Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 185 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Kinh Nhân Quả 3 đời Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 1 of 10: Đă gửi: 07 September 2005 lúc 11:05pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412



KINH NHÂN QUẢ BA ĐỜI                     

Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm




Lời Nói Đầu



Thuở xưa, có người đến hỏi một vị Thiền sư: "Bậc tu hành đă ngộ lư Chân Không, có lạc vào ṿng Nhân Qủa đặng?". Thiền sư đáp: "Bậc đại tu hành chẳng lạc vào ṿng nhân qủa".

V́ câu trả lời này mà khiến cho Thiền Sư phải đọa làm kiếp chồn năm trăm năm, sau gặp ngài Bá Trượng mới được giải thoát.

Cũng do câu chuyện trên đây, nên các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh nói về nhân qủa tội phước, chú trọng phần giới hạnh, cùng hiểu biết sự luân hồi trong ba cơi sáu đường, sau mới nghiên cứu qua kinh cao. Nếu trái thứ tự, bước đầu tiên đọc những kinh như: Kim Cang, Pháp Bảo Đàn...nếu không phải là người có nhiều căn lành, tất dễ sinh ḷng khinh mạn và lạc vào lối chấp không?. Thật ra, nhân qủa không phải là chuyện thấp nhỏ, v́ từ chúng sinh đọa tam đồ cho đến chư Phật thành Chính Giác đều không ngoài nhân qủa. Do sự kiện trên bút giả mới phiên dịch quyển kinh nầỵ

V́ kinh Nhân Qủa nói tóm tắt không mấy trang nên bút giả lại phụ thêm một ít câu chuyện tạm gọi là "Nhân Qủa Luân Hồi Tạp Lục".

Về việc luân hồi nhân qủa ở Việt Nam ta cũng có nhiều, tiếc v́ không ai ghi chép thành sách, nên tản mác đi. V́ thế, bút giả đành t́m dịch các câu chuyện bên Trung Hoa, và những việc này đều có thật. Cái thông bệnh của người tu Phật, là hay luận huyền nói diệu, mà việc thường nhỏ lại ít khi làm được. Nhớ lại hồi xưa sư cụ Khánh Ḥa c̣n tại thế, có một Phật tử hỏi về đạo lư "vô thỉ vô chung". Sư Cụ mỉm cười đáp: "Hỏi chi xa vời vậy? Gắng ăn chay và niệm Phật cho đều đều là tốt lắm rồi!", Đại để, người đă lăn lội trong nhiều giáo điển, lại không muốn nói diệu huyền mà chỉ chú trọng đến sự thật hành thông thường, là như thế.

Kinh Hoa Nghêm nói: "Ḷng tin là bước đầu của đạo, và mẹ của tất cả công đức". Mong những vị hữu duyên, khi xem đến quyển sách này, bắt đầu tu niệm tin có linh hồn ma qủy, đến tin có tội phước báo ứng, việc chuyển kiếp luân hồi, cũng sự linh hiển của Phật Pháp. Do đó, lần lượt tiếp tục xem những kinh cao hơn. Chừng ấy, lẽ không không sắc sắc, đường thị thị phi phi, sẽ hỏi Phật đà mà tỉnh ngộ.

Thích Thiền Tâm


Kinh Nhân Quả Ba Đời
Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm

Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội.

Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba ṿng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng:

- Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cơi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo ǵ khiến nên như thế?

Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, v́ chúng con giải thích mọi sự việc.

Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử: ! Lành thay ! Lành thay ! Các ông hăy lắng nghe! Ta sẽ v́ các ông mà giải thích rành rẽ".

Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo.

Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau.

Phật liền nói bài kệ nhân qủa rằng:

Giàu sang đều bởi mạng

Đời trước có tu nhân

Ai thọ tŕ kinh nầy,

Đời đời hưởng phước lộc.

Thiện nam, tín nữ nghe ta nói:

Suy nhớ kinh Nhân Qủa ba đời

Nhân qủa ba đời việc chẳng nhỏ,

Phật nói lời Phật chớ chê khinh.

1. Đời nay làm quan do nhân ǵ?
Kiếp trước vàng ṛng thếp tượng Phật
Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa
Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật.
Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm ḿnh.
Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân.
Đừng bảo làm quan là chuyện dễ,
Không tu phước ấy đến từ đâu?

2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân ǵ?
Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ.

3. Do nhân duyên ǵ mặc gấm vóc?
Đời trước thí áo giúp Tăng Ni.

4. Có ăn, có mặc do nhân ǵ?
Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống.

5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi?
Kiếp trước một nửa không xả thí.

6. Lầu cao nhà lớn do nhân ǵ?
Xưa lên chùa am cúng thí gạo.

7. Phước lộc đầy đủ cho nhân ǵ?
Xưa lập chùa am cất nhà mát (1)

8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân ǵ?
Đời trước hoa tươi cúng dường Phật.

9. Thông minh trí tuệ do nhân ǵ?
Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật.

10. Người thấy vui mừng do nhân ǵ?
Xưa kết duyên lành cùng đại chúng.

11. Chồng vợ bền lâu do nhân ǵ?
Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật.

12. Cha mẹ song toàn do nhân ǵ?
Đời trước kính trọng người cô độc.

13. Không cha mất mẹ do nhân ǵ?
Kiếp trước là người đánh bẫy chim.

14. Con cháu đông nhiều do nhân ǵ?
Đời trước mở lồng thả chim thú.

15. Nuôi con không được do nhân ǵ?
Xưa sinh con gái d́m cho chết? (2)

16. Đời nay không con do nhân ǵ?
Kiếp trước bẻ găy hại trăm hoa.

17. Đời nay sống lâu do nhân ǵ?
Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều.

18. Đời nay mạng yểu do nhân ǵ?
Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh.

19. Đời nay không vợ do nhân ǵ?
Kiếp trước tham mưu gian vợ người.

20. Đời nay ở góa do nhân ǵ?
Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng.

21. Làm thân tôi đ̣i do nhân ǵ?
Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa.

22. Đời nay mắt sáng do nhân ǵ?
Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật.

23. Đời nay đui mù do nhân ǵ?
Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh.

24. Môi miệng sứt thiếu do nhân ǵ?
Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật.

25. Đời nay câm điếc do nhân ǵ?
Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ.

26. Đời nay lưng gù cho nhân ǵ?
Kiếp trước chê cười người lễ Phật.

27. Tay bị cong quẹo do nhân ǵ?
Đời trước đều là người tạo nghiệp.

28. Chân bị co rút do nhân ǵ?
Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người.

29. Làm thân trâu ngựa do nhân ǵ?
Xưa thiếu nợ người không chịu trả.

30. Đọa làm heo chó do nhân ǵ?
Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người.

31. Đời nay nhiều bệnh do nhân ǵ?
Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật.

32. Đời nay không bệnh do nhân ǵ?
Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân.

33. Hằng bị lao tù do nhân ǵ?
Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người.

34. Đời nay chết đói do nhân ǵ?
Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột

35. Bị thuốc độc chết do nhân ǵ?
Kiếp trước đăng lưới giết hại cá.

36. Nổi trôi cơ khổ do nhân ǵ?
Ác tâm lấn hiếp mưu hại người.

37. Đời nay lùn bé do nhân ǵ?
Kiếp trước xem kinh để dưới đất. (3)

38. Nay thường thổ huyết do nhân ǵ?
Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. (4)

39. Đời nay ngu điếc do nhân ǵ?
Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe.

40. Ghẻ lác phong điên do nhân ǵ?
Xông hơi thịt cá trước bàn Phật.

41. Thân có mùi hôi do nhân ǵ?
Xưa bán hương thơm trọn dối gian.

42. Đời nay chết treo do nhân ǵ?
Kiếp trước đem dây săn bẫy thú.

43. Quan, qủa, cô độc do nhân ǵ?
Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người.

44. Sét đánh lửa thiêu do nhân ǵ?
Cân non, già, thiếu ḷng gian xảo.

45. Rắn cắn cọp ăn do nhân ǵ?
Kiếp trước gây oan tạo đối đầu.
Muôn việc ḿnh làm lại ḿnh chịu
Thọ khổ địa ngục oán trách ai?
Đừng nói nhân qủa người không thấy.
Xa trả con cháu, gần trả ḿnh.

46. Chỉ nh́n trước mắt người hưởng phước.
Sẽ tin bố thí với tŕ trai.
Kiếp trước tu nhân nay hưởng qủa.
Đời nầy tu tích để về sau.
Nếu ai hủy báng kinh Nhân Qủa
Kiếp sau đọa lạc mất thân người.
Kẻ nào thọ tŕ kinh Nhân Qủa.
Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh.
Kẻ nào biên chép kinh Nhân Qủa,
Truyền đời tu học đạo nhà hưng.
Ai mà mang đội kinh Nhân Qủa,
Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân.
Nếu người giản nói kinh nhân qủa
Đời đời kiếp kiếp được thông minh
Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Qủa
Đời sau người thấy sinh cung kính.
Người nào ấn tống kinh Nhân Qủa.
Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương.
Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời trước.
Chính sự thọ hưởng của đời nay.
Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời sau.
Chính sự gây nhân của kiếp này,
Nếu như nhân qủa không cảm ứng,
Do đâu Mục Liên cứu được mẹ?
Người nào tin sâu kinh Nhân Qủa.
Đồng sinh Tây phương cơi Cực Lạc.
Nhân qủa ba đời nói không hết.
Thiên long chẳng bỏ ư người lành.
Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn,
Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn.
Gởi kho bền chắc không hư mất, (5)
Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng.
Muốn biết nhân đời trước,
Xem sự hưởng đời nay,
Muốn biết qủa đời sau,
Xem việc làm kiếp này.

(1) Nhà dưỡng Lăo, cô nhi
(2) Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên d́m cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra.
(3) Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn.
(4) Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi: Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Um Soa Pha Va Suưt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suưt đa hàm (7 biến) Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma.
(5) Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ư nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho.



Kinh Nhân Quả

Bài giảng của HT Thanh Từ

Một hôm Phật ở nước Xá Vệ rừng Kỳ Đà vườn ông Cấp Cô Độc, tôi nghe như vầy:

Khi ấy vua Ba Tư Nặc đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, lui ngồi một bên, bạch Phật:
-- Thế nào Thế Tôn! Bà La Môn chết rồi trở lại sanh trong ḍng Bà La Môn chăng? Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà la cũng thế chăng?

-- Đại Vương! Đâu được như vậy. Đại Vương nên biết có bốn hạng người:

1.      Có người từ tối vào tối.

2.      Có người từ tối vào sáng.

3.      Có người từ sáng vào tối.

4.      Có người từ sáng vào sáng.

Đại Vương! Thế nào là hạng người từ tối vào tối?

- Có những người sanh ra trong nhà ty tiện hoặc nhà Chiên Đà La (Candala), nhà làm lưới bẫy, nhà đương lát, nhà thợ mộc và các nghề nghiệp hạ tiện, nghèo cùng, chết yểu, thân thể xấu xa, mà lại làm những nghề hạ tiện, cũng bị người sai làm những việc hạ tiện, ấy gọi là tối.

Ở trong chỗ tối, người kia lại thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác, do nhơn ấy thân hoại mạng chung sẽ sanh cơi ác đọa địa ngục. Ví như có người từ tối vào tối, từ nhà xí vào nhà xí, dùng máu rửa máu, xả ác thọ ác, người từ tối vào tối cũng như thế.

Thế nào là người từ tối vào sáng?

- Có những người sanh trong gia tộc ty tiện, cho đến làm nghề hạ tiện, ấy gọi là tối. Nhưng người kia ở trong chỗ tối này, thân hành thiện, khẩu hành thiện, ư hành thiện, do nhân duyên ấy thân hoại mạng chung, sanh vào cơi lành, được hóa sanh lên cơi trời. Ví như có người bước lên chơng từ chơng cưỡi ngựa, từ ngựa lên voi, từ tối vào sáng cũng như thế.

Thế nào là người từ sáng vào tối?

- Có những người sanh trong gia tộc giàu sang hoặc nhà Sát Lợi giàu sang, hoặc nhà Bà La Môn giàu sang, nhà trưởng giả và các gia đ́nh giàu sang nhiều tiền của, tôi tớ, nhiều trí thức, thân tốt đẹp, thông minh trí tuệ, ấy gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, thân hành ác, khẩu hành ác, ư hành ác, do nhân duyên ấy thân hoại mạng chung sanh cơi ác, đọa địa ngục. Ví như có người từ lầu cao xuống cưỡi voi, từ voi xuống lưng ngựa, từ ngựa xuống xe, từ xe xuống chơng, từ chơng xuống đất, từ đất rơi xuống hầm, từ sáng vào tối cũng như thế.

Thế nào là người từ sáng vào sáng?

- Có những người sanh trong gia tộc giàu sang cho đến h́nh tướng tốt đẹp. Ở trong chỗ sáng này tâm hành thiện, khẩu hành thiện, ư hành thiện, do nhân duyên này thân hoại mạng chung sanh cơi lành được hóa sanh cơi trời. Ví như có người từ lầu đẹp đến lầu đẹp, như thế cho đến từ chơng đến chơng, người từ sáng vào sáng cũng như thế. Khi ấy Thế Tôn nói bài kệ:

Người bần cùng khốn khổ
Không tin thêm sân hận
Sân tham tưởng ác tà
Si mê không cung kính
Thấy Sa Môn, Đạo Sĩ
Người tŕ giới, đa văn
Chê bai, không khen ngợi
Chướng người trí kẻ thọ
Kẻ sĩ phu như thế
Từ đây đến đời sau
Sẽ đọa trong địa ngục
Từ tối vào nơi tối.
Nếu có người bần cùng
Tín tâm ít sân hận
Thường sanh tâm tàm quí
Bố thí ĺa xan tham
Thấy Sa Môn, Phạm chí
Người tŕ giới, đa văn
Thấp ḿnh và thăm hỏi
Tùy nghi khéo giúp đỡ
Khuyên người khiến bố thí
Khen thí và người thọ
Người tu thiện như thế
Từ đây đến đời sau
Cơi lành sanh lên trời
Từ tối vào nơi sáng.
Có sĩ phu giàu vui
Không tin nhiều sân hận
Sân tham, tật tưởng ác
Tà si không cung kính
Thấy Sa Môn, Phạm chí
Chê bai không khen ngợi
Chướng ngại người bố thí
Cũng đoạn người thọ thí
Sĩ phu ác như thế
Từ đây đến đời sau
Sẽ sanh địa ngục khổ
Từ sáng vào trong tối.
Nếu có sĩ phu giàu
Tín tâm không sân hận
Thường khởi tâm tàm quí
Huệ thí ĺa sân đố
Thấy Sa Môn, Phạm Chí
Người tŕ giới, đa văn
Trước kính đón thăm hỏi
Tùy nghi cấp chỗ cần
Khuyên người khiến cúng dường
Khen thí và thọ thí
Kẻ sĩ phu như thế
Từ đây đến đời sau
Sanh tam thập tam thiên
Từ sáng vào nơi sáng.

Phật nói kinh này rồi, vua Ba Tư Nặc nghe Phật nói hoan hỷ tùy hỷ làm lễ rồi lui đi.

B́nh:

Đọc qua bài kinh Nhân Quả trên, chúng ta thấy lư nhân quả của đạo Phật rất rộng răi và phóng khoáng. Bởi một số đông người trong thế gian lầm chấp: Hể người chết sanh cơi người, trời chết sanh cơi trời, thú vật chết sanh thú vật v.v... Họ đâu biết cuộc sống của chúng ta là một ḍng chuyển biến, chuyển biến liên tục từng sát na. Từ khi chào đời đă chịu quả báo nghiệp nhân của quá khứ. Dần dần thành một con người là nó đă tạo thêm nghiệp mới. Nếu gặp duyên lành ở trong hoàn cảnh tốt, gần thiện tri thức dạy điều lành, điều tốt th́ nó sẽ tiến lên các cơi lành. Trái lại gần người ác, hoàn cảnh xấu xa nhiễm theo nghiệp ác, nó sẽ đọa xuống các cơi dữ. Như thế cứ tiếp tục thăng trầm từ đời này sang kiếp khác, không bao giờ dứt (gây nghiệp trả quả báo, trả quả báo rồi gây nghiệp v.v...)

V́ thế ở đây Phật nêu lên bốn hạng người:

- Người từ tối vào tối.
- Người từ tối vào sáng.
- Người từ sáng vào tối.
- Người từ sáng vào sáng.

Hạng người thứ nhất là người kém phước đức. Đời trước đă gieo nhân bất thiện, nên hiện nay gặp quả báo sanh chỗ xấu ác. Thế mà cũng chẳng biết làm thiện để chuyển đổi nghiệp nhân đau khổ, họ đành chịu quả khổ măi măi (như từ tối vào tối).

Hạng người thứ hai, cũng ở trong hoàn cảnh xấu ác (của nghiệp qua khứ), nhưng họ biết chuyển nghiệp dữ thành nghiệp lành, tức họ hết khổ đau (như từ tối vào sáng).

Hạng người thứ ba là hạng người có phước đức, do đời trước tạo nhân tốt, đời này hưởng quả lành, nhưng họ không biết tu tiến, cứ tha hồ thụ hưởng dục lạc, gây tạo ác nghiệp để rồi phải gặt hái quả khổ đau (như từ sáng vào tối).

Hạng người thứ tư, người này vừa có phước đức lại biết huân tu nghiệp lành, tránh xa nghiệp ác. Người này mỗi ngày một tiến lên, tâm trí sáng ngời, tương lai họ sẽ lên quả giải thoát (như từ sáng vào sáng).

Tóm lại trong bốn hạng người nói trên, có hai hạng biết cầu tiến (hạng thứ hai và thứ tư) và hai hạng không biết cầu tiến (hạng thứ nhất và thứ ba). Như thế việc tu hành có tiến hay thối đều do chúng ta có chịu chuyển đổi nghiệp nhân hay không, chứ không phải do ai định đoạt. Và nghiệp nhân cũng không phải cố định thiện ác, mà tùy chúng ta chuyển đổi đó thôi.

Biết được lẽ này, chúng ta mới nỗ lực tu thiện, đoạn ác, và không kẹt vào hai chấp "thường" và "đoạn" của ngoại đạo.

_/|\_ NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT _/|\_

_/|\_ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT _/|\_


Sửa lại bởi nhoccon1412 : 07 September 2005 lúc 11:10pm
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
lenhhoxung714
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 August 2004
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 99
Msg 2 of 10: Đă gửi: 07 September 2005 lúc 11:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn lenhhoxung714

nhoccon1412 đă viết:

- Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cơi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo ǵ khiến nên như thế?

Xin giải thích giùm ư nghĩa của:
1.Tam Bảo.
2.Tam Cang.
3.Năm giềng.
4.Sáu căn.
Cảm ơn,

__________________
Quá khứ chỉ là kỷ niệm. Tương lai chỉ là tưởng tượng. Hiện tại là tất cả...
LenhHoXung714
Quay trở về đầu Xem lenhhoxung714's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi lenhhoxung714 lần thăm lenhhoxung714's Homepage
 
lenhhoxung714
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 August 2004
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 99
Msg 3 of 10: Đă gửi: 08 September 2005 lúc 12:04am | Đă lưu IP Trích dẫn lenhhoxung714

nhoccon1412 đă viết:


38. Nay thường thổ huyết do nhân ǵ?
Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. (4)
(4) Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi: Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Um Soa Pha Va Suưt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suưt đa hàm (7 biến) Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma.
.....................

B́nh:

Đọc qua bài kinh Nhân Quả trên, chúng ta thấy lư nhân quả của đạo Phật rất rộng răi và phóng khoáng.


1.Vậy th́ LHX và hàng triệu triệu người khác chắc phải thổ huyết mất thôi v́ không hề biết đến điều này! A Di Đà Phật! Đây là sự thật v́ hồi c̣n nhỏ lúc mới 30/04/75 xong nhà ở tạm trong khu trại lính có một ngôi chùa, và v́ không biết làm ǵ nên tối tối khoảng 7 giờ là chui sang chùa tụng kinh, thấy lạy cũng bắt chước lạy theo, cứ thế cả chục năm trời...Nhưng có điều lạ là không thầy nào nhắc nhở đến điều này cả???
2.Đọc xong luật nhân quả th́ thấy câu:"Đọc qua bài kinh Nhân Quả trên, chúng ta thấy lư nhân quả của đạo Phật rất rộng răi và phóng khoáng...". Vậy những điều ḿnh không biết th́ có được thứ tội hay không? Không thổ huyết chẳng hạn??? . A Di Đà Phật!
3."40. Ghẻ lác phong điên do nhân ǵ?
Xông hơi thịt cá trước bàn Phật."
LHX thấy thời gian đầu ở Vn ḿnh, cũng như các nước Châu Á nghèo khổ khác, nhà th́ nhỏ như cái lỗ mũi! Do vậy, ăn uống và sinh hoạt gần như đều diễn ra trước bàn thờ Tam Bảo trong nhà, có thế thôi! Không biết Luật Nhân Quả có nên cải đổi lại để cho hợp với thời thế và hoàn cảnh sống của con người không nhỉ, v́ không phải ai ai cũng giống nhau được. Hơn nữa, đạo Phật ta vốn rộng răi và phóng khoáng kia mà, đâu chấp nhặt những tiểu tiết, có phải vậy chăng?
4.Bạn có thể giải thích nghĩa các chữ của câu chú đó không? V́ nếu đọc mà không hiểu th́ chắc chắn cũng chẳng có công hiệu ǵ cho lắm...Tôi nghĩ như vậy, và đôi khi cũng buồn v́ đôi lúc nhớ lại lúc nhỏ thường đọc đủ thứ kinh, nhưng đa số là chẳng hiểu ǵ cả(thậm chí lúc đó đă đủ trí khôn và đọc sách tiếng Việt làu thông!)v́ bằng tiếng Phạn, và các thầy cũng chẳng ai chỉ bảo cho cả...Không biết những năm tháng dài đằng đẳng ăn mặn cơm chiều rồi chạy đại sang chùa tụng kinh, tụng rồi chẳng hiểu ǵ ráo trọi th́ không biết có tội lỗi ǵ không đây??? A Di Đà Phật!
Trên đây là những thắc mắc rất ngây ngô nhưng sự thực là có nhiều người LHX biết rất rơ cũng ở trong t́nh trạng như vậy, nhưng những người này lại không dám nói là ḿnh không biết, thế mới khổ!
A Di Đà Phật!

Sửa lại bởi lenhhoxung714 : 08 September 2005 lúc 3:18am


__________________
Quá khứ chỉ là kỷ niệm. Tương lai chỉ là tưởng tượng. Hiện tại là tất cả...
LenhHoXung714
Quay trở về đầu Xem lenhhoxung714's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi lenhhoxung714 lần thăm lenhhoxung714's Homepage
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 4 of 10: Đă gửi: 08 September 2005 lúc 8:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

Trích dẫn:

Xin giải thích giùm ư nghĩa của:
1.Tam Bảo.
2.Tam Cang.
3.Năm giềng.
4.Sáu căn.
Cảm ơn,


1. Tam Bảo

Quy Y Tam Bảo

A-Mở Đề:
Cảnh giới Ta bà của chúng ta là một cảnh giới đầy mê mờ và dục vọng. Chúng ta đang lặn hụp trong bể nước mắt của đau khổ và bùn nhơ của dục vọng, sống trôi lăn trong cảnh ấy, chúng ta khó thấy được bến bờ sáng sủa, yên ổn để lội vào. Thật là đáng thương cho thân phận con người chúng ta.

Nhưng bản nguyện chúng ta đâu có thế! Chúng ta, từ vô thỉ, ở nơi nguồn chơn vắng lặng, sáng suốt vô cùng. V́ một niệm bất giác, khởi vô minh vọng tưởng, nên chúng ta bị quay cuồng trong sanh tử, trôi nổi trong ba cơi sáu đường.

Vậy th́ trong chúng ta ai là người không muốn thoát ra khỏi cơi đen tối, sầu đau này, để dược trở về nguồn trong sáng, an vui?. Nhưng làm sao để thoát ra được? Ai sẽ là kẻ rủ ḷng thương để đưa đường chỉ lối cho chúng ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để giúp chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi?

- Đấng cao cả sáng suốt và đầy đủ năng lực ấy không ai khác hơn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đă chứng quả bất sanh, bất diệt; và chỉ có Giáo pháp của Ngài mới cứu được chúng sanh ra khỏi vô thường đau khổ.

Vậy chúng ta c̣n ngần ngại ǵ nữa mà chẳng chịu quy y Tam-Bảo.

B- Chánh Đề:

I - Định Danh Và Giải Nghĩa.

1- Quy-y nghĩa là ǵ? Quy là trở về; Y là nương tựa, Quy-y là trở về nương tựa nơi mà ḿnh đă v́ si mê, phóng đăn lià bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đă rời bỏ cha mẹ để ra đi trong hoan phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm khổ đau, quay trở về nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục ṭng.



2- Tam bảo nghĩa là ǵ? Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.

Ở thế gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quí báu. Nhưng sự thật, vàng bạc, danh vọng đâu có cứu được con người khỏi khổ, sống, già, bịnh, chết, mà lắm khi c̣n làm cho con người thêm khổ nữa! C̣n Phật, Pháp, Tăng th́ có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi những cái khổ nói trên. Bỡi thế, người đời mới tôn sùng Phật Pháp, Tăng là ba ngôi báu (Tam Bảo).

a) PHẬT: Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu dịch là Giác Giả nghĩa là: Bực đă giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn.

b) PHÁP: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đă phát huy ra để diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba Tạng Kinh Điển đều gọi chung là Pháp.

c) TĂNG: Tăng hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà phiên âm ra; Tàu dịch là: Ḥa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng giữ giới luật của Phật, đồng chia sớt cho nhau một cách ḥa thuận những ǵ đă thâu nhận được, từ vật chất đến tinh thần.

3- Quy-y Tam-bảo là thế nào? - Quy-y Tam-bảo là trở về nương tựa ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG.

Tại sao phải Quy-y Phật? - V́ Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên măn; - V́ Phật là người dẫn đường vĩ đại nhất, đă có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài ṿng sanh tử để chứng Đạo.

Tại sao quy-y Pháp? - V́ chỉ có phương pháp của Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát.

Tại sao lại quy-y Tăng? - V́ Tăng là người đă hy sinh gia đ́nh, tiền của, danh vọng... để t́nh nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Đạo.

II- Ba Bực Tam Bảo

Tam Bảo có ba bực:
- Đồng thể Tam bảo,
- Xuất thế gian Tam bảo,
- Thế gian trụ tŕ Tam bảo.

1 - Đồng Thể Tam Bảo

a) Đồng Thể Phật Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật dồng một thể tánh sáng suốt.

b) Đồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ bi b́nh đẳng.

c) Đồng Thể Tăng Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự, lư ḥa hợp.

2 - Xuất Thế Gian Tam Bảo

a) Xuất Thế Gian Phật Bảo: là chỉ cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật A-Di-Đà, Chư Phật trong mười phương ba đời, đă tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian.

b) Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục -độ v.v...

c) Xuất Thế Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các vị Thánh-Tăng đă thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v...

3- Thế Gian Trụ Tŕ Tam Bảo

a) Thế Gian Trụ Tŕ Phật Bảo, là chỉ cho XaLợi của Phật, tượng Phật đức bằng kim khí, chạm trổ bằng danh mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy.

b) Thế Gian Trụ Tŕ Pháp Bảo, là chỉ cho ba tạng Giáo điển: Kinh, Luật, Luận viết hay in trên giấy, trên vải trên lá buôn v.v...

c) Thế Gian Trụ Tŕ Tăng Bảo, là chỉ các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni tu hành chơn chánh, đạo đức trong sạch, giới luật trang nghiêm trong hiện tại.

III- Sự Quy y Tam Bảo

Sau khi đă hiểu rơ thế nào là Quy-y Tam bảo, tất nhiên phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo.

1 - Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài, và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật.

2 - Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công phu, t́m hiểu nghĩa lư thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằn bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhơn. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh tịnh.

3- Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, th́ chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tṛn áo vuông, chân chính tu hành, giữ ǵn giới luật, th́ liền kính nể, quư trọng, xem như đó là vị đại diện cho Đức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng.

Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh, giữ Giới, nghiên cứu Phăt pháp, kính trọng Tăng già chân chính, dó chính là sự quy-y tam-bảo.

IV- Lư Quy y Tam Bảo

Lư là bên trong. Lư quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy-y, chỉ dong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lư quy-y, nghĩa là quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta, th́ chúng ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lư quy-y, hay Tam Tự Quy-Y:

1- Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là ḿnh đối với tự tâm ḿnh. Tự quy-y Phật là ḿnh tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm ḿnh, - Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Đó là lời Phật Thích Ca đă dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật tánh chúng ta bị vọng tưởng vô minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường c̣n. Vậy th́ sao chúng ta lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài; như đứa "cùng tử" có viên ngọc quư, cha mẹ đă giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi!

2- Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của ḿnh. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, B́nh đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo chúng. Như thế là Tự Quy-Y Pháp.

3- Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm ḿnh, Thầy trong tâm ḿnh là đức tánh ḥa hợp thanh tịnh của ḿnh, như Tăng già là hiện thân của sự ḥa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu v́ ḿnh mê muội, không nhận thấy được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, ḿnh nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, th́ ḿnh phải quy-y Thầy của ḿnh trước đă chứ!

Nói tóm lại, ḿnh phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm ḿnh là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm ḿnh là các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm ḿnh là sự ḥa hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là Lư Quy-Y Tam-bảo.

V- Nghi Thức Quy Y

Sau khi chúng ta đă hiểu rơ SỰ và LƯ Quy-y rồi, chúng ta cũng cần biết qua nghi thức của lễ Quy-y.

1- Trước Tiên Phải Gội Rửa Thân Tâm Cho Trong Sạch.

Quy-y là buổi lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của chúng ta. Nó là cuộc khởi hành để đi đến mục đích giải thoát, v́ thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một cách bừa băi được.

Khi muốn quy-y, chúng ta phải y-phục chỉnh tề, sắm khay lễ thỉnh chư Tăng đến trai dường, đảnh lễ và cầu xin chư Tăng rủ ḷng Từ-bi truyền trao quy-giới cho ḿnh.

Trước ngày hành lễ, thân tâm chúng ta phải được gội rửa trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ ăn mặc chỉnh tề. Đó là về thân; c̣n về tâm th́ ta phải ba phen sám hối, cho ba nghiệp được thanh tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận Pháp thanh tịnh cao quư của Tam-bảo.

2- Phát Nguyện.

Đến giờ quy-y, chúng ta phải qùy xuống; theo lời hướng dẫn của chư Tăng, chí thành phát nguyện:

- Đệ tử suốt đời quy-y Phật.

- Đệ tử suốt đời quy-y Pháp.

- Đệ tử suốt đời quy-y Tăng.

Sau khi phát nguyện Tam-quy rồi, người phát nguyện tin chắc rằng ḿnh đă gieo hạt giống giải thoát, thế nào cũng sẽ gặt được kết quả tốt là thoát ly ba đường ác: Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh. V́ thế người quy-y liền nói tiếp ba lần:

- Đệ tử quy-y Phật rồi, khỏi đọa địa ngục.

- Đệ tử quy-y Pháp rồi, khỏi đọa ngạ quỷ.

- Đệ tử quy-y Tăng rồi, khỏi đọa súc sanh.

Thế là trọn vẹn Tam-quy và Tam-kiết.

Để bảo tồn lư tưởng cao cả của ḿnh và giữ vững đức tin trên đường Đạo, người quy-y tự nguyện một cácg mạnh mẽ và thành khẩn:

- Đệ tử quy-y Phật, nguyện trọn đời không quy y thiên, thần, quỷ, vật.

- Để tử quy-y Pháp, nguyện trọn đời không quy-y ngoại đạo, tà giáo.

- Đệ tử quy-y Tăng, nguyện trọn đời không quy-y tổn hữu ác đảng.

Như thế là lễ quy-y đă hoàn tất. Người Tín đồ chỉ c̣n việc làm theo đúng những lời ḿnh đă phát nguyện và đă tuyên thệ trước Tam-bảo.

VI- Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo

1- Khỏi đi lạc đường đ̣i vào nơi tăm tối.

Như chúng ta đă thấy ở đoạn mở đầu bài này, chúng ta đang lặn hụp trong biển khổ, đang bơ vơ lạc lỏng giữa đêm tối mênh mông. Trong hoàn cảnh bi đát như thế, nếu không thấy được những phương tiện để đi đến, không có những bậc Thầy để d́u dắt đến, th́ chúng ta sẽ quay cuồng măi măi trong biển sanh tử luân hồi. Cái đích sáng ấy là Đức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những bậc Thầy d́u dắt ấy là Tăng. Khi chúng ta đă biết có những sự quư báu như thế mà không nắm bắt lấy, th́ chẳng khác ǵ người sắp chết đuối, thấy cái bè gỗ trôi qua mà lại dại khờ xua đẩy nó ra.

Sự quy-y chính là một cách bám víu vào cái bè Tam-bảo mà Phật đă chế ra để cứu vớt những kẻ sắp chết duối trong biển đời là toàn thể chúng ta.

2- Khi đă phát nguyện quy-y, ḿnh dễ giữ đúng lời đă hứa, v́ có sự chứng minh của Chư Phật và Chúng Tăng.

Có người nói: "Tôi tôn sùng Đức Phật, v́ biết Ngài là một Đấng sáng suốt hoàn toàn; Tôi trọng trọng Pháp v́ biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa người đến giải thoát; tôi kính Tăng v́ biết đấy là những vị đại diện cho Đức Phật. Biết như thế cũng đủ, cần ǵ phải làm lễ phát nguyện quy-y?"

Nói như thế là chưa hiểu giá trị về phương diện tâm lư của lời hứa, lời thề trước mặt người khác. Khi chúng ta đă hứa với ai một điều ǵ, mà nuốt lời hứa, th́ tâm hồn chúng ta bức rức, hối hận không an. Đă hứa tất có bổn phận làm trọn lời hứa, nếu thất lời hứa, tất ta sẽ tự khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hành trong một khung cảnh trang nghiêm trước Điện Phật, trên có sự chứng tri của Chư Phật, dưới có sự chứng tri của chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên chúng ta khó ḷng mà trái lời nguyện hay xao lảng được.

C - Kết Luận

Khuyên tín đồ nên quy-y cả Sự lẫn Lư và tinh tiến trong sự quy-y

Chúng ta đă thấy, là Phật tử th́ phải quy-y. Quy-y phải đủ Sự và Lư. Không nên hoàn toàn ỷ lại bên ngoài mà xao lảng bên trong. Cũng không nên hoàn toàn tự tôn tự trọng riêng ḿnh mà khinh thị bên ngoài. Muốn quy-y th́ trước tiên phải long trọng làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi đầu tiên của ḿnh trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiêm vụ mới. Nhưng một khi đă đặt chân lên đường, th́ người ấy phải dong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. Đă phát nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Đức Phật đă để lại, không soi vào gương sáng của Đức Phật đă nêu cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của Chư Tăng, như thế là tự lừa dối ḿnh và lừa dối người khác, và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y.

Trái lại, nếu chúng ta quy-y và thực hành đúng như lời đă phát nguyện th́ con đường giải thoát dù xa, cũng sẽ có ngày thấy đích.

Xin hăy luôn luôn ghi nhớ lời nói cuối cùng của Đức Phật:

- "Hăy tinh tiến lên để giải thoát!".





Sửa lại bởi nhoccon1412 : 08 September 2005 lúc 8:14pm
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 5 of 10: Đă gửi: 08 September 2005 lúc 8:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412


2.Tam Cang

GIẢI-THÍCH TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG



Tam-Cang Ngũ-Thường tức là điều-mục của Nho-giáo, lại là một vai tuồng đặc biệt của nam nhân, cần phải thật hành cho vẹn toàn bổn-phận.

Tam-Cang là: Quân-thần, Phụ-tử, Phu-phụ. Vua tôi, cha con, chồng vợ; Chúa ở với tôi có đạo-đức, th́ tôi thờ chúa mới tận kỳ trung; Cha ở với con từ-thiện, th́ con thờ cha chí hiếu; Chồng giữ trọn nghĩa với vợ, th́ vợ phải thủ tiết thờ chồng ấy là Tam-cang tức là đời có Đạo.

C̣n đời thất chánh vô nhơn đạo, th́ phong-hóa suy tồi nhân tâm bất cổ, đạo-đức sai dời ḷng người chẳng giống xưa. Luật Tam-cang chẳng giữ, phép Ngũ-thường không noi, Vua vô đạo, tôi bất trung, cha chẳng lành con chẳng thảo, chồng không giữ nghĩa với vợ, vợ lại thất tiết với chồng. Anh em không thuận ḥa, xóm riềng chẳng có t́nh thương-yêu liên-lạc cùng nhau, luân-lư cang thường đều nghiêng đổ, tức là đời Hạ-nguơn cuối cùng mạt kiếp.

Ngũ-thường là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

1- NHƠN là trắc ẩn chi tâm, ái vật chi lư, bất sát bất hại thể háo sanh chi đại-đức. Lấy ḷng nhơn phóng xá cho loài vật, đặng phần sống sanh hóa như loài người, mới có ḷng từ-bi bác-ái gọi là nhơn....

Chữ nhơn là nhân đứng bằng chữ nhị, nhân là người, nhị là hai. Làm người phải giữ cho đặng trọn hai phần, một là đối với Trời Đất, th́ phải noi theo phép công-b́nh thiêng-liêng của Tạo-hóa, thuận tùng Thiên-lư. Hai là đối với người, vật, th́ phải giữ ḷng đạo-đức, thương người mến vật, trợ cấp pḥ nguy mới trọn ḷng nhơn ...

Theo Thánh-giáo của Đức CHÍ-TÔN:

Nhơn là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi v́ nhơn dân hóa quan.
Dân trí có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ-quan.

Tu nhơn th́ thành Thần; niệm nhơn th́ thành Thánh; hành nhơn th́ thành Tiên; đắc nhơn thành Phật

2- NGHĨA là Nhứt thảo nhứt mộc, các hữu kỳ chủ, cả thảy mọi vật đều có chủ, cấm chẳng đặng gian tham ham muốn của người, mà làm cho thất nghĩa.

Chữ nghĩa là toàn ngă hiệp thành, chữ toàn là trọn, chữ ngă là ta, hiệp lại thành chữ nghĩa, làm người giữ trọn cùng ta th́ nên nghĩa, c̣n chẳng trọn cùng ta là thất nghĩa. Muốn thật hành chữ nghĩa, th́ phải noi theo câu: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhơn". Những việc ǵ ta chẳng muốn ai làm cho ta chịu đau khổ thảm sầu th́ ta không nên đem các điều ấy mà làm cho người khác, mới là trọn nghĩa.

Chữ nghĩa bao hàm rất lớn thay. Như là nghĩa cha con, nghĩa thầy tṛ, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng-bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy là ngũ-luân chi đạo. Mọi sự đều phải có nghĩa, th́ mới đủ tư-cách làm người cao trọng.

Chữ nhơn và chữ nghĩa thường đi đôi với nhau, cho nên trong Kinh Sám Hối có hai câu dạy rằng:

Làm người nhơn-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
Làm người nhơn-nghĩa giữ tṛn,
Muôn năm bóng khuất tiếng c̣n bay xa.

Xem trong truyện sử đời nhà Châu, vua Vơ điếu dân phạt Trụ, dĩ danh Nhơn-Nghĩa, mà thâu phục cả tâm-lư của tám trăm chư-hầu qui thuận nhà Châu cho đến các bậc Tiên-gia Xiển-giáo, cũng đồng ủng hộ Vơ-Vương, thuận thọ thiên-mạng diệt giả pḥ chơn, th́ rơ biết cái năng lực danh-từ nhơn-nghĩa tinh-vi hiệu quả là thế nào.

Hiện nay ta muốn biết trước những người cầm quyền bĩnh cán trong một nước nào, có thể lập thành sự-nghiệp phục hưng quốc-thể được trường tồn, hay là làm cho dân tâm ly tán, vận nước khuynh nguy, th́ chỉ xem sở hành của vị ấy có nhơn-nghĩa hay không mà quyết đoán ...

3- LỄ là yết dục dưỡng tinh, cấm không đặng tà t́nh hoa nguyệt, làm cho hao tổn nguơn-tinh biến ra thất lễ. Lễ là khuôn viên trọng thể của con người, làm người sở dĩ linh hơn muôn vật, chỉ nhờ biết giữ lễ mà đặng phần tôn quí hơn. Nhơn sanh vạn-vật tối linh, lễ giả Thiên Địa chi tự giả.

Qui cũ chữ lễ là để chế sửa phong-tục, nhân quần xă-hội, quan hôn, tang tế, Triều-đ́nh Hương-đảng, cả thảy đều dùng lễ mà làm cho đời được tận thiện tận mỹ.

Lễ là thiết yếu để giữ chừng mực cho mọi sự hành-vi của con người.... Con người có thể sống cao thượng, phẩm giá được tôn quí là do nơi biết giữ lễ, c̣n bị tội lỗi làm mất tư-cách con người, thiên-hạ chê bai khinh bỉ nhục-nhă, là do nơi thất lễ.

Chữ lễ rộng lớn bao la, xem bài giải-thích về Kinh Lễ mới rơ biết.

4- TRÍ là tồn tâm dưỡng tánh, chẳng nên dùng tửu nhục ẩm thực quá độ, rối loạn trí năo tâm thần, hoại hư tạng-phủ biến ra người mất trí.

Chữ trí là tri trên bạch dưới, chữ tri là biết, chữ bạch là trắng, làm người phải biết giữ ḷng thanh bạch, chẳng cho nhiễm vào một điểm nhơ ố vạy tà, mới gọi là hạng người trí-thức....

"Trí giă nhạo thủy". Bậc trí-thức tánh lưu thông như nước, mọi sự đều rơ biết, cư xử việc ǵ cũng được phân-minh, chẳng khi nào phạm vào luật-pháp.

5- Chữ TÍN là bằng hữu chỉ ư tín, thỉ chung như nhứt trước sau như một, không thay ḷng đổi dạ, dầu hứa hẹn một việc nhỏ cũng chẳng sai lời, mới gọi là người chơn-chất biết thủ tín.

Chữ TÍN là nhơn bằng chữ ngôn, nhơn là người ngôn là lời nói. Làm người mọi điều thốt ra, phải giữ sự chơn thật th́ mới đủ ḷng tín-nhiệm của quần chúng, nếu việc không mà nói có, việc có lại nói không, th́ chẳng c̣n ai tín-dụng. Người ở đời mà thất tín th́ chẳng làm ǵ nên danh phận. Nên có câu: "Nhơn vô tín như xa vô luân". Người mà không thành tín th́ cũng như chiếc xe không có bánh, chẳng hề cử-động được nữa.

Lại có câu: "Nhơn vô tín bất lập". Người không giữ tṛn câu tín nghĩa th́ chẳng lập nên danh-thể trường tồn, mà cũng không đứng vững trên mặt thế.

Vấn-đề Tam-cang Ngũ-thường, tức là nền tảng của Nho-Tông, thuộc về phần Nhơn-đạo để giáo-hóa nhơn sanh cho đủ tư-cách làm người cao thượng, nếu mỗi người thật hành y theo qui-điều kể trên cho châu đáo, th́ đời sẽ được mỹ-tục thuần-phong, tức là đời thái-b́nh an-cư lạc-nghiệp.

Điều-mục của Khổng-giáo cũng như qui-giới của Phật-giáo, Tiên-giáo. Ngũ-thường, ngũ-giới, ngũ-hành kỳ trung hiệp đồng nhứt lư....

Đệ-tử nhà Phật, nhà Tiên muốn đi tới Bồng-Đảo, Niết-Bàn th́ tức nhiên phải đi qua đ̣ nhà Nho trước.

Phật, Đạo cũng như hành bộ khách, nền Nho ví tợ chiếc đ̣ qua.... Ấy là: "Dục tu Tiên-đạo, tiên tu Nhơn-đạo, Nhơn-đạo bất tu, Tiên-đạo viễn hỉ"....

Luận về đạo-lư rất quảng đại bao la, không thể giải cho cùng tận, chỉ do theo tŕnh-độ của mọi người, hiểu biết đặng bao nhiêu lược biến ra để làm phương-châm thật-hành cho được vẹn toàn, cũng là điều bổ ích.

Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 6 of 10: Đă gửi: 08 September 2005 lúc 8:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

4.Sáu căn

Sáu căn đó là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.

Thu thúc lục căn
Khi mắt ta nh́n một vật ta sẽ nhận biết vật đó to hay nhỏ, màu xanh hay vàng, đỏ, tím v.v. Mắt nh́n thấy vật th́ tâm xao động và trí tư tưởng về vật đó ngay. Khi nh́n một vật ta nhận biết được màu sắc, độ lớn và tính chất của nó. Như khi nh́n là ta biết là nóng, là màu đỏ, là để nấu ăn... nh́n ḍng nước chảy, nh́n ly nước, ta biết được tính chất uyển chuyển của nước.

Xa hơn nữa, lắm khi mắt ta không nh́n thấy vật, nhưng tâm ta nghĩ đến. Tâm ta nh́n thấy, th́ trí ta cũng liên tưởng đến tính chất, độ lớn, màu sắc của vật, của sự kiện mà ta đang nghĩ. Không nh́n thấy vật, óc ta có thể tưởng tượng được hay h́nh dung được vật ấy nhờ hoài niệm.

Khi giác quan bị kích thích bởi một đối tượng ngoại giới, một vật hay một hiện tượng, mỗi người có một nhận xét, phán đoán hay liên tưởng khác nhau. Như khi tai nghe một âm thanh, dù có thấy vật hay không, ta vẫn đoán được một cách tương đối vật phát ra âm thanh đó. Chẳng hạn khi nghe tiếng chuông, ta liên tưởng đến một cái chuông, một cái dùi chuông đang đưa lên đánh, một cánh tay cầm dùi chuông, một người đang đánh chuông, rồi cái chuông được treo lên một giá gỗ,bên góc chùa hay tại gác chuông. Nhưng tùy theo mỗi người, khi tâm tiếp nhận đối tượng, phản ứng tâm lư không hoàn toàn giống nhau.

Nh́n một người đang ngồi yên lặng, mắt đăm đăm hướng về một phía, ta không đoán được người ấy đang nghĩ ǵ, họ đang mơ mộng hay đang tư tưởng. Có thể đầu óc họ đang chứa chất những h́nh ảnh, vụt biến, vụt hiện, xếp đặt phức tạp, nhiều lúc chỉ là ảo tưởng, như nh́n thấy người chết trở về, thấy ḿnh có cánh bay bổng lên trên không.

Trên thực tế, những h́nh ảnh hiện lên trên "màn bạc tâm giới" được xếp đặt theo thứ tự trước sau, h́nh ảnh sau kế tiếp h́nh ảnh trước và thường sự kiện trước tạo điều kiện cho những sự kiện kế tiếp để diễn biến, tiếp nối liên tục tạo thành gịng hiện tượng tâm giới. Như lúc ta đang nghĩ đến một công việc sắp làm, ta sẽ hoạch định những ǵ ta sẽ làm trước, những ǵ ta sẽ làm sau, những trở ngại, những khó khăn khi gặp phải, biện pháp giải quyết để đi đến thành công ...

Chỉ trong một phút, một giây, một điểm nhỏ của thời gian, tư tưởng đă tạo nên, đă hủy diệt được biết bao h́nh ảnh. Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) th́ tốc độ của tư tưởng 16 lần nhanh hơn tốc độ biến đổi của vật chất. Khi mắt thấy một vật thể, tai nghe một tiếng động, mũi ngửi một mùi hương, lưỡi nếm một vị... thân tiếp nhận một vật, th́ biết bao nhiêu h́nh ảnh, bao nhiêu cảm xúc sẽ xảy đến, sẽ hiện ra. Nhiều khi cả một chuỗi dài thời gian hiện ra trong nháy mắt. Một loạt sự kiện liên tục và phức tạp đầy màu sắc linh động chỉ thu gọn trong một tích tắc, trong một cái nh́n, một sự tiếp xúc nhẹ nhàng mau chóng.

Khi lục căn tiếp xúc với lục trần, tức là khi: Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm và ư suy nghĩ; th́ tâm ta đă phản ứng với những cảm xúc, thường gọi là phản ứng tâm lư như: giận hờn, thương mến, ghét bỏ. Tất cả những cảm xúc đó sẽ dẫn chúng sanh đến cảnh giới thích ứng. Bởi vậy, Thu Thúc Lục Căn là một trong "Tứ Thanh Tịnh Giới" mà vị Tỳ Khưu phải vâng giữ. Thu Thúc ở đây không có nghĩa là nhắm mắt, bịt tai, ngồi một chỗ không tiếp xúc với ai, nhưng đừng để ngoại cảnh chi phối ḿnh, đừng quá quyến luyến và say mê lục trần.

Pháp thu thúc bao gồm cả hai cái nh́n, cái nh́n phân tích và cái nh́n không phân tích. Lúc nào ta nên nh́n với cặp mắt phân tích và khi nào nên nh́n bằng cặp mắt dửng dưng?

Đức Phật chú trọng nhất cái tâm chúng sanh. địa ngục hay thiên đàng, trầm luân hay giải thoát đều do ở tâm. Nhưng cái ǵ khiến cho tâm xao động? Chính lục căn tiếp xúc với lục trần, khiến cho ngũ uẫn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,Thức có cỏ phát hiện. Khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc, tâm nghĩ đến điều ǵ th́ liền lúc ấy ngũ uẫn cũng chấm dứt ngay. Tâm tựa vào lục căn để nhận biết lục trần và phát hiện qua ngũ uẫn, mà ngũ uẫn vừa hiện lên lại vừa biến mất ngay, do đó tâm không lúc nào đứng yên. Tâm con người chẳng khác nào giống khỉ, giống vượn, ư con người như con ngựa không cương, lúc nào cũng máy động, không lúc nào đứng yên (tâm viên ư mă) mặc dàu chỉ đứng yên trong chốc lát. Cứ mỗi phút giây biết bao nhiêu tư tưởng hiện lên và biết bao nhiêu tư tưởng bị hủy diệt.

Tham, Sân, Si tiêu biểu cho ba cảm xúc bất thiện của con người cũng phát sanh từ sáu căn, chẳng hạn khi mắt nh́n thấy một h́nh sắc nếu có sự ưa thích sẽ phát sinh tâm tham, nếu không vừa ḷng sẽ phát sanh tâm sân, và khi không biết được bản chất hay thực tướng của h́nh sắc ta sẽ phát sanh tâm si. Bởi vậy, khi nh́n một vật, nghe một âm thanh ta nên thu nhận bằng một cái nh́n b́nh thản, khách quan và sáng suốt giống như tấm gương trong sáng phản ảnh một cách trung thực mà không bị đối tượng lôi cuốn. Sở dĩ Đức Phật dạy chư vị Tỳ Khưu không nên tiếp nhận đối tượng với một phán đoán chủ quan tùy t́nh cảm là để cho tâm các vị ấy không khởi theo các vọng niệm Tham, Sân, Si, Mạn v.v.

Nhưng bên cạnh cái nh́n tổng quát ta hăy nh́n bằng một tia nh́n sâu xa hơn, tia nh́n phân tích với tâm không xao động. Về phương diện đối tượng, phải biết rằng mọi vật thể sinh ra đều chất chứa một mầm hủy diệt. Về phương diện chủ thể, khi lục căn tiếp xúc với lục trần, hăy phân tích các phản ứng tâm lư của ḿnh để t́m hiểu đâu là tội đâu là phước. Hăy luôn luôn quán tưởng và nhận thức rằng tội phước phát sanh do sự tiếp xúc giữa lục căn và lục trần để thu thúc lục căn cho thanh tịnh. Nhưng làm thế nào để ngăn ngừa lục căn say đắm, quyến luyến với lục trần?

1- Phải tinh tấn thực hành những pháp lành,lánh xa ác pháp bằng cách tinh tấn:

a) Ác vị sanh, sử bất sanh (Samvara padhàna): tinh tấn ngăn ngừa những tội lỗi chưa có đừng cho phát sanh.
b) Ác dĩ sanh, sử trừ đoạn (Pahàna padhàna): tinh tấn dứt bỏ những tội lỗi đă có.
c) Thiện vị sanh, sử phát sanh (Bhàvanà padhàna): cố gắng thực hiện những việc thiện chưa có.
d) Thiện dĩ sanh, sử tăng trưởng (Anurakkhana padhàna ): cố gắng làm những việc thiện đă có.

2- Không tham ăn, không mê ngủ, không nói nhiều. Đức Phật thường dạy các hàng Tỳ Khưu nên tiết độ trong việc ẩm thực, phi thời bất thực (không dùng vật thực quá ngọ). Để cho tâm thanh tịnh, bớt tham ái, mỗi ngày chỉ nên ngủ bốn tiếng, thay thế vào những giờ bỏ ngủ bằng những giờ tọa thiền. Không nói nhiều, lời nói cần có đủ các yếu tố: lời nói phải thành thật, lời nói phải êm dịu, lời nói phải có ích, lời nói hợp thời, lời nói phải từ bi.

3- Thu thúc mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.

4-Trong mọi cử động đi, đứng, nằm, ngồi đều phải chậm chạp khoan thai.

5- Mọi cử động đều phải tinh tấn, tâm niệm và giác tỉnh, tức là phải có trí nhớ trong mọi cử động. Cảm xúc, tri giác, ư thức v.v... phát sanh từ trong tâm của mỗi người, nhiều khi sự suy nghĩ, sự nhận biết phát xuất từ năm căn đầu tiên tức là mắt, tai, mũi, lưưỡi và thân thể nhưng lắm lúc nó phát khởi trong tâm như khi hồi tưởng, khi mỏ mộng, khi tư tưởng,khi liên tưởng ... Lúc ta suy nghĩ một điều ǵ th́ nhiều khi khởi điểm của sự suy nghĩ do nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nhưng thời gian sau, nó thuộc về ư thức... Mọi hành động tội lỗi phần nhiều phát sanh sau những thời gian suy tính; bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta, khi có một tư tưởng bất thiện phát khởi trong tâm phải t́m cách đánh đuổi nó đi.

Tâm thường hay rung động, khó giữ cho được yên tịnh, nó có tính chất hay suy tưởng mông lung, thâu nhận đối tượng ưa thích hay trái ư nghịch ḷng ... Bởi vậy tâm hay ch́u theo cảnh trần, khó mà giữ cho nó được vắng lặng, tâm không chịu dưới quyền sở hữu của người thiếu trí nhớ. Đức Phật dạy rằng: "Này các thầy tỳ khưu, tâm mà người chưa được huấn luyện, chưa được chế ngự hằng đi đến nơi tai hại, và tâm của người hằng được dạy dỗ, cai trị, ǵn giữ rồi sẽ hằng đi đến nơi lợi ích cao cả." Bởi vậy thu thúc lục căn không điểm nào quan trọng bằng thu thúc ư. Tức là làm thế nào điều ngự cái tâm đừng cho phiền năo phát sanh. Đức Phật dạy: "Người tri thức nên giữ tâm", có nghĩa là phải ngăn đón tâm, không cho nó nghĩ đến đều ác, đó là các tùy phiền năo gồm 16 điều:

1) Tham lam, lobhà
2) Sân hận, dosa
3) Giận, Kodha
4) Oan trái ,Upanàha
5) Quên ơn, Makkha
6) Đem sánh ḿnh với bậc cao, Palàsa
7) Ganh tị, Issà
8) Bỏn xẻn, Maccharya
9) Giấu lỗi, Màyà
10) Khoe ḿnh, Sàtheyya
11) Cứng đầu, Thambha
12) Ương ngạnh, Sàrambha
13) Ngă mạn, Màna
14) Khinh người hơn ḿnh, Timàna
15) Trụy lạc (ư nói say mê ngũ trần), Masa
16) Dể duôi, Pamàda

Khi chúng ta ngăn chặn được các tùy phiền năo đó phát sanh bằng cách thu thúc lậu căn là chúng ta đạt được phần lớn pháp thu thúc.

Tóm lại, phải ngăn ngừa tâm xao động khi lục căn tiếp xúc với lục trần, tức là phải dùng tia nh́n phân tích để thấy rơ đâu là tội, đâu là phước, đồng thời phải dùng tia nh́n phi phân tích để khỏi quyến luyến, say mê lục trần, nói một cách khác để khỏi đắm ch́m trong ṿng tài, t́nh, danh, lợi.

Chúng ta hăy bắt chước Ngài Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất. Hai Ngài đă dùng tia nh́n phân tích trong khi đi xem hát tuồng và nhờ đó sau này hai Ngài trở thành hai vị đại đệ tử của Đức Phật. Lúc Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên chưa xuất gia là đôi bạn rất thân với nhau. Một hôm hai người rủ nhau đi xem hát (một loại hát giống hát bộ hay cải lương ở Việt Nam ngày nay). Hai vị ấy thấy diễn viên bôi mặt, vẽ mày, kẻ làm vua, người làm quan, kẻ làm người cao sang, kẻ làm người hèn hạ, lúc chưa đóng tuồng là anh em bạn bè, khi đóng tuồng là vợ chồng, là vua chúa, là quan quân ... Nh́n cảnh đó hai Ngài nghĩ đến cảnh sống của con người chẳng khác chi một tuồng hát. Suy rộng hơn chúng sanh biến từ lốt này sang lốt khác, lúc sanh thành thú vật, lúc biến thành côn trùng, khi thành chư thiên, thành người, lúc sa vào ngạ quỷ, địa ngục chẳng khác ǵ người đóng tuồng mỗi ngày thêm một vai tuồng mới. Quán tưởng như thế hai Ngài vô cùng chán nản và quyết đi t́m thầy học đạo để thoát ra ngoài ṿng sanh tử luân hồi.

Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 7 of 10: Đă gửi: 08 September 2005 lúc 8:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

lenhhoxung714 đă viết:
nhoccon1412 đă viết:


38. Nay thường thổ huyết do nhân ǵ?
Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. (4)
(4) Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi: Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Um Soa Pha Va Suưt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suưt đa hàm (7 biến) Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma.
.....................

B́nh:

Đọc qua bài kinh Nhân Quả trên, chúng ta thấy lư nhân quả của đạo Phật rất rộng răi và phóng khoáng.


1.Vậy th́ LHX và hàng triệu triệu người khác chắc phải thổ huyết mất thôi v́ không hề biết đến điều này! A Di Đà Phật! Đây là sự thật v́ hồi c̣n nhỏ lúc mới 30/04/75 xong nhà ở tạm trong khu trại lính có một ngôi chùa, và v́ không biết làm ǵ nên tối tối khoảng 7 giờ là chui sang chùa tụng kinh, thấy lạy cũng bắt chước lạy theo, cứ thế cả chục năm trời...Nhưng có điều lạ là không thầy nào nhắc nhở đến điều này cả???
2.Đọc xong luật nhân quả th́ thấy câu:"Đọc qua bài kinh Nhân Quả trên, chúng ta thấy lư nhân quả của đạo Phật rất rộng răi và phóng khoáng...". Vậy những điều ḿnh không biết th́ có được thứ tội hay không? Không thổ huyết chẳng hạn??? . A Di Đà Phật!
3."40. Ghẻ lác phong điên do nhân ǵ?
Xông hơi thịt cá trước bàn Phật."
LHX thấy thời gian đầu ở Vn ḿnh, cũng như các nước Châu Á nghèo khổ khác, nhà th́ nhỏ như cái lỗ mũi! Do vậy, ăn uống và sinh hoạt gần như đều diễn ra trước bàn thờ Tam Bảo trong nhà, có thế thôi! Không biết Luật Nhân Quả có nên cải đổi lại để cho hợp với thời thế và hoàn cảnh sống của con người không nhỉ, v́ không phải ai ai cũng giống nhau được. Hơn nữa, đạo Phật ta vốn rộng răi và phóng khoáng kia mà, đâu chấp nhặt những tiểu tiết, có phải vậy chăng?
4.Bạn có thể giải thích nghĩa các chữ của câu chú đó không? V́ nếu đọc mà không hiểu th́ chắc chắn cũng chẳng có công hiệu ǵ cho lắm...Tôi nghĩ như vậy, và đôi khi cũng buồn v́ đôi lúc nhớ lại lúc nhỏ thường đọc đủ thứ kinh, nhưng đa số là chẳng hiểu ǵ cả(thậm chí lúc đó đă đủ trí khôn và đọc sách tiếng Việt làu thông!)v́ bằng tiếng Phạn, và các thầy cũng chẳng ai chỉ bảo cho cả...Không biết những năm tháng dài đằng đẳng ăn mặn cơm chiều rồi chạy đại sang chùa tụng kinh, tụng rồi chẳng hiểu ǵ ráo trọi th́ không biết có tội lỗi ǵ không đây??? A Di Đà Phật!
Trên đây là những thắc mắc rất ngây ngô nhưng sự thực là có nhiều người LHX biết rất rơ cũng ở trong t́nh trạng như vậy, nhưng những người này lại không dám nói là ḿnh không biết, thế mới khổ!
A Di Đà Phật!


Lúc trước chúng ta không biết hoặc do ḥan cảnh th́ do nghiệp duyên của ḿnh mà ḿnh phạm phải , bây giờ ḿnh đă biết rồi th́ đừng phạm phải kẻo mang tội . Ḿnh tu học tức là ḿnh học cách sửa đổi cho tốt hơn chính là do ḿnh tu vậy . Phật có 84000 pháp môn ,ai ai cũng có thể thành Phật , chúng ta tùy duyên mà giác ngộ .

_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
lenhhoxung714
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 August 2004
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 99
Msg 8 of 10: Đă gửi: 08 September 2005 lúc 11:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn lenhhoxung714

Ư nghĩa các câu chú?

__________________
Quá khứ chỉ là kỷ niệm. Tương lai chỉ là tưởng tượng. Hiện tại là tất cả...
LenhHoXung714
Quay trở về đầu Xem lenhhoxung714's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi lenhhoxung714 lần thăm lenhhoxung714's Homepage
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 9 of 10: Đă gửi: 09 September 2005 lúc 4:17am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

lenhhoxung714 đă viết:
Ư nghĩa các câu chú?


Năm giềng th́ ḿnh không biết nữa , bạn về tham khảo thêm xem
C̣n các câu chú ḿnh cũng không biết v́ ḿnh không biết tiếng Phạn , nhưng theo ḿnh suy nghĩ câu chú đó giúp ḿnh xám hối trước v́ đă ăn thịt trước khi tụng kinh , nên đọc trước câu chú đó .
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
lenhhoxung714
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 August 2004
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 99
Msg 10 of 10: Đă gửi: 09 September 2005 lúc 9:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn lenhhoxung714

Cảm ơn bạn nhiều! "Năm giềng" có phải là Năm Châu đó chăng??? Ai biết xin giải thích giùm với!

__________________
Quá khứ chỉ là kỷ niệm. Tương lai chỉ là tưởng tượng. Hiện tại là tất cả...
LenhHoXung714
Quay trở về đầu Xem lenhhoxung714's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi lenhhoxung714 lần thăm lenhhoxung714's Homepage
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.9023 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO