Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 201 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Một số bài Phật giáo ưa thích Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 1 of 11: Đă gửi: 05 May 2005 lúc 5:35am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Ngữ Lục của Ḥa Thượng Tuyên Hóa.

Mục Lục

Tu Hành

Tu Hành.
Tŕ Giới, Nhẫn Nhục.
Tham Thiền, Niệm Phật.
Hạnh của NgườI Xuất Gia.
Nhân Quả, Sám Hối & Chuyển Hóa.
Giáo Dục.
Đạo Phật & Phật Pháp.
Trí Huệ.
I. Tu Hành

Tu Đạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là ǵ? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, c̣n ḿnh th́ nhận phần hư xấu--xả tiểu ngă để thành tựu đại ngă.

Đối với ma đừng khởi tâm thù nghịch. Hăy xem chúng như các bậc Thiện-tri-thức trợ đạo cho ḿnh.

Từ vô lượng kiếp đến nay, hết đời này sang đời khác, mỗi người tạo bao nghiệp không đồng, nên vọng tưởng cũng không đồng. Nghiệp nặng th́ vọng tưởng nhiều, nghiệp nhẹ th́ vọng tưởng ít.

Người tu hành phải v́ cắt đứt ḍng sanh tử luân hồi, v́ độ chúng sanh, chứ không v́ cầu cảm ứng mà tu Đạo.

Người tu Đạo phải luôn luôn hồi quang phản chiếu, không nên hướng ngoại truy cầu. T́m cầu bên ngoài không thể có được, quay về tự tánh th́ đầy đủ cả.

Đối với kẻ mới phát tâm tu, điều chướng ngại nhất khi dụng công là ḷng tham đắm sắc dục giữa nam và nữ. Đây là vấn đề căn bản nhất.

Người tu Đạo nên chú ư! Chớ gieo duyên nhiễm ô với người khác. Sợi dây trói buộc bất tịnh này sẽ làm chúng ta đọa lạc.

Hiện tại chúng ta may mắn có được thân người. Nếu không biết dùng thân người để tu hành, th́ đợi đến khi nào mới tu? Chỉ e đến lúc mất thân này rồi, dẫu có muốn tu hành th́ đă quá trễ!

Học Phật Pháp, điều thiết yếu là phải chân thật. Mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ đều phải chân thật.

Ở chùa, chúng ta phải biết tiết kiệm mọi vật dụng. Rằng:

"Thương tiếc vật của chùa
Như bảo vệ tṛng con mắt."

Không thương, không ghét là Trung Đạo.

Tu Đạo là tu đạo ǵ? Tức là tu theo Trung Đạo--với ai cũng phải đối xử b́nh đẳng, lấy ḷng từ bi làm căn bản, và khi hành sự phải cẩn thận, chớ đi lạc vào lưới rọ t́nh ái.

Chẳng hề có đạo lư "ngày nay tu Đạo, ngày mai thành Phật." Mới cuốc một nhát đâu thể có giếng nước ngay được. Tu hành là đem khối sắt mài thành cây kim, công đủ tự nhiên sẽ thành tựu.

Việc đầu tiên khi học mật chú là phải chánh tâm thành ư. Nếu tâm không chân chánh th́ khi học, mật chú nào cũng thành tà. Tâm nếu chân chánh th́ học mật chú mới được cảm ứng.

Vô minh có hai đồng lơa. Hai đồng lơa ấy là ǵ? Tức là tham ăn và tham sắc dục. Cả hai việc này trợ giúp vô minh tạo vô số nghiệp xấu.

Có câu rằng:

"Khi muốn làm người tốt th́ nghiệp báo hiện,
Khi muốn thành Phật th́ ma đến thử thách."

Nếu không muốn trở thành người tốt th́ nghiệp báo không t́m đến. Càng quyết chí làm người tốt bao nhiêu th́ nghiệp báo càng đến tới tấp bấy nhiêu, đ̣i ḿnh thanh toán nợ nần cho minh bạch.

Phật và ma chỉ khác nhau ở một tâm niệm--Phật th́ có tâm từ bi, c̣n ma th́ có tâm tranh hơn thua.

Người thực sự biết cách tu hành th́ nhất cử nhất động đều là tu cả.

Người tu Đạo không nên đi khắp nơi quảng cáo sự tu hành của ḿnh. Ai thường quảng cáo sự tu hành của ḿnh th́ nhất định sẽ đọa lạc vào đường ma.

Người tu Đạo ở bất cứ nơi nào cũng đều phải che giấu và tẩy xóa tông tích, đừng nên để lộ diện.

Tâm của chúng ta thường trú tại những nơi khác chứ không trú tại trong tâm ḿnh. "Trú tại những nơi khác" nghĩa là có thân mà không có tâm.

Giảng Kinh thuyết Pháp là tu Huệ. Ngồi Thiền là tu Định. Không nói lời tạp nhạp là tu Giới.

"Phiền năo tức Bồ-đề." Nếu biết dùng th́ phiền năo tức là Bồ-đề. Nếu không biết dùng th́ Bồ-đề biến thành phiền năo.

Tu Đạo cần phải tập dại khờ. Càng "dại khờ" bao nhiêu th́ càng tốt bấy nhiêu. "Dại khờ" cho đến mức cái ǵ cũng không biết cả th́ vọng tưởng sẽ không c̣n.

Vô minh nghĩa là không hiểu rơ. Gốc rễ của vô minh là ái dục.

Mục đích chủ yếu của tu hành là cắt đứt ḍng sanh tử, chứ không phải cầu cảm ứng.

Tu hành th́ cần phải giữ ḿnh cho trong sạch, như giữ đôi mắt không để dính một hột cát vậy.

Cờ bạc th́ tạo nghiệp nặng. Bố thí th́ tích lũy công dức. Ngồi Thiền th́ trừ ngu si, sanh trí huệ.

Người tu hành nên cẩn thận lời nói nơi chỗ đông người và canh giữ tâm khi ngồi một ḿnh. Lúc giữa đại chúng đừng nên nói nhiều. Khi riêng một ḿnh nên đề pḥng tâm ích kỷ và vọng tưởng. Như thế th́ chẳng bao lâu sẽ được chuyên nhất thấy rơ tâm ḿnh.

Thọ khổ th́ dứt khổ.
Hưởng phước th́ hết phước.

Người chân chánh tu Đạo phải xem xét mọi hành vi, cử động của chính ḿnh. Đi, đứng, nằm, ngồi, chớ rời chánh niệm. Đừng như cái gương--chỉ biết soi mặt người mà không tự soi lại mặt thật của ḿnh.

Nếu c̣n chấp trước th́ đó là tâm người thường. Nếu không chấp trước, đó là tâm Đạo.

Nếu muốn không chết, phải sống như người đă chết--tức là phải giữ ḿnh đừng tham lam, sân hận, si mê.

Người học Đạo nhất định phải phát nguyện. Nguyện lực có khả năng thôi thúc chính ḿnh tiến tu theo Chánh Đạo, không lạc đường tà. Nhưng phát nguyện mà không hành th́ giống như cây có hoa mà không đơm trái, thật vô ích!

Dùng lưỡi để thuyết Pháp th́ tích tụ công đức. Cũng dùng lưỡi nhưng lại nói lời thị phi th́ tạo nghiệp tội. Thay v́ thuyết Pháp mà lại nói những lời vô nghĩa, thị phi là tạo một vạn hai ngàn nghiệp tội.

Người tu Đạo đối với kẻ trong người ngoài, già, trẻ, lớn, nhỏ, kẻ sang ngưới hèn, đều thường dùng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, th́ tự nhiên sẽ nảy sanh cảm ứng.

Tu Đạo là tu chân thành và thiết thật. Nên có câu: " Tâm thành th́ linh ứng."

Chúng ta sống trên thế gian này, luôn luôn phải làm việc lành. Mỗi hơi thở, sức lực đều phải hành thiện tích đức. Trong hiện đời, chớ nên dựa vào thiện căn đời trước ḿnh đă trồng mà tận hưởng hết phước báo.

Phật có thể chuyển hóa tất cả chúng sanh thành Pháp-khí, nên có câu: "Mượn cái giả để tu việc chân thật. Túi da hôi thối này ch́ là căn nhà tạm bợ." Chúng ta trú tại căn nhà này để tu Đạo, nghĩa là mượn "ngôi nhà" sắc-thân giả tạm để tu thành Pháp-thân chân thật.

Nếu tâm tham lam tràn trề, không biết đủ, th́ tương lai sẽ bị đọa lạc vào địa ngục. Nếu tâm sân hận quá nhiều, từ sáng đến tối luôn giận dữ, th́ sẽ trở thành ngạ quỷ. Nếu tâm ngu si nặng nề, chỉ làm những việc ngu xuẩn th́ sẽ biến thành thú vật.

Khuyết điểm lớn nhất của chúng sanh là si ái--ngày đêm sống trong si ái, không thể xả bỏ được. Nếu chuyển được tâm háo sắc thành tâm tu học Phật Pháp, từng giờ từng phút không lăng quên việc tu học, th́ sẽ mau chóng thành Phật.

Người chân chánh khai ngộ th́ không bao giờ nói ḿnh đă khai ngộ. Bậc thánh nhân xuất thế tuyệt đối không tiết lộ chân tướng. Phàm những kẻ tự xưng là Phật là Bồ-tát, đều là tà ma.

Người có đức hạnh không phải do nơi địa vị hay tuổi tác, mà trong những hành vi kín đáo im lặng, tự nhiên hiển lộ phẩm cách đặc thù của họ, khiến người khác đều kính nể. Phẩm cách đặc thù này không khiến cho kẻ khác sợ hăi, v́ nếu sợ hăi th́ họ sẽ lánh xa.

Mọi người đều có ba thằng giặc phiền năo; đó là tham lam, sân hận, si mê. Chúng ta không cần phải diệt trừ chúng mà hăy chuyển hóa chúng thành những hạt giống Bồ-đề.

II. Tŕ Giới, Nhẫn Nhục

Người tu hành phải tu tướng vô ngă, tu đến mức độ không c̣n cái "ta." Nếu không c̣n cái "ta" th́ có thể nhẫn chịu được hết tất cả, cảnh giới nào đến tâm cũng đều không động, tự xem ḿnh ví như hư không.

Thành Phật không phải dễ! Không chặt đứt tâm tham dục mà mong thành Phật th́ không khi nào được. Người đời nay đa số đều thích cầu may, đi đường tắt, dễ dàng bị cuốn hút bởi những việc huyền ảo, lạ kỳ; do đó bị mê hoặc, lạc vào lưới ma.

Tại sao nói láo? V́ sợ ḿnh bị mất quyền lợi, sự bị thua thiệt.

Nếu phạm giới dâm dục th́ dễ dàng phạm giới sát hại, ăn cắp và nói láo. V́ thế, giới dâm dục bao gồm các giới sát hại, trộm cắp và nói láo.

Giữ Năm Giới, làm Mười Điều Lành th́ được sanh lên cơi trời, cơi người. Nếu c̣n tâm tham lam, sân hận, ngu si, th́ sẽ đọa lạc vài ba đường ác.

Nếu hiểu rơ Giới Luật th́ có thể thâm nhập toàn cơi Phật Pháp. Nếu không hiểu Giới Luật th́ giống như mây bay trên trời, lơ lơ lửng lửng, không có một điểm tựa căn bản.

Căn bản của Giới Luật chỉ có một điều, đó là không ích kỷ.

Tinh tấn tŕ Giới chủ yếu là ngay tại những nơi không ai thấy. Không phải chỉ tinh tấn tŕ Giới trước mặt người khác mà khi ở một ḿnh cũng phải luôn luôn tinh tấn, siêng năng, nghiêm tŕ Giới Luật.

Chúng ta học Phật Pháp tức là học không năo hại kẻ khác. Là Phật tử, phải nên ăn chay; v́ nếu ăn thịt tức là làm tổn hại sinh mạng của những chúng sanh khác.

Ăn chay là phải chịu thiệt tḥi v́ không thể hưởng được của ngon vật lạ trong cuộc đời. Nhưng nếu không ăn chay mà lại ăn thịt loài vật th́ sau khi chết phải tới địa phủ để thanh toán nợ nần. Tôi lấy lương tâm mà nói thật cho các vị biết rằng: Nếu mọi người không ham "khoái khẩu," không tham hưởng thụ, th́ sau khi chết sẽ không phải ra ṭa!

Người học Phật mà không giữ Giới Luật th́ cũng giống như chiếc b́nh không đáy--đổ nước vào bao nhiêu th́ chảy ra bấy nhiêu. Thế nên phải nghiêm tŕ Giới Luật th́ từ từ sẽ đạt tới cảnh giới vô-lậu.

Cho dầu tu pháp môn ǵ đi nữa, chúng ta cần phải có tâm nhẫn nhục th́ mới thành tựu. Nếu không có tâm nhẫn nhục th́ không thể thành tựu trong bất cứ pháp môn nào.

Người xuất gia tu Đạo ǵ? Tu Đạo Nhẫn Nhục.

Nhẫn là hạt châu vô giá mà người người không biết đào t́m. Nếu biết cách dùng th́ muôn sự đều tốt lành.

Người tu Đạo cần phải nhẫn những ǵ mà kẻ khác không thể nhẫn, nhường nhịn những ǵ mà kẻ khác không thể nhường nhịn, ăn mặc những ǵ mà kẻ khác không thể ăn mặc--nói chung là phải thọ nhận những ǵ mà người khác không thể thọ nhận.

Khi chúng ta tu Đạo, việc quan trọng nhất là không tranh. "Không tranh" tức là không cùng người khác tranh đua hơn thiệt, điểm tốt điểm xấu, hoặc tranh luận về việc đúng việc sai của kẻ khác.

Dẫu trong hoàn cảnh nào đi nữa, chúng ta cũng chớ tham lam thái quá. Phải thường biết đủ, nhẫn nhịn. Đó là pháp vi diệu vô thượng mà mọi người lại quên đi! Thế nên, nếu không tranh, không tham th́ phước thọ vô biên. Nếu vẫn c̣n tranh chấp, tham lam, nhiễu loạn, th́ nghiệp tội đến với ḿnh không ít, muốn thoát khỏi ba cơi cũng không cách ǵ thoát ra được.

III. Tham Thiền, Niệm Phật

Tại sao chúng ta không nhận ra cội gốc, khuôn mặt thật của ḿnh? Đó là v́ chúng ta chưa dẹp bỏ ngă tướng và tâm ích kỷ của ḿnh.

Tham Thiền tức là quán chiếu. Quán chiếu ǵ? Quán chiếu Bát Nhă. Trong mỗi niệm, chúng ta hăy quán chiếu lại chính ḿnh, chớ không phải quán chiếu những người khác--quán chiếu xem ḿnh có ở đó hay không.

Người tham Thiền phải thấu suốt những vấn đề căn bản. Đó là những việc ǵ? Tức là thói quen tật xấu của ḿnh. Khi đả Thiền Thất tức là chúng ta cố gắng dẹp trừ hết những tập khí xấu xa và lỗi lầm của ḿnh.

Trong Thiền Đường, mọi người ngồi tham Thiền. Đó là để thử nghiệm xem ai có thể trúng tuyển quả vị Phật. Làm sao để trúng tuyển? Cần phải "bên trong không chấp thân tâm, bên ngoài không thấy có thế giới."

Nhiều người tham Thiền phạm phải hai khuyết điểm: thứ nhất là điệu cử, thứ hai là hôn trầm--nếu họ không khởi vọng tưởng th́ cũng ngủ gục trong Thiền Đường.

Tham Thiền, quan trọng là phải có tâm nhẫn nhục, tâm bền bỉ. Bí quyết tham Thiền là nhẫn. Không nhẫn nổi nữa cũng vẫn cứ cố nhẫn. Nhẫn cho đến cực điểm th́ tự nhiên sẽ quán thông, sáng suốt, khai ngộ.

Khi tham Thiền đến độ chín muồi th́ không những hết vọng tưởng, mà c̣n bớt dần nóng giận, bớt dần phiền năo, phẩm cách cao thượng hơn, khí phách mạnh mẽ thêm.

Tại sao chúng ta không tương ưng với Đạo? V́ tâm cuồng loạn chưa ngừng nghỉ.

Tham Thiền cần có ḷng nhẫn nại, bởi v́ đó là vốn liếng của sự khai ngộ.

Khi tham Thiền, chúng ta có cơ hội khai ngộ, tự tánh quang minh hiện rơ như mùa xuân về lại trên trái đất, vạn vật đều sinh sôi nẩy nở.

Người chân chánh tham Thiền là người chân chánh niệm Phật. Người chân chánh niệm Phật cũng là người chân chánh tham Thiền. Kẻ chân chánh tŕ Giới cũng là kẻ chân chánh tham Thiền.

Chân ngă là ǵ? Tức là tự tánh, cũng tức là thành Phật. Thành Phật mới là chân ngă. Trước khi thành Phật th́ tất cả đều là giả.

Thân thể ai không nhiễm ô th́ người ấy là Phật; thân thể ai nhiễm ô th́ người ấy là chúng sanh. Nhiễm ô là ǵ? Nói vắn tắt th́ "nhiễm ô" tức là nh́n không thông, xả không được, giờ giờ phút phút luôn sanh khởi vọng tưởng.

Dụng công cho đến lúc thành thục rồi th́ chúng ta sẽ ăn mà không biết là ḿnh đang ăn, mặc mà không chấp trước vào y phục ḿnh đang mặc, c̣n nói chi đến những vật ngoài thân--tất cả đều xả bỏ hết!

Tu hành không chỉ hạn hẹp trong việc tham Thiền, tụng Kinh mà thôi. Phải tùy nơi tùy lúc mà tu hành. Đừng móng tâm phân biệt nhiều. Chớ tranh đấu v́ quyền lợi, giành chức lănh đạo để sai khiến người khác, và cũng chớ nên biểu diễn, thi thố tài năng trước mặt Thầy ḿnh.

Đạo quư tại chuyên nhất. Tướng tài do mưu lược chứ không tại hùng dũng. Binh lính cần tinh nhuệ chứ không cần nhiều.

Chân thật niệm Phật là luôn luôn niệm trong từng giây từng phút; vọng tưởng hay ư nghĩ ǵ về ăn uống cũng không có cả--cái ǵ cũng quên bẵng th́ đó mới là chân thật niệm Phật.

Chúng ta niệm Phật, Phật cũng niệm chúng ta--giống như đánh điện tín đến Phật A-Di-Đà vậy. Đó gọi là cảm ứng Đạo giao. Nếu chúng ta không niệm Phật th́ Phật không có cách ǵ để nhiếp thọ được; thế nên, chúng ta phải tŕ niệm danh hiệu Phật.

Niệm Chú, cần phải niệm cho đến lúc Chú lưu xuất từ tâm ra và đồng nhập trở vào tâm. Chú và tâm, tâm và Chú cùng hợp nhất vào một âm thanh, không thể phân biệt. Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm.

Chúng ta lễ Phật, Phật nhận lễ, th́ phước huệ của chúng ta tăng trưởng. Thế nên, lễ Phật là "cảm," nhận lễ là "ứng"; đó là Đạo giao.

IV. Hạnh Của Người Xuất Gia

Phải bốn người xuất gia trở nên lên cùng sống chung ḥa hợp th́ mới gọi là Tăng-đoàn. Đó là "ḥa giai cộng trụ," không tranh không chấp. Một người xuất gia sống đơn độc không thể gọi là Tăng.

Người xuất gia phải nghiêm trang ǵn giữ bốn oai nghi--đi, đứng, nằm, ngồi. Nên nói: "Đi nhẹ như gió, ngồi vững như chuông, đứng thẳng như cây thông, nằm như cung tên."

Không thể muốn pháp xuất thế cùng pháp thế gian đồng một lúc. Chân không thể đứng trên hai chiếc thuyền--một hướng ra Giang bắc, một xuôi về Giang nam.

Các vị thường biết rằng chư Đại-đức, Cao-tăng thuở xưa đều ngộ Đạo trong khi tu hành khổ hạnh. Không một vị Tổ-sư nào khai ngộ trong khi hưởng thụ--t́m trong Đại Tạng Kinh không thấy có một vị nào như thế cả.

Tiêu chuẩn tuyển chọn vị Trụ-tŕ phải như thế nào? Điều kiện tiên quyết là phải không có tánh nóng giận, biết dùng ḥa khí đối đăi người, nơi nơi đều có thiện duyên với người, không dùng quyền uy mà bức bách kẻ khác, phải có tác phong ư thức dân chủ, khiến người ta cung kính tôn trọng.

Người xuất gia có thể nhận sự cúng dường, nhưng không được tham cầu cúng dường. Không tham cúng dường mới là đệ tử chân chánh của Phật.

Hai chúng đệ tử xuất gia, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, không nên dụng công v́ danh vọng, địa vị, mà cần phải có tinh thần thay thế chúng sanh chịu khổ và phải có tâm b́nh đẳng cứu giúp tất cả chúng sanh.

Người xuất gia nếu không tinh tấn tu Thiền tập Định, tụng Kinh tŕ Chú, nghiêm thủ Giới Luật, mà chỉ nương dựa vào Phật hầu có được miếng cơm manh áo th́ chắc chắn sẽ bị đọa lạc vào ba đường ác.

"Tinh lực dồi dào th́ không cảm thấy lạnh.
Khí lực sung túc th́ không cảm thấy đói.
Thần lực đầy đủ th́ không cảm thấy mệt."

Tinh, khí, thần là ba báu vật. Người xuất gia phải tu tŕ tinh, khí, thần.

Người xuất gia phải làm gương cho chúng tại gia--nếu không nêu được gương tốt th́ người tại gia sẽ không sanh tâm thâm tín, và không thể gieo ảnh hưởng ǵ với họ cả. Thế nên, là người xuất gia th́ phải có h́nh tướng của người xuất gia.

Người xuất gia phải có chánh tri chánh kiến. Nếu không có chánh tri chánh kiến th́ nhất định sẽ đi lạc vào đường ma, bị năm mươi ấm ma kéo đi.

Người xuất gia phải cùng nhau làm việc, không được tự ḿnh tạo việc khác lạ, muốn làm ǵ th́ làm.

"Chuyên nhất th́ linh.
Phân tán th́ bị ngăn ngại."

Chuyên nhất về việc ǵ? Tức là chuyên nhất đoạn dục vọng, trừ tham ái. Nếu không đoạn dục vọng, trừ tham ái th́ có xuất gia tu Đạo đến tám vạn đại kiếp đi nữa cũng vẫn không thành công. V́ vậy, việc này rất là trọng yếu.

Phải luôn luôn tu Đạo bồi đức. Khi đức tánh đă tṛn đầy, hạnh tu được viên măn, th́ chúng ta mới xứng đánh là người xuất gia.

Người xuất gia phải lấy việc hoằng Pháp làm sự nghiệp.

Hoằng dương Phật Pháp là bổn phận và trách nhiệm của người xuất gia chúng ta. Thế nên, trong từng tâm niệm chúng ta phải luôn luôn hoằng dương Phật Pháp; và mọi hành động, cử chỉ là thuyết Pháp cho chúng sanh.

V. Nhân Quả, Sám Hối & Chuyển Hóa

"Không thể cầm nắm được nghiệp."

Chúng ta bị nghiệp dẫn dắt nên sanh ra ở thế gian này để chịu theo nghiệp báo đời tiền kiếp của ḿnh. Trong quá khứ chúng ta tạo nghiệp không đồng, nên hôm nay thọ nhận những quả báo khác biệt. Nên nói:

"Lưới nghiệp bủa vây chằng chịt."

Tiếng Hán, chữ "nhục" ( , nghĩa là thịt) gồm có một kẻ bị ăn và một kẻ đang ăn. Kẻ đang ăn th́ ở phía ngoài và vẫn c̣n là người. Kẻ bị ăn th́ đă biến thành loài vật. Kẻ đang ăn và kẻ bị ăn có liên hệ kết oán thù với nhau, không thể hóa giải được; họ cứ giết hại lẫn nhau đời đời kiếp kiếp.

Nếu thực sự muốn giải độc cho thế giới th́ mọi người phải ăn chay, chớ nên ăn thịt.

Người xưa nói: "Người quân tử tự tạo mạng." Những người Đạo đức, chánh nhân quân tử, có thể đổi vận mạng của họ, vượt ra ngoài ṿng số mạng.

Tại sao có sự không tốt lành? Chỉ v́ tâm không tốt lành. Trồng nhân ác th́ đương nhiên phải gặt quả báo xấu ác. Nếu có thể sửa tánh ác, làm việc thiện, th́ điềm lành sẽ đến và điềm ác sẽ xa dần.

Thói xấu khó mà bỏ được; song, nếu bỏ được th́ là người thật có Định-lực.

"Kẻ thấy lỗi của ta là Thầy ta."

Người nói ra lỗi của chúng ta tức là bậc Thiện-tri-thức của chúng ta; v́ thế, chúng ta phải nên cảm ơn, chớ sanh tâm oán thù.

Tâm cung kính có thể biến cải tánh cương cường thành tánh dịu dàng, hiền từ.

Lễ Phật tức là lễ tự tánh Phật--lễ bái vị Phật trong tự tánh của ḿnh. Tương lai thành Phật tức là tự tánh ḿnh thành Phật.

Tại sao chúng ta có nghiệp ma?

V́ trong đời quá khứ không chịu nghe lời dạy bảo, khuyên răn của chư vị Thiện-tri-thức, cứ măi chạy theo vọng tưởng, tạo nên nghiệp ác. Thế nên đời này thường bị nghiệp ma ràng buộc, mọi việc đều không vừa ư, măn nguyện.

VI. Giáo Dục

Hiện tại, người đi học chỉ v́ danh lợi. Cách phát âm hai chữ minh lư ( ) và danh lợi ( ) trong tiếng Trung Hoa gần giống nhau (ming li), nhưng ư nghĩa th́ lại khác nhau đến mười vạn tám ngàn dặm!

Trẻ em như cây non đang lớn--chạc cây mọc ra um tùm, cần phải được cắt tỉa th́ tương lai mới trở thành vật liệu hữu ích được.

Các bạn trẻ! Các bạn có biết căn bản làm người là ǵ không? Đó là tám đức tánh hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ.

Tại sao hiện nay trên thế giới đầy dẫy những tội lỗi do thanh thiếu niên gây ra? V́ những người làm cha mẹ chỉ sanh con chứ không chăm sóc, dạy dỗ.

Tâm tham của chúng ta là cái hố không đáy--cao hơn trời, dày hơn đất, sâu hơn biển cả, măi măi không thể lấp đầy.

Người không Đạo đức mới thật là kẻ nghèo hèn.

Nếu có người cầu Pháp nơi tôi, tôi sẽ bảo người ấy nên ăn ít, mặc ít, ngủ ít một chút; v́:

"Mặc ít th́ tăng phước,
Ăn ít th́ tăng thọ,
Ngủ ít th́ tăng lộc."

Con người sống không phải v́ miếng ăn, mà sống để làm lợi ích cho xă hội, ban phước đức cho nhân dân, hỗ trợ cho thế giới. Người người phải:

Thay Trời đem ḷng từ bi giáo hóa chúng sanh.
Một ḷng trung thành v́ nước, cứu dân.

Đời tôi, không khi nào bận rộn v́ ḿnh, không bao giờ để ư tới bọc thịt thối này.

Tại sao thế giới càng ngày càng băng hoại? V́ ai ai cũng tranh--tranh danh, tranh lợi, tranh quyền, tranh địa vị, và nghiêm trọng nhất là tranh sắc dục.

Tôi muốn xin các vị một món quà lớn nhất--đó là tánh nóng giận, si mê, những phiền năo và ḷng sân hận của các vị.

Thiên tai không phải là thiên nhiên gây tai nạn hay thiên nhiên gặp tai nạn, mà chính là tai họa nhân loại chúng ta phải chịu. Tai họa của con người là do chúng ta tự tạo ra rồi tự chuốc lấy.

Muốn phát triển Phật Giáo, chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Theo ư tôi, muốn phát triển Phật Giáo, trước nhất phải bắt đầu từ nền giáo dục. Nếu bắt đầu với giáo dục th́ trẻ em sẽ hiểu rơ Phật Giáo; đến khi lớn lên th́ tự nhiên các em sẽ làm cho Phật Giáo phát triển rộng răi.

Làm việc ma tức là ma.
Làm việc người tức là người.
Làm việc Phật tức là Phật.

VII. Đạo Phật & Phật Pháp

Tông chỉ của Phật Giáo là mọi người ai cũng có thể thành Phật.

Chúng sanh trong hiện tại là cha mẹ của chúng ta thuở quá khứ, là chư Phật trong tương lai. Nếu đối với chúng sanh mà khởi tâm sân hận tức là sân hận với cha mẹ và chư Phật, trở thành người con ngỗ nghịch, bất hiếu.

Tôi gọi đạo Phật là đạo của chúng sanh, v́ ai ai cũng không chạy ra khỏi hư không, Pháp-giới, ai ai cũng là chúng sanh. Thế nên, đạo Phật là đạo học của tất cả chúng sanh.

Tôi cũng gọi đạo Phật là đạo của con người, v́ tất cả mọi người đều có tư cách thành Phật. Chỉ cần chuyên nhất tu hành th́ cuối cùng chắc chắn ai ai cũng sẽ thành Phật.

Tôi lại gọi đạo Phật là đạo của tâm, v́ mọi người đều có tâm. Tu hành tức là dẹp trừ vọng thâm và lưu giữ chân tâm--có vọng tâm là phàm phu, có chân tâm là Phật.

Dâm dục là nguồn gốc của sanh tử. Nếu không đoạn dâm dục th́ muốn sanh lên trời cũng không được, huống hồ là muốn chứng Đạo Bồ-đề vô thượng? V́ vậy, nếu muốn tu phép Thiền-định Tam-ma-đề, muốn vượt khỏi biển sanh tử khổ đau, th́ trước hết phải vượt qua cửa ải này.

Muốn phát tâm Bồ-đề, nhất định phải nghe và học Phật Pháp cho nhiều. Khi hiểu rơ Phật Pháp rồi th́ tự nhiên sẽ phát tâm Bồ-đề.

Đạo Phật bao trùm khắp hư không, Pháp-giới. Tất cả chúng sanh đều đầy đủ Phật-tánh, đều có thể thành Phật. Hiện tại nếu chư vị chưa tin tưởng Phật Pháp th́ tương lai sẽ tin tưởng. Nếu tương lai chư vị vẫn chưa tin tưởng Phật Pháp th́ kiếp sau sẽ tin tưởng. Không những nhất định chư vị sẽ tin tưởng Phật Pháp mà chắc chắn sẽ thành Phật nữa!

Chú Thủ-lăng-Nghiêm là vua trong các Chú, cũng là bài chú dài nhất. Bài chú này rất quan trọng đối với sự thịnh suy của Phật Giáo. Trên thế giới, nếu c̣n người tŕ tụng Chú Thủ-Lăng-Nghiêm th́ Chánh Pháp sẽ c̣n tồn tại. Nếu không c̣n người nào tŕ tụng Chú Thủ-Lăng-Nghiêm th́ sẽ không c̣ Chánh Pháp.

Chú Thủ-Lăng-Nghiêm là thần chú do hóa thân của Như-Lai từ ánh quang minh trên đảnh Đức Phật tuyên thuyết--thế nên, diệu dụng không thể nghĩ bàn, mỗi chữ đều hàm chứa biết bao diệu dụng thâm sâu.

Thời Mạt Pháp, tất cả thiên ma ngoại đạo, lỵ, mỵ, vọng, lượng, yêu quái núi sông, v.v... sợ nhất là chú Thủ-Lăng-Nghiêm. Chú Thủ-Lăng-Nghiêm là thần chú "phá tà hiển chánh."

Thời Chánh Pháp, người người đều muốn tu hành. Trong thời Mạt Pháp, ai ai cũng đều không tu hành. Nếu mọi người đều tu hành th́ Mạt Pháp biến thành Chánh Pháp.

Phật Pháp là ǵ? Nói vắn tắt, Phật Pháp là ch́a khóa. Hiện tại giảng Kinh, tức là giảng về chiếc ch́a khóa này. Hiện tại thuyết Pháp, tức là thuyết về chiếc ch́a khóa này. Đây là ch́a khóa trí huệ mở tung ống khóa vô minh.

Phật Pháp vẫn c̣n tại thế gian. Nếu chúng ta có thể dơng mănh vượt ra khỏi ḍng thác điên đảo, phát tâm Bồ-đề rộng lớn, chí thành khẩn thiết mà tu tŕ Phật Pháp, th́ vẫn c̣n có cơ hội vượt thoát ra khỏi thế giới Ta-bà. Bằng ngược lại, chúng ta cứ xoay chuyển trong sáu đường không ngưng nghỉ, vĩnh viễn không thể thoát khỏi khổ nạn trong cơi này.

VIII. Trí Huệ

Chí công vô tư là Chánh Pháp.
Ích kỷ, tự lợi là tà pháp.

Làm thế nào để diệt trừ tâm sân hận do vô minh sai khiến? Phải tu pháp môn Nhẫn-nhục Ba-la-mật, tuyệt đối không nên khởi tâm nóng giận. Đây là việc quan trọng nhất. Nếu không khởi tâm nóng giận th́ sẽ phát sinh trí huệ.

Đời Mạt Pháp, người người đều phạm một lỗi lầm chung là quá cao ngạo, lấy tai thay mắt, nghe có ǵ hay th́ liền chạy đuổi theo.

Chúng ta, những người tin Phật, chớ nên mê tín quá đáng, mà cần phải dẹp bỏ mê tín. Mê tín là ǵ? Là tin bậy tin cuồng, tin tưởng ngay những ǵ người khác vừa nói, tin một cách mê muội.

Tại sao chúng sanh lại điên đảo? V́ nhận lầm vô minh là ông chủ nhà, tống khứ trí huệ đi mất. Vô minh đưa ra mệnh lệnh: "Cho việc đúng là sai; cho việc sai là đúng."

Từ trong Thiền-định, gạn lọc tâm tư, trừ bớt tham dục, khiến trí huệ nảy sinh.

Người thường thích khởi tâm nóng giận đa số là người ngu si, vô minh nặng nề, không một chút công phu hàm dưỡng.

Vọng niệm là niệm hư dối, không chân không thật. Người luôn khởi vọng tưởng điên đảo tức là người tuy biết rơ việc đó là không đúng nhưng vẫn cứ cố làm, lại c̣n xảo quyệt biện luận cho là đúng.

Nếu chư vị thường xuyên hồi quang phản chiếu, thấy rơ tự tánh, thường sanh Trí Huệ Bát Nhă, th́ đó là tạo công. Ứng dụng Trí Huệ Bát Nhă mọi nơi mọi chốn, biến hóa không cùng tận, mà không nhiễm trước, không tạo những việc không thanh tịnh, đó là tạo đức.

Thật ra, Trí Huệ Bát Nhă của kẻ ngu si và người đại trí vốn không khác biệt. Có sai khác là kẻ ngu th́ không biết dùng trí huệ, c̣n người trí th́ biết vận dụng nó.

Nếu không chấp trước trong ngoài th́ "đến" và "đi" đều được thong dong tự tại, biết được ḿnh từ đâu đến và sẽ đi về đâu. "Đến" có thể nói là trở về--trở về lại thân tâm của ḿnh. "Đi" tức là đi đến Pháp-giới.

Nếu chư vị chấp trước vào "có đến có đi," th́ sẽ bị chướng ngại, không thể tự do.

Nếu có "trí" th́ chư vị sẽ giống như mặt trời, có "huệ" th́ chư vị sẽ tựa như vầng trăng.

Hy vọng được khai ngộ hoặc hy vọng được thành Phật đều là những vọng tưởng. Mọi người phải ghi nhớ: Chỉ cầu tu hành, không cầu hy vọng hăo huyền.

Nếu Bồ-tát có thần thông mà không thị hiện, th́ có thần thông để làm ǵ?

Bồ-tát dùng thần thông để giáo hóa chúng sanh, như dựng cây để thấy h́nh, khiến chúng sanh tăng ḷng tín ngưỡng. Như thế, được lợi ích hai chiều. Đó là pháp môn thiện xảo phương tiện.

Chư vị hăy chú ư! Ma cũng hiện thần thông, khiến những người tham cầu thần thông và không có Định-lực sa vào cạm bẫy, mất đi Đạo-nghiệp, trở thành quyến thuộc của ma. Về điểm này, mọi người đều phải đặc biệt chú ư, không thể không cẩn thận!

Người nào muốn có thần thông th́ trước hết phải xả bỏ muôn sự, chuyên tâm tham Thiền tịnh tọa. Đến khi công phu chín muồi th́ tự nhiên có thần thông. Thần thông không phải là thứ có thể t́m cầu ở bên ngoài, mà chỉ có được khi nội tâm ḿnh chứng đắc.

"Nh́n xuyên suốt, xả bỏ, tự tại." Nh́n xuyên suốt tức là hiểu vấn đề một cách rơ ràng. Xả bỏ tức là giải thoát. Chỉ khi đạt được giải thoát rồi th́ mới có được sự tự tại chân chánh.

Học Phật Pháp th́ cần phải dùng trí huệ chứ không thể dùng t́nh cảm. Dùng trí huệ để học Phật Pháp th́ đó là Chánh Pháp. Dùng t́nh cảm mà học Phật Pháp th́ đó là Mạt Pháp.

Nhiều người nghĩ rằng đời người là vui sướng. Kỳ thật, những sự vui sướng ấy đều là giả dối. Sự vui sướng chân chánh phải được t́m thấy từ trong tự tánh, chứ không phải đến từ bên ngoài.

Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 2 of 11: Đă gửi: 05 May 2005 lúc 5:38am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Phản Bổn Hoàn Nguyên

H.T. Tuyên Hóa

Thân Phật không phải do ngũ uẩn tích tụ mà thành, cũng không phải từ mười hai xứ hay mười tám giới đem lại. Phật đă không có một cái h́nh tướng, v́ sao chúng sanh có thể thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật? Đó là tùy thuộc tâm phân biệt của chúng sanh mà thị hiện. Bởi chúng sanh có tâm phân biệt tốt hoặc không tốt, Phật muốn chúng sanh muốn phát tâm Bồ Đề, nên thị hiện loại loại thân thể không giống nhau, làm cho tâm hoan hỷ tăng lên, ḷng tín ngưỡng tăng lên. Đó là pháp môn phương tiện rất khéo.

Người thanh niên suy tưởng t́m người con gái đẹp để làm hiền nội, người con gái nghĩ t́m một chàng trai anh tuấn để làm phu quân. Điều đó chứng minh người người đều thích đẹp, không ai thích xấu. Người ta đều đồng tâm, đồng lư như vậy, ai ai cũng muốn có vợ đẹp, chồng quắc thước. Đó là thường t́nh của con người, cũng là việc thiên kinh địa nghĩa.

Có người hỏi: "Pháp sư giảng kinh, v́ sao giảng đến điều nầy?" Quí vị nói không nên giảng cái ǵ? Người xưa nói: "Đạo của người quân tử, khởi đầu ở chồng vợ." Trên thế giới nầy chỉ có hai người nam nữ. Đôi nam nữ nầy không phải Adam và Eva, cũng không phải đức Chúa Trời dùng đất bùn nặn ra nam nữ để đến thế giới nầy. Nói tóm lại, cái thế giới nầy do tổ chức vợ chồng tạo ra.

Có chồng vợ, sau đó có cha con, anh em, có anh có tôi. Nam nữ vốn là âm dương. Cho nên nói: "Một âm một dương gọi là đạo, rời khỏi âm dương đạo chẳng thành." Lại nói: "Một ḿnh âm không sanh, một ḿnh dương không lớn." Đó là đạo lư tự nhiên.

Chúng ta tu đạo cần phản bổn hoàn nguyên. Người nam tu đạo, phải do như chữ Ly trong bát quái, nghĩa là ba vạch ngang, nhưng vạch giữa trống, phản hồi đến chữ Càn, ba vạch kín liền. Người nữ tu đạo, phải do chữ Khảm, ba vạch thời chỉ vạch giữa liền c̣n vạch trên vạch dưới đứt làm hai, trở về chữ Khôn, ba vạch đều đứt đôi thành sáu khúc. Càn đại biểu cho nam, Khôn đại biểu cho nữ. Người nam cần trở về đồng chơn(đồng nam), người nữ phải quay về đồng nữ. Người nam cần giống như Thiện Tài Đồng Tử, người nữ cần phải giống như Long Nữ. Họ đều là đồng nam, đồng nữ, đă trải qua phản bổn hoàn nguyên. Chúng ta tu đạo cũng giống như thế, bảo tŕ vóc dáng nhi đồng, như vậy mới dễ dàng chứng đắc pháp thân thanh tịnh.

Nhân v́ chúng sanh có tâm phân biệt, có thiện ác, có đẹp xấu, có phải trái, có mọi vấn đề như đen trắng, cho nên Phật theo tâm của chúng sanh, thể hiện ra mọi thứ thân thể, khiến chúng sanh thấy được thân Phật. Cho nên nói: "Ngàn sông có nước, ngàn sông có mặt trăng, muôn dặm không mây là muôn dặm trời." Phật là tùy duyên hóa thân. Tâm chúng sanh như nước yên lặng, Phật bèn hiện ở trong. V́ sao chúng ta không thấy được thân Phật? Bởi chúng ta có tư dục quá nặng, vô minh quá nặng, cho nên trí huệ không hiện ra. Tâm như nước đục, có Phật cũng chẳng hiện ra được.

Vô minh tức là đen tối, trí huệ là ánh sáng. Có vô minh ắt có phiền năo, có phiền năo sẽ ngu si, có ngu si mới đen tối, có đen tối là không có ánh sáng, không có ánh sáng là không có trí huệ, không có trí huệ sẽ không thấy được Phật. Đó là một chuổi liên đới quan hệ. Muốn thấy Phật thân, phải siêng tu giới, định, huệ, tức diệt tham sân si. Như thế tự nhiên Phận thân hiện ra trước mắt, hiện ra thuyết pháp cho hành giả.    

Giảng ngày 8 tháng 11 năm 1980
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 3 of 11: Đă gửi: 05 May 2005 lúc 5:39am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Lời Cảnh Tỉnh

Sư Cô Chứng Nghiêm

Sư Cô Chứng Nghiêm (Master Cheng Yen) quê quán ở tỉnh Đài Trung, Đài Loan. Năm 23 tuổi cô xuất gia, sống đời thanh đạm tu hành. Vào thời ấy v́ hoàn cảnh khó khăn, cô đă phải làm nhang, đèn cầy, đậu hủ, bán để giúp chùa và duy tŕ sinh hoạt cá nhân. Thấy sự khổ sở của đồng bào, cô đă phát đại nguyện hành đạo bồ tát để cứu tế chúng sinh. Với đại nguyện và tinh thần v́ người quên ḿnh, nhiều nhân duyên bất khả tư ngh́ đă cảm ứng, để đến năm 1966, cô thành lập Từ Tế Công Đức Hội (Buddhist Compassion Relief Tzu Chi Foundation). Thế rồi trăi qua hơn ba mươi năm cần khổ phục vụ, hội đă giúp không biết bao nhiêu người nghèo khổ bịnh tật và v́ vậy hội đă trở thành một trong những tổ chức từ thiện cung ứng nhu cầu về y tế, phục vụ, giáo dục, văn hóa tích cực nhất ở Đài Loan. Hiện tại Buddhist Compassion Relief Tzu Chi Foundation đă có chi nhánh tại Nam Phi, Á Căn Đ́nh, Bỉ, Hoa Kỳ cũng như Nhật Bản, Thái Lan... Sư Cô được trao tặng Ramon Magsaysay Award năm 1991 và cũng đă được đề nghị lảnh giải thưởng Nobel Ḥa B́nh năm 1993. Những lời khuyên sau đây là lời cô bản thân kinh nghiệm, nói lại cho chúng ta để đối diện với hoàn cảnh thực tế mỗi ngày.

(tiếp theo)

12. Sức Mạnh Của Một Hạt Giống

Thành công, nguyện lực và sự tŕ chí

Sống ở đời th́ hệt như đi trên sợi dây căng giữa trời. Bạn phải chuyên tâm, một ḷng hướng về phía trước mà bước. Không nên cứ quay đầu, áo năo chuyện đâu đâu.   

Đoạn đường đời thật chẳng dài lắm. Nhưng chắc chắn chẳng dễ đi. Bởi vậy, ḿnh phải cẩn thận từng bước, đừng nên rối loạn lầm lẫn rồi đi trật phương hướng.   

Trẻ tuổi cường tráng th́ huyết khí sung măn vô cùng. Nếu quá xung động th́ chẳng sao tránh khỏi sức ṃn lực kiệt. Do đó đi một chặp lại phải nghỉ mệt, khốn đốn lao nhọc hết sức mà mục tiêu th́ vẫn c̣n xa lắc.   

Thành công th́ dựa vào 1) sức mạnh của ḷng kiên nhẫn; 2) nó cũng là kết quả của sự phấn đấu lâu dài trăi qua biết bao sự tích lũy, hàm dưỡng và hun đúc. Thành công không phải dựa vào một tí sức lực huyết khí, hay xung lực nhất thời.   

Người khéo dùng sức lực th́ chẳng gấp, chẳng chậm. Người khéo giữ lư tưởng th́ chẳng hung mănh, cũng chẳng yếu hèn. Nhất chí tiến về trước, kiên định không thay ḷng đổi dạ, th́ kết cuộc bạn ắt đạt tới mục tiêu.   

Nói về kẻ có tài hoa đầy ḿnh: một mặt, khi làm ǵ y rất dễ dàng đạt tới mục đích, rất mau chóng thành đạt vật dục ở trần thế. Mặt khác, bởi v́ ḷng truy cầu vô bờ bến, nên y vĩnh viễn khó t́m được sự thỏa măn nội tại. Tài hoa bấy giờ biến thành gốc rễ của khổ đau.   

Mạng: không phải tiền định (định đoạt sẵn như trong tử vi, tướng số). Chẳng ai có thể lư giải, thấu triệt được mạng. Nhưng chắc chắn: mạng có thể do tâm nguyện của mỗi người quyết định.   

Chuyện ǵ cũng bắt đầu từ ḷng quyết tâm: từ một hạt giống nhỏ bắt đầu.   

Nghèo: nhưng đừng nghèo chí hướng làm người (tức là làm người tốt, đạo đức). Giàu: phải càng giàu chí hướng làm người.   

Làm người: hăy có chí hướng, tâm nguyện và niềm vui (thú vị nơi việc ḿnh làm). Sống trên đời mà chẳng có chí hướng th́ cũng như kẻ lấy bút vẽ h́nh, chẳng biết vẽ ǵ: bên này một quẹt, bên kia một nét, rốt cuộc chẳng thành ra h́nh dạng ǵ cả.   

Không nên xem thường chính ḿnh: bởi v́ mỗi người đều có vô hạn khả năng.   

Không nên xem thường sức lực của ḿnh. Trên đời chẳng có chuyện ǵ gọi là chẳng thể làm được, mà cũng chẳng có ai là kẻ không có năng lực. Nếu có th́ cũng chỉ là kẻ chẳng chịu làm mà thôi. Bạn như là một giọt nước nhỏ vào lu: trong khi cả lu nước là mọi người. Khi giọt nước vào lu, nó kết hợp với nước trong lu làm thành một thể: lúc ấy không thể phân biệt được giọt nước ấy (bạn) với những giọt khác nữa.   

Bánh vẽ th́ không làm bụng no. Bọt nổi trên nước th́ không sao kết thành ṿng đeo.   

Đường nào hẳn cũng có người đă đi qua. Đi con đường ngàn dặm xa xăm ắt phải bắt đầu từ bước thứ nhất. Cảnh giới của thánh nhân cũng phải bắt đầu từ phàm phu.   

Muốn giở lên th́ phải hoàn toàn giở lên (ư nói làm việc ǵ cũng nên dốc hết ḷng làm). Muốn vất xuống th́ phải hết ḷng vất xuống (ư nói chuyện ǵ phải buông xả th́ phải thật sự xả bỏ, không dằng co níu kéo).   

Nhân cách của Bồ tát th́ cần chúng ta (kẻ phàm) hoàn thành nó.   

Tâm của Phật th́ chẳng có xa gần. Nguyện vọng của chúng sinh cũng chẳng có lớn bé. Chỉ cần tâm thành, ư chính th́ ta có thể thành đạt mọi nguyện vọng.   

Ḿnh phải làm đồng bạn của đức Phật, học làm vị đại nông phu. Nghĩa là canh tác làm ruộng phước cho chúng sinh khắp thiên hạ, biến miếng đất hoang dại thành thửa ruộng đại phước.   

Sự nghiệp tế độ lợi ích chúng sinh cần dựa vào ba sức mạnh: một là tự lực, hai là Phật lực, ba là chúng duyên b́nh đẳng lực.   

Tự lực: tức là nhân duyên phước huệ của ḿnh. Muốn có phước th́ phải gieo nhân, làm chuyện phước đức. Hạt giống này ḿnh phải tự gieo.   

Phật lực: sau khi có tự lực, ḿnh cần dựa vào sự gia tŕ của Phật lực. Ngưỡng xin chư Phật dùng ánh từ quang chiếu diệu, nguyện sao cho tâm ḿnh và tâm Phật dung hợp làm một.   

Chúng duyên b́nh đẳng lực: Phật với chúng sinh b́nh đẳng. Do đó ḿnh phải cung kính cúng dường tất cả chúng sinh với tâm b́nh đẳng, giống hệt như cung kính cúng dường chư Phật vậy.   

Nhiệt tâm th́ dễ phát khởi. Hằng tâm (tâm kiên tŕ không đổi) mới khó giữ ǵn. Nói suông không làm th́ chẳng sao thể nghiệm được chân lư. Phải thật sự bước đi trên đường đạo. Nếu giữ được sự hành tŕ giống như khi mới bắt đầu tu, họa may bạn có thể chứng ngộ thành Phật. (Tâm lúc mới phát, mới tu th́ luôn dũng mănh tinh tấn, hứng thú, ưa thích. Giữ vững thái độ này hoài, gọi là có hằng tâm).   

Kiên tâm tŕ chí thức dậy thật sớm để tu hành là một cách huấn luyện công phu tinh tấn, không lười biếng rồi đó.
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 4 of 11: Đă gửi: 05 May 2005 lúc 5:41am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh

Hán dịch: Đường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Đạt Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Ḥa Thượng Tuyên Hóa.

Tựa của Kinh là "Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni Kinh." Trong phần giải thích tựa kinh (Tổng thích danh đề), lần trước đă giải thích "Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm" nay giải thích phần c̣n lại của tựa kinh, tức là "Bồ Tát Vô Ngại Đại Tâm Đà La Ni Kinh."
Bồ Đề Hải

KINH VĂN:

Âm: "Nhược Hữu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Đồng Nam, Đồng Nữ, Dục Tụng Tŕ Giả, Ư Chư Chúng Sanh Khởi Từ Bi Tâm, Tiên Đương Tùng Ngă Phát Như Thị Nguyên: ...

Nghĩa: "Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn tŕ tụng, th́ nên phát khởi ḷng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy ..."

LƯỢC GIẢNG:

"Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn tŕ tụng ..." Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Giả sử có các Thầy hoặc các Sư cô, đă xuất gia, người nam hoặc người nữ c̣n tại gia, và đồng nam hoặc đồng nữ nào phát tâm muốn tŕ tụng Chú Đại Bi, th́ nên phát khởi ḷng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy ..."   Trước hết, vị phát tâm ấy cần phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười lời thệ nguyện như sau ...

KINH VĂN:

Âm:   

1) "Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tốc Tri Nhất Thiết Pháp;

2) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tảo Đắc Trí Huệ Nhăn;

3) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tốc Độ Nhất Thiết Chúng;

4) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tảo Đắc Thiện Phương Tiện;

5) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tốc Thừa Bát-Nhă Thuyền;

6) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tảo Đắc Việt Khổ Hải;

7) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tốc Đắc Giới Định Đạo;

8) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tảo Đăng Niết-Bàn Sơn;

9) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tốc Hội Vô-Vi Xả;

10) Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, Nguyện Ngă Tảo Đồng Pháp Tánh Thân.

Ngă Nhược Hướng Đao Sơn, Đao Sơn Tự Tồi Chiết;

Ngă Nhược Hướng Hỏa Thang, Hỏa Thang Tự Khô Kiệt;

Ngă Nhược Hướng Địa Ngục, Địa Ngục Tự Tiêu Diệt;

Ngă Nhược Hướng Ngă Quỷ, Ngă Quỷ Tự Băo Măn;

Ngă Nhược Hướng Tu-La, Ác Tâm Tự Điều Phục;

Ngă Nhược Hướng Súc Sanh, Tự Đắc Đại Trí Huệ."

Nghĩa:

1) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp;

2) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhăn;

3) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh;

4) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện;

5) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhă;

6) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ;

7) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng đắc Giới Định Đạo;

8) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn;

9) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi;

10) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh.

Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ;

Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn;

Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt;

Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ;

Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục;

Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ."

LƯỢC GIẢNG:

Mười lời nguyện đó là:

1) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp."

"Nam mô" nghĩa là ǵ? "Nam mô" là tiếng Phạn, và có nghĩa là "quy mạng." Do đó, "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" có nghĩa là giao phó tất cả thân tâm, tính mạng của ḿnh cho Quán Thế Âm Bồ-tát.

"Nam mô" lại cũng có nghĩa là "kính đầu," tức là cung kính quy y, cung kính quay về nương tựa. Như vậy, "nam mô Phật" tức là cung kính quay về nương tựa Phật; "nam mô Pháp" là cung kính quay về nương tựa Pháp; "nam mô Tăng" là cung kính quay về nương tựa Tăng; và "nam mô Đại Bi Quán Thế Âm" là cung kính quay về nương tựa Đức Quán Thế Âm Bồ-tát đại từ đại bi.

Sau khi đă quay về nương tựa Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát rồi th́ sao nữa? Th́ hăy phát nguyện rằng: "Con nguyện chóng biết tất cả pháp. Cầu xin Quán Thế Âm Bồ-tát gia bị, phù hộ cho con được hiểu rơ Phật Pháp một cách nhanh chóng." Ở đây, "biết" (tri) tức là hiểu rơ, hiểu thấu đáo.

2) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhăn." Ở thế gian chúng ta, những người hiện đời có được Ngũ Nhăn, Lục Thông đều là nhờ thuở trước họ đă từng tŕ tụng Chú Đại Bi và quy y với Quán Thế Âm Bồ-tát, nên Trí Huệ Nhăn khai mở và họ có được "con mắt trí huệ."

3) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh." Chúng ta cần "mau biết tất cả pháp, sớm được Trí Huệ Nhăn" để làm ǵ? Chính là để "chóng độ các chúng sanh."

4) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện." Muốn độ tất cả chúng sanh th́ chúng ta cần phải biết mọi pháp môn phương tiện ngơ hầu có thể tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thuyết giảng thứ giáo pháp thích hợp, "tùy bệnh cho thuốc." Do đó, sớm chứng đắc các pháp môn thiện xảo phương tiện là điều rất thiết yếu.

5) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhă. Con lại quay về nương tựa Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ chóng được ngồi thuyền trí huệ Bát-nhă."

6) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ. Sau khi được lên ngồi trên thuyền trí huệ Bát-nhă rồi, con nguyện sẽ dùng con thuyền này để nhanh chóng vượt thoát biển khổ sanh tử."

7) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng được Giới Định Đạo. Con cung kính quy y Đức Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi, và nguyện sẽ sớm thông đạt được đạo Giới, Định, Huệ."

8) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn. Sau khi đắc được Giới Định Đạo, con nguyện sẽ mau chóng lên được cơi Niết-bàn."

9) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi." "Nhà Vô-vi" tức là Vô-vi pháp; do đó, "chóng về nhà Vô-vi" có nghĩa là sớm chứng đắc pháp môn Vô-vi vậy.

10) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh. Con xin cung kính quay về nương tựa Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ sớm chứng đắc tự thân của Pháp tánh."

"Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ. Khi niệm Chú Đại Bi, nếu con quay về hướng núi đao mà niệm, th́ núi đao sẽ tự nhiên tan ră, đổ sụp xuống."

"Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn. Nếu con hướng về địa ngục nước sôi mà niệm Chú Đại Bi, th́ lửa sẽ lụn tắt và nước cũng cạn khô."

"Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt. Nếu con hướng về địa ngục mà niệm Chú Đại Bi, th́ địa ngục sẽ biến thành thiên đường -- không c̣n có địa ngục nữa."

"Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ. Nếu con hướng về loài ngạ quỷ mà niệm Chú Đại Bi, th́ hết thảy ngạ quỷ đều được no đủ, không c̣n bị cái khổ đói khát hành hạ nữa."

"Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục. Nếu con hướng về những chúng sanh Tu-la hung ác nhất mà niệm Chú Đại Bi, th́ tâm địa độc ác của loài Tu-la sẽ tự nhiên được điều phục và tất cả đều phát tâm muốn quy y, hướng thiện."

"Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ. Nếu con hướng về những súc sanh ngu muội mà niệm Chú Đại Bi, th́ chúng sẽ có được trí huệ rộng lớn."

KINH VĂN:

Âm: "Phát Thị Nguyện Dĩ, Chí Tâm Xưng Niệm Ngă Chi Danh Tự, Diệc Ưng Chuyên Niệm Ngă Bổn Sư A-Di-Đà Như Lai; Nhiên Hậu Tức Đương Tụng Thử Đà-La-Ni Thần Chú. Nhất Túc Tụng Măn Ngũ Biến, Trừ Diệt Thân Trung Bách Thiên Vạn Ức Kiếp Sanh Tử Trọng Tội. "

Nghĩa: "Phát những nguyện này xong, hăy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con và cũng phải chuyên niệm danh hiệu Đức Bổn Sư của con là Đức A-Di-Đà Như Lai; sau đó phải luôn tŕ tụng Thần Chú Đà-La-Ni này. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến th́ có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử."

LƯỢC GIẢNG:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Đức Phật: "Sau khi các chúng sanh phát tâm thọ tŕ Chú Đại Bi đă phát những nguyện này xong, hăy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con -- Quán Thế Âm Bồ-tát."

Quư vị muốn thọ tŕ Chú Đại Bi, th́ trước tiên, mỗi người phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười thệ nguyện như trên; rồi kế đến là phải chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, tức là Quán Thế Âm Bồ-tát. "Chí tâm" tức là thành tâm thành ư, một ḷng một dạ.

"Và cũng phải chuyên niệm Đức Bổn Sư của con. Các chúng sanh đó nếu chỉ niệm danh hiệu của con thôi th́ vẫn c̣n chưa đủ, họ cần phải chuyên tâm tŕ niệm cả danh hiệu của Bổn Sư của con nữa; Bổn Sư của con là ai ư? Chính là Đức A-Di-Đà Như Lai." Bởi "uống nước nhớ nguồn," cho nên chúng ta cần phải biết nghĩ đến Đức Phật A-Di-Đà, vốn là Thầy của Quán Thế Âm Bồ-tát tự thuở ban sơ. Do đó, chúng ta cũng cần phải niệm"Nam mô A-Di-Đà Phật" nữa, chứ không phải chỉ niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" mà thôi.

"Sau đó, phải luôn tŕ tụng Thần Chú Đà-La-Ni này. Trước hết, các chúng sanh đó phải niệm danh hiệu của con -- 'Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát'; rồi tiếp đến là niệm danh hiệu Đức Bổn Sư của con -- 'Nam mô A Di Đà Phật'; và sau đó mới bắt đầu tụng Thần Chú Đà-La-Ni. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến th́ có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử."

Mỗi tối, nếu quư vị có thể chuyên cần tŕ tụng Chú Đại Bi đủ năm biến, đều đặn như thế, th́ có thể khiến cho bao nhiêu nghiệp chướng mà bản thân quư vị trót gây tạo đều được tiêu trừ. "Trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử" tức là những tội lỗi thâm trọng mà chúng ta đă tạo tác trong quá tŕnh luân hồi luẩn quẩn, sanh rồi chết, chết rồi lại tái sanh, lập đi lập lại măi trong suốt cả hằng trăm ngàn vạn ức kiếp.

KINH VĂN:

Âm: Quán Thế Âm Bồ Tát Phục Bạch Phật Ngôn: "Thế Tôn! Nhược Chư Nhân Thiên Tụng Tŕ Đại Bi Chương Cú Giả, Lâm Mạng Chung Thời, Thập Phương Chư Phật Giai Lai Thọ Thủ; Dục Sanh Hà Đẳng Phật Độ, Tùy Nguyện Giai Đắc Văng Sanh."

Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, th́ lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn; và muốn sanh về cơi Phật nào cũng đều được tùy nguyện văng sanh."

LƯỢC GIẢNG:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, th́ lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn."   Giả sử các chúng sanh trong cơi người và cơi trời tụng tŕ Chú Đại Bi này th́ đến lúc hấp hối, họ sẽ được chư Phật từ khắp mười phương hiện đến và đưa tay tiếp dẫn, đích thân nắm tay họ mà dắt về cơi nước của các ngài.

"Và muốn sanh về cơi Phật nào cũng đều được tùy nguyện văng sanh." Lại nữa, các chúng sanh này muốn sanh về cơi Phật nào th́ đều được văng sanh về cơi Phật đó, đúng như ước nguyện của họ.

KINH VĂN:

Âm: Phục Bạch Phật Ngôn: "Thế Tôn! Nhược Chư Chúng Sanh Tụng Tŕ Đại Bi Thần Chú, Đọc Tam Ác Đạo Giả, Ngă Thệ Bất Thành Chánh Giác.

Tụng Tŕ Đại Bi Thần Chú Giả, Nhược Bất Sanh Chư Phật Quốc Giả, Ngă Thệ Bất Thành Chánh Giác.

Tụng Tŕ Đại Bi Thần Chú Giả, Nhược Bất Đắc Vô lượng Tam-Muội Biện Tài Giả, Ngă Thệ Bất Thành Chánh Giác."

Nghĩa: Lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà c̣n bị đọa vào ba ác đạo, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.

Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cơi nước của chư Phật, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.

Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác."

LƯỢC GIẢNG:

Đức Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà c̣n bị đọa vào ba ác đạo -- địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh -- th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Như vậy, nếu tất cả những chúng sanh tụng tŕ Chú Đại Bi đều không c̣n bị đọa vào ba đường ác, th́ Quán Thế Âm Bồ-tát mới thành Phật!

"Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cơi nước của chư Phật, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người tŕ niệm Thần Chú Đại Bi và phát nguyện muốn được sanh về quốc độ của đức Phật nào đó, nếu người ấy không được toại nguyện th́ Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ không thành Phật!

"Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người tŕ niệm Thần Chú Đại Bi mà lại chẳng chứng được vô lượng Tam-muội cùng đại biện tài -- không có được khả năng biện luận và giảng kinh thuyết pháp, cũng chẳng được khai mở đại trí huệ -- th́ Quán Thế Âm Bồ-tát cũng sẽ không thành Phật.

KINH VĂN:

Âm: "Tụng Tŕ Đại Bi Thần Chú Giả, Ư Hiện Tại Sanh Trung, Nhất Thiết Sở Cầu Nhược Bất Quả Toại Giả, Bất Đắc Vi Đại Bi Tâm Đà-La-Ni Dă; Duy Trừ Bất Thiện, Trừ Bất Chí Thành."

Nghĩa: "Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ư, th́ không gọi là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni; chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành."

LƯỢC GIẢNG:

Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Đức Phật rằng: "Những người tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ư, không được măn nguyện, th́ Thần Chú này không gọi là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni!" Tuy Nhiên, có một điều chúng ta cần phải lưu ư trước, đó là các trường hợp ngoại lệ -- "chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành."

"Chỉ trừ bất thiện." Nếu quư vị một mặt th́ tụng Chú Đại Bi, mặt khác lại đi giết người, cướp của, hoặc tà dâm, vọng ngữ, rượu thịt say sưa..., chẳng từ một việc xấu nào cả, th́ hẳn nhiên là Thần Chú sẽ không hiển linh, không công hiệu. "Bất thiện" là bao gồm hết thảy mọi hành vi bất chánh, tà vạy như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ...

"Trừ chẳng chí thành." Nếu quư vị tụng niệm qua loa cho có lệ, nói là muốn thử xem Chú Đại Bi có thật sự linh nghiệm hay không, như thế có nghĩa là quư vị không có ḷng thành. Quư vị không có ư muốn thử, th́ Chú sẽ linh ứng; song nếu quư vị muốn thử, th́ Chú sẽ chẳng hiển linh! V́ sao ư? V́ Phật và Bồ-tát không phải là đối tượng để cho quư vị tùy tiện thử thách, thí nghiệm -- các ngài không cần quư vị đến thử nghiệm! Chư Phật và chư Bồ-tát có thể thử nghiệm chúng sanh, song chúng sanh không được phép thử nghiệm các ngài. Do đó, nếu quư vị rắp tâm muốn thử xem sự việc sẽ như thế nào, tức là quư vị không có ḷng chí thành; mà không có ḷng thành khẩn thiết tha th́ chẳng thể nào có sự cảm ứng linh nghiệm được!

KINH VĂN:

Âm: "Nhược Chư Nữ Nhân Yếm Tiện Nữ Thân, Dục Thành Nam Tử Thân, Tụng Tŕ Đại Bi Đà-La-Ni Chương Cú, Nhược Bất Chuyển Nữ Thân Thành Nam Tử Thân Giả, Tất Bất Quả Toại Dă."

Nghĩa: "Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn thành thân nam, tụng tŕ Thần Chú Đại Bi Đà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, th́ con thề sẽ không thành Chánh Giác; người nào c̣n sanh chút ḷng nghi tất không được toại nguyện."

LƯỢC GIẢNG:

"Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, không muốn phải sanh làm người nữ nữa, muốn thành thân nam, tụng tŕ Thần Chú Đại Bi Đà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, th́ con thề sẽ không thành Chánh Giác." Sự "chuyển thân nữ thành thân nam" này không phải là sẽ xảy ra ngay trong đời hiện tại, mà là ứng vào đời sau trong thời vị lai.

Vậy, giả sử những người nữ ao ước được làm người nam đó siêng năng tŕ niệm Chú Đại Bi, mà đến đời sau họ lại không được sanh làm thân nam, th́ Quán Thế Âm Bồ-tát quyết sẽ không thành Phật.

"Người nào c̣n sanh chút ḷng nghi tất không được toại nguyện." Tuy Nhiên, nếu trong ḷng quư vị có dấy lên dù chỉ một mảy may hoài nghi th́ sự mầu nhiệm sẽ chẳng bao giờ xảy ra, và do đó, tâm nguyện của quư vị sẽ không được thành tựu.

KINH VĂN:

Âm: "Nhược Chư Chúng Sanh Xâm Tổn Thường Trụ Ẩm Thực Tài Vật, Thiên Phật Xuất Thế Bất Thông Sám Hối, Túng Sám Diệc Bất Trừ Diệt, Kim Tụng Đại Bi Thần Chú, Tức Đắc Trừ Diệt."

Nghĩa: "Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ dẫu một ngàn đức Phật ra đời cũng chẳng được sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được; nay tụng Thần Chú Đại Bi th́ tức khắc được tiêu trừ."

LƯỢC GIẢNG:

"Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ." Thường Trụ tức là nhà chùa.

Những kẻ đến chùa ăn uống, tiêu thụ vật thực của chùa mà không cúng dường tiền lại, hoặc mượn đồ dùng của chùa rồi không chịu trả, lạm dụng tài vật của chùa... th́ sẽ mang tội rất nặng. Tội ấy, "th́ dẫu một ngàn đức Phật ra đời, cũng chẳng được sám hối. Chư Phật không thể hứa khả cho họ sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được."

Cái tội xâm chiếm hoặc làm hao tổn thực phẩm và tài vật của chùa chiền rất nghiêm trọng, cho dù các chúng sanh đó có đối trước chư Phật mà khẩn cầu sám hối th́ tội lỗi cũng chẳng thể tiêu tan. Thế nhưng, "nay tụng Thần Chú Đại Bi, th́ tức khắc được tiêu trừ." Nếu ngay bây giờ họ tŕ tụng Chú Đại Bi, th́ bao nhiêu tội chướng sẽ lập tức tiêu tan!

KINH VĂN:

Âm: "Nhược Xâm Tổn Thực Dụng Thường Trụ Ẩm Thực Tài Vật, Yếu Đối Thập Phương Sư Sám Tạ, Nhiên Thủy Trừ Diệt; Kim Tụng Đại Bi Đà-La-Ni Thời, Thập Phương Sư Tức Lai Vi Tác Chứng Minh, Nhất Thiết Tội Chướng, Tất Giai Tiêu Diệt."

Nghĩa: "Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ; nay tụng Đại Bi Đà-La-Ni th́ mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan."

LƯỢC GIẢNG:

"Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ." Những kẻ dám chiếm đoạt hoặc gây tổn thất hư hại cho tài sản, đồ ăn thức uống của nhà chùa, th́ phải đối trước chư Đại Sư ở khắp mười phương -- cũng chính là mười phương chư Phật -- để sám hối tạ tội th́ may ra nghiệp tội tày trời của họ mới có thể được tiêu tan.

Tuy nhiên, những kẻ đó nếu "nay tụng Đại Bi Đà-La-Ni th́ mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan." Chỉ cần ngay bây giờ những kẻ ấy bắt đầu thành khẩn tụng tŕ Chú Đại Bi, th́ mười phương chư Phật sẽ đến để chứng giám cho họ, và mọi tội lỗi nghiệp chướng của họ liền được tiêu tan.

KINH VĂN:

Âm: "Nhất Thiết Thập Ác, Ngũ Nghịch, Báng Nhân Pháp, Phá Trai Phá Giới, Phá Tháp Hoại Tự, Thâu Tăng Kỳ Vật, Ô Tịnh Phạm Hạnh; Như Thị Đẳng Nhất Thiết Ác Nghiệp Trọng Tội, Tất Giai Diệt Tận."

Nghĩa: "Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng nhân báng Pháp, phá trai phá Giới, phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh; bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch."

LƯỢC GIẢNG:

"Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch ..."

Thập Ác tức là mười việc ác: 1) Sát sanh; 2) Trộm cắp ; 3) Tà dâm; 4) Tham lam; 5) Sân hận; 6) Si mê; 7) Nói lời thêu dệt; 8) Nói lời gian dối; 9) Nói lời hung ác; 10) Nói lời đâm thọc (nói lưỡi đôi chiều).

Ngũ Nghịch là năm tội nghịch tày trời: 1) Giết cha; 2) Giết mẹ; 3) Giết bậc A-La-Hán; 4) Phá sự ḥa hợp của Tăng chúng; 5) Làm cho thân Phật chảy máu.

"Báng nhân, báng Pháp." "Báng nhân" tức là hủy báng, chê bai, bôi nhọ người khác. Thí dụ, người ta vốn là một vị tu hành, có đạo đức, mà ḿnh lại buông lời miệt thị: "Ui chao! Hắn là một kẻ chẳng ra ǵ, đừng nhắc tới nữa!"; như thế là hủy báng tha nhân vậy.

"Báng Pháp" tức là hủy báng Phật Pháp, hủy báng chư Tăng Ni, khinh chê lời Phật dạy.

"Phá trai, phá Giới." Nếu quư vị đă nguyện là chỉ ăn chay, song lại không giữ lời, tùy tiện ăn thịt; như thế tức là quư vị "phá trai" vậy. Nếu quư vị thọ Giới mà lại không giữ Giới, cứ làm những điều trái với Giới Luật, th́ đó gọi là "phá Giới."

"Phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh." "Phá chùa hủy tháp" tức là phá hoại, triệt hạ chùa chiền và tháp miếu thờ Phật; "trộm của Tăng-kỳ" là lấy cắp đồ đạc của người xuất gia; "làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh" là khiến cho người đang tu hạnh thanh tịnh bị ô uế, không giữ được hạnh trong sạch nữa.

Những tội lỗi kể trên đều rất nghiêm trọng, tuy thế, nếu quư vị đă trót phạm mà nay lại có thể thành tâm tŕ tụng Chú Đại Bi th́ "bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch."

KINH VĂN:

Âm: "Duy Trừ Nhất Sự, Ư Chú Sanh Nghi Giả, Năi Chí Tiểu Tội Khinh Nghiệp, Diệc Bất Đắc Diệt, Hà Huống Trọng Tội? Tuy Bất Tức Diệt Trọng Tội, Do Năng Viễn Tác Bồ Đề Chi Nhân."

Nghĩa: "Chỉ trừ một việc, nếu đối với Thần Chú c̣n sanh ḷng nghi th́ ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ, huống hồ tội nặng? Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân xa của Bồ-đề."

LƯỢC GIẢNG:

Tuy nhiên, "chỉ trừ một việc." Câu này vô cùng quan trọng; vậy th́ ngoại trừ trường hợp nào? Đó là trường hợp "nếu đối với Thần Chú c̣n sanh ḷng nghi."

Nếu quư vị cứ phân vân: "Không biết Chú này có linh nghiệm như thế thật không nhỉ? Có thật là có sự mầu nhiệm đến thế không? Tuy nói rằng tŕ tụng Chú này th́ được cảm ứng, nhưng đó chỉ toàn là nghe người ta kể lại chứ ḿnh vẫn chưa được chứng kiến tận mắt; chẳng biết có đúng là như vậy hay không?"; tức là quư vị không có ḷng tin đối với Thần Chú. Mà hễ quư vị không tin th́ thế nào? Th́ sẽ hoàn toàn không linh nghiệm! V́ sao ư? Bởi v́ quư vị không đặt trọn ḷng tin nơi Thần Chú!

Thí dụ, khi quư vị nhờ bạn bè làm giùm một việc ǵ đó, th́ quư vị cần phải thật tâm tín nhiệm họ; bằng không, họ sẽ chẳng muốn giúp quư vị! Tương tự như thế, quư vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Thần Chú này; bằng không, "th́ ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ."

"Đối với Thần Chú c̣n sanh ḷng nghi" cũng có nghĩa là không "y giáo phụng hành," không làm đúng theo các đạo lư bao hàm trong Thần Chú. Thí dụ Quán Thế Âm Bồ-tát căn dặn là hành giả mỗi ngày phải tụng Chú Đại Bi đủ năm biến, th́ quư vị không tụng năm biến mà lại tụng bốn biến, c̣n nói rằng: "Bớt đi một biến th́ đâu có ǵ quan trọng?! Tụng nhiều hay ít th́ cũng vậy thôi; miễn có tụng là được rồi!" Thế là, hôm nay lười biếng nên chỉ tụng một biến rồi nghỉ; hôm sau siêng năng hơn nên tụng luôn một lúc đến một trăm biến để bù lại! Như vậy th́ có khác ǵ hôm nay ăn một lúc hết hai mươi chén cơm, rồi sang ngày mai th́ không ăn ǵ cả? Không ăn ǵ cả th́ đói chịu không nổi; c̣n ăn luôn hai chục chén cơm th́ bụng no anh ách cũng chẳng dễ chịu tí nào! Việc tụng Chú Đại Bi tuy về h́nh tướng th́ không hoàn toàn giống như việc ăn cơm, song tính cách th́ cũng tương tự. Trong kinh đă dặn mỗi ngày tụng năm biến th́ chúng ta phải mỗi ngày chăm chỉ tụng đủ năm biến; nhất định phải đều đặn như thế, chứ đừng tụng sáu biến, mà cũng chớ nên tụng bốn biến!

Có người phân trần: "Tôi vốn kém trí nhớ, nên cứ lẫn lộn, không biết là ḿnh đă tụng đủ năm biến hay chỉ mới tụng bốn biến!" Nói như thế tức là quư vị hoàn toàn chẳng có tụng niệm ǵ cả! Bởi quư vị không thể nhớ được kia mà! Tụng được bao nhiêu biến mà chính ḿnh cũng không nhớ rơ, th́ một biến cũng chẳng thành lập! Do đó, quư vị cần phải ghi nhớ cho rơ ràng rành mạch.

Lại có người thắc mắc: "Tôi vừa bắt đầu niệm Chú th́ đầu óc cứ mơ mơ màng màng; như thế có kể là có tụng không?" Như thế th́ không kể; đó là ngủ gà ngủ gật chứ không phải là tụng Chú!

Có người th́ kể lể: "Mỗi lần tôi tu Pháp là hai mắt cứ ríu lại, mở không ra!" Như thế cũng không tính, bởi quư vị chỉ tu niệm một cách hồ đồ, điên đảo, thiếu sáng suốt. Quư vị cần phải y theo giáo pháp mà tu tập trong sự tỉnh táo, minh mẫn mới được!

Cũng có người tự biện hộ rằng: "Tôi chỉ phạm một vài sai sót nho nhỏ thôi th́ chắc cũng không sao; vị Thần của Chú không thể nào biết được! Hiện tại tôi chưa tụng Chú, th́ vị Chú Thần chưa đến, vậy tôi có uống chút xíu rượu cũng chẳng hề ǵ!" Suy Nghĩ như thế tức là quư vị Ềc̣n sanh ḷng nghi," Không có tín tâm đối với Chú. Phải như thế nào mới gọi là thật sự có tín tâm đối với Chú? Phải thành khẩn, không mảy may gợn chút hoài nghi, và phải theo đúng khuôn phép, nền nếp mà tu hành!

"Huống hồ tội nặng?" Tội nhỏ nghiệp nhẹ mà c̣n không tiêu trừ được, th́ tội lớn nghiệp nặng lại càng khó thể tiêu trừ hơn nữa!

"Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân Bồ-đề về lâu xa." Mặc dù quư vị tụng Chú với ḷng nghi th́ tội nặng không thể được tiêu trừ ngay, song quư vị vẫn có thể gieo được cái nhân Bồ-đề cho chính ḿnh về sau. Hạt giống Bồ-đề này, đến một đại kiếp nào đó trong tương lai sẽ nẩy mầm Bồ-đề và sẽ lớn mạnh, kết thành quả Bồ-đề. Cho nên, một khi đă trồng cái nhân rồi, th́ sớm muộn ǵ nó cũng đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái.

Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 5 of 11: Đă gửi: 05 May 2005 lúc 5:43am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Năm Mươi Ấm Ma(Kinh Lăng Ngiêm)

H.T. Tuyên Hóa giảng
Phật Giáo Giảng Đường San Francisco 1968

Phần sau rốt của kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói rơ về những ma sự mà người tu gặp phải nhất là trong thời kỳ tà sư đầy dẫy nầy, cho nên kinh Lăng Nghiêm được ví như "kính chiếu yêu". Các yêu ma quỷ quái đều sợ nhất Kinh nầy, nên chúng t́m mọi cách hủy diệt kinh Lăng Nghiêm, tuyên bố kinh Lăng Nghiêm là giả, phỉ báng Chú Lăng Nghiêm, khiến cho người ta không tin, không nghiên cứu để rồi dễ lạc vào tà, làm quyến thuộc của chúng.

Yêu quái, ly mỵ, ma vương sợ nhất là Chú Lăng Nghiêm. Phật nói kinh Lăng Nghiêm là để hiển bày Chú Lăng Nghiêm. Chú Lăng Nghiêm liên quan mật thiết đến sự hưng suy của Phật giáo. Trên thế gian nếu có người tŕ tụng Chú Lăng Nghiêm th́ Chánh pháp tồn tại, nếu không có người tŕ tụng chú Chú Lăng Nghiêm th́ không c̣n Chánh Pháp; lúc ấy, ngũ đại ma quân ở năm phương mặc t́nh tác quái và đó là bắt sự biến mất của Phật Pháp. Hiện tại chùa, tu viện không tŕ Chú Lăng Nghiêm hay chỉ tụng phần cuối của Chú thôi, ấy chính là biểu hiện của Mạt Pháp.

Mong các Phật tử phát tâm nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm để có được trí huệ chơn chánh, phát tâm trường trai, tránh ngũ vị tân mà tŕ tụng Chú Lăng Nghiêm hầu Phật Pháp được cửu trụ, chúng sanh được lợi lạc.

bdh.

(tiếp theo)

SẮC ẤM

A. TRẠNG THÁI TÂM LƯ THANH TỊNH TRƯỚC KHI ĐI VÀO CẢNH GIỚI SẮC ẤM.

KINH VĂN:

A Nan nên biết, khi ông ngồi thiền nơi đạo tràng, tiêu trừ các vọng niệm. Khi các vọng niệm đă hết sạch, chẳng c̣n một niệm phân biệt trong tâm ông. Trạng thái thanh tịnh, sáng suốt này dù trong động hay tĩnh đều không biến đổi, dù ông nhớ hay quên, đều như nhau.

Giảng:

A Nan nên biết, khi ông ngồi thiền nơi đạo tràng, tiêu trừ các vọng niệm. A Nan ông nên biết rằng: Ông tu tập "phản văn văn tự tánh" (Quay Trở lại tánh nghe để nhận ra tự tánh của ḿnh). Khi công phu như vậy, mọi vọng niệm đều sẽ tiêu trừ. Khi các vọng niệm đă dứt sạch, chẳng c̣n niệm phân biệt trong tâm ông. Trạng thái thanh tịnh sáng suốt này, tức là trí huệ và định lực này, dù trong động hay tĩnh cũng không biến đổi, dù ông nhớ hay quên đều như nhau. Dù động hay tĩnh, trạng thái thanh tịnh sáng suốt (trí huệ và định lực) này không thay đổi, dù ông nhớ hay quên trạng thái đó đều như một, không hai.

B. PHẠM VI SẮC ẤM.

KINH VĂN:

Đương khi an trụ trong trạng thái đó mà vào được chánh định, như người sáng mắt nhận ra được chính ḿnh nơi u ám. Tuy bản tánh của ông là nhiệm mầu thanh tịnh, nhưng tâm chưa tỏa phát được trí huệ sáng suốt. Đây được gọi là phạm vi của Sắc ấm.

Giảng:

Khi an trụ trong trạng thái đó mà vào được chánh định. A Nan! Ông nên biết khi hành giả tu tập định lực, an trụ trong trạng thái thanh tịnh, động tịnh không thay đổi, nhớ quên đều như một đó. Như người sáng mắt nhận ra được chính ḿnh nơi u ám. Ông ta như người có đôi mắt sáng tỏ, sống trong ngôi nhà tối tăm. Tuy bản tánh thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu, nhưng tâm chưa tỏa phát ra trí huệ sáng suốt. Tuy bản tánh của ông ta là thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu, tâm ông ta chưa đạt được ánh sáng của trí huệ chân thực, đây gọi là phạm vi của Sắc ấm.

C. KHI VƯỢT QUA SẮC ẤM, THẤY ĐƯỢC CỘI GỐC CỦA SẮC ẤM.

KINH VĂN:

Nếu mắt sáng tỏ, rơ thấu mười phương, không c̣n tối tăm, gọi là hết sắc ấm. Người ấy có thể vượt ra khỏi kiếp trược. Quán sát nguyên do của sắc ấm, nhận ra vọng tưởng kiên cố là cội gốc.

Giảng:           

Nếu mắt sáng tỏ, rơ thấu mười phương rộng mở, không c̣n tối tăm. Cảnh giới này gọi là ǵ? Gọi là hết sắc ấm. Trong năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), sắc ấm đă hết. Người này có thể vượt ra khỏi kiếp trược. Quán sát nguyên do của sắc ấm, nhận ra vọng tưởng kiên cố là cội gốc. Khi người này vượt qua kiếp trược, mọi hành động của người đó sẽ đều phát xuất từ vọng tưởng kiên cố.

D. MƯỜI CẢNH GIỚI SAI BIỆT CỦA SẮC ẤM

1. Tâm Thoát Ngại

KINH VĂN:

A Nan, ngay trong lúc này, do chuyên chú cứu xét ánh sáng vi diệu ấy, tứ đại không c̣n đan dệt với nhau nữa, chẳng bao lâu thân có thể thoát ra khỏi sự ngăn ngại. Trạng thái này gọi là: "Tinh minh nhập vào tiềân cảnh". Đó chỉ là trạng thái nhất thời do dụng công, không phải là biểu hiện sự chứng quả Thánh. Nếu không khởi tâm chứng Thánh th́ đó là cảnh giới tốt, nhưng một khi đă nghĩ ḿnh chứng Thánh liền bị tà ma dẫn dụ.    

Giảng:

Bây giờ giảng đến phần ngũ ấm ma. Ngũ ấm là ǵ? Là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc có mười thứ ma, thọ cũng có mười thứ ma, tưởng, hành và thức mỗi thứ đều có mười thứ ma. Tổng cộng là năm mươi loại ấm ma. Người tu đạo cần phải hiểu thấu đáo cặn kẻ năm mươi loại ma sự này. Nếu không rơ năm mươi ấm ma, rất dễ làm quyến thuộc của ma vương. Đến khi làm quyến thuộc của ma vương rồi, quư vị cũng không biết v́ sao ḿnh làm quyến thuộc của chúng. Vẫn không nắm được yếu lĩnh, không biết v́ sao! Do vậy các vị phải đặc biệt chú ư.

A Nan, ngay trong lúc này, do chuyên chú cứu xét ánh sáng vi diệu ấy, khi sắc ấm sắp sửa tiêu dung, ông ta thấy mười phương rỗng rang, sáng rực không c̣n tối tăm nữa. Bởi v́ lúc ấy có một loại ánh sáng; trong khi ông ta hết sức chuyên chú quán xét cảnh giới sáng suốt vi diệu này, tứ đại không c̣n đan dệt với nhau nữa, chẳng bao lâu thân thể thoát ra khỏi sự ngăn ngại. Tứ đại sẽ không c̣n kết hợp với nhau, không c̣n tác dụng ngăn ngại. Chẳng bao lâu thân thể sẽ trở nên không bị chướng ngại, như hư không rỗng rang. Đó được gọi là: Ư sanh thân, nghĩa là có một thân khác tách rời khỏi thân vật chất. Trước đây tôi đă kể chuyện về chú đệ tử của tôi đến các cung trời bằng Định thân của chú ấy, thân ấy cũng được gọi là: Ư sanh thân. "Ư" đây tức là một trong sáu thức (nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư ). Thân ấy do ư sanh, tạo nên bởi tâm thức nên không bị ngăn ngại (như là sắc thân kết hợp bằng tứ đại). Trạng thái này gọi là: "Tinh minh nhập vào tiền cảnh". Ánh quang minh tinh diệu lưu nhập vào tiền cảnh. Đó là trạng thái nhất thời do dụng công. Cảnh giới này nhất thời, bất quá chỉ do siêng năng tu tập mà thôi; nó chỉ nhất thời, không phải hằng có. Khác với khả năng xuất nhập một cách tự tại, trong mọi thời mọi lúc muốn đến nơi nào liền đến nơi ấy, muốn trở lại liền trở lại. Với sự thong dong tự tại này, ông có thể:

           Phóng chi tắc nhi lục hợp
           Quyển chi tắc thối tàng ư mật.

Thả ra nó sẽ trùm khắp Tam thiên đại thiên thế giới; tuy nhiên, có thể thu lại bất kỳ lúc nào. Nếu ông không thể làm được việc này bất kỳ lúc nào ông muốn, th́ cảnh giới của ông chỉ là nhất thời. Đó là cảnh giới ông gặp phải trên con đường tu hành, khi sự dụng công của ông đến được tŕnh độ nào đó. Cảnh giới (ư sanh thân) trên chỉ là tạm thời. Ông sẽ không thường xuyên có được một sắc thân vượt qua mọi sự chướng ngại, không phải là sự biểu hiện chứng quả Thánh. Ông chưa phải đă đạt được quả vị Thánh. Cảnh giới của Thánh nhân chứng quả không phải giống như vậy.

Nếu không khởi tâm chứng Thánh th́ đó là trạng thái tốt. Nghĩa là ông không nên nói: "Ồ tôi tu hành thật sự có công phu, tôi có thể xuất hồn ra khỏi thân từ đỉnh đầu (xuất huyền nhập hóa)". Nếu ông tự măn, ngạo mạn như vậy th́ điều ǵ sẽ xảy ra? Ông kể như "xong" rồi. Tuy nhiên, nếu ông không xem cảnh giới này như một bằng chứng của sự chứng đạt quả Thánh, th́ cảnh giới ấy không phải là sự chướng ngại to lớn và cũng chẳng có ǵ sai lầm nghiêm trọng. Nhưng một khi nghĩ ḿnh đă chứng Thánh th́ liền bị tà ma dẫn dụ. Nếu như ông nghĩ: "Công phu tu tập của ḿnh hiện nay quá siêu tuyệt rồi, ta thật kỳ diệu, ta là Thánh nhân xuất thế, ta là A la hán". Nếu ông nghĩ như thế, bọn ma sẽ xông vào ông ngay. Một khi ma đến rồi, th́ tương lai ông sẽ rơi vào địa ngục.

2. Nhặt Trùng Sán Trong Thân

KINH VĂN:

A Nan, nếu lại dùng tâm chuyên chú cứu xét ánh quang minh sáng suốt vi diệu trên, sẽ thấy ánh sáng rỗng suốt khắp thân. Bỗng nhiên có thể lượm ra những con trùng sán từ trong thân ḿnh, mà thân thể vẫn nguyên vẹn, không bị tổn thương. Trạng thái này gọi là: "Tinh minh lan ra thân thể". Đây chỉ là trạng thái nhất thời do tinh tấn công phu, chẳng phải là chứng Thánh. Nếu không nghĩ ḿnh chứng Thánh th́ đó là trạng thái tốt, c̣n nếu nghĩ ḿnh chứng Thánh th́ liền rơi vào tà ma.

Giảng:           

Đây là ma cảnh thứ hai của Sắc ấm ma. V́ sao ma cảnh xuất hiện? V́ ông tu hành, tinh tấn tu tập mới có, nếu không tinh tấn dụng công th́ t́m không ra những cảnh giới ma sự này. Ma chẳng thèm để ư tới ông. V́ ông là người nghèo th́ chúng tới t́m ông cũng chẳng ích ǵ. Khi ông tu tới chỗ có bảo bối th́ chúng mới tới: chúng muốn cướp đoạt bảo bối.

Vậy ông phải làm ǵ khi chúng đến? Ông cần phải "như như bất động, liễu liễu thường minh." Không nên sinh tâm chấp tướng. Không nên nghĩ: "Cảnh giới ấy quá tuyệt vời, ước ǵ nó lại hiện ra". Đừng mong ngóng nó, cũng đừng ruồng rẫy xua đuổi nó. Mà nên giữ thái độ như không có chuyện ǵ xảy ra, bởi v́ đây không phải là cảnh giới chứng quả. Nếu quư vị không có tư tưởng rằng ḿnh chứng quả th́ tốt lắm. Nếu quư vị cho rằng ḿnh chứng quả rồi nói: "A! Ta là người phi thường, ta có thể nhặt từng loài chúng sanh từ trong thân ḿnh ra".   Nếu quư vị nghĩ rằng ḿnh đă đạt được thần thông tự tại th́ quư vị thực sự mê lầm. Chỉ với một niệm tự măn ấy bọn ma liền len vào tâm quư vị và nó khống chế ông, nó khống chế ông cho đến khi ông mất hết định lực.

Do đó, người tu đạo phải chân chính hiểu thấu đáo đạo lư này th́ mới không rớt xuống hố, rơi vào bẫy ma hay lạc vào đường tà. Khi không hiểu Phật Pháp, quư vị rất dễ lạc đường. Chẳng có công phu th́ chẳng có vấn đề ǵ để nói. Một khi có công phu, có được chút ít định lực, th́ ma vương mỗi giây mỗi phút đều canh cánh nh́n quư vị. Chúng chờ cơ hội có thể len vào quư vị, th́ liền tới nhiễu loạn quư vị ngay.

A Nan, nếu lại dùng tâm chuyên chú cứu xét ánh quang minh vi diệu trên, sẽ thấy ánh sáng rỗng rang thông suốt khắp thân. Nếu ông siêng năng miệt mài trong việc tu tập, ông sẽ có thể thấy được mọi thứ bên trong thân ḿnh. Nếu thường thường thấy được như thế th́ có thể khả dĩ, nhưng nếu ông chỉ có thể thỉnh thoảng thấy được th́ đó là trạng thái của sắc ấm.

Bỗng nhiên có thể lượm ra những con giun-sán từ trong thân ḿnh, mà thân thể vẫn nguyên vẹn không bị tổn thương. Trong trạng thái này, bỗng nhiên ông có thể lượm giun-sán từ trong bụng ḿnh ra, đủ loại dài ngắn, lớn, nhỏ. Ông chỉ cần thọc tay vào bụng là lôi chúng ra được. Những con giun-sán được lôi ra là thực không phải là hư giả, song bụng ông không bị tổn thương. Quư vị nói thử xem những con trùng-sán ấy được lấy ra như thế nào? Nếu quư vị thọc tay vào trong bụng để lấy được trùng sán ra th́ đáng lẽ bụng sẽ bị tổn thương, nhưng bụng lại hoàn toàn không bị rách bể, thân thể vẫn nguyên vẹn. "Thân thể vẫn nguyên vẹn" có thể giải thích theo hai cách. Có thể nói là thân thể của những con giun-sán vẫn toàn vẹn chẳng bị tổn thương chút nào, vẫn c̣n sống, khoẻ mạnh. Cũng có thể nói là bụng ông vẫn toàn vẹn không bị tổn thương.

Cảnh giới này gọi là "tinh minh lan ra thân thể". Một ánh sáng rất là trong suốt tràn ngập khắp thân thể của ông. Thực ra, chẳng phải quư vị đưa tay vào trong bụng ḿnh để nhăĩt giun-sán ra, mà tự nó từ trong thân quư vị trào ra. Đây chỉ là cảnh giới nhất thời do tinh tấn công phu, chẳng phải là chứng Thánh. Cảnh giới này là tạm thời không phải thường xuyên như vậy. Nếu là cảnh giới xảy ra thường xuyên th́ t́nh huống khác hẳn. Đây không phải cảnh giới khi chứng quả Thánh. Nếu không nghĩ ḿnh chứng quả Thánh th́ gọi là cảnh giới tốt. Sẽ là tốt đẹp, không gây lên vấn đề ǵ nghiêm trọng. C̣n nếu nghĩ ḿnh đă chứng quả Thánh th́ liền bị tà ma dẫn dụ. Nếu ông cho rằng: "Ta vừa chứng Thánh quả, ta có thể lấy những trùng sán này từ trong bụng ra. Các người thấy chẳng phải tuyệt diệu hay sao? Các người đâu được cảnh giới như thế!" Nếu ông mống tâm cống cao ngă mạn, một khi khởi tâm đắm trước vào cảnh giới liền sẽ bị ma vương dẫn dụ mà thành quyến thuộc của nó.

3. Nghe Tiếng Thuyết Pháp Giữa Hư Không

KINH VĂN:

Lại nữa, nếu dùng tâm, quán xét tinh tường trong ngoài, khi ấy hồn, phách, ư, chí, tinh, thần sẽ giao tiếp nhau, thay phiên làm khách, làm chủ, nhưng không ảnh hưởng đến sắc thân. Rồi bỗng dưng nghe giữa hư không có tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phương đều diễn bày nghĩa lư thâm mật. Cảnh giới này gọi là: "Tinh thần thay phiên nhau khi rời xa, khi kết hợp để cùng nhau gieo trồng những hạt giống tốt". Nhưng đó cũng chỉ là trạng thái nhất thời chẳng phải là chứng Thánh. Nếu chẳng nghĩ ḿnh đă chứng Thánh th́ đó là cảnh giới tốt. Nếu nghĩ ḿnh đă chứng Thánh th́ rơi vào tà ma.

Giảng:

Lại nữa, nếu dùng tâm, quán xét tinh tường ánh quang minh sáng suốt nhiệm mầu trên, cứu xét trong ngoài, cầu đến chỗ tinh sâu. Hồn, phách trải qua một sự thay đổi. Có ba hồn và bảy phách (vía) ở trong thân thể con người. Tôi đă đề cập đến mười anh em này trước rồi. Một số trong mười hồn vía ấy, chỉ có tai hoặc mắt, có trường hợp chỉ có mũi nhưng không có môi, mắt, tai. Mỗi trường hợp chỉ làm chủ một giác quan, thiếu năm giác quan kia, thế nên nó không có tác dụng riêng lẻ, độc lập. Nó phải hợp tác hỗ tương với nhau như một đội bóng. Những ai có tai sẽ giúp cho người không có tai, ai có mắt giúp cho người không có mắt. Nó hỗ trợ giúp đỡ cho nhau. Mười thứ hồn phách ấy cùng với ư, chí, tinh, thần sẽ giao tiếp nhau nhưng không ảnh hưởng đến sắc thân. Chúng thay phiên làm khách, làm chủ. Nó thay đổi vai tṛ hỗ tương giúp đỡ lẫn nhau, nó thay nhau đóng vai chủ và khách.

Rồi bỗng dưng nghe giữa hư không có tiếng thuyết pháp. Có người đang thuyết pháp giữa hư không. Ai vậy? Ông nghe được tiếng nhưng không thấy được h́nh, thực ra đó chỉ là ư, chí, tinh và thần của chính ông, nó thay phiên nhau đóng vai chủ và khách để giảng pháp. Hoặc nghe mười phương đều diễn bày nghĩa lư thâm mật. Ông có thể nghe tiếng giảng pháp từ giữa không trung. Sao vậy? V́ sự công phu tu tập của ông trong những đời trước ông từng nghe giảng rất nhiều kinh pháp, nên hồn, phách, ư, chí, tinh và thần của ông không không quên. Thế nên trong đời này, khi ông dụng công dồn ép đến cực điểm th́ những kinh nghiệm trong quá khứ chợt trào ra. Trạng thái này gọi là: "Tinh thần thay phiên nhau khi rời xa, khi kết hợp để cùng nhau gieo trồng những hạt giống tốt". Nó cùng hợp tác với nhau, cùng lập thành một dây, cùng nhau kết nhóm, cùng nhau tách rời ra. Chúng có thể giảng nói Phật Pháp khiến cho ông có thể hiểu được những điều mà trước nay ông chưa hiểu. Vậy nên ông mới có thể gieo trồng những chủng tử tốt cho đời sau. Đó chỉ là trạng thái nhất thời, không phải là thường xuyên, không phải là chứng Thánh. Đừng khởi ư tưởng cho rằng trạng thái này rấy vi diệu, rồi nói: "Hăy xem ta đây, ta chẳng cần đến nơi Pháp hội, ta có thể nghe giảng pháp ở trong không trung bất kỳ khi nào ta muốn". Ông có thể được nghe giảng pháp nhưng cũng không có nghĩa là ông đă chứng Thánh. Nếu chẳng nghĩ ḿnh đă chứng Thánh. Nếu ông không trở nên tự măn, không tự cho rằng ḿnh là kẻ phi thường, nếu không muốn dối gạt người th́ đó là trạng thái tốt. Giả sử như ông nói:

Ồ tôi có thể nghe pháp ngay cả khi chẳng ai giảng nói cả. Anh có được điều ấy không?

- Không!

- Thế mà chuyện ấy lại đến với tôi.

Nếu ông quảng cáo (khoe khoang) để mong có người tin ông, th́ điều ǵ sẽ xảy ra? Nếu ông nghĩ rằng ḿnh đă chứng Thánh th́ liền rơi vào tà ma. Một khi ông mống tâm cống cao, tự măn cho ḿnh là ghê gớm liền bị bọn ma nhập vào. Chúng nhập vào ông để làm ǵ? Để làm ông đọa lạc, để làm ông trở thành quyến thuộc của chúng.

4. Phật Hiện Thân

KINH VĂN:

Lại nữa khi tâm lặng yên, tỏ lộ, sáng suốt, thấu triệt, ánh sáng từ tâm chiếu khắp cả mười phương thành sắc Diêm Phù Đàn. Tất cả loài hữu t́nh đều hoá thành Như Lai. Lúc ấy, bỗng thấy Đức Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài Thiên Quang, có ngàn Đức Phật vây quanh, trăm ức cơi nước cùng với hoa sen đồng thời hiện ra. Cảnh giới này gọi là: "Tâm và hồn tiêm nhiễm sự linh ngộ" Khi tập trung tham cứu đến tận nguồn tâm th́ ánh sáng từ trong tâm chiếu khắp cơi nước. Đây chỉ là trạng thái tạm thời, không phải là chứng Thánh, nếu không nghĩ ḿnh chứng Thánh gọi là cảnh giới tốt, nếu tự cho ḿnh là Thánh th́ liền rơi vào tà ma.

Giảng:

Lại nữa khi tâm lặng yên thanh tịnh, tỏ lộ, sáng suốt tột bậc. Ánh sáng từ trong tâm chiếu khắp cả mười phương thành sắc Diêm Phù Đàn. Ánh sáng rực rỡ tỏa chiếu từ trong tâm, khắp mười phương cơi nước đều phủ mầu Diêm Phù Đàn. Tất cả loài hữu t́nh (thai sanh, thấp sanh, hoá sanh, noăn sanh) và tất cả các loài chúng sanh khác đều hoá thành Như Lai.

Lúc ấy, bỗng thấy Đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Tỳ Lô Giá Na (Vairochana) nghĩa là "suốt khắp mọi nơi" là danh hiệu của Đức Phật. Ngài không hiện hữu riêng ở một nơi nào, vậy nên chẳng nơi nào mà Ngài không hiện hữu, thân thể của Ngài trùm khắp mọi nơi. Người này bỗng nhiên thấy được đức Phật Tỳ Lô Giá Na, vị Phật có thân trùm khắp mọi nơi. Ngồi trên đài làm bằng ánh sáng của cơi trời (Thiên Quang) hiển bày thân cao ngàn trượng. Đức Phật Tỳ Lô Giá Na được ngàn Đức Phật vây quanh cùng với trăm ức cơi nước cùng với hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng đồng thời hiện ra. Cảnh giới này gọi là: "Tâm và hồn tiêm nhiễm sự linh ngộ" Ông đừng cho rằng cảnh giới này là thật. Tâm và hồn phách ông bị ảnh hưởng, nhiễm bởi một dạng linh cảm của giác ngộ. Do vậy nó không thật. Khi tập trung tham cứu đến tận nguồn tâm th́ ánh sáng từ trong tâm chiếu khắp các cơi nước. Khi tâm ông được sáng suốt sẽ chiếu khắp cả mọi thế giới. Đây chỉ là trạng thái tạm thời, không phải là chứng Thánh. Những ǵ đang diễn ra không phải là lâu dài vĩnh viễn. Ông chẳng phải là đă chứng Thánh quả. Nếu không nghĩ ḿnh chứng Thánh th́ gọi là cảnh giới tốt. C̣n nếu tự cho ḿnh chứng Thánh th́ liền rơi vào tà ma. Nếu ông nói: "Thật tuyệt diệu! Ta vừa thấy Đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Ông có thấy chăng? Công phu của ông chẳng sâu bằng tôi, tôi thật là đă đạt được điều ấy". Một khi ông khởi niệm như vậy th́ ma vương liền đến lôi kéo ông vào địa ngục.

Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
AnhSang
Học Viên Lớp Tử Vi
Học Viên Lớp Tử Vi
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 343
Msg 6 of 11: Đă gửi: 05 May 2005 lúc 7:18am | Đă lưu IP Trích dẫn AnhSang

đă viết:

Vô minh có hai đồng lơa. Hai đồng lơa ấy là ǵ? Tức là tham ăn và tham sắc dục. Cả hai việc này trợ giúp vô minh tạo vô số nghiệp xấu.

Có câu rằng:

"Khi muốn làm người tốt th́ nghiệp báo hiện,
Khi muốn thành Phật th́ ma đến thử thách."

Nếu không muốn trở thành người tốt th́ nghiệp báo không t́m đến. Càng quyết chí làm người tốt bao nhiêu th́ nghiệp báo càng đến tới tấp bấy nhiêu, đ̣i ḿnh thanh toán nợ nần cho minh bạch.

Phật và ma chỉ khác nhau ở một tâm niệm--Phật th́ có tâm từ bi, c̣n ma th́ có tâm tranh hơn thua.

Người thực sự biết cách tu hành th́ nhất cử nhất động đều là tu cả.


Người học Đạo nhất định phải phát nguyện. Nguyện lực có khả năng thôi thúc chính ḿnh tiến tu theo Chánh Đạo, không lạc đường tà. Nhưng phát nguyện mà không hành th́ giống như cây có hoa mà không đơm trái, thật vô ích!

Dùng lưỡi để thuyết Pháp th́ tích tụ công đức. Cũng dùng lưỡi nhưng lại nói lời thị phi th́ tạo nghiệp tội. Thay v́ thuyết Pháp mà lại nói những lời vô nghĩa, thị phi là tạo một vạn hai ngàn nghiệp tội.

Thành Phật không phải dễ! Không chặt đứt tâm tham dục mà mong thành Phật th́ không khi nào được. Người đời nay đa số đều thích cầu may, đi đường tắt, dễ dàng bị cuốn hút bởi những việc huyền ảo, lạ kỳ; do đó bị mê hoặc, lạc vào lưới ma.


Căn bản của Giới Luật chỉ có một điều, đó là không ích kỷ.




Rất rơ ràng, rất hay!
Quay trở về đầu Xem AnhSang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi AnhSang
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 7 of 11: Đă gửi: 05 May 2005 lúc 7:32am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

tôi lại tâm đắc câu:

"Học Phật Pháp th́ cần phải dùng trí huệ chứ không thể dùng t́nh cảm. Dùng trí huệ để học Phật Pháp th́ đó là Chánh Pháp. Dùng t́nh cảm mà học Phật Pháp th́ đó là Mạt Pháp".

và phần trên th́:

"Thành Phật không phải dễ! Không chặt đứt tâm tham dục mà mong thành Phật th́ không khi nào được. Người đời nay đa số đều thích cầu may, đi đường tắt, dễ dàng bị cuốn hút bởi những việc huyền ảo, lạ kỳ; do đó bị mê hoặc, lạc vào lưới ma"

Cũng nhiều câu, ư tâm đắc nhưng không "tô đậm" v́ không muốn dùng sở thích riêng làm xao loạn bài viết của các Thầy. Vả ḿnh tâm đắc là chuyện riêng ḿnh, nguời khác tâm đắc cái khác.

Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
Bach Ngoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 April 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 8 of 11: Đă gửi: 07 May 2005 lúc 5:48am | Đă lưu IP Trích dẫn Bach Ngoc

thienkhoitimvui

1) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp;

2) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhăn;

3) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh;

4) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện;

5) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhă;

6) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ;

7) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng đắc Giới Định Đạo;

8) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn;

9) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi;

10) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh.

Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ;

Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn;

Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt;

Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ;

Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục;

Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ.

Quư vị muốn thọ tŕ Chú Đại Bi, th́ trước tiên, mỗi người phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười thệ nguyện như trên; rồi kế đến là phải chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, tức là Quán Thế Âm Bồ-tát. Chí tâm tức là thành tâm thành ư, một ḷng một dạ.


Sau đó, phải luôn tŕ tụng Thần Chú Đà-La-Ni nàỵ Trước hết, các chúng sanh đó phải niệm danh hiệu của con -- 'Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát'; rồi tiếp đến là niệm danh hiệu Đức Bổn Sư của con -- 'Nam mô A Di Đà Phật'; và sau đó mới bắt đầu tụng Thần Chú Đà-La-Nị

Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến th́ có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử.

Mỗi tối, nếu quư vị có thể chuyên cần tŕ tụng Chú Đại Bi đủ năm biến, đều đặn như thế, th́ có thể khiến cho bao nhiêu nghiệp chướng mà bản thân quư vị trót gây tạo đều được tiêu trừ. Trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử tức là những tội lỗi thâm trọng mà chúng ta đă tạo tác trong quá tŕnh luân hồi luẩn quẩn, sanh rồi chết, chết rồi lại tái sanh, lập đi lập lại măi trong suốt cả hằng trăm ngàn vạn ức kiếp.
[/QUOTE đă viết:


Chào Bác Thienkhoitimvui, Chú Đại Bi có phải gồm 84 câu chú (trong mục KKMT)không Bác



Chào Bác Thienkhoitimvui, Chú Đại Bi có phải gồm 84 câu chú (trong mục KKMT)không Bác



Sửa lại bởi Bach Ngoc : 07 May 2005 lúc 5:51am
Quay trở về đầu Xem Bach Ngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Bach Ngoc
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 9 of 11: Đă gửi: 10 May 2005 lúc 6:37am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

bạn có thể tahm khảo phần Chú Đại Bi của ông K.K.M.Tam, nhưng trong đó c̣n có 1 số câu chú phiêm âm không chỉnh, rất tiếc, chắc chỉ có vị tu hành nào đó mới có thể đính chính lại.
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
Bach Ngoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 April 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 10 of 11: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 6:54am | Đă lưu IP Trích dẫn Bach Ngoc

BachNgoc vẫn thường đọc ba?n di.ch ấy, Cám ơn bác Thienkhoi đă cho biết

Sửa lại bởi Bach Ngoc : 12 May 2005 lúc 6:55am
Quay trở về đầu Xem Bach Ngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Bach Ngoc
 
Bach Ngoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 April 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 11 of 11: Đă gửi: 12 May 2005 lúc 7:25am | Đă lưu IP Trích dẫn Bach Ngoc

thienkhoitimvui đă viết:
bạn có thể tahm khảo phần Chú Đại Bi của ông K.K.M.Tam, nhưng trong đó c̣n có 1 số câu chú phiêm âm không chỉnh, rất tiếc, chắc chỉ có vị tu hành nào đó mới có thể đính chính lạị


BN vừa sang bên mục bên cạnh, mọi người tranh luận về lời dịch từ chữ Phạn của Mật tông. Bỗng thấy vấn đề cũng liên quan đến ḿnh . Vậy th́ BN sẽ t́m mua một quyển sách vậy, v́ nếu đọc bản cũ sẽ luôn thắc mắc đúng sai mất
Quay trở về đầu Xem Bach Ngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Bach Ngoc
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.1563 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO