế nữa, hăy đ̣i hỏi.

Bạn hăy tuyên bố như đức Jesus cái quyền được sinh trưởng làm Con của Chúa Trời. Hăy biết rằng có một khí Hạo Nhiên vô h́nh bao trùm khắp vũ trụ, trong đó chúng ta đang sống và tiến hóa. Trong chất Tiên Thiên Khí đó, có tất cả những vật tốt lành và toàn hảo mà con người có thể mong muốn. Những vật tốt lành đó chỉ đợi đến khi nào con người biểu lộ đức tin của y, để xuất hiện dưới h́nh thức rơ ràng và cụ thể.

Bạn hăy nhớ chuyện vua Salomon trong đêm kinh nghiệm huyền linh của ngài, khi ngài nâng cao tâm hồn lên tận cơi tâm thức vũ trụ, khi đó ngài cầu xin cho cuộc đời ngài tránh khỏi thói ích kỷ và dành cho công việc phụng sự nhân loại. Việc ấy đă đem đến cho ngài những kho tàng của cải vô tận, không kể những danh vọng mà ngài không bao giờ dám nghĩ tới.

Ngài đă nh́n nhận sự minh triết của T́nh Thương, và T́nh Thương đă ban rải cho ngài những của cải kho tàng phong phú vô tận. "Tiền bạc không có giá trị ǵ dưới thời đại của vua Salomon." Thậm trí, đồ chén dĩa của vị vua đầy ḷng bác ái đó cũng được đức bằng vàng khối. Bạn rải T́nh Thương, tức là mở rộng cửa kho vô tận chứa đầy những kho tàng vàng bạc của Thượng Đế. Người nào đă biết thương yêu đồng loại, không thể không cho ra. Nhưng cho tức là được.

Đó là cái tác động của luật Bác Ái. Khi ta đem cho họ, chúng ta vận chuyển cái định luật bất di bất dịch này là "Cho bao nhiêu, được bấy nhiêu." Khi người ta cho ra là không có hậu ư muốn thu nhận, người ta không khỏi được nhận lănh, v́ những ǵ ta đem cho sẽ được hoàn trả lại cho ta một cách dồi dào do sự tác động của luật Nhân Quả. "Bạn hăy cho, rồi bạn sẽ nhận được với một dung lượng đầy tràn, dồi dào, phong phú gấp bội..."

Nếu chúng ta hành động với tinh thần Bác Ái, ta phải làm sao cho Thượng Đế hiện diện trong lương tri của chúng ta. Đồng hóa với Sự Sống, T́nh Thương và Minh Minh Triết, tức là tiếp xúc một cách có ư thức với Thượng Đế, tức là nhận được một cách sung măn, dồi dào giống như những thức ăn dồi dào mà chúng ta đă thọ lănh hồi chiều nay. Các bạn thấy rằng sự sung túc được dành cho tất cả mọi người và không ai là người bị thiếu thốn.

Luật trời luôn luôn tác động một cách trường cửu, nó luôn luôn vẫn y như thế, bây giờ cũng như bao giờ. Luôn luôn bất biến không hề dời đổi, Luật Trời bao giờ cũng tốt lành. Nếu chúng ta sống thuận theo Thiên Ư, th́ Luật Trời sẽ trở nên những nền tảng vững chắc để chúng ta xây dựng sức khỏe, hạnh phúc, sự bằng an, sự quân b́nh và sự thành công.

Nếu chúng ta hoàn toàn sống thuận theo Luật Trời th́ không một tai họa đau khổ nào có thể xảy đến trong đời chúng ta. Chúng ta không cần được cứu chữa khỏi bệnh tật nào cả, v́ chúng ta vốn lành mạnh từ sợi tóc chí đến đầu móng chân.Chúng ta hiểu rơ niềm khát vọng sâu xa, nó ray rứt trong tâm hồn của nhân loại!

Không ǵ có thể chữa khỏi sự nhớ nhung ray rứt đó, trừ ra một sự thông hiểu rơ ràng, một ư thức rơ rệt về đấng Cha Lành của chúng ta, là Chúa Trời vậy. Không có một sự mong mỏi khát khao nào sống động trong linh hồn con người cho bằng sự khát khao mong mỏi được biết Thượng Đế. "Và biết được Thượng Đế, tức là đạt tới sự sống trường cửu."

Chúng ta thấy rằng những người luôn luôn lao chao, bôn tẩu, để hy vọng t́m thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn bằng cách thực hiện một vài công tŕnh nào đó, hay t́m sự yên vui trong việc chiếm hữu một tài sản vật chất nào đó, mà tài sản ấy hiển nhiên là một vật hữu h́nh hữu hoại. Chúng ta thấy họ theo đuổi và cũng đạt được những mục đích đó, nhưng rốt cuộc họ vẫn không được thỏa măn.

Có người tưởng tượng rằng họ cần có nhà cửa, đất ruộng; có người nghĩ rằng họ cần có một gia tài lớn; những người khác cho rằng họ cần có sự hiểu biết và kiến thức dồi dào. Chúng ta có cái vinh dự được biết rằng con người vốn sợ hữu tất cả những thứ ấy ở tự nơi ḿnh...

Thiếu phụ im lặng một lúc, kế đó một người trong chúng tôi đứng dậy đưa câu hỏi về luật tương đối và được thiếu phụ giải đáp thỏa đáng.

Câu chuyện chấm dứt tại đó. Bữa ăn chiều đă xong, người ta dọn bàn ghế ra khỏi pḥng. Khi bắt đầu một giai đoạn giải trí, có vũ và nhạc. Âm nhạc do khúc hợp ca vô h́nh trổi lên, và tất că chúng tôi đều cùng nhau trải qua một giờ vui vẻ trước khi chia tay.

Chúng tôi ở lại làng này hết ba ngày, trong khi đó chúng tôi đă thấy lại một số lớn những vị quư khách đă xuất hiện đến với chúng tôi trong đêm trước. Chiều ngày thứ ba, các vị xin cáo biệt và hứa sẽ gặp lại nhau tại căn cứ điểm mùa đông của chúng tôi, kế đó các vị biến mất dạng.



3. Người Thiếu Phụ Đẹp Tuyệt Trần



Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng và đi trong ba ngày trên con đường ṃn xuyên qua một vùng núi non gồ ghề hiểm trở, dân cư thưa thớt đến nỗi chúng toi phải cắm lều để ngủ lại ban đêm.

Chúng tôi không có đem lương thực, nhưng mỗi khi cần ăn uống, th́ luôn luôn có sẵn đồ vật thực trong tầm tay. Khi chúng tôi vừa sửa soạn ngồi ăn, th́ những thức ăn liền xuất hiện một cách đầy đủ. Không bao giờ chúng tôi thiếu ăn, và luôn luôn ăn uống thừa thăi.

Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một vùng cao nguyên rộng lớn mà chúng tôi phải đi xuống lần lần để đến nơi thôn ấp mà chúng tôi muốn đến viếng. Kể từ khi đó, con đường của chúng tôi vượt qua một vùng ph́ nhiêu và đông dân cư.

Chúng tôi chọn thôn ấp này làm căn cứ mùa đông v́ nó ở ngay trung tâm của vùng mà chúng tôi đến viếng. Chúng tôi hy vọng rằng điều ấy sẽ đem cho chúng tôi cái cơ hội hằng mong ước là có dịp kéo dài hơn sự tiếp xúc hằng ngày với các vị Chân Sư.

Một số lớn những vị siêu nhân mà chúng tôi đă gặp ở rải rác nhiều nơi, hiện đang sống tại làng này và tất cả các vị đều khẩn khoản mời chúng tôi đến viếng các Ngài. Chúng tôi có cảm giác rằng trong khi lưu trú tại làng này vào mùa đông, chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội tốt để quan sát cuộc đời hằng ngày của các Ngài một cách gần gũi hơn.

Chúng tôi đến làng này ngày hai mươi tháng mười một, và từ căn cứ đó chúng tôi mở một loạt các cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm cho mọi sự di chuyển trở nên khó khăn.

Chúng tôi được dọn chỗ ở tiện nghi, dân làng niềm nở tiếp đón, và chúng tôi chuẩn bị ḥa ḿnh với cuộc sống của dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa đón chúng tôi, chúng tôi được cho biết rằng ở đây nhà nhà đều không đóng cửa, v́ dân làng coi tất cả mọi người như anh em.

Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một bà thiếu phụ có tiếng tăm trong làng này, mà chúng tôi đă gặo ở vùng ven biên giới. V́ chúng tôi đă yên nơi yên chỗ, chúng tôi không thấy cần thiết phải làm quấy rầy bà, nhưng bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng chúng tôi không có quấy rầy ǵ bà hết cả. Bởi đó chúng tôi dọn đồ hành lư sang ở nhà bà và ở luôn tại đó cho đến măn cuộc hành tŕnh.

Tôi không hề quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với bà trong một tỉnh thành nhỏ ở ven biên giới. Khi bà được giới thiệu với chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bà trạc độ bốn mươi tám tuổi, và nhận thấy bà rất đẹp.

Độc giả sẽ tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào khi chúng tôi biết được rằng thiếu phụ đă có trên bốn trăm tuổi và là một trong những nhà giáo mô phạm được mến chuộng nhất vùng ấy. Bà đă dành trọn cuộc đời vào việc phụng sự kẻ khác. Khi chúng tôi ở nhà bà và sống cạnh bà hằng ngày, chúng tôi đă hiểu tại sao bà được mến chuộng dường ấy.

Trong lần gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi thấy bà trong hai tuần liên tiếp nhưng cá tính của bà chỉ biểu lộ thật sự khi chúng tôi sống tại nhà bà. Người ta không thể nào làm khác hơn là yêu mến và kính trọng bà. Vả lại, chúng tôi càng biết rơ các vị Chân Sư, th́ chúng tôi lại càng yêu mến và kính trọng các ngài.

Chúng tôi đă có dịp đối chiếu những lời xác định về tuổi tác của các ngài với những tài liệu xác thật cũng như tập du kư này. Chúng tôi ở tại nà thiếu phụ và dùng cơm chung một bàn với bà hằng ngày kể từ đầu tháng Mười Hai năm 1895 đến tháng tư năm 1896.

Chúng tôi đă có dịp quan sát tỉ mỉ đời sống của bà và cuộc đời của nhiều vị Chân Sư khác cư ngụ tại làng này. Chúng tôi nhận thấy tất cả đều là những cuộc đời lư tưởng.



4. T́nh Bác Ái Thiêng Liêng



Thời gian trôi qua mau đến cuối tháng chạp. Năm đă hầu tàn. Chúng tôi nhận thấy một số đông người kéo đến làng v́ một cuộc lễ mà trên thực tế chỉ có các Chân Sư mới tham dự.

Ngày nào người ta cũng giới thiệu với chúng tôi những người lạ mặt. Tất cả đều nói tiếng Anh, và chúng tôi có cảm giác như ḿnh đồng hóa với sự sinh hoạt của làng.

Một ngày nọ, chúng tôi được cho hay rằng cuộc lễ của làng diễn ra trong đêm Giáng Sinh và chúng tôi được mời đến dự. Người ta nói thêm rằng cuộc lễ không dành cho người ngoại quốc. Tuy nhiên, cuộc hội họp không phải riêng tư. Vả lại, không có một cuộc họp nào của các Chân Sư là riêng tư. Cuộc họp nhằm mục đích quy tựu những người bắt tay vào công việc tâm linh, những người đă đặt cho công việc ấy một tầm quan trọng, nghiêm chỉnh, và đă tiến bộ khả quan để xác nhận sự mong ước của họ là sống cuộc đời thánh thiện.

Họ đến một nơi mà họ đă chấp nhận một tâm thức cao cả hơn, và hiểu rơ cái vị trí mà nó phải có trong cuộc đời của họ. Một cuộc hội họp quần chúng như thường diễn ra vào mùa này trong năm ở một nơi đă định sẵn từ trước, để cho họ tham dự cuộc lễ. Năm ấy, địa điểm hành lễ được chọn lựa lại là nơi thôn ấy mà chúng tôi đang trú ngụ.

Sáng ngày được ấn định cho cuộc hội họp, ánh b́nh minh thật là trong sáng, và hàn thử biểu chỉ trên hai mươi độ dưới số không. Tất cả chúng toi đều bồn chồn, với cảm giác rằng đêm ấy sẽ đem lại một kinh nghiệm mới nữa thêm vào những sự lư thú đă xảy ra trong chuyến du hành của chúng tôi.

Chúng tôi đến nơi hội họp vào lúc tám giờ tối và thấy có độ hai trăm người tề tựu tại đó. Gian pḥng được trang trí tốt đẹp và được thắo sáng bằng phương pháp huyền diệu như đă diễn tả trước đây.

Chúng tôi biết rằng bà chủ nhà của chúng tôi sẽ chủ tọa cuộc hội họp. Bà đến sau chúng tôi ít lâu, và khi bà bước vào gian pḥng, tất cả chúng tôi đều khen thầm sự trẻ trung và kiều diễm của bà.

Bà mặc một chiếc áo dài trắng rất đẹp, nhưng không lúc nào sé sua để làm cho người khác chú ư đến ḿnh. Bà lẳng lặng bước lên một cái sàn gỗ và bắt đầu thuyết pháp. Bà nói:

- Chúng ta hội họp chiều nay với một mong ước được hiểu rơ ư nghĩa của sự chuyển tiếp từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái siêu việt hơn. Chúng tôi xin chúc mừng những người nào trong quư vị đă được chuẩn bị cho sự chuyển tiếp đó.

Trước tiên, quư vị đă theo chúng tôi do bởi sự ưa thích công việc mà chúng tôi làm. Trước hết quư vị đă theo dơi những công việc đó một cách ngạc nhiên và sợ hăi v́ quư vị cho rằng đó là những việc nhiệm mầu. Bây giờ quư vị coi đó là những điều tự nhiên của một cuộc đời gương mẫu, như Thượng Đế vẫn mong ước chúng ta phải sống.

Vào giờ phút này, quư vị đă biết chắc rằng chúng tôi không có thực hiện một phép lạ nào cả. Quư vị đă hiểu cái ư nghĩa tâm linh thực sự của những ǵ mà quư vị đang làm.

Chuyển tiếp từ trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái cao hơn có nghĩa là gạt bỏ cái thế giới vật chất dẫy đầy những sung đột và va chạm để chấp nhận cái Tâm Thức Bồ Đề hay tâm thức của đấng Christ. Khi đó, th́ tất cả đều là mỹ lệ, điều ḥa, và toàn thiện.

Đó tức là phép sinh hoạt tự nhiên, đó là phép sống mà Thượng Đế đă chọn lựa cho chúng ta, và đức Jesus đă nêu một gương sáng huyền diệu thay trên thế gian. Cách sống ích kỷ là phản tự nhiên. Đó là con đường chông gai, trắc trở. Con đường của đấng Christ thật là dễ dàng và tự nhiên nếu chúng ta hiểu rơ được nó! Người nào theo con đường đó tức là sống trong Tâm Thức của đấng Christ hay Tâm Thức Bồ Đề.

Chúng ta đang ngồi chung quanh những bàn đă bày sẵn thức ăn. Đây là cơ hội duy nhất mà chúng ta tựu họp trong một bữa tiệc như những kẻ thế nhân phàm tục vẫn thường quan niệm. Nó là một bữa tiệc thông đạt và thực hiện, biểu tượng cuộc Lễ Chuyển Tiếp như hồi thời đại của đức Jesus, cuộc Lễ Phục Sinh (Pâque), tức sự chuyển tiếp (thường không được hiểu rơ vào thời đại này) của tâm thức phàm tục lên tâm thức Bồ Đề.

Chúng tôi tin rằng một ngày kia tất cả những người con của Thượng Đế sẽ hội họp quanh một bữa tiệc tương tự và hiểu rơ cái ư nghĩa thật sự của nó.

Chiều hôm nay, trong số những vị thực khách ngồi quây quần nơi đây, có vài vị đă hoàn toàn tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển bằng thể xác lên tận những cảnh giới cao siêu nhất của cơi Thượng Thiên để học Đạo thượng đẳng.

Tất cả những vị ấy đă từng sống một thời gian trong thể xác hữu h́nh trên địa cầu, và khi viên tịch, các ngài đă đem thể xác theo đến một nơi địa hạt tâm thức làm cho các ngài trở nên vô h́nh đối với người trần gian. Chúng ta phải nâng cao tâm thức lên đến mức độ Tâm Thức Bồ Đề để có thể tiếp xúc với các vị ấy. Nhưng các ngài có thể trở lại với chúng ta và ra đi tùy ư muốn.

Các ngài có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người nào thụ cảm đối với giáo lư của ngài, và xuất hiện hay biến mất tùy ư muốn. Chính các ngài đến dạy Đạo cho chúng ta khi chúng ta sẵn sàng thụ huấn các ngài, hoặc bằng trực giác, hoặc bằng cách gián tiếp xúc tự bản thân. Nam vị trong các ngài sẽ đến dùng bữa chung với chúng ta chiều nay.

Trong số đó có một vị nữ thánh mà chúng tôi đặc biệt yêu mến, v́ bà là mẹ của một vị trong chúng tôi, và trước kia đă từng sống chung với chúng tôi, và trước kia đă từng sống chung với chúng tôi. (Đó là thân mẫu của đức Tuệ Minh.) Bây giờ chúng ta hăy ngồi vào bàn ăn...

Ánh sáng trong gian pḥng hạ thấp xuống trong một lúc, và tất cả các quan khách đều ngồi trong cơn im lặng hoàn toàn, đầu hơi ngiêng về phía trước. Kế đó, ánh sáng lại tỏ rạng. Năm vị chân sư đă xuất hiện trong gian pḥng, ba vị nam và hai vị nữ, tất cả đều mặc y phục trắng tinh, tất cả đều có một vẻ đẹp lộng lẫy và bao phủ bởi một vầng hào quang sáng dịu.

Các ngài âm thầm tiến bước, và mỗi vị đều an tọa nơi chỗ ngồi c̣n để trống của ḿnh ở đầu một bàn trong năm bàn dài. Đức bà Mă Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, ngồi nơi chỗ danh dự ở tại bàn của chúng tôi cùng với vị Trưởng nhóm chúng tôi ngồi bên tay mặt và đức Tuệ Minh ngồi bên tay trái bà.

Khi các ngài đă an tọa, th́ những thức ăn bắt đầu xuất hiện, Bữa ăn rất giản dị, nhưng rất ngon lành, gồm có bánh ḿ, rau đậu và trái cây.

Những câu chuyện kế tiếp là những huấn thị dành cho những người tới dự cuộc lễ. Đó là những huấn thị bằng tiến bổn xứ, và Dật Sĩ dịch lại cho chúng tôi nghe. Đức bà Mă Ly nói sau cùng. Bà nói tiếng Anh hoàn hảo, bằng một giọng trong suốt và rơ ràng. Dưới đây là những lời của bà:

- Hằng ngày chúng tôi thường sử dụng những mănh lực mà người đời chế diễu và nhạo báng. Có đặc ân được tiếp nhận và sử dụng những mănh lực ấy, chúng tôi cố gắng tận t́nh để chỉ dẫn cho người đời được biết. Bằng những tư tưởng của họ, người thế gian gạt bỏ ngoài đời những sự việc toàn hảo vốn nằm trong tần tay họ và chỉ đợi họ ra tay để nắm lấy.

Khi nào người ta thu đạt được những mănh lực ấy, th́ chúng nó sẽ trở nên vô cùng chân xác và sống động hơn là những của cải vật chất mà họ bám víu lấy một cách tuyệt vọng thay, bởi v́ họ có thể nh́n thấy, và cảm xúc được những thứ này bằng những giác quan vật chất hữu hạn của họ.

Các bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả những tiện nghi trong gian pḥng này và những pḥng của các bạn cư ngụ, như ánh sáng, nhiệt lực, và thậm chí những thức ăn mà các bạn dùng, đều do sự tác động của mănh lực ấy mà có. Các bạn gọi nó là tia sáng hay là ǵ, tùy ư.

Chúng tôi tiếp nhận nó như một quyền năng lớn của vũ trụ. Khi người ta tiếp xúc với mănh lực ấy, th́ nó tác động một cách vô cùng hữu hiệu cho họ hơn là nhiệt lực, điện khí, dầu hỏa hay than đá. Tuy nhiên, chúng tôi coi nó như là một trong những nguồn lực thấp kém nhất trong những nguồn tinh lực thiên nhiên.

Mănh lực ấy không những chỉ cung cấp tất cả mọi vận động lực hữu ích cho con người. Nó c̣n cung cấp nhiệt lực cần thiết cho mọi nhu cầu của họ, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, mà không tiêu thụ một mảy may nhiên liệu. Nó vốn hoàn toàn im lặng, và khi người ta sử dụng nó, nó loại trừ một phần lớn những tiếng ồn ào và sự loạn động mà hiện nay dường như không thể tránh khỏi.

Nó ở trong tầm tay bạn, ở chung quanh bạn; và chỉ đợi chờ bạn sử dụng. Khi bạn dùng nó, bạn sẽ thấy nó vô cùng giản dị hơn hơi nước hay điện lực rất nhiều.

Khi người đời đạt tới mức đó, họ sẽ thấy rằng tất cả những máy móc và phương thức vận chuyển mà họ đă phát minh chỉ là những sản phẩm của những quan niệm vật chất của họ. Họ tưởng rằng chính họ sản xuất ra những máy móc ấy và bởi vậy họ chỉ có thể tạo nên những đồ vật hữu h́nh hữu loại và bất toàn.

Nếu họ hiểu rằng tất cả đều phát xuất từ Thượng Đế, và ngài tự biểu lộ qua con người, th́ họ chỉ có sản xuất nên những đồ vật toàn hảo. Tuy nhiên trong việc sử dụng tự do ư chí, họ đă chọn lựa con đường chông gai trắc trở thay v́ hiểu rơ sự liên hệ của ḿnh với Thượng Đế và sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Ngài ban cho.

Họ sẽ tiếp tục con đường ấy cho đến khi họ nhận thức rằng phải có một con đường khác tốt đẹp hơn, và con đường này quả thật là có. Sau cùng họ sẽ biết rằng con đường của Thượng Đế là con đường tốt lành duy nhất. Chừng đó con người sẽ biểu lộ đức toàn mỹ toàn thiện mà Thượng Đế muốn thấy y biểu lộ ngay từ bây giờ.

"Các bạn có thấy chăng là các bạn phải tập trung vào đấng Thượng Đế vốn có ở tự nơi ḿnh, thu nhập từ nơi Ngài những ǵ là tốt lành, và do Chân Ngă thiêng liêng, vận chuyển tất cả những mănh lực tự nhiên của ḿnh."

Đến đây, một người trong chúng tôi hỏi rằng những tư tưởng và lời nói có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của chúng ta. Đức bà Mă Ly đưa tay ra, và lúc sau đó một vật nhỏ xuất hiện trên tay bà. Bà nói:

- Tôi bỏ một viên đá sỏi trong cái chén nước lạnh này. Viên sỏi rơi xuống nước tạo thành một trung điểm từ đó phát ra những làn sóng gợn đồng tâm. Những sóng gợn này càng lớn dần cho đến khi chúng đụng vào vành chén là cái giới hạn bên ngoài của chén nước. Theo con mắt phàm nh́n thấy, th́ những gợn sóng này gần như mất trớn và ngừng lại.

Thật ra khi những gợn sóng đụng vào vành chén th́ nó dội ngược lại trở về điểm mà viên sỏi nhỏ rơi xuống nước ở giữa chén và chúng không hề ngừng nghỉ trước khi đạt tới điểm đó. Đó là cái h́nh ảnh đúng đắn của tất cả những tư tưởng và lời nói mà chúng thốt ra.

Tư tưởng và lời nói làm vận chuyển vài loại âm ba phóng ra xa theo từng ṿng tṛn mỗi lúc càng lớn dần cho đến khi chúng bao trùm khắp vũ trụ. Kế đó chúng dội trở lại người nào đă phát ra chúng. Tất cả những tư tưởng và lời nói của chúng ta, dù tốt hay xấu, sẽ dội ngược trở lại chúng ta một cách chắc chắn những tư tưởng hay lời nói ấy...

Chúng tôi là những người đă tinh luyện thể xác đến mức có thể di chuyển đến nơi nào tùy ư, có cái đặc ân nh́n thấy cơi Thiên Giới và ở lại đó. Nhiều người được biết cơi ấy dưới danh từ "Cơi Trời thứ bảy," và coi nó như điều bí mật nhất trong các điều bí mật.

Ở đây cũng vậy, người đời đă lầm, Không là điều bí mật cả. Chúng tôi chỉ có đạt tới một cơi giới tâm thức nhờ đó chúng tôi trở nên thụ cảm đối với những giáo lư cao siêu nhất. Chính tại đó mà ngày nay đức Jesus đang ở.

"Đó là một cơi tâm thức tại đó chúng tôi biết rằng khi ta gạt bỏ sự chết, chúng ta có thể trở nên bất tử. Tại cơi ấy, con người vốn bất tử, trong sạch không tội lỗi, trường cửu, bất biến, giống như Thượng Đế. Đó là những nơi mà chúng ta biết ư nghĩa thật sự của sự Biến H́nh (Transfiguration), mà chúng ta có thể cảm thông với Thượng Đế và nh́n thấy Thượng Đế diện đối diện.

Mỗi người có thể đến đó và trở nên giống như chúng tôi. Không bao lâu, trạng thái tâm thức sẽ vượt lên tới một cơi giới tại đây chúng tôi có thể nói chuyện một cách b́nh đẳng với nhân loại và nh́n họ ngay vào tận mắt. Sự vô h́nh của chúng tôi chỉ là sự nâng cao tâm thức chúng tôi vượt lên trên b́nh diện của thế tục. Chúng tôi chỉ vô h́nh vô ảnh đối với những người trần gian mà thôi..."

Đức bà Mă Ly nói vừa dứt lời, th́ khúc hợp ca vô h́nh lại bắt đầu trổi lên. Lúc ấy là đúng nửa đêm cuối tháng mười hai và một năm mới đă bắt đầu. Như thế chấm dứt năm đầu tiên trong thời gian mà chúng tôi có hân hạnh được tiếp xúc với các bậc Chân Sư huyền diệu.







Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 98 of 1146: Đă gửi: 14 June 2010 lúc 8:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG NĂM


1. Một Ngôi Đền Đục Trong Hang Núi

Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự ǵ sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đă qua của ḿnh chỉ là những bước đầu trên con đường ḿnh sẽ đi qua.

Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đă gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xă giao thường lệ, người ấy nói:

- Các bạn đă đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đă cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Chúa Trời các bạn ở lại với chúng tôi đến tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mời các bạn đi viếng một ngôi đền đục trong núi đá ở phía ngoài làng này.

Chúng tôi được cho biết rằng người ta phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng ấy để "Ăn hàng". Làng này cũng bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đă tránh khỏi tai họa nhờ họ có thể trú ẩn trong ngôi đền.

Các vị Chân Sư đă sở hữu ngôi đền này cho do dân làng chuyển nhượng lại để ǵn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quư vô giá. Từ khi có sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đă chấm dứt, dân làng không c̣n bị tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống b́nh yên. Người ta nói rằng vài pho tài liệu kể trên quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals, cũng gọi là các "Huynh đệ Thánh Thiện", đă xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ d́u dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó.

Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siddhanta và các Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ. Sách Surya Siddhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa cho rằng sách ấy đă có từ ba muơi lăm ngàn năm về trước.

Những Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ đă có từ bốn mươi lăm ngàn năm. Không phải tất cả những tài liệu văn kiện của ngôi đền là những bản chánh, v́ nhiều tài liệu đă được chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được di chuyển đến đây để được giữ ǵn an toàn. C̣n những bản chính từ cổ xưa là những nguyên bản đă có từ thời đại của Osiris và của châu Atlantide.

Những khách viếng thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít, ngoài ra những vị Chân Sư đă có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh thật sự.

Người khách lạ nói tiếp:

- Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ vừa qua đă thuộc về dĩ văng, không c̣n trở lại cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là trong tư tưởng, do những công tŕnh đă thực hiện. Một trang trong quyển lịnh đời của chúng ta đă được xé bỏ.

Trái lại, quan điểm của chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những thành quả đă thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công tŕnh thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng tôi trở lên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn.

Các bạn nghĩ rằng: "Làm sao được như vậy?" Chúng tôi đáp: "Các bạn hăy tự t́m ra những kết luận của ḿnh, các bạn hăy chọn lựa cách sống riêng của ḿnh."

Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói:

- Chúng tôi ước mong được thấy và biết.

Người lạ mặt nói tiếp:

- Kể từ bây giờ, có những bài học đúng đắn cho những kẻ không nh́n thấy, không biết, không hiểu ư nghĩa về mục đích cuộc sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.

Kế đóm người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn:

- Các bạn đă bày tỏ ư muốn được thấy và được biết. Nh́n các bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh: "Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, th́ Ta luôn luôn có mặt bên họ."

Cuộc đời tu hành khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn ḿnh trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật Giáo, không phải là điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết chân chính.

Những pháp môn tu luyện đó đă từng có bao nhiêu ngàn năm về trước. Tuy nhiên, những giáo lư của đức Jesus, trong khoảng vài năm mà ngài xuất hiện ở thế gian, đă đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong việc giáo dục tâm linh cho dân chúng.

Người ta biết rằng đức Jesus đă từng thấu triệt mọi giáo lư, đă vượt qua nhiều cấp bậc Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền, cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đă đạt tới giáo lư của Osris. Những giáo lư này được chỉ dẫn cho ngài bởi một vị tư tế đă thoát ly ra khỏi tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng.

Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại thứ nhất của các v́ vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đă từng được nâng lên một tŕnh độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osris và những vị kế nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố gắng duy tŕ giáo lư của Osris.

Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám đă xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đă đưa Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đă đi xa những giáo lư của Osris.

Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám của giống người da đen, và sau cùng đă tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả đạo. Đế quốc Ai Cập đă suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự nhiên phải bị suy vong.

Sau khi đức Jesus đă chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này, Ngài bèn thấu triệt được ư nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lư Huyền Môn. Những quan điểm sơ khởi của đức Jesus về giáo lư nhà Phật mà ngài đă thụ huấn của những nhà hiền triết phương Đông đă giúp cho Ngài nhận thức được những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lư.

Khi đó, Ngài bèn quyết định đi sang Ấn độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng kỳ hạn vào thời đó.

Sau khi đă nghiên cứu của giáo lư Phật giáo ở Ấn độ, đức Jesus nhận thấy giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự khác biệt về h́nh thức lễ và giáo điều do người đặt ra, nhưng tựu trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế...

Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các vị siêu nhân đă đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người khách lạ lúc năy lại nói tiếp:

- Không một nhân vật lịch sử nào có thể b́ kịp với đức Jesus. Phần đông người Âu Mỹ tôn sùng ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đă lầm. Đáng lư ra họ nên coi ngài như hiện thân của một lư tưởng, thay v́ tôn thờ ngài như thần tượng.

Thay v́ khắc những h́nh tượng để thờ ngài, người ta nên coi ngài như một nhân vật đang sống, v́ hiện nay ngài thật sự đang sống trong chính cái thể xác đă từng bị đóng đinh trên Thập tự giá. Ngài vẫn c̣n sống và có thể nói chuyện với các bạn như hồi trước khi ngài bị đóng đinh. Sự lầm lạc to lớn của đa số người, là nghĩ rằng đức Jesus bị kết liễu cuộc đời trong tai nạn đau khổ và chết trên cây Thánh giá.

Họ quên rằng phần lớn cuộc đời của ngài đă diễn ra trong thời gian khi ngài phục sinh. Ngày nay đức Jesus vẫn có thể dạy đạo và chữa bệnh một cách linh nghiệm hơn bao giờ hết. Các bạn có thể đến trước mặt ngài bất cứ lúc nào, nếu các bạn muốn.

Nếu các bạn t́m ngài, th́ các bạn sẽ gặp. Đức Jesus không phải là một vị vua có thể bắt buộc các bạn chấp nhận sự hiện diện của ngài, mà là một người Anh cả luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn và giúp đỡ thế gian. Khi ngài c̣n sống trên cơi thế gian phàm tục, ngài chỉ có thể tiếp xúc với một thiểu số người có hạn định.

C̣n dưới h́nh thể mà ngài khoác lấy hiện nay, ngài có thể tiếp xúc với tất cả với những người nào hướng về ngài. Phải chăng ngài đă nói rằng: "Bất cứ nơi nào có Ta, th́ các người cũng có thể có mặt ở đó?"

Câu này phải chăng có ư nghĩa là ngài ở một nơi rất xa, tận trên trời, và các bạn chỉ lên tới đó sau khi đă chết? Không, ngài vẫn ở tại cơi này, là nơi các bạn đang ở, ngài có thể di chuyển đó đây, và nói chuyện với bạn.

Ta chỉ có thể cho ngài tự do hành động. Hăy nâng tầm mắt bạn nên cao hơn một chút, hăy bao gồm một chân trời rộng lớn hơn, và bạn sẽ thấy ngài, miễn là tâm hồn và trí năo bạn hướng đến ngài một cách chân thành. Các bạn có thể cùng đi và

nói chuyện với ngài.

Nếu các bạn quan sát tỉ mỉ thân thể ngài, các bạn sẽ thấy những vết thẹo đóng đinh trên Thánh giá, vết đâm của ngọn giáo và của chiếc măo gai, nay đă hoàn toàn lành hẳn. T́nh Thương và niềm phúc lạc từ toàn thân ngài toát ra sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng ngài quên tất cả, và tha thứ tất cả...

Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm ch́m một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó một ánh sáng mà chúng tôi chưa nh́n thấy bao giờ, chiếu khắp gian pḥng.

Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường như vọng lại từ đằng xa và không rơ ràng. Sau khi giọng nói trở lên hoàn toàn rơ rệt và vang rền những âm thanh sáng sủa như tiếng chuông ngân.

Một người trong chúng tôi hỏi:

- Ai nói đó?

Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:

- Hăy im, đó là đức Chưởng Giáo của chúng ta, đức Jesus đó.

Một người trong bọn lại nói:

- Đúng rồi đức Jesus nói đấy.

Khi đó giọng nói tiếp tục:

- Khi tôi nói "Ta là Con Đường, là Chân Lư, là Sự Sống," tôi không có ư đem đến cho nhân loại cái ư nghĩ rằng chỉ có một ḿnh tôi mới là Ánh Sáng, chân thật và duy nhất.

Khi tôi nói: "Ta là người Con hoàn toàn, người Con Duy Nhất do Chúa Trời sinh ra," tôi muốn xác nhận với toàn thể nhân loại rằng một trong những người Con của Chúa Trời đă nh́n thấy, hiểu rơ và tuyên bố tính chất thiêng liêng của ḿnh.

Người con ấy thấy rằng cuộc đời ḿnh và những hành động của ḿnh vốn phát sinh từ nơi Chúa Trời, tức là cái nguyên lư Vô Cực của vạn vật. Người tuyên bố ḿnh là đấng Chirst, người con duy nhất do Chúa Trời sinh ra. Rồi bằng cách sống cuộc đời thánh thiện của một tâm hồn chân thật và kiên nhẫn, người trở nên nhân vật thiêng liêng mà người đă tuyên bố.

Luôn luôn giữ ǵn cái lư tưởng đó, người thấm nhuần nó khắp toàn thân của ḿnh, và sau cùng đă đạt được cái mục đích mà người t́m kiếm.

Tại sao có biết bao nhiêu người không hề thấy tôi? Đó là bởi v́ họ đặt tôi trên một cái ngai thần tượng và để tôi vào một chỗ cao xa không thể đạt tới. Họ bao trùm tôi với bao nhiêu phép lạ nhiệm màu và những điều huyền bí, và đặt tôi ở một nơi xa xôi cách biệt với quần chúng mà tôi hằng thương yêu với một t́nh bác ái vô biên khôn tả.

Tôi không rút lui khỏi họ, mà chính họ đă rút lui khỏi tôi. Họ đă dựng lên những bức màn, những vách tường ngăn cách, đặt ra những người trung gian và khắc nên những h́nh tượng của tôi cùng những người thân của tôi.

Mỗi người trong chúng tôi đều được bao phủ bằng những huyền thoại và những chuyện nhiệm mầu làm cho tôi bị ngăn cách quá xa đến nỗi người đời không c̣n biết làm thế nào để đạt tới chúng tôi nữa.

Người ta cầu nguyện và khẩn cầu đức Mẹ mến yêu của tôi và những người thân chung quanh tôi, và như vậy họ bao phủ chúng tôi với những tư tưởng trần gian phàm tục. Thật ra nếu người đời muốn biết chúng tôi một cách thật sự và mong ước được bắt tay chúng tôi như các bạn đă làm hôm nay đây, th́ họ sẽ nói chuyện với chúng tôi như các bạn đă làm. Các bạn nh́n thấy chúng tôi không hề thay đổi. Chúng tôi muốn cho toàn thể thế gian cũng biết như vậy xiết bao!

Các người đă bao trùm chúng tôi từ bao nhiêu lâu với những điều huyền bí đến nỗi làm cho sự hoài nghi cuối cùng phải thắng thế. Các người càng làm nhiều h́nh tượng bao nhiêu, th́ các người lại làm cho chúng tôi trở nên xa cách bấy nhiêu. Các người càng bao phủ chúng tôi trong sự nghi nan tăm tối sâu đậm bao nhiêu, th́ cái vực thẳm mê tín dị đoan càng trở nên rộng lớn và khó vượt qua bất nhiêu.

Nếu các người muốn bạo gan bước lại bắt tay chúng tôi và nói: "Tôi biết ông", th́ chừng đó mỗi người đều có thể nh́n thấy chúng tôi và biết chúng tôi như hiện giờ. Không có sự mầu nhiệm nào chung quanh chúng tôi hay những người thân chúng tôi, v́ chúng tôi thương yêu tất cả nhân loại.

Phần đông chỉ nhận thấy có một phần cuộc đời của tôi nó kết liễu trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời tôi đă sống trong h́nh thức hiện tại. Họ quên rằng con người vẫn tiếp tục sống, dẫu rằng sau cái chết bất đắc kỳ tử. Người ta không thể hủy diệt sự sống. Sự sống vẫn c̣n tiếp diễn luôn luôn, và một đời sống tốt lành không bao giờ mất. Dẫu cho cái xác thể vật chất cũng có thể trở nên bất tử và không c̣n thay đổi.

Khi người anh em Phi Lát rửa tay và nói: "Các người hăy đem y đi và hăy tự tay các người đóng đinh y trên cây Thánh giá" tôi không cho rằng Phi Lát đă lầm lỗi. Y không hề biết ǵ về cái diễn biến lịch sử mà y đang dự phần trong đó, và điều tiên tri mà y đang thực hiện.

Y và những người chung quanh y đă đau khổ nhiều hơn tôi. Nhưng tất cả những việc đă qua, đă được quên lăng và tha thứ, như các người sẽ thấy trong cuộc hội họp hôm nay.

Kế đó, hai nhân vật xuất hiện, và đức Jesus ôm hôn cả hai người. Đặt bàn tay Ngài lên vai của một trong hai người, Ngài nói:

- Người anh em này đă cùng tôi đi suốt con đường Đạo. C̣n người kia, y đă trải qua nhiều cuộc thử thách đắng cay trước khi y mở mắt tỉnh ngộ, nhưng khi y tỉnh ngộ, y bèn đi theo chúng tôi. Y cũng hoàn toàn chân thật như những người khác, và chúng tôi thương yêu y cũng như bằng một t́nh thương không kém.

Khi đó, nhân vật thứ hai từ từ tiến lên và đứng yên một lúc. Đức Jesus dạy lại, mở rộng hai tay ôm lấy người ấy và nói: "Hỡi Phi Lát thân mến." Thật là không ai có thể lầm lẫn về những hảo ư của cả hai vị.

Kế đó, Phi Lát cất tiếng nói:

- Tôi đă đau khổ trong nhiều năm sau khi tuyên bố bản án vào cái ngày mà tôi đă nhẹ dạ gạ bỏ cái trách nhiệm nặng nề của tôi. Trong đời sống hằng ngày, rất ít người trong chúng ta nhận thức được những gánh nặng vô ích mà họ chồng chất lên vai kẻ khác chỉ v́ họ muốn trốn tránh trách nhiệm của ḿnh.

Nhưng khi chúng ta đă thức tỉnh, chúng ta hiểu rằng khi ḿnh càng cố gắng tránh né bổn phận và t́m cách đặt gánh nặng của ḿnh lên vai kẻ khác, th́ cái gánh nặng ấy càng đè nặng trên vai ḿnh. Tôi đă phải mất nhiều năm ray rứt đau khổmới nh́n thấy rơ điều đó, nhưng thật cũng là một niềm vui mừng lớn lao thay từ khi tôi đă tỉnh ngộ!

Khi đó, khúc hợp ca vô t́nh trổi lên với một âm điệu du dương khôn tả. Sau vài điệu nhạc, đức Jesus tiến lên và nói:

- Các người có lấy làm ngạc nhiên chăng, khi biết rằng tôi đă tha thứ từ lâu cho những kẻ đă đóng đinh tôi trên Thánh giá? Kể từ lúc đó, tại sao người thế gian không tha thứ lẫn nhau như tôi vậy?

Tại sao các người không nh́n thấy tôi trong cái chân tướng bản thể, không phải bị đóng đinh trên Thánh giá, mà vượt lên cao hơn tất cả những ǵ là trần gian tục lụy?

Khúc ca vô h́nh lại tiếp tục với câu hát:

"Xin ngài cứu rỗi và giải thoát cho tất cả, hỡi ngài là Con của Chúa Trời. Các người hăy nghiêng ḿnh suy tôn ngài, nước Chúa đă được đặt ra cho nhân loại trường cửu đến muôn đời. Thật vậy, ngài sẽ ở bên cạnh các ngài, măi măi..."

Đó không phải là một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo, hay lu mờ. Chúng tôi thật sự có mặt trong gian pḥng lúc ấy và chúng tôi đă nói chuyện với những người đối thoại. Chúng tôi đă bắt tay chào hỏi và đă chụp ảnh tất cả các vị. Các vị đă hiện diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đă vây quanh các vị.

Sự khác biệt duy nhất giữa các vị và chúng tôi là các vị được bao phủ quanh ḿnh bằng một thứ hào quang đặc biệt. Hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh sáng chiếu khắp pḥng. Các vị không có tỏa ra một cái bóng nào như chúng tôi. Thể xác các vị dường như trong suốt một cách lạ thường, bàn tay sờ vào th́ nó giống như chất bạch ngọc (albâtre).

Tuy nhiên, thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lành và tỏa ra chung quanh sự nhiệt thành và ấm áp của t́nh thương. Sau khi các vị đă ra đi, gian pḥng dường như vẫn c̣n giữ lại sự ấm áp và ánh sáng của ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào pḥng này, chúng tôi đều cảm thấy như vậy.

Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi họp tại đó, trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:

- Gian pḥng này thật là kỳ diệu.

Anh ta đă biểu lộ cái cảm tưởng chung của chúng tôi, chúng tôi không ai nói thêm điều ǵ nữa. Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian pḥng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong nhiều giờ.

Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị siêu nhân bước ra khỏi pḥng. Trong khi Phi Lát sắp sửa ra đi, người yêu cầu vị trưởng nhóm chúng tôi cùng đi theo người.

Chúng tôi dùng các cầu thang đi xuống pḥng dưới, và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường. Chúng tôi đi về làng và trở về nhà trọ, tại đây chúng tôi c̣n ngồi nói chuyện đến nửa đêm.

Sau khi các vị quan khách đă ra về, chúng tôi tụ họp chung quanh bà chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cảm ơn về buổi tối đặc biệt đó. Một người trong chúng tôi nói:

- Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đă hoàn toàn tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ c̣n thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!

Dường như bạn tôi đă thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả mỗi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói ǵ về những cảm nghĩ của ḿnh và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó tôi để tùy nơi sự tưởng tượng của độc giả. Khi chúng tôi chào bà chủ nhà trước khi đi ngủ, không ai thốt ra một lời nào nữa.

Mỗi người đều có cảm tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đă xuất hiện trước mắt chúng tôi. Chúng tôi lui về pḥng riêng trong đêm đó với ư nghĩ rằng ḿnh đă trải qua một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.



2. Tài Liệu Cổ Xưa Đến Bốn Trăm Năm Mươi Thế Kỷ



Sáng ngày hôm sau, vào lúc ăn điểm tâm, chúng tôi hỏi bà chủ nhà và được biết rằng không phải là một điều bất thường mà thấy đức Jesus xuất hiện như Ngài đă làm đêm trước. Bà nói rằng Ngài vẫn thường tham dự với bà và các bạn hữu trong công việc chữa bịnh.

Ngày đó, bà chủ nhà và hai bà khác quyết định đến ngôi đền với chúng tôi. Khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà, hai người đàn ông đi theo chúng tôi. Một người nói với bà chủ nhà rằng có một đứa trẻ trong làng bị đau ốm và nhờ bà đến chữa bịnh.

Chúng tôi bỏ dở lộ tŕnh và đi theo hai người lạ mặt đến nhà đứa trẻ, th́ thấy em bé ấy thật sự đang đau nặng. Bà chủ nhà chúng tôi liền tiến tới và đưa hai tay ra. Mẹ em bé đặt đứa nhỏ trong ṿng tay của bà.

Gương mặt đứa bé liền sáng lên, rồi nhăn lại một lúc. Sau vài phút, nó ngủ một giấc li b́. Bà chủ nhà mới trả em bé lại cho người mẹ nó và chúng tôi ra đi để đến ngôi đền.

Người ta đưa chúng tôi đi qua nhiều pḥng trong ngôi đền. Trong lúc nói chuyện, chúng tôi được biết rằng một trong hai người đă đi theo chúng tôi hồi sớm mai là con cháu của một trong các bậc siêu nhân có gương mặt c̣n trẻ mà chúng tôi đă gặp tại làng cũ của Thánh Jean Baptiste ở ngày xưa.

Chúng tôi đă gọi vị siêu nhân ấy là vị sư tổ, tác giả các văn kiện cổ xưa. Trái lại, người cháu chắt này già như một ông lăo, điều này làm chúng tôi ngạc nhiên.

Trong khi chúng tôi trở lại gian pḥng thứ nhất, vị trưởng nhóm của chúng tôi hỏi rằng một điều ước nguyện có thể nào thực hiện được chăng?

Bà chủ nhà đáp rằng mọi điều mong ước được bày tỏ dưới một h́nh thức cầu nguyện, rằng đức Jesus vẫn dùng một h́nh thức cầu nguyện toàn vẹn v́ lời cầu nguyện của ngài luôn luôn được đáp ứng.

Một lời cầu nguyện luôn luôn được đáp ứng chỉ có thể là toàn vẹn, bởi đó nó rất khoa học, và nếu nó đúng tinh thần khoa học, lẽ tất nhiên nó phải theo một định luật đúng đắn. Bà chủ nhà nói tiếp:

- Định luật ấy là như vầy: Lời cầu nguyện được đáp ứng là tùy theo đức tin. Nói một cách khác, bất luận là bạn mong ước điều ǵ khi bạn cầu nguyện, bạn hăy tin rằng bạn đă nhận được những điều mong ước đó, rồi bạn sẽ có.

Nếu chúng ta biết chắc rằng những ǵ ta cầu xin đă được ban cho ta, chúng ta cũng biết rằng chúng ta đă hành động đúng luật. Và nếu điều mong ước được thực hiện, chúng ta biết rằng luật đă ứng nghiệm. C̣n nếu điều ta ước mong không được đáp ứng, th́ ta biết rằng chúng ta đă cầu nguyện trái phép. Lỗi ấy không phải ở nơi Trời, mà ở nơi chúng ta. Trong trường hợp đó, th́ đây là điều răn:

"Các bạn hăy kính yêu Thượng Đế với tất cả tấm ḷng thành, với tất cả linh hồn, tất cả sức mạnh, tâm tư và trí năo của bạn. Bây giờ, bạn hăy đi sâu vào tâm hồn bạn, không thành kiến, không sợ hăi, và không nghi nan, với một tâm hồn vui vẻ, tự do và biết ơn, và biết rằng những ǵ bạn cần dùng, những ǵ bạn cầu mong, bạn đă được rồi đấy."

Cái bí quyết là hăy nâng tâm hồn lên cho ḥa nhịp với Thượng Đế. Kế đó, phải giữ nguyên trạng thái đó không cho suy chuyển một ly, dầu cho ta có gặp phải sự chống đối của toàn thể thể thế giới. Đức Jesus nói:

- Riêng ta, ta không thể làm ǵ được. Đức Chúa Cha ngự nơi ta đă làm tất cả mọi việc.

Các bạn hăy có đức tin nơi Thượng Đế, đừng nghi ngại, đừng sợ sệt. Các bạn hăy nhớ rằng quyền năng của Thượng Đế không giới hạn. Tất cả mọi việc, ta đều có thể làm được.



3. Đức Jesus Xuất Hiện



Trong nhiều ngày liên tiếp, suốt hai tháng trường chúng tôi nghiên cứu một loạt những tấm bia đá cổ xưa sắp thành hàng trong một pḥng kín của ngôi đền. Những bia đá này có khắc những cổ tự và những h́nh biểu tượng hàm xúc nhiều ư nghĩa thâm sâu.

Ông lăo đi theo chúng tôi giảng giải cho chúng tôi nghe những ư nghĩa của các bia đá cổ. Một ngày nọ vào ngày tháng Ba, như thường lệ chúng tôi đến gian pḥng nói trên và thấy ông lăo nằm yên bất động trên tấm nệm, dường như người ngủ, Một bạn tôi bước đến gần, đặt nhẹ một bàn tay trên ḿnh ông lăo để đánh thức ông dậy, nhưng đều thụt lùi lại và hoảng hốr kêu:

- Ông ta không c̣n thở, hay là ông ấy đă chết rồi!

Chúng tôi tựu lại quanh tấm nệm với ư nghĩ là ông lăo đă chết nên không để ư đến việc ǵ xảy ra và có ai bước vào pḥng. Bỗng một tiếng "Chào các bạn" kéo chúng tôi ra khỏi cơn mơ. Chúng tôi quay lại phía cửa vào và thấy đức Tuệ Minh.

Sự xuất hiện của ngài làm chúng tôi ngạc nhiên, v́ chúng tôi tưởng là ngài đang ở một nơi cách đây một ngàn năm trăm cây số. Trước khi chúng tôi định tĩnh tinh thần, ngài đă bước tới gần và bắt tay chúng tôi.

Sau một lúc hai người chúng tôi lui ra sau và đức Tuệ Minh bước tới gần tấm nệm. Đặt một bàn tay trên trán ông lăo, ngài nói:

- Đây là một huynh đệ thân mến của chúng ta vừa mới từ giă cơi đời và bỏ dở công việc của y đang làm. Các bạn nghĩ rằng y đă chết. Ư tưởng đầu tiên của các bạn là t́m một người đào huyệt, mua một cỗ quan tài, và xây cho y một ngôi mộ để cho y yên giấc ngh́n thu. Hỡi các bạn, hăy suy nghĩ trong một lúc.

Ngày xưa đức Jesus đă kêu gọi đến ai khi ngài nói: "Hỡi Chúa Cha, con xin tạ ơn chúa đă nghe lời cầu nguyện của con?" Ngài không kêu gọi đến cái phàm ngă, cái lớp vỏ bên ngoài. Ngài nh́n nhận và kêu gọi đến Chân Ngă, tức Đại Ngă vô biên, vốn tàn năng, vốn nghe, biết, và nh́n thấy tất cả, tức là đức Thượng Đế toàn thông và hiện diện ở khắp mọi nơi.

Đức Jesus chủ ư đến diều ǵ khi ngài đứng bên cạnh nắm mồ của Thánh Lazare? Phải chăng ngài làm như các bạn là nh́n vào lỗ huyệt đào, và thấy xác thể thánh Lazare đang chương śnh và sắp tan ră? Không. Khi mà các bạn chỉ nghĩ đến người chết, ngài nghĩ đến người sống, là Con duy nhất của Chúa Trời.

Nhăn quang của ngài trụ vào sự sống trường cửu, bất biến hiện diện khắp nơi và thấm nhuần tất cả mọi vật. Bây giờ, với tầm nhăn quang của chúng ta cương quyết nhắm vào sự hiện diện hằng có của Thượng Đế, chúng ta có thể nh́n thấy hoàn tất công việc của người huynh đệ thân yêu này, y đă không bao giờ tuyệt đối trông cậy nơi Thượng Đế. Y đă trông cậy một phần vào sức ḿnh và đă đi đến trạng thái hiện tại mà các bạn đă thấy. Y đă bỏ cuộc Chúa Trời.

Y đă phạm vào điều lầm lạc mà nhiều người trong các bạn đang làm hiện thời, điều lầm lạc mà các bạn gọi là sự chết. Người huynh đệ thân yêu này đă không có khả năng từ bỏ sự nghi ngờ và sợ sệt. Y đă cậy nơi sức ḿnh và không thể hoàn tất công việc mà mỗi người trong chúng ta đều phải làm. Nếu chúng ta cứ để y nằm yên như thế, thể xác y sẽ tan ră.

Y sẽ phải trở lại cơi trần để hoàn thành công việc thế gian mà y làm chưa xong. Thật ra, công việc ấy đă gần xong đến nỗi chúng ta có thể giúp y hoàn tất chu đáo. Chúng ta cho rằng thật là mợt vinh dự lớn lao mà có thể giúp đỡ y trong trường hợp này. Các bạn đă hỏi rằng y có thể nào thức tỉnh dậy và sống lại như mọi người hay chăng? Có, y có thể, và tất cả những người đă chết như y đều có thể sống lại.

Mặc dầu các bạn cho rằng y đă chết, nhưng chúng tôi là những người đă từng chia sẽ ít nhiều cuộc đời của y, chúng tôi có thể giúp đỡ y. Không bao lâu y sẽ hiểu và sẽ có thể đem thể xác đi theo với y. Không cần phải bỏ xác cho cái gọi là "Sự chết" và sự tan ră, dẫu rằng sau khi đă làm cái điều lầm lạc lớn lao nói trên...

Đức Tuệ Minh ngừng nói trong một lúc và có vẻ đắm ch́m trong một cơn thiền định thâm sâu. Một lúc ngắn ngủi sau đó, bốn người trong các vị khách gặp nhau trong làng đều bước vào gian pḥng.

Các vị bước đến gần nhau, cũng nhắm mắt định thần và đi vào cơn đại định thâm trầm. Kế đó, hai người trong các vị đưa tay ra và mời chúng tôi cùng nhập cuộc. Chúng tôi bước đến gần và khoác tay trên vai nhau, làm thành một ṿng tṛn chung quanh chỗ nằm của xác chết.

Chúng tôi đứng im lặng trong một lúc, kế đó ánh sáng trở lên tỏ rạng hơn trong gian pḥng. Chúng tôi quay lại nh́n thấy đức Jesus và Phi Lát đang đứng cách chúng tôi có vài bước. Hai vị tiến tới và nhập đoàn cùng với chúng tôi. Lại một cơn im lặng thâm trầm tiếp theo sau, kế đó đức Jesus đến gần xác chết, đưa hai tay lên và nói:

- Hỡi các bạn, tôi xin đề nghị với các bạn hăy cùng tôi vượt trong một lúc qua cơi giới bên kia cửa Tử. Cơi ấy không phải là vùng cấm địa như các bạn có thể tưởng. Nếu các bạn cùng với tôi vượt qua cửa Tử và quan sát cơi ấy từ phía bên kia, các bạn sẽ thấy rằng nó sẽ thuần túy tạo nên bởi những tư tưởng của con người. Ở cơi giới bên kia cũng có sự sống, giống như bên này vậy.

Đức Jesus đứng yên một lúc hai tay đưa thẳng về phía trước, và nói:

- Hỡi người anh em và bạn hữu, bạn hiện diện với chúng tôi, chúng tôi cùng hiện diện với bạn, và tất cả chúng ta đều hiện diện chung nhau với Chúa Trời. Sự tinh khiết tuyệt đối, sự bằng an và điều ḥa của Chúa Trời bao phủ và thấm nhuần tất cả.

Sự thực hiện điều đó nay đă biểu lộ nơi bạn một cách độc đáo và rơ rệt đến nỗi bạn có thể đứng dậy và được nhận ở một bên đấng Cha Lành. Bạn thân mến, bây giờ bạn đă thấy và biết rằng thể xác của bạn không phải là cát bụi trở về cát bụi, hay nhúm tro tàn hoàn lại đống tro tàn. Sự sống vẫn ở đó, tinh anh và trường cửu.

Không cần phải bỏ thể xác cho nó tan ră trong sự chết. Bây giờ bạn đă nhận thức được sự huy hoàng của cơi giới nguyên thủy của ḿnh. Bây giờ bạn có thể đứng dậy và đến với Chúa Trời...

Hỡi quư độc giả, nếu người ta thử diễn tả sự mỹ lệ và tinh anh của ánh sáng tràn ngập gian pḥng này bằng ngôn ngữ của trần gian, th́ đó là những danh từ trống rỗng. Khi xác chết bất động ngồi dậy, dường như ánh sáng chiếu xuyên qua mọi vật, thành thử không có vật ǵ phát ra bóng đen, cả thể xác của người chết cũng như của chúng tôi.

Kế đó, những vách tường dường như nới rộng ra và trở nên trong suốt, và sau cùng dường như tầm nhăn quang của chúng tôi phóng vào khoảng không gian vô tận. Không thể dùng danh từ nào để có thể diễn tả sự huy hoàng của cảnh tượng lúc ấy. Khi đó chúng tôi hiểu rằng Thần Chết đă biến mất và chúng tôi đang hiện diện trước Sự Sống trường cửu, huy hoàng.

Người trần gian cũng như chúng tôi chỉ có thể nh́n với đôi mắt kinh ngạc. Trong những giây phút đó, chúng tôi vượt lên cao hơn nhiều những ǵ mà một khối óc giàu tưởng tượng có thể nghĩ về sự mỹ lệ huy hoàng của cơi Trời. Đó không phải là một cơn mơ, mà đó là sự thật. Sự thật ấy có thể vượt khỏi rất xa tất cả những giấc mơ.

Ngày hôm đó, ảnh hưởng kỳ diệu của sự mỹ lệ và sự bằng an của cảnh tượng ấy gây ra, cộng thêm với đức tin mà các vị Chân Sư đă gây cho chúng tôi, đă hoàn toàn đưa chúng tôi vượt qua bên kia bức rào ngăn cách giữa sự Sinh và sự Tử.

Ngày nay, bức rào ngăn cách đó đối với chúng tôi chỉ c̣n là đồng bằng không chướng ngại. Tuy nhiên, dường như chúng tôi thấy một cách rơ rệt rằng bằng cách này hay cách khác, mỗi người phải tự ḿnh làm sự cố gắng cần thiết để vượt qua những chướng ngại nếu y muốn nh́n thấy sự huy hoàng lộng lẫy của cơi giới vô h́nh.

Mọi di tích của sự già nua đă biến mất nơi Chandersen, mà chúng tôi coi như là đă phục sinh từ cơi chết. Y day lại xác bạn hữu và liền cất tiếng nói. Giọng nói của y hàm xúc một điểm chân thành và hùng dũng:

- Hỡi các bạn, các bạn không thể biết được nỗi vui mừng, sự bằng an và niềm ân huệ lớn lao mà các bạn đă đem đến cho tôi bằng cách đánh thức tôi dậy như các bạn đă làm. Một lúc trước đây, tất cả đều tăm tối.

Tôi đang ở đó, ngại ngùng sợ sệt không dám tiến tới và cũng không thể thụt lùi. Tôi chỉ có một cách để bày tỏ những cảm tưởng của tôi. Tôi đang đắm ch́m trong sự tối tăm u ám, th́ bỗng nhiên tôi thức tỉnh, và bây giờ tôi lại ở một bên các bạn.

Kế đó, gương mặt y trở nên sáng lạn với một niềm hân hoan vui vẻ đến nỗi người ta không nghi ngờ ḷng thành thật của y. Y day lại chúng tôi, và nói:

Hỡi các bạn, thật là hân hạnh thay khi tôi nghĩ đến sự kết hợp giữa chúng ta. Các bạn không thể biết được niềm vui của tôi khi tôi bắt tay các bạn. Thật là một niềm phúc lạc mà nh́n thấy và cảm xúc được sự chân thành của các bạn khi các bạn chấp nhận sự can thiệp của những vị cứu trợ cao cả thiêng liêng của tôi!

Nếu các bạn có thể nh́n thấy bằng đôi mắt của tôi trong lúc này, các bạn sẽ biết được cái ân huệ mà tôi vừa kinh nghiệm. Niềm vui lớn nhất của tôi là biết rằng được một cách chắc chắn rằng mỗi người trong các bạn sẽ có ngày đạt tới một giai đoạn giống như của tôi và chừng đó sẽ biết được một niềm vui tương tự. Tôi có thể nói rằng thật cũng đáng sống trọn một cuộc đời để thụ hưởng được một lúc an lạc như thế...

Một lúc sau, Chandersen đă biến mất. Phải chăng đó chỉ là một ảo ảnh? Các bạn tôi đều đồng thanh cho là không, v́ có hai người đă đích thân đến bắt tay đương sự. Tôi để cho quư độc giả quyền tự do phê phán việc ấy.

Khi đó một trong các vị quư khách ở làng ấy day lại chúng tôi và nói:

- Tôi biết các bạn đang có sự nghi nan. Nhưng các bạn nên hiểu rằng tất cả những việc ấy không phải được dàn cảnh để làm vui mắt các bạn. Đó chỉ là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra trong cuộc đời của chúng tôi. Khi đến một lúc quyết định, chúng tôi có thể thắng đoạt được thời cơ và làm chủ t́nh h́nh.

Nếu để riêng một ḿnh y, người anh em này không đủ sức để tự ḿnh vượt qua bức rào chướng ngại. Quả thật, như các bạn đă thấy, y đă chết và bỏ xác nằm trơ. Nhưng mà y đă đạt tới một tŕnh độ tâm linh khá cao, nên chúng tôi có thể giúp y vào lúc quyết định.

Trong trường hợp đó, linh hồn đă trở lại, thể xác hoàn thành sự tinh luyện cho nó đến mức toàn hảo, và hành giả có thể đem thể xác y theo đến bất cứ nơi đâu. Sự bất hạnh của người anh nay là do bởi y muốn chết quá!

Y đă bỏ xác y lại đúng vào lúc mà chỉ thêm vài bước nữa cũng đủ để cho y vượt qua bức rào ngăn cách và hoàn tất công phu tu luyện đến mức toàn hảo. Thật là một hân hạnh rất lớn cho chúng tôi mà có thể giúp đỡ y trong dịp đó...

Chúng tôi từ từ rút tay lại và đứng yên một phút trong một cơn im lặng hoàn toàn. Một người trong chúng tôi gián đoạn phút im lặng đó bằng một câu:

- Ôi! Thượng Đế toàn năng!

Riêng phần tôi, dường như không bao giờ tôi c̣n muốn nói ǵ nữa. Tôi muốn suy gẫm. Trong một giờ đồng hồ, tôi đă sống trọn một đời người. Chúng tôi tất cả đều ngồi xuống. Vài người trong chúng tôi đă định tĩnh tinh thần trở lại, bèn nói chuyện th́ thầm với nhau.

Một khắc đồng hồ sau, trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, một bạn tôi bước đến gần cửa sổ nh́n ra ngoài và nói h́nh như có nhiều người lạ mặt đă vào làng. Ngạc nhiên, chúng tôi đi ra để nh́n xem. Thật vậy, thật là một điều rất hiếm mà có những người khách lạ đi bộ đến làng vào mùa này, v́ lúc ấy là giữa mùa đông.

Khi đến làng, chúng tôi thấy một nhóm vài người đến từ một thôn nhỏ cách đó chừng độ năm chục cây số. Họ có đem theo một người, đi lạc trước đó một ngày trong cơn băo tuyết và hầu như đă hoàn toàn bị chết cóng.

Các bạn y chở y nằm trên một chiếc cáng và đă đi bộ vượt qua một quăng đường dài đầy tuyết phủ. Đức Jesus bước đến gần, đặt bàn tay trên đầu người ấy và đứng yên trong một lúc. Th́nh ĺnh, người ấy bỏ mền ra và liền đứng dậy. Các bạn y trố mắt nh́n một cách vô cùng kinh ngạc và bỏ chạy trong cơn hoảng sợ.

Chúng tôi không thể nào thuyết phục họ quay trở lại. Người chết cóng vừa được chữa khỏi có vẻ hoang mang ngơ ngác. Hai bạn trong nhóm chúng tôi mời y về nhà để nghỉ ngơi một ít lâu. Kỳ dư đều quay trở lại nhà trọ, và chúng tôi thức đến nửa đêm để b́nh luận xảy ra trong hai ngày hôm đó.



4. Tài Liệu Khắc Trên Những Bia Đá Cổ



Câu chuyện xoay chiều đến một điểm, khi đó một bạn tôi hỏi địa ngục ở tại nơi đâu, và ác quỷ có nghĩa là ǵ? Đức Jesus phản ứng mau lẹ đáp:

- Địa ngục và ác quỷ không có nơi chỗ nào nhất định ngoài ra trong tư tưởng phàm tục của người đời. Cả hai đều ở đúng vào nơi mà con người đặt ra cho chúng. Các bạn là những người có học thức, các bạn có thể nào t́m thấy chăng một vị trí địa dư nào cho địa ngục và ác quỷ trên quả địa cầu?

Nếu cơi trời là tất cả và bao trùm tất cả, làm sao người ta có thể t́m thấy trong chất dĩ thái bao la một nơi chốn nào nhất định cho địa ngục hay ác quỷ? Nếu Chúa Trời là tất cả mọi nơi và cai quản tất cả moi sự, th́ c̣n có chỗ nào đâu nữa cho địa ngục hay ác quỷ trong cái thiên cơ toàn diện của ngài?

Bây giờ chúng ta đă lục soát khắp cả vũ trụ và không t́m thấy chỗ nào là nơi trú ẩn của ác quỷ. Như vậy, chúng ta bắt buộc phải nh́n nhận rằng ác quỷ ở chỗ nào có người ta và nó chỉ có những quyền năng mà người đời đă gán cho nó. Các bạn tưởng tượng rằng tôi có thể đuổi tà ra khỏi bất cứ một người nào, rồi sau đó để cho nó nhập vào một bầy heo, rồi bầy heo này sẽ đâm đầu xuống biển?

Tôi không hề thấy tà ma hay quỷ quái nhập vào một người nào, trừ phi người ấy đă tự ư đem nó vào ḿnh. Cái quyền năng duy nhất của tà ma mà tôi nh́n nhận thấy là cái quyền năng mà chính người đời đă gán cho nó.

Một lúc sau, câu chuyện xoay chiều đến vấn đề Thượng Đế, và một bạn tôi hỏi:

- Con muốn biết Chúa Trời là ai và bản chất thật sự của Ngài là như thế nào?

Đức Jesus đáp:

- Tôi hiểu tầm mức quan trọng của câu hỏi đó. Anh muốn xác định vấn đề ấy cho rơ ràng. Ngày nay, thế giới đang bị xáo trộn bởi nhiều tư tưởng trái ngược. Người ta không t́m đến nguồn gốc của danh từ. Thượng Đế hay Chúa Trời là cái nguyên lư cai quản mọi vật.

Cái Nguyên Lư nó ngự trị trong một sinh vật là Tinh Thần, và Tinh Thần vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Chúa Trời là Tư Tưởng duy nhất của cái nguyên nhân trực tiếp và chỉ đạo của tất cả mọi sự tốt lành ở quanh chúng ta. Chúa Trời là nguyên nhân của mọi sự sống mà ta thấy ở chung quanh ta.

Chúa Trời là nguồn gốc của t́nh Bác Ái bao la nó duy tŕ và hợp nhất tất cả mọi h́nh thể sinh hoạt. Chúa Trời hay Thượng Đế là một cái nguyên lư vi diệu, chớ không phải là một đấng có cá thể riêng biệt. Chúa Trời không bao giờ là một nhân vật riêng rẽ, trừ phi khi nào người trở nên là một đấng Cha Lành, đầy t́nh thương và có cá tính đối với quan niệm riêng của mỗi người.

Thật vậy, đối với mỗi người, Chúa Trời có thể trở nên một bậc Phụ Mẫu, đầy Bác Ái và ban rải tất cả. Chúa Trời không bao giờ là một đấng Cao Cả ngự trị ở một nơi nào đó trên trời, ở một cơi giới gọi là Thiên Đàng, nơi đó ngài ngồi trên một chiếc ngai vàng và xử xét người đời sau khi họ chết.

V́ Chúa Trời là sự sống vậy, và sự sống không bao giờ mất. Cái h́nh ảnh nói trên chỉ là một quan niệm sai lầm nảy sinh trong trí của kẻ ngu dốt.

Điều ấy cũng áp dụng cho nhiều sự sai lầm khác mà các bạn có thể nhận thấy trên thế gian ở chung quanh ta. Chúa Trời không phải là một vị Quan Ṭa, hay một ông vua, có thể áp đặt sự hiện diện của Ngài đối với con người, và đem người đời xét xử trước một ṭa án cộng lư. Chúa Trời là một đấng Cha Lành đầy bác ái và giàu ḷng quảng đại, mở rộng hai tay mừng đón khi bạn tiến đến gần Ngài.

Ngài không cần biết bạn là ai trong hiện tại hay trong quá khứ. Bạn luôn luôn là con của Ngài, nếu bạn t́m đến Ngài với tấm ḷng thành và với mục đích chân thật, dẫu rằng bạn đă có lúc bỏ nhà đi hoang và đă mỏi mệt trên con đường lầm lạc sa ngă. Bạn luôn luôn có thể lại quay trở về nhà của đấng Cha Lành với niềm tin tưởng chắc chắn về một sự tiếp đón đầy hảo ư.

Bữa tiệc liên hoan luôn luôn chờ đón bạn ở đó, bàn tiệc luôn luôn được sắp đặt sẵn sàng. Khi bạn trở về, bạn sẽ không nghe một lời trách móc nào của một huynh đệ đă trở về nhà trước bạn.

Các bạn có thể nh́n thấy Chúa Trời và nói chuyện với ngài bất cứ lúc nào, cũng y như bạn nói chuyện với cha mẹ, bạn bè hay thân nhân của bạn. Thật vậy, ngài c̣n gần gũi bạn hơn bất cứ người nào trên thế gian, ngài chăm sóc và ưu ái bạn c̣n hơn bất cứ bằng hữu thân tính nào.

Ngài không bao giờ giận dữ hay chán nản. Chúa Trời không hề hủy diệt, sát phạt, gây tổn thương hay làm buồn ḷng một người con nào hay một sinh vật nào của ngài sáng tạo ra. Nếu ngài làm như vậy, ngài đă không phải là Chúa Trời.

Một đấng Thượng Đế mà xét xử, sát phạt hay từ chối một sự tốt lành nào đối với những sinh vật hay những đứa con của ngài, chỉ là do tưởng tượng của những triết gia ngu dốt. Các bạn không cần phải sợ sệt đấng Thượng Đế như thế, trừ phi các bạn cố ư muốn làm vậy.

Vị Chúa Trời chân chính luôn luôn đưa tay ra và nói: "Tất cả những ǵ Ta sở hữu, cũng là của con." Một thi nhân há chẳng đă nói rằng Thượng Đế với ta c̣n hơn là hơi thở, hay tay chân của ta.

Thi sĩ nói câu ấy hẳn là do một nguồn cảm hứng thiêng liêng. Tất cả đều được cảm hứng thiêng liêng khi họ hướng về điều thánh thiện hay công lư. Mỗi người đều có thể được cảm hứng thiêng liêng bất cứ lúc nào nếu họ muốn.

Nhiều vị bạn hữu của tôi cùng đoàn kết với nhau để giúp đỡ thế gian. Đó là công việc làm trong đời của chúng tôi. Có những thời kỳ phải cần huy động tất cả mọi nghị lực của chúng tôi lại với nhau để đánh tan những luồng sóng tư tưởng xấu xa hắc ám, những tư tưởng nghi ngờ, những tư tưởng dị đoan nó suưt nữa đă nhận ch́m toàn thể nhân loại trong vực thẳm.

Các bạn có thể gọi đó là những lực lượng tà vậy, bất hảo hay ǵ tùy ư. Theo chúng tôi, những sức mạnh đó chỉ xấu xa hắc ám trong phạm vi mà người đời đă tạo ra nó.

Nhưng ngày nay, chúng tôi thấy một ánh sáng ngày càng tỏ rạng hơn lên, khi mà người ta từ bỏ những điều mê tín dị đoan trói buộc của họ. Sự giải thoát đó có thể làm cho họ đắm ch́m một ít lâu trong chủ nghĩa duy vật.

Nhưng điều này giúp cho họ tiến gần mục đích, v́ chủ nghĩa duy vật không gây chướng ngại cho tinh thần bằng sự mê tín dị đoan hay những huyền thoại hoang đường. Cái ngày mà tôi đi trên mặt nước, chắc chắn các bạn tưởng rằng tầm nhăn quang của tôi hướng về chỗ nước sâu, vực thẳm chăng? Không.

Tôi chỉ nghĩ đến quyền năng của Chúa Trời, nó thắng đoạt tất cả mọi sự hiểm nguy của vực thẳm. Khi tôi làm như vậy, mặt nước trở nên rắn chắc như đá, và tôi có thể đi trên mặt biển một cách tuyệt đối an toàn.

Đức Jesus ngừng một lúc, và bạn tôi hỏi:

- Thưa Ngài, buổi nói chuyện của Ngài với chúng tôi hôm nay có làm phiền rộ Ngài và làm gián đoạn công việc cao cả của Ngài chăng?

- Các anh không thể là phiền rộn một vị nào trong các bạn hữu của tôi, dẫu rằng trong một lúc, và tôi nghĩ rằng tôi cũng là một người trong nhóm đó.

Một bạn khác nói:

- Ngài là vị Anh Cả của chúng tôi.

- Cám ơn bạn, tôi vẫn luôn gọi các bạn là anh em.

Khi đó, một người trong chúng tôi day lại đức Jesus và hỏi ngài:

- Thưa ngài, phải chăng mọi người đều có thể biểu lộ đấng Chirst tự trong ḿnh?

Ngài đáp:

- Phải, chỉ có một con đường đưa đến sự Toàn Thiện. Con người sinh ra tự Chúa Trời phải trở về với Chúa Trời. Những ǵ xuất xứ từ cơi Trời đều phải quay trở lại cơi Trời. Lịch sử đấng Chirst không phải bắt đầu từ lúc tôi giáng sinh, cũng như không phải chấm dứt khi tôi bị đóng đinh trên Thập Tự Giá.

Đấng Chirst vẫn hằng có, khi chúng tôi sáng tạo nên người đầu tiên theo h́nh ảnh của ngài và giống như ngài. Đấng Chirst và người ấy chỉ là một. Tất cả mọi người cùng với người ấy chỉ là một. Cũng như Chúa Trời là Cha của người ấy, th́ ngài là Cha của tất cả mọi người. Trong thời gian trên năm mươi năm sau ngày tôi bị pháp nạn trên cây Thánh Giá, tôi đă sống với những đệ tử và những người thân yêu của tôi.

Tôi đă truyền pháp cho họ. Trong thời gian đó, chúng tôi tựu họp nhau trong một vùng hẻo lánh yên tịnh xứ Judée, ở đó chúng tôi được ẩn trú an toàn khỏi bị quấy rầy bởi những kẻ ṭ ṃ mê tín. Chính ở đó nhiều người đă đắc được những quyền năng lớn lao và thực hiện một công tŕnh vĩ đại. Khi đó tôi hiểu rằng bằng cách rút lui một thời gian, tôi có thể tiếp xúc với toàn thể thế giới để giúp đỡ nhân loại.

Bởi đó, tôi rút lui và sống ẩn dật. Vả lại, những đệ tử tôi thường ỷ lại nơi tôi nhiều hơn là tự trông cậy nơi sức ḿnh. Để giải thoát họ khỏi thói ỷ lại đó, tôi phải rút lui khỏi tập đoàn họ. V́ có sự liên hệ chặt chẽ giữa họ với tôi, nên phải chăng là họ có thể t́m lại tôi tùy ư muốn...

Các bạn hăy tự coi ḿnh như một phần tử của sự sống vô biên. Các bạn hăy chấp nhận tự hy sinh v́ lợi ích chung của toàn thể. Các bạn hăy tập làm điều lành mà không cần nghĩ đến hậu quả. Các bạn hăy tập từ bỏ mọi đời sống phàm tục và từ bỏ mọi thứ của cải vật chất của trần gian.

Hăy làm như vậy một cách thoải mái tự do, đó không phải là một sự quên ḿnh hăy cam tâm sống cuộc đời bần cùng khắc khổ. Bạn càng cho ra bao nhiêu những ǵ mà Chúa Trời ban cho bạn, th́ bạn sẽ nhận thấy rằng bạn càng có nhiều hơn để cho ra, dẫu rằng đôi khi dường như bổn phận đ̣i hỏi bạn phải cho tất cả, thậm trí đến cả sự sống. Khi đó, bạn sẽ thấy rằng người nào muốn duy tŕ sự sống của ḿnh sẽ mất nó.

Bạn sẽ vui mừng và nhận thấy rằng sự sống mà bạn đem cho kẻ khác, lại chính là sự sống mà chính bạn thu hoạch được. Khi đó bạn sẽ biết rằng nhận lănh, có nghĩa là cho ra một cách rộng răi, phóng khoáng. Nếu các bạn hy sinh cái sự sống hữu h́nh hữu hoại này, một đời sống cao cả hơn sẽ xuất hiện. Tôi bảo đảm với các bạn rằng một đời sống như thế là một sự thực hiện lớn lao không phải cho riêng ḿnh, mà cho tất cả.

Có lúc bạn sẽ có ḷng ưu ái để cảm thông với những nhu cầu cấp bách của thế gian. Khi bạn cảm thấy điều đó, bạn sẽ có thể giúp đỡ kẻ đồng loại một cách vô tư mà không hề khoe khoang tự phụ. Bạn có thể ban răi nguồn ân huệ thiêng liêng cho những linh hồn khát khao chân lư mà nguồn ân huệ ấy sẽ không bao giờ cạn.

Bạn hăy sử dụng khả năng dùng lời thuyết giảng đạo lư để đem nguồn an ủi cho những kẻ t́m đến bạn, để đem sự bằng an và nguồn hy vọng cho những kẻ bịnh tật, những kẻ mệt mỏi, chán nản cuộc sống, tất cả những người bị sự đau khổ của cuộc đời đè nặng lên vai.

Bạn có thể thức tỉnh những kẻ mù quáng vô t́nh hay cố ư. Dẫu cho một linh hồn bị sa đọa đến bực nào, y cũng sẽ cảm thấy rằng có linh hồn đấng Christ đứng ở bên cạnh y...

Kế đó, đức Jesus nói rằng ngài sẽ đến một nhà huynh đệ khác trong làng ngay chiều hôm đó. Tất cả cử tọa đều đứng dậy. Đức Jesus ban ân huệ cho tất cả chúng tôi, và rời khỏi gian pḥng với hai người khác.









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 99 of 1146: Đă gửi: 14 June 2010 lúc 8:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG SÁU


1. Một Nền Văn Minh Cổ Xưa Đến Hai Trăm Ngàn Năm

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi bắt tay vào công việc phiên dịch chữ cổ tự dùng trong những bản văn kiện và tài liệu cổ. Chúng tôi muốn có sự rơ ràng chính xác tối đa về ư nghĩa của những chữ ấy. Nhờ sự giúp đỡ của bà chủ nhà, chúng tôi học được nhiều về những thánh kinh cổ xưa ấy.

Chúng tôi lao ḿnh vào công việc ấy với tất cả tâm hồn. Một buổi sáng, sau độ hai tuần làm việc, chúng tôi đi đến ngôi đền như thường lệ và thấy ông bạn Chandersen của chúng tôi, là người dường như đă trải qua sự chết và được phục sinh trước đây. Y vẫn mang thể xác bằng xương thịt như mọi người, nhưng những nét mặt của y tuy rằng vẫn y nguyên như cũ, lại không mang dấu vết nào của sự già nua.

Không thể lầm được y với một người nào khác. Khi chúng tôi bước vào pḥng, y đang ngồi ghế bèn đứng dậy và đến gần để bắt tay chúng tôi với những lời chào hỏi mừng rỡ.

Người ta không thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi khi chúng tôi vây quanh chung quanh y và chất vấn y tới tấp. Chúng tôi giống như một đám học tṛ vô kỷ luật. Tất cả đều hỏi y cùng một lượt, không ai nghe được ai, và không có trật tự trước sau ǵ cả! Chắc chắn rằng trong cặp mắt của y, chúng tôi có vẻ như một đám trẻ con vừa chận được một đứa mang tin sốt dẻo, và tất cả đều muốn biết xem đó là việc ǵ! Nhưng sự thật vẫn sờ sờ ra đó.

Chandersen đang đứng trước mặt chúng tôi, với giọng nói và những nét mặt đặc biệt của y, nhưng không già chút nào! Thậm chí giọng nói của y cũng đă có được một âm thanh rắn rỏi của người nào vào độ trung niên. Y có dáng điệu của một người linh hoạt, và khỏe mạnh, sáng suốt. Gương mặt và đôi mắt y phản chiếu những nét linh động khôn tả.

Lúc đầu, chúng tôi chỉ có thể so sánh cái thực trạng của y bây giờ với t́nh trạng cũ của y. Trước kia khi chúng tôi mới quen biết y, y là một người già nua lọm khọm, lúc đi đứng phải chống một cây gậy lớn. Y có những lọn tóc dài trắng phau, những bước đi chập choạng, và mộ gương mặt xanh xao hốc hác. Một người trong bọn chúng tôi đă nhận thấy những điểm đó và đă nói:

- Trong số những nhân vật siêu việt kia, đây là một người già đến nổi có lẽ y gần bước qua bên kia cửa Tử.

Lẽ tất nhiên chúng tôi nhớ đến sự biến đổi ly kỳ mà chúng tôi đă chứng kiến cách đây vài ngày. Nhưng sau khi Chandersen th́nh ĺnh biến mất, tất cả những điều ấy đă lùi dần vào quên lăng, v́ chúng tôi tưởng rằng sẽ không c̣n gặp y trở lại.

Những diễn biến kế tiếp theo sau đó một cách nhanh chóng, đă đẩy thụt lùi việc này vào dĩ văng đến nổi chúng tôi hầu như đă quên mất đi. Nhưng nay, nó đă xuất hiện trở lại trong kư ức chúng tôi một cách sống động đến nổi làm choi chúng tôi ngạc nhiên vô hạn.

Chandersen đă trẻ hẳn lại một cách không tưởng tượng. Nói đúng hơn, y đă trải qua một sự Biến Thể giống như đấng Christ mà chúng tôi hằng kính yêu rất mực. Xét về dự tương phản rơ rệt giữa h́nh dáng của y trước kia với t́nh trạng của y bây giờ, chắc chắn rằng linh hồn của y cũng đă tái sinh trở lại.

Tuy rằng trước đây chúng tôi không có sống chung với y được bao lâu, nhưng sự tiếp xúc hằng ngày giữa chúng tôi với y đă kéo dài khá lâu để cho chúng tôi được biết y như một người đă già. Kể từ hôm ấy, y đă sống chung với chúng tôi trên hai năm, vừa làm người hướng dẫn vừa làm thông ngôn trong chuyến du hành của chúng tôi vượt qua vùng sa mạc Gobi.

Nhiều năm về sau, khi vài người trong phái đoàn chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại việc cũ, th́ việc xảy ra sáng ngày hôm ấy là đề tài đầu tiên mà họ nhắc đến trong cuộc nói chuyện.

Khi tôi thuật lại chuyện này, tôi không có ư kể lại tường tận cuộc đàm thoại của chúng tôi từng chi tiết, v́ chúng tôi đă trải qua gần trọn hết hai ngày chỉ để nói chyện mà thôi. Tường thuật từng chi tiết sẽ làm cho độc giả nhàm chán. Bởi vậy, tôi chỉ kể lại những điểm chính trong câu chuyện này. Khi cơn xúc động đầu tiên đă qua, chúng tôi ngồi xuống và Chandersen bắt đầu nói:

- Người ta chỉ cho tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Trong khi những điều đó được giải thích cho tôi, tôi phát hiện rằng tôi có thể bước và cơi trời và cơi ấy vốn ở tại bên trong nội tâm.

Bây giờ tôi biết rằng Thượng Đế là sức mạnh duy nhất, vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Những tội lỗi bất ḥa, bịnh tật, sự già nua, chết chóc, đều thuộc về những kinh nghiệm về quá khứ. Bây giờ tôi đă nh́n thấy chân lư và tôi biết rằng tôi đă đi lạc trong đám mây mù của ảo giác.

Thời gian và không gian đă hoàn toàn biến mất. Tôi biết rằng tôi sống trong thế giới chủ quan, c̣n cái thế giới hiện tại chỉ thuộc về một thế giới khách quan. Nếu tôi có thể nắm giữ lấy những sự nhắn nhủ thầm kín và những tia sáng mà thỉnh thoảng mà tôi nhận thức được nhờ bởi những giác quan tế nhị của tôi, th́ tôi đă có thể tránh được bao nhiêu những giờ phút đau khổ, hoang mang và mệt mỏi!

Trong thời niên thiếu của tôi, tôi bắt chước phần lớn của nhân loại. Tôi chỉ tin nơi một lối sống, đó là lối sống thụ hưởng khoái lạc trong mọi lĩnh vực. Bởi đó, tôi quyết định sống cuộc đời sung măn, thụ hưởng đến mức tối đa.

Tôi lấy sự ích kỷ làm mục đích chính của đời tôi. Tôi sống buông thả theo đủ mọi thứ nhục dục, thú tánh và hoang phí nguồn sinh lực đến mức làm cho thể xác tôi trở thành cái vỏ khô khan trống rỗng như các bạn đă thấy trước đây. Bây giờ, tôi xin tŕnh bày một h́nh ảnh xác nhận việc đó.

Chandersen ngồi im lặng định thần trong một lúc. Không bao lâu, trên một vách tường của gian pḥng hiện ra một h́nh ảnh giống như đă diễn tả trước đây. Đó là h́nh ảnh cái thể xác của y vào thời kỳ mà chúng tôi mới quen biết y, h́nh ảnh một ông già lọm khọm, đi đứng phải chống gậy. Tiếp theo sau đó là h́nh ảnh con người của y bây giờ.

Chandersen nói tiếp:

- H́nh ảnh đầu tiên là của một người đă hoang phí sinh lực của thể xác đến mức chỉ c̣n để lại có cái lớp vỏ khô kiệt. C̣n h́nh ảnh thứ nh́ là của một người đă bảo tồn sinh lực c̣n nguyên vẹn trong thể xác ḿnh.

Trong trường hợp của tôi, các bạn nghĩ rằng đó là một sự phản lăo hoàn đồng toàn vẹn và hầu như diễn ra trong khoảnh khắc, điều đó thật đúng. Nhưng tôi nh́n vấn đề dưới một khía cạnh khác. Biết bao nhiêu người cũng có thể có cái dịp may như tôi để nhận được sự giúp đỡ, ḷng ưu ái và sự cứu trợ của những đấng Cao Cả mà chúng ta được biết?

Nếu người đời có thể hiểu rằng sinh lực của họ có hàm xúc một nguồn sinh khí dồi dào mănh liệt như thế nào, họ sẽ cố gắng bảo tồn sinh lực thay v́ hoang phí nó. Nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với việc ấy. Họ tiếp tục sống trong sự mù quáng, hay sự vô minh, cho đến khi Thần Chết đến đem họ đi mất.

Các bạn kính trọng tuổi già và coi mái tóc bạc như một cái măo danh dự, điều đó tôi không hề chối căi. Nhưng các bạn hăy thử đi sâu hơn vào vấn đề, để xem đằng nào là đáng được đặt trên đài danh dự hơn:

Một đàng là người có những lọn tóc bạc phơ như tuyết, đă gây lên sự già nua lọm khọm cho chính ḿnh do bởi sự vô minh, nếu không là do bởi sự trác táng trụy lạc của thời niên thiếu; và một đàng là người bảo tồn sinh lực, càng ngày càng trở nên mạnh khỏe hơn và dũng mănh hơn, đủ sức trang bị thể chất để có thể đối phó với tuổi già, và nhờ đó làm tăng trưởng thêm sự hảo tâm và ḷng quảng đại của ḿnh?

Tôi thú thật là nên có ḷng trắc ẩn và tội nghiệp cho con người đă đi đến cơi chết do sự vô minh. Nhưng ta có thể nghĩ đối với người cũng đi đến một kết quả tương tự, nhưng có đầy đủ tinh thần sáng suốt minh mẫn để thấu đạt chân lư?



2. Cơn Băo Tuyết Trên Vùng Sa Mạc Gobi



Kể từ khi đó, chúng tôi chuyên cần chăm chỉ học chữ cổ tự dưới sự chỉ dẫn của Chandersen. Ngày tháng trôi qua rất mau như thoi đưa. Đến cuối tháng Tư, tức là sắp đến ngày chúng tôi lên đường đi đến đồng sa mạc Gobi, phần lớn các tài liệu cổ vẫn c̣n chưa dịch xong.

Chúng tôi tự an ủi với ư nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể trở lại một ngày nào đó để hoàn tất công việc phiên dịch. Các vị Chân Sư đă dịch giúp chúng tôi một phần lớn các tài liệu, nhưng các ngài đ̣i hỏi chúng tôi phải học các chữ cổ tự để có thể tự ḿnh dịch các tài liệu ấy.

Tháng chín năm trước, chúng tôi có hẹn tái ngộ với những nhân viên khác trong phái đoàn tại vùng sa mạc Gobi. Kế đó, họ sẽ đưa chúng tôi đến địa điểm tọa lạc của ba thành phố cổ xưa nay đă chôn vùi dưới ḷng đất. Vị trí đúng đắn của những thành phố này có ghi trong tài liệu cổ mà chúng tôi chưa được xem, nhưng đă được nghe nói đến.

Chúng tôi chỉ có trong tay những bổn sao chép lại các tài liệu đó, nó càng kích động sự ṭ ṃ của chúng tôi. Những tài liệu cổ cho biết rằng thời đại phát triển của những thành phố này được truy nguyên từ trên hai trăm ngàn năm trở về trước. Dân cư ở đó đă từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đă từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đă từng biết các môn nghệ thuật cùng các nghề nghiệp thủ công như rèn đồ sắt và làm đồ vàng bạc.

Thời đó, vàng ở xứ này rất thông dụng đến nổi người ta dùng vàng ṛng để làm đồ chén dĩa và móng ngựa. Tục truyền rằng người thời ấy có quyền năng chế ngự các sức mạnh thiên nhiên, biết sử dụng những năng lực huyền bí của chính họ. Thật vậy, những huyền thoại đó thật giống một cách lạ lùng với những chuyện trong Thần Thoại Hy Lạp.

Theo các bản đồ chỉ dẫn th́ ngày xưa, đế quốc Uigour gồm các phần lớn Châu Á và Châu Âu đến tận bờ biển Địa Trung Hải của Pháp, với một vùng đồng bằng rộng lớn vô cùng ph́ nhiêu sung túc và rất đông dân cư. Sự khám phá di tích những thành phố cổ của đế quốc ấy chắc chắn sẽ đóng góp một phần rất lớn cho lịch sử nhân loại.

Những tài liệu cổ diễn tả đế quốc Uiguor dưới triều đại của bảy vị hoàng đế có những nét huy hoàng lộng lẫy vượt hẳn rất xa xứ Ai Cẩp thời cổ. Dẫu cho trước thời kỳ bảy vị hoàng đế, các bia đá cổ diễn tả xứ ấy như một nước phồn thịnh hơn Ai Cập rất nhiều. Dân tộc xứ ấy đă sống một thời thái b́nh thịnh trị, không hề có chiến tranh, không có các nước chư hầu xưng hùng xưng bá, cũng không có chế độ nô lệ.

Thời gian vẫn tiếp tục qua mau và chúng tôi rất bận rộn lo chuẩn bị cuộc hành tŕnh. Chúng tôi phải đến chỗ hẹn vào tháng năm, tại đó chúng tôi sẽ cụ bị đầy đủ lương thực và đồ vật dụng trang bị để hoàn tất chuyến đi cuối cùng.

Tôi không thể nào diễn tả những sự cảm nghĩ của tôi vào lúc gần đến ngày lên đường. Những giờ phút trong thời gian chúng tôi ở lại đây là những giờ phút thần tiên. Tuy rằng chúng tôi đă ở đây đến trên năm tháng và sống gần các Chân Sư trong suốt thời gian đó, thời giờ đă trôi qua rất mau và năm tháng đó đối với chúng tôi dường như chỉ có năm ngày.

Một thế giới lạ lùng đang chờ đón chúng tôi, dường như trước mắt chúng tôi là một cái cửa mở rộng để đưa chúng tôi vào một cơi giới huyền linh với những sự diễn biến không có giới hạn.

Mỗi người trong chúng tôi có cảm giác rằng ḿnh chỉ cần vượt qua các cửa đó, nhưng lại do dự, cũng như chúng tôi cảm thấy phân vân lưỡng lự khi phải từ giă các bậc siêu nhân cao khiết mà chúng tôi tôn kính như bậc Anh Cả.

Tôi nghĩ rằng trong đời của mỗi người trần gian sẽ có lúc mà y có thể nh́n thấy cái cửa mở rộng cũng như vào cái ngày đẹp trời tháng tư năm ấy chúng tôi đă thấy rơ trước mắt những viễn ảnh vô biên mà người ta có thể đạt tới. Tôi yêu cầu quư vị độc giả hăy tạm thời bỏ qua tất cả mọi thành kiến của ḿnh, và nếu có thể, quư vị hăy nh́n xuyên qua cặp mắt của chúng tôi.

Tôi không ước mong quư vị tin tưởng điều ǵ cả. Tôi chỉ yêu cầu quư vị hăy hiểu rơ sự khác biệt giữa sự diễn tả cuộc đời của các Chân Sư với việc ngồi dưới chân các ngài để nghe các ngài dạy bảo. Dường như nếu chúng ta dám táo bạo tiến tới để vượt qua cái cửa mở rộng nói trên, chúng ta sẽ có thể thực hiện mọi điều mong ước.

Tuy thế, chúng ta lại do dự. Tại sao? Đó là bởi v́ chúng ta không có đức tin tuyệt đối. Chúng ta để cho những ư nghĩ truyền thống thủ cựu kéo ta thụt lùi lại phía sau và đóng sầm cái cửa kia lại. Rồi sau đó chúng ta nói rằng cái cửa kia bị đóng lại là do định mệnh, mặc dầu chúng ta biết quá rơ rằng định mệnh của mỗi người chỉ tùy ở tự nơi ḿnh.

Đây là những người tốt lành, sống giản dị nhưng lại là những người phi thường, trong số đó có nhiều người đă vượt qua cái cửa ngơ đó từ nhiều thế hệ đă qua và có lẽ không biết tự bao giờ. Họ sống cuộc sống tâm linh.

Họ không tuân theo truyền thống hay quy luật nhất định nào, mà chỉ sống một cuộc đời lương thiện và trong sạch, một cuộc đời toàn vẹn đáng sống, với hai chân chồng vững trên mặt đất.

Tôi để cho quư vị độc giả hăy tự so sánh. Chúng tôi do dự không muốn từ giă các siêu nhân quư mến mà chúng tôi từ sát cánh một cách chặt chẽ trong những tháng vừa qua, tuy vậy chúng tôi lại háo hức nh́n về tương lại, v́ biết rằng c̣n những kinh nghiệm khác đang chờ đợi chúng tôi.

Bởi vậy, chúng tôi từ giă các vị siêu nhân vào một buổi sáng đẹp trời tháng Tư. Các vị thân mật bắt tay chúng tôi và thành thật mời chúng tôi trở lại khi có dịp. Chúng tôi vái chào các vị một lần cuối và đi về hướng bắc để vượt qua sa mạc Gobi.

Những câu chuyện phiêu lưu nguy hiểm đáng sợ mà chúng tôi nghe nói đă từng sảy ra ở vùng này luôn ám ảnh chúng tôi như những viễn ảnh đen tối. Tuy nhiên chúng tôi không sợ v́ có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi theo chúng tôi và Chandersen th́ thay chỗ Nê Bưu.

Đối với chúng tôi là những người đă từng đi du lịch nhiều nơi, việc tháp tùng theo đoàn người đi trên sa mạc là một việc thông thường hằng ngày. Tôi chắc rằng tất cả các đoàn viên trong nhóm chúng tôi đều sung sướng ra đi trong cuộc phưu lưu đầy hứa hẹn này.

Tất cả đều biết rằng một thế giới mới đă bắt đầu xuất hiện trước mắt chúng tôi. Mỗi người đều biết rơ sự xa xôi hẻo lánh và cô lập của vùng sa mạc và biết rơ những nguy cơ có thể xảy đến trong những cuộc du hành thuộc loại này.

Tuy nhiên, một mănh lực huyền bí không cưỡng lại được đă thúc đẩy chúng tôi tiến bước. Đức tin tuyệt đối nơi các vị siêu nhân đă giúp chúng tôi dứt bỏ mọi ư nghĩ sợ sệt hay lo ngại những sự khó khăn xảy đến, và chúng tôi lao ḿnh vào cuộc phưu lưu với một sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ.

Chúng tôi đă từng quen thuộc với những vùng hẻo lánh nhất thế giới, nhưng chưa bao giờ chúng tôi có kinh nghiệm về một xứ xa xôi và cô lập như vùng này. Tuy nhiên, chúng tôi có thể du lịch nơi đây một cánh tự do và dễ dàng khác thường.

Quư độc giả sẽ không ngạc nhiên về sự yêu thích của chúng tôi đối với xứ này và đối với các vị ân nhân của chúng tôi. Chúng tôi có cảm giác ḿnh có thể đi lên hướng Bắc đến khi vượt qua khỏi vùng Bắc Cực và chinh phục luôn cả.

- Ồ;! Nếu chúng Ai Cập có thể như các vị siêu nhân, th́ chuyến đi này sẽ dễ dàng xiết bao! Nhưng chúng ta lại bắt buộc các vị cùng đi bộ một cách nặng nề chậm chạp như chúng ta chỉ v́ chúng ta không thể bắt chước các ngài!

Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến cuối ngày thứ bảy của cuộc hành tŕnh. Chiều hôm ấy, vào khoảng năm giờ. Chúng tôi vừa ra khỏi một khe núi sâu thẳm th́ một đoàn viên báo tin có nhiều kỵ mă ở đằng xa. Chúng tôi lấy ống ḍm mà xem và đếm tất cả hai mươi bẩy người kỵ mă dường như có mang đầy đủ khí giới.

Chúng tôi liền báo cáo với Dật Sĩ. Anh ta đáp rằng có lẽ đó là đoàn người du mục thường có ở vùng này. Chúng tôi hỏi y phải chăng là bọn cướp. Y đáp rằng có thể như vậy, v́ bọn chúng không có dắt theo một đoàn cừu hay dê nào.

Chúng tôi rời khỏi đường ṃn và tiến tới một cḥm cây rậm rạp, tại đây chúng tôi cắm trại để nghỉ ban đêm. Trong khi đó, hai người trong nhóm chúng tôi vượt qua một gịng suối gần nơi cắm trại và bước lên một ngọn đồi, từ đó họ có thể nh́n thấy vùng đồng bằng ở chỗ chúng tôi đă khám phá ra đoàn kỵ mă.

Khi lên tới đỉnh đồi, họ ngừng lại và soi ống ḍm rồi hối hả trở về trại. Khi họ về gần tới, họ loan báo rằng đoàn kỵ mă ở cách đây không xa hơn năm cây số và đang tiến về phía chúng tôi.

Ngay khi đó, một người trong nhóm chúng tôi nói rằng một cơn giông băo sắp thổi đến. Chúng tôi nh́n lên trời, th́ quả thật thấy hai đám mây u ám nặng nề đang kéo về phía tây bắc, đồng thời một đám sương mù từ bốn phía áp lại gần chúng tôi.

Chúng tôi cảm thấy rất băn khoăn lo ngại, v́ bây giờ chúng tôi có thể nh́n thấy đoàn kỵ mă đang tiến, thẳng về phía trại chúng tôi. Tuy nhóm chúng tôi có tất cả ba mươi hai người, chúng tôi không có một khẩu súng nào, và điều này làm chúng tôi rất lo lắng.

Không bao lâu, cơn băo tuyết thổi đến chúng tôi với một tốc độ mănh liệt kinh khủng. Sự lo ngại của chúng tôi mỗi lúc càng tăng v́ chúng tôi đă từng kinh nghiệm sức tàn phá của giông băo trong những vùng sa mạc hẻo lánh như vậy.

Trong một lúc, cơn giông với tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ, chứa đầy những mảnh tuyết vụn, quất vào chúng tôi và gầm thét ầm ĩ chung quanh tất cả mọi người. Chúng tôi đang e ngại sẽ bị bắt buộc dời trại di chỗ khác để tránh những cành cây gẫy đồ rơi trên đầu ḿnh, th́ bầu không khí chung quanh trại th́nh ĺnh lắng dịu và trở nên yên tĩnh.

Trong một lúc chúng tôi nghĩ cơn băo tuyết có lẽ chỉ có giới hạn trong lúc ngắn ngủi, như thường xảy ra trong vùng này.

V́ bầu trời chưa đến nỗi quá ám, chúng tôi bèn lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng để lập lại trật tự trong các lều trại, và mất độ nửa giờ để làm công việc này. Kư ức về cơn băo tuyết và bọn cướp, nó đă làm cho chúng tôi sợ sệt, nay đă hoàn toàn biến mất ra khỏi đầu óc chúng tôi. Chúng tôi ngừng tay trong một lúc, và vị trưởng nhóm bước ra chỗ trại. Sau khi đă nh́n ra ngoài, y day lại và nói:

- Cơn băo tuyết dường như đang hoành hành dữ dội ở gần đây, c̣n ở chỗ chúng ta đang ở, th́ chỉ có một cơn gió thoảng nhẹ. Các bạn hăy nh́n xem; lều vải và cây cối chung quanh đây không bị lay động ǵ. Khí trời ấm áp và thoang thoảng mùi hương thơm của hoa cỏ.

Nhiều người trong bọn chúng tôi đi theo y ra ngoài và trong một lúc, đứng lặng người v́ ngạc nhiên. Trong khi chúng tôi lo dọn dẹp đồ đạc bên trong trại, chúng tôi không ư thức được cơn giông băo. Chúng tôi nghĩ rằng nó đă qua và thổi về phía khe núi.

Thật vậy, vài cơn băo thổi tạt ngang qua vùng này như một cơn gió lốc. Chúng hoành hành dữ dội trên nhiều cây số đường trường trước khi lắng dịu, và tiếp theo sau đó là một cơn yên tĩnh lạ thường. Nhưng trường hợp này không giống như thế. Cơn băo đang thổi mạnh ở cách chúng tôi độ ba chục thước, nhưng khí trời lại êm ả và ấm áp ở chung quanh chúng tôi.

Trái lại, chúng tôi đă từng kinh nghiệm rằng trong cơn băo tuyết tương tự, người ta thường bị lạnh buốt thấu xương, và có thể bị nghẹt thở v́ trong một cơn thịnh nộ gầm thét của vũ băo, những mănh tuyết vụn và bén nhọn bị lôi cuốn theo sức gió và quất mạnh vào mặt mũi ngươi du khách chẳng khác nào như kim đâm.

Th́nh ĺnh, vùng yên tĩnh chung quanh chúng tôi sáng lên dường như bởi một phép lạ. Trong cơn kinh ngạc, dường như chúng tôi nghe có những tiếng người xem lẫn với tiếng gầm thét của cơn giông. Người ta báo hiệu đến giờ ăn chiều. Chúng tôi bước vào lều ăn và ngồi xuống. Trong bữa ăn, môt bạn tôi băn khoăn về số phận của những kỵ mă. Một bạn khác nói:

- Chúng tôi nghe dường như có tiếng người kêu gọi khi chúng tôi bước ra ngoài trại. Chúng tôi có thể nào cứu giúp những người kỵ mă hay chăng trong trường hợp họ đi lạc trong cơn băo tố?

Dật Sĩ bèn lên tiếng và nói rằng những người ấy thuộc về một trong những bọn cướp khét tiếng trong vùng. Họ chuyên môn cướp bóc xóm làng, và chiếm đoạt những đoàn dê trừu của dân chúng.

Sau bữa ăn chiều, trong một lúc gió lặng, chúng tôi nghe có tiếng người kêu ngựa hí, cùng với tiếng vó ngựa đạp lộn xộn dường như những người kỵ mă không c̣n làm chủ chúng nó được nữa.

Những tiếng động ấy co vẻ như rất gần, nhưng chúng tôi không thể nh́n thấy ǵ cả v́ ban đêm tuyết xuống dày đặc. Chúng tôi không c̣n nh́n thấy một ánh sáng nào của những đèn đuốc và lửa trại.

Sau đó một lát, đức Tuệ Minh đứng dậy và nói rằng ngài phải đi mời những kẻ cướp vào trại, v́ trừ những trường hợp phi thường, không một người hay một con vật nào có thể sống sót đến sáng ngày hôm sau trong cơn băo tuyết.

Thật vậy, không khí ở bên ngoài đă trở lên lạnh buốt vô cùng. Hai người trong bọn chúng tôi t́nh nguyện xin đi theo đức Tuệ Minh, điều này có vẻ làm cho ngài vui ḷng. Ngài nhận lời, và cả ba người đều biến mất dạng trong cơn giông băo.

Độ hai mươi phút sau, ba người đă trở lại, cùng với hai mươi tên cướp đi bộ, tay cầm cương dắt ngựa đi theo sau. Những tên cướp này cho chúng tôi biết rằng bảy người đồng bọn của họ đă mất liên lạc với cả đoàn và có lẽ đă đi lạc trong cơn băo tuyết.

Những tên cướp gồm một thành phần hỗn tạp với những gương mặt hung dữ của bọn lục lâm cường đạo. Khi họ bước vào trại có đèn lửa ấm áp, họ có vẻ nghi ngờ rằng chúng tôi gài bẫy để bắt họ. Sự lo âu của họ hiện rơ trên nét mặt, nhưng đức Tuệ Minh bảo đảm rằng họ được tự do ra đi bất cứ lúc nào.

Ngài chỉ cho họ thấy rằng nếu họ muốn tấn công chúng tôi, chúng tôi không c̣n một khí giới nào để tự vệ. Tên đầu đảng bọn cướp thú thật rằng đó chính là ư định đầu tiên của họ khi họ vừa nh́n thấy chúng tôi từ trong khe núi đi ra trước cơn giông băo.

Sau đó, họ trở nên do dự và đi lạc đến nỗi họ mất phương hướng để trở về trại. Khi đức Tuệ Minh và hai người trong bọn chúng tôi thấy họ, th́ họ đang trú ẩn một bên vách núi ở cách trại chúng tôi có năm chục thước.

Tên đầu đảng bọn cướp nói rằng nếu chúng tôi hất hủi họ, th́ chắc chắn là họ sẽ chết v́ lạnh. Đức Tuệ Minh trấn an họ và nói rằng điều đó sẽ không xảy ra. Bọn cướp bèn cột ngựa vào những gốc cây để nghỉ lại ban đêm, rồi ngồi riêng với nhau ở một góc.

Họ bắt đầu ăn thịt dê phơi khô và bơ con yak (một loại ḅ lùn và có sừng lớn ở xứ Tây Tạng) mà họ lấy ra từ trong những bọc da giấu dưới yên ngựa. Trong khi ăn, họ để khí giới trong tầm tay và thỉnh thoảng lại để nghe ngóng mỗi khi có một tiếng động nhỏ. Họ nói chuyện và bộ tịch rất tự nhiên.

Dật Sĩ nói với chúng tôi rằng họ lấy làm ngạc nhiên về những đồ trang bị của chúng tôi và về ánh lửa trong trại. Họ tự hỏi tại sao ở đây không có gió lớn, tại sao không khí trong trại rất ấm cúng, và tại sao mấy con ngựa có vẻ ung dung thoải mái như thế?

Một đứa lúc nào cũng nói chuyện huyên thuyên và nói nhiều nhất trong bọn cướp, đă từng nghe nói về các vị Chân Sư. Y nói với những kẻ đồng bọn rằng các vị siêu nhân cũng như thánh thần và có thể tiêu diệt bọn họ tùy ư muốn và mau lẹ trong khoảnh khắc.

Nhiều tên khác tưởng chúng tôi âm mưu để bắt sống họ, bèn t́m cách thuyết phục cả bọn đánh cướp tài sản chúng tôi rồi tẩu thoát. Nhưng tên đầu đảng ra lịnh cho họ không được phá phách chúng tôi, và nói rằng nếu họ làm hại chúng tôi, tất cả bọn sẽ bị tiêu diệt.

Sau một cơn thảo luận dông dài, tám tên cướp bèn đứng dậy, bước đến gần chúng tôi, và nói với Dật Sĩ rằng bọn chúng không muốn ở lại thêm nữa. Họ sợ có xảy ra những việc bất trắc và muốn trở về trại của họ ở cuối ḍng sông cách đó vài cây số.

Họ đă t́m ra phương hướng nhờ căn cứ vào cái lùm cây to chỗ chúng tôi cắm trại. Họ bèn lên ngựa và bắt đầu đi xuống thung lũng. Sau đó hai mươi phút, tất cả bọn đều quay lại và nói rằng tuyết xuống dày đặc đến nỗi ngựa của họ không thể tiến tới được nữa.

Chính họ cũng không thể đương đầu với một cơn băo tuyết này, là cơn băo mănh liệt nhất từ nhiều năm nay. Kế đó, họ t́m chỗ ở ngoài trại để nghỉ lại ban đêm.

Một bạn tôi nói:

- Tuy bọn này làm tôi sợ, nhưng tôi vẫn cảm thấy an toàn hơn ở trong lều so với ở bên ngoài, giữa cơn băo lớn.

Dật Sĩ quay lại chúng tôi và nói:

- Các bạn ở đâu, là nhà của Thượng Đế ở đó. Nếu các bạn ở tại đây, trong trại này, các bạn sống trong niềm vui của Thượng Đế. Sự ấm áp và tiện nghi trong trại có nghĩa ǵ nếu các bạn không ở tại đây, hoặc nếu các bạn không nhận thấy có sự ấm áp và tiện nghi đó? Các bạn có thể tự do mời những người ngoài vào đây.

Tuy nhiên, họ không chịu vào, v́ họ không biết tới chỗ ở của các bạn. Mặc dầu họ cảm thấy sự ấm cúng nhưng những người anh em thân mến này không muốn ở lại gần, bởi v́ họ luôn luôn sống bằng nghề cướp bóc.

Họ không thể hiểu rằng chính những người mà họ coi như những miếng mồi đương nhiên của họ, lại có thể dành cho họ một sự tiếp đón thân hữu mà không có lư do đặc biệt, và nhất là ḿnh không thuộc về giới lục lâm cường đạo. Họ không biết rằng giữa cơn băo tuyết, lạnh lẽo, hay giữa cơn dày ṿ đau khổ nhất, vẫn luôn luôn có sự hiện diện của Thượng Đế.

Không một cơn giông to, gió lớn, hay băo lụt nào có thể làm hại được những người đă đặt sự an toàn của ḿnh trong tay của Thượng Đế. Người ta chỉ bị đắm đuối trong cơn giông gió, băo lụt, khi nào người ta đă mất liên lạc với Thượng Đế.

Thượng Đế chỉ có thể thực hiện được những ǵ các bạn hiện đang nh́n thấy, khi nào người ta hướng tầm nhăn quang của ḿnh đến Ngài một cách vững chắc, không hề lay chuyển, đến mức không c̣n biết ǵ và không nh́n thấy ǵ khác nữa ở bên ngoài...

Người ta có thể t́m thấy yên tĩnh thật sự giữa cơn băo tố, v́ sự yên tĩnh chân thật vốn ngự trong tâm hồn của người nào đă t́m thấy Chân Ngă.

Trái lại, người ta có thể ngồi ở một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, giữa chốn sa mạc hẻo lánh hoang vu, một ḿnh đối diện với bóng hoàng hôn êm ả và giữa cảnh im lặng của thiên nhiên, nhưng lại bị dày ṿ cắn xé bởi cơn băo ḷng của những đam mê, dục vọng, hoặc bị giao động rung chuyển tâm hồn bởi những sấm sét của sự sợ hăi, kinh hoàng...

Những người này là tàn tích của một dân tộc xưa kia đă từng có một nền văn minh cao cả và thịnh vượng. Tổ tiên của họ cư ngự nơi xứ này vào thời kỳ mà xứ ấy c̣n là một đế quốc kỹ nghệ phồn thịnh, hùng cường. Họ đă từng biết thực hành các môn khoa học và mỹ thuật.

Họ cũng đă biết rơ nguồn gốc tinh thần và sức mạnh tâm linh của họ và đă biết tôn thờ sùng kính Thiêng liêng. Về sau đến một thời kỳ họ bắt đầu say mê những khoái lạc vật chất và rơi vào t́nh trạng trụy lạc, sa đọa tâm linh.

Khi đó một tiếng động lớn, một cơn thiên tai địa chấn tàn phá và làm sụp đổ tất cả, chỉ c̣n để lại có những bộ lạc sơn nhân miền thượng ở rải rác trên những vùng hẻo lánh.

Những bộ lạc sống sót này mới quy tựu thành những cộng đồng sinh hoạt, từ đó mới xuất phát ra những chủng tộc lớn ở Âu Châu ngày nay.

Vùng này là vùng sa mạc Gobi bị cơn địa chấn tàn phá và đưa lên một chiều cao mà không c̣n một loài thảo mộc nào có thể sống được. Dân cư vùng ấy đă hầu như bị hoàn toàn tiêu diệt, đến nỗi chỉ c̣n lại có những cộng đồng hiếm hoi cô lập, và có nơi chỉ c̣n lại có một hoặc hai gia đ́nh.

Những cộng đồng này mới tổ hợp lại thành từng đoàn. Đó là tổ tiên của những người dân sống tại nơi đây, họ không thể phát triển để tiến bộ hơn nữa, v́ họ luôn luôn bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tương tàn giữa họ với nhau.

Lịch sử và nguồn gốc của họ đă bị lăng quên, nhưng người ta có thể truy nguyên đến tận nguồn gốc duy nhất của nền tôn giáo và những huyền thoại của họ. Những nền tảng của tôn giáo và huyền thoại này ở đâu cũng giống như nhau, tuy rằng những h́nh thức sắc tướng rất là khác biệt, và có những điểm dị đồng rất lớn...

Đến đây, Dật Sĩ nói y không muốn làm nhàm tai chúng tôi, v́ phần đông các bạn tôi đă ngủ mê. Chúng tôi bèn nh́n về phía bọn cướp. Họ cũng đă ngủ mê, và cũng như chúng tôi, họ đă quên mất cơn giông băo tuy rằng cơn giông băo vẫn tiếp tục hoành hành dữ dội. Chúng tôi bước vào lều để nghỉ ngơi sau khi đă một lần nữa, tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với các vị chân sư cao cả.

Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy, mặt trời chiếu tỏ rạng, cả trại đều rộn rịp. Chúng tôi hối hả thay quần áo và thấy rằng tất cả mọi người, luôn cả bọn cướp, đều sắp sửa chuẩn bị ăn sáng. Trong khi ăn, chúng tôi được thông báo chương tŕnh ngày hôm ấy là lên đường hộ tống bọn cướp trở về trại của họ.

Thật vậy, người ta dễ t́m đường khi đi chung với nhau từng đoàn hơn là đi lẻ tẻ. Điều này làm cho bọn cướp hài ḷng, nhưng không làm cho chúng tôi vui, v́ chúng tôi được biết rằng ở trại của họ, bọn cướp có đến một trăm năm mươi người. Khi chúng tôi điểm tâm xong, th́ mọi vết tích của cơn băo đă biến mất. Chúng tôi bèn dỡ trại và cùng đi với bọn cướp, cả người lẫn ngựa, để t́m đường về trại họ.

Trại của bọn cướp ở cách đó dưới hai mươi cây số. Tuy vậy, chúng tôi chỉ đến nơi vào lúc xế chiều, và lấy làm sung sướng mà có thể nghỉ chân tại đó. Chúng tôi nhận thấy trại ấy rất tiện nghi, có đủ chỗ rộng răi để chứa tất cả phái đoàn. Sau bữa ăn chiều, chúng tôi nhận thấy rằng nên ở lại đó một hai ngày để chờ cho tuyết ém chặt lại.

Thật vậy, qua ngày hôm sau chúng tôi phải vượt một truông núi cao gần năm ngh́n thước. V́ thời tiết không tạnh ráo trở lại như chúng tôi mong, chúng tôi phải kéo dài thời gian lưu trú tại đây trong bốn ngày. Dân làng đối xử với chúng tôi một cách tôn kính và cố gắng làm cho chúng tôi được vui ḷng.

Khi chúng tôi lên đường, có hai người đến xin nhập bọn với phái đoàn. Chúng tôi vui vẻ nhận lời, v́ dầu sao chúng tôi cũng phải tuyển mộ một số lao công phụ giúp khi đến làng sắp tới, cách đó độ một trăm cây số. Hai người này tháp tùng đi theo chúng tôi cho đến bận về, vào mùa thu.

Khi chúng tôi rời khỏi làng, gần hết phân nửa dân làng tiễn đưa chúng tôi đến tận đỉnh của truông núi để giúp chúng tôi t́m ra con đường ṃn bị tuyết dày đặc lấp mất cả dấu vết. Chúng tôi rất cám ơn sự cố gắng, khả ái của họ, v́ công việc leo núi thật rất khó khăn.

Lên đến đỉnh truông núi, chúng tôi từ biệt các người anh em lục lâm cường đạo và trực chỉ đi đến chỗ hẹn. Chúng tôi đến đây ngày hai mươi tám tháng năm, tức là ba ngày sau những toán đoàn viên bạn, như họ đă gặp chúng tôi tại đây hồi mùa thu năm trước.



3. Những Di Tích Các Thành Phố Cổ



Sau một tuần lễ nghỉ ngơi, chúng tôi tom góp đồ hành trang và toàn thể phái đoàn đều lên đường đi đến chổ địa điểm tọa lạc của thủ đô đế quốc Uiguor thời tiền sử. Chúng tôi đến đây vào ngày Ba mươi tháng Sáu, và bắt đầu ngay công việc đào xới. Giếng đào đầu tiên của chúng tôi chưa sâu tới hai chục thước, th́ chúng tôi gặp phải vách tường của một dinh thự cũ.

Chúng tôi đào sâu độ ba chục thước để có thể lọt vào một gian pḥng lớn, tại đây chúng tôi t́m thấy những xác ướp c̣n nguyên vẹn ở tư thế ngồi xếp bằng, gương mặt bao phủ bởi một cái mặt nạ bằng vàng. Tại đó có nhiều pho tượng bằng vàng, bạc, đồng và đất sét, tất cả đều trạm trổ rất đẹp.

Chúng tôi đă chụp ảnh tất cả. Khi công việc đào xới đă tiến hành đến mức độ đủ chứng minh một cách thỏa đáng rằng đó thật là những di tích cổ xưa của một thành phố rất lớn, chúng tôi bèn đi đến địa điểm thứ nh́, mà chúng tôi t́m thấy ngay bởi những bút tích diễn tả trên những tấm bia đá cổ đă nói ở trên.

Tại đây chúng tôi đào sâu chừng mười hai thước trước khi t́m thấy những di tích chắc chắn của một nền văn minh cổ. Chúng tôi đă làm một công việc khá đầy đủ để chứng minh lại một lần nữa và một cách chắc chắn rằng đó là những di tích điêu tàn của một thành phố cổ. Kế đó chúng tôi đi đến địa điểm thứ ba, tại đây chúng tôi định khám phá những tàn tích chứng minh sự hiện diện của một thành phố c̣n cổ xưa hơn và rộng lớn hơn nữa.



4. Bọn Cướp Núi Và Đoàn Kỵ Mă Cứu Trợ Vô H́nh



Để tiết kiệm thời giờ và tài nguyên, chúng tôi tổ chức thành bốn toán, trong số đó có ba toán gồm một trưởng toán và sáu người phụ tá, tức là mỗi toán có bảy người. Công việc đào xới và bảo tồn các giống đào được giao phó cho ba toán đó, mỗi toán thay phiên nhau làm việc tám giờ mỗi ngày.

C̣n toán thứ tư gồm tất cả số người c̣n lại. Toán này có phận sự canh pḥng chung quanh trại và lo việc chu cấp lương thực cho cả phái đoàn. Tôi thuộc về toán đặt dưới sự chỉ huy của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Toán của tôi làm việc từ nửa đêm tới tám giờ sáng.

Sau khi đă đào xong giếng đầu tiên, chúng tôi lọt vào bốn gian pḥng dưới ḷng đất, mà chúng tôi lo quét dọn lại. Sau đó, chúng tôi đă có thể chứng minh rằng đó là di tích của thành phố lớn nhất và cổ xưa nhất trong ba thành phố, và nó chứa đựng rất nhiều kho tàng.

Một buổi sáng, toán công nhân đến thay phiên toán của tôi báo động rằng có nhiều người kỵ mă đang tiến gần đến trại từ hướng bắc. Chúng tôi ngoi lên mặt đất và thấy họ đang tiến về phía chúng tôi. Đó chắc là một đoàn lục lâm cường đạo, v́ rơ ràng là họ noi theo con đường ṃn đă đưa theo chúng tôi đến đây. Trong khi chúng tôi c̣n đang nh́n, th́ Dật Sĩ bước tới và nói:

- Đó là một bọn cướp định đến đánh phá trại chúng ta, nhưng chúng ta không cần phải sợ hăi.

Chúng tôi để cho bọn cướp đến gần. Khi họ đến gần trại c̣n cách chừng năm trăm thước th́ họ ngừng lại. Sau đó một lát, có hai tên cướp tế ngựa lại trại chúng tôi, cất tiếng chào xong rồi liền hỏi chúng tôi đang làm ǵ ở đây.

Chúng tôi nói rằng chúng tôi đang thử t́m kiếm những tàn tích của một thành phố cổ. Họ đáp rằng họ không tin như vậy, và nghi rằng chúng tôi là những kẻ đi t́m vàng. Họ toan tính với nhau để đánh cướp những đồ khí cụ trang bị và lương thực của chúng tôi.

Chúng tôi hỏi họ phải là binh lính của chánh phủ không? Họ đáp rằng họ không thừa nhận một chánh phủ nào cả v́ xứ này chỉ có sức mạnh là đáng kể. Nh́n thấy chúng tôi không có vẻ ǵ lo sợ và cũng không có khí giới, có lẽ họ cho rằng chắc là chúng tôi c̣n đông người hơn chứ không phải có bấy nhiêu.

Họ bèn quay về bọn cướp để thảo luận kế hoạch. Được mỗt lát, hai tên ấy đă trở lại và nói rằng nếu chúng tôi chịu khuất phục một cách êm thấm, th́ họ sẽ không làm hại ǵ cả. Nếu không, họ sẽ tiến đến và giết chết tất cả những người nào dám chống cự họ. Họ cho chúng tôi mười phút để quyết định, sau mười phút đó họ sẽ tấn công mà không cần phải báo trước.

Dật Sĩ đáp rằng chúng tôi không chống cự mà cũng không đầu hàng ai cả; điều này có vẻ làm cho họ nổi nóng. Họ quay ngựa trở về với bọn cướp, và rút súng ra sẵn sàng. Tất cả bọn cướp bèn cho ngựa phóng nước đại tấn công vào trại chúng tôi.

Tôi thú thật là đăsợ hoảng vía. Nhưng ngay sau đó, bỗng xuất hiện nhiều h́nh bóng giống như nhữnh người kỵ mă tế ngựa xung quanh chúng tôi. Những h́nh bóng này càng hiện rơ, trở lên linh động và đông đảo hơn. Bọn cướp cũng đă nh́n thấy điều ấy.

Vài tên cướp mau tay giật dây cương quay đầu trở lại. Những con ngựa của vài tên khác sợ hoảng nhẩy chồm lên, ngă quỵ xuống đất và thoát ra khỏi sự điều khiển của chủ chúng nó. Chỉ trong khoảnh khắc, một cơn náo loạn kinh khủng đă diễn ra trong hàng ngũ của bọn cướp gồm bảy mươi lăm người.

Bầy ngựa bắt đầu hí vang và ngă quỵ quăng bọn cướp té ngă lổng chổng. Cơn náo loạn kết thúc bằng một cuộc chạy trốn xiểng liểng, trong khi đó những người kỵ mă vừa xuất hiện phi ngựa đuổi theo bén gót.

Khi cơn loạn động đă êm, vị trưởng nhóm, một đoàn và tôi, cùng đi tới chỗ mà bọn cướp bị chặn lại để nh́n xem nhưng không thấy có dấu vết nào ngoài ra những dấu chân ngựa lộn xộn của bọn cướp.

Điều này có vẻ là một điều bí hiểm, v́ những người cứu trợ chúng tôi đă xuất hiện rơ ràng thật sự cũng như bọn cướp, và chúng tôi đă nh́n thấy họ đến từ bốn phía. Bởi vậy chúng tôi chắc sẽ t́m thấy trên băi cát những dấu chân ngựa của họ xen lẫn với những dấu vết của bọn cướp.

Khi chúng tôi quay trở lại, Dật Sĩ nói:

- Những người kỵ mă ấy chỉ là những h́nh bóng mà chúng tôi đă làm cho xuất hiện y như thật đến nỗi các bạn và cả bọn cướp đă có thể nh́n thấy. Đó là những h́nh ảnh của quá khứ mà chúng tôi có thể phóng ra một cách linh động đến nỗi nh́n thấy không khác ǵ sự thật.

Chúng tôi có thể phóng những h́nh ảnh đó để tự vệ và để bảo vệ kẻ khác, mà kết quả là không làm hại ai cả. Khi một mục đích nhất định đă được đặt ra, th́ kết quả là không gây thương tổn. Một sự nghi ngờ đă nẩy sinh ra trong óc của bọn cướp.

Họ nghĩ rằng không có lư nào một phái bộ như chúng ta lại mạo hiểm đi đến chỗ xa xôi như vậy mà không có pḥng vệ. Chúng tôi lợi dụng sự nghi ngờ những cạm bẫy. Bọn cướp là một hạng người rất nhát gan. Họ sợ thứ ǵ th́ họ sẽ gặp thứ đó.

Nếu chúng tôi không dùng phương pháp đó, th́ có lẽ chúng tôi bắt buộc phải tiêu diệt một số đông bọn cướp trước khi kẻ sống sót chịu để cho chúng ta yên. Nhưng bây giờ th́ chúng ta không c̣n nghe nói đến bọn cướp ấy nữa. Thật vậy, chúng ta không c̣n sợ bị họ quấy phá.

Khi những cuộc đào xới đă có những bằng chứng để làm cho chúng tôi tin tưởng sự hiện hữu của ba thành phố cổ, chúng tôi có ư nghĩ lấp những giếng đào để che mắt những đoàn người du mục v́ họ có thể t́m ra dấu vết của những cuộc khảo cổ này.

Thật vậy, sự khám phá ra các giếng này chắc sẽ gây nên một sự cướp bóc toàn diện do bởi sự hấp dẫn của các kho tàng, v́ những huyền thoại được lưu truyền khắp nơi về sự hiện hữu của những thành phố cổ và những kho vàng bạc châu báu chôn dấu trong đó.

Bởi vậy, sau khi hoàn tất công việc khảo cổ, chúng tôi lấp giếng và cố gắng che đậy các dấu vết chỉ c̣n để lại đến tối thiểu, và trông cậy nơi cơn băo đầu tiên để xóa bỏ mọi di tích c̣n xót lại về sự có mặt của chúng tôi. Những cồn cát ở xứ này luôn luôn di chuyển, cũng đủ làm một chướng ngại cho việc truy t́m các tàn tích cổ.

Nếu không có sự giúp đỡ của các bật siêu nhân, chúng tôi không giờ có thể t́m ra những nơi cổ tích này. Chúng tôi được cho biết rằng những di tích cổ xưa tương tự c̣n ở rải rác trong vùng sa mạc đến tận phía nam xứ Tây Bá Lợi Á. Hiển nhiên là có một số dân cư đông đảo xưa kia đă từng sống thịnh vượng ở vùng này và đă đạt tới một tŕnh độ văn minh rất cao.

Có những bằng chứng xác thực không thể phủ nhận rằng giống dân này đă từng thực hành khoa nông nghiệp, canh tác, cùng những khoa kỹ nghệ hầm mỏ, dệt cửi và những ngành sinh hoạt liên hệ.

Họ đă từng biết đọc, viết chữ và biết cả những ngành khoa học khác. Thật rơ ràng là lịch sử của những dân tộc này đă đồng hóa với lịch sử của giống dân Aryen (tức giống dân thứ năm, thủy tổ của các dân tộc văm minh Âu Mỹ hiện nay).



5. Một Cuộc Gặp Gỡ Huyền Diệu



Trước ngày chúng tôi lên đường, trong bữa ăn có một bạn tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng lịch sử của giống dân vĩ đại này có thể nào viết lại được chăng? Đức Tuệ Minh đáp rằng có thể được, v́ thành phố cổ chôn vùi ở phía dưới chỗ chúng tôi đang cắm trại, có chứa đựng những tài liệu bút tự hoàn toàn xác đáng.

Người ta chỉ cần t́m lại và phiên dịch những tài liệu đó để có một sự xác nhận trực tiếp về lịch sử của giống dân này.

Câu chuyện bị gián đoạn khi có một người vừa xuất hiện ở ngoài cửa trại. Người ấy xin phép bước vào lều. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Chandersen liền vội vàng bước ra để gặp người ấy. Xét về việc các vị mừng rỡ tiếp đón chào hỏi nhau, chúng tôi hiểu rằng các vị đă từng quen biết nhau nhiều.

Tô Mặc bèn đứng dậy đi theo các vị. Khi y ra đến cửa, y đứng sựng lại một lúc trong cơn ngạc nhiên, rồi bước ra ngoài lều đưa thẳng hai tay ra trước mà nói:

- Đây mới thật là một sự bất ngờ!

Những tiếng kêu ngạc nhiên thốt lên cùng một lượt như một cuộc ḥa tấu, trong khi những vị quư khách mới đến, cả nam lẫn nữ, trao đổi những lời chào hỏi với y và với ba vị siêu nhân. Khi đó, những người ngồi bên trong lều bèn đứng dậy, hối hả bước ra ngoài và thấy một nhóm gồm tất cả mười bốn người khách vừa mới đến.

Trong nhóm ấy, có bà Mă Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, cùn với người con trai và con gái của đức Tuệ Minh và một số người khác. Tất cả mọi người đều vui vẻ, và chúng tôi hồi tưởng lại những cuộc hội họp trong những ngày đă qua.

Chúng tôi thật là hoàn toàn ngạc nhiên, và chúng tôi không dấu diếm điều đó. Nhưng sự ngạc nhiên ấy lại c̣n lớn hơn nữa trong những bạn đoàn viên thuộc các toán khác của phái đoàn. Nh́n vào gương mặt họ, chúng tôi hiểu rằng họ ngạc nhiên đến mức vô hạn không thể nào diễn tả nổi, v́ họ chưa từng chứng kiến như chúng tôi về những cơn xuất hiện và biến mất một cách bất ngờ kiểu đó.

Công việc khảo cổ đă làm chúng tôi quá bận rộn đến nỗi chúng tôi đă bỏ qua không kể lại cho họ nghe đầy đủ những kinh nghiệm đă qua của chúng tôi, ngoài ra những câu chuyện vắn tắt đứt đoạn. Sự xuất hiện của các vị quư khách dường như từ ṿm trời trong sáng mà đến, đă làm cho họ hoàn toàn khựng lại và đứng trơ như tượng đá, điều này là một đầu đề để chúng tôi bỡn cợt họ một cách nhẹ nhàng.

Sau việc giới thiệu đă xong xuôi, người phụ trách việc nấu ăn bước tới nói riêng với đức Tuệ Minh và Tô Mặc với một vẽ thất vọng:

- Làm sao đăi ăn tất cả bấy nhiêu người? Lương thực của chúng ta đă cạn, và đồ tiếp tế c̣n chưa đến kịp. Chúng ta chỉ c̣n vừa tạm đủ để ăn bữa chiều nay và bữa điểm tâm sáng ngày mai. Vả lại, mọi sự đă chuẩn bị sẵn sàng cho chúng ta lên đường.

Lê Mông, vị trưởng phái đoàn, đă lắng tai nghe rơ mọi chuyện. Y bèn bước tới, và tôi nghe y hỏi:

- Trời đất! Tất cả những người này từ đâu đến đây?

Tô Mặc vừa nh́n y vừa cười và đáp:

- Lê Mông, anh có vẻ ngớ ngẩn. Các vị đến trực tiếp từ trên trời. Hăy nh́n xem, các vị không có một phương tiện di chuyển nào cả.

Lê Mông nói:

- Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là h́nh như họ không có cánh. Khi họ đáp xuống băi cát, đáng lẽ chúnh ta phải nghe tiếng động, v́ họ rất đông. Nhưng chúng ta chẳng nghe thấy ǵ cả. Như vậy tôi tạm kết luận tằng giả thuyết hoàn toàn hợp lư của anh là đúng.

Lúc ấy, đức Tuệ Minh day lại và nói rằng để trấn an tinh thần của người đầu bếp, có lẽ người bắt buộc sẽ phải trách các vị khách đă không chịu đem theo lương thực để tự túc v́ lương thực của chúng ta xét ra không đủ.

Người đầu bếp có vẽ rất lúng túng và giải thích rằng y không có ư muốn nói một cách thô lỗ như vậy, nhưng dầu sao sự thật vẫn c̣n đó, là không đủ thức ăn cho tất cả mọi người. Các vị quư khách bèn đồng thanh cười vang lên một cách vui vẽ, điều này có vẽ làm cho y càng lúng túng hơn.

Bà Mă Ly nói rằng không cần phải sợ có sự bất tiện hay thiếu xót. Bà chủ nhà của chúng tôi và vị giai nhân trong buổi dạ hội hôm trước nói rằng hai bà vui ḷng đảm đương lấy trách nhiệm của bữa ăn, v́ các vị quư khách đến viếng chúng tôi với ư định rơ rệt là sẽ cùng chia sẽ bữa ăn đó với chúng tôi. Người đầu bếp có vẻ yên ḷng và chấp nhận ngay điều đó.

Lúc ấy trời đă xế chiều. Đó là một trong những ngày mà ngọn gió mát thổi nhẹ dường như vuốt ve đồng cát Gôbi, dẫu rằng có khi chỉ một lát sau nó có thể biến thành một cơn bảo tố gầm thét thịnh nộ với một tốc lực kinh khủng.

Chúng tôi lấy tất cả mọi thứ ǵ có thể dùng làm khăn trải bàn và trải lên băi cát, ngay ở phía ngoài trại. Đối với người ngoài, đó có vẽ giống như một cuộc đi chơi cắm trại.

Những người đoàn viên thuộc các toán đến sau chúng tôi vẫn c̣n tỏ vẻ ngạc nhiên và do dự. Lê Mông nh́n vào nồi đựng thức ăn và nói:

- Nếu tôi nh́n thấy rơ, và nếu người ta có thể chia sớt có bấy nhiêu thức ăn cho tất cả số người đông đảo như vậy th́ tôi xin mở lớn đôi mắt để nh́n xem một phép lạ được thược hiện!

Một người trong nhóm chúng tôi:

- Thật vậy, anh hăy chống mắt cho thật lớn; v́ anh sắp sửa nh́n thấy điều mà anh đă đoán đúng!

Tô Mặc nói:

- Anh Lê Mông, đây là lần thứ nh́ trong ngày hôm nay mà anh đă đoán đúng!

Kế đó, hai bà nữ khách bắt đầu múc thức ăn trong nồi để chia cho tất cả mọi người. Khi một dĩa đă múc đầy, nó được chuyển qua tay người khách và lại được thay thế bằng một cái dĩa mới, và cứ tiếp tục như thế cho đến khi tất cả mọi người đều được cung cấp thức ăn một cách dồi dào thừa thăi.

Khi những dĩa được múc đầy thức ăn mỗi lúc càng tiếp tục thêm, chúng tôi thấy gương mặt Lê Mông càng tỏ vẻ lo ngại. Khi người ta đưa một dĩa cho y, y truyền qua người ngồi bên cạnh rồi nói rằng y có thể bằng ḷng với một dĩa ít hơn như thế nhiều. Bà chủ nhà chúng tôi nói rằng không phải lo ngại ǵ cả, v́ có đủ thức ăn cho tất cả mọi người.

Sau khi mỗi người đă được cung cấp thức ăn một cách rộng răi, Lê Mông nh́n vào các nồi niêu một lần nữa và thấy rằng thức ăn vẫn c̣n đầy, không giảm bớt chút nào. Y bèn đứng dậy và nói:

- Nếu quư bà không cho tôi là một kẻ vô phép, mất dạy và thô bỉ, th́ tôi xin phép được đến ngồi gần các bà. Tôi xin nh́n nhận rằng sự ṭ ṃ ngự trị mọi tư tưởng của tôi đến mức làm cho tôi không thể nuốt trôi một miếng nào.

Các bà nữ khách đáp rằng nếy y muốn đến ngồi gần các bà, th́ các bà sẽ coi như một cử chỉ lịch sự. Khi đó, y bèn đi ṿng quanh sau lưng nhóm thực khách và đến ngồi cạnh chiếc khăn trải dưới đất, giữa bà Mă Ly và vị giai nhân tuyệt sắc.

Khi y ngồi xuống, có người xin bánh ḿ. Trong giỏ bánh ḿ chỉ c̣n có một miếng. Vị giai nhân đưa hai bàn tay ra, th́ ngay khi đó một ổ bánh ḿ lớn liền xuất hiện trên tay bà. Bà đưa ổ bánh cho bà chủ nhà chúng tôi, bà này sửa soạn đem cắt ra từng khoanh trước khi chia cho mỗi người thực khách.

Lê Mông đứng dậy xin phép quan sát ổ bánh ḿ c̣n nguyên venï. Người ta đưa ổ bánh ḿ cho y, y quan sát trong một lúc với cặp mắt ḍ xét rồi đưa trả lại với sự băn khoăn hiện rơ trên nét mặt. Y bước đi vài bước, rồi quay lại và nói thẳng với người thiếu phụ:

- Thưa bà, tôi không muốn có vẻ xấc láo, nhưng đầu óc tôi bị đảo lộn làm cho tôi không khỏi đưa ra vài câu hỏi.

Vị gian nhân khẽ nghiêng ḿnh, và nói rằng y được tự do hỏi bất cứ điều ǵ y muốn. Y nói:

- Phải chăng bà có ư muốn nói rằng bà có thể bất chấp tất cả mọi định luật thiên nhiên, ít nhất là những định luật mà chúng ta biết, và không cần làm một cố gắng nào? Rằng bà có thể làm cho bánh ḿ xuất hiện từ một kho dự trữ vô h́nh?

Người thiếu phụ đáp:

- Đối với chúng tôi, kho dự trữ không phải vô h́nh, mà nó lúc nào cũng hữu h́nh.

Khi bà chủ nhà chúng tôi cắt ổ bánh ḿ, chúng tôi nhận thấy rằng ổ bánh không hể giảm bớt. Lê Mông đă b́nh tĩnh lại, trở về chỗ ngồi, và vị giai nhân nói tiếp:

- Ước ǵ các bạn có thể hiểu rằng tấm thảm kịch về cuộc đời của đức Jesus đă chấm dứt trên cây Thánh Giá, c̣n niềm phúc lạc của cuộc sống nơi đấng Chirst đă bắt đầu với sự phục sinh thay v́ mục đích tử Đạo trên Thánh Giá.

Bằng cách đó, mỗi người có thể theo gương đức Jesus trong cuộc đời tràn đầy tâm Bồ Đề, tức tràn đầy sức sống của Chân Ngă. Người ta có thể tưởng tượng một cuộc đời phúc lạc hơn và phong phú hơn sự ḥa đồng với quyền năng của Chân Ngă trong nội tâm? Với cuộc sống tâm linh đó, các bạn có thể biết rằng ḿnh được sáng tạo để chế ngự mọi h́nh thể, mọi h́nh thể, mọi tư tưởng, mọi lời nói, và mọi hoàn cảnh.

Bằng cách sống cuộc đời thỏa măn mọi nhu cầu, các bạn sẽ nhận thấy rằng đó là một cuộc đời đúng đắn khoa học. Đức Jesus đă làm cho vài ổ bánh ḿ và vài con cá của đứa trẻ nhỏ tăng lên gấp bội để cho đám quần chúng hăy ngồi trong ṿng trật tự, trong một thái độ trông chờ, sẵn sàng lănh nhận thức ăn được tăng thêm do bởi một định luật sáng tạo.

Muốn t́m thấy sự yên vui và thỏa măn trong đời sống của đức Jesus, người ta phải thực hiện định luật của đời ngài bằng cách hành động tuân theo những lư tưởng của Ngài. Người ta không nên ngồi yên bất động và tự hỏi rằng làm sao có đủ thức ăn để sống.

Nếu đức Jesus làm như vậy, th́ đám quần chúng sẽ không bao giờ được ăn uống no đủ. Thay v́ làm như thế, ngài ban ân huệ trong tâm thần, ngài cám ơn chúa v́ những ǵ mà ngài đang có, và những phần ăn được tăng thêm đủ cung cấp cho tất cả mọi người.

Cuộc đời chỉ trở nên một bài toán khó khăn khi con người bắt đầu từ chối không chịu nghe theo tiếng nói ấy, y sẽ không c̣n làm việc để mưu sinh. Y chỉ làm việc v́ niềm vui sáng tạo mà thôi. Y sẽ bước vào niềm phúc lạc sáng tạo, một lănh vực được cai quản bởi luật Trời hay tiếng nói của Thượng Đế...

Kế đó, vị giai nhân day qua Lê Mông nói:

- Đức Jesus đă dạy những luật Đạo nhằm mục đích thiết lập cơi Trời ở dưới thế gian. Bạn đă nh́n thấy những luật đó được áp dụng trong một phạm vi khiêm tốn. Những luật đó vốn đúng đắn và rất khoa học.

Con người, vốn là con của Chúa Trời, thật sự cùng một bản chất như ngài, nên y vốn chứa đựng ở tự nơi ḿnh cái tinh thần bất diệt của Chúa Trời. Y có thể phân biệt những định luật của đấng đă sinh ra y, sử dụng những định luật ấy, để đem lại năng xuất dồi dào toàn vẹn trong lănh vực sinh hoạt hằng ngày của y. Y chỉ cần muốn là được.

Kế đó, giai nhân nói rằng bà rất vui ḷng trả lời tất cả mọi câu hỏi của Lê Mông. Vị trưởng phái đoàn đáp rằng y đă quá xúc động để có thể hỏi bất cứ một câu nào nữa. Y cần phải có một lúc im lặng để suy nghĩ. Y có nhiều điều muốn nói và hy vọng rằng y sẽ không làm phật ư một người nào, v́ y không hề có ư chỉ trích ai cả. Y c̣n nói:

- Khi đến xứ này, chúng tôi tưởng rằng ḿnh sẽ t́m thấy những tàn tích của những thổ dân đă suy vong và tàn tích từ lâu. Trái lại, chúng tôi lại thấy những người mà chúng tôi không thể tưởng tượng rằng họ có cuộc đời hoạt động một cách cao quư vô cùng.

Nếu những điều mà chúng tôi vừa thấy có thể được công bố bên các nước Âu Mỹ, th́ toàn thể thế giới sẽ nằm mọp dưới chân quư vị!

Ba vị phu nhân đáp rằng các bà không hề có ư muốn thấy toàn thể thế giới nằm mọp dưới chân các bà. Các bà giải thích rằng nhân loại đă có quá nhiều thần tượng, nhưng thiếu lư tưởng.

Khi đó, tất cả các quư khách, trừ ra người đầu tiên đă đến trước cửa lều, đứng dậy và nói rằng đă đến lúc các vị phải ra đi. Các vị bắt tay từ giă chúng tôi đến viếng các vị khi này.









Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 
hiendde
Hội Viên
Hội Viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 02 May 2010
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2589
Msg 100 of 1146: Đă gửi: 14 June 2010 lúc 8:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn hiendde



Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG BẢY


1. Một Cuộc Cứu Chữa Nhiệm Màu

Chúng tôi dậy thật sớm vào sáng ngày hôm sau, và lên đường trước khi mặt trời mọc, để đi đến chỗ làng quê của Bạch Lăng.

Chúng tôi đến làng ấy mười hai ngày sau đó. Khi đến nơi chúng tôi được đón tiếp bởi những vị siêu nhân đă viếng thăm chúng tôi vào ngày cuối cùng trên sa mạc, và lấy làm sung sướng nhận lời khi các vị mời chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà các vị trong vài ngày.

Chúng tôi được đưa vào những gian pḥng rất sang trọng so với những lều trại của chúng tôi trên sa mạc, buổi cơm tối đă sẵn sàng nửa giờ sau đó.

Chúng tôi thay đổi y phục chỉnh tề và bước vào gian pḥng khách bên cạnh, tại đây chúng tôi gặp lại nhiều vị chân sư mà chúng tôi đă từng được quen biết trong những chuyến du hành đă qua xuống miền Nam, các vị vui mừng tiếp đón, nói rằng vùng này là chỗ đất lành của chúng tôi, và sẵn sàng mở rộng cửa để tiếp đón tất cả mọi người.

Vị thống đốc của vùng này tiếp đón chúng tôi bằng một bài diễn từ khả ái xuyên qua một thông dịch viên. Người c̣n cho biết rằng buổi cơm tối được sắp đặt tại tư dinh và chúng tôi sẽ đến đó ngay lập tức. Chúng tôi rời khỏi pḥng khách, do vị thống đốc đi trước dẫn đường, có hai vị vệ sĩ đi kèm hai bên theo lễ nghi bổn xứ.

Kế đó là Lê Mông và bà chủ nhà trọ của chúng tôi khi trước, rồi đến Tô Mặc và người thiếu phụ tuyệt sắc, và sau cùng là đức Tuệ Minh, đức bà Mă Ly, mẫu thân của ngài, và tôi, kỳ dư đều tháp tùng đi theo sau.

Chúng tôi vừa mới đi được một đoạn chừa bao xa th́ một đứa gái ăn mặc rách rưới tách ra từ trong đám đông người đang nh́n chúng tôi từ bên nề đường, và hỏi bằng tiếng bổn xứ để xin nói chuyện với đức bà Mă Ly. Bà Mă Ly nắm tay tôi và đức Tuệ Minh rồi cả ba chúng tôi đều bước ra khỏi hàng ngũ để nghe xem bé ấy muốn hỏi điều ǵ.

Thấy vậy bà chủ nhà chúng tôi do dự một lúc, rồi nói rằng bà muốn ngừng lại. Trong khi bà bước ra khỏi hàng ngũ khách, tất cả đoàn đếu dừng chân lại. Bà Mă Ly giải thích cho viên thống đốc biết rằng bà muốn tất cả mọi người hăy tiếp tục lộ tŕnh và ngồi vào bàn ăn trước, sau đó bà sẽ đến để nhập tiệc chung với tất cả.

Trong khi đó, bà nắm hai bàn tay của đứa bé gái trong ḷng bàn tay bà. Sau khi viên thống đốc và đoàn tùy tùng đă đi qua, bà quỳ xuống thấp để áp khuôn mặt bà vào g̣ má của đứa bé, và nói:

- Con hỡi, con muốn ta giúp điều ǵ?

Sau đó, bà Mă Ly đă được biết rằng em trai của đứa bé gái này đă bị té ngă vào lúc xế trưa và có lẽ bị găy xương sống. Đứa bé khẩn cầu bà Mă Ly đi theo nó để xem có thể cứu chữa cho em trai nó, v́ đứa em trai này đang đau đớn rên xiết rất khổ sở.



2. Căn Nhà Huyền Diệu



Bà Mă Ly đứng dậy, giải thích t́nh h́nh cho chúng tôi nghe và yêu cầu chúng tôi hăy đi về tư dinh viên thống đốc, c̣n bà đi theo đứa bé gái và sẽ gặp lại chúng tôi sau. Lê Mông xin phép đi với bà. Bà nói rằng tất cả chúng tôi có thể đi theo bà nếu chúng tôi muốn. Chúng tôi bèn đi theo bà.

Bà vừa đi vừa nắm tay đứa bé gái, em bé này nhảy nhót v́ vui mừng. Bà chủ nhà chúng tôi thông dịch lại những lời em nói. Nó nói biết rằng đứa em trai của nó sẽ được đức bà chữa khỏi.

Khi đến gần nhà, đứa bé gái chạy vọt tới trước để báo tin cho chúng tôi đến. Chúng tôi thấy em ở một cái cḥi vách đất nghèo nàn. Bà Mă Ly có lẽ đọc được tư tưởng chúng tôi v́ bà nói:

- Căn nhà nghèo nàn này chứa đựng những quả tim ấm áp.

Khi đó, cánh cửa đột nhiên mở. Chúng tôi nghe một giọng đàn ông và chúng tôi bước vào. Cḥi lá này bên trong rất nheo nhóc. Nó chỉ vừa đủ khoảng trống để chứa tất cả chúng tôi, và trần nhà thấp đến nỗi chúng tôi không thể đứng thẳng người.

Một ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập ḷe lên gương mặt của cha mẹ đứa bé ngồi một góc, áo quần dơ bẩn. Trong góc ở xa nhất, nằm trên một đống rơm rạ và giẻ rách cũ hôi hám ẩm thấp, là một đứa bé trai độ chừng năm tuổi đang rên xiết, gương mặt tái ngắt như sáp và nhăn nhó như có vẻ rất đau đớn.

Đứa bé gái ngồi xuống bên cạnh và đặt hai bàn tay lên hai g̣ má đứa em trai. Em nói với đứa bé trai rằng nó sẽ được hoàn toàn chữa khỏi v́ đức bà đă có mặt tại đó. Em rút hai bàn tay và xích qua một bên để cho em trai ấy nh́n thấy đức bà.

Đến khi đó em mới nh́n thấy lần đầu tiên những vị khách lạ, và nét mặt em liền biến đổi ngay, dường như em đang trải qua một cơn sợ hăi. Em lấy hai tay che mặt, và thân ḿnh run rẩy ḥa nhịp với tiếng khóc thổn thức.
- Ồ;! Con tưởng rằng đức bà chỉ đến một ḿnh.

Bà Mă Ly ngồi xuống bên cạnh em và ôm em vào ḷng trong một lúc. Khi em đă b́nh tĩnh, bà nói rằng bà sẽ cho chúng tôi về nếu em muốn. Em đáp rằng em chỉ ngạc nhiên và sợ hăi, thế thôi, v́ em chỉ nghĩ đến đứa em trai đang đau ốm. Bà Mă Ly nói:

- Con thương yêu em con nhiều lắm phải không?

- Đứa bé gái, tuy chưa chín tuổi đáp:

- Dạ, nhưng con thương yêu tất cả mọi người.

Đức Tuệ Minh thông dịch lại cho chúng tôi, v́ chúng tôi không hiểu môt tiếng nào. Bà Mă Ly nói:

- Nếu con thương em con nhiều như vậy, con có thể giúp sức một phần vào sự cứu chữa cho nó.

Kế đó, bà bảo em bé ấy ngồi trở lại tư thế lúc năy, với hai bàn tay ôm lấy hai g̣ má của em nó, rồi bà xoay ḿnh lại để đặt một bàn tay lên trán đưa bé. Ngay lập tức những tiếng rên xiết liền ngưng bặt, gương mặt đứa trẻ sáng lên, thân ḿnh nó duỗi thẳng một cơn yên tĩnh hoàn toàn của bầu không khí chung quanh, và đứa trẻ ngủ yên trong một giấc ngủ tự nhiên.

Bà Mă Ly và đứa bé gái đó ngồi yên trong tư thế đó trong một lúc, rồi bà gạt nhẹ hai bàn tay đứa bé gái và nói:

- Em bé trai này thật khôi ngô, mạnh giỏi và tráng kiện thay.

Kế đó bà rút bàn tay ra một cách thật nhẹ nhàng.

Lúc đó t́nh cờ tôi lại đứng gần bà trong khi bà đưa tay trái ra trước. Tôi đưa bàn tay tôi để đỡ bà đứng dậy, nhưng khi bàn tay tôi chạm vào bàn tay trái của bà th́ tôi cảm thấy bị va chạm như điện giật, nó làm cho tay tôi bị tê liệt bà nhẹ nhàng đứng dậy và nói:

- Tôi đă quên đi mất, đáng lẽ tôi không nên nắm lấy tay bạn như tôi đă làm, v́ tôi cảm thấy trong một sức mạnh kinh khủng của luồng từ điện chạy xuyên qua thân ḿnh tôi.

Khi bà vừa nói dứt lời, th́ tay tôi đă lành mạnh trở lại như thường. Tôi tin rằng không ai đă nhận thấy việc ấy xảy ra, v́ họ c̣n đang chú trọng vào những ǵ diễn ra ở chung quanh.

Đứa bé gái đă thụp xuống chân bà Mă Ly, và hôn lấy hôn để gấu áo của bà. Bà Mă Ly cúi xuống, lấy tay đỡ gương mặt ứa lệ của đứa bé, rồi quỳ xuống ôm nó vào ḷng và hôn lên mắt lên miệng nó. Đứa bé quàng tay ôm cổ bà Mă Ly, và cả hai đều yên lặng như thế trong một lúc.

Kế đó, ánh sáng lạ lùng mà chúng tôi đă diễn tả trước đây bắt đầu tràn vào gian pḥng. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng trở nên sáng rỡ, và sau cùng tất cả mọi vật đều có vẻ trong suốt, dạ quang. Không có vật ǵ phát ra một cái bóng, và gian pḥng mỗi lúc càng tỏ ra to lớn hơn.

Từ lúc đầu, cha mẹ những đứa bé vẫn ngồi yên trên nền đất, có vẻ im lặng v́ sợ hăi. Nhưng đến lúc đó, th́ cả hai đều biến sắc, gương mặt họ trở nên trắng bệch v́ kinh hoàng; người cha sợ hăi đến nỗi y chạy phóng ra cửa và đụng vào ḿnh Lê Mông trong cơn hấp tấp vội vàng.

Người mẹ th́ thụp xuống chân bà Mă Ly, vừa lạy vừa khóc mướt. Bà Mă Ly đặt một bàn tay lên trán người đàn bà ấy và kề vai nói th́ thầm. Tức th́ người đàn bà kia hết khóc, y bèn ngồi nhổm dậy và nh́n thấy sự biến đổi đang hiện ra trong gian nhà.

Gương mặt y lại lộ vẽ kinh hoàng, y bèn hối hả đứng dậy và toan chạy trốn. Đức Tuệ Minh nắm lấy một tay y trong khi vị giai nhân tuyệt sắc nắm cánh tay kia. Hai vị giữ y lại tư thế trong một lúc, rồi thay v́ là cái cḥi lá bẩn thỉu khi chúng tôi mới bước vào, th́ lúc ấy chúng tôi đang ở trong một gian pḥng đầy đủ tiện nghi với những bàn ghế giường tủ tươm tất.

Đức Tuệ Minh bước qua gian pḥng, ẳm lấy đứa nhỏ đang nằm ngủ trên đống rạ mốc meo, và nhẹ nhàng đặt nó lên một cái giường có trải nệm trắng và chăn mền sạch sẽ. Ngài cúi xuống đặt một chiếc hôn lên trán đứa bé một cách âu yếm như một người hiền mẫu.

Bà Mă Ly và đứa bé gái đă đứng dậy và bước tới gần người mẹ các đứa nhỏ. Chúng tôi cũng tựu lại chung quanh y. Người mẹ quỳ thụp xuống hôn lấy hai bàn châân của bà Mă Ly và khẩn cầu bà đừng tách rời khỏi y.

Đức Tuệ Minh bước tới nắm lấy hai bàn tay người đàn bà kia, đỡ y đứng dậy, rồi nói chuyện với y bằng tiếng thổ ngữ bổn xứ. Khi người mẹ đă đứng dậy, những áo quần lấm lem nhơ nhuốc của y đă biến thành những áo quần mới. Y thị im lặng trong một lúc dường như không c̣n hiểu biết chuyện ǵ nữa, và lao ḿnh vào trong ṿng tay mở rộng của bà Mă Ly. Hai người đàn bà giữ tư thế đó một lúc trong im lặng, rồi đức Tuệ Minh bước lại gỡ người ấy ra.

Kế đó, đứa bé gái chạy tới đưa hai tay ra trước và nói:

- Bà hăy nh́n xem quần áo mới của con.

Nó day lại bà Mă Ly, bà cuối xuống đỡ nó lên; trong khi đó nó choàng tay ôm cổ và áp mặt vào vai bà. Lê Mông đang đứng phía sau, đứa bé gái bèn đưa hai tay ngang qua vai bà Mă Ly, ngẩng đầu lên và mỉm cười với y. Lê Mông bước tới và đưa hai tay y ra, đứa bé nắm lấy và nói rằng nó yêu thương tất cả chúng tôi, nhưng nó yêu mến bà Mă Ly nhiều nhất.

Đức Tuệ Minh nói để ngài đi t́m người cha các đứa bé. Một lúc sau ngài đưa y về nhà, với dáng điệu sợ sệt và c̣n lầm bầm. Bà Mă Ly bước tới và đặt đứa bé gái xuống gần bên y. Dưới cái vẻ mặt khó chịu của người đàn ông này, chúng tôi có thể nhận thấy ẩn tàng một ḷng biết ơn sâu xa.

Chúng tôi bèn bước ra khỏi căn nhà. Trước khi chúng tôi ra về, người mẹ các đứa bé yêu cầu chúng tôi hăy trở lại khi có dịp. Chúng tôi cho biết là sẽ trở lại vào ngày hôm sau.

Chúng tôi bèn hối hả đi đến tư dinh viên thống đốc v́ sợ rằng đi trễ làm cho mọi người phải đợi chờ. Chúng tôi có cảm giác như đă trải qua nhiều giờ trong cái cḥi lá, nhưng thật ra chỉ có nửa giờ đă trôi qua từ lúc chúng tôi tách rời khỏi đoàn người đến khi chúng tôi gặp họ trở lại.

Tất cả mọi sự đă diễn ra trong một lúc c̣n ngắn ngủi hơn là cái thời giờ cần thiết để ghi chép lại câu chuyện. Chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc đúng vào lúc mọi người đang ngồi vào bàn ăn. Lê Mông xin phép ngồi gần bên Tô Mặc. Y lộ vẻ vô cùng khích động. Về sau Tô Mặc cho chúng tôi biết rằng Lê Mông bị xúc động mạnh về những ǵ y nh́n thấy, đến nỗi y không thể nào giữ được sự b́nh tĩnh.

Qua ngày hôm sau, Lê Mông thức dậy trước hết mọi người. Trong bữa ăn sáng, y ngồi giữa đức Tuệ Minh và Dật Sĩ và luôn luôn đặt câu hỏi trong suốt bữa ăn. Khi chúng tôi vừa ăn xong, y đă đứng dậy và muốn chạy ra ngoài để nh́n xem cái nhà "đă mọc lên trong một khắc đồng hồ."

Quàng một tay lên vai Dật Sĩ, y nói rằng nếu y có được hai vị cứu trợ như đức Tuệ Minh và bà Mă Ly, y sẽ đi chu du khắp chốn và làm cho nhà cửa mọc lên để giúp đỡ những kẻ nghèo khổ không nhà. Y nói thêm:

- Nhưng tôi chắc là những tay chủ phố và nhà đất ở Nữu Ước sẽ nổi giận, và họ sẽ không để tôi yên.

Về sau, Lê Mông cho chúng tôi biết rằng y bị xúc động và ngạc nhiên đến nỗi y không thể nào ngồi yên mà không đặt câu hỏi. Y nói chuyến đi này thật là chuyến xuất hành sôi nổi hào hứng nhất trong đời y, tuy rằng y đă từng đi du lịch ở nhiều nơi xa lạ.

Khi đó y có ư định giúp chúng tôi tổ chức một chuyến hành tŕnh thứ nh́ để tiếp tục những cuộc đào xới khảo cổ theo chỉ thị của các vị siêu nhân. Nhưng bất hạnh thay, dự án này không được thực hiện v́ Lê Mông đă đột ngột từ trần vào năm sau.

Chúng tôi phải vất vả khó nhọc lắm mới cản ngăn được y đến ngay ngôi nhà nhỏ mới dựng lên. Điều này được giải quyết ổn thỏa, theo đó y sẽ đi cùng với Dật Sĩ và một người nữa đến một nơi mà từ đó y có thể nh́n thấy ngôi nhà ấy từ đàng xa.

Sau độ nửa giờ, họ đă trở về. Lê Mông mừng rỡ lộ ra mặt v́ y đă nh́n rơ ngôi nhà nhỏ thật sự. Ngôi nhà ấy làm cho y hồi tưởng lại một trong những giấc mơ hồi thơ ấu, trong khi đó y mơ thấy vừa đi dạo chơi với các vị tiên nữ vừa xây nhà cho những kẻ nghèo và làm cho họ được sung sướng.

Đức Tuệ Minh cho chúng tôi biết rằng chiều hôm đó sẽ có một cuộc hội họp giống như phiên họp hồi năm ngoái tại làng quê của ngài. Ngài mời tất cả chúng tôi cùng đến dự, chúng tôi sung sướng nhận lời.

Chúng tôi quá đông người để có thể cùng đi một lượt đến xem ngôi nhà nhỏ. Bởi đó, chúng tôi chia ra để đi từng nhóm nhỏ độ năm hay sáu người. Nhóm đầu tiên gồm có đức Tuệ Minh, Lê Mông, một hay hai vị phu nhân, và tôi.

Chúng tôi đi ngang qua nhà trọ của bà Mă Ly, bà cùng nhập bọn với chúng tôi. Khi chúng tôi gần đến ngôi nhà nhỏ, đứa bé gái chạy ra đón, rồi nhảy vào nằm gọn trong ṿng tay mở rộng của bà Mă Ly, và nói rằng em trai nó nay đă khỏe mạnh.

Khi chúng tôi đến nhà, người mẹ các đứa bé chạy ra quỳ thụp xuống chân bà Mă Ly và thốt vài lời tạ ân bà. Bà Mă Ly đưa tay ra đỡ người đàn bà ấy và nói:

- Bà đừng quá khiêm cung. Tôi có thể làm cho bất cứ ai những ǵ tôi đă làm cho bà Cái ân huệ thiêng liêng mà bà đă nhận được, không phải do tôi ban ra, mà do Trời.

Đứa bé trai ra mở cửa, và mẹ nó mời chúng tôi vào nhà. Chúng tôi đi theo sau các bà, và bà chủ nhà trọ t́nh nguyện làm thông ngôn. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, cái nhà vẫn c̣n đó, với bốn pḥng đầy đủ tiện nghi.

Ba phía chung quanh là những nhà cḥi tranh rất lụp xụp nghèo nàn. Chúng tôi được biết rằng các chủ nhân của các cḥi tranh này đang lo chuẩn bị dọn đi nơi khác v́ họ tin rằng ma quỷ đă dựng lên ngôi nhà mới này và sẽ làm cho họ chết nếu họ tiếp tục sống ở chung quanh.

Chúng tôi vừa được tin của vị thống đốc. Sáng hôm ấy, ông ta gởi một toán quân hầu và một viên đại úy đến mời chúng tôi tới dự bữa cơm trưa tại tư dinh. Chúng tôi nhận lời, và đến giờ hẹn, một vệ sĩ đến để hộ tống chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc.

Đến tư dinh viên thống đốc, chúng tôi thấy một số đông những vị Lạt Ma của tu viện Lạt Ma giáo gần bên đă có mặt tại đó cùng với vị Sư Trưởng của họ. Chúng tôi được biết rằng tu viện này rất quan trọng và có độ (1, 500) đến (1, 800) sư săi.

Viên thống đốc cũ có chân trong đại Hội Đồng sư săi của tu viện này. Khi đó chúng tôi được biết được bữa tiệc này có mục đích tạo nên một dịp tiếp xúc giữa các vị Lạt Ma và các đoàn viên trong phái đoàn chúng tôi. Các vị Chân Sư đă từng biết Sư Trưởng này từ lâu, v́ các ngài thường hay gặp gỡ và đă từng làm việc chung với vị Sư Trưởng ấy.

Cho đến sáng ngày hôm ấy, viên thống đốc dường như vẫn chưa biết sự liên hệ trên. Thật vậy, vị Sư Trưởng đă vắng mặt ở tu viện trong ba năm nay và mới trở về chỉ có một ngày trước khi chúng tôi đến.

Trong bữa ăn, chúng tôi nhận thấy các vị Lạt Ma là những người có học thức, có quan điểm rộng răi về cuộc đời, đă từng du lịch nhiều và có hai vị trong số đó đă từng sống một năm bên Anh Quốc và Hoa Kỳ.

Trước khi chia tay, vị Sư Trưởng mời chúng tôi ngày hôm sau đến tu viện Lạt Ma giáo và làm thượng khách của vị Lạt Ma trong một ngày. Đức Tuệ Minh khuyên chúng tôi nên nhận lời, và chúng tôi đă trải qua một ngày rất tốt đẹp và hữu ích tại tu viện. Vị Sư Trưởng là một người đạo hạnh uyên thâm.

Ngày đó, ông ta đă cùng với Tô Mặc kết t́nh thân hữu, t́nh thân hữu này về sau đă trở nên một sự cảm thông đậm đà nồng hậu và kéo dài đến suốt đời của hai người. Vị Sư Trưởng đă đem đến cho chúng tôi một sự trợ giúp vô cùng quư báu trong những chuyến du hành về sau của chúng tôi tại vùng này.



3. Phái Đoàn Trở Về Căn Cứ Mùa Đông



Theo chương tŕnh được sắp đặt, phái đoàn chúng tôi sẽ lên đường vào trưa ngày hôm sau. Dật Sĩ và Chandersen sẽ cùng đi với chúng tôi đến một địa điểm trao đổi hàng hóa để chúng tôi mua sắm thêm lương thực dự trữ, và đức Tuệ Minh cũng sẽ đến đó sau với chúng tôi. Kế đó, ba vị siêu nhân sẽ cùng với chúng tôi trở lại địa điểm căn cứ mùa đông.

Khi chúng tôi đến căn cứ, phái đoàn thám hiểm giải tán, và mọi công việc sắp đặt cho những người nào muốn về nhà, có thể đi đến chỗ khởi điểm của họ do con đường ṃn của khách thương buôn. Ngày hôm sau, đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Chúng tôi từ giă các bạn đoàn viên và cùng với ngài đi về phía căn cứ mùa đông.

Chúng tôi nghỉ hai ngày tại trại bọn cướp. Hai người bổn xứ đi theo chúng tôi tại đây, và toán chúng tôi chỉ c̣n lại có bảy người. Hai tên cướp thuật lại cho bọn chúng nghe về chuyến du hành kỳ lạ vừa rồi và những điều nhiệm mầu mà chúng đă nh́n thấy. Chúng tôi được đối xử một cách vô cùng chu đáo.

Ba vị siêu nhân được chúng dành cho những ưu đăi danh dự đặc biệt. Viên đầu đảng bọn cướp cho ba vị biết rằng để đáp lại thịnh t́nh của các vị Chân Sư đă tỏ ra đối với họ, họ sẽ coi địa điểm chôn dấu của thành phố cổ như một vùng cấm địa tuyệt đối thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Vả lại, cũng không có sự e sợ rằng bọn cướp rời khỏi căn cứ họ để toan đánh cướp một nơi xa xôi như thế.

Thật vậy, những bọn cướp sa mạc không bao giờ xâm phạm vào miền núi, và trái lại bọn cướp núi không hề xâm chiếm vùng đồng bằng, v́ họ luôn chiên tranh với nhau. Theo chỗ chúng tôi biết, th́ cho đến nay họ vẫn giữ lời hứu phân chia khu vực hoạt động, và không lấn ranh lănh thổ của nhau.

Sáng ngày chúng tôi lên đường, viên đầu đảng tặng cho Tô Mặg một huy chương bạc nhỏ bằng đồng tiền Shilling, trên đó có khắc chữ rất lạ. Y cho Tô Mặc biết rằng nếu chúng tôi bị một bọn cướp đánh trong vùng này, chúng tôi chỉ cần đưa cái hay chương này là chúng tôi được trả tự do lập tức.

Gia đ́nh y đă giữ huy chương ấy từ nhiều thế hệ và coi nó như một vật quư vô giá, nhưng y muốn tặng cho Tô Mặc để tỏ ḷng ngưỡng mộ của y đối với chàng.

Sau khi xem xét kỹ lưỡng chiếc huy chương, đức Tuệ Minh nói cho chúng tôi biết rằng đó là một bổn sao rất đúng đắn của một đồng tiền đă từng được lưu hành ở phía bắc vùng Gobi từ nhiều ngàn năm nay. Riêng chiếc huy chương này đă có đến trên bảy trăm năm.

Những đồng tiền loại này thường được các thổ dân bản xứ dùng như những linh vật hộ phù, và họ cho rằng đồng tiền càng cổ xừa th́ nó lại càng quư và càng có hiệu lực nhiều hơn. Viên đầu đảng và cả bọn cướp hẳn là đánh giá món quà của họ một giá trị rất lớn.

Chúng tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh một cách êm thấm và đến căn cứ mùa đông vào giờ đă định trước. Tại đây chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của các vị siêu nhân đă đến viếng chúng tôi trên vùng sa mạc và đă từ biệt chúng tôi tại nơi làng nọ khi chúng tôi gặp vị Sư Trưởng của tu viên Lạt Ma giáo.

Một lần nữa chúng tôi lại được mời đến nhà ở của bà chủ trọ hồi năm trước, và chúng tôi liền vui vẻ nhận lời.

Lần này chúng tôi chỉ c̣n lại có bốn người, v́ bảy người đoàn viên đă trở về Ấ Độ và Mông Cổ để thực hiện những cuộc sưu tầm khác nữa. Việc sắp đặt ấy giúp cho chúng tôi có nhiều thời giờ hơn để phiên dịch các tài liệu cổ. Làng nhỏ này rất yên tịnh. Chandersen và chủ nhà luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi dịch các đoạn văn khó và bí hiểm.

Công việc này tiếp tục cho đến cuối tháng muời hai. Khi đó chúng tôi lại nhận thấy một đám khá đông dân chúng lại tựu họp trở lại trong phiên hội hàng năm. Phần đông đều là những người đă tham dự năm ngoái, nhưng địa điểm hội họp lại khác. Lần này cuộc lễ sẽ diễn tại ngôi đền đục trong vách núi, trong gian pḥng trung ương dùng làm ṭa đại sảnh.

Chiều nay đầu năm dương lịch, chúng tôi bước lên ṭa sảnh đường khi c̣n sớm để nói chuyện với những người đă hội họp tại đó. Họ đến từ nhiều vùng khác nhau và cho chúng tôi biết tin tức của thế giới bên ngoài, cái thế giới mà chúng tôi thật sự cảm thấy rằng đă mất hẳn liên lạc từ lâu. Tuy nhiên công việc của chúng tôi làm cho chúng tôi bận rộn quên cả ngoại cảnh, và thời gian đă trôi qua rất mau.

Ngày hôm sau, Tô Mặc đề nghị với cả bọn cùng xuống pḥng tài liệu để tiếp tục công việc phiên dịch. Chúng tôi mải lo chăm chú vào công việc đến nỗi không ư thức được sự hiện diện của những người khác trong pḥng. Th́nh ĺnh Tô Mặc đứng dậy và bước tới đón chào những người mới đến.

Chúng tôi ngước mắt nh́n lên th́ thấy đức Jesus, bà Mă Ly, bà chủ nhà trọ và Chandersen. Vị sau cùng này vốn là người mà chúng tôi vẫn thường gọi là "Ông già giữ pho tài liệu," nhưng bây giờ th́ chúng tôi gọi y là "Người thanh niên." Ngoài ra c̣n có Bạch Lăng, và một người lạ mặt được giới thiệu với chúng tôi cái tên Bút Già.

Lúc ấy đă quá trưa, chúng tôi dọn bàn và chuẩn bị bữa ăn. Xong rồi chúng tôi ngồi vào bàn và sau một lúc im lặng, đức Jesus cất tiếng nói:

- Chúng ta hăy chiêm ngưỡng đức Chúa Cha toàn năng. Nguyên lư đồng đại thấm nhuần tất cả vạn vật, Ngài là ánh sáng, t́nh thương và mỹ lệ mà chúng ta được ban những ảnh hưởng tốt lành.

Chúng ta có thể vĩnh viễn được thấm nhuần những ân huệ tốt lành ấy nếu chúng ta muốn. Chúng ta nghiên ḿnh kính trước bàn thờ trên đó chiếu diệu ngọn lửa thiêng trường cửa của t́nh bác ái đại đồng, sự điều ḥa, minh triết chân chính, sự sùng kính vô tận, và sự khiêm tốn chân thật.

Ngọn lửa thiêng ấy đă chiếu sáng không bao giờ lu mờ. Nó xuất từ đáy ḷng của những người đang tựu vào giờ phút này và nhân danh đấng Cha Lành và T́nh Bác Ái.

Xuất phát từ những người thân cận và mến yêu của chúng ta, ngọn lửa thiêng ấy lan tràn trong không gian, soi sáng những vùng xa xôi nhất trên Trái Đất để cho mỗi người có thể nh́n thấy ánh sáng của nó và nhận được những ân huệ tốt lành do t́nh thương khiết bạch và vô tận của nó ban giải ra.

Những tia sáng rung động của ánh sáng đó, của cái mỹ lệ đó và sự tinh khiết đó đi xuyên qua những tâm hồn thụ cảm của những người chung quanh bàn thờ của Ngài. Bây giờ chúng ta đă có ư thức về t́nh bác ái mà sức ấm áp đang lan khắp vũ trụ.

Chúng ta gởi những tia bác ái đó đi khắp nơi để biến đổi thế gian, cải tạo và ḥa hợp tất cả nhân loại. Chúng ta nghiêng ḿnh trước Tinh Thần của Chúa Trời vốn sống động trong mỗi người. Chúng ta đứng đối diện với Chúa Trời, ngang hàng với ngài, hợp nhất với ngài. Một lần nữa, chúng ta kính cẩn chào đức Chúa Trời vốn sống động nơi chỗ thâm sâu bí ẩn nhất trong ḷng chúng ta.

Khi đức Jesus nói xong, có người đề nghị rằng cả bọn trở lại gian pḥng mà chúng tôi đă chứng kiến sự phục sinh của Chandersen.

Khi chúng tôi đến nơi, gian pḥng được thắp sáng một cách lộng lẫy cũng như khi chúng tôi ra đi. Gian pḥng này đối với chúng tôi là một linh điện, một nơi mà chúng tôi có cái đặc ân thực hiện trên đường tâm linh một giai đoạn trước đó mà không thể nào quan niệm rằng nó có thể có được đối với người phàm tục như chúng tôi.

Kể từ ngày đó đến ngày mười lăm tháng tư là ngày chúng tôi lên đường, không có ngày nào hoặc đêm nào mà chúng tôi không tựu họp tại đó với tất cả các Chân Sư trong khoảng ít nhất một tiếng đồng hồ. Trong những cuộc hội họp đó, gian pḥng không bao giờ có cái h́nh dáng đục trong vách đá nữa.

Dường như chúng tôi luôn luôn có thể nh́n thấy xuyên qua các vách tường vào khoảng không gian vô tận. Chính trong gian pḥng này mà những bức rào tâm thức của chúng tôi bị xóa bỏ. Chính ở đây là nơi đă mở rộng trước mắt chúng tôi môt viễn cảnh rộng lớn về tương lai.

Khi chúng tôi đứng dậy khiếu từ, các vị siêu nhân chúc chúng tôi yên giấc và rút lui. Chúng tôi c̣n ở nán lại trong giây lát để b́nh luận những kinh nghiệm vừa qua trước khi trở về nhà trọ. Khi đứng dậy ra về, chúng tôi liền tự đặt câu hỏi:

- Làm sao t́m thấy đường về mà không có đèn lửa chi cả?

Mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ như vậy, chỉ có một ḿnh Tô Mặc không đồng ư, v́ y nói:

- Các bạn thấy chăng chúng ta chỉ luôn luôn bám víu lấy những thói quen cũ của ḿnh và luôn luôn bị trói buộc bởi những ư tưởng thủ cựu. Ở đây chúng ta hoàn toàn được thấm nhuần trong một vầng sáng không hề sút giảm sau khi các vị siêu nhân quư mến của chúng ta đă ra đi.

Phải chăng đây là một dịp để chúng ta tiến tới và tỏ rằng chúng ta tự tin nơi sức ḿnh, tự tin nơi quyền năng của ḿnh và có thể thực hiện những công tŕnh giống như các ngài? Ít nhất chúng ta hăy thử làm xem sao và hăy có căn bản tiến lên một bước đầu tiên đến chỗ thực hiện.

Chúng ta quá nương tựa vào t́nh thương của các vị Chân Sư đến nỗi chúng ta cảm thấy một vết thương khi cần phải xa cách các ngài trong một lúc. Nếu chúng ta không thể tự lực tự cường trong sự thực hiện những việc nhỏ, chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong những việc lớn. Tôi chắc rằng các vị đă từ chúng ta để cho chúng ta có một cơ hội chứng tỏ khả năng của ḿnh.

Trước khi ra đi, một bạn tôi đề nghị là tốt hơn hăy nên suy nghĩ trước về cách hành động. Nhưng Tô Mặc đáp bằng một giọng cứng rắn:

- Không. nếu chúng ta định đi, ta phải đi ngay tức khắc. Sau những dấu hiệu mà chúng ta đă thấy và những diễn biến mà ta đă tham dự, chúng ta phải hành động một cách quả quyết, nếu không chúng ta không c̣n xứng đáng được một sự trọng vọng nào cả!

Chúng tôi liền đi xuống các cầu thang, đi ngang qua nhiều gian pḥng, vượt qua con đường hầm, đi xuống thung lũng trở về làng. Trong khi chúng ta đi, th́ đường đi hoàn toàn được chiếu ánh sáng. Thân thể chúng tôi dường như mất cả sức nặng, chúng tôi di chuyển một cách rất dễ dàng không hề mệt nhọc, và trở về nhà trọ mà trong ḷng như điên lên v́ sung sướng do bởi sự thành công này.

Kể từ lúc đó cho đến khi chúng tôi rời khỏi làng, chúng tôi có thể đi khắp nơi tùy ư mà không cần có đèn đuốc chi cả. Những pḥng ngủ của chúng tôi tự nhiên thắp sáng lên khi chúng tôi và tỏa ra một sự ấm cúng đẽ khó tả.

Chúng tôi ngủ yên giấc ngay sau khi đó và thức dậy rất trễ vào sáng ngày hôm sau.



4. Bọn Cướp Hăm Dọa Tấn Công




Ngày một tháng tư đến rất mau chóng. Chúng tôi đă hoàn tất công việc phiên dịch các tài liệu và sắp sửa vẽ họa đồ những bức tượng cổ xưa tạc trong núi đá. Công việc này được thực hiện một cách mau chóng v́ sự hứng thú và hăng say của chúng tôi khi bắt tay vào công việc.

Một buổi xế trưa, một người sứ giả đem tin đến làng. Nh́n thấy cách mà các dân làng tụ họp chung quanh người ấy, chúng tôi hiểu rằng đó là một biến cố khác thường. Chúng tôi bỏ dở công việc và đi xuống làng. Tại đó chúng tôi gặp bà chủ nhà trọ cho chúng tôi biết rằng một toán quân cướp khá đông đang có mặt ở dưới thung lũng cách đó không xa.

Điều này gây cho dân làng một sự lo ngại rất lớn, v́ từ nhiều năm nay, quân cướp thường đánh phá làng này. Người ta đồn rằng ngôi đền đục trong hang núi có chứa đựng một kho tàng khổng lồ. Những mưu toan đánh cướp làng này từ trước đến nay vẫn thất bại, và những toán quân cướp cho rằng phần lớn sự thất bại này là do bởi sức chống cự mănh liệt của những nông dân sống ở miền thung lũng.

Hôm nay, nhiều toán quân cướp đă tập hợp nhau lại để tăng cường lực lượng. Chẳng khác nào một đạo binh nhỏ, độ bốn ngàn quân khinh kỵ có vơ trang khí giới đầy đủ đang tấn công miền thung lũng để đánh tan sự chống cự của những người nông dân sống chung quanh làng. Bọn cướp hy vọng rằng chiến lược tấn công lần này sẽ có hiệu quả hơn những lần trước.

Người sứ giả kêu gọi cứu trợ giúp cho dân làng v́ nhiều người đă bị giết, và những người khác sắp sửa từ bỏ mọi sự chống cự. Bà chủ nhà chúng tôi đáp rằng trong làng không c̣n sẵn người nào để đi xuống thung lũng. Bà nói y có thể trở về và và sẽ không có ǵ xảy ra cho những người chung quanh y. Chúng tôi lại tiếp tục làm việc mặc dầu cũng ư thức được sự lo ngại của dân làng, và chia sẽ phần nào sự lo ngại của họ.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục vẽ họa đồ và ổ túc công việc thu góp tài liệu để có thể t́m thấy lịch sử của nền văn minh cổ xưa và của một dân tộc đă từng sống trên phần đất bao la này của thế giới, nay đă trở thành băi sa mạc hoang vu.

Viễn ảnh ấy bị mất đi những kết quả sưu tầm của chúng tôi trong một trận đánh thư hùng với bọn cướp làm cho chúng tôi rất đỗi lo âu. Chúng tôi bèn góp nhặt tất cả các giấy tờ đem vào trong pḥng dự trữ tài liệu của ngôi đền, đền này đă từng thoát khỏi một loạt tấn công tương tự của bọn cướp.

Tối hôm đó, chúng tôi cùng với bà chủ nhà mưu toan kế hoạch trợ giúp dân làng. Chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà không thấy các vị chân sư. Bà chủ nhà nói rằng sau khi có sự cầu cứu của người đem tin, bọn cướp có lẽ bị bắt buộc phải gián đoạn cuộc tấn công, nếu không họ sẽ tự diệt lấy họ. Đêm đó, chúng tôi đi ngủ với ư niệm rơ rệt là nỗi lo ngại về sự an toàn của chúng tôi thật là quá đáng.

Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sắp sửa bắt tay vào việc, th́ người đem tin ngày hôm qua lại xuất hiện. Y báo tin rằng những cuộc tấn công đám nông dân đă dứt và bọn cướp đă tập trung lực lượng ở đó độ ba mươi lăm cây số, có lẽ để đánh vào làng chúng ta.

Trong khi bà chủ nhà nói chuyện với người sứ giả đem tin, với một nhóm dân làng tựu họp ở chung quanh, một người kỵ mă phóng ngựa vào làng và chạy ngay đến chúng tôi. Trên đường y chạy vào làng, những nhóm dân làng có vẻ nhận ra y và liền giải tán và dường như là sợ hăi.

Trong khi người kỵ mă sắp đến gần, người sứ giả bất giác thốt ra tên y và liền chạy trốn cùng với những dân làng khác, hiển nhiên là v́ sợ rằng bọn cướp sẽ đến nơi sau người kỵ mă.

Chúng tôi c̣n ở lại với bà chủ nhà để đợi y đến. Y g̣ cương ngựa và hất hàm nói với Tô Mặc một cách hiên ngang, rằng bọn cướp biết rơ chúng tôi là người ngoại quốc và chúng tôi đến đây với mục đích ǵ. Y nói chuyện bằng tiếng bổn xứ mà chúng tôi không hiểu ǵ cả. Nh́n thấy chúng tôi đang ngơ ngác, y hỏi có ai thông ngôn được không.

Bà chủ nhà trọ day lại đối diện với người kỵ mă lúc ấy hăy c̣n ngồi yên trên lưng ngựa, và hỏi y rằng bà có thể làm việc ấy giúp y được không? Khi y vừa thấy bà, y có vẻ như là bị điện giật. Tuy nhiên, y trấn tĩnh lại ngay để nhẩy xuống ngựa một cách gọn gàng và vừa chạy lại vừa đưa hai tay ra trước, y kêu lên:

- Vậy ra bà ở đây?

Kế đó, y đưa hai bàn tay lên trán, quỳ xuống trước mặt bà và xin lỗi bà.

Bà chủ nhà chúng tôi ra lệnh cho y hăy đứng dậy và bày tỏ ư muốn của y. Chúng tôi nh́n thấy bà đứng thẳng người, và trong một lúc gương mặt bà đỗi sắc v́ nổi cơn thịnh nộ. Bà tỏ ra một cơn xúc động mănh liệt đến nỗi người kỵ mă phải kinh hoảng.

Chúng tôi cũng sợ hăi đến nỗi mất cả sự b́nh tĩnh. Những danh từ "Hèn nhát, đồ sát nhân, hăy bước tới và nói rơ mi muốn ǵ" xuất hiện trên môi của bà với một sức mạnh kinh khủng đến nỗi người kia phải quỳ mọp sát đất. Một lần nữa, bà lại mắng mỏ y thậm tệ:

- Đứng lên, mi quá hèn mạt đến nỗi không dám đứng dậy chăng?

Chúng tôi không ngạc nhiên v́ sự sợ hăi bi lụy của người kỵ mă, v́ cũng như y, chúng tôi hoàn toàn đứng sững như trời trồng, không dám cựa quậy. Tôi chắc rằng nếu y có thể làm được với sức ḿnh, th́ y đă chạy vắt gị lên cổ. Nhưng lúc ấy, cũng như chúng tôi, y không thể làm một cử động hay thốt lên một lời. Y rơi ḿnh xuống đất như một cái xác không hồn, hai mắt giương lên và miệng mồm há hốc.

Trong sự tiếp xúc với các vị Chân Sư có những quyền năng siêu phàm, đây là lần đầu tiên chúng tôi có dịp nh́n thấy một vị bày tỏ một cơn xúc động mạnh. Chúng tôi cũng hoảng sợ giống như tên cướp.

Những rung động trong giọng nói của bà chủ làm cho chúng tôi bị chạm mạnh như sức va chạm của một tiếng nổ dữ dội kèm theo với một cú điện giật, làm tê liệt những giọng nói mà luôn cả các bắp thịt của chúng tôi. Tôi không t́m thấy danh từ nào khác để diễn tả những cảm giác của chúng tôi lúc ấy.

Có lẽ quư vị độc giả sẽ ngạc nhiên mà thấy những rung động xuất phát từ một thân ḿnh nhỏ thó, mảnh mai, nhẹ nhàng của bà chủ nhà lại có thể làm cho chúng tôi bị đè bẹp và trở nên yếu đuối bất lực, nhưng sự thật là như vậy.

Tuy t́nh trạng đó chỉ kéo dài một lúc, nhưng nó hằng như lâu đến hằng giờ trước khi trở lại b́nh thường. Chúng tôi đứng trân ḿnh như những pho tượng và lấy làm động ḷng trắc ẩn đối với tên cướp. Chúng tôi cảm thấy sự mong ước mănh liệt là muốn trợ giúp y bằng mọi cách. Đó là sự phản ứng chung của tất cả chúng tôi, nhưng ngược lại chúng tôi chỉ có thể đứng sững nh́n bà chủ nhà trân trối.

Th́nh ĺnh, mọi sự đều thay đổi. Gương mặt bà biểu lộ trước hết một sự cứng rắn, kế đó nét mặt bà biến đổi và trở lại dịu dàng như lúc b́nh thường. Chúng tôi cảm thấy có ḷng trắc ẩn sâu xa đến nỗi chúng tôi tất cả đều chạy lại đỡ cái thân h́nh nằm mọp dưới đất. Bà chủ nhà cũng cúi xuống và đưa một tay cho tên cướp. Người này giây lát đă tĩnh lại.

Chúng tôi đỡ y đứng dậy và đặt y ngồi thoải mái trên một chiếc ghế dài gần đó. Y nhất định từ chối không bước vào bất cứ nhà nào. Bà chủ nhà khi đó mới nhận thấy cái ảnh hưởng mà bà đă gây cho chúng tôi, bèn tỏ lời hối tiếc về cơn thịnh nộ quyết liệt của bà. Chúng tôi vẫn c̣n run rẩy khắp thân ḿnh, và một chập sau đó mới chấn tĩnh tinh thần lại được.

Bà giải thích rằng người kỵ mă là tên đầu đảng của một bọn cướp khét tiếng trong vùng này của đồng sa mạc Gobi. Một vài người rất hiếm biết được tên y, gọi là tên "Cướp Đen," chỉ dám thốt ra tên ấy một cách sợ hăi v́ mọi người đều biết y là một kẻ cướp rất bạo tàn, không biết thương xót ai cả.

Bà chủ nhà chúng tôi đă có dịp tiếp xúc với người này trong hai lần tấn công bị thất bại của bọn cướp. Mỗi lần như vậy, y đă tỏ rơ một sự thù hận sâu xa đối với bà và đối với các vị chân sư nói chung. Thỉnh thoảng y đă gửi đến các ngài những bức thông điệp với lời lẽ đầy căm hờn và các ngài không hề để ư đến.

Sự xuất hiện th́nh ĺnh của y đă nhắc nhở cho bà chủ nhà những hành động bất hảo trong quá khứ của y một cách rơ rệt đến nỗi bà đă mất b́nh tĩnh trong một lúc. Nhưng bà liền trấn tĩnh lại và bước đến gần người ấy.

Khi bà đến gần, y toan đứng dậy nhưng không thể làm ǵ khác hơn là thu h́nh để ngồi ngay ngắn hơn một chút, với một vẽ mặt kinh khiếp sợ hăi đến cực độ. Sự căm hận toát ra từ mọi cử chỉ của y, thân ḿnh y run rẩy lập cập như những người bị chứng liệt bại.

Bà chủ nhà chúng tôi tỏ ra một dáng điệu trái ngược hẳn với y, v́ bà đă lấy được sự b́nh tĩnh và không c̣n tỏ ra một dấu hiệu xúc động nào.

Chúng tôi có ư nghĩ đem người kia đi. Trước khi chúng tôi có thể thốt ra lời, bà chủ nhà đă đọc được tư tưởng chúng tôi và đưa tay lên để yêu cầu chúng tôi giữ im lặng. Tô Mặc hiểu rằng bà đảm đương trách nhiệm của t́nh h́nh lúc ấy, và những ǵ chúng tôi làm chỉ đưa đến việc đặt bà trong một t́nh thế khó xử.

Chúng tôi bèn rút lui cách đó một quăng xa. Bà nói chuyện với người ấy bằng một giọng thấp nhỏ và êm đềm trong một lúc khá lâu trước khi nhận được sự trả lời.

Khi người ấy bắt đầu trả lời, bà chủ nhà bèn ra dấu cho chúng tôi bước lại gần. Chúng tôi ngồi xuống đất trước mặt hai người và lấy làm sung sướng mà có thể làm một cử chỉ khả dĩ đưa đến bớt sự căng thẳng.

Tên cướp giải thích rằng y được các tên chúa đảng đề cử y đến với tư cách một sứ giả ḥa b́nh để thương thuyết việc giao nạp kho tàng của cải mà họ nghi rằng đang được chôn dấu trong ngôi đền khoét trong hang núi.

Nếu dân làng chịu đem nạp cái kho tàng ấy, bọn cướp hứa là sẽ không đánh phá họ nữa và sẽ thả hết các dân làng bị cầm tù mà theo y cho biết th́ có đến trên ba ngàn người. Họ cũng hứa sẽ rời xứ này và không bao giờ c̣n làm hại những người dân sống ở miền thung lũng.

Bà chủ nhà chúng tôi giải thích cho y biết rằng trong đền không có một kho tàng nào có một giá trị nào đối với bọn cướp. Bà cho y biết nhiều chi tiết và đề nghị đưa y xem tất cả các gian pḥng trong đền hoặc bất cứ nơi nào y muốn.

Y từ chối hẳn, v́ sợ rằng bị giữ lại làm con tin. Không một lời đảm bảo nào của chúng tôi có thể thuyết phục được y. Bà chủ nhà xác nhận với y sự thành thật của chúng tôi và y liền tin ngay.

Nhưng khi đó y đang ở vào một t́nh thế khó xử v́ y là kẻ chủ mưu vụ đánh cướp này. Chính y đă khêu gợi óc tưởng tượng của bọn cướp và làm cho chúng có nhiệt hứng để đánh cướp kho tàng. Y đă diễn tả một cách linh động và hấp dẫn những kho của cải dồi dào bất tận nó sẽ về tay chúng nếu chúng thành công.

Thật vậy, chính sự hứa hẹn kho tàng đă làm cho cha y và y có thể duy tŕ sự đoàn kết trong bọn cướp. Y là một tên đầu đảng của một trong năm toán cướp đang tập trung lực lượng để phát động cuộc tấn công.

T́nh h́nh đă đi đến chỗ bí lối. Nếu y trở về toán cướp của y với cái tin tức không có kho tàng, chúng sẽ lên án y ngay như một kẻ phản bội và đối xử với y một cách tương xứng.

Như vậy, y sẽ không thể ngăn cấm bọn cướp mở cuộc tấn công, v́ sau tất cả những cố gắng mà y đă làm để đưa cuộc chuẩn bị đến giai đoạn hiện tại, người ta sẽ không c̣n tin tưởng nơi y nữa. Y thật là bị lâm vào một t́nh thế rất khó khăn.

Trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, bà chủ nhà t́nh nguyện đưa y trở về trại. Bất chấp những lời can gián của chúng tôi, bà muốn đi ngay lập tức. Bà trấn an chúng tôi rằng không có ǵ nguy hiểm nếu bà đi một ḿnh, nhưng nếu có chúng tôi đi theo, th́ bọn cướp sẽ nghi kỵ và tất cả chúng tôi sẽ bị lâm nguy. Chúng tôi bèn lẳng lặng tuân theo v́ không thể làm ǵ khác hơn.

Tên tướng cướp bèn lên ngựa, và chúng tôi đỡ bà chủ nhà lên ngồi trên lưng ngựa phía sau tên cướp, trên một tấm yên thứ nh́ đă sắp đặt sẵn. Hai người ra khỏi làng, bày trước mắt chúng tôi một cảnh tượng khó quên nó sẽ luôn luôn sống động trong kư ức chúng tôi đến tận muôn đời; tên cướp với một nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, c̣n bà chủ nhà quay lại mỉm cười và thản nhiên nói với chúng tôi rằng bà sẽ trở về vào lúc chiều tối.

Suốt những giờ c̣n lại trong ngày hôm đó, chúng tôi không c̣n hứng thú để làm việc, và đi thẩn thơ vô định chung quanh làng cho đến lúc xế chiều. Sau đó chúng tôi trở về nhà trọ để đợi bà chủ nhà. Về đến nơi chúng tôi thấy trên bàn đă có bày những thức ăn ngon lành.

Quư vị độc giả thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi đến bực nào khi chúng tôi thấy bà chủ nhà ngồi đó nơi đầu bàn với nét mặt tươi cười hồn nhiên như mọi ngày. Chúng tôi đứng sững sờ trong im lặng. Bà lấy dáng trang trọng và nói một giọng hơi chế giễu:

- Các bạn hỡi, người ta thường chào hỏi nhau khi bước chân vào nhà.

Khi đó chúng tôi mới nghiêng ḿnh và t́m thấy lại giọng nói để thốt ra tiếng chào bà.

Bà nói tiếp:

- Tôi đă hoàn toàn thất bại trong mưu toan thuyết phục bọn cướp, nhưng bọn họ đồng ư với nhau là hứa sẽ trả lời tôi trong ṿng ba ngày. Bây giờ tôi biết rằng sự trả lời của họ sẽ là khởi một cuộc tấn công, nhưng tôi đă cứu mạng sống cho tên tướng cướp, ít nhất là trong lúc này. Chúng ta sẽ chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công, v́ không ǵ có thể ngăn cản bọn chúng được nữa.

Tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta chắc phải có lúc nghĩ đến sự công b́nh thiêng liêng để t́m thấy đức tin vững chắc hầu có vượt qua những lúc khó khăn nguy hiểm trong đời.








Quay trở về đầu Xem hiendde's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hiendde
 

<< Trước Trang of 58 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 1.9180 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO