Tác giả |
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 1 of 22: Đă gửi: 01 January 2005 lúc 5:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tử Thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Dead) hay nguyên tác Bardo Thodol Chenmo là một cuốn sách đặc biệt đề cập đến các cảnh giới bên kia cửa tử. Ngay từ khi được giáo sư W.Y.Evens Wentz phiên dịch ra Anh ngữ vào năm 1924, nó đă gây ra nhiều cuộc bàn căi sôi nổi.
Danh từ "Tử Thư" (Book of the Dead) thực ra dịch không được đúng v́ giáo sư Evans Wentz đă căn cứ trên một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, cũng đề cập đến một cảnh giới bên kia cửa tử, gọi là Tử Thư Ai Cập (Egyptian Book of the Dead).
Danh từ "Tử Thư" khiến nhiều người hiểu lầm, cho rằng đó là sách dành cho người chết hoặc để dùng trong các nghi lễ chôn cất người chết. Thật ra nội dung cả hai cuốn sách nói trên rất phong phú, chứa đựng nhiều tinh hoa huyền môn, dùng cho người sống cũng như người chết.
Người Ai Cập chủ trương sống và chết là một nghệ thuật mà người ta có thể học hỏi. Tử Thư Ai Cập, nguyên tác Her Em Hru có thể dịch sát nghĩa là "Nghệ thuật bước vào một đời sống mới kể từ lúc này", trong đó các danh sư Ai Cập đă giải thích những quy tắc để người sống cho ra sống và chết cho ra chết, với đúng ư nghĩa của nó. Người Ai Cập tin rằng vũ trụ có nhiều cơi giới mà cơi trần chỉ là một mà thôi.
Nếu biết nghệ thuật sống và chết, người ta có thể di chuyển luân hồi từ cơi này qua cơi khác như người đi du lịch. Có lẽ đó là lư do mà nhiều nhà nghiên cứu đă coi Tử Thử Ai Cập như tấm bản đồ chỉ dẫn về các cơi giới bên kia cửa tử. Tuy nhiên các danh sư Ai Cập không hề quan tâm đến việc giải thoát ra khỏi ṿng luân hồi này.
Trong khi đó, người Tây Tạng ngoài việc nghiên cứu các cơi giới, lại đặc biệt chú trọng đến việc giải thoát ra khỏi ṿng sinh tử luân hồi nữa. Đó là căn bản khác biệt rơ rệt nhất giữa hai cuốn sách nói trên và đống thời cũng làm nổi bật nét độc đáo của cuốn Tử Thư Tây Tạng.
Trước khi đi xa hơn vào chi tiết của cuốn sách này, chúng ta hăy t́m hiểu danh xưng của nó. Nguyên tác Bardo Thodol Chenmo có tạm dịch là "Sự giải thoát khi được học hỏi (hay nghe nói) về mật pháp Bardo". Nhiều người đă dịch danh từ Bardo là cơi chết, cơi Trung giới, hay cảnh giới của Thân Trung Ấm, nhưng thật ra nó c̣n có một ư nghĩa rộng hơn là "sự chuyển tiếp" (transition). Danh từ "chuyển tiếp" hàm ư một giai đoạn ở giữa sự di chuyển từ giai đoạn này qua một giai đoạn khác hay từ trạng thái này qua một trạng thái khác.
Tử Thư Tây Tạng là một cuốn sách thuộc về giáo lư mật truyền nên rất khó hiểu, khó giải thích, và đă gây nhiều cuộc bàn căi sôi nổi trong giới học giả. Dĩ nhiên người ta không thể hiểu nó nếu không nắm vững được căn bản của Mật Tông. Người ta cũng khó có thể áp dụng các phương pháp trong đó nếu không được sự chỉ dẫn khẩu truyền của các danh sư Tây Tạng chuyên tham cứu về pháp môn này. Trong loạt bài khảo luận ngắn này, người viết không có ư mong cầu có thể giải thích được sự vi diệu của cuốn sách trên, nhưng chỉ muốn tŕnh bày một vài khía cạnh đặc biệt của cuốn sách dưới cái nh́n của của khoa học và Phật học.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Tử Thư Tây Tạng là sách hướng dẫn người ta sắp ĺa đời hoặc người đă chết v́ nội dung cuốn sách đề cập rất kỹ đến các quy tắc cúng lễ, cầu siêu hay hướng dẫn cho người đang hấp hối. Tuy nhiên, đức Đạt Lai Lạt Ma lại gọi nó là Sinh Thư (Book of the Living) thay v́ Tử Thư. Ngài nhấn mạnh: "Đạo Phật là đạo dành cho người sống chứ không phải người chết". Ngài đă giảng: "Trọn bộ Tử Thư có thể thâu gồm vào một ư chính như sau: "Người nào biết sống một cách tỉnh thức th́ sẽ chết tỉnh thức, và một khi đă tỉnh thức th́ họ có thể chuyển thần thức, tránh được sự lôi kéo của nghiệp và thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đa số con người v́ bị vô minh che phủ nên không biết cách sống cho đúng với ư nghĩa của sự sống, thường thường nếu không hoài niệm về quá khứ th́ họ cũng mơ tưởng về tương lai, họ luôn luôn 'lo lắng để sống' chứ không hề ư thức rơ rệt sự sống. V́ sống một cách u mê, không tỉnh thức như vậy nên khi chết th́ họ cũng không thể làm chủ được hoàn cảnh khi ấy, dĩ nhiên họ sẽ hoàn toàn để nghiệp lực lôi kéo và trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi".
Lời giải thích này là một ch́a khóa quan trọng đă rọi một tia sáng cho những người muốn t́m hiểu cuốn Tử Thư Tây Tạng. Người ta có thể coi nó là một Sinh Thư, sách hướng dẫn cho người sống, khuyên họ phải sống làm sao để khi chết có thể tự chủ, tỉnh thức để thoát luân hồi, hoặc người ta cũng có thể coi nó là một Tử Thư, sách hướng dẫn cho người chết biết cách t́m đến những cơi giới tốt lành, tránh đọa lạc vào ba đường ác là Ngạ quỷ, Địa ngục và Súc sinh.
Theo cuốn Tử Thư, ṿng luân hồi có thể tạm chia ra làm bốn phần hay bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn sống là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, nói giản dị th́ đó là một kiếp người. Giai đoạn chết là khoảng thời gian từ khi rời bỏ thể xác cho đến khi bước sang Cơi sáng (Dharmata). Giai đoạn thứ ba là lúc sống trong Cơi sáng, một khoảng thời gian rất đặc biệt khi thần thức được khai mở để kinh nghiệm chân tâm. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn tái sinh, khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị để tái sinh cho đến khi sinh ra.
Các danh sư Tây Tạng tin rằng trong lúc chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, cơ hội để giải thoát hay để phá tung lưới sinh tử có thể thực hiện được. Đó chính là mật pháp của cuốn Tử Thư Tây Tạng hay sự giải thoát nhờ biết cách chuyển thần thức, không để bị nghiệp tiếp tục dẫn đi vào ṿng sinh tử luân hồi. Trạng thái chuyển tiếp giữa hai giai đoạn là một cơ hội đặc biệt có thể được giải thích qua thí dụ sau: Thử tưởng tượng một người làm việc khó nhọc và xây dựng được một sự nghiệp lớn. V́ một biến cố chi đó mà chỉ trong giây phút bỗng nhiên anh mất hết tất cả: Nhà cửa, tài sản, vợ con, danh vọng, quyền thế. Hiển nhiên tâm hồn anh bị xúc động mạnh khiến anh chới với, hụt hẫng không biết phải làm ǵ. Ngay trong giây phút đó, tự nhiên anh bỗng cảm thấy như vừa trút bỏ được một gánh nặng, không phải khó nhọc, không phải lo lắng nữa. Cái cảm giác này chỉ tồn tại rất ngắn v́ hiển nhiên bộ óc lư luận của anh sẽ làm việc ngay, nó sẽ thu xếp mọi sự để đi đến một kết luận về biến cố vừa xảy ra kia. Nó sẽ quy lỗi cho một nguyên nhân nào đó khiến anh cảm tức giận hay tuyệt vọng. Chính v́ thói quen lư luận này mà anh bị lôi kéo vào một mê hồn trận khiến tâm hồn anh luôn luôn bị động, không c̣n tự chủ được nữa. Cái giây phút ngắn ngủi của sự tĩnh lặng thoảng đến trong lúc đầu, trước khi lư trí của anh hành động, chính là cơ hội ngàn vàng để anh có thể tránh được sự lôi kéo vào trạng thái bị động này. Cũng giống như giây phút "hốt nhiên chứng ngộ" của các vị thiền sư, đó là một khoảng trống mà một người biết sống trong tỉnh thức có thể sử dụng để kéo dài cái trạng thái tĩnh lặng đó, không để cho bộ óc lao xao đầy lư luận lôi kéo và chính đó là cơ hội mà sự giải thoát có thể xảy ra.
Giai đoạn chuyển tiếp giữa sự sống và sự chết cũng như thế, chỉ một hơi thở đầy tỉnh thức mà một người công phu tu tập có thể phá tung lưới sinh tử, thoát ṿng kiềm tỏa của nghiệp lực.
Nghiệp lực là sức mạnh của các thói quen xuất phát từ thân, khẩu và ư. Chúng sinh trải qua bao kiếp luân hồi đă tạo biết bao nhiêu nghiệp lành cũng như dữ, dưới h́nh thức của chủng tử này sẽ phát động. Nghiệp có thể chia làm hai loại: Tích lũy nghiệp, là nghiệp chất chứa từ lâu, tùy theo nhân duyên dần dần phát động, và Cận tử nghiệp phát động ngay trước khi chết. Thí dụ một người làm nhiều việc lành đáng kể nhưng trước khi chết lại gây ra một nghiệp ác và nghiệp quả này phát động ngay (Cận tử nghiệp) nên thay v́ được hưởng các điều lành, người đó lại bị đọa lạc vào ba đường ác. Dĩ nhiên những nghiệp lành kia không hề mất nhưng tiềm ẩn và sau khi trả dứt nghiệp ác, người nọ sẽ hưởng các điều lành theo đúng nguyên tắc của luật nhân quả. V́ không ai biết nghiệp quả nào sẽ tạo tác trong giờ phút lâm chung nên sự tỉnh thức và tự chủ trước khi chết là một yếu tố hết sức quan trọng. Cuốn Tử Thư đă ghi rơ: "Tâm trạng của người chết sẽ quyết định cảnh giới nào mà người đó sẽ đến", do đó cuốn sách này đă dành hẳn ra một chương cho các nghi thức hướng dẫn người lúc hấp hối để họ có thể thoải mái, an lành khi bước vào thế giới bên kia.
Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng chuyên nghiên cứu về các cảnh giới bên kia cửa tử đă viết: "Không ǵ làm tôi ngạc nhiên bằng thái độ của người Âu Mỹ đối với sự chết. H́nh như người ta coi đó là một sự kiện bất b́nh thường, một điều ghê tởm đáng sợ và đáng tránh. Tôi thấy h́nh như đa số mọi người đều qua đời tại những nơi chốn xa lạ như tại bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, rất íy ai được chết yên ổn tại nhà. Đă thế họ qua đời không người hướng dẫn, không ai cử hành một nghi thức nào cho đến khi người đó hoàn toàn chết hẳn. Lần đó tôi gặp một thiếu phụ đang hấp hối về chứng ung thư. Cả gia đ́nh tề tựu an ủi và khuyên bà ta hăy cố gắng chống trả căn bệnh ngặt nghèo đó. Người chồng nói: 'Đừng tuyệt vọng. Đừng buông xuôi tay. Hăy tiếp tục phấn đấu'. Các con bà cũng khuyên: 'Hăy vui vẻ, lạc quan'. Dường như họ nghĩ rằng việc phấn đấu và lạc quan đó sẽ làm cho căn bệnh ngặt nghèo kia phải chấm dứt. Người đàn bà đă mệt lắm rồi, mạch bà đập yếu ớt. Bác sĩ khám nghiệm và xác nhận bà chỉ có thể sống trong ṿng vài giờ nữa thôi. Cả gia đ́nh bèn rút lui để lo việc tống táng, mặc cho thiếu phụ chịu đựng giờ phút ghê gớm, đầy sợ hăi lúc lâm chung đó là một ḿnh, không ai giải thích cho bà biết cách chấp nhận sự chết, không ai chia sẻ giờ phút kinh khủng đó với bà, không ai hướng dẫn cho bà, mà mặc bà chịu đựng nỗi đau đớn vô vàn đó một ḿnh. Hiển nhiên truớc hoàn cảnh như thế, làm sao bà có thể ung dung mà bước qua cơi giới bên kia được? Tại sao một quốc gia đă phóng được phi thuyền lên tận không gian lại không có đủ những tiện nghi tối thiểu để giúp người chết thoải mái về phương diện tinh thần? Điều ngạc nhiên thứ hai của tôi là sự xa xỉ quá độ trong các nghi thức tống táng. Người Âu Mỹ có thể tổ chức những đám tang rất tốn kém với những cỗ quan tài trị giá bằng cả một gia tài, những ṿng hoa khổng lồ, những ban nhạc được thuê bao đặc biệt, nhưng h́nh như không ai có thời giờ chân thành cầu nguyện cho người quá cố cả. Mặc dầu vẫn có những nghi lễ tôn giáo nhưng gia quyến quá bận rộn đón tiếp những người đến chia buồn nên đă quên rằng người cần được giúp đỡ là người vừa nằm xuống chứ đâu phải là những người c̣n sống. Phải chăng họ ỷ lại vào các giáo sĩ chuyên nghiệp cầu nguyện là đủ rồi? Có lẽ v́ việc không chấp nhận sự chết, sợ hăi sự chết, ghê tởm sự chết mà họ đă hành động như vậy chăng? Nếu họ hiểu rằng chết là một sự kiện tự nhiên, một diễn tiến b́nh thường như người đi du lịch nơi xa, hay được học hỏi về cảnh giới bên kia cửa tử th́ có thể họ đă hành động khác".
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, một nhà khảo cứu nổi tiếng nhất hiện nay về sự chết, cũng đă viết: "Một bác sĩ trẻ tuổi mới tốt nghiệp đến gặp tôi. Anh vừa khóc vừa nói: 'Ngày đầu nhận việc tại một bệnh viện, tôi gặp một bệnh nhân già yếu đang hấp hối, thân quyến của ông ở xa chưa về kịp nên ông nằm một ḿnh với nỗi lo sợ hằn trên khuôn mặt đầy vết thời gian. Ông nắm chặt tay tôi như không muốn rời: 'Này bác sĩ, liệu Thượng Đế có cứu tôi không? Tôi là kẻ có tội, tôi đă làm nhiều điều tội lỗi, liệu tôi có xuống địa ngục không?' Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Tôi là một bác sĩ y khoa, không phải một giáo sĩ. Tôi không hề được huấn luyện để đối phó với trường hợp như thế. Tôi cố gắng gỡ tay ông lăo ra nhưng ông bám chặt lấy tay tôi không rời. Hai người y tá phải bước đến dùng sức mạnh mới gỡ được bàn tay của ông lăo ra. Chúng tôi quyết định đưa ông lăo vào một căn pḥng tối để ông có thể chết một cách yên tĩnh. Ông nằm đó rên rỉ về những cảnh tượng địa ngục mà ông nghĩ sẽ phải đến. Chúng tôi cho gọi vị giáo sĩ trực trong bệnh viện đến giúp ông ta, nhưng lúc đó có quá nhiều người chết, vị này bận rộn không thể đến được. Ông lăo nằm đó rên rỉ suốt mấy ngày liền, không sao chết được. Vị bác sĩ trẻ tuổi đặt câu hỏi: 'Thưa bà, trong trường hợp như vậy tôi phải làm ǵ đây?" Bác sĩ Kubler Ross nhấn mạnh: "Điều đáng nói là đa số chúng ta, những người chuyên môn trong lănh vực y khoa, không hề có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi kể trên. Phải chăng chúng ta đă trở nên mất nhạy cảm, lạnh lùng sắt đá trước sự chết? Phải chăng đă chứng kiến quá nhiều cảnh tượng này nên chúng ta không buồn lưu tâm đến vấn đề đó nữa? Phải chăng sau khi đă làm tṛn bổn phận một y sĩ là cố gắng cứu chữa bệnh nhân nhưng biết không thể làm ǵ hơn, chúng ta đă bó tay, mặc cho số mệnh mà quên rằng điều bệnh nhân cần là sự giúp đỡ của chúng ta trên phương diện tinh thần chứ không phải vật chất nữa?"
Thế nào là sự giúp đỡ trên phương diện tinh thần? Theo các danh sư Tây Tạng, điều quư báu nhất một người có thể giúp cho người sắp từ trần là làm sao để họ không sợ hăi (vô uư thí). Trước khi có thể giúp cho người khác không sợ hăi th́ chính người cho phải b́nh tỉnh, thoải mái và không sợ hăi đă. Điều này không đ̣i hỏi người cho phải làm những điều ǵ khác thường nhưng ít ra người đó phải có một ḷng yêu thươnng chân thành và sự hiểu biết sáng suốt. V́ người sắp chết thường lo lắng, hốt hoảng, có thể nói năng hàm hồ, không sáng suốt do đó người đến an ủi phải biết cách lắng nghe, giữ yên lặng để cho người kia thổ lộ tâm can. Thông thường sau khi được nói một cách thoải mái, người sắp chết dần dần b́nh tĩnh và bày tỏ nỗi lo sợ, ḷng nghi ngờ, các thắc mắt hay tâm trạng của họ đối với đời sống. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Đây là lúc các chủng tử chất chứa trong tàng thức bắt đầu phát động, các yếu tố của Cận tử nghiệp bắt đầu hiện hành, giống như một ngọn đ èn sắp cạn dầu chỉ c̣n bùng lên một lúc trước khi tắt ngún..." Các danh sư Tây Tạng khuyên: "Hăy cố gắng giữ yên lặng, lắng nghe người sắp chết tâm sự, hăy mở rộng tâm hồn, tránh không phán đoán hay phản ứng v́ không ǵ tai hại hơn sự phán đoán trong lúc này. Hăy đem hết t́nh thương truyền trao cho họ, khuyến khích họ giăi bày tâm sự và đừng quan trọng hóa những điều họ nói đó. Đôi khi v́ những chủng tử xấu phát động mà người đó có thể nổi sân si, la hét mắn chửi, kêu gào vào những lúc bất ngờ nhất. Hăy tự chủ và biết rằng một người đang mất b́nh tĩnh, đang chịu đựng những nghiệp quả bất ngờ, không ư thức rơ rệt v́ về hoàn cảnh lúc đó thật không đáng trách. Nhiều người v́ quá thương xót đă lên tiếng khuyên giải nhưng sự kiện này có thể làm người sắp chết thêm giận dữ mà thôi. Sự yên lặng, chăm chú lắng nghe và không phản ứng là món quà quư giá nhất, v́ hơn bao giờ hết, người sắp chết đang cần sự thông cảm và thương yêu. Đừng nghĩ rằng ḿnh có thể cứu được người kia hay có thể làm được điều ǵ tốt hơn mà hăy giữ yên lặng v́ chúng ta không biết rơ được tâm thức của người sắp chết khi đó ra sao". Để giữ b́nh tĩnh và lắng nghe, các vị thầy Tây Tạng đă chỉ dạy một phương pháp quán tưởng như sau: "Hăy giữ vững hơi thở cho thật đều, đừng xem người sắp chết như một người thân hay một người đang cần giúp đỡ mà hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành. V́ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hăy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành có hào quang sáng chói, mọi sự đau khổ, kêu la than khóc của họ chỉ là một đám mây mù và trước sau sẽ tan ra khi ánh sáng của Phật tánh chiếu sáng. Nhờ phép quán đó mà người giúp đỡ sẽ khơi dậy mầm mống thương yêu nơi ḿnh, b́nh tĩnh và hoàn tất việc yên lặng lắng nghe một cách hữu hiệu hơn".
Sự yên lặng, lắng nghe là bước đầu tiên trong việc giúp đỡ người sắp qua đời, nhưng nếu đă thành công trên phương diện này, người ta có thể đi vào bước thứ hai là việc làm khơi dậy các chủng tử thiện. Cuốn Tử Thư ghi nhận: "Trong tàng thức con người có đầy đủ mọi hạt giống thiện ác, xấu tốt và nếu biết khéo léo khơi dậy các chủng tử thiện, sẽ giúp cho người sắp chết tránh được các Cận tử nghiệp xấu xa". Khi người sắp chết thố lộ tâm sự, đừng chú ư tới những điều tội lỗi, xấu xa người đó đă làm mà chỉ nên đặc biệt chú trọng đến những điều người đó hănh diện, thích thú, tự hào. Lúc lâm chung, ai cũng cảm thấy sợ hăi, lo sợ, hối hận hay tuyệt vọng, nhưng đôi khi họ cũng vô t́nh đề cập đến một điều ǵ tốt đẹp mà họ đă làm. Hăy khuyến khích hay nhắc nhở người đó khai triển đề tài này để cho thần thức của họ bớt mặc cảm sợ hăi, để họ thấy rằng cuộc đời của họ cũng có những lúc tốt đẹp, tươi sáng đem lại cho họ một hy vọng. Nếu họ chuyển qua những viêc vừa ư hơn điều bất như ư th́ các chủng tử xấu xa, tội lỗi không có dịp phát động, nhường chỗ cho các chủng tử thiện và điều này có thể đem lại những kết quả tốt đẹp bất ngờ.
Trong khóa huấn luyện các bác sĩ y khoa, bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă dạy: "Thật không có ǵ tốt đẹp hơn là làm cho người sắp chết trút được nỗi lo sợ, đem lại cho họ một niềm hy vọng. Nếu một người đặt câu hỏi: 'Tôi là kẻ tội lỗi, liệu Thượng Đế có tha thứ cho tôi hay không?' th́ các bạn phải biết trả lời: 'Thượng Đế chính là t́nh thương. Trong t́nh thương luôn luôn có sự tha thứ. Chúng ta đều là con của ngài th́ lẽ nào ngài lại có thể không tha thứ cho con của ngài được?' Hiển nhiên không phải người nào cũng có đức tin tôn giáo, nhiều người nghĩ rằng nếu đem đức tin đến cho người sắp chết th́ họ sẽ được thoải mái hơn. Bác sĩ Rubler Ross khuyên: "Chúng ta cần thận trọng trong việc này. Nếu người đó yêu cầu, dĩ nhiên chúng ta nên làm, c̣n nếu không, đừng nên quan trọng hóa nó. Biết đâu trong đời người đó đă có ác cảm với một tôn giáo nào đó và việc khơi dậy nhữnh điều này có thể mang lại những hậu quả tai hại bất ngờ".
Phần lớn mọi người đều sợ chết v́ không ai biết chết sẽ đưa họ đến đâu! Cái quan niệm chết là hết, là mất tất cả, nhà cửa, tài sản, vợ con, thân quyến, và ngay cả chính ḿnh nữa là một điều hết sức ghê gớm không mấy ai muốn nghĩ đến. Đó là chưa kể sự sợ hăi về một nơi gọi là "địa ngục" nên hiển nhiên chẳng ai muốn giáp mặt với sự chết hay có thể chấp nhận nó dễ dàng.
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đă phân tích tâm trạng con người khi phải giáp mặt với sự kiện này qua năm trạng thái tâm lư như sau: Phủ nhận, giận dữ, lư luận, buồn nản, và chấp nhận. Hiển nhiên thoạt biết ḿnh bị bệnh nặng có thể chết, trạng thái tâm lư tự nhiên của con người là phủ nhận nó. Nhiều bệnh nhân đă từ chối không chịu uống thuốc hay chấp nhận việc chữa trị. Họ tự đánh lừa ḿnh rằng họ không làm sao hết, họ đổ lỗi cho bác sĩ chẩn bệnh sai, rồi t́m một bác sĩ nào đó có thể nói khác hơn. Giai đoạn này thường kéo dài rất lâu, gây khó khăn cho việc chữa trị. Nhiều người đă không vượt qua được trạng thái này và đến khi chết vẫn tin rằng ḿnh không hề làm sao cả. Nếu vượt qua giai đoạn phủ nhận này th́ đa số thường trở nên giận dữ, than thân trách phận, t́m cách trách móc, đổ lỗi cho những người chung quanh. Họ dễ nổi giận vô cớ, hay gây gổ và có những lời nói hay cử chỉ nóng giận bất thường. Có người đến khi trút hơi thở cuối cùng vẫn c̣n chỉ trích, trách móc người khác. Vượt được giai đoạn này, phần lớn người bệnh rơi vào trạng thái tâm lư phức tạp với những lập luận, tin tưởng lạ thường như có một "phép lạ" xảy ra, một phát minh mới mẻ được khám phá, một loại thần dược có thể chữa lành mọi thứ bệnh, rồi bám lấy hy vọng viển vông, hăo huyền này. Đây là lúc các bệnh nhân đi t́m những phương pháp chữa bệnh khác với lối chữa trị thông thường, đi t́m an ủi qua những điều huyền hoặc hay có những lập luận rất lạ lùng về t́nh trạng của họ. Nếu qua được giai đoạn này, đa số bệnh nhân sẽ cảm thấy tuyệt vọng, lúc nào cũng buồn chán, không biết làm ǵ nữa. Đây là lúc họ buông xuôi, mặc cho số phận an bài. Họ thường tủi thân, khóc lóc và hơi một chút bất như ư là động ḷng, cho rằng không ai thông cảm hay hiểu họ hết. Cuối cùng là giai đoạn chấp nhận. Đây là trạng thái quan trọng có thể giúp người sắp chết được thảnh thơi, ung dung tự tại bước qua thế giới bên kia. Nếu biết rơ người sắp chết đang ở trong trạng thái tâm lư nào, người ta có thể giải thích cho họ hiểu để giúp họ vượt qua các khó khăn trở ngại và chấp nhận sự chết một cách dễ dàng hơn.
Bác sĩ Ross kết luận: "Người sắp chết không ao ước ǵ hơn là sự cảm thông và ḷng thương yêu của những người chung quanh. Chúng ta không cần phải khuyên giải hay nói với họ những điều cao siêu to lớn mà hăy tự nhiên thành thật và biết chia sẻ những giây phút cuối cùng với họ là đủ".
Theo cuốn Tử Thư, giây phút lâm chung hết sức quan trọng, có thể quyết định số phận và tương lai của người chết. Vào lúc đó, tất cả mọi chủng tử của nghiệp lực chất chứa trong tàng thức đều sẵn sàng phát động. Nếu ra đi với một tâm trạng an lành thoải mái, người quá cố sẽ dễ siêu thoát và tránh được ba đường ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), và ngược lại, bất cứ một biến cố ǵ xảy ra trong lúc đó khiến họ xúc động, phát động các tư tưởng quyến luyến, giận hờn th́ hậu quả thật không biết đâu mà lường.
Cuốn Tử Thư ghi rơ: "Tâm trạng của con người lúc chết sẽ quyết định nơi chốn hay cảnh giới mà họ sẽ đến". Đó là một lư do người Tây Tạng chuẩn bị rất kỷ cho lúc lâm chung trong khi người Âu Mỹ, v́ thiếu hiểu biết, đă hết sức bất cẩn vào những giờ phút quan trọng nhất. Đa số người hấp hối đều được đưa vào bệnh viện. Người ta cố gắng dùng những dụng cụ y khoa, những liều thuốc kích thích thật mạnh như một giải pháp cuối cùng để kéo dài thêm sự sống thay v́ chấp nhận rằng đă đến lúc phải để người đó ra đi một cách an lành, thoải mái. Bác sĩ Melvin ghi nhận: "Người ta đă lạm dụng khoa học và kỷ thuật một cách vô ư thức, dường như việc kéo dài đời sống thêm dài giờ, vài phút là một điều mà người y sĩ phải thực hiện cho kỳ được. Tôi thấy người ta sử dụng các dụng cụ làm hồi tim bằng điện, các liều thuốc kích thích cực mạnh cho những người già yếu không thể kéo dài đời sống thêm bao lâu nữa. Dường như người y sĩ quan niệm rằng c̣n nước c̣n tát, dù thâm tâm họ biết rằng bệnh nhân đó khó sống quá vài giờ nữa. Sự gây bạo động trên thân thể người già bằng các dụng cụ y khoa, các thuốc men hóa học dĩ nhiên gây xáo trộn cho tâm lư người chết và tôi không hiểu tâm trạng của người đó lúc từ trần sẽ ra sao! Chắc chắn một người bị điện giật lung tung, bị dao kéo mổ khắp ḿnh, bị chích đủ các loại thuốc không thể nào thoải mái hay b́nh tĩnh mà ra đi cho được". Linh mục Thomas Merton cũng cảnh cáo: "Phần lớc các quốc gia tân tiến đă bỏ nhiều tiền bạc và công sức để t́m các phương pháp kéo dài sự sống, dù chỉ trong vài giờ, vài ngày nhưng không hề chú ư đến việc giáo dục con người về ư nghĩa của đời sống hay giúp họ cách giáp mặt sự chết, điều mà không ai có thể tránh được. Phải chăng nền văn minh kỹ thuật càng tân tiến, người ta càng mất hết nhân tính?" Sự tiến bộ của khoa học đă tạo ra một vấn đề hết sức nan giải, đó là sự kéo dài đời sống qua các máy móc nhân tạo (Life support system). Liệu chúng ta có muốn cho người thân tiếp tục sống trong trạng thái vô tri, vô giác bởi các máy móc đó không? Ai có thẩm quyền rút những máy móc này ra để cho người chết có thể ra đi một cách thoải mái? Đây là một đề tài đang được bàn căi sôi nổi nhưng chưa đi đến một kết luận nào. Trước khi đi xa hơn, chúng ta hăy theo dơi diễn tiến của sự chết.
Theo cuốn Tử Thư, tùy theo nghiệp quả (karma) mà đời sống mỗi người có một số phận hay thời gian nhất định. Sự chết xảy ra khi nghiệp quả đă trả xong, các nhân duyên đă hội đủ và đời sống chấm dứt như ngọn đ èn hết dầu phải tắt. Tuy thế, thời gian của kiếp sống không hoàn toàn cố định mà có thể thay đổi, hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn, tùy theo nhân duyên và thái độ của con người đối với cuộc sống. Một người biết thực hành các phương pháp thiền định, dưỡng sinh hay làm việc phúc đức có thể kéo dài thêm tuổi thơ, trái lại, một người không biết lo lắng cho thân và tâm, hay làm các điều ác th́ có thể chết trước khi phận số đến. Người Tây Tạnh tin rằng việc không ăn thịt cá, không sát sinh có thể kéo dài thêm đời sống, cứ bảy năm ăn chay có thể kéo dài tuổi thọ thêm một năm, hay việc phóng sinh chim cá có thể giúp người ta thoát khỏi các căn bệnh hiểm nghèo. Đây là một tin tưởng dựa trên luật nhân quả, giết hại sinh vật th́ đời sống ḿnh bị ngắn đi và phóng sinh hay giúp đỡ các sinh vật khác th́ đời sống có thể tăng thêm.
Hiển nhiên đă sinh ra th́ ai cũng phải chết, nhưng thái độ việc sinh ra hay lúc chết đi phản ảnh rơ rệt sự khác biệt giữa phong tục Tây Tạng và các quốc gia Tây phương. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng đă viết: "Trong khi người âu Mỹ chú trọng đến ngày sinh th́ phong tục Tây Tạng lại chú trọng đến ngày chết. Người Âu Mỹ thích nói đến lúc sinh đứa bé khỏe mạnh ra sao, cân nặng bao nhiêu kư, giống cha hay giống mẹ và ăn mừng ngày sinh nhật. Trong khi đó, người Tây Tạng lại nói đến việc tổ tiên của ḿnh đă chết như thế nào và kỷ niệm ngày giỗ rất trọng thể v́ giá trị của một người không được đánh giá bằng danh vọng hay tài sản nhưng bằng đời sống nội tâm. Một cái chết phi thường hẳn biểu lộ một đời sống phong phú về nội tâm, và một người biết trước giờ chết, chuẩn bị dặn ḍ con cháu sẵn sàng, ngồi xếp bằng đọc kinh rồi thản nhiên trút hơi thở cuối cùng là một cái chết mà người Tây Tạng nào cũng muốn. Đôi khi sự ham muốn này đă tạo ra những sự kiện đáng tiếc như sau: Có một vị Lạc ma nổi tiếng có rất đông đệ tử. Không hiểu ông nghĩ sao mà đoán trước được giờ chết. Ông công bố tin này cho học tṛ và chuẩn bị một cái chết rất thịnh soạn. Trong nhiều tuần lễ, đệ tử khắp nơi kéo về đây nghe dặn ḍ và chuẩn bị ăn mừng ngày thầy ra đi. Vị này ngồi bằng nhập thiền, học tṛ quây quần chung quanh chờ đợi nhưng mấy ngày trôi qua mà vị thầy vẫn không chết. Sau đó ngồi lâu đói bụng, ông này bèn gọi học tṛ mang cơm ra cho thầy ăn. Học tṛ thất vọng rủ nhau bỏ đi hết v́ nghĩ rằng vị thầy thiếu kinh nghiệm tâm linh. Buổi lễ lonh trọng đó đă biến thành một vở bi hài kịch".
Đối với các vị công phu tu hành th́ thái độ của họ khác hẳn. Bác sĩ Runolfo Sanchez Đă viết về cái chết của một Ḥa thượng Gyawang Karmapa tại một bệnh viện Hoa kỳ vào năm 1891 như sau: "Ḥa thượng là một người trầm tỉnh ít nói nhưng trên môi luôn luôn mỉm cười. Khi chúng tôi chẩn bệnh và nói rằng ngài khó qua khỏi đêm đó th́ ngài lắc đầu vá nói rằng chưa đến lúc ngài ra đi. Mặc dù tất cả các triệu chứng cho thấy căn bệnh đă đến lúc ngặt nghèo, khó ai có thể kéo dài sự sống thêm được nhưng Ḥa thượng vẫn lạc quan, và sau cùng chúng tôi thấy rằng ngài luôn luôn có lư. Cứ thế từ ngày này qua ngày nọ, mặc dù bệnh t́nh không thuyên giảm nhưng Ḥa thượng cho biết chưa đến lúc ngài ra đi, và sau nhiều lần tiên đoán không đúng, chúng tôi đ ành giữ thái độ im lặng. Chúng tôi biết căn bệnh này gây đau đớn cho bệnh nhân rất nhiều nên muốn dùng thuốc mê nhưng ngài nhất định không chịu. Một hôm ngài cho biết đă đến lúc ra đi và yêu cầu tôi gọi nhân viên trong bệnh viện đến để ngài cám ơn họ. Nh́n ngài vui vẻ nói chuyện với mọi người, không ai nghĩ rằng chỉ trong giây phút sau ngài ngồi xếp bằng và trút hơi thở cuối cùng. Ba ngày sau khi ngài qua đời, ngực ngài vẫn ấm và thân thể của ngài không có một dấu vết hư hoại ǵ. Đây là một điều mà chúng tôi không thể giải thích".
Theo cuốn Tử Thư, diễn tiến của sự chết có thể tạm chia ra làm hai giai đoạn: Giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất và giai đoạn tan ră của các yếu tố tinh thần. Người Tây Tạng tinh rằng phần vật chất của con người được cấu tạo bởi Tứ Đại hay các yếu tố như Đất, Nước, Gió, Lửa. Khi các yếu tố này tan ră th́ con người không thể sống được. Nhờ biết quan sát khí sắc hay khả năng hoạt động của các giác quan thay đổi như thế nào mà một vị thầy Tây Tạng có thể hướng dẫn được cho người chết. Sự chết xảy ra khi các phần tử vật chất khởi sự tan rẽ, bắt đầu bằng những giác quan. Người sắp chết có thể vẫn nghe được tiếng người nói nhưng không c̣n hiểu được ư nghĩa câu nói đó v́ thính giác đă ngưng hoạt động. Họ không thể nh́n rơ các h́nh ảnh chung quanh, tất cả từ từ mờ nhạt không c̣n rơ rệt v́ thị giác đă bắt đầu ngưng hoạt động. Cũng như thế, các giác quan như khứu giác, vị giác, xúc giác cũng ngưng hoạt động khiến người đó bước vào trạng thái mê man. Sau đó yếu tố Đất khởi sự tan ra, các bắp thịt trở nên ră rời, không thể chống đỡ được toàn thân, người hấp hối có cảm tưởng như ḿnh đang bị một ngọn núi đ è nặng lên toàn thân. Khi yếu tố Đất tan ră xong th́ yếu tố nước khởi sự tan ra, các chất lỏng trong cơ thể không c̣n vận hành b́nh thường được nữa, nước mắt nước mũi tự nhiên trào ra, nhiệt độ trong người thay đổi nóng lạnh bất thường. Sau đó yếu tố Lữa bắt đầu tan ră, người chết tự nhiên thấy khát nước, chân tay trở nên lạnh ngắt và sau đó họ không c̣n tỉnh táo nữa. Khi yếu tố lữa tan ră hết th́ yếu tố Gió bắt đầu tan ră, hơi thở người chết trở nên yếu dần và cuối cùng dứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, không c̣n biết ǵ nữa. Đối với y khoa Tây phương th́ tim ngừng đập, óc ngưng hoạt động là lúc người đó coi như đă chết, nhưng theo cuốn Tử Thư th́ giai đoạn tan ră của các phần tử vật chất này mới chỉ là bắt đầu v́ giai đoạn thứ hai, sự tan ră của các yếu tố tinh thần có hoàn tất th́ người đó mới có thể coi là thực sự đă chết.
V́ yếu tố Gió hay hơi thở là yêu cầu tâm thức nối liền tâm và thân nên khi yếu tố này tan ră, nó sẽ ảnh hưởng vào các trạng thái tâm thức bên trong và sự tan ră của các yếu tố tinh thần bắt đầu xảy ra. Các tinh lực của con người khi đó từ từ rút theo các đường kinh mạch để hội tụ chung quanh trái tim, do đó dù đă chết, thân thể đă lạnh nhưng người ta thấy phần ngực người chết vẫn c̣n hơi nóng. Các yếu tố thuộc về lư trí nằm trên óc được di chuyển đến phần ngực, các yếu tố thuộc về t́nh cảm nằm ở dưới bụng cũng di chuyển lên phần ngực và khi hai yếu tố này gặp nhau ở kinh mạch nằm cạnh trái tim, một sự thay đổi lớn bắt đầu xảy ra. Các phần tử căn bản của bản ngă bắt đầu tan ră, khởi đầu bằng sự tan ră của ba yếu tố chính hay tam độc (Tham, Sân, Si) và khi ba yếu tố này ngưng hoạt động th́ thần thức của con người trở nên minh mẫn hơn, họ sẽ ư thức mọi sự một cách rơ rệt v́ nói theo cuốn Tử Thư "khi các yếu tố thuộc về bản ngă tan ră, khi không c̣n bị mây mù của vô minh chi phối nữa th́ chân tâm bắt đầu hiển hiện". Đây là một giai đoạn hết sức quan trọng v́ ư thức được chân tâm hay Phật tánh chính là cơ hội để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Đối với người không tập luyện, không ư thức th́ giai đoạn này chỉ là một tia chớp lóe sáng lên rồi tắt ngúm, nhưng với người thực hành thiền định sâu xa th́ đây là cơ hội quư báu nhất v́ họ có thể chuyển thần thức, trụ vào trạng thái này để giải thoát. Đó cũng là lư do đa số các danh sư Tây Tạng đều nhập thiền vào giây phút lâm chung. Họ hiểu biết rất rơ diễn tiến của sự chết và nhờ thâm cứu cuốn Tử Thư, như đă có sẵn một tấm bản đồ trong tay, họ biết cách tập trung ư chí vào các câu thần chú, các biểu tượng Mandala, các h́nh ảnh ghi giữ trong tâm. Mỗi khi một yếu tố tan ră, họ chuyển thần thức để tập trung tư tưởng vào một bài chú đặc biệt, một h́nh ảnh nhất định để lúc nào họ cũng ư thức được từng giây, từng phút của các diễn tiến xảy ra cho đến khi bản ngă tan hết, chân tâm tỏ rạng th́ họ có thể tập trung mọi năng lực để ḥa nhập vào cái trạng thái uyên nguyên bất động này.
Điều này thật ra cũng không khác với lời chỉ dẫn trong kinh A Di Đà v́ một người chân thành cầu nguyện, vào phút lâm chung nếu niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn th́ họ có thể chuyển thần thức để bước vào cảnh giới Tịnh Độ.
Cuốn Tử Thư đă nói rất rơ về giai đoạn này như sau: "Chân như bản thể của mọi sự vật đều mở rộng ra, sáng chói như một bầu trời không một gợn mây, không gian trong suốt như pha lê và vầng rạng đông của chân tâm bắt đầu sáng tỏ". Danh từ "Sáng tỏ" (The dawn of luminosity) đă bị nhiều người hiểu lầm như một thứ ánh sáng nào đó. Theo đại sư Chogyam Trungpa th́ khi chân tâm hiển hiện, tất cả mọi sự đều trở nên rơ ràng, không c̣n một chút tăm tối nào. Danh từ "Sáng tỏ" ở đây chỉ có ư nghĩa trừu tượng khác với tăm tối hay vô minh chứ không có nghĩa là người đó thấy được một thứ ánh sáng sáng chói như nhiều người lầm tưởng. Có người nói rằng đây là giai đoạn giác ngộ (Enlightenment) nhưng đại sư Chogyam Trungpa không đồng ư v́ giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân, thấy được chân tâm chưa có nghĩa là giác ngộ mà c̣n phải ḥa nhập và sống trọn vẹn trong đó nữa. Ông viết: "Con người trải qua vô thượng kiếp sống, đă chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, đă thấy được chân tâm bao nhiêu lần, nhưng đă mấy ai biết nắm lấy cơ hội để giải thoát này? Giáo pháp của đức Thế Tôn đă được giảng dạy từ bao ngàn năm nay, người có duyên được nghe, được học cũng nhiều nhưng đă mấy người biết áp dụng nó để phá tan núi sinh tử? Phải chăng tai tuy nghe, mắt tuy thấy nhưng v́ không tỉnh thức, bị nghiệp lực chi phối nên họ không thể làm ǵ hơn là tiếp tục trôi nổi trong sinh tử luân hồi".
Dù có ư thức được chân tâm nhưng sự an trú vào đó lâu nay mau hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng hay công phu của người đó. Có người kinh nghiệm được trạng thái này trong ṿng vài giờ, vài ngày, vài tháng hay vài năm. Hiển nhiên nếu có thể an trú măi măi th́ họ hoàn toàn giải thoát rồi, nhưng không mầy ai được như vậy. Dù chưa hoàn toàn nhưng kinh nghiệm được chân tâm là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng quư báu, sau đó họ có thể chuyển thần thức để tái sinh vào những nơi chốn mà họ chọn lựa, đó là trường hợp các vị hóa thân. Đối với những người b́nh thường, khi yếu tố tinh thần tan ră hết th́ họ sẽ tiếp đi trong một thời gian dài khoảng ba ngày và lúc đó các thói quen được lưu trữ trong tàng thức bắt đầu thu xếp để chuẩn bị cho giai đoạn sau hay giai đoạn sống trong Cơi sáng (the luminous Bardo of Dharmata).
Theo cuốn Tử Thư, giai đoạn sống trong Cơi sáng (Dharmata) là lúc tâm thức con người biến hiện rất tế nhị v́ các yếu tố vật chất tan ră hết và chân tâm hiển hiện. Tiến sĩ David Bohn viết: "Khi vật chất tan ră th́ nó chuyển qua h́nh thức nắng lượng v́ vật chất chính là các năng lượng đă đông đặc lại". Khi vật chất khởi sự tan ră, thần thức dường như bị tê liệt khiến con người có cảm tưởng như đang ở trong một căn hầm tăm tối, không ư thức được điều ǵ nhưng khi bước sang giai đoạn Cơi sáng th́ họ thấy ḿnh lơ lửng trong một biển ánh sáng đặc biệt với các màu sáng huyền ảo. Đây là điều mà cuốn Tử Thư gọi là "lúc đêm chuyển qua ngày" hoăc "khi mặt trời chiếu sáng th́ bóng tối tan dần và sự thật phô bày rơ rệt". Mặt dù cuốn sách này hẳn một phần quan trọng để nói về Cơi sáng (the Bardo of Dharmata) nhưng đây là một phần rất khó hiểu, khó diễn tả nên thường được giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Có lẽ chính v́ thế, phần này đă tạo nhiều rắc rối, mâu thuẫn cho những người muốn t́m hiểu về nó, nhất là giới học giả Tây phương thường hay suy luận, phân tích một cách khoa học. Đa số những người này v́ thiếu kinh nghiệm tâm linh nên đă giải thích cơi này một cách sai lạc như một "kinh nghiệm về ảo giác" và có nhiều ngộ nhận đáng tiết.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết: "Chân lư có thể được diễn tả một cách tuyệt đối cũng như tương đối. Nếu một người có tŕnh độ hiểu biết thâm sâu th́ họ có thể kinh nghiệm ngay được sự tuyệt đối nhưng v́ số người này rất ít, do đó các danh sư đă phải sử dụng các tỉ dụ các lối nói trừu tượng bóng bẩy, các h́nh ảnh biểu tượng, các thí dụ giản dị để diễn tả nhưng cũng v́ thế mà nó chỉ có tính cách tương đối thôi. Sử dụng những ǵ tương đối để diễn tả điều tuyệt đối là việc rất khó nên người đọc cần hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn, những phần nhỏ rời rạc được góp nhặt lại để diễn tả những điều không thể diễn tả mà thôi. Người ta phải biết phân biệt, đừng lầm ngón chỉ mặt trăng với mặt trăng, đừng lầm những tỉ dụ bóng bẩy như những sự thật tuyệt đối".
Có nhiều người cho rằng đời sống ở cơi này rất thoải mái, sung sướng với những cảnh tương tự như cảnh giới ở cơi trần như người khác lại cho rằng khi bản ngă đă tan hết th́ không c̣n chủ thể hay đối tượng nữa, tất cả đều là cái vô cùng, cái đồng nhất, vô phân biệt, mà đă vô phân biệt th́ đâu c̣n có ḿnh, có người nữa. Đại sư Chogyam Trungpa viết: "Đây không phải là sự cảm nhận hay kinh nghiệm, v́ cảm nhận hay kinh nghiệm c̣n có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, đây chính là cái điều mà danh từ Phật giáo gọi là 'Tâm vô phân biệt' hay 'Bất nhị".
Khi bước qua Cơi Sáng, giai đoạn đầu tiên là hồi quang phản chiếu hay là sự quan sát lại tất cả những diễn tiến đă xảy ra trong kiếp sống vừa qua một cách trung thực. V́ bản ngă đă tiêu tan hết, không c̣n thành kiến hay tham sân si, nên đây là một sự quán sát trung thực và chính xác nhất. Tuy nói là quan sát nhưng đây chỉ là một lối nói có tính cách tương đối v́ theo các danh sư Tây Tạng, đây chỉ là một sự sắp xếp của định luật nhân quả, chuẩn bị các "nhân" cho kiếp sống tương lai. Giai đoạn thứ hai của sự sắp xếp này đă được người Tây Tạng sử dụng các h́nh ảnh, biểu tượng để diễn tả sự biến hiện của tâm thức từ trạng thái "Vô phân biệt" đến trạng thái "Phân biệt" hay từ "Bất nhị" chuyển qua "Nhị nguyên". Theo cuốn Tử Thư giai đoạn này kéo dài khoảng bảy ngày như sau:
Vào ngày đầu, có các tia sáng xoay vần, bầu trời hiện ra màu xanh dương và chíng giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá na, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện. Toàn thân Phật phát ra hào quang màu trắng chói sáng và gần đó có các h́nh ảnh của chư thiên với luồng ánh sáng mờ đục hơn cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của sân hận vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên người ta thường không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng xuất phát từ đứt Tỳ Lô Giá Na mà có ư hướng chuyển qua luồng ánh sáng của các chư thiên. Sân hận được giải thích như một h́nh thức tự vệ của bản ngă, nó không dám để cho "ḿnh" tiêu dung vào luồng ánh sáng chói lọi kia mà quay đầu t́m qua lối khác, thoải mái hơn, dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của sự thành lập hạt giống của bản ngă và cũng là động lực để ṿng luân hồi tiếp tục chuyển động, thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới của chư thiên.
Vào ngày thứ hai có các tia sáng của thủy đại màu dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới A Tu La.
Vào ngày thứ sáu, có một cầu vồng năm sắc xuất hiện. Trong mỗi màu sắc lại có thế giới của một vị Phật đồng xuất hiện. Ngoài ra c̣n có các vị kim cương hổ pháp và bốn mươi hai đấng thiên thể xuất hiện quanh đó như sẵn sàng tiếp dẫn người ta bước vào những thế giới tốt lành trang nghiêm thanh tịnh kia. Tuy nhiên các động năng của bản ngă cũng đồng thời trỗi dậy. Ḷng sân hận, kêu căn, nghi kỵ, ngă mạn, tham lam khiến người ta sanh tâm sợ hăi không dám bước vào những cảnh giới ấy mà t́m cách tránh né và bỏ qua cơ hội có thể giải thoát. Ngay từ lúc đó, những luồng ánh sáng mờ đục bắt đầu chiếu sáng để hướng dẫn con người đi vào sáu nẻo luân hồi, và khởi sự từ lúc đó, những năng lực của vô minh bắt đầu tạo tác.
Vào ngày thứ bảy, sự sắp đặt của các hạt giống sinh tử đă gần như hoàn tất vào cái thế giới "Bất nhị" của tâm vô phân biệt đă chuyển thành những cặp nhị nguyên, đối đăi. Có hai cánh cửa được mở rộng trước mặt. Cánh cửa của sự hiểu biết (Trời) dẫn lên trên và cách cửa của sự không hiểu biết (Súc sinh) dẫn xuống dưới. Tuỳ theo nghiệp lực lôi cuốn mà người ta sẽ đi lên cao hay xuống thấp, hoặc bước vào ba đường lành (Trời, Người, A Tu La) hay ba đường ác (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh). Sau đó, người ta bước vào giai đoạn thứ tư của ṿng luân hồi hay giai đoạn chuẩn bị để tái sinh.
Theo các danh sư Tây Tạng, tất cả các h́nh ảnh nói trên không phải ở bên ngoài đến mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức bên trong. Nằm sâu trong tâm thức là các năng lượng giải thoát biến hiện một cách tế nhị và phức tạp. Những năng lương này vốn vẫn hiện hữu nhưng thường tiểm ẩn v́ bị vô minh che phủ, hay nói một cách khác, v́ bị các động lực của bản ngă như tham lam, sân hận, kiêu căng, ngă mạn, nghi kỵ che lấp nên người ta không thể ư thức được chúng. Chính v́ không ư thức được chúng nên người ta tiếp tục bị nghiệp lực lôi kéo vào trong ṿng sinh tử luân hồi, nói một cách khác, công phu tu hành diệt ngă, loâi bỏ các thoái quen của Thân, Khẩu, Ư chính là một cách làm giải phóng các năng lượng giải thoát này. Một số học giả người Âu đă đặt câu hỏi: "Nếu người Tây Tạng nh́n thấy một vị Phật th́ một người Âu, không cùng tôn giáo, sẽ thấy ǵ?" Sogyam Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă trả lời: "Đây không phải là một kinh nghiệp hay một ảo ảnh mà là sự diễn tả bằng tỉ dụ, qua các biểu tượng về sự biến hiện mà người ta có thể giải thích bằng các h́nh ảnh khác nhau. Một người có đức tin vào thiên chúa có thể sẽ nh́n thấy Thương Đế, Đức Chúa, Đức Mẹ hoặc các đấng thiên thần. Vấn đề chính không phải là sự nh́n thấy ǵ ở chỗ ư thức rằng tất cả đều do tâm thức biến hiện. Tất cả mọi mầm mống thiện ác, tốt xấu đều ở tâm mà ra, tất cả đều do tâm đạo".
Theo đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với một người b́nh thường, sự chết có thể chỉ là một giấc ngủ dài mà thôi. Mặc dù diễn tiến của sự chết đă được giải thích rất rơ rệt từ cuốn Tử Thư nhưng không ai cũng chịu tỉnh thức để theo dơi từng giây từng phút như thế. Phần lớn con người khi trút hơi thở cuối cùng chỉ thấy ḿnh mê man trắng trong suốt và từ phương đông, đứt Phật Kim Cang A Súc Bệ, tượng trưng cho trí tệ viên măn, xuất hiện. Toàn thân ngài tỏa ra một thứ ánh sáng trong suốt, xuyên qua tất cả mọi vật nhưng gần đó có các h́nh ảnh lạ lùng, tương trưng cho cảnh giới địa ngục màu xám đục cũng đồng thời xuất hiện. Vị các nghiệp lực của si mê hay kiên chấp vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào luồng ánh sáng trong suốt kia. Cái trí suy luận của bản ngă bắt đầu hành động, nó không dám đối đầu với sự thật bằng bản ngă hay ngũ uẩn vốn không có thật, mà t́m cách ẩn ḿnh dưới lớp khói màu xám của vô minh. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới địa ngục.
Vào ngày thứ ba, có các tia sáng của địa đại màu vàng xuất phát từ phương nam. Chính giữa luồng sáng đó có đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, tay cầm viên minh châu sáng chói. Từ viên ngọc phát xuất những tia sáng màu vàng tượng trưng cho tam thiên đại thiên thế giới, oai nghi, trang nghiêm không ǵ sánh. Gần đó có một lớp ánh sáng màu xanh đờ đục, tượng trưng cho cảnh giới của loài người cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của kiêu căng, hănh diện, nghi kỵ vẫn c̣n chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp sáng màu vàng chói lọi kia. Cái ḷng hănh diện của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn nh́n vào sự vinh quang, lớn lao, trang nghiêm đẹp đẽ trong thế giới của đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh đục. Đây là giai đoạn đầu của các đông lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của loài người.
Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên ṭa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ích kỷ, tham lam, lo tích lũy tài sản vẫn c̣n phát chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng chói lọi kia. Ḷng tham lam của bản ngă sẽ hành động, nó không muốn bước vào sự vinh quang, đẹp đẽ của thế giới Cực Lạc kia mà cố gắng t́m cách ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu nâu đục. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của ngạ quỷ.
Vào ngày thứ năm, có các tia sáng của phong đại màu xanh xuất phát từ phương bắc. Chính giữa luống ánh sáng có đức Phật Bất Không Thành Tựu, tay cầm một cái chày kim cương h́nh chữ thập xuất hiện. Chung quanh có một lớp ánh sáng màu xanh thẩm, tượng trưng cho thế giới của A Tu La cũng đồng thời xuất hiện. V́ các nghiệp lực của ganh ghét, giận tức, tị hiềm, đố kỵ, do dự không nhất quyết cón chất chứa trong tàng thức nên đa số không dám nh́n thẳng vào lớp ánh sáng màu xanh chói lọi kia. Các động lực của ḷng hănh diện, ganh ghét, tị hiềm, đầy do dự của bản ngă sẽ hành động. Nó không muốn thấy có một cái ǵ tốt đẹp hơn, vinh quang hơn, đẹp đẽ hơn nó thay v́ ḥa nhập vào thế giới của đức Phật Bất Không Thành Tựu, nó lại t́m ẩn ḿnh vào lớp ánh sáng màu xanh thẫm vốn rồi thiếp đi một lúc, sau đó họ dần dần tỉnh lại và thấy ḿnh có thể chứng kiến tất cả mọi sự đă xảy ra trong cuộc đời (hồi quang phản chiếu). V́ khi đó bản ngă đă tan ră nên họ có thể chứng kiến rơ ràng mọi sự xảy ra đúng với sự thật chứ không c̣n bị các thành kiến chi phối nữa. Khi quan sát các diễn tiến này, họ sẽ ư thức được luật nhân quả đă hành động như thế nào, v́ lư do ǵ mà sự kiện đă diễn ra như thế, và từ đó tâm trạng của họ nảy sinh những mong cầu, ao ước vốn là những hạt giống (nhân) để chuẩn bị cho sự tái sinh sau này. Sự thu xếp này hết sức phức tạp v́ c̣n tùy theo những duyên nghiệp đă gây ra từ những kiếp trước. Chính những động năng này đă quyết định sự thành lập một bản ngă cho kiếp sống trong tương lai.
Tóm lại, chết không phải là hết v́ nó là điều kiện tất yếu của một kiếp sống sắp đến. Khi các nhân duyên của kiếp này đă hội đủ, kiếp sống phải chấm dứt và sau đó có sự thu xếp, sắp đặt lại tùy theo các mong cầu, ao ước, tùy theo các duyên nghiệp đă tạo, làm nhân cho kiếp sống về sau. Đời sống kiếp trước tạo nhân cho đời sống ở kiếp sau, và kiếp sau là quả của kiếp trước, liên miên bất tận không chấm dứt, đó chính là căn bản của luật luân hồi nhân quả. Sở dĩ người ta đau khổ v́ đă nhận thức sai lầm rằng sự vật vốn không thay đổi, cứ bám chặt lấy những ảo giác của vô minh, monh kéo dài đời sống để thỏa măn dục vọng, tạo măi những nghiệp lành dữ, và cứ thế trôi nổi trong luân hồi sinh tử.
Đối với đa số người Âu, chết là hết, là chấm dứt, là vĩnh viễn chia ĺa. Sau khi cử hành tang lễ một cách long trọng, người sống cho rằng họ không thể làm ǵ hơn được nữa. Đây là một sự sai lầm đáng tiếc v́ thiếu kiến thức và hiểu biết về thế giới bên kia. Đối với người Tây Tạng, việc chân thành cầu nguyện và hiểu biết cuốn Tử Thư để hướng dẫn người chết là một nghi thức quan trọng nhưng không phải ai cũng biết. Tuy nhiên người ta vẫn có thể làm được nhiều điều hữu ích mà không nhất thiết phải sử dụng đến cuốn Tử Thư.
Có nhiều cách giải thích về thời gian của giai đoạn từ khi chết cho đến lúc đầu thai như sau: Có người cho rằng một ngày ở bên cơi âm tương tự với bảy ngày ở cơi trần hay bảy ngày ở cơi âm tương ứng với bốn mươi chín ngày ở cơi trần. Do đó người ta phải cầu nguyện liên tiếp trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu tiên khi thần thức người chết c̣n đang phân vân chưa biết chọn nơi chốn nào để đi. Đây cũng là giai đoạn mà sự liên hệ với thân quyến c̣n nặng nên thần thức người chết vẫn quanh quẩn bên những người thân, có thể nghe được, ư thức được ḷng chân thành và sự hướng dẫn để biết đường mà đi đầu thai. Nếu không được hướng dẫn cẩn thận, thần thức mê muội dễ bị nghiệp lực chi phối hay bị các động lực bất hảo dẫn dắt đầu thai vào ba đường ác. Có người lại cho rằng cơi bên này có tất cả bảy tiến tŕnh khác nhau, mỗi tiến tŕnh dải bảy ngày, và tiếp theo tiến tŕnh đầu như vừa diễn tả ở trên c̣n có những tiến tŕnh khác. Thay v́ gặp năm vị Phật th́ người chết lại gặp năm vị ma vương, năm vị thiên thể, năm đấng thần linh.v.v..Tuy nhiên, dù giải thích theo quan niệm nào, thời gian khoảng bốn mươi chín ngày luôn luôn được coi là giai đoạn quan trọng nhất. Dĩ nhiên người ta không chỉ giới hạn việc cầu nguyện trong ṿng bốn mươi chín ngày thôi mà c̣n phải tiếp tục cầu nguyện sau đó nữa. Ḥa thượng Dudjom đă viết: "Giai đoạn bốn mươi chín ngày chỉ có ư nghĩa tương trưng thôi, có người sau khi từ trần chỉ ở cơi bên này một thời gian rất ngắn rồi đầu thai ngay và có những người khác cứ quanh quẩn bên cơi này cả trăm năm, có khi cả ngàn năm vẫn chưa chọn được nơi chốn đầu thai".
Một số họ giả người Âu cho rằng nghi thức đọc cuốn Tử Thư hướng dẫn người chết là vô lư v́ người đă chết đâu để nghe được nữa. Ḥa thượng Chogyam Trungpa đă giải thích: "Hiển nhiên người quá cố không thể nghe bằng thính giác được nữa, nhưng họ vẫn ư thức được bằng thần thức (consciousness). V́ đây là sự theo dơi bằng tư tưởng nên dù người ta đọc bằng tiếng Tây Tạng hay bất cứ ngôn ngữ ǵ, người chết vẫn có thể hiểu được. Sự truyền đạt bằng tư tưởng này đ̣i hỏi sự chân thành. Có thành thật th́ người khác mới cảm nhận được, và có cảm th́ mới có ứng, do đó các nghi lễ có tính cách nặng phần tŕnh diễn, thiếu thành thật, làm chỉ để cho xong, thật không có một ư nghĩa tốt đẹp ǵ hết". Một số người khác cho rằng khi chết, bản ngă đă tan ra hết th́ đâu c̣n ǵ để nghe nữa. Ḥa thượng Trungpa giải thích: "Không ai biết được người chết đang ở trong t́nh trạng hay giai đoạn nào. Nếu họ đang bước vào trạng thái kinh nghiệm chân tâm th́ có thể họ không ư thức được bao nhiêu nhưng thông thường trạng thái này chỉ xảy ra trong một chớp mắt, sau đó các năng lượng thuộc bản ngă tan ră lại được sắp xếp theo các định luật nhân quả (thời gian ở Cơi Sáng và chuyển thần thức để đầu thai), do đó họ vẫn có thể ư thức rơ rệt những sự kiện xảy ra chung quanh được". Dĩ nhiên việc đọc cuốn Tử Thư hay đọc kinh cầu nguyện cho người chết c̣n có những ảnh hưởng khác thuộc vấn đề tư tưởng, th́ chắc chắn có ảnh hưởng mà sự hiểu biết giới hạn không thể nghĩ bàn.
Một trong những vấn đề được bàn căi sôi nổi hiện nay là việc sử dụng các máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống (Life support system). Sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật này đă gây ra một t́nh trạng nan giải trên phương diện pháp luật, luân lư, đạo đức và gây khó khăn cho giới y sĩ cũng như thân quyến người chết. Việc sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, ở trạng thái vô tri vô giác này quả thật vô cùng đáng sợ. Liệu chúng ta có muốn cho người thân kéo dài đời sống như thế chăng? Ai có thẩm quyền kéo dài đời sống người khác bằng máy móc hay chấm dứt đời sống khi rút những máy móc này ra? Liệu một y sĩ có thể giúp bệnh nhân chấm dứt sự đau đớn thân xác bằng cách giúp cho họ t́m cái chết được không? Hiển nhiên đây là một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và không có câu trả lời chung nên phải tùy từng trường hợp mà giải quyết. Dĩ nhiên việc sử dụng máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống cho những người có hy vọng được cứu sống, như trong trường hợp tai nạn, bệnh tật là một chuyện, nhưng việc kéo dài đời sống cho những người không c̣n một hy vọng ǵ có thể được cứu sống hoặc quá già yếu, không thể sống thêm được nữa, lại là một vấn đề khác.
Theo cuốn Tử Thư, tâm trạng con người lúc từ trần hết sức quan trọng, việc sử dụng máy móc để kéo dài thêm đời sống chắc chắn sẽ gây khó khăn cho người chết. Dù cho người đó ở trong một t́nh trạng hôn mê (coma) nhưng thần thức của họ vẫn ư thức được mọi sự xảy ra chung quanh. Sự cố gắng kéo dài đời sống này có thể gây cho họ một sự bực bội, khó chịu, oán hận và chắc chắn họ không thể thoải mái, tự tại khi ra đi được. Bác sĩ Kubler Ross đă viết: "Thà để cho một người thoải mái trút hơi thở cuối cùng c̣n hơn để cho họ khổ sở sống một cách vô nghĩa bằng các phương tiện nhân tạo". Linh mục Thomas Merton cũng đă viết: "Sự sống không ra sống mà muốn chết cũng chẳng được v́ các máy móc nhân tạo này chính là sự giam giữ con người trong ngục tù của thể xác". Nhưng làm sao được khi đa số mọi người ngày nay đều chết trong bệnh viện hoặc nhà dưỡng lăo, dưới sự kiểm soát khắt khe của các y sĩ? Mà đa số y sĩ đều được giải bảo rằng "Bổn phận của người y sĩ là cứu sống bệnh nhân bằng bất cứ phương tiện nào và bằng mọi giá", do đó mới có thảm trạng mà bác sĩ Melvin Morse đă diễn tả: "Sự chết được ấn định bởi nhịp đập của tim, lượng oxygen trong máu, sự hoạt động của bộ óc nên khi tim ngưng đập th́ người ta sử dụng điện để kích thích cho tim đập lại, khi oxygen trong máu giảm đi th́ người ta sử dụng các phương pháp hô hấp nhân tạo hay các máy bơm dưỡng khí vào phổi, khi óc ngưng hoạt động th́ người ta chích đủ các loại thuốc hóa học để kích thích bộ óc làm việc. Đa số bệnh nhân thường bị điện giật lung tung, toàn thân đầy những vết chích, thân thể bơm đủ tất cả các loại thuốc cho đến khi y sĩ thấy đủ và ngừng tay th́ các tṛ này mới chấm dứt".
Để t́nh trạng này xảy ra, ngày nay một số người đă phải làm di chúc rằng nếu không c̣n hy vọng ǵ cứu sống nữa th́ để cho họ ra đi một cách an lành và tự nhiên. Việc làm di chúc này khá thịnh hành tại các quốc gia Tây phương và đa số những người hiểu biết đều thông báo cho bệnh viện hay y sĩ biết về tờ di chúc này khi họ phải vào bệnh viện.
V́ chết là một điều có thể xảy ra bất ngờ, không phải ai cũng có thọ mệnh lâu dài nên sự chuẩn bị khi trong nhà có người chết là một việc hết sức quan trọng. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đă khuyên: "Khi tim ngưng đập th́ người đó chưa hẳn đă chết, chỉ có phần vật chất đă ngưng hoạt động hay bắt đầu tan ră mà thôi. V́ phần tâm linh cần phải mất thêm một thời gian nữa mới tan ră (khoảng từ 8 đến 36 giờ), nên điều cần thiết là không nên di động đến thân thể người chết. Điều quan trọng nhất là phải tránh sự khóc lóc, ồn ào để thần thức người chết không bị quyến luyến hay đau khổ thêm. Hăy khởi sự tụng kinh cầu nguyện một cách chân thành và tránh các tiếng động ồn ào, náo nhiệt. Dĩ nhiên người chết không thể nghe được bằng các giác quan thông thường, nhưng v́ phần tinh thần c̣n đang hoạt động nên thần thức của họ vẫn có thể cảm nhận được những sự ồn ào, náo nhiệt này mà sinh tâm bối rối, khó chịu hay sân hận. Dĩ nhiên tang gia nào cũng có bối rối, nhưng đừng v́ thế mà bám vào các thói mê tín dị đoan hay lo chọn ngày giờ tốt, lo việc tùng ma chay mà quên đi những việc khác cần làm hơn. Người ta có thể đọc cuốn Tử Thư để hướng dẫn thần thức người chết nếu được huấn luyện về phương pháp này. Người ta cũng có thể niệm hồng danh đức Phật A Di Đà để cầu cho người chết được văng sinh về cơi Tây Phương Cực Lạc. Người ta cũng có thể đọc kinh cầu nguyện của các tôn giáo, điều quan trọng nhất chính là sự chí tâm chí thành chứ không phải đọc tụng như một cái máy. Nên nhớ người chết có thể đọc rơ tư tưởng người sống và chắc chắn cảm được mọi sự thiếu thành thật, nếu có. Sự cầu nguyện rất có ích v́ nó có thể giúp người quá cố b́nh tỉnh lại và cùng cầu nguyện theo. Khi tâm thức họ nhờ đọc kinh mà được sáng suốt, được an lạc th́ chắc chắn th́ họ sẽ được siêu thoát vào những đường lành. Nên tránh tất cả những việc sát sinh hay sử dụng các đồ ăn như thịt cá hay rượu v́ những thứ này thướng thu hút những vong linh thấp thỏi, những loài ma quỷ đói khát t́m đến. Khi thần thức người chết c̣n đang dao động, chưa b́nh tĩnh th́ sự tiếp xúc này không có ích lợi ǵ cả. Nên tránh các h́nh thức ma chay to lớn, linh đ́nh hay các thủ tục phiền phức v́ các luồng tư tưởng của đám đông thường phức tạp, lộn xộn, không giúp cho người chết được bao nhiêu. Hăy yêu cầu mọi người giữ yên lặng và chú tâm cầu nguyện một cách giản dị là tốt đẹp nhất. Sau khi chôn cất, hăy tiếp tục tụng kinh khuya sớm trong ṿng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu v́ đây là giai đoạn quan trọng hơn cả, khi các sự sắp xếp nhân quả chưa ngă ngũ rơ rệt, khi người chết c̣n có thể tỉnh thức để ḥa nhập vào các luồng ánh sáng để siêu thoát.
Mặc dù đa số người Tây phương thường chôn cất nhưng việc thiêu xác có nhiều lợi ích nhất. Thứ nhất, để người chết không c̣n quyến luyến thân xác, dễ siêu thoát. Thứ hai, lửa có một tác dụng đặc biệt để chuyển hóa các năng lực c̣n sót lại quanh thân xác, ngăn ngừa được sự kêu gọi của các phù thủy, pháp sư lợi dụng các năng lực này vào những việc bất hảo. Việc ướp xác chính là một lối sử dụng các năng lực này để lưu giữ âm binh, ḥng duy tŕ ảnh hưởng của tà môn.
(TK Sưu tầm)
|
Quay trở về đầu |
|
|
thaicuc Hội viên

Đă tham gia: 12 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 119
|
Msg 2 of 22: Đă gửi: 02 January 2005 lúc 6:50am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào Bác Thienkhoi!!
Hôm nay bác sưu tầm bài viết hay hết ư ! tiếp viết tiếp đi nhé bác tôi rất thich bài của bác !
Thân chào!!
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 3 of 22: Đă gửi: 02 January 2005 lúc 11:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi đă được đọc bản dịch cuốn TỬ THƯ (TÂY TẠNG) từ tiếng Đức (nguyên tác tiếng Tạng) từ khi nó mới là bản thảo chép tay. Tuy dịch từ Tiếng Đức nhưng người dịch dịch rất nhuần nhuyễn, thể hiện một tŕnh độ về Phật học rất cao, ng dịch lại có rất nhiều chú thích, bản thảo dày, mấy trăm trang viết tay. Nhưng hiện tôi không c̣n giữ được bản photocopy lại nữa. Đoạn trên chỉ là trích đoạn ngắn nhỏ của TỬ THƯ thôi (một phần của LỜI GIỚI THIỆU). Điều rất đáng buồn là các sách XB chui lén tôi thấy trên thị trường, mang tên TỬ THƯ nhưng nội dung thiếu sót trầm trọng, cắt xén, xuyên tạc, khiến sách trở nên rất mỏng và rất tầm thường.
Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 03 January 2005 lúc 1:53am
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 4 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 2:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
Sách Tây Tạng Về Sống Chết
---------------------
Tôi (TK) rất tiếc đă không giữ được bản photocopy bản dịch cuốn "Tử Thư" của Mật Tông Tây Tạng đc dịch từ Tiếng Đức (theo tôi một đề tài tâm linh tôn giáo như vậy th́ tiếng Đức dễ biểu đạt hơn Tiếng Anh). Dịch giả dịch và chú thích rất công phu. Nay có bản dịch này của Ni Trí Hải, chất lượng không bằng (xin lỗi), dịch từ Tiếng Anh, tôi xin chép lại cho đầy đủ.
---------------------
Dịch từ bản Tiếng Anh: "The Tibetan Book Of Living And Dying".
Nguyên tác tiếng Tạng cổ do Tác giả Sogyal Rinpoche viết.
Lời giới thiệu của đức Đạt Lai Lạt Ma (DALAI LAMA)
Trong tác phẩm này, thầy Soyal tập trung vào các vấn đề làm sao để hiểu ư nghĩa thực thụ của sự sống, làm sao để chấp nhận cái chết, và làm sao để giúp đỡ người sắp chết, và người đă chết.
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm th́ muộn. Theo tôi th́ có hai cách để xử với cái chết trong khi ta c̣n sống. Hoặc là ta tảng lờ nó, hoặc là ta chạm trán với viễn ảnh cái chết của chính ḿnh, và bằng cách tư duy sáng suốt về nó, ta cố giảm thiểu những khổ đau mà cái chết có thể mang lại. Tuy nhiên, trong cả hai cách, không cách nào chúng ta có thể thực thụ chinh phục được sự chết.
Là một Phật tử, tôi xem chết là chuyện b́nh thường, là một thực tại mà tôi phải chấp nhận, khi tôi c̣n hiện hữu trên trái đất. Đă biết không thể nào thoát khỏi, th́ lo lắng làm ǵ. Tôi có khuynh hướng nghĩ đến sự chết cũng như thay bộ y phục khi nó đă cũ ṃn, hơn là một cái ǵ hoàn toàn chấm dứt. Tuy vậy cái chết không thể biết trước: ta không biết đư?c khi nào cái chết đến với ta, và ta sẽ chết như thế nào. Bởi thế tốt hơn cả là ta hăy dự pḥng một số việc trước khi cái chết thực sự xảy ra.
Đương nhiên phần đông chúng ta đều muốn có một cái chết an ổn, nhưng một điều cũng hiển nhiên nữa, là ta không thể hy vọng chết một cách thanh b́nh nếu đời sống của ta đầy những bạo hành, hoặc nếu tâm ta thường giao động v́ những cảm xúc mạnh như giận dữ, ái luyến, hay sợ hăi. Bởi thế, nếu ta muốn chết tốt, ta phải học cách sống tốt. Nếu ta mong có được một cái chết an lành, th́ ta phải đào luyện sự b́nh an trong tâm ta, và trong lối sống của ta.
Như bạn đọc sẽ thấy trong sách này, theo quan điểm Phật giáo th́ cái kinh nghiệm thực thụ về chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của chúng ta, nơi tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết có thể ảnh hưởng tới tính chất của tái sanh kế tiếp. Vậy, vào lúc chết, mặc dù ta đă tích lũy đủ loại nghiệp, nhưng nếu ta làm một nỗ lực đặc biệt để phát sinh một tâm lành, th́ có thể tăng cường và khởi động một nghiệp thiện, và do đó đem lại một tái sinh hạnh phúc.
Lúc chết thực sự cũng là lúc mà những kinh nghiệm nội tâm lợi olạc sâu xa nhất có thể xảy ra. Do thường thực tập tiến tŕnh chết trong khi thiền định, một thiền giả tu cao có thể sử dụng lúc chết của ḿnh để đạt những chứng ngộ lớn lao. Đấy là lư do những hành giả có kinh nghiệm thường nhập định vào lúc họ chết. Một dấu hiệu của sự đắc đạo nơi họ là thi thể họ thường không thối rửa sau khi họ đă chết rất lâu trên phương diện lâm sàng.
Ngoài sự chuẩn bị cái chết của riêng ḿnh, một việc khác không kém phần quan trọng là giúp người khác có một cái chết tốt đẹp. Khi mới sinh ra đời, chúng ta đều là những hài nhi yếu đuối; nếu không nhờ sự săn sóc tử tế mà chúng đă nhận được, th́ chúng ta đă không thể sống c̣n. Người sắp chết cũng thế, không thể tự túc được, nên ta phải giúp họ thoát khỏi những bất tiện và lo âu, và cố hết sức để giúp họ có một cái chết thanh thản. Điều quan trọng nhất là tránh làm điều ǵ khiến cho tâm người sắp chết thêm rối loạn. Mục đích trước nhất của chúng ta giúp người sắp chết là làm cho họ được thoải mái. Có nhiều cách để làm việc này. Với người đă quen tu tập, nếu khi họ sắp chết mà ta nhắc nhở chuyện tu hành, tinh thần họ có thể thêm phấn chấn. Một lời trấn an đầy từ ái của ta có thể gợi cho người sắp chết một thái độ b́nh an, thoải mái.
Cái chết và tiến tŕnh chết có thể cung cấp một giao điểm gặp gỡ giữa Phật giáo Tây Tạng và khoa học tân tiến. Tôi tin rằng hai bên có thể cống hiến cho nhau rất nhiều về hiểu biết và thực hành. Thầy Sogyal Rinpoche đúng là người để làm cho cuộc gặp gỡ này thêm dễ dàng, v́ thầy đă sinh ra và trưởng thành trong truyền thống Tây Tạng, đă thụ giáo với một vài vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời thầy cũng được hấp thụ một nền giáo dục tân tiến, đă sống và giảng dạy nhiều năm ở Tây phương và đă quen thuộc với lề lối tư duy của người phương Tây.
Sách này không chỉ cống hiến cho độc giả một tŕnh bày lư thuyết về sự chết, mà c̣n cung cấp những cách thực tiễn để hiểu và tự chuẩn bị cho ḿnh lẫn người khác (về cái chết) một cách thản nhiên và viên măn.
Ngày 2 tháng 6, 1992
Lời Nói Đầu
Tôi sinh ra ở Tây Tạng, và mới vừa sáu tháng tuổi, tôi đă vào tu viện của thầy tôi, Jamyang Khientse Chokyi Lodro. Ở Tây Tạng chúng tôi có truyền thống độc đáo là t́m tái sinh của những bậc thầy vĩ đại đă từ trần. Họ được tuyển chọn từ lúc hăy c̣n bé và được cung cấp một nền giáo dục đặc biệt, huấn luyện họ trở thành những bậc thầy trong tương lai. Tôi được đặt tên là Sogyal, mặc dù măi lâu về sau thầy tôi mới nhận ra tôi là tái sinh của Terton Sogyal, một hành giả mật tông nổi tiếng đă từng là một trong những bậc giáo thọ của chính thầy, và là một bậc thầy của đức Dalai Lama thứ mười ba.
Thầy tôi, Jamyang Khientse, dáng người cao lớn vượt hẳn khổ người Tây Tạng trung b́nh. Thầy thường đứng cao hơn mọi người cả một cái đầu, trong đám đông. Tóc thầy có màu bạch kim cắt thật ngắn, và đôi mắt từ bi thường ánh lên một vẻ hài hước. Đôi tai dài, giống tai Phật. Nhưng điều làm ta chú ư nhất nơi thầy là sự hiện diện của thầy. Cái nh́n và dáng điệu của thầy cho ta biết thầy là một người minh triết và thánh thiện. Thầy có một giọng nói thâm hậu, hấp dẫn, và mỗi khi giảng dạy, đầu hơi ngả về phía sau, lời giảng tuôi ra từ nơi thầy như nước chảy, hùng hồn và đầy thi vị. Và mặc dù thầy được mọi người kính nể, sợ nữa là khác, ta vẫn nhận thấy một thái độ khiêm cung trong mọi việc thầy làm.
Jamyang Khientse là nền tảng của cuộc đời tôi, và là nguồn cảm hứng cho tác phẩm này. Thầy là nhập thể của một bậc thầy đă canh tân sự thực hành đạo Phật trong xứ sở chúng tôi. Ở Tây Tạng, được danh xưng là một vị "tái sinh" chưa đủ, bạn luôn luôn phải làm cho người ta kính nể nhờ học và tu. Thầy tôi thường nhập thất nhiều năm, và có nhiều mẫu chuyện mầu nhiệm được kể về thầy. Thầy có tri kiến và thực chứng tâm linh sâu xa, và tôi dần khám phá rằng thầy giống như một bộ bách khoa về trí tuệ, thầy biết giải đáp cho mọi câu hỏi bạn có thể đặt ra. Ở Tây Tạng có nhiều ḍng tu, nhưng thầy Jamyang Khientse lại có tiếng là một vị thông suốt tất cả lư thuyết các ḍng ấy. Đối với mọi người đă biết hay nghe nói về thầy, th́ thầy chính là nhập thể của Phật giáo Tây Tạng, một bằng chứng sống cho ta thấy thế nào là một con người "thuyết thông lẫn tông thông".
Tôi đă nghe nói thầy tôi bảo rằng tôi sẽ giúp tiếp nối sự nghiệp của thầy, và dĩ nhiên thầy luôn xem tôi như con đẻ. Tôi có cảm nghĩ rằng những ǵ tôi có thể thành tựu được trong công việc của ḿnh đều nhờ ân phước của thầy tôi.
Mọi hoài niệm sớm sủa nhất của tôi đều là hoài niệm về thầy tôi. Thầy là bối cảnh trong đó tôi lớn lên, và ảnh hưởng thầy ngự trị tuổi thơ tôi. Thầy như một người cha đối với tôi. Thầy cho tôi bất cứ ǵ tôi xin cầu. Người bạn đạo của thầy, Khandro Tsering Chodron, mà cũng là cô tôi, thường bảo:
- Đừng quấy rầy Rinpoche, có thể ông đang bận đấy.
Nhưng tôi th́ luôn muốn ở bên cạnh thầy, và thầy cũng sung sướng có tôi ở bên ḿnh, Tôi thường không ngớt đặt những câu hỏi với thầy suốt tuổi, và thầy luôn luôn kiên nhẫn trả lời tôi. Tôi là một đứa bé hư hỏng, không một thầy giáo nào có thể ghép tôi vào kỷ luật. Mỗi khi họ cố đánh tôi, th́ tôi lại chạy đến thầy, leo lên sau lưng thầy, thế là không ai dám bén mảng. Thu ḿnh ở đấy, tôi cảm thấy hănh diện và khoái thích, c̣n thầy chỉ cười lớn. Bỗng một ngày nọ, thầy dạy kèm yêu cầu thầy tôi mà tôi không biết, giải thích rằng v́ lợi ích cho riêng tôi, không thể tiếp tục để như thế được. Lần kế tiếp khi tôi chạy đến nấp sau lưng thầy, th́ thầy dạy kèm đi vào pḥng, lạy thầy tôi ba lạy, rồi lôi tôi ra ngoài. Trong khi bị kéo ra khỏi pḥng, tôi nhớ ḿnh đang nghĩ rằng, thật lạ lùng là ông này dường như không sợ ǵ thầy tôi cả.
Jamyang Khientse thường ở trong gian pḥng mà tiền thân của thầy đă có những linh kiến và khởi sự công cuộc phục hưng văn hóa và tôn giáo đă lan tràn suốt miền đông Tây Tạng trong thế kỷ trước. Đấy là một gian pḥng kỳ diệu, không rộng lắm nhưng có một bầu không khí thần tiên, đầy những vật thiêng liêng, tranh và sách. Nó được gọi là "thiên đường của những vị Phật", "căn pḥng đầy năng lực". Nếu có cái ǵ ở Tây Tạng làm tôi nhớ nhung, thấp làm bằng gỗ và những đai đa, tôi ngồi bên cạnh. Tôi thường không chịu ăn cái ǵ không phải lấy từ nơi bát của thầy. Trong cái pḥng ngủ nhỏ gần kề, có một hành lang luôn luôn mờ tối, với một ấm nước trà sủi bọt trên hỏa ḷ nhỏ đặt trong góc. Tôi thường ngủ cạnh thầy tôi, trên một cái giường nhỏ dưới chân giường thầy. Một âm thanh mà tôi không bao giờ quên được là tiếng lần tràng hạt của thầy trong lúc thầy nhẩm những lời cầu nguyện. Khi tôi đi ngủ thầy thường vẫn ở đấy, ngồi thiền đọc kinh và sáng sớm khi tôi thức dậy th́ thầy cũng đă ngồi tu tập, tràn đầy năng lực và ân phước. Mỗi khi mở mắt trông thấy thầy, ḷng tôi lại ngập tràn một niềm hạnh phúc ấm cúng. Có một vẻ ǵ rất thanh b́nh nơi thầy.
Khi tôi lớn lên, thầy Jamyang thường để cho tôi chủ tọa những buổi lễ, c̣n thầy làm duy na điều khiển thời tán tụng. Tôi có dịp chứng kiến tất cả những cuộc giảng dạy và phép quán đảnh mà thầy làm cho mọi người, nhưng không phải nhớ những chi tiết mà nhớ bầu không khí trong những dịp ấy. Với tôi, thầy chính là Phật, tôi không c̣n nghi ngờ ǵ về chuyện ấy. Và mọi người khác cũng công nhận như thế nữa. Khi thầy làm lễ quán đảnh, những đệ tử sợ tới nỗi không dám nh́n mặt thầy. Một vài người thấy thầy dưới h́nh dạng của vị tiền thân của thầy, hoặc thấy thầy giống vị Phật này, vị bồ tát kia. Mọi người gọi ngài là Rinpoche, "bậc quư nhân," danh xưng đối với một bậc thầy, và khi thầy ở đấy th́ không có vị nào khác được gọi bằng danh từ ấy. Sự hiện diện của thầy gây cảm khái tới nỗi nhiều người thương mến gọi thầy là "Phật nguyên thủy."
Nếu tôi không gặp được thầy tôi, tôi đă thành một con người khác hẳn. Với trí tuệ và đức bi mẫn, thầy là hiện thân của giáo lư thiêng liêng và khiến cho giáo lư ấy thực tiễn và đầy sức sống. Khi tôi nói với người khác về bầu không khí vây quanh thầy tôi, họ cũng cảm thấy như tôi. Vậy, thầy tôi đă gây trong tôi cảm hứng ǵ? Đó là một ḷng tin không lay chuyển đối với nên giáo lư, và một niềm tin ở tâm quan trọng chính yếu và quyết liệt của bậc thầy. Bất cứ một hiểu biết ǵ mà tôi có được, đều nhờ thầy mà có. Đấy là một điều không bao giờ tôi có thể đền đáp, song tôi có thể trao lại cho những người khác.
Suốt thời niên thiếu của tôi ở Tây Tạng tôi đă thấy cái t́nh yêu thương mà thầy tôi thường tỏa ra trong hội chúng, nhất là khi hướng dẫn người hấp hối và người đă chết. Một vị Lama ở Tây Tạng không chỉ là một bậc thầy về tâm linh mà c̣n là một người minh triết, một người trị bệnh, cha xứ, bác sĩ, người chữa tâm bệnh, người giúp đỡ kẻ hấp hối. Về sau tôi phải học những kỹ thuật đặc biệt để hướng dẫn người sắp chết và người chết, từ những giáo lư liên hệ cuốn Tử thư Tây Tạng. Nhưng những bài học lớn nhất mà tôi học được về sự chết – và về sự sống, là nhờ ngắm nh́n thầy tôi khi thầy hướng dẫn người chết với một ḷng bi mẫn vô biên, với trí tuệ và hiểu biết.
Tôi cầu nguyện rằng sách này sẽ truyền đạt đến mọi người một trí tuệ và từ bi của ngài, và qua nó, các bạn có thể cảm nhận phần nào tâm đầy trí tuệ của ngài và t́m thấy một mối giao cảm linh động với Ngài.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 5 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 2:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHẦN MỘT: SỐNG
1. TRONG TẤM GƯƠNG CỦA CÁI CHẾT
Kinh nghiệm đầu tiên của tôi về sự chết xảy đến vào lúc tôi khoảng chừng bảy tuổi. Chúng tôi đang chuẩn bị rời vùng cao nguyên miền đông để du hành đến vùng trung tâm của Tây Tạng. Samten, một trong những thị giả của thầy tôi, là một thầy tu kỳ diệu rất tử tế đối với tôi lúc tôi c̣n bé. Ông có gương mặt sáng tṛn mủm mĩm luôn sẵn sàng nở nụ cười. Ông được mọi người trong tu viện yêu mến v́ tính t́nh ông thật tốt. Hàng ngày thầy tôi thường giảng dạy, làm phép quán đảnh, dẫn đầu những buổi lễ hay những thời khóa tu tập. Đến cuối ngày, tôi thường họp chúng bạn để đóng tuồng, diễn lại những công việc làm trong ngày, Thầy Samten luôn luôn cho tôi mượn tạm những bộ y phục mà thầy tôi đă mặc hồi sáng. Thầy chả bao giờ từ chối tôi việc ǵ.
Rồi bỗng Samten ngă bệnh, và điều rơ rệt là thầy sẽ không sống được nữa. Chúng tôi phải tŕ hoăn cuộc hành tŕnh. Tôi không bao giờ quên được hai tuần lễ kế tiếp. Mùi hôi thối của chết chóc đang lơ lửng như đám mây phủ trên mọi sự. Mỗi khi tôi nhớ về khoảng thời gian ấy, th́ cái mùi đó lại trở lại trong tôi. Tu viện ngập tràn một ư thức mănh liệt về cái chết. Tuy vậy, điều này tuyệt nhiên không có ǵ ghê gớm hăi hùng; v́ với sự hiện diện của thầy tôi, cái chết của thầy Samten mang một ư nghĩa đặc biệt. Nó trở thành một bài học cho tất cả chúng tôi.
Thầy Samten nằm trên chiếc gường cạnh cửa sổ trong một điện thờ nhỏ tại tư dinh của thầy tôi. Tôi biết thầy đang từ từ chết. Thỉnh thoảng tôi đi vào pḥng, ngồi bên thầy. Thầy không nói được nữa, và tôi kinh ngạc trước sự đổi thay của gương mặt thầy, bây giờ đă xệ xuống trông thật hốc hác. Tôi nhận ra rằng thầy sắp từ giă chúng tôi, và chúng tôi sẽ không bao giờ c̣n gặp lại thầy. Tôi cảm thấy vô cùng buồn bă cô đơn.
Samten không chết dễ dàng cho lắm. Hơi thở khó khăn nặng nhọc của thầy luôn ám ảnh chúng tôi, và chúng tôi có thể ngửi thấy cả cái mùi thân xác thầy đang tàn tạ. Tu viện hoàn toàn im lặng, không một tiếng động ngoại trừ tiếng hơi thở của thầy. Mọi sự đều tập trung vào thầy Samten. Nhưng, dù cơn hấp hối kéo dài của Samten thật đau đớn, chúng tôi vẫn thấy được rằng, tự trong thẳm sâu của con người thầy, đang có một niềm b́nh an và tin tưởng. Lúc đầu tôi không thể giải thích được điều này, nhưng rồi tôi hiểu tại sao. Đó là nhờ ở đức tin của thầy, công phu tu tập của thầy, và sự hiện diện của thầy chúng tôi. Mặc dù buồn bă, tôi cũng biết rằng khi có thầy tôi đó th́ mọi sự sẽ yên ổn, v́ thầy sẽ giúp cho thầy Samten đạt giải thoát. Về sau tôi được biết rằng, bất cứ hành giả mật tông nào cũng đều mơ ước được chết trước thầy ḿnh, và có cái diễm phúc được thầy tiếp dẫn trong lúc chết.
Trong lúc thầy tôi b́nh tĩnh hướng dẫn thầy Samten trải qua cái chết, ngài chỉ cho thầy biết từng giai đoạn một của tiến tŕnh chết mà thầy sẽ gặp. Tôi rất ngạc nhiên trước sự hiểu biết rơ ràng minh bạch của thầy tôi, trước vẻ tin tưởng và b́nh an nơi ngài. Khi có sự hiện diện của thầy tôi, người cả lo nhất cũng phải an tâm. Bây giờ Jamyang Khientse đang chứng tỏ cho chúng tôi thấy đức vô úy ngài đối với sự chết. Không phải ngài coi thường nó: Ngài thường bảo chúng tôi rằng ngài sợ nó, và cảnh cáo chúng tôi đừng có ngây ngô tưởng chết là dễ. Nhưng cái ǵ đă khiến thầy tôi đối diện cái chết với thái độ nhẹ nhàng lănh đạm, thực tiễn mà lại thoải mái lạ lùng như thế? Câu hỏi ấy đă thâm nhập trong đầu tôi, làm tôi đầy kinh ngạc.
Cái chết của Samten đă làm tôi chấn động. Thế là mới bảy tuổi đầu, tôi đă thoáng thấy năng lực rộng lớn của truyền thống tôn giáo trong đó tôi dự phần, và tôi chợt hiểu được mục đích của sự tu hành. Nhờ tu hành, mà Samten đă chấp nhận được cái chết cũng như hiểu rơ rằng nỗi đau đớn có thể là một phần của quá tŕnh thanh luyện rất tự nhiên và sâu xa. Nhờ tu hành, mà thầy tôi đă có một hiểu biết trọn vẹn về sự chết, và một kỹ thuật minh bạch để hướng dẫn người khác đi vào cơi chết
Sau khi thầy Samten chết, chúng tôi khởi hành đi Lhasa, thủ đô Tây Tạng. Đấy là một cuộc hành tŕnh gian nan suốt ba tháng trên lưng ngựa. Từ đấy chúng tôi tiếp tục cuộc hành hương đến những thánh tích ở trung ương và miền nam Tây Tạng, những di tích của các bậc thánh, vua chúa và học giả đă có công du nhập đạo Phật vào Tây Tạng từ thế kỷ thứ bảy trở đi. Thầy tôi là hiện thân của nhiều bậc thầy thuộc đủ mọi truyền thống, và v́ thầy nổi tiếng như thế nên chúng tôi đi đến đâu cũng được đón tiếp rất rộn ràng.
Đối với tôi, cuộc hành tŕnh ấy rất hấp dẫn và đă để lại trong tôi nhiều hoài niệm tốt đẹp. Người Tây Tạng quen dậy sớm để sử dụng tối đa ánh sáng thiên nhiên. Chúng tôi đi ngủ vào lúc trời sập tối và thức dậy trước b́nh minh, và khi tia sáng đầu tiên vừa ló dạng th́ những con trâu yaks chở hành lư đă bắt đầu di chuyển. Những lều trại được nhổ lên, căn lều của thầy tôi nhổ sau chót. Một thanh niên sẽ đi trước để chọn chỗ tốt cho việc cắm lều trại, nơi chúng tôi sẽ dừng khoảng giữa trưa để nghỉ ngơi đến hết ngày. Tôi thường thích cắm trại cạnh một con sông để nghe tiếng nước chảy, hoặc để ngồi trong lều mà nghe mưa tí tách trên mái.
Đoàn người chúng tôi có tất cả khoảng chừng ba mươi căn lều. Suốt ngày tôi cỡi một con ngựa màu vàng bên cạnh thầy tôi. Trong khi chúng tôi cỡi ngựa, thầy tôi giảng dạy cho tôi, kể chuyện, niệm chú, và đặt ra một số phương pháp cho tôi thực hành giáo lư. Một ngày kia, khi chúng tôi tiến gần đến hồ thiêng Yamdrok và thoáng thấy bóng mặt nước ngời sáng như xa cừ của nó, th́ một vị Lạt ma trong đoàn lữ hành, Lạt ma Tseten, bắt đầu chết.
Cái chết của Tseten là một bài học sống động khác nữa đối với tôi. Ông là thầy của bà vợ tâm linh của thầy tôi, Khandro Tsering Chodron, hiện nay vẫn c̣n. Bà được xem như nữ hành giả mật tông xuất sắc nhất của Tây Tạng, một bậc thầy mai danh ẩn tích mà đối với tôi là một hiện thân của đức hy sinh tận tụy. Nội một sự hiện diện đầy tŕu mến của bà cũng đủ dạy cho tôi rất nhiều. Lama Tseten là người có ḷng nhân ái vô biên, Ông tuổi ngoại lục trần, khổ người khá cao và tóc đă hoa râm. Ông tỏa ra một sự dễ thương không chút nào gắng gượng. Ông cũng là một thiền giả tu chứng cao, chỉ cần ở cạnh ông cũng đủ đem lại cho tôi một cảm giác thanh b́nh và trong sáng. Một đôi khi ông rầy la tôi, và tôi cũng khá sợ hăi; nhưng mặc dù thỉnh thoảng ông có hơi nghiêm khắc, ông vẫn luôn luôn đầy tính nhân hậu.
Lama Tseten chết một cách phi phàm. Mặc dù có một tu viện gần đấy, ông không chịu đến, bảo rằng ông không muốn để lại cho người ta một cái xác phải thu dọn. Bởi thế chúng tôi dựng lều trại thành ṿng tṛn như thường lệ. Khandro săn sóc đều dưỡng cho Lama Tseten, thầy giáo đạo của bà. Chúng tôi là hai người duy nhất có mặt trong lều của ông, khi ông cất tiếng gọi. Ông thường gọi là Khandro là "a-mi" tiếng nói địa phương ông, có nghĩa là "con ta".
- Này con, hăy lại đây. Nó đang đến. Ta không c̣n ǵ để khuyên bảo con thêm nữa. Con rất tốt, ta lấy làm sung sướng v́ con. Hăy phụng sự bậc thầy của con như bấy lâu con đă làm.
Lập tức bà khởi sự chạy ra khỏi lều, nhưng ông đă nắm lấy tay áo bà lại.
- Con đi đâu thế?
Bà trả lời:
- Con sẽ đi gọi Rinpoche.
Ông mỉm cười:
- Chớ làm phiền ông ta, không cần thiết. Đối với bậc thầy, vốn không bao giờ có khoảng cách nào giữa chúng ta.
Với những lời lẽ ấy, ông đưa mắt nh́n lên trời rồi chết. Khandro thoát được khỏi tay ông và chạy vội ra để gọi thầy tôi. Tôi ngồi yên bất động tại chỗ, kinh ngạc khi thấy một người nh́n thẳng mặt cái chết với thái độ b́nh thản như vậy. Lama Tseten đáng lẽ có thể nhờ thầy ḿnh thân hành đến giúp - một điều mà bất cứ người nào khác đều mong mỏi – nhưng ông ta lại không cần. Bây giờ tôi đă hiểu tại sao: Tại v́ ông đă trực nhận sự hiện diện của bậc thầy ở trong tâm ḿnh. Jamyang Khientse vẫn luôn luôn ở bên ông, trong đầu óc và trái tim của ông; ông không bao giờ cảm thấy có sự ngăn cách nào cả.
Khandro đă đi mời thầy tôi, Jamyang Khientse. Tôi không sao quên được cái lúc ông khom lưng để bước vào căn lều. Ông đưa mắt nh́n vào mặt của Lama Tseten rồi nh́n sâu vào đôi mắt, và khởi sự cười khúc khích. Ông thường gọi Lama Tseten là "La Ghen", vị lạt ma già, một cách gọi âu yếm của ông. Ông bảo:
- La Ghen, đừng có ở trong trạng thái đó.
Bây giờ tôi hiểu rằng, lúc đó thầy tôi đă thấy Lama Tseten đang nhập vào một thứ định trong đó hành giả tan ḥa bản chất của tâm ḿnh với không gian của chân lư.
- Ông biết chứ, La-Ghen, nếu ông nhập định này, th́ một đôi khi có vài chướng ngại vi tế có thể phát sinh. Nào, ta sẽ hướng dẫn ông.
Sửng sốt, tôi ngắm nh́n những ǵ xảy ra kế tiếp, và nếu không phải chính mắt tôi trông thấy th́ tôi sẽ không bao giờ tin được. Lama Tseten sống lại. Rồi thầy tôi ngồi một bên ông ta, hướng dẫn thần thức ông đi vào cơi chết. Có nhiều cách làm việc này, và cách mà thầy tôi đang sử dụng lúc đó kết thúc với ba lần thầy thốt lên âm “A”. Khi thầy tôi thốt tiếng “A” đầu tiên, chúng tôi có thể nghe Lama Tseten nói theo khá rơ. Lần thứ hai, giọng ông không rơ nữa, và lần thứ ba th́ hoàn toàn im lặng: Ông đă chết.
Cái chết của Samten đă dạy cho tôi mục đích của sự tu hành, cái chết của Lama Tseten cho tôi thấy rằng những hành giả thuộc tầm cỡ như ông lúc sinh thời vẫn ẩn giấu những khả năng kỳ diệu của ḿnh, và đôi khi chỉ bày tỏ chúng một lần mà thôi, vào lúc chết. Mặc dù c̣n bé xíu, tôi cũng đă hiểu rằng có một sự khác nhau rơ rệt giữa cái chết của Samten và của Lama Tseten, đó là sự khác nhau giữa cái chết của một thầy tu tử tế có hành tŕ lúc sinh thời, và cái chết của một hành giả có nội chứng tâm linh sâu xa hơn nhiều. Samten chết một cái chết b́nh thường và chết trong đau đớn, nhưng với sự b́nh an của đức tin; c̣n cái chết của Lama Tseten là một sự thi triển thần thông của sự làm chủ tâm ư.
Ngay sau tang lễ Lama Tseten, chúng tôi di chuyển lên tu viện Yamdrok. Như lệ thường, tôi ngủ cạnh thầy tôi trong pḥng ông, và tôi c̣n nhớ đêm ấy tôi đang ngắm những cái bóng của những ngọn đèn thắp bằng bơ nhảy múa trên vách tường. Trong lúc mọi người ngủ say, tôi đă nằm thức và khóc suốt đêm trường. Điều ấy tôi hiểu rằng cái chết là một sự thật, và cả tôi nữa cũng sẽ phải chết. Khi tôi nằm đấy suy nghĩ về sự chết và về cái chết của chính tôi, qua tất cả nỗi đau buồn đó, trong tôi một ư thức sâu xa dần dần ló dạng, đó là ư thức rằng "ḿnh phải chấp nhận nó". Và với ư thức ấy, tôi quyết định cống hiến cuộc đời ḿnh cho sự tu tập tâm linh.
Thế là tôi đă khởi sự giáp mặt cái chết và những hàm ẩn của nó khi tuổi c̣n rất nhỏ. Lúc ấy tôi không bào giờ tưởng tượng được rằng ta phải trải qua biết bao nhiêu là cái chết dồn dập, hết cái chết này tới cái chết khác. Cái chết mất nước Tây Tạng sau khi Trung quốc xâm chiếm. Cái chết lưu đày. Cái chết mất mọi thứ mà gia đ́nh tôi và tôi đă sở hữu. Gia đ́nh tôi, Lakar Tsang, đă từng là một trong những nhà giàu nhất xứ Tây Tạng. Từ thế kỷ thứ mười bốn, gia đ́nh tôi đă nổi tiếng là một trong những thí chủ quan trọng nhất của Phật giáo, bằng cách hỗ trợ sự hoằng dương chánh pháp và giúp các bậc thầy vĩ đại trong những công tŕnh của họ.
Nhưng cái chết tàn phá tôi hơn tất cả th́ chưa xảy tới, đó là cái chết của thầy tôi, Jamyang Khientse. Khi ngài mất, tôi cảm như nền móng cuộc đời tôi đă sụp đổ. Đấy là vào năm 1959, năm mà nước Tây Tạng sụp đổ. Đối với người Tây Tạng, cái chết của thầy tôi là một số ác liệt thứ hai, và đối với xứ Tây Tạng, cái chết ấy đánh dấu sự cáo chung của một thời đại.
Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 03 January 2005 lúc 2:54pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 6 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 2:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
CÁI CHẾT TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN
Khi mới đến Tây phương lần đầu, tôi hoàn toàn kinh ngạc v́ sự trái ngược giữa những thái độ đối với cái chết ở đây với những ǵ tôi đă quen thuộc từ bé. Mặc dù đă đạt đến nhiều thành quả kỹ thuật, xă hội tân tiến phương tây vẫn chưa có hiểu biết thực sự nào về cái chết hoặc những ǵ xảy ra trong khi chết hay sau khi chết.
Tôi được biết rằng người ngày nay được dạy phải phủ nhận cái chết, xem nó không có ư nghĩa ǵ ngoài ra là sự hoàn toàn hủy diệt, tiêu vong. Điều đó có nghĩa rằng phần đông người trên thế giới ngày nay hoặc sống trong sự phủ nhận cái chết hoặc sợ hăi nó. Ngay cả việc nói về cái chết cũng được xem là điềm gở, nhiều người tin rằng nhắc đến cái chết th́ cũng gần như là mong nó xảy đến cho ḿnh.
Nhiều người khác nh́n cái chết với một sự vui vẻ ngây ngô thiếu suy nghĩ, tưởng chừng như v́ một lư do bí ẩn nào đó, cái chết sẽ đến với họ một cách êm thấm, không có ǵ phải lo ngại. Khi nghĩ đến những người này, tôi nhớ lời một bậc thầy của Tây Tạng nói:
- Người ta thường khinh suất về sự chết và cứ nghĩ: "Ôi! Hơi đâu mà lo cho mệt, ai rồi cũng phải chết, chuyện đó tự nhiên quá mà. Tôi th́ khỏi lo.” Nhưng đấy chỉ là lư thuyết, đến khi sắp chết mới biết không phải là chuyện đơn giản.
Trong hai thái độ nói trên về cái chết, th́ một thái độ xem chết như chuyện gở cần né tránh, một xem chết là một điều sẽ xảy đến tự nhiên không cần lo nghĩ. Nhưng cả hai đều hoàn toàn cách xa sự am hiểu ư nghĩa đích thực của cái chết.
Mọi truyền thống tôn giáo lớn nhất của nhân loại, dĩ nhiên trong đó có Ki tô giáo, đều nói rơ cho ta biết rằng chết không phải là hết. Các tôn giáo ấy đều nói đến một viễn ảnh về đời sắp đến, khiến cho cuộc đời hiện tại ta đang sống mang đầy ư nghĩa thiêng liêng. Nhưng mặc dù có những giáo lư như vậy, phần lớn xă hội tân tiến vẫn là một sa mạc tâm linh ở đấy đa số người tưởng chừng như cuộc đời này là tất cả. V́ thiếu một đức tin chân chính về đời sau, họ sống mà không có một mục đích tối hậu nào cả.
Tôi đă nhận ra rằng thái độ chối bỏ cái chết có những hậu quả khốc hại vượt ngoài phạm vi cá nhân, nó ảnh hưởng tới hoàn thể hành tinh này. V́ tin tưởng chỉ có cuộc đời này mà thôi, không có đời nào khác, cho nên người thời nay không phát triển một tri kiến sâu xa nhắm đến trường kỳ. Do đó không có ǵ để ngăn cản họ khỏi cướp bóc quả địa cầu v́ những mục tiêu cấp thời, hoặc ngăn họ sống một cách ích kỷ gây tai họa cho tương lai. Chúng ta c̣n cần bao nhiêu lời cảnh cáo khác nữa, giống như lời sau đây của ông Bộ trưởng xứ Brazil về Môi sinh, người chịu trách nhiệm bảo vệ rừng Amazone.
- Xă hội kỹ nghệ tân tiến quả là một thứ tôn giáo cuồng tín. Chúng ta đang phá hoại, làm nhiễm độc, hủy diệt tất cả mầm sống trên hành tinh này. Chúng ta đang kư những giấy nợ mà con cháu chúng ta sẽ không thể trả... Chúng ta đang làm như thể ḿnh là thế hệ cuối cùng trên hành tinh này. Nếu không có một biến cải tận gốc về tâm, trí và lối nh́n, th́ trái đất sẽ kết thúc như Vénus, cháy thành than và chết.
Sự sợ chết và không biết đến đời sau quả đang cung cấp nhiên liệu cho sự thiêu hủy sinh môi đe dọa tất cả đời sống chúng ta. Vậy có phải là sự thể càng phiền phức hơn nếu người ta không được học tập về chết là ǵ, hoặc làm thế nào để chết? Nếu người ta không được thấy vài hy vọng vào những ǵ nằm sau cái chết, và bởi thế, biết được những ǵ thực sự nằm sau sự sống? Có ǵ mỉa mai hơn, khi giới trẻ được học đầy đủ mọi môn ngoại trừ môn học duy nhất chứa đựng ch́a khóa mở ra toàn thể ư nghĩa cuộc đời, và có thể là mở đến chính sự sinh tồn của chúng ta?
- Bạn có tin có đời sau không?
Không phải hỏi họ có tin ở một lư thuyết triết học về đời sau không, mà hỏi họ có cảm thức niềm tin ấy một cách sâu xa trong tim họ không. Bậc thầy biết rằng nếu người ta tin có đời sau, th́ toàn bộ nhân sinh quan của họ sẽ khác, họ sẽ ư thức rơ về trách nhiệm cá nhân và về đạo đức. Những ǵ các bậc thầy phải hoài nghi là, với những người không tin có đời sau, th́ có nguy cơ là họ sẽ kiến tạo một xă hội chỉ nhắm đến những kết quả đoản kỳ, không cần suy nghĩ nhiều về hậu quả hành động. Phải chăng điều này có thể là lư do chính tại sao chúng ta đă tạo nên một thế giới tàn bạo như hiện nay, một thế giới ít có ḷng bi mẫn thực sự?
Đôi khi tôi nghĩ rằng những nước giàu mạnh nhất của thế giới đă phát triển thật giống như những cơi trời mô tả trong kinh. Trong kinh mô tả loài chư thiên sống cực kỳ xa hoa, hưởng đủ mọi lạc thú, không lo lắng ǵ về chiều hướng tâm linh của cuộc đời. Mọi sự xảy ra thật tốt đẹp cho đến khi cái chết đến gần, với những suy tưởng bất ngờ xuất hiện. Khi ấy những bà vợ và t́nh nhân của họ không dám đến gần họ, chỉ đứng từ xa mà tung hoa tới, với lời cầu nguyện chiếu lệ rằng mong cho họ được sanh làm trời trở lại. Không một hoài niệm nào về những hạnh phúc hay tiện nghi đă qua có thể làm nơi trú ẩn cho họ khỏi cái khổ trước mắt, trái lại càng làm cho nó bi đát hơn. Cứ thế những vị trời bị bỏ rơi cho chết trong cô đơn khốn khổ.
Số phận những vị trời ấy làm tôi nhớ đến cách người ta đối xử với những người lớn tuổi, người bệnh và người sắp chết hiện nay. Xă hội chúng ta bị ám ảnh bởi tuổi trẻ, dục tính, quyền lực, và chúng ta tránh né tuổi già, tránh né sự tàn tạ. Có phải thật kinh khủng, khi ta bỏ rơi người già v́ cuộc đời hoạt động của họ đă chấm dứt, họ không c̣n ích lợi nữa? Có phải thật ray rứt khi ta tống họ vào nhà dưỡng lăo, ở đấy họ phải chết trong cô độc, bị ruồng bỏ?
Phải chăng cũng đă đến lúc ta phải nh́n lại cách ta đối xử với những người mắc bệnh nan y như ung thư và AID? Tôi biết một số người đă chết v́ bệnh AID, và đă thấy họ thường bị cả đến bạn bè cũng xem họ như những tiện dân. Dấu ấn gắn liền với cơn bệnh đă đưa họ tới chỗ tuyệt vọng, làm cho họ cảm thấy đời ḿnh thật ghê tởm, và dưới mắt người khác th́ đời họ coi như đă chấm dứt.
Ngay cả khi một người ta quen biết hay thương mến sắp chết, nhiều người cũng không biết phải làm sao để giúp đỡ họ; và khi họ chết, không ai khuyến khích ta nên có một ư niệm ǵ về tương lai của người chết, họ sẽ ra sao, làm sao ta có thể tiếp tục giúp đỡ họ. Quả thế, mọi ư nghĩ tương tự đều dễ bị xua đuổi xem là lố bịch, vô nghĩa.
Tất cả điều này cho ta thấy rơ rằng, hơn bao giờ hết, chúng ta đang cần một sự thay đổi căn để trong thái độ đối với cái chết và người sắp chết.
May thay, những thái độ đă bắt đầu thay đổi. Phong trào Tiếp dẫn đường chẳng hạn, đang làm những công việc kỳ diệu là đem lại sự săn sóc thuộc phạm vi thực tiễn và t́nh cảm. Tuy nhiên, sự săn sóc thực tiễn và t́nh cảm chưa đủ; dĩ nhiên người hấp hối cần được săn sóc yêu mến, song họ c̣n cần một cái ǵ sâu sắc hơn nữa. Họ cần khám phá một ư nghĩa thực thụ cho cái chết và sự sống. Không thế th́ làm sao chúng ta có thể đem lại cho họ niềm an lạc tối hậu? Bởi vậy, giúp đỡ người hấp hối c̣n cần đến khả năng tâm linh, v́ chỉ nhờ có kiến thức về tâm linh mà chúng ta mới có thể thực sự hiểu và đối mặt với cái chết.
Tôi lấy làm phấn chấn tinh thần khi những năm gần đây, toàn bộ vấn đề chết và hấp hối đă được mở ra ở Tây phương nhờ những nhà tiên phong như Elizabeth Kubler-Ross và Raymond Moody. Khi nh́n kỹ cách thức chúng tôi săn sóc người sắp chết, Elizabeth Kubler Ross đă chứng minh rằng, với một t́nh yêu vô điều kiện, và một thái độ có tuệ giác, th́ cơn hấp hối có thể trở thành một kinh nghiệm an lành, chuyển hóa. Những nghiên cứu khoa học về nhiều phương diện khác nhau của kinh nghiệm cẩn-tử (khi cần chết) ra đời tiếp theo tác phẩm của Raymond Moody đă cho nhân loại thấy một hy vọng mănh liệt sinh động rằng cuộc đời không phải chấm dứt với cái chết, và quả thực c̣n có một đời ở sau cuộc đời.
Rủi thay, có vài người không thực hiểu ư nghĩa trọn vẹn của những khám phá ấy về sự chết. Họ đi đến cực đoan thi vị hóa cái chết, và tôi đă nghe những trường hợp bi đát về những thanh niên đă tự sát bởi v́ họ tin rằng chết là tốt đẹp và là một lối thoát khỏi những đau buồn trong đời họ. Nhưng cả hai thái độ, sợ chết và ưa chết, đều là một kiểu trốn tránh. Chết không đáng buồn cũng không đáng vui, đó chỉ là một sự kiện hiển nhiên của cuộc đời.
Thật đáng buồn, là phần đông chúng ta chỉ bắt đầu thưởng thức được hương vị đời sống khi chúng ta sắp sửa chết. Tôi thường nghĩ về lời nói của bậc đạo sư Padmasambhava (Liên Hoa Sanh):
- Những người tin rằng họ c̣n có nhiều thời gian chỉ chuẩn bị lúc cái chết đến. Khi ấy th́ họ ân hận vô cùng. Nhưng có phải là đă quá muộn hay không?
Về thế giới hiện nay, có lời b́nh luận nào rùng rợn hơn nhận xét rằng đa số người chết mà không chuẩn bị cho cái chết, cũng như họ đă sống mà không chuẩn bị cho đời sống?
CUỘC HÀNH TR̀NH QUA SỐNG CHẾT
Theo sự minh triết của Phật, th́ chúng ta có thể thực sự dành cả đời ḿnh để chuẩn bị cho cái chết. Chúng ta không cần chờ đến khi có người thân đang chết một cách khó nhọc, hoặc khi gặp bạo bệnh bất ngờ, mới miễn cưỡng nh́n lại đời ḿnh. Chúng ta cũng không buộc phải đi tay không vào lúc chết để gặp cái điều xa lạ ḿnh chưa biết. Ta có thể khởi sự ngay tại đây và bây giờ, t́m ra ư nghĩa cho đời ḿnh. Ta có thể biến mọi lúc thành một cơ hội để cho ta thay đổi và chuẩn bị - một cách nhiệt t́nh, minh bạch, và an tâm – cho cái chết và vĩnh cửu.
Theo đạo Phật, sống và chết được xem như một toàn thể, ở đây chết chỉ là khởi đầu của một chương mới. Chết như một tấm gương trong đó phản chiếu tất cả ư nghĩa cuộc đời.
Quan điểm ấy là cốt tủy trong những giáo lư thuộc trường phái cổ xưa nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nhiều độc giả có lẽ đă nghe nói về quyển Tử thư của Tây Tạng. Điều tôi định làm trong tác phẩm này là giải thích và khai triển cuốn Tử thư ấy, để bao gồm không những cái chết mà cả đến sự sống nữa, bổ túc chi tiết toàn thể nền giáo lư trong đó Tử thư chỉ là một phần. Trong nền giáo lư vi diệu này, chúng ta t́m thấy toàn bộ sự sống chết được tŕnh bày song hành như một chuỗi dài những thực tại thoáng chốc luôn luôn biến chuyển được biết dưới danh từ Bardos, sự mờ mịt, danh từ này thông thường dùng để mô tả trạng thái trung gian giữa chết và tái sanh, nhưng kỳ thực, Bardo đang xảy ra liên tục suốt cả trong đời sống lẫn trong cái chết, và là những giao thời cao điểm mà nếu biết vận dụng, nó có thể đưa đến giác ngộ giải thoát.
Những Bardos là cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát bởi v́, theo giáo lư, có một vài thời điểm có mănh lực hơn những lúc khác rất nhiều, đầy tiềm năng hơn, vào lúc ấy bất cứ ǵ ta làm đều có một ảnh hưởng quan trọng sâu xa. Tôi nghĩ Bardo giống như lúc mà bạn bước qua lề của một vực thẳm; chẳng hạn như lúc bậc thầy khai thị cho đệ tử thấy bản lai diện mục của y. Nhưng một trong những thời điểm lớn lao nhất, đầy tiềm năng nhất, đó là lúc chết.
Theo Phật giáo Tây Tạng, ta có thể chia toàn thể hiện hữu của ḿnh thành bốn thực tại liên tục nối tiếp nhau:
1. Đời sống,
2. Hấp hối và chết,
3. Sau khi chết, và
4. Tái sinh.
Bốn giai đọan này được gọi là bốn Bardo:
o Thứ nhất là Bardo tự nhiên của đời này,
o Thứ hai là Bardo đau đớn của sự chết,
o Thứ ba là Bardo chiếu sáng của dharmatta hay pháp giới tánh.
o Thứ tư là Bardo nghiệp lực đưa đến tái sinh, trở thành.
V́ giáo lư về Bardo có tính chất lớn lao bao trùm toàn diện như thế, nên sách này đă được cấu trúc khá kỹ lưỡng. Bạn đọc sẽ được hướng dẫn từ giai đoạn này đến giai đoạn khác trong quá tŕnh khai mở tri kiến về cuộc hành tŕnh sinh tử. Cuộc thám hiểm của chúng ta đương nhiên phải khởi sự bằng một sự suy nghiệm chân xác để biết chết nghĩa là ǵ, và nhiều mặt khác nhau của sự thật về vô thường. Đó là loại tư duy có thể giúp ta tận dụng đời sống này trong khi chúng ta c̣n có thời gian, để bảo đảm khi chết sẽ không c̣n ǵ ân hận hay tự trách đă uổng phí một đời. Như Milarepa bậc thánh thi sĩ nổi tiếng của Tây Tạng đă nói:
- Tôn giáo của tôi là sống và chết làm sao để khỏi ân hận.
Khi quán chiếu sâu xa về thông điệp của vô thường – cái ǵ quả thực đang nằm bên kia vô thường và sự chết – chúng ta đi thẳng tới trong tâm của giáo lư cổ xưa và đầy quyền năng của Tây Tạng, đó là bản chất tinh túy của tâm, hay tự tánh của tâm. Sự trực nhận bản chất của tâm (trực ngộ bản tâm) – mà ta có thể gọi là tinh túy sâu xa nhất của chúng ta, cái sự thật mà tất cả chúng ta đều mong t́m đạt – chính là ch́a khóa của sự thấu hiểu về sống chết. V́ vào lúc chết, điều thực sự xảy ra là, chỉ có cái tâm thường ngày (tức là ư thức do năm giác quan đem lại) và những vọng tưởng của nó chết đi, và trong khoảng hở này, bản chất vô biên của tâm ta, như một bầu trời bao la vô hạn, được hiển lộ. Bản chất tinh túy này của tâm, hay tâm bản nhiên, chính là bối cảnh cho toàn thể sự sống và chết, giống như bầu trời ôm trọn cả vũ trụ.
Giáo lư dạy rơ rằng, nếu chúng ta chỉ biết về tâm như là cái phần phải tan ră khi ta chết (nghĩa là ư thức thuộc năm giác quan – ND), th́ chúng ta sẽ không biết ǵ về những ǵ sẽ tiếp tục, không có một ư niệm nào về một "chiều không gian mới", nghĩa là về cái tâm bản nhiên, một thực tại sâu xa hơn nhiều. Bởi thế, điều tối cần với chúng ta là phải làm quen với tâm bản nhiên trong khi ta c̣n sống. Có vậy chúng ta mới sẵn sàng để đón nhận nó khi nó hiển lộ một cách tự nhiên và mănh liệt vào lúc ta chết; có vậy ta mới có thể nhận ra nó "một cách tự nhiên như một đứa trẻ chạy đến nấp vào gối mẹ”, như giáo lư đă nói. Và khi ta an trú trong trạng thái đó, cuối cùng sẽ được giải thoát.
Sự mô tả về tâm bản nhiên đương nhiên dẫn đến một nền giáo dục đầy đủ về thiền định, v́ thiền là cách duy nhất, giúp ta có thể hé thấy, rồi dần dần trực nhận và an trú cái tâm bản nhiên ấy. Kế tiếp sẽ đến phần giải thích bản chất của tiến hóa nhân loại, tái sanh, nghiệp, để bạn đọc có một ư niệm đầy đủ về ư nghĩa cuộc lộ tŕnh của chúng ta qua sinh tử.
Ngang đây có lẽ bạn đọc đă có đủ tri kiến để có thể đi vào trọng tâm của quyển sách này: Một tŕnh bày bao quát về cả bốn Bardos và các giai đoạn khác của sự chết, rút từ nhiều kinh điển. Giáo lư, lời khuyên thực tiễn, những sự luyện tâm, được tŕnh bày chi tiết để giúp chúng ta và những người khác kinh quá cuộc sống, kinh quá giai đoạn hấp hối, cái chết và giai đoạn sau khi chết. Sách này kết thúc bằng một viễn tượng về giáo lư Bardo có thể giúp ta hiểu thấu bản chất thâm sâu nhất của nhân tâm và vũ trụ như thế nào.
Nhiều sinh viên thường hỏi tôi:
- Làm sao ta biết được những Bardos ấy là ǵ, từ đâu có được giáo lư minh bạch một cách lạ lùng về Bardo, trí kiến khúc chiết về từng giai đoạn một của quá tŕnh chết, về sự chết và tái sinh ấy?
Đối với nhiều độc giả, câu trả lời mới nghe dường như khó hiểu, bởi v́ khái niệm về tâm mà tây phương hiện có, là một khái niệm hết sức hẹp ḥi. Mặc dù những năm gần đây có những sự vượt rào đáng kể, nhất là về khoa học tâm sinh lư và về tâm thức siêu việt, đại đa số các nhà khoa học vẫn tiếp tục xem tâm chỉ là những quá tŕnh vật lư trong năo bộ, điều này đi ngược lại chứng cứ của hàng ngàn năm kinh nghiệm của các nhà thần bí và các thiền giả thuộc mọi truyền thống tôn giáo.
Vậy th́ từ nguồn thẩm quyền nào mà một quyển sách như thế này được viết ra? Một học giả Hoa kỳ đă viết:
- Nội minh của đạo Phật được căn cứ trên một tri kiến bao quát về thực tại, trên một tuệ giác sâu xa về tự ngă và hoàn cảnh xung quanh; nghĩa là, trên sự toàn giác của đức Phật (*).
Nguồn gốc của giáo lư về Bardo là tâm giác ngộ, cái tâm đă hoàn toàn tỉnh thức của Phật được chứng nghiệm và giảng giải bởi một dọc dài những bậc đạo sư kể từ đức Phật Nguyên ủy trở về sau. Những khám phá tỉ mỉ và thận trọng – có thể bảo là rất khoa học - của các ngài, và cách lập thành công thức những khám phá ấy về tâm linh qua nhiều thế kỷ, đă cho ta một bức tranh đầy đủ nhất có thể có về cả sự sống lẫn sự chết. Chính bức tranh toàn diện này mà, được cảm hứng từ Jamyang Khientse thầy tôi và những bậc thầy vĩ đại khác, lần đầu tiên tôi đang cố truyền đạt lại cho người tây phương.
Trải qua nhiều năm thiền quán, giảng dạy và thực tập, thỉnh vấn những bậc thầy để sáng tỏ vấn đề, tôi đă viết ra quyển Tạng thư về sống chết này, như một đúc kết tinh hoa những lời khuyên tâm huyết của các bậc thầy tôi, để trở thành một Tử thư Tây Tạng và một Sinh thư Tây Tạng mới. Tôi muốn nó sẽ là một sách dẫn, một sách tham khảo, và một nguồn cảm hứng thiêng liêng. Chỉ nhờ đọc đi đọc lại nhiều lần, tôi xin gợi ư, bạn mới có thể khám phá được nhiều tầng ư nghĩa sâu xa của nó. Bạn sẽ thấy rằng càng sử dụng nó bao nhiêu, bạn càng thấy những hàm ẩn của sách này bấy nhiêu, và càng nhận thức được chiều sâu của sự minh triết đang được truyền đạt đến bạn qua nền giáo lư này.
Giáo lư Bardo chứng minh cho ta thấy rơ những ǵ sẽ xảy đến nếu ta có chuẩn bị cho cái chết và những ǵ sẽ xảy đến nếu chúng ta không chuẩn bị. Thật không thể có chọn lựa nào minh bạch hơn. Nếu bây giờ chúng ta không chịu chấp nhận cái chết trong lúc ta đang sống, th́ chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết, và sau khi chết. Hậu quả sẽ là, ta tàn phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới. Ta sẽ không thể sống cuộc đời ḿnh một cách viên măn, ta sẽ cứ bị giam hăm trong cái phần phải chết của ta. Sự vô minh này sẽ cướp đi của ta cái căn bản của cuộc hành tŕnh tiến đến giác ngộ, và khiến chúng ta măi măi vướng vào cái bẫy của ảo tưởng, vào chu kỳ sống chết không được kiểm soát, cái biển khổ mà Phật tử thường gọi là luân hồi.
Nhưng thông điệp chính của giáo lư Phật là, nếu ta có chuẩn bị, th́ có hy vọng tràn trề ở trong đời sống cũng như vào lúc chết. Giáo lư đó cho ta thấy cái khả tính về một sự giải thoát vô giới hạn, mà ta phải đạt đến ngay bây giờ trong đời này, sự giải thoát làm cho chúng ta có thể chọn lựa cái chết của ḿnh và bởi thế, chọn lựa sự sinh ra của ḿnh. Đối với một người có chuẩn bị và thực tập, th́ cái chết đến với họ không phải như một chiến bại mà là một chiến thắng, cái giờ phút vinh quang nhất của cuộc đời.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 7 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 2:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
2. VÔ THƯỜNG
Không một nơi nào trên thế giới mà thần chết không thể t́m được chúng ta – dù chúng ta có xoay đầu mọi phía để tránh né. Nếu có một cách nào để tránh được vố đánh của tử thần, th́ tôi cũng không tránh làm ǵ... Nhưng thật điên rồ nếu nghĩ rằng bạn có thể thành công...
Con người đến rồi đi, tung tăng múa nhảy mà không hề đả động đến cái chết. Mọi sự đều êm xuôi tốt đẹp. Nhưng khi cái chết xảy đến – cho chính họ, vợ con bè bạn họ – trong lúc bất ngờ không chuẩn bị, th́ ôi chao là họ đấm ngực khóc than, phẫn nộ, tuyệt vọng xiết bao!
Để khởi sự tước đoạt thế thượng phong của thần chết, chúng ta hăy áp dụng một đường lối hoàn toàn ngược lại với thế thường; ta hăy coi cái chết như pha không có ǵ lạ lùng cả, ta hăy thường lui tới với nó, quen thuộc với nó; ta hăy để tâm thường xuyên nghĩ tới cái chết hơn bất cứ cái ǵ khác... Ta không biết chừng nào th́ cái chết chực sẵn để đón ta: Vậy ta hăy chực sẵn để đón nó ở khắp mọi nơi. Tập chết chính là tập giải thoát tự do. Một người biết cách làm thế nào để chết th́ hết biết làm nô lệ.
MONTAIGNE
Tại sao thật quá khó để tập chết, tập giải thoát tự do? Tại sao ta lại sợ chết đến thế, và hoàn toàn tránh nh́n thẳng vào nó? Tận tâm khảm, đôi lúc ta cũng biết rằng ra không thể măi măi tránh đối mặt với nó. Milarepa nói rằng:
- Cái vật gọi là thây chết mà ta chúa sợ này, hiện đang sống với ta ở đây.
Càng chậm trễ đối diện với cái chết, ta càng xa lạ với nó, và nỗi sợ hăi bất an ám ảnh ta càng thêm lớn. Ta càng cố chạy trốn nỗi sợ hăi ấy, th́ nỗi sợ hăi càng thêm ác liệt.
Chết là một huyền bí lớn rộng, nhưng có hai điều ta có thể nói về nó: Điều tuyệt đối chắc chắn là ta sẽ chết, và ta không chắc khi nào hoặc bằng cách nào ta sẽ chết. Vậy, sự bảo đảm duy nhất mà ta có được, đó là giờ chết bất định, và ta bám lấy nó làm cái cớ để khỏi trực tiếp giáp mặt cái chết. Chúng ta như những đứa trẻ tự bịt mắt ḿnh trong tṛ chơi trốn bắt và tưởng không ai thấy được chúng.
Tại sao ta lại sống trong nỗi kinh sợ cái chết đến thế? Bởi v́ ước muốn theo bản năng của ta là được sống và tiếp tục sống. Chết là một chấm dứt tàn bạo của mọi sự mà ta xem là quen thuộc. Ta cảm thấy khi cái chết đến, ta sẽ rơi vào một cái ǵ hoàn toàn xa lạ, hoặc trở thành một người nào hoàn toàn khác hẳn. Ta tưởng ḿnh sẽ lạc lơng chơi vơi giữa một khung cảnh lạ lùng kinh khủng. Ta tưởng nó sẽ như lúc ta thức dậy một ḿnh ở nơi xứ lạ, hoàn toàn xao xuyến lo âu v́ không biết ngôn ngữ, không biết đấy là đâu, không tiền, không có giấy thông hành, không bè bạn...
Có lẽ lư do sâu xa nhất tại sao ta sợ chết, là v́ ta không biết ta là ai. Ta tin tưởng vào một cái thể riêng biệt, tách rời, độc nhất vô nhị; song nếu dám xét kỹ nó, ta sẽ thấy cá thể ấy hoàn toàn tùy thuộc vào một tập hợp bất tận gần đủ thứ để phát sinh ra nó: Tên họ ta, "tiểu sử" ta, vợ hay chồng, gia đ́nh, tổ ấm, công việc, bè bạn, phiếu nợ... Chính trên những chống đỡ mong manh tạm bợ ấy, ta đă nương tựa để có được an ninh bảo đảm. Cho nên khi những thứ ấy đều bị tước khỏi ta, th́ ta c̣n có ư niệm ǵ về cái tôi thực sự là ai không?
Nếu không có những cây chống quen thuộc của ta, th́ ta bị đối diện với chính ḿnh, một con người ta không quen biết, một kẻ lạ gây rối luôn luôn sống chung với ta mà ta không bao giờ thực sự muốn giáp mặt. Có phải đó là lư do ta cố lấp đầy mọi giờ phút bằng hoạt động náo nhiệt, dù tầm thường đáng chán cách mấy cũng xong, miễn là khỏi phải bao giờ bị bỏ lại một ḿnh trong im lặng với kẻ lạ ấy.
Và phải chăng điều ấy chứng tỏ có một cái ǵ thật bi đát trong lối sống của ta? Chúng ta sống dưới một lư lịch được gán cho ḿnh, trong một thế giới ảo hóa không có thực tính ǵ hơn Con Rùa Giả trong truyện Cuộc phiêu lưu của Alice. Bị mê hoặc bởi ḷng ham thích xây dựng, chúng ta đă xây những ngôi nhà cuộc đời ḿnh ở trên cát. Thế giới này có vẻ chắc ăn một cách kỳ tuyệt cho đến lúc thần chết giật sập ảo tưởng và đuổi ta ra khỏi chỗ nấp. Vậy cái ǵ sẽ xảy đến cho ta nếu ta không có một cái mốc nào của thực tại sâu xa hơn, để bám víu?
Khi chết ta phải để lại tất cả sau lưng ḿnh, nhất là thân xác, cái thân xác ta đă nâng niu yêu quư biết bao, đă nương tựa vào nó một cách mù quáng và cố gắng tối đa để làm cho nó sống. Nhưng tâm ta cũng không khá ǵ hơn thân xác để làm điểm tựa: Thử nh́n vào tâm bạn ít phút mà xem. Bạn sẽ thấy nó như một con rận luôn luôn nhảy qua nhảy lại. Bạn sẽ thấy những ư tưởng khởi nên một cách vô lối, không mạch lạc ǵ cả. Bị cuốn theo chiều gió bởi sự huyên náo trong mọi lúc, chúng ta chính là nạn nhân của sự bốc đồng của tâm ta. Nếu đây là cái trạng thái duy nhất của tâm mà chúng ta quen thuộc, th́ sự nương tựa vào cái tâm ấy trong lúc chết quả là một canh bạc quái gở.
ẢO TƯỞNG LỚN
Sự ra đời của một người cũng là ra đời nỗi khổ của y. Càng già con người càng ngớ ngẩn, v́ nỗi lo sợ cái chết không thể tránh càng thêm mănh liệt. Thực cay đắng làm sao! Y sống để đuổi theo những ǵ luôn luôn ở ngoài tầm tay. Ḷng khao khát sống c̣n trong tương lai làm cho y không thể sống trong hiện tại.
TRANG TỬ
Sau khi thầy tôi chết, tôi được gần gũi Dudjom Rinpoche, một trong những thiền sư, hành giả mật giáo và Du già sư vĩ đại của thời cận đại. Một ngày khi thầy đang lái xe hơi xuyên nước Pháp cùng với vợ thầy, ngắm cảnh miền quê, họ đi ngang một khu nghĩa trang dài vừa mới sơn quét và trang trí hoa tươi. Bà vợ thầy nói:
- Rinpoche, ngài hăy xem mọi thứ ở Tây phương thật ngăn nắp sạch sẽ đến thế. Ngay tại những nơi người ta để thây chết cũng thật sạch không t́ vết. C̣n ở Đông phương ḿnh, ngay nhà người ta ở cũng không đâu sạch bằng ở đây.
Thầy nói:
- Ồ! Đúng thế; đây quả thực là một xứ văn minh. Họ có những ngôi nhà đẹp đến thế cho những xác chết. Nhưng bà không để ư sao? Họ cũng có những ngôi nhà tuyệt diệu cho những xác sống nữa chứ.
Mỗi khi nhớ lại câu chuyện ấy, tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời thực trống rỗng vô vị làm sao, khi nó được căn cứ vào một niềm tin sai lạc về trường cửu và tương tục. Khi sống kiểu ấy th́ chúng ta đă vô t́nh tự biến thành những cái xác sống, như thầy Dudjom Rinpoche đă nói.
Nhưng đấy là kiểu sống của phần đông chúng ta; chúng ta sống theo một kế hoạch đă định. Nhỏ th́ được giáo dục. Lớn lên kiếm việc làm, rồi gặp một người nào đó, rồi kết hôn, rồi có con cái. Chúng ta mua một cái nhà, rán cho làm ăn trúng mánh, mơ ước có một ngôi nhà ở miền quê hoặc thêm được một chiếc xe hơn. Vào dịp nghỉ th́ đi du lịch xa cùng với bạn bè. Chúng ta dự định kế hoạch cho lúc về hưu. Những vấn đề trọng đại nhất mà một vài người trong chúng ta từng gặp phải chỉ là: Không biết nên đi chơi đâu vào kỳ nghĩ tới, hoặc nên mời ai vào dịp lễ Giáng sinh. Cuộc đời ta thật đơn điệu, tầm thường, lặp đi lặp lại; ta phí cả một đời để theo đuổi những chuyện nhỏ nhen, bởi v́ dường như ta không biết có cái ǵ hơn thế.
Nhịp điệu đời sống chúng ta rộn ràng tới nỗi ta không có th́ giờ để nghĩ đến cái chết. Ta ém nhẹm những nỗi sợ hăi thầm kín của ta về vô thường bằng cách bao vây quanh ḿnh thêm nhiều đồ đạc, của cải, tiện nghi, chỉ để tự thấy ḿnh biến thành tên nô lệ cho chúng. Mọi thời giờ và năng lực của ta đều kiệt quệ chỉ v́ phải bảo tŕ những thứ ấy. Chẳng bao lâu mục đích duy nhất của ta trên đời hóa ra chỉ là giữ cho mọi thứ ta sở hữu càng được bảo đảm an ninh càng tốt. Khi có biến chuyển ǵ xảy đến, ta t́m cách đối phó mau lẹ nhất, một giải pháp hiệu nghiệm tạm thời. Cứ thế đời ta tiếp tục trôi giạt cho đến khi một cơn trọng bệnh hay tai nạn nào đó lay ta ra khỏi cơn mê.
Cũng không hẳn là ta dành nhiều th́ giờ hay suy nghĩ cho cuộc đời này. Hăy nghĩ đến những người đă làm việc bao nhiêu năm rồi phải hồi hưu, để thấy không biết ḿnh phải làm ǵ cả, v́ họ càng ngày càng già và tiến gần cái chết. Mặc dù ta luôn luôn hô hào phải thực tế, thực tế ở Tây phương có nghĩa là thiển cận một cách vô minh và thường ích kỷ. Sự tập trung thiển cận của chúng ta vào đời này và chỉ đời này mà thôi, chính là một ảo tưởng lớn, nguồn gốc của nền duy vật đen tối và phá hoại của thế giới ngày nay. Không ai bàn tới sự chết và đời sau, v́ người ta có thói tin rằng chuyện ấy chỉ làm đ́nh trệ cái gọi là "sự tiến bộ" của ta trên thế giới.
Nhưng nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, th́ tại sao ta lại cả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đă chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc thực nghiệm như ta tuyên bố, th́ tại sao ta không khởi sự tự đặt câu hỏi cho ḿnh một cách nghiêm chỉnh: "Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?" Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải thích...
SỰ LƯỜI BIẾNG NĂNG ĐỘNG
Có một câu chuyện cổ Tây Tạng mà tôi rất thích, gọi là "Cha của Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng":
Một người nghèo kiết xác sau khi làm lụng khá vất vả đă tích trữ được một bao lúa đầy. Anh ta lấy làm hănh diện, treo bao lúa trên xà nhà để đề pḥng chuột và kẻ trộm, rồi để chắc ăn hơn nữa, anh nằm ngay phía dưới. Khi nằm đấy anh bắt đầu suy nghĩ lan man:
- Nếu đem bán lẻ số lúa này, ḿnh sẽ lời to, lấy tiền ấy mua thêm và lại bán, cứ mua đi bán lại như thế chẳng bao lâu ta sẽ giàu, sẽ thành một người quan trọng trong làng xóm. Con gái theo nườm nượp. Ta sẽ cưới một cô thật đẹp, và chẳng bao lâu ta sẽ có một đứa con... Có lẽ là một thằng con trai. Ta sẽ đặt tên nó là ǵ nhỉ?
Nh́n quanh nhà, tia mắt anh gặp phải khung cửa sổ qua đó anh thấy ánh trăng đang lên. Anh nghĩ:
- Thật là điềm tốt! Ta đă t́m được một cái tên hay. Ta sẽ gọi thằng con đó là Nổi-Tiếng-Như-Mặt-Trăng...
Trong khi anh ta đang nghĩ vơ vẩn th́ một con chuột đă trèo lên bao gạo, gặm đứt sợi dây. Vừa khi anh thốt mấy tiếng đặt tên đứa con, th́ bao gạo trên xà nhà rớt trúng làm anh chết tức khắc. Dĩ nhiên là đứa con ấy không bao giờ được sinh ra.
Biết bao nhiêu người trong chúng ta, giống như anh chàng nọ, đă bị cuốn trôi bởi cái mà tôi đă gọi là "sự lười biếng năng động"? Dĩ nhiên có nhiều kiểu lười biếng khác nhau: Đông phương và Tây phương. Cái kiểu ở phương Đông là như kiểu thực hành thuần thục ở Ấn: Suốt ngày ngồi giữa trời không làm ǵ cả, tránh né mọi công việc hay hoạt động hữu ích, uống trà hết tách này tới tách khác, nghe nhạc vang lên từ một chiếc máy thu thanh và tán gẫu với bạn bè. Kiểu lười Tây phương th́ khác hẳn: Độn đầy cuộc sống bằng những hoạt động hấp dẫn, sao cho không c̣n một chút th́ giờ nào để đối phó với những vấn đề then chốt.
Nếu nh́n vào cuộc đời ḿnh ta sẽ thấy biết bao nhiêu công việc không quan trọng, những cái gọi là "trách nhiệm" cứ dồn dập độn đầy cuộc đời ta. Ta tự nhủ là muốn dùng th́ giờ vào những chuyện quan trọng trong đời, nhưng không bao giờ có th́ giờ ấy cả. Thức dậy buổi sáng là đă có bao nhiêu việc: Mở cửa sổ, làm giường, tắm, chà răng, cho chó mèo ăn, giặt đồ, khám phá đă hết cà phê hoặc đường, đi mua, làm thức ăn sáng - cả một dọc dài bất tận. Rồi lại có áo quần phải lựa ra mà ủi và xếp. Rồi c̣n tóc tai, trang điểm nữa th́ sao? Không c̣n biết sao hơn, chúng ta nh́n ngày tháng đầy những cú điện thoại và chương tŕnh, và bao nhiêu trách nhiệm – hay ta nên gọi là "vô trách nhiệm"?
Cuộc đời ta dường như xâm chiếm lấy ta, như có một tối hậu thư oái ăm của nó, lôi tuốt chúng ta đi, để cuối cùng ta cảm thấy ḿnh không có quyền kiểm soát nó nữa. Dĩ nhiên thỉnh thoảng ta cũng cảm thấy khó chịu về điều này, ta chiêm bao ác mộng và thức dậy mồ hôi ướt đẫm, tự hỏi: "Ta đă làm chi đời ta?" Nhưng nỗi kinh hoàng của ta chỉ kéo dài tới bữa ăn sáng, rồi đâu vẫn hoàn đấy.
Tôi nghĩ đến lời một bậc thánh Ấn Độ, Ramakrishna, đă nói với môn đệ:
- Nếu các anh chỉ dùng một phần mười thời gian anh dành cho những môn giải trí như săn đuổi phụ nữ và làm tiền, để mà tu luyện, th́ chỉ trong ṿng vài năm có thể giác ngộ.
Có một bậc thầy Tây Tạng sống vào khoảng đầu thế kỷ, một Leonardo da Vinci của Hy Mă Lạp Sơn, tên là Mipham. Tương truyền ông ta đă sáng chế một cái đồng hồ treo, một khẩu đại bác, và một chiếc phi cơ. Nhưng mỗi khi làm xong một thứ, ông lại phá hủy ngay, bảo rằng nó chỉ tổ gây thêm tṛ giải trí.
Tạng ngữ chỉ thân xác là lu, có nghĩa "một cái ǵ ta để lại sau lưng" như hành lư. Mỗi khi nói lu, ta nhớ rằng ta chỉ là những lữ khách tạm thời cư trú trong đời này và thân xác này. Bởi thế ở Tây Tạng người ta không xao lăng th́ giờ vào việc làm cho hoàn cảnh sống thêm tiện nghi. Người Tây Tạng cảm thấy hài ḷng nếu có đủ ăn, mặc và một mái nhà trên đầu. Nếu cứ tiếp tục như chúng ta – nghĩa là cố cải thiện hoàn cảnh sống, th́ dần dần công việc ấy tự nó trở thành mục đích chính, và đó là một xao lăng vô lối. Có người nào tâm trí tỉnh táo mà lại cẩn thận trang hoàng cái pḥng khách sạn của ḿnh mỗi khi thuê mướn không? Tôi thích lời khuyên này của Patrul Rinpoche:
Hăy nhớ noi gương chị ḅ cái già
Nàng hài ḷng ngủ trong vựa lúa.
Bạn phải ăn, ngủ và bài tiết.
Đó là điều không thể tránh.
Ngoài ra, không việc ǵ đến bạn.
Đôi khi tôi có ư nghĩ rằng thành tựu vĩ đại nhất của nền văn hóa tân tiến chính là nó bán Samsara (sinh tử, luân hồi) một cách xuất sắc và có những lối giải trí trống rỗng. Xă hội ngày nay đối với tôi dường như là cuộc lễ mừng tất cả mọi thứ ǵ dẫn ta đi xa sự thật, làm cho người ta khó mà sống v́ chân lư, và nó lại c̣n không muốn cho người ta tin rằng có chân lư hiện hữu. Và tất cả điều này thoát thai từ một nền văn minh tự cho là tôn thờ sự sống, nhưng kỳ thực đă tước hết ư nghĩa đích thực của cuộc đời; một nền văn minh luôn luôn nói làm cho người ta "hạnh phúc," mà kỳ thực đă làm bế tắc con đường dẫn đến suối nguồn của hạnh phúc chân thực.
Samsara tân tiến được tổ chức tinh vi, thông bác, nó tấn công ta từ mọi góc cạnh bằng tuyên truyền, và gây một môi trường nghiện ngập khó gỡ xung quanh ta. Càng cố thoát, ta dường như càng vướng sâu vào cạm bẫy tinh vi nó đặt ra cho chúng ta. Bậc thầy Jikmè Lingpa vào thế kỷ 18 nói:
- Chỉ v́ bị cách tưởng sai biệt làm cho mê hoặc mà hữu t́nh lang thang bất tận, trong ṿng lẩn quẩn của sinh tử.
Bị ám bởi những hy vọng sai lầm, mộng mị, tham vọng, chúng ta như người đang ḅ qua một sa mạc bất tận, đang khát cháy cổ. Và cái duy nhất mà thế giới tân tiến này đưa ra cho ta uống là một cốc nước muối, chỉ cốt để làm cho ta thêm khá
ĐỐI MẶT CÁI CHẾT
Khi nhận thức điều ấy, có phải là ta nên nghe lời Gyalseé Rinpoche khi ngài nói:
- Dự tính tương lai cũng giống như đi câu trong một hố sâu không có nước;
Không bao giờ có ǵ xảy ra đúng như bạn muốn, vậy hăy bỏ hết mọi kế hoạch tham vọng của ngươi đi.
Khi bạn phải tính toán một việc ǵ.
Th́ hăy xem nó không chắc như cái giờ chết mà bạn chưa biết chắc.
Với người Tây Tạng, lễ hội chính trong một năm là Năm Mới, như lễ Giáng sinh, Phục sinh, Tạ ơn, và sinh nhật của bạn, tất cả dồn vào một dịp lễ. Patrul Rinpoché là một bậc thầy vĩ đại mà cuộc đời đầy những biến cố lạ lùng có thể làm sống động nền giáo lư. Thay v́ ăn tết và chúc mừng năm mới như mọi người, ngài lại khóc. Khi hỏi tại sao, ngài đáp rằng một năm nữa lại trôi qua, ai cũng tiến gần cái chết thêm một chút, nhưng nhiều người vẫn chưa chuẩn bị.
Hăy nghĩ đến cái ǵ có thể xảy đến cho tất cả chúng ta một ngày nào đó. Chúng ta đang tản bộ trên đường, đang suy nghĩ những chuyện làm ta phấn chấn, đang trầm tư về những vấn đề quan trọng, hoặc chỉ đang nghe máy thu thanh bỏ túi. Bỗng th́nh ĺnh một chiếc xe hơi vút qua, suưt cán chết chúng ta.
Hăy bật truyền h́nh lên hay nh́n qua một tờ nhật báo: bạn sẽ thấy chết ở khắp mọi nơi. Những nạn nhân của những tai nạn phi cơ hoặc xe hơi ấy có bao giờ ngờ họ sẽ chết không? Họ xem sống là chuyện đương nhiên, cũng như chúng ta. Biết bao lần ta đă nghe những câu chuyện về người quen, bạn bè, chết bất thần, đột ngột? Ta không cần phải bệnh rồi mới chết, cơ thể ta có thể th́nh ĺnh suy sụp, hỏng máy, hệt như chiếc xe hơi của ta. Hôm nay ta có thể đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngă bệnh và chết ngay hôm sau. Milarepa có khúc hát:
Khi đang khỏe mạnh
Bạn khồng hề nghĩ tới ốm đau
Nhưng bệnh tật th́nh ĺnh giáng xuống
Nhanh như một tia chớp.
Khi bận những việc thế gian
Bạn không bao giờ nghĩ đến cái chết gần kề;
Nó đến nhanh như sấm sét
Bổ xuống đầu bạn.
Ta cần thỉnh thoảng tự dạy ḿnh mà hỏi: "Nếu đêm nay ta chết th́ thế nào?" Ta không biết ta có thức dậy sáng hôm sau không, thức dậy ở đâu. Nếu bạn thở ra mà không thể hít vào lại, thế là bạn đă chết. Đơn giản là vậy. Người Tây Tạng có câu: "Ngày mai hay đời sau, cái ǵ tới trước, ta không thể biết".
Một vài bậc thầy nổi tiếng của Tây Tạng ban đêm mỗi khi đi ngủ, thường rửa ly tách úp bên cạnh giường. Họ không bao giờ chắc chắn ḿnh có thức dậy để cần tới chúng sáng hôm sau. Họ tắt hết lửa, không buồn lưu lại đóm mồi cho sáng hôm sau. Từng sát na họ sống trong ư niệm có thể cái chết đang gần kề.
Cạnh am cốc của Jikmé Lingpa có một cái ao mà ông phải khó nhọc lắm mới vượt qua. Một số đệ tử xin xây một cái cầu, song ông bảo:
Xây làm ǵ? Ai biết được ta c̣n sống để ngủ tại đây đêm mai?
Nhiều bậc thầy cố cảnh tỉnh cho ta thấy rơ tính mong manh của đời sống bằng những h́nh ảnh mạnh hơn: Họ bảo mỗi người trong chúng ta hăy nghĩ như ḿnh là một tên tù tội đang đi đến nơi hành quyết, như một con cá đang vùng vẫy trong lưới, như một con ḅ đang đợi vào nhà tế sinh.
Thân thể nằm dài trên giường lần cuối
Miệng th́ thào những lời trăn trối
Tâm ngắm nh́n kư ức lần cuối diễn ra:
Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với ngươi?
Điều quan trọng là ta phải tư duy một cách thản nhiên và thường xuyên rằng cái chết thực có, và nó sẽ tới mà không báo trước. Đừng để như con bồ câu trong ngạn ngữ Tây Tạng, suốt đêm lăng xăng soạn chỗ ngủ cho đến sáng, và nó không c̣n th́ giờ để ngủ nữa. Như Drakpa Gyaltsen, một bậc thầy hiện đại, đă nói:
- Loài người trải qua suốt cả đời để chuẩn bị hết việc này tới việc khác chỉ để th́nh ĺnh bắt gặp đời sau mà họ hoàn toàn không chuẩn bị.
XEM TRỌNG CUỘC ĐỜI
Có lẽ chỉ có những người hiểu được tính mong manh của đời sống mới biết được sự sống quư báu ngần nào. Một lần, khi tôi dự hội thảo ở Anh quốc, phóng viên đài BBC phỏng vấn những người tham dự. Đồng thời họ cũng nói chuyện với một người phụ nữ sắp chết. Bà ta vô cùng hăi sợ, v́ bà chưa từng nghĩ cái chết là thực có. Bây giờ bà đă biết. Bà chỉ có một thông điệp duy nhất cho những người chết sau bà, đó là: Hăy xem trọng sự sống và cái chết.
Xem trọng cuộc đời không có nghĩa phải bỏ cả đời mà tĩnh tọa tư duy như thể là ta đang ở trên Núi Tuyết hay như vào những ngày xưa tại Tây Tạng. Trong thế giới tân tiến, ta phải làm việc và kiếm sống, nhưng không nên vướng vào kiểu sống "chụp giật" không nh́n thấy một ư nghĩa sâu xa nào của cuộc đời. Công việc của ta là t́m một thế quân b́nh, trung đạo, không quá dấn ḿnh vào những hoạt động và bận bịu ngoại vi, mà càng ngày càng làm cho cuộc sống của ta trở thành đơn giản. Ch́a khóa để t́m ra một thể quân b́nh hạnh phúc cho đời sống hiện nay là tính giản dị.
Đó là ư nghĩa đích thực của giới luật ở trong đạo Phật. Tạng ngữ gọi giới luật là Tsul trim. Tsul có nghĩa là thích hợp, chính xác, và trim có nghĩa là quy luật hay cách thức, con đường. Vậy giới luật là làm cái ǵ thích hợp hay chính xác; ở trong một thời đại quá phức tạp như hiện nay, th́ đó chính là sống giản dị.
Chính từ đây mà ta có được sự an b́nh trong tâm. Ta sẽ có nhiều th́ giờ hơn để theo đuổi sự nghiệp tâm linh và những hiểu biết có thể giúp chúng ta giáp mặt cái chết.
Buồn thay, đây là điều mà trong chúng ta ít có ai làm. Có lẽ bây giờ ta nên tự đặt cho ḿnh câu hỏi:
- Thực sự ta đă làm được cái ǵ trong đời ta?
Tôi muốn nói là, ta đă thực sự hiểu được bao nhiêu về sống chết. Điều làm tôi lên tinh thần là sự xuất hiện những báo cáo về các nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, như những quyển sách của bạn tôi, anh Kenneth Ring và những người khác. Một số đáng kể những người sống sót qua tử nạn hoặc qua kinh nghiệm lúc suưt chết đều mô tả họ có một toàn cảnh cuộc đời họ diễn ra trong tâm trí vào lúc đó. Một cách sống động và chính xác, họ sống lại những biến cố quan trọng của đời họ. Đôi khi họ c̣n thấy sống lại những hậu quả hành động của họ đối với kẻ khác, và kinh quá những cảm xúc mà hành động họ đă gây nên. Một người đàn ông kể cho Kenneth Ring nghe:
- Tôi nhận ra rằng có những việc mà mỗi người được đưa xuống trần gian để học hỏi và thực chứng. Chẳng hạn để san sẻ thêm t́nh yêu thương, lân mẫn đối với nhau hơn. Để khám phá rằng điều quan trọng nhất là mối tương giao giữa người với người và ḷng nhân ái chứ không phải là những thứ duy vật. Để thấy rằng mỗi một việc làm của bạn trong đời này đều được ghi lại, và mặc dù lúc đó bạn không nghĩ tới, nó vẫn xuất hiện lại về sau.
Đôi khi cuộn phim về cuộc đời xảy ra kèm theo một "thực thể ánh sáng" quang vinh. Điều nổi bật trong nhiều nhân chứng khác nhau là, sự gặp gỡ "thực thể" ấy chứng tỏ rằng mục đích thực sự duy nhất trong đời là "tập sống yêu thương kẻ khác và có được tri kiến".
Một người kể với Raymond Moody:
- Khi ánh sáng xuất hiện, điều đầu tiên ngài nói với tôi là: "Con đă làm ǵ để chứng tỏ với ta là con đă sống trọn vẹn đời con?" hoặc một điều ǵ tương tự như thế... Tựu trung suốt buổi, ngài cứ nhấn mạnh về tầm quan trọng của yêu thương... Ngài dường như cũng rất quan tâm đến những việc liên hệ tới hiểu biết nữa...
Một người khác bảo với Kenneth Ring:
- Tôi được hỏi, mà không nghe thành lời – nó như một giao cảm tâm linh trực tiếp - rằng: "Tôi đă làm ǵ để đem lại lợi lạc hay tiến hóa cho loài người?"
Những hành động của ta lúc sống như thế nào, th́ khi chết ta như thế ấy. Và tất cả mọi sự, tuyệt đối tất cả, đều đáng kể.
MÂY MÙA THU
Ở tu viện của ngài tại Népal, vị đệ tử già nhất hiện c̣n sống của thầy tôi là Dilgo Khientse Rinpoche, đă giảng dạy đến ngày cuối một khóa tu học. Ngài là một trong những bậc thầy nổi tiếng hiện nay, đă từng dạy cả đến đức Dalai Lama và nhiều bậc thầy khác, những người xem ngài như một kho tàng bất tận của trí tuệ và từ bi. Tất cả chúng tôi đều ngước lên mà chiêm ngưỡng con người vĩ đại như tuyết ấy, một bậc học giả, thi sĩ, và hành giả mật tông đă trải qua hai mươi lăm năm trong đời để nhập thất ẩn cư. Ngài dừng lại và đưa mắt nh́n xa xăm, dạy rằng:
- Tôi nay đă già bảy mươi tám tuổi, đă trông thấy quá nhiều việc trong đời. Bao nhiêu người trẻ tuổi đă chết, bao nhiêu người bằng tuổi đă chết, bao nhiêu người già đă chết. Nhiều người ở trên cao đă tụt xuống thấp. Nhiều người ở dưới thấp đă vượt lên cao. Nhiều xứ sở đă biến đổi. Đă có bao nhiêu biến động đau thương, bao nhiêu chiến tranh, tật dịch, bao nhiêu tàn phá trên khắp thế giới. Tuy thế tất cả những biến chuyển kia không thực ǵ hơn một giấc chiêm bao. Khi ta nh́n thật sâu xa, ta nhận ra rằng không có một cái ǵ trường cửu miên viễn, không một cái ǵ, cả đến sợi lông măng trên thân thể ta. Và đây không là một lư thuyết, mà là điều bạn có thể thực sự chứng nghiệm, thấy biết bằng chính mắt bạn. Tôi thường tự hỏi: "Tại sao mọi sự đều thay đổi?" Và chỉ một câu trả lời duy nhất trở lại với tôi: "Đấy là cuộc đời." Không một thứ ǵ, tuyệt đối không thứ ǵ, có một tính chất trường cửu nào cả. Đức Phật dạy:
Hiện hữu của chúng ta mong manh như mây mùa thu
Cảnh sống chết như màn nhảy múa.
Đời người như chớp loáng qua bầu trời
Vút nhanh như thác trên núi cao đổ xuống.
Một trong những lư do chính khiến ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt cái chết là v́ ta tảng lờ sự thật về vô thường. Chúng ta cứ khăng khăng muốn mọi sự tiếp tục như cũ, đến nỗi ta tưởng rằng chúng vẫn luôn như vậy. Nhưng đấy chỉ là ảo tưởng. Chúng ta cũng thường thấy rằng ḷng tin không ăn nhập ǵ với thực tại. Ảo tưởng ấy, cùng với những thông tin sai lạc, ư tưởng, giả thuyết, là một nền tảng bấp bênh trên đó ta xây dựng cuộc đời ta. Dù sự thật có xen vào chứng minh ngược lại, chúng ta vẫn cố bám giữ lấy ảo tưởng của ta.
Trong tâm trí ta, sự biến chuyển luôn đồng nghĩa với mất mát, đau khổ. Và khi nó xảy tới, ta cố tự "gây mê" cho ḿnh càng nhiều càng hay. Ta cứ nghĩ một cách ươn ngạnh phi lư rằng sự trường cửu đem lại an ninh, c̣n vô thường th́ không. Nhưng kỳ thực vô thường cũng như một vài người ta gặp trong đời, lúc đầu khó chịu nhưng khi đă quen biết lại rất thân thiện, không đáng bực ḿnh như ta tưởng.
Hăy suy nghĩ về điều này: Sự thực chứng về vô thường, ngược đời thay, lại là cái duy nhất ta có thể nắm chắc, có lẽ đấy là sở hữu bền bỉ duy nhất của ta. Nó giống như bầu trời hay trái đất. Bất kể vạn vật chung quanh ta đều có thể sụp đổ, đổi thay bao nhiêu, trời đất vẫn tồn tại măi. Chẳng hạn chúng ta có trải qua một cơn khủng hoảng đau đớn ê chề, toàn bộ cuộc đời ta dường như tan ră thành mảnh vụn... Chẳng hạn người bạn đời của ta đột ngột bỏ ta không báo trước. Nhưng trái đất vẫn c̣n đó, bầu trời c̣n đây. Dĩ nhiên, thỉnh thoảng ngay cả trái đất cũng chấn động, chỉ để mà nhắc cho ta nhớ đừng có chắc ăn bất cứ một việc ǵ...
Ngay cả đức Phật cũng chết. Cái chết của ngài là một cách giáo hóa, để gây chấn động nơi kẻ ngây ngô, biếng nhác, tự măn, để đánh thức cho ta thấy sự thật là mọi sự đều vô thường, và cái chết là một sự kiện hiển nhiên của cuộc đời. Khi gần chết, đức Phật đă dạy:
- "Trong các dấu chân, dấu chân voi là lớn hơn cả. Trong các phép quán niệm xứ, th́ niệm vô thường là hơn cả."
(Kinh Đại bát Niềt Bàn)
Mỗi khi chúng ta đánh mất mục tiêu của ḿnh, rơi vào lười biếng giải đăi, th́ sự quán niệm vô thường và chết lay ta trở về sự thật:
Cái ǵ đă sinh ra sẽ chết
Cái ǵ đă tụ, sẽ tan
Cái ǵ có tích lũy sẽ cạn kiệt
Cái ǵ đă xây dựng sẽ sụp đổ
Và cái ǵ lên cao sẽ xuống thấp.
Toàn thể vũ trụ, theo các nhà khoa học hiện nay, chỉ là sự chuyển biến, hoạt động, tiến tŕnh, một tổng thể biến thiên làm nền tảng cho mọi sự vật.
Mỗi tác động hỗ tương trong một hạt nhân nguyên tử gồm có sự hủy diệt và tái tạo những hạt nguyên tử (subatomic particles). Thế giới bên trong một nguyên tử là cuộc luân vũ liên tục của sinh và diệt, vật chất chuyển thành năng lượng và năng lượng thành vật chất. Những h́nh dạng phù du thoạt hiện thoạt mất tạo thành một thực thể bất tuyệt măi măi được tái tạo. (*)
Đời chúng ta là ǵ nếu không phải là cuộc luân vũ của những h́nh dạng phù du ấy? Há chẳng phải mọi sự luôn luôn thay đổi: Lá trên cành cây trong công viên, ánh sáng trong pḥng bạn lúc đang xem sách này, những mùa, khí hậu, thời gian trong ngày, người qua lại trên đường. C̣n bạn th́ thế nào: Không phải mọi sự ta làm trong quá khứ bây giờ chỉ như một giấc mộng đó sao? Những bạn bè thuở bé, những chỗ ngày nhỏ ta thường lui tới, những quan niệm, ư tưởng mà có một thời ta đă say mê ấp ủ: Ta đă bỏ lại tất cả sau lưng. Bây giờ, trong giây phút này, bạn thấy sự đọc những trang sách này dường như rất thực. Nhưng rồi nó cũng chỉ c̣n là một kư ức.
Những tế bào trong cơ thể ta đang chết, những tế bào năo ta đang tàn tạ, cả đến sự biểu hiện trên gương mặt ta cũng luôn thay đổi tùy theo tâm trạng ta. Cái mà ta gọi là tính t́nh của ta chỉ là một ḍng tâm thức, không ǵ khác. Hôm nay ta cảm thấy thoải mái v́ mọi sự tiến triển tốt đẹp, ngày mai ta cảm thấy ngược lại. Vậy th́ cái cảm giác thoải mái đi đâu rồi? Những ảnh hưởng mới xâm chiếm lấy ta, mỗi khi hoàn cảnh thay đổi: Chúng ta đă vô thường, hoàn cảnh cũng vô thường, không một thứ ǵ chắc chắn bền bỉ ở bất cứ đâu, mà ta có thể chỉ ra.
Không ǵ khó tiên liệu hơn là những ư tưởng và t́nh cảm của ta: Bạn có bao giờ biết được bạn sẽ nghĩ ǵ, cảm thấy thế nào trong thời gian sắp tới không? Tâm ta quả thực trống rỗng, vô thường, phù du như một giấc mộng. Hăy nh́n một ư tưởng: Nó đến, ở và đi. Quá khứ đă qua, tương lai chưa tới, và ngay cái ư nghĩ hiện tại khi ta cảm nhận nó, nó đă thành dĩ văng.
- Điều duy nhất ta thực sự có được là cái bây giờ, là hiện tại.
Có đôi lúc, sau khi tôi giảng dạy những điều này, một người tiến lên bảo:
- Tất cả chuyện đó rơ ràng quá rồi. Tôi đă biết. Hăy giảng cho tôi nghe một điều ǵ mới lạ.
Tôi bảo họ:
- Bạn có bao giờ thực sự hiểu, thân chứng sự thật vô thường hay chưa? Bạn đă thâm nhập nó trong từng ư tưởng, hơi thở và động tác, đến nỗi cuộc đời bạn nhờ vậy mà được đổi mới hay chưa? Hăy tự hỏi bạn hai câu này: Tôi có nhớ vào mọi lúc, rằng tôi đang chết hay không, và mọi người mọi vật khác cũng đang chết, bởi thế đối xử với mọi chúng sinh với ḷng bi mẫn trong mọi lúc? Sự hiểu biết về chết và vô thường nơi tôi có thực đă trở nên bén nhạy, cấp thiết đến độ tôi đang dành mọi giây phút c̣n lại của đời tôi để theo đuổi sự nghiệp giác ngộ? Nếu bạn có thể trả lời "Có" cho cả hai câu hỏi ấy, th́ bạn mới thực sự đă hiểu ư vô thường.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 8 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
3. TƯ DUY VÀ THAY ĐỔI
Hồi c̣n bé ở Tây Tạng, tôi có nghe câu chuyện về bà Krisha Gotami, một thiếu phụ có cái diễm phúc được sống vào thời Phật. Đứa con đầu ḷng của nàng mới chừng một tuổi bỗng nhiên ngă bệnh và chết. Quá đau khổ, nàng ôm xác con đi lang thang khắp các nẻo đường, gặp ai cũng xin cứu cho nó sống lại. Một số người tảng lờ, vài người cười nhạo, nghĩ nàng đă điên, nhưng cuối cùng nàng gặp một người thông minh chỉ cho nàng biết đức Bụt là người duy nhất trên đời có thể làm được cái phép lạ mà nàng đang cần. Bởi thể nàng tới nơi Bụt, đặt xác con dưới chân ngài và kể lại chuyện trên. Bụt lắng nghe với ḷng bi mẫn vô biên, rồi ngài nhẹ nhàng bảo:
- Chỉ có một cách duy nhất để hàn gắn nỗi đau buồn của con. Con hăy xuống phố, xin về cho ta một hột mù tạt từ một nhà nào chưa hề có người chết.
Gotami sung sướng đi ngay xuống phố thị. Nàng đứng trước ngôi nhà đầu tiên và nói:
- Bụt đă bảo tôi đi t́m một hột mù tạt từ nơi nhà chưa từng biết đến cái chết. Người trong nhà nói:
Nhiều người đă chết trong nhà này.
Nàng đến nhà kế tiếp, và cũng được bảo:
Trong gia đ́nh chúng tôi, có vô số người thân đă chết.
Cứ thế qua đến nhà thứ ba thứ tư cho đến khi nàng đă đi quanh hết cả thành phố, và nhận ra rằng cái điều kiện mà Bụt đặt ra không thể nào thực hiện. Nàng bèn đem xác con đến nghĩa địa và nói lời cuối cùng vĩnh biệt nó, rồi trở về nơi Bụt. Ngài hỏi:
Con có đem lại hột mù tạt đó không?
Nàng đáp:
Thưa Bụt không. Con bắt đầu hiểu được bài học Bụt cố dạy con. Sự đau khổ đă làm cho con mù quáng, và con nghĩ rằng chỉ có con là khổ v́ cái chết.
Phật hỏi:
Tại sao con trở lại?
Nàng đáp:
Để xin Bụt dạy cho con chân lư về chết là ǵ, cái ǵ ở đằng sau và bên kia sự chết, và có cái ǵ ở trong con sẽ không chết hay không.
Đức Phật khởi sự giảng dạy cho nàng.
- Nếu con muốn biết sự thật về sống và chết, con hăy tư duy liên tục về điều này: "Có một định luật duy nhất trong vũ trụ không bao giờ thay đổi, đó là mọi sự đều chuyển biến vô thường. Cái chết của con con bây giờ đă giúp con thấy được rằng cái thế giới của sinh tử mà ta đang sống là một biển khổ vô biên không thể nào chịu nổi. Chỉ có một con đường duy nhất ra khỏi ṿng sống chết bất tận đó là con đường giải thoát. V́ sự đau khổ đă khiến con sẵn sàng học hỏi, và tâm con sẵn sàng mở ra để đón nhận chân lư, nên ta sẽ khai thị cho con".
Krisha Gotami quỳ dưới chân Bụt và theo Bụt suốt quăng đời c̣n lại của nàng. Khi gần chết, nàng đă giác ngộ.
CHẤP NHẬN CÁI CHẾT
Câu chuyện về Krisha Gotami chỉ cho ta một điều mà ta có thể chiêm nghiệm nghiền ngẫm: Một sự xúc chạm gần gũi với cái chết có thể đem lại một sự tỉnh thức thực sự, một sự chuyển hóa trong toàn bộ nhân sinh quan của ta.
Hăy lấy ví dụ cái kinh nghiệm cận tử. Có lẽ một trong những khải thị quan trọng nhất của nó đă chuyển hóa con người trải qua kinh nghiệm ấy như thế nào. Những nhà nghiên tầm đă lưu ư một số hậu quả và biến đổi đáng ngạc nhiên nơi những người ấy: Đó là họ bớt sợ hăi và biết chấp nhận sự chết; họ quan tâm đến việc giúp đỡ người khác nhiều hơn, họ càng thấy rơ tầm quan trọng của yêu thương, họ ít quan tâm đến những theo đuổi vật chất, họ càng tin tưởng vào chiều hướng tâm linh và ư nghĩa cuộc đời, và dĩ nhiên họ càng mở rộng niềm tin về đời sau. Một người đă nói với Kenneth Ring:
- Tôi đă được chuyển hóa từ một con người lạc lơng lang thang không mục đích, không thiết ǵ trong đời ngoài ra là tài sản vật chất, đến một người có định hướng, có động cơ sâu xa, có một mục đích trong cuộc đời, và một niềm tin mănh liệt rằng sẽ có một quả báo vào cuối cuộc đời. Ḷng say mê của cải, ham muốn sở hữu vật chất nơi tôi đă được thay bằng sự khát khao t́m hiểu về tâm linh và ước mong thấy thế giới được cải thiện.
Một phụ nữ nói với Margot Grey, một nhà nghiên cứu Anh quốc về kinh nghiệm cận tử:
- Tôi dần dần cảm thấy có một ư thức cao về t́nh yêu, khả năng cảm thông, khả năng t́m thấy niềm vui và lạc thú trong những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất quanh tôi... Tôi phát sinh một ḷng bi mẫn lớn lao đối với người bệnh và người sắp chết, và hết sức mong sao cho họ biết và ư thức được rằng tiến tŕnh chết chỉ là một sự nối dài của đời sống. (1)
Tất cả chúng ta đều biết những khủng hoảng đe dọa sự sống như bệnh nặng, v.v... có thể phát sinh những chuyển hóa sâu xa tương tự. Freda Naylor, một bác sĩ can đảm ghi nhật kư khi chết v́ bệnh ung thư như sau:
- Tôi đă có những kinh nghiệm mà có lẽ không bao giờ tôi có được, về điều nầy tôi phải cảm ơn bệnh ung thư. Sự khiêm cung, giảng ḥa với cái chết của chính tôi, nhận ra năng lực tâm linh tôi - một điều luôn làm tôi ngạc nhiên - và nhiều điều khác nữa về chính ḿnh mà tôi đă khám phá bởi v́ tôi đă dừng tại chỗ, xác định lại và tiến lên. (2)
Nếu chúng ta quả có thể "xác định lại và tiến lên" với ḷng khiêm cung và cởi mở ấy, và thực sự chấp nhận cái chết của chúng ta, th́ ta sẽ tự thấy ḿnh sẵn sàng hơn để đón nhận những chỉ dẫn về tâm linh để tu tập. Sự sẵn sàng đón nhận này c̣n mở đến một khả năng khác kỳ diệu hơn: Khả năng phục hồi đích thực.
Tôi nhớ một phụ nữ Mỹ trung niên đến viếng Dudjom Rinpoche tại Nữu ước vào năm 1976. Bà ta không đặc biệt quan tâm ǵ tới Phật giáo, nhưng bà nghe nói có một bậc thầy vĩ đại đang ở trong thành phố. Bà đang ốm nặng, và trong cơn tuyệt vọng bà muốn thử bất cứ ǵ, cả đến sự viếng thăm một bậc thầy Tây Tạng! Lúc ấy tôi làm người thông dịch.
Bà vào pḥng, ngồi trước mặt Dudjom Rinpoche. Bà quá xúc động bởi chính t́nh trạng ḿnh và sự hiện diện của ngài, tới nỗi bà ̣a lên khóc. Bà la lên:
- Bác sĩ của tôi bảo tôi chỉ c̣n sống vài tháng nữa. Thầy có thể nào giúp tôi không? Tôi đang chết.
Ngạc nhiên cho bà làm sao, một cách nhẹ nhàng đầy từ mẫn Dudjom Rinpoche khởi sự cười khúc khích. Rồi ngài b́nh tĩnh nói:
- Bà thấy, ai trong chúng ta cũng đang chết cả. Chỉ là vấn đề thời gian. Một số người chết sớm hơn người khác, thế thôi.
Với những lời ít ỏi đó, ngài giúp bà ta thấy được tính chất phổ quát của sự chết, và cái chết sắp tới của bà không phải là duy nhất. Điều ấy làm bà đỡ lo. Rồi ngài nói về chết và chấp nhận cái chết. Ngài nói về niềm hy vọng ở trong sự chết. Và cuối cùng ngài cho bà một phương pháp tu tập để chữa trị, mà bà đă hăng hái tuân theo.
Không những bà khởi sự chấp nhận cái chết, mà nhờ tu tập một cách hoàn toàn thành khẩn, bà đă khỏi bệnh. Tôi đă nghe nhiều trường hợp khác, có những người được chẩn đoán là bệnh đă tới thời kỳ sau chót, chỉ c̣n sống vài tháng, nhưng khi họ đi vào độc cư, tu tập tâm linh, thực sự đối mặt với chính ḿnh và với cái chết, th́ họ lại hết bệnh. Điều này cho ta thấy ǵ? Rằng khi ta chấp nhận chết, chuyển hóa thái độ của ta đối với cuộc đời, và t́m ra mối liên hệ căn để giữa sống và chết, th́ lúc ấy, một khả năng chữa trị kỳ diệu có thể xảy ra.
Những Phật tử Tây Tạng tin rằng những bệnh như ung thư có thể là một lời cảnh cáo nhắc ta nhớ rằng ta đă lăng quên những khía cạnh sâu xa của bản thể ta, những nhu cầu tâm linh chẳng hạn. Nếu ta nghiêm túc đón nhận sự cảnh cáo này, và thay đổi một cách căn bản chiều hướng cuộc đời ta, th́ rất có hy vọng chữa lành không những thân xác ta mà cả toàn thể con người ta nữa.
SỰ THAY ĐỔI SÂU XA TRONG TÂM ĐỂ
Tư duy sâu xa về vô thường, như Krisha Gotami đă làm là thấu hiểu tận trong tim bạn cái sự thật được diễn tả trong những câu thơ của một bậc thầy hiện nay, Nyoshul Khenpo:
Bản chất mọi sự đều huyễn hóa phù du
Những người nhận thức nhị nguyên thường xem khổ là vui
Như kẻ liếm mật nơi lưỡi dao bén.
Đáng thương những ai bám chặt vào thực hữu
Hăy xoay sự chú ư vào trong, hỡi bạn thân.
Nhưng thật là khó làm sao để xoay chú ư vào trong! Chúng ta dễ dàng quen thói cũ, đặt ra những mẫu mực để nó trở lại khống chế ḿnh! Mặc dù, như bài thơ trên cho thấy, chúng đem lại đau khổ cho ta, ta vẫn chấp nhận chúng một cách cam chịu, v́ đă quen đầu hàng chúng. Chúng ta có thể xem tự do giải thoát như một lư tưởng, song khi động tới những thói quen của ḿnh, th́ ta hoàn toàn biến thành nô lệ.
Tuy thế, nhờ tư duy mà ta có thể dần dần đạt đến trí tuệ. Chúng ta có thể một ngày nào đó nhận ra rằng ḿnh đang tái đi tái lại những mẩu mực cố định, và khởi sự mong muốn thoát ra. Dĩ nhiên chúng ta có thể rơi trở lại vào thói quen, nhiều lần, nhưng dần dà cũng có thể ngoi lên khỏi chúng và bắt đầu thay đổi. Bài thơ sau đây nói cho tất cả chúng ta, gọi là "Tự truyện trong Năm Chương":
1. Tôi đi xuống đường phố
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi rớt vào đó.
Tối chới với vô phương.
2. Tôi đi xuống cũng con đường ấy
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi làm bộ như không trông thấy
Tôi lại rớt như thường.
Tôi không ngờ ḿnh ở ngay chỗ cũ
Nhưng đó đâu phải lỗi tại tôi
Mất nhiều thời gian mới ḥng ra được.
3. Tôi cũng lại đi con đường cũ
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi thấy nó vẫn đang ở đấy
Và tôi vẫn rơi vào. Đó là thói quen
Mắt tôi vẫn mở
Tôi biết ḿnh ở đâu
Đấy là lỗi tại tôi
Tôi liền ra tức khắc.
4. Tôi đi xuống con đường phố cũ
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi đi quành qua nó.
5. Tôi đi xuống bằng con đường khác.
Mục đích của tư duy về cái chết (tử tưởng) là làm một cuộc đổi mới thực sự trong đáy tim bạn, và tập khởi sự tránh cái "lỗ sâu bên vệ đường" bằng cách "đi con đường khác”. Thường điều này cần có một thời gian nhập thất quán tưởng sâu xa, v́ chỉ có vậy ta mới có thể mở mắt thực sự để thấy ta đă làm ǵ với cuộc đời ta.
Nh́n thẳng cái chết không nhất thiết phải hăi hùng ghê gớm lắm. Tại sao không tư duy sự chết khi bạn đang cao hứng, thoải mái, nằm trong giường ấm áp tiện nghi, hoặc khi bạn đang trải qua dịp nghỉ lễ, đang lắng nghe bản nhạc mà bạn yêu thích? Tại sao không tư duy sự chết khi bạn đang hạnh phúc, khỏe mạnh, đầy tin tưởng và hoàn toàn an vui? Bạn có để ư rằng có những giờ phút đặc biệt trong đó bạn có khuynh hướng nội quán hay không? Hăy làm việc với những giây phút ấy một cách nhẹ nhàng, v́ đấy là những giây phút bạn có thể có được một kinh nghiệm mănh liệt sâu xa, thay đổi toàn thể quan niệm của bạn về thế giới. Có những thời điểm trong đó những niềm tin cũ của bạn trước kia tự động sụp đổ hoàn toàn, bạn tự thấy ḿnh được đổi mới hẳn.
Sự quán niệm cái chết sẽ đem lại cho bạn một ư thức sâu xa về sự từ bỏ trong đạo Phật, Tạng ngữ là Ngé jung. Ngé có nghĩa là "thực sự" hay "quyết định", jung là "ra khỏi", "ngoi lên", hay "sinh ra". Kết quả sự tư duy thường xuyên và sâu xa về cái chết là, bạn sẽ thấy ḿnh "ngoi lên" khỏi những mẫu mực thói quen của ḿnh, thông thường là với cảm giác ngấy chán đối với chúng. Bạn sẽ thấy ḿnh càng lúc càng thêm sẵn sàng rũ bỏ chúng, và cuối cùng bạn có thể thoát khỏi chúng một cách êm thấm nhẹ nhàng, "như rút một cọng tóc ra khỏi một thỏi bơ”, các bậc thầy đă ví dụ.
Sự từ bỏ mà bạn sẽ đạt tới ấy, đem lại cho bạn vừa nỗi buồn vừa niềm vui: Buồn v́ bạn nhận thức được cái vô vị của những thói cũ nơi bạn, và vui v́ cái tri kiến sâu xa dần dần mở ra trong bạn, khi bạn có thể buông bỏ những thói cũ. Đây không là một niềm vui phàm tục, mà là một hỉ lạc làm phát sinh một năng lực mới mẻ, thâm hậu, một niềm tin, một cảm hứng bền bỉ thoát thai từ nhận thức rằng ḿnh không phải là tên nô lệ cho những thói quen của ḿnh, quả thế ḿnh có thể ngoi lên khỏi chúng, rằng ḿnh có thể thay đổi, và trở nên càng ngày càng giải thoát tự do.
NHỊP TIM CỦA THẦN CHẾT
Sẽ không có hy vọng nào biết được cái chết nếu nó chỉ xảy đến một lần mà thôi. Nhưng may thay, cuộc đời toàn thị chỉ là một màn luân vũ của sống và chết, một cuộc nhảy múa của vô thường. Mỗi khi tôi nghe tiếng thác đổ, hay tiếng sóng vỗ vào bờ, hay tiếng tim tôi đập, tôi lại nghe tiếng của vô thường. Những thay đổi ấy, những cái chết nhỏ ấy là những móc nối sống động giữa ta với sự chết. Đó là mạch nhảy của thần chết, là nhịp tim của thần chết, nhắc ta buông mọi sự ta đang bám víu.
Bởi thế ta hăy làm việc với những thay đổi ấy ngay bây giờ, trong đời sống: Đấy là cách thực sự để chuẩn bị cho cái chết. Đời sống có thể đầy những nỗi đau thể xác và tinh thần, đầy những gian khổ, nhưng tất cả những thứ này lại là những cơ hội giúp ta có thể chấp nhận cái chết. Chỉ khi ta tin tưởng mọi sự vẫn trường tồn, th́ ta mới không thể rút bài học từ biến dịch. Khi ấy ta như bị nhốt kín, và trở nên tham lam níu kéo (chấp thủ). Chấp thủ là nguồn gốc mọi vấn đề của chúng ta. V́ vô thường đối với chúng ta có nghĩa là lo âu bất trắc, nên ta bám vào, níu kéo mọi sự một cách tuyệt vọng, mặc dù mọi sự đều biến đổi. Chúng ta sợ phải buông xả, và có thể nói là chúng ta sợ phải sống thực sự, v́ tập sống thực sự có nghĩa tập buông xả. Và đấy là bi kịch, là sự nghịch lư của cuộc đấu tranh ḥng tiếp tục bám víu: Không những điều ấy là bất khả, mà nó c̣n mang lại cho ta cái khổ mà ta muốn tránh. Cái ư định đằng sau sự bám víu tự nó có thể không có ǵ quấy; không có ǵ sai lầm trong sự việc ta muốn được hạnh phúc an vui, nhưng cái điều ta muốn níu kéo th́ tự bản chất đă là không thể níu kéo được. Người Tây Tạng nói rằng: "Chúng ta không thể rửa tay hai lần trong cùng một ḍng nước", và "Dù có ép mạnh bao nhiêu, bạn cũng không thể ép cát ra dầu".
Thâm nhập lư vô thường thực sự chính là dần dần tự giải thoát khỏi chấp thủ, khỏi quan niệm sai lầm tai hại của ta về trường tồn, khỏi sự say mê an ninh bảo đảm trên đó ta dựng xây mọi thứ. Dần dà, ta nhận ra rằng, cái cơn nhức nhối tim gan mà ta phải trải qua do cố níu những ǵ không níu được, suy cho cùng thực không cần thiết. Lúc đầu, ngay đến chuyện này cũng thật khó mà chấp nhận, v́ ta chưa quen thuộc. Nhưng khi càng suy nghĩ và tiếp tục suy nghĩ, tâm trí ta sẽ dần dần thay đổi. Sự buông xả bắt đầu có vẻ tự nhiên hơn, và càng ngày càng dễ. Có thể phải cần nhiều thời gian để những sự điên rồ của ta lắng xuống, nhưng càng tư duy, ta càng phát triển cái tri kiến của sự buông xả, chính lúc đó một sự đổi mới xảy ra trong lối nh́n của ta đối với mọi sự.
Quán niệm tính vô thường mà thôi chưa đủ, bạn phải làm việc với nó trong cuộc đời của bạn. Cũng như học y khoa cần cả lư thuyết lẫn thực hành, học sống cũng vậy, và trong sự học sống ở đời, sự thực hành nằm ngay đây, trong pḥng thí nghiệm của biến dịch. Khi những đổi thay xảy đến, chúng ta tập nh́n chúng với một tuệ giác mới. Mặc dù mọi sự vẫn tiếp tục xảy ra như trước, song một cái ǵ trong ta sẽ đổi khác.
Hoàn cảnh bây giờ đối với ta có vẻ thoải mái hơn, bớt căng thẳng khổ nhọc, và dù có trải qua những cuộc bể dâu, chúng ta cũng ít kinh hăi trước ảnh hưởng của chúng. Mỗi cuộc bể dâu đem lại cho ta thêm một ít thực chứng, và quan niệm của ta về sự sống trở nên càng ngày càng sâu sắc và khoáng đạt hơn.
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 9 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
(tiếp)
LÀM VIỆC VỚI NHỮNG ĐỔI THAY
Ta hăy thử một thí nghiệm. Hăy nhặt một đồng xu lên, và tưởng tượng nó là cái đối tượng mà bạn đang bám víu. Bạn hăy giữ nó thật chặt trong nắm tay đối diện với mặt đất. Bấy giờ nếu bạn buông ra hay thả lỏng nắm tay, bạn sẽ mất cái mà bạn đang nắm giữ. Chính đó là lư do làm bạn phải nắm lại.
Nhưng có một khả năng khác: Bạn có thể buông ra mà vẫn giữ được đồng xu đó. Bạn duỗi cánh tay, để ngữa nắm tay cho đối diện với bầu trời. Rồi bạn thả nắm tay, th́ đồng xu vẫn c̣n nằm trên bàn tay mở của bạn. Thế là bạn buông xả mà đồng xu vẫn c̣n là của bạn, mặc dù xung quanh nó là hư không bao la.
Bởi vậy vẫn có cách để chúng ta có thể chấp nhận vô thường mà vẫn thưởng thức được hương vị cuộc đời, và đồng thời không bám víu. Ta hăy nghĩ đến những ǵ thường xảy ra trong những mối tương quan. Phần lớn chỉ khi sắp mất bạn, người ta mới nhận ra ḿnh thương bạn, và khi ấy người ta càng bám chặt hơn. Nhưng càng níu kéo th́ người kia càng thoát ly, và mối liên lạc giữa họ càng mong manh hơn.
Chúng ta muốn có hạnh phúc, nhưng chính cái cách ta theo đuổi hạnh phúc lại quá vụng về đến nỗi nó chỉ đem lại thêm nhiều phiền muộn. Thông thường ta tưởng chừng ta phải giữ kỹ để có được cái ǵ mà ta cho là sẽ bảo đảm hạnh phúc của ta. Ta tự hỏi: "Làm sao ta có thể sẽ bảo đảm một cái ǵ nếu ta không thể sở hữu nó?" Quá thường khi, ta lẫn lộn sự bám víu với t́nh yêu. Ngay cả khi mối tương giao thật tốt đẹp, th́ t́nh yêu vẫn thường bị hỏng do sự bám víu, từ bám víu có nỗi bất an, chiếm hữu và kiêu căng; và khi t́nh yêu bay mất, th́ bạn chỉ c̣n lại những hoài niệm để chứng tỏ t́nh yêu của bạn, đó là vết sẹo của sự bám víu.
Vậy th́ làm thế nào ta có thể vượt qua sự bám víu? Chỉ bằng cách trực nhận bản chất vô thường của nó; sự nhận chân này sẽ giải thoát ta khỏi nanh vút của tính chấp thủ. Chúng ta sẽ thoáng thấy được như các thiền sư đă nói, thái độ đích thực đối với sự đổi thay là: Ta như thể bầu trời đang nh́n mây bay qua, hay "giải thoát như thủy ngân". Khi thủy ngân giọt trên đất, bản chất nó là vẫn nguyên vẹn không lấm bụi. Khi ta theo lời dạy của các bậc thầy, dần dần buông bỏ sự bám víu, th́ một ḷng bi mẫn bao la cũng nảy sinh trong ta. Những đám mây vô minh chấp thủ tan biến, và mặt trời là trái tim yêu thương chân thực bỗng chiếu sáng. Chính lúc ấy từ bản thể sâu xa, ta bắt đầu nếm được hương vị câu thơ chứa đựng chân lư siêu thoát của William Blake:
Kẻ nào ràng buộc ḿnh vào một lạc thú
Làm hỏng đôi cánh cuộc đời;
Kẻ nào chỉ hôn hạnh phúc khi nó lướt qua
Sẽ sống trong ánh mặt trời Bất tận.
TINH THẦN CHIẾN SĨ
Chúng ta có thói quen tin rằng nếu ta buông xả, ta sẽ không c̣n ǵ. Nhưng cuộc đời luôn luôn cho thấy cái ngược lại. Đó là, sự buông xả chính là con đường đưa đến giải thoát tự do.
Cũng như khi sóng đánh vào bờ, những mỏm đá không thiệt hại ǵ mà c̣n được giũa ṃn và chạm trổ thành những h́nh dáng đẹp, nhân cách chúng ta cũng vậy, có thể được un đúc nhờ những cuộc đổi thay, những góc cạnh thô nhám được giũa ṃn và trở nên mềm mại. Nhờ những đổi thay mà ta có thể dần phát huy một thái độ ḥa nhă nhưng không ai lay chuyển nổi. Ḷng tự tín nơi ta càng thêm tăng trưởng và từ đó tự nhiên tỏa ra sự tử tế từ bi, đem lại niềm vui cho người khác. Chính thiện tính ấy là cái ǵ c̣n lại sau khi chết, cái thiện tính căn để sẵn có trong tất cả mọi người chúng ta. Toàn thể cuộc đời chỉ là để dạy cho ta làm thế nào để hiển lộ thiến tính ấy, và luyện cho ta thực chứng nó.
Bởi thế mỗi khi những mất mát, vỡ mộng trong đời dạy cho ta về vô thường, chúng lại đưa ta đến gần sự thật hơn. Khi bạn từ trên cao rớt xuống th́ chỉ có một chỗ duy nhất có thể đậu lại, đó là nền mặt đất, nền tảng của chân lư. Và nếu bạn có tuệ giác do sự tu tâm đem lại, th́ việc rớt xuống tuyệt nhiên không là một tai họa, v́ chính nhờ vậy bạn t́m được một chỗ trú nội tâm.
Những khó khăn và chướng ngại nếu hiểu đúng và biết vận dụng, thường có thể biến thành nguồn năng lực không ngờ. Trong tiểu sử những bậc thầy, ta thường thấy rằng nếu họ không gặp khó khăn chướng ngại, th́ họ đă không khám phá được sức mạnh cần thiết để vượt qua. Chẳng hạn đời của Gesar, vị vua chiến sĩ mà những cuộc tẩu thoát đă làm nên bản anh hùng ca vĩ đại nhất của văn học Tây Tạng. Gesar có nghĩa là không ai hàng phục nổi. Từ khi ông sinh ra, người chú ác độc tên Trotung t́m đủ mọi cách để giết, nhưng càng gặp nạn Gesar càng trở nên hùng mạnh. Kỳ thực, chính nhờ những nỗ lực của chú để làm hại ông, mà ông trở thành con người vĩ đại như thế. Do đó Tây Tạng có ngạn ngữ: “Trotung tro ma tung na, Gesar ge mi sar," có nghĩa nếu Trotung không mưu mô quỷ quyết, th́ Gesar đă không lên cao như vậy.
Đối với dân Tây Tạng, Gesar không những là một chiến sĩ về quân sự mà cả về tâm linh, nghĩa là đă luyện được một thứ dũng cảm đặc biệt có tính cách thông minh thiên phú, vừa hiền ḥa vừa bất khuất. Chiến sĩ tâm linh th́ dù vẫn c̣n sợ hăi song cũng đủ can đảm để nếm trải khổ đau, nhớ đến nỗi sợ hăi căn để của ḿnh, và rút ra được bài học từ những gian khổ nên không tránh né. Chogyam Trungpa Rinpoche nói:
- Trở thành một chiến sĩ tâm linh có nghĩa là có thể đổi sự phấn đấu cho sự bảo đảm an ninh nhỏ nhen của ta để có một tri kiến rộng lớn hơn, đầy tính vô úy, khoáng đạt và anh hùng...(*)
THÔNG ĐIỆP CỦA VÔ THƯỜNG TRONG CÁI CHẾT CÓ NIỀM HY VỌNG
Hăy nh́n sâu thêm nữa vào vô thường, bạn sẽ thấy nó có một thông điệp khác, một bộ mặt khác, đầy hy vọng lớn lao, một thông điệp làm bạn mở mắt ra trước bản chất uyên nguyên của vũ trụ, và mối tương quan kỳ diệu của ta với nó.
Nếu mọi sự là vô thường, th́ mọi sự là "không" (trống rỗng), nghĩa là không có một thực hữu nội tại, chắc chắn, trường cửu. Và mọi sự, khi được thấy và hiểu trong tương quan đích thực của nó, th́ không phải là những thực thể độc lập mà hỗ tương lệ thuộc với mọi vật khác. Phật so sánh vũ trụ như một cái lưới rộng lớn dệt bằng vô số hạt châu chiếu sáng, mỗi hạt có vô số góc cạnh. Mỗi hạt châu phản chiếu vô số hạt khác trong lưới, và là một với những hạt khác.
Hăy nghĩ đến một làn sóng trên biển. Nh́n một cách, th́ nó dường như có một thực thể riêng biệt, có đầu có cuối, có sinh có diệt. Nhưng nh́n cách khác, th́ làn sóng chính nó không thực hữu mà chỉ là một dáng dấp của nước, nó "trống rỗng" hay không có lư lịch riêng, nhưng mà "đầy" nước. Vậy khi bạn thực sự nghĩ về làn sóng, bạn nhận ra
rằng nó là một cài ǵ tạm thời có được nhờ gió và nước, và tùy thuộc vào một loạt những trường hợp luôn luôn thay đổi. Bạn cũng nhận ra rằng mỗi làn sóng đều có tương quan với mỗi làn sóng khác.
Không một thứ ǵ có một hiện hữu nội tại riêng nó, khi bạn thực t́nh nh́n kỹ. Và sự vắng mặt một hiện hữu biệt lập ấy ta gọi là "trống rỗng". Hăy nghĩ đến một cái cây. Khi bạn nghĩ đến cái cây, bạn ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rơ rệt, và ở một b́nh diện, nó quả có thực, như làn sóng nói trên. Nhưng khi bạn nh́n kỹ hơn vào cái cây, bạn sẽ thấy cuối cùng nó cũng không có hiện hữu biệt lập. Khi ngắm nh́n nó, bạn sẽ thấy nó tan biến vào một mạng lưới tương quan vô cùng vi tế trải dài suốt vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá cây, gió lay cành, đất nuôi dưỡng và nâng đỡ nó, bốn mùa và thời tiết, trăng sao và ánh mặt trời - tất cả đều là một phần của cái cây. Khi bạn khởi sự nghĩ về cái cây càng nhiều hơn nữa, bạn sẽ khám phá rằng mọi sự trong vũ trụ đều phụ lực để làm cho cây trở thành cái nó đang thành, rằng không một lúc nào nó có thể tách biệt nó ra khỏi những cái khác; rằng mọi lúc bản chất nó đang thay đổi một cách tinh tế. Đây là ư nghĩa khi chúng tôi bảo mọi sự là trống rỗng, không có hiện hữu độc lập.
Khoa học hiện nay cho ta biết phạm vi rộng lớn của những tương quan trong vũ trụ. Những nhà sinh môi biết rằng một cây cháy trong rừng Amazon bằng một cách nào đó, làm thay đổi bầu không khí mà một thị dân thủ đô Ba lê đang thở, và sự rung động của một cánh bướm ở Yucatan có ảnh hưởng tới đời sống của một trang trại vùng Hebrides. Những nhà sinh vật học bắt đầu khám phá cuộc luân vũ phức tạp ly kỳ của những nhiễm thể trong tế bào tạo nên cá tính và sự giống nhau, một cuộc luân vũ trải dài rất xa về quá khứ và chứng minh rằng mỗi sự gọi là "giống nhau" gồm rất nhiều ảnh hưởng khác nhau. Những nhà vật lư học th́ giới thiệu chúng ta vào thế giới của lượng tử, một thế giới giống hệt một cách lạ lùng với thế giới mà Phật mô tả trong h́nh ảnh cái lưới châu ngọc (Phạm vơng) trải khắp vũ trụ. Hệt như những hạt ngọc trong lưới ấy, mọi phân tử đều hiện hữu kể như những phối hợp khác nhau của những phân tử khác.
Bởi thế khi ta thực sự nh́n vào chính ḿnh cùng những sự vậy chung quanh mà ta cho là chắc chắn bền bỉ, ta đều thấy chúng không thực ǵ hơn một giấc chiêm bao. Phật dạy:
Hăy quán sát vạn pháp
Như ảo tượng, lầu mây
Như mộng, như hóa hiện,
Có thấy, không thực chất
Hăy quán sát vạn pháp
Như bóng trăng phản chiếu
Đáy hồ nước lặng trong
Trăng chưa từng di chuyển.
Hăy quán sát vạn pháp
Như vang của âm thanh
Tiếng nhạc và tiếng khóc
Trong vang không điệu ǵ.
Hăy quán sát vạn pháp
Như huyễn sư tạo huyễn
Đủ thứ ngựa, xe, ḅ
Chỉ có tưởng, không thực.
Sự quán tưởng tính chất mộng huyễn của thực tại không nhất thiết làm cho ta phải trở nên lạnh lùng, vô vọng hay cay đắng. Ngược lại, nó có thể mở ra trong ta một tính hài hước thân thiện, một ḷng bi mẫn mà ta không ngờ ḿnh cũng có, và do đó càng ngày tâm ta càng rộng răi đối với mọi sự vật và hữu t́nh. Milarepa nói:
- Thấy được Tánh không, th́ mở ḷng thương xót.
Khi nhờ quán sát mà ta thực sự thấy được tánh không và tính hỗ tương lệ thuộc của mọi sự và chính ḿnh, th́ ta sẽ thấy thế giới dưới môt ánh sáng huy hoàng, tươi mát hơn, như cái lưới đan kết bằng vô số bảo châu phản chiếu nhau mà Phật đă mô tả. Khi ấy ta không cần phải tự che chở ḿnh hay giả bộ, và ta sẽ dễ dàng thực hiện lời khuyên của một bậc thầy:
- Hăy luôn nhận chân tính mộng huyễn của cuộc đời để giảm bớt ái luyến và thù ghét. Hăy có tâm tốt đối với mọi loài. Có tâm thương xót, bất kể kẻ khác đối xử với bạn ra sao. Những ǵ người khác làm đối với bạn không quan trọng lắm, khi bạn xem như mộng huyễn. Cái mánh là, bạn phải có những ư định tốt trong giấc mộng. Đây là điểm cốt yếu. Đây đích thực là tu tâm.
Tu tâm đích thực cũng là ư thức được rằng nếu ta có tương quan mật thiết với mọi người mọi sự, th́ ngay cả một ư nghĩ, lời nói, hành động nhỏ nhất của ta cũng có những hậu quả khắp vũ trụ. Hăy ném một ḥn sỏi xuống ao nước. Nó liền có một rung động trên mặt nước, những làn sóng nhỏ lăn tăn tan ḥa vào nhau và tạo thành những làn sóng mới. Mọi sự đều tương thuộc một cách chặt chẽ: Chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chịu trách nhiệm về mọi điều ta làm, nghĩ và nói, quả thế, có trách nhiệm về chính ta, về mọi người và mọi sự vật khác, cũng như với toàn thể vũ trụ. Đức Dalai Lama đă dạy:
- Trong cái thế giới hỗ tương lệ thuộc mật thiết này, những cá nhân và quốc gia không c̣n có thể tự giải quyết vấn đề riêng của họ được. Chúng ta cần đến nhau. Bởi thế ta phải phát huy một ư thức về trách nhiệm hỗ tương... Trách nhiệm của tập thể và của từng cá nhân là bảo vệ và nuôi dưỡng đại gia đ́nh địa cầu, nâng đỡ những thành viên yếu kém, bảo tŕ và săn sóc môi trường sống của tất cả chúng ta. (*)
Vô thường đă khải thị cho ta nhiều sự thật, nhưng c̣n một kho tàng cuối nó đang giữ, một kho tàng mà phần lớn bị che khuất dưới mắt chúng ta, ta không ngờ và cũng không nhận ra được, song lại là của ta một cách thân thiết nhất.
Thi sĩ Rainer Maria Rilke đă nói rằng những nỗi sợ sâu xa nhất của ta giống như những con rồng đang giữ kho tàng sâu kín nhất của ta. Cái nỗi sợ mà vô thường khơi dậy trong ta, theo đó không có ǵ là thực, không ǵ trường cửu, hóa ra lại là người bạn tốt nhất của ta, bởi v́ nó giục ta đặt câu hỏi: Nếu mọi sự đều hủy diệt, thay đổi, th́ cái ǵ là có thực? Có chăng một cái ǵ đằng sau mọi giả tưởng, một cái ǵ vô biên, khoáng đạt vô cùng, làm sân khấu cho cuộc luân vũ của vô thường chuyển biến? Có chăng một cái ǵ ta có thể nương tựa an trú, một cái ǵ sống lâu hơn cái mà ta gọi là cái chết?
Để cho câu hỏi ấy xâm chiếm ta một cách cấp thiết, tư duy về nó, ta sẽ dần dần thay đổi sâu xa lối nh́n của ta về mọi sự. Với sự liên tục quán tưởng và thực hành buông xả, ta sẽ thấy hiển lộ trong chính ta "một cái ǵ" ta không thể gọi tên, mô tả, đặt thành khái niệm, "một cái ǵ" mà ta khởi sự thấy đang nằm đằng sau mọi s? biến dịch chết chóc của thế giới. Khi ấy những dục vọng và giải trí thiển cận mà ta bị trói buộc vào do chấp thủ tính chất trường cửu - khởi sự tan biến và rơi rụng.
Khi điều này xảy đến, ta thường thoáng thấy những hàm ẩn rộng lớn ở đằng sau sự thật về vô thường. Nó giống như suốt buổi ta đă bay trong một chiếc phi cơ luồng qua những đám mây đen vần vũ, rồi bỗng dưng phi cơ vút lên trên những tầng mây, bay vào một bầu trời trong sáng bao la. Được cảm hứng, vui mừng khi ngoi lên trong chiều không gian mới đầy tự do ấy, ta dần khám phá một niềm an lạc sâu xa, một niềm tự tin làm ta đầy ngạc nhiên sung sướng. Dần dần, phát sinh một niềm xác tín rằng "một cái ǵ” đó trong ta không ǵ phá hủy được, không ǵ làm thay đổi được, và không thể chết. Milarepa viết:
V́ sợ chết tôi đi vào núi-
Liên tục trầm tư về tính bất định của giờ chết,
Bỗng bắt gặp thành tŕ bất tử, vô tận của tâm bản nhiên.
Bây giờ tất cả nỗi sợ chết đều tan biến.
Vậy, dần dần ta biết được trong ta có sự hiện diện của tự tính như bầu trời trong sáng mà Milarepa gọi là tâm bản nhiên, vốn bất tử và vô tận. Khi ư thức mới mẻ ấy trở nên sống động và gần như không gián đoạn, th́ xảy ra cái mà Áo nghĩa thư gọi là "một sự xoay chiều của tâm thức" một khải thị có tính cách cá nhân, hoàn toàn không thể đặt tên, cho thấy ta là ǵ, tại sao ta ở đây, ta phải làm thế nào... Điều này cuối cùng, không khác ǵ một đời sống mới mẻ, một cuộc phục sinh.
Kỳ diệu thay, nhờ quán chân lư về vô thường một cách liên tục, không sợ hăi, mà dần dần ta thấy ḿnh giáp mặt – trong niềm tri ân và hỉ lạc – với chân lư về bản chất bất biến, bất tử và vô tận của tâm
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 10 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
4. BẢN CHẤT CỦA TÂM
V́ bị nhốt kín trong cái lồng hạn hẹp tối tăm của bản ngă mà ta cho là cả vũ trụ, rất ít người trong chúng ta khởi sự ngay cả tưởng đến một chiều không gian khác của thực tại. Patrul Rinpoche kể cho chúng ta câu chuyện về một con ếch già suốt đời sống trong một cái giếng ẩm. Một ngày kia có con ếch từ ngoài biển vào thăm nó. Nó hỏi:
- Anh từ đâu đến?
- Từ biển.
- Biển của anh to bao nhiêu?
- To khổng lồ.
- Anh muốn nói là bằng cỡ chừng phần tư cái giếng của tôi đây chứ ǵ?
- Không, lớn hơn cơ.
- Lớn hơn à? Vậy th́ bằng nửa cái giếng của tôi không?
- Không, lớn nữa kia.
- Thế... Chẳng nhẽ lại bằng cả cái giếng của tôi à?
- Không có thể so sánh được.
- Chuyện vô lư! Tôi phải đi xem cho tận con mắt.
-Chúng cùng đi. Khi con ếch ở giếng trông thấy đại dương, nó bị một cú sốc kinh hoàng tới nỗi nó nổ tung ra thành từng mảnh.
Phần lớn những hoài niệm tuổi thơ tôi về Tây Tạng đă phai tàn, nhưng có hai thời điểm mà tôi không bao giờ quên. Đó là khi thầy tôi Jamyang Khientse khải thị cho tôi đi vào bản chất cốt tủy, uyên nguyên và sâu xa nhất của tâm tôi. Lúc đầu tôi cảm thấy dè dặt không muốn tiết lộ những kinh nghiệm riêng tư này, v́ ở Tây Tạng không bao giờ người ta làm chuyện đó, nhưng các học tṛ, bạn bè tôi tin rằng nếu tôi nói ra th́ có thể giúp đỡ nhiều người, và họ yêu cầu tôi, năn nỉ tôi viết về những kinh nghiệm ấy.
Lần đầu tiên nó xảy đến khi tôi khoảng sáu bảy tuổi, tại trong cái pḥng đặc biệt mà thầy tôi ở, trước mộ bức tranh lớn của tiền nhân thầy là Jamyang Khientse Wangpo. Đấy là một h́nh dáng oai vệ nghiêm trang, càng oai vệ trang nghiêm hơn khi ánh đèn bơ đặt trước bức tranh cứ chập chờn soi sáng gương mặt trên bức tranh ấy. Tôi chưa biết có chuyện ǵ xảy ra th́ thầy tôi đă làm một sự bất thường chưa từng có. Ngài th́nh ĺnh ôm tôi và nhấc bổng lên. Đoạn ngài hôn tôi một cái vào một bên má. Trong một lúc lâu, tâm tôi hoàn toàn biến mất, tôi được bao phủ bởi một niềm yêu thương, tin tưởng, một năng lực phi thường.
Biến cố kế tiếp th́ trang trọng hơn và xảy ra ở Lhodrak Kharchu trong một hang động mà Padmasambhava bậc thánh vĩ đại và là cha đẻ của Phật giáo Tây Tạng, đă nhập thất thiền định. Chúng tôi đă dừng chân tại đấy trên đường hành hương đến miền Nam. Lúc đó tôi chừng chín tuổi. Thầy tôi gọi tôi đến và bảo tôi ngồi trước mặt ôn. Chỉ có hai thầy tṛ chúng tôi. Thầy tôi bảo:
- Bây giờ ta sẽ khai thị cho con về bản lai diện mục của tâm.
Cầm cái chuông và trống tay nhỏ lên, thầy triệu thỉnh tất cả những bậc thầy trong hệ truyền thừa, từ Phật nguyên thủy trở xuống đến bậc thầy của chính thầy. Rồi thầy bắt đầu khai thị. Bỗng chốc thầy ném vào mặt tôi một câu hỏi không thể trả lời:
- Tâm là ǵ?
Thầy nh́n xoáy sâu vào mắt tôi. Tôi hoàn toàn kinh ngạc. Tâm tôi tan ra. Không c̣n ngôn từ, tên gọi, ư tưởng nào ở lại – Không có tâm nào hết, quả thế.
Cái ǵ xảy ra trong giây phút đầy kinh ngạc ấy? Những ư niệm quá khứ đă chết, tương lai chưa đến; ḍng tư tưởng của tôi bị cắt ngang đột ngột. Trong cú sốc đó một khoảng trống mở ra, trong khoảng trống ấy chỉ có một giác tính tuần túy trực tiếp về hiện tại, một cái ǵ hoàn toàn vượt ngoài mọi bám víu chấp thủ. Giác tính ấy đơn giản, sơ nguyên và căn để. Tuy vậy sự giản đơn thuần túy đó cũng tỏa sáng đầy sự ấm áp của một niềm bi mẫn bao la.
Biết bao nhiêu điều tôi có thể nói về giây phút ấy! Thầy tôi rơ ràng đang đặt cho tôi một câu hỏi, nhưng tôi biết thầy không chờ đợi một câu trả lời. Tôi chưa săn t́m giải đáp th́ đă thấy rằng không có giải đáp nào có thể t́m kiếm. Tôi ngồi thộn ra trong kinh ngạc, nhưng trong khi ấy một niềm tin vững chắc sâu xa sáng chói tôi chưa từng biết đến, đang dâng tràn trong tôi.
Thầy tôi đă hỏi: "Tâm là ǵ?" và vào lúc ấy tôi tưởng chừng ai cũng biết rằng, không có chuyện có hiện hữu một cái tâm nào cả, làm sao tôi có thể t́m ra. Vậy, dường như đi t́m tâm thực là phi lư.
Sự khai thị của thầy tôi đă gieo một hạt giống sâu xa trong tôi. Về sau tôi mới biết đấy là phương pháp khai thị được dùng trong truyền thống chúng tôi. Tuy nhiên, v́ lúc đó tôi không biết, mà những ǵ xảy ra có vẻ hoàn toàn bất ngờ, và do đó càng kinh hoàng mănh liệt.
Trong truyền thống chúng tôi có "ba chân xác” cần hội đủ để khai thị bản tâm:
o Sự làm phép của một bậc thầy chân xác,
o Ḷng sùng tín của một đệ tử chân xác, và
o Tính chính thống trong phương pháp khai thị.
Tổng thống Mỹ không thể khai thị bản tâm cho bạn, mà cha hay mẹ bạn cũng không thể làm việc đó. Một người có quyền thế đến bao nhiêu cũng không ăn thua ǵ, hoặc họ có yêu mến bạn bao nhiêu cũng không ăn thua ǵ. Việc khai thị chỉ có thể được thực hiện bởi một người đă hoàn toàn thực chứng, và có sự ban phép và kinh nghiệm thuộc trong hệ phái truyền thừa.
Và bạn, người học tṛ, phải t́m ra và luôn hàm dưỡng cái tri kiến khoáng đạt thênh thang ấy, niềm hăng say, nhiệt t́nh và sự tôn trọng nó sẽ làm biến đổi cả bầu không khí trong tâm bạn, làm bạn sẵn sàng đón nhận sự khai thị. Đây là điều mà ta gọi là ḷng sùng tín. Nếu không có ḷng sùng tín, th́ thầy có khai thị tṛ cũng không nhận ra. Sự khai thị bản tâm chỉ có thể thực hiện khi cả thầy lẫn tṛ cùng thể nhập cái kinh nghiệm ấy; chỉ trong sự giao cảm giữa tâm và trí ấy, người môn sinh mới trực ngộ được.
Phương pháp khai thị cũng vô cùng quan trọng. Chính phương pháp ấy đă được thử nghiệm qua hàng ngàn năm và đă giúp cho những bậc thầy trong quá khứ đạt đến thực chứng. Khi thầy tôi khai thị cho tôi một cách tự nhiên như thế, vào lúc tuổi c̣n bé như thế, là thầy đă làm một việc hoàn toàn bất thường. Thông thường th́ việc khai thị xảy ra muộn hơn nhiều, khi đệ tử đă trải qua những thực tập thiền định và thanh luyện tâm ư. Chính những việc làm này khiến cho tâm trí người đệ tử thuần thục và có thể mở ra để đón nhận tri kiến trực tiếp về chân lư. Vào cái thời điểm đầy tiềm năng của sự khai thị, bậc thầy có thể truyền cái tâm giác ngộ của ḿnh vào trong tâm của người đệ tử bấy giờ đă chân xác sẵn sàng đón nhận. Bậc thầy làm cái việc khai thị cho tṛ thấy Phật thật là ǵ, nói cách khác là đánh thức tṛ thấy sự hiện diện sống động của tuệ giác nội tâm. Trong kinh nghiệm ấy, th́ Phật, bản tâm của người đệ tử, và tâm giác ngộ của bậc thầy tan ḥa thành một. Khi ấy người học tṛ nhận ra, trong một niềm tri ân vô bờ bến, rằng không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, giữa thầy và tṛ, giữa tâm giác ngộ của bậc thầy và bản tâm người đệ tử, không có và chưa bao giờ có sự ngăn cách nào cả. Dudjom Rinpoche trong bài ca chứng đạo nổi tiếng của ngài đă viết:
- Tuệ giác về cái bây giờ chính là Phật thật,
Trong tâm trạng cởi mở, hài ḷng, tôi gặp Thầy trong tim tôi. Khi ta nhận chân được rằng cái tâm bản nhiên bất tận đó chính là Thầy.
Th́ không cần bám víu, chấp thủ, cầu khẩn khóc than.
Chỉ cần an trú thoải mái trong trạng thái tự nhiên như nhiên ấy,
Là ta có được phúc lạc của giải thoát.
Khi bạn đă nhận chân toàn triệt rằng tự tính của tâm bạn cũng giống như của thầy, th́ từ đấy trở đi bạn và thầy không bao giờ ngăn cách v́ thầy là một với tâm bản nhiên của bạn, luôn luôn hiện tiền. Có lẽ bạn c̣n nhớ Lama Tseten (Chương một), khi sắp chết và được hỏi có muốn gọi bậc thầy đến bên giường không, ông đă trả lời:
- Với bậc thầy, không có cái ǵ gọi là ngăn cách.
Khi nào bạn thấy được như Lama Tseten rằng thầy và ḿnh không từng xa nhau, th́ một niềm tri ân vô bờ bến, một cảm thức úy phục và kính lễ nảy sinh trong bạn. Dudjom Rinpoche gọi đó là "Sự kính lễ của Tri kiến.” Đó là một niềm sùng kính luôn phát tự nhiên do ngộ được cái Tri kiến về bản tâm.
Đối với tôi, c̣n có nhiều lần nhập môn khác nữa: Nhập môn về giáo lư và quán đảnh, và về sau tôi được sự khai thị của nhiều thầy khác. Sau khi Jamyang Khientse viên tịch, Dudjom Rinpoche chăm sóc tôi, bao bọc tôi trong t́nh thương mến của ngài, và tôi làm người thông dịch cho ngài trong nhiều năm. Việc này mở ra một giai đoạn mới trong đời tôi.
Dudjom Rinpoche là một trong những bậc thầy mật tông nổi tiếng của Tây Tạng, một học giả, tác giả nổi tiếng. Thầy Jamyang Khientse tôi thường ca tụng Dudjom, nói ngài là một đại diện sống động của Padmasambhava trong thời đại này. Bởi thế tôi rất kính trọng ngài, mặc dù chưa từng tiếp kiến cũng chưa được nghe ngài giảng dạy. Một hôm, sau khi thầy tôi đă chết, vào lúc tôi chừng hai mươi mấy tuổi, tôi đến viếng Dudjom Rinpoche tại nhà riêng của ngài ở Kalimpong, trên một ngọn đồi thuộc dăy núi tuyết.
Khi tới nơi, tôi thấy một trong những đệ tử Mỹ đầu tiên của ngài đang thọ giáo. Bà ta đang khổ sở v́ không có người nào biết đủ Anh ngữ để dịch những lời dạy về tự tánh của tâm. Khi thấy tôi đi vào, Dudjom Rinpoche nói:
- Ồ! Có con đây rồi. Tốt. Con có thể thông dịch giùm bà ấy không?
Thế là tôi ngồi xuống và khởi sự dịch. Ngày trong một thời gian giảng dạy chừng một tiếng đồng hồ, ngài đă cho một bài pháp tuyệt diệu, bao trùm tất cả mọi sự. Tôi xúc cảm và phấn chấn đến độ mắt tôi rớm lệ. Tôi nhận ra đây là điều mà Jamyang Khientse muốn nói.
Ngay sau đó, tôi thỉnh cầu ngài chỉ giáo cho tôi. Tôi thường đến tư thất ngài mỗi chiều và ở đó vài giờ. Ngài có vóc người nhỏ thó, gương mặt đẹp hiền từ, đôi bàn tay tuyệt vời, và một dáng dấp mảnh mai gần như phụ nữ. Ngài để tóc dài bới cao lên như một hành giả Du già; Mắt ngài luôn ánh lên một niềm thích thú huyền bí. Giọng nói ngài dường như chính là tiếng nói của tâm đại bi, êm và hơi khàn. Ngài thường ngồi trên một ghế thấp trải thảm Tây Tạng, tôi ngồi dưới chân ngài. Tôi luôn nhớ lại h́nh ảnh ngài ngồi đó, bóng trời chiều chiếu qua khung cửa sổ sau lưng ngài.
Rồi một hôm trong khi tôi đang thụ giáo và thực tập với ngài, tôi có một kinh nghiệm kỳ lạ nhất. Mọi sự mà tôi đă từng nghe trong giáo lư mật tông dường như đang xảy đến với tôi – tất cả những hiện tượng vật chất quanh chúng tôi đang tan biến – tôi sung sướng ấp úng:
- Thầy, thầy... Nó đang xảy ra!
Tôi không bao giờ quên được vẻ bi mẫn trên gương mặt thầy, khi thầy cúi xuống vỗ về:
- Được, được. Đừng có náo nức quá. Chung quy, điều ấy không tốt cũng không xấu...
Sự kinh ngạc và sung sướng bắt đầu cuốn hút tôi đi, nhưng Dudjom Rinpoche biết rằng mặc dù những thực chứng có thể là những cái mốc hữu ích trên đường tu thiền định, chúng cũng có thể thành những cái bẫy nếu có sự bám víu xen vào. Ta cần phải vượt qua kinh nghiệm ấy để đi vào một nền tảng sâu xa vững chắc hơn: Những lời minh triết của thầy để đưa tôi đến cái nền tảng ấy.
Dudjom Rinpoche c̣n giúp tôi thực chứng nhiều lần bản chất của tâm qua những lời dạy của thầy, chính những danh từ cũng đă nhen nhúm lên những tia sáng về kinh nghiệm thực. Trong nhiều năm, mỗi ngày ngài thường chỉ giáo cho tôi về bản tính tự nhiên của tâm mà người ta gọi là giáo lư "trực chỉ" (pointing-out instructions). Mặc dù tôi đă thụ huấn tất cả những ǵ thiết yếu từ nơi thầy Jamyang tôi, nhưng đó chỉ như mới gieo hạt. Chính Dudjom là người đă tưới tẩm chăm bón làm cho nó đơm hoa. Và khi tôi khởi sự ra giảng dạy, th́ chính tấm gương thầy Dudjom đă gợi cảm hứng cho tôi nhiều nhất.
TÂM VÀ TỰ TÍNH CỦA TÂM
Cái thấy thực "cách mạng" trong Phật giáo là, sự sống và chết ở ngay trong tâm, không đâu khác. Tâm được xem như nền tảng phổ quát của kinh nghiệm - kẻ sáng tạo ra hạnh phúc và đau khổ, kẻ sáng tạo ra cái ta gọi là sự sống và cái ta gọi là sự chết.
Có nhiều phương diện của tâm, nhưng có hai phương diện nổi bật hơn cả. Đầu tiên là cái tâm thông thường mà người Tây Tạng gọi là sem. Một bậc thầy đă định nghĩa:
- Đó là cái tâm có khả năng phân biệt, có ư thức về nhị nguyên - hoặc lấy hoặc bỏ một đối tượng ngoài – đó là tâm. Đó là cái có thể giao thiệp với một cái "khác", bất cứ cái ǵ khác, được xem là sở tri (bị biết) khác với cái năng tri (người biết). Sem là cái tâm suy nghĩ, tâm nhị nguyên, phân biệt, chỉ có thể vận hành tương quan với một điểm quy chiếu ở ngoài, bị nhận lầm và chỉ là một cái bóng được chiếu ra.
Vậy Sem là cái tâm suy nghĩ, đặt kế hoạch, ham muốn, vận động, cái tâm bừng lên trong cơn giận dữ, tạo ra và say mê trong những đợt sóng tư duy và cảm xúc tiêu cực, cái tâm cứ luôn luôn phải tiếp tục quả quyết, đánh giá, và xác định lại hiện hữu của nó bằng cách cắt xén, đặt tên, củng cố kinh nghiệm. Tâm thông thường là miếng mồi thụ động di chuyển không ngừng theo những ảnh hưởng bên ngoài, theo những khuynh hướng tập quán và điều kiện: Những bậc thầy ví nó với một ngọn đèn cầy đặt trước gió, phải bị lay động bởi tất cả những ngọn gió của hoàn cảnh.
Nh́n từ một góc cạnh, th́ sem là lay động, không dừng trụ, chấp thủ, luôn luôn xía vô việc của người khác; năng lực nó bị tiêu hao do chiếu ra ngoài quá nhiều. Đôi khi tôi v́ nó như hột đậu nhảy của xứ Mexico hay một con khỉ không ngừng nhảy chuyền cành. Tuy vậy nh́n một cách khác, th́ tâm thông thường có một tính cố định cùn nhụt giả tạm, một tính trơ ĺ tự về và tự măn, một sự b́nh thản lạnh lùng của thói quen ăn sâu. Sem láu cá như một chính trị gia quỷ quyệt, hoài nghi, nhiều muu mô lừa dối, và "tinh vi với những tṛ lừa gạt," Jamyang Khientse đă viết. Chính trong kinh nghiệm của sem, cái tâm hỗn mang vô trật tự này mà chúng ta chịu những đổi thay và chết chóc.
Nhưng c̣n có bản tính tự nhiên của tâm, tính chất sâu xa của nó, cái tuyệt đối không dính tới đổi thay và chết chóc. Hiện giờ nó đang ẩn trong tâm sem thông thường của ta, bị bao phủ và che mờ bởi những huyên náo rộn ràng trong tâm, những ư nghĩ và cảm xúc. Cũng như mây có thể bị luồng gió mạnh thổi tan, để lộ mặt trời sáng chói và bầu trời rộng mở, cũng thế, trong vài trường hợp đặc biệt, một cảm hứng nào đó có thể vén mở cho ta hé thấy bản tính tự nhiên ấy của tâm. Những sự hé thấy này có nhiều mức độ cạn sâu, song đều đem lại cho ta một ít tuệ giác, ư nghĩa và giải thoát tự do. Bởi v́ bản tính tự nhiên này của tâm chính là gốc rễ của trí tuệ. Tạng ngữ gọi nó là Rigpa, một sự tỉnh giác trong sáng nguyên ủy có tính chất thông minh, biết nhận thức, sáng chói và luôn luôn tỉnh thức. Có thể nói nó là cái biết của chính cái biết.
Đừng tưởng lầm bản chất tự nhiên của tâm chỉ có trong tâm ta mà thôi. Ḱ thực nó là bản chất của mọi sự vật. Điều cần nói là, trực nhận bản tính tự nhiên của tâm cũng chính là trực nhận bản tính tự nhiên của mọi sự vật.
Những bậc thánh và hành giả huyền học trong lịch sử thường nói về sự chứng ngộ của họ bằng những tên khác nhau, khoác cho nó nhiều bộ mặt khác nhau, lối giải thích khác nhau, nhưng tất cả đều kinh nghiệm một điều căn bản là bản tính thuần túy của tâm. Người Ki tô và Do thái giáo gọi nó là Thượng đế; Ấn giáo gọi là Đại ngă, Shiva, Brahman và Vishnu; những nhà thần bí Sufi gọi nó là "Tính chất ẩn nấp;" c̣n Phật tử th́ gọi là "Phật tính." Trọng tâm của mọi tôn giáo là niềm xác tín rằng có một chân lư căn để, và đời sống là một cơ hội thiêng liêng để tiến hóa và thực chứng chân lư ấy.
Khi ta nói Phật, ta tự nhiên nghĩ đến thái tử xứ Ấn Gotama Siddhartha đạt giác ngộ vào thế kỷ thứ sáu trước tây lịch, người đă giảng dạy con đường tâm linh mà hàng triệu người khắp Á châu noi theo, ngày nay gọi là Phật giáo. Tuy nhiên danh từ Buddha có một ư nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó có nghĩa là một con người, bất cứ người nào, đă hoàn toàn thức dậy từ giấc ngủ vô minh và mở mang tiềm năng trí tuệ bao la của ḿnh. Một đức Phật là một người đă chấm dứt đau khổ và bất măn, đă t́m ra một niềm b́nh an, hạnh phúc dài lâu bất tận.
Nhưng đối với nhiều người trong thời đại hoài nghi này, th́ trạng thái ấy có vẻ như một điều huyễn hoặc, mộng mị, hay một sự thành tựu hoàn toàn vượt ngoài tâm chúng ta. Điều quan trọng nên nhớ là, đức Phật đă từng là một con người như bạn và tôi. Ngài chưa từng tuyên bố là thần thánh ǵ cả, ngài chỉ biết ngài có Phật tính, hạt giống của giác ngộ, và mọi người cũng đều có. Phật tính là quyền sống của mọi chúng sinh, và tôi thường nói rằng Phật tính nơi chúng ta cũng tốt như Phật tính nơi bất cứ đức Phật nào. Đấy là tin lành mà đức Phật mang lại cho chúng ta từ khi ngài giác ngộ tại bồ đề tràng, nơi mà nhiều người sau đă t́m thấy nguồn cảm hứng thiêng liêng. Thông điệp của ngài, đem lại cho ta một hy vọng tràn trề. Nhờ luyện tập, chúng ta cũng có thể đạt đến sự tỉnh thức. Nếu điều này không đúng, th́ vô số người tư xưa cho đến ngày nay đă không giác ngộ.
Tương truyền khi Phật mới đạt giác ngộ, điều duy nhất ngài muốn làm là chỉ cho tất cả chúng ta tự tính của tâm, san sẻ cho ta những ǵ ngài đă trực ngộ. Nhưng ngài cũng thấy, với nỗi đau buồn và ḷng bi mẫn bao la - rằng thật khó mà làm cho chúng ta hiểu được.
V́ mặc dù ta cũng có tự tánh của tâm như Phật, chúng ta không nhận ra nó được v́ nó bị gói kín, bao trùm trong những cái tâm thông thường phàm tục của ta. Hăy tưởng tượng một cái b́nh trống. Khoảng không trong b́nh cũng giống hệt như khoảng không bên ngoài. Chỉ có những bức thành mong manh của cái b́nh đă ngăn cách không gian bên trong với bên ngoài. Tâm Phật trong ta bị vây kín trong những bức thành của tâm thông tục. Nhưng khi ta giác ngộ, th́ cũng giống như cái b́nh vỡ tan thành mảnh vụn. Khoảng không gian "bên trong" liền tan ḥa ngay vào không gian "bên ngoài". Cả hai trở thành một: Ngay lúc đó và tại chỗ đó, ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác; chúng vẫn luôn luôn là một.
BẦU TRỜI VÀ NHỮNG ĐÁM MÂY
Bởi thể, dù đời ta có thế nào đi nữa, Phật tính của ta cũng luôn luôn ở đấy. Và nó luôn luôn toàn hảo. Ngay cả chư Phật với trí tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó tốt hơn được, và chúng sinh với tất cả vô minh có vẻ bất tận, cũng không thể làm cho nó lấm lem. Tính bản nhiên của chúng ta có thể ví như bầu trời, và sự mờ mịt của tâm thông tục giống như mây. Có những ngày bầu trời hoàn toàn bị mây phủ kín. Khi ấy nếu nằm xuống đất mà nh́n lên, th́ ta thực khó mà tin nổi trên trời c̣n có cái ǵ khác ngoài ra mây. Nhưng chỉ cần bay trong một chiếc phi cơ ta sẽ thấy tít trên cao xa nữa là một vùng trời xanh trong bao la vô tận. Từ đấy mà nh́n xuống th́ thấy những đám mây – mà khi ở dưới đất, ta tưởng là tất cả mọi sự - thật xa xăm nhỏ bé làm sao.
Ta phải cố nhớ luôn luôn rằng: Những đám mây không phải là bầu trời, và không "thuộc về" bầu trời. Chúng chỉ lơ lửng giữa từng không, và đi qua với kiểu hơi lố bịch, không lệ thuộc vào đâu. Nhưng chúng không bao giờ có thể để dấu vết làm lấm lem nền trời.
Vậy th́ Phật tính ấy đích thực nằm ở đâu? Nó nằm ngay nơi tự tính của tâm, cái tự tính được ví như bầu trời ấy. Hoàn toàn cởi mở, tự do, vô biên, Phật tính ấy thực đơn giản, tự nhiên như nhiên tới nỗi không bao giờ có thể trở thành phức tạp, hư hỏng, hay bị nhiễm ô; nó thuần tịnh tới nỗi vượt ngoài cả ư niệm dơ sạch. Nhưng nói về tự tính của tâm ví như bầu trời ấy chỉ là một ẩn dụ để giúp ta bắt đầu tưởng tượng được tính chất vô biên bao trùm tất cả của nó; v́ Phật tính có một tính chất mà bầu trời không có được, đó là tính sáng chói của tỉnh thức. Như có câu:
- Đó là cái giác tính hiện tiền không lỗi nơi bạn, biết nhận thức mà vẫn trống rỗng, giản đơn mà sáng suốt.
Dudjom Rinpoche viết:
Không lời nào có thể mô tả,
Không ví dụ nào để chỉ rơ
Sinh tử không làm nó xấu hơn
Niết bàn không làm nó tốt hơn
Nó chưa từng sinh
Nó chưa từng diệt
Chưa từng giải thoát
Chưa từng mê lầm
Chưa từng có cũng chưa từng không
Nó không có một giới hạn nào
Không thể xếp nó vào một phạm trù nào cả.
Nyoshul Khen Rinpoche nói:
Sâu xa vắng lặng, thoát mọi rắc rối
Sáng suốt không do kết hợp mà thành
Vượt ngoài tâm phân biệt đặt tên;
Đấy là tâm sâu xa của những Đấng Chiến thắng.
Trong đó không một vật ǵ phải vứt ra
Cũng không một vật ǵ cần thêm vào.
Đấy thuần là cái vô nhiễm
Đang nh́n vào chính nó một cách tự nhiên.
BỐN LỖI
Tại sao người ta thấy khó, ngay cả cái chuyện nghĩ đến chiều sâu và vẻ sáng chói của tự tính tâm? Tại sao đối với nhiều người, đấy dường như là một ư niệm lạ lùng vô lối? Giáo lư nói đến bốn lỗi ngăn cản chúng ta không trực nhận được bản tâm ngay bây giờ:
1. Tự tính tâm quá gần gũi đến nỗi ta khó nhận ra. Cũng như ta không thể nh́n chính cái mặt của ḿnh, tâm cũng thấy rất khó nh́n vào tự tính của chính nó.
2. Nó quá sâu xa chúng ta khó ḍ thấu. Ta không thể biết tâm ta sâu tới mức nào, nếu biết, ta đă ngộ một phần nào tự tính của nó.
3. Nó quá dễ ta không tin nổi. Điều duy nhất ta cần làm là an trú trong sự tỉnh giác sơ nguyên thuần túy của tự tính tâm, cái luôn luôn có mặt hiện tiền.
4. Nó quá kỳ tuyệt ta không dung chứa nổi. Nội một tính chất bao la của nó cũng quá lớn rộng không lọt được vào lối suy nghĩ hẹp ḥi của tâm ta. Ta không thể tin nổi, cũng không thể tưởng tượng nổi rằng giác ngộ lại là bản chất thực sự của tâm chúng ta.
Nếu sự phân tích trên đây về bốn lỗi đă đúng trong nền văn minh Tây Tạng, một nền văn minh hầu như dành trọn cho sự nghiệp giác ngộ, th́ nó lại càng đúng xiết bao ở trong nền văn minh tân tiến hiện nay, một nền văn minh dành phần lớn cho sự nghiệp tôn thờ ảo tưởng. Không bao giờ ở tây phương có một thông tin tổng quát nào về bản chất của tâm. Văn sĩ và những nhà trí thức chưa từng đề cập tới nó; những triết gia hiện đại không bàn về nó một cách trực tiếp; đa số khoa học gia hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của nó. Nó không có chỗ đứng trong văn hóa nhân gian: Không ai hát ca về nó; không ai nói về trong những vở kịch; nó không có trên truyền h́nh. Chúng ta thực sự được giáo dục để tin rằng không ǵ có thực ngoài ra là những cái ta có thể nhận thức được bằng những giác quan thông thường của chúng ta.
Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những "thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nh́n mặt trời lên sau dăy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào pḥng. Những giây phút của sự thắp sáng, của b́nh an và hạnh phúc.
Mặc dù sự chối bỏ toàn diện ấy về hiện hữu của tự tính tâm, chúng ta vẫn thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi thiên nhiên, hoặc bởi một sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nh́n mặt trời lên sau dăy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào pḥng. Những giây phút của sự thắp sáng, của b́nh an và hạnh phúc ấy vẫn thường xảy đến với tất cả chúng ta và một cách lạ lùng, nó ở lại với chúng ta.
Tôi nghĩ rằng chúng ta đôi khi cũng hiểu được lờ mờ những cái thoáng thấy ấy, nhưng nền văn hóa ngày nay không cung cấp cho ta một bối cảnh nào để có thể hiểu được chúng. Tệ hơn nữa là, thiên hạ đă không khuyến khích chúng ta nên thám hiểm những cái thấy ấy và đào sâu xem nó từ đâu tới, mà lại c̣n bảo ta, bằng cách vừa tinh vi vừa lộ liễu, phải gạt nó ra ngoài. Không ai sẽ nghe ta một cách nghiêm túc nếu ta cố san sẻ kinh nghiệm ấy với họ. Bởi thế ta thường tảng lờ những ǵ có thể thực sự là kinh nghiệm mặc khải nhất trong đời ta, nếu ta hiểu được chúng. Đấy có lẽ là khía cạnh đen tối đáng buồn nhất của văn minh hiện đại; Vô minh và áp chế đối với sự thật là ai.
NH̀N VÀO TRONG
Giả sử bây giờ ta làm một cuộc thay đổi, ta không nh́n vào một hướng duy nhất như trước nữa. Ta được dạy phải dành suốt đời để theo đuổi những tu tưởng và dự phóng của ta. Ngay cả khi nói về "tâm," th́ ta cũng chỉ nói tới những ư tưởng và cảm xúc của nó; và khi những nhà nghiên cứu khảo sát cái mà họ tưởng là tâm, th́ họ cũng chỉ nh́n thấy những phóng ảnh của nó. Chưa từng có ai thực sự nh́n vào chính cái tâm, nền tảng từ đó tất cả những tư tưởng ngôn từ khởi lên, và điều này có những hậu quả bi thảm. Như Padmasambhava nói:
- Ngay cả khi cái thường gọi là "tâm" được nhiều người bàn tới,
Nó vẫn không được hiểu thấu, hoặc hiểu sai lạc, một chiều.
V́ tâm không được hiểu đúng như nó là, trong bản chất nó,
Cho nên có nhiều tư tưởng triết học và lư thuyết ra đời.
Lại v́ người, thường không hiểu được tâm.
Nên họ không nhận ra bản lai diện mục họ
Và tiếp tục lang thang trong sáu nẻo luân hồi và ba cơi hữu mà kinh quá khổ đau.
Bởi thế không hiểu được bản tâm của bạn là một lỗi rất đáng buồn.
Làm sao chúng ta có thể lật ngược t́nh huống? Rất giản dị. Tâm ta chỉ có hai vị trí: Nh́n ra và nh́n vào.
Nay ta hăy nh́n vào.
Điều khác biệt mà việc chuyển hướng nh́n ấy đem đến lại có thể rất lớn lao, có thể lật lại những tai ách đang đè nặng thế giới. Khi có một số lớn người biết được bản tâm của họ, họ cũng sẽ biết được bản chất đầy quang vinh của cái thế giới trong đó họ sống, và phấn đấu một cách dũng cảm cấp thiết đ? bảo tŕ nó. Một điều thú vị là tiếng Tây Tạng gọi Phật tử là nangpa là "người ở trong", nghĩa là người không t́m kiếm chân lư ở bên ngoài mà t́m trong bản chất của tâm. Mọi giáo lư và thực tập trong Phật giáo đều dẫn đến một điểm duy nhất là nh́n vào tự tính của tâm, và nhờ vậy giải thoát ta khỏi nỗi sợ chết và giúp ta nhận chân được sự thật của cuộc đời.
Việc nh́n vào trong (nội quán) đ̣i hỏi ta phải có sự tế nhị sâu sắc và đức can đảm lớn lao - một thay đổi tận gốc trong thái độ của ta đối với cuộc đời và tâm thức. Chúng ta đă quá ghiền nh́n ra ngoài đến nỗi ta hầu như hoàn ṭan mất liên lạc với bản thể sâu xa của ta. Chúng ta sợ phải nh́n vào trong, v́ nền văn hóa chúng ta không cho ta biết một tí ǵ về những cái ta sẽ t́m gặp. Chúng ta lại c̣n nghĩ rằng nếu nh́n vào trong, ta sẽ có nguy cơ bị điên loạn. Điều này là một trong những mánh khóe cuối cùng, hiệu lực nhất của bản ngă để ngăn cản ta khám phá bản chất chân thực của ḿnh.
Chúng ta đă làm cho đời sống trở nên cuồng nhiệt tới nỗi ta trừ khử mọi lăm le muốn nh́n vào trong. Cả đến ư nghĩ "ngồi thiền" cũng làm cho người ta sợ hăi. Khi nghe nói đến "Không" hay "vô ngă", họ tưởng là ḿnh phải trải qua những trạng thái như bị ném ra khỏi con tàu vũ trụ để chơi vơi giữa khoảng không lạnh lẽo âm u. Thực không ǵ sai lạc sự thật hơn thế. Nhưng trong một thế giới dành trọn cho cuộc giải trí, th́ sự im lặng và yên lặng làm cho ta sợ hăi; ta tự bảo về để tránh né chúng bằng sự huyên náo và những công việc rộn ràng. Nh́n vào bản chất của tâm ta là chuyện chót bẹt mà ta dám làm.
Đôi khi tôi nghĩ rằng chúng ta không muốn đặt câu hỏi nghiêm túc nào về ta là ai, v́ sợ sẽ khám phá có một thực tại khác hơn sự thực, hiện tại này. Sự khám phá ấy sẽ làm ǵ với cái kiểu sống của ta bấy lâu nay? Bạn bè, đồng nghiệp của ta sẽ phản ứng ra sao trước cái điều mà bây giờ ta mới biết? Kèm theo hiểu biết là trách nhiệm. Có đôi khi kẻ tù nhân chọn lựa ở lại, ngay cả khi cánh cửa ngục tù đă được mở tung.
NHỮNG HỨA HẸN CỦA GIÁC NGỘ
Trong thế giới hiện nay, ít có những mẫu người thể hiện được những đức tính do sự trực ngộ bản tâm đem lại. Bởi thế thực khó cho chúng ta tưởng tượng được giác ngộ ra sao, nhận thức của một người đă giác ngộ là thế nào, huống hồ tin nổi rằng chính ḿnh cũng có thể giác ngộ.
Mặc dù luôn luôn đề cao giá trị đ?i sống và tự do cá nhân, xă hội chúng ta kỳ thực xem chúng ta như những kẻ luôn bị ám ảnh bởi quyền lực, tiền và dục tính, và bất cứ lúc nào cũng cần phải lôi kéo chú ư của ta ra khỏi sự chết chóc, hay sự sống chân thực. Nếu có ai bảo cho ta biết, hay nếu ta bắt đầu “đánh hơi” được tiềm năng sâu xa của ḿnh, th́ ta không thể nào tin nổi chuyện ấy; và khi ta động nghĩ tới việc làm một cuộc chuyển hóa tâm linh, ta lại thấy rằng chỉ có những bậc thánh hiền trong quá khứ mới làm nổi điều ầy. Đức Dalai Lama thường nói đến sự thiếu niềm tự tôn trọng, tự thương lấy ḿnh nơi nhiều người trong thế giới hiện nay. Bên dưới toàn bộ nhân sinh quan của ta là một sự cả quyết – có tính cách thần kinh loạn - về những giới hạn của chúng ta. Điều ấy làm cho ta mất hết hy vọng thức tỉnh, và ngược lại với chân lư trọng tâm của lời Phật dạy, đó là, tự cốt tủy, chúng ta vốn toàn thiện.
Ngay cả khi có thể nghĩ đến chuyện đạt giác ngộ, th́ chỉ cần nh́n vào những ǵ làm nên cái tâm thường ngày của ta - giận dữ, tham lam, ganh tị, ác ư, bạo tàn, nhục dục, sợ hăi, lo lắng, giao động – cũng đủ làm cho ta không c̣n hy vọng ǵ đạt giác ngộ, nếu ta không được bảo cho biết rơ về tự tính thanh tịnh của tâm, và về khả năng ta chắc chắn có thể thực chứng được tự tính ấy.
Nhưng sự giác ngộ vốn thực có, và có nhiều bậc thầy đă giác ngộ hiện c̣n sống trên trái đất. Khi bạn gặp được một vị như vậy, bạn sẽ xúc động tận tâm can và sẽ thấy rằng mọi danh từ, như "giác ngộ" và "trí tuệ", mà lâu nay bạn tưởng chỉ là những ư niệm, th́ ra là có thực. Mặc dù đầy những nguy hiểm, thế giới nay vẫn là một cơi thật hấp dẫn. Tâm thức tây phương đang dần mở ra trước những tri kiến khác nhau về thực tại. Những bậc thầy vĩ đại như đức Dalai Lama và Mẹ Teressa có thể được trông thấy trên màn ảnh truyền h́nh; nhiều bậc thầy đông phương đang viếng thăm và giảng dạy giáo lư ở Tây phương; và những sách vở từ mọi truyền thống huyền học đang càng ngày càng có nhiều độc giả. T́nh trạng tuyệt vọng của hành tinh này đang dần dần đánh thức mọi người tỉnh dậy để thấy sự cấp thiết phải thay đổi trên một phạm vi rộng lớn có tính cách toàn cầu.
Sự giác ngộ, như tôi đă nói, là có thực, và bất cứ ai trong mỗi chúng ta cũng có thể, nếu được huấn luyện đúng cách, và gặp đúng “thời tiết nhân duyên”, sẽ trực nhận được tự tính tâm và nhờ thế biết được trong ta có cái bất tử và vĩnh viễn thuần tịnh. Đấy là sự hứa hẹn trong mọi truyền thống huyền học của nhân loại, và nhiều ngàn người đă và đang thực chứng điều đó.
Điều kỳ diệu của sự hứa hẹn này là, nó không phải là một cái ǵ thần kỳ, xa lạ ǵ cả, nó không phải chỉ dành cho một số ít người xuất sắc được chọn lọc, mà dành cho toàn thể loài người; và khi trực nhận được bản tâm, th́ thấy như lời các thiền sư bảo, nó b́nh thường một cách kỳ lạ. Chân lư về tâm không phải là một cái ǵ rắc rối bí truyền, nó kỳ thực là lương tri sâu xa. Khi ta trực ngộ bản tâm, th́ những tầng lớp mê lầm rơi rụng. Thực sự không phải là bạn "thành" Phật, mà bạn chỉ có chấm dứt mê hoặc, hết bị ảo tưởng lừa dối. Và thành Phật không có nghĩa là thành một siêu nhân có nhiều quyền năng tâm linh, mà thành một con người đúng nghĩa.
Một trong những truyền thống lớn của Phật giáo Tây Tạng gọi bản chất của tâm là "trí tuệ của b́nh thường". Tôi phải nhắc lại lời này nhiều lần mới được: Tự tính chân thực của chính ta, với bản tính của mọi sự vật không phải là một cái ǵ lạ lùng. Điều mỉa mai là, chính cái thế giới mà ta gọi là thường nhật ấy mới thực lạ lùng, một màn ảo hóa li kỳ tinh vi của cái thấy mê lầm trong sinh tử. Chính cái thấy "lạ lùng” ấy đă làm ta mù mắt đối với bản tính tự nhiên, "b́nh thường" của tâm. Hăy thử tưởng tượng những vị Phật đang nh́n xuống chúng ta: các ngài sẽ kinh ngạc đau buồn xiết bao để thấy sự khôn lanh chết người, và tính phức tạp trong cái vô minh của chúng ta.
Đôi khi, chính v́ ta vẫn thường rắc rối một cách không cần thiết, mà khi được một bậc thầy khai thị bản tâm, ta không thể tin được rằng nó quá đơn giản như thế. Cái tâm thường ngày của ta bảo ta rằng không thể thế được, phải có cái ǵ khác hơn thế chứ. Chắc phải "huy hoàng" hơn, phải có nhiều hào quang xẹt xung quanh ta, có chư thiên với đầu tóc vàng óng bay lả tả từ trên trời sà xuống gặp ta mà loan tin "Thế là bạn đă được khai thị bản tâm rồi đấy". Hoàn toàn không có cái màn ấy đâu.
V́ trong nền văn hóa chúng, ta, chúng ta đă quen đánh giá tri thức quá cao, nên ta cứ tưởng rằng muốn giác ngộ th́ cần phải có một trí thông minh phi thường. Tây Tạng có một ngạn ngữ rằng: "Nếu bạn quá thông minh, bạn có thể hụt mất hoàn toàn cái cốt tủy."
Patrul Rinpoche nói:
- Cái tâm duy lư có vẻ hay đấy, nhưng chính nó là hạt giống của mê lầm.
Con người có thể bị ám ảnh bởi chính những lư thuyết của ḿnh và hụt mất cái cốt tủy trong mọi sự. Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói: "Lư thuyết giống như những miếng vá trên chiếc áo, có ngày cũng phải cũ ṃn."
Tôi xin kể cho bạn nghe một mẫu chuyện lư thú:
- Một bậc thầy vĩ đại vào thế kỷ trước có một đệ tử rất ngu đần. Ông đă giảng dạy nhiều lần, cố khai thị cho y trực ngộ bản tâm, mà y vẫn không ngộ. Cuối cùng, bậc thầy nổi giận bảo, "Này, ngươi hăy mang bao lúa mạch này lên trên đỉnh núi xa kia, nhưng không được dừng lại nghỉ. Phải đi một mạch cho tới đỉnh núi”. Người đệ tử tuy ngu đần song có ḷng sùng kính và hoàn ṭan tin tưởng nơi thầy, nên đă làm y như lời thầy dạy. Bao lúa rất nặng, nhưng y vẫn mang lên giốc núi không dám dừng lại nghỉ. Y cứ đi măi đi măi, và cái bao mỗi lúc một năng thêm. Y phải mất một thời gian dài, và cuối cùng, khi lên tới đỉnh núi, y thả cái bao ngồi phịch xuống đất, kiệt sức v́ mệt nhọc nhưng bắt đầu thư giăn, nhẹ nhàng. Y cảm thấy gió núi mát lạnh trên mặt. Tất cả sự trơ ĺ đối với giác ngộ nơi y bỗng tan biến, cùng với cái tâm thường ngày của y. Mọi sự dường như ngừng phắt lại. Ngay lúc ấy, y th́nh ĺnh trực ngộ bản tâm. Y nghĩ, "Ồ, th́ ra đây là cái mà thầy đă chỉ cho ta bấy lâu nay". Y chạy xuống núi trở về, và trái với mọi quy ước thường ngày y đâm sầm vào pḥng thầy. "Con nghĩ rằng con đă được nó... Con thực sự đă được nó!” Vị thầy mỉm cười đầy cảm thông nh́n y mà nói: "Thế là con đă có một chuyến leo núi thú vị đấy chứ?"
Ngay cả bạn, bất kể bạn là ai, cũng có thể có cái kinh nghiệm mà người môn đệ kia đă gặp trên đỉnh núi, và chính cái kinh nghiệm ấy sẽ đem lại cho bạn đức tính vô úy để điều đ́nh với sống chết. Nhưng ǵ là cách tốt nhất, nhanh nhất, và hiệu nghiệm nhất để khởi hành đi t́m nó? Bước đầu tiên là thực tập thiền định. Chính thiền định dần dần thanh lọc cái tâm thường ngày, lột mặt nạ nó, làm cho kiệt quệ những ảo tưởng và tập quán của nó, để chúng ta có thể, vào đúng thời tiết, trực nhận ra ta là ai.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 11 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
5. ĐƯA TÂM VỀ NHÀ
Trên hai ngàn năm trăm năm về trước, một người đă đi t́m chân lư trong nhiều đời kiếp, đi đến một chỗ thanh vắng miền Bắc Ấn và ngồi dưới một bóng cây. Người ấy tiếp tục ngồi dưới cây với một tâm cả quyết vô biên, và thề sẽ không đứng dậy nếu không t́m ra chân lư. Tương truyền vào lúc hoàng hôn, người ấy đă chiến thắng tất cả những năng lực hắc ám của mê vọng; và b́nh minh hôm sau, khi ngôi sao Mai xuất hiện trên nền trời, người ấy đă được đền bù cho ḷng kiên nhẫn trường kỳ, cho kỉ luật và sự tập trung toàn hảo của ḿnh bằng sự chứng đắc tuệ giác, cái mục đích tối thượng của đời người. Vào giờ phút thiêng liêng ấy, trái đất cũng phải rùng ḿnh như thể "say sưa trong niềm phúc lạc", và kinh điển đă ghi rằng "Không ai trong giờ phút ấy, ở bất cứ đâu, nổi giận, hay ốm đau, buồn khổ, không ai làm ác, không ai kiêu căng ngă mạn; thế giới trở nên hoàn toàn thanh tịnh, dường như thể vừa đạt tới sự toàn thiện.” Con người ấy được biết dưới danh hiệu là Đức Phật. Thầy Nhất Hạnh đă mô tả sự giác ngộ của Phật bằng những lời đẹp đẽ như sau:
- Gautama cảm thấy như thể là cái ngục tù giam giữ ḿnh cả ngàn đời, vừa mới mở tung. Vô minh chính là người giữ ngục. V́ vô minh, tâm người đă bị che mờ, hệt như trăng sao bị mây che trong bầu trời giông băo. Bị vây bủa bởi nhiều làn sóng vọng tưởng bất tận, tâm ta đă cắt xén thực tại một cách sai lầm thành ra chủ thể và đối tượng, ta và người, hữu và phi hữu, sinh và tử, và do phân biệt khởi lên tà kiến – đó là những ngục tù của thọ, ái, thủ và hữu. Nỗi khổ sinh già bệnh chết chỉ làm cho tường vách nhà tù dày thêm. Điều duy nhất phải làm là tóm lấy kẻ giữ ngục mà nh́n vào mặt thật của y. Kẻ giữ ngục chính là vô minh... Khi kẻ giữ ngục đă bỏ đi, th́ nhà tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.
Những ǵ Phật thấy là, sự không biết bản tâm chính là nguồn gốc của tất cả đau khổ trong sinh tử, và nguồn gốc của vô minh chính là khuynh hướng xao lăng của tâm ta, cái khuynh hướng đă thành thói quen khó gỡ. Chấm dứt cái tâm lơ đễnh ấy chính là chấm dứt sinh tử; và ch́a khóa đưa đến sự chấm dứt là đưa tâm về nhà, trở về bản tính chân thực của nó, nhờ sự thực tập thiền định.
Đức Phật ngồi trên đất với cung cách khiêm hạ b́nh an, trên cao và quanh ngài là trời đất bao la, như thể chỉ cho ta rằng trong khi thiền định, bạn nên ngồi với một tâm thái rộng mở khoáng đạt như bầu trời, mà đồng thời vẫn hiện diện, có nền tảng vững vàng trên mặt đất. Bầu trời là bản tính tuyệt đối của chúng ta, vốn không có rào ngăn, không biên giới, c̣n mặt đất là thực tại của chúng ta, hoàn cảnh tương đối và thường nhật của ta. Dáng ngồi khi ta thiền định có nghĩa rằng ta đang nối cái tuyệt đối với tương đối, trời và đất, như đôi cánh của một con chim, thể nhập cái bản tâm bất tử như bầu trời, với cái bản chất phù du khả loại của ta như đất.
Năng khiếu tập thiền định là năng khiếu vĩ đại nhất mà bạn có thể tự đem lại cho ḿnh trên cuộc đời này. V́ chỉ nhờ thiền định bạn mới có thể khởi hành cuộc hành tŕnh đi t́m bản chất chân thực của bạn, và nhờ vây t́m thấy niềm tin vững chải mà bạn cần, để sống tốt đẹp và chết tốt đẹp. Thiền định chính là con đường đưa đến tuệ giác.
LUYỆN TÂM
Có rất nhiều cách tŕnh bày về thiền định, và có lẽ tôi đă giảng dạy cả ngàn lần về thiền, nhưng mỗi lần một khác, và mỗi lần nó đều trực tiếp và mới mẻ.
May thay ta sống trong một thời đại mà tất cả mọi người trên thế giới đều quen thuộc với thiền định. Càng ngày thiền càng được chấp nhận như một lối tập luyện, bỏ qua và vượt trên tất cả những hàng rào văn hóa và tín ngưỡng, giúp hành giả thiết lập một tiếp xúc thẳng với sự thật của bản thể họ. Đấy là một luyện tập vượt ngoài giáo điều của các tôn giáo, và là tinh túy của tôn giáo.
Thông thường chúng ta lăng phí đời ḿnh, lạc ra ngoài cái ngă chân thực của ta, trong những hoạt động bất tận. Thiền trái lại, là phương pháp đưa ta trở về chính ḿnh, ở đấy ta có thể thực sự chứng nghiệm và thưởng thức cái bản thể toàn vẹn của ta, vượt ngoài mọi mẫu mực thói quen. Những cuộc đời của chúng ta được sống trong đấu tranh căng thẳng và lo âu, trong sự quay cuồng của tốc độ và bạo động, trong cạnh tranh, bám víu, chiếm hữu, thành công, ta măi măi chất đầy những hoạt động và bận rộn thuộc ngoại vi. Thiền chính là cái ngược lại. Thiền định là làm một cuộc tuyệt giao với cái cách ta hành động "b́nh thường," v́ đấy là trạng thái không lo lắng không bận tâm, không có cạnh tranh, không có ham muốn sở hữu hay níu kéo một thứ ǵ, không có sự phấn đấu quyết liệt đầy âu lo, và không có sự khao khát đạt thành: Một trạng thái không có tham vọng không có lấy hay bỏ, không hy vọng cũng không sợ hăi, một trạng thái trong đó ta dần khởi sự buông bỏ mọi cảm xúc và khái niệm đă giam hăm ta để tung cánh vào bầu không gian của tính tự nhiên đơn giản.
Những bậc thầy về thiền định trong Phật giáo biết rơ tính dẻo dai, dễ sử dụng của tâm là như thế nào. Nếu ta luyện được nó, th́ không có ǵ là bất khả. Quả thực ta đă được huấn luyện một cách thuần thục bởi sinh tử và cho sinh tử, được luyện để nổi ghen tuông, được luyện để bám víu chấp thủ, được luyện để lo âu, phiền muộn, thất vọng, thèm khát; được luyện để phản ứng một cách tức giận đối với bất cứ ǵ khiêu khích chúng ta. Thực vậy, chúng ta được luyện thuần thục tới mức độ mà những cảm xúc tiêu cực ấy khởi lên một cách tự nhiên, chúng ta không cần cố gắng làm cho chúng phát sinh ra. Bởi thế, mọi sự đều là vấn đề huấn luyện, và năng lực của thói quen. Nếu tâm chuyên chú vào sự nghiệp vô minh th́ ta sẽ thấy nó trở thành một chúa tể của vô minh, chuyên viên nghiện ngập, tinh vi và mềm dẻo trong thói nô lệ của nó. Nếu tâm chuyên chú vào thiền định, vào sự nghiệp tự giải thoát ra khỏi ảo tưởng, th́ ta sẽ thấy với thời gian, kiên nhẫn, kỷ luật, và luyện đúng – tâm ra khởi sự mở gút và biết được niềm phúc lạc và trong sáng nguyên ủy của nó.
"Luyện" tâm tuyệt nhiên không có nghĩa là gượng ép ức chế nó, hay tẩy năo cái tâm. Luyện tâm là trước hết thấy được một cách trực tiếp và cụ thể, tâm thực sự vận hành như thế nào, một hiểu biết mà ta có thể rút từ những giáo lư tâm linh và qua kinh nghiệm của ḿnh trong sự thực hành thiền định. Rồi bạn có thể dùng sự hiểu biết ấy để thuần hóa cái tâm và làm việc với nó một cách khéo léo, làm cho nó càng ngày nhu nhuyến, để bạn có thể trở thành chủ nhân của chính tâm ḿnh và sử dụng nó cho cứu cánh viên măn và lợi lạc nhất.
Bậc thầy Shantideva vào thế kỷ thứ tám có nói:
- Nếu buộc chặt con voi tâm bằng sợi dây chánh niệm
Th́ mọi sợ hăi tan biến, hạnh phúc toàn vẹn đến với ta
Tất cả kẻ thù: cọp, sư tử,, voi, gấu, rắn những cảm xúc;
Tất cả ngục tốt ở địa ngục; ngạ quỷ, những sự khủng khiếp
Tất cả thứ ấy đều bị trói nhờ bạn đă làm chủ được tâm.
Hàng phục một tâm ấy, th́ mọi sự đều được hàng phục.
V́ do tâm mà có ra mọi sợ hăi và vô lượng khổ đau.
Cũng như một văn sĩ sau nhiều năm dày công học hỏi mới có được cách diễn đạt tự nhiên, hoặc như một vũ công chỉ thành đạt nhờ nỗ lực lớn và kiên nhẫn, cũng thế khi bạn bắt đầu hiểu được thiền định sẽ đưa bạn tới đâu, th́ bạn sẽ xem nó như sự nghiệp lớn nhất của đời ḿnh, và nó đ̣i hỏi ở bạn một sự kiên tŕ sâu xa, ḷng hăng hái, trí thông minh, và kỷ luật
TRỌNG TÂM CỦA THIỀN ĐỊNH
Mục đích thiền định là để làm thức dậy trong ta cái tự tính của tâm giống như bầu trời ấy, và để cho ta thấy bản lai diện mục của ta, tính giác không thay đổi nơi ta, cái nằm đằng sau toàn thể sự sống và chết.
Trong cái yên lặng và im lặng của thiền, ta thoáng thấy và quay về với sự tự tính sâu xa ấy, cái mà từ quá lâu ta đă không thấy được giữa những bận rộn và xao lăng của tâm. Có phải lạ lùng, là tâm ta không thể ở yên lâu hơn chốc lát mà không theo đuổi bám víu một lối xao lăng nào đó; nó bất an, rộn ràng tới nỗi lắm lúc tôi nghĩ rằng, sống trong một đô thị tân tiến, là ta đă giống như những linh hồn bị dày ṿ trong trạng thái trung gian sau khi chết, lúc mà tâm (theo Tử thư) được mô tả là vô cùng xao xuyến. Theo tài liệu đáng tin, th́ hết mười ba phần trăm người ở Mỹ mắc phải chứng rối loạn thần kinh. Điều ấy nói ǵ về cách sống của chúng ta?
Chúng ta bị phân đoạn thành quá nhiều phương diện khác nhau. Chúng ta không biết ḿnh thực sự là ai, hay ta nên đồng hóa ḿnh với phương diện nào, nên tin tưởng cái ǵ. Quá nhiều tiếng nói mâu thuẫn, nhiều mệnh lệnh và cảm thức khác nhau giành giựt quyền kiểm soát đời sống nội tâm ta, đến nỗi ta tự thấy ḿnh ră rời ra từng mảnh ở khắp mọi nơi, mọi hướng, không c̣n ai ở nhà.
Thiền định, như vậy, chính là đem tâm trở về nhà.
Trong giáo lư Phật, chúng ta nói có ba việc làm nên sự khác nhau sự tu thiền của bạn, hoặc để đem lại thoải mái b́nh an tạm thời, hoặc để đưa đến tự giác giác tha. Ba việc đó gọi là "tốt ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối."
o Tốt ở chặng đầu
bắt nguồn từ cái ư thức rằng chúng ta và mọi hữu t́nh tự căn để, đều có Phật tính, tinh chất sâu xa nhất của ta, và trực ngộ được nó th́ thoát khỏi vô minh và chấm dứt vĩnh viễn mọi đau khổ. Bởi vậy mỗi lần khởi sự tập thiền định, chúng ta được điều động bởi cái ư thức ấy, và phát tâm cống hiến sự tập thiền của ḿnh và cả cuộc đời ḿnh cho việc giác ngộ tất cả chúng sinh, trong tinh thần lời nguyện sau đây, mà chư Phật trong quá khứ đă từng phát ra:
Nhờ năng lực và chân lư của tập luyện này,
Mong tất cả hữu t́nh được hạnh phúc, và nhân của hạnh phúc;
Mong tất cả đều thoát khổ đau, và nhân của khổ đau;
Mong tất cả không rời hạnh phúc tối thượng, không sầu;
Mong tất cả sống hỉ xả không thương ghét
Và sống tin ở b́nh đẳng của mọi loài.
o Tốt ở chặng giữa
o là tâm thái khi ta đi vào trọng tâm của luyện tập, mong thực chứng bản tâm, từ đấy khởi lên sự không chấp thủ, thoát khỏi mọi khái niệm phân biệt, và một tỉnh thức để thấy mọi sự tự nó trống rỗng không thực chất, như huyễn, như mộng. Tốt ở chặng cuối
là cách ta kết thúc thời thiền tập bằng sự hồi hướng tất cả công đức, với lời cầu nguyện thành thiết như sau:
- Mong rằng, bất cứ công đức ǵ có được do thời thiền tập này, đều hướng về sự giác ngộ tất cả hữu t́nh; mong rằng nó trở thành một giọt nước trong biển công hạnh của chư Phật đang làm việc không biết mệt để giải thoát tất cả chúng sinh.
Công đức là công năng tích cực và lợi lạc, niềm b́nh an hạnh phúc mà sự tu tập thiền định của bạn tỏa chiếu ra. Bạn cống hiến công đức ấy cho sự an lạc lâu dài của hữu t́nh, cho sự giác ngộ của chúng. Gần hơn, th́ bạn hồi hướng cầu nguyện cho ḥa b́nh thế giới, cho mọi người thoát khỏi thiếu thốn bệnh tật, được sức khỏe và hạnh phúc lâu bền. Rồi, khi nhận thức bản chất mộng huyễn của thực tại, bạn tư duy rằng, trong ư nghĩa sâu kín nhất, th́ bạn, người hồi hướng, những chúng sinh mà bạn cống hiến công đức, và chính cái hành vi hồi hướng, cả ba thứ đều trống rỗng, huyễn hóa. Điều này được nói trong giáo lư là để “niêm phong” thời thiền định, bảo đảm sao cho không một giọt nào của công năng thuần tịnh của nó bị ṛ rỉ, và để chắc chắn không một chút công đức nào của sự thực hành là bị lăng phí.
Những nguyên tắc thiêng liêng này – cách khởi tâm thiện xảo, thái độ không chấp thủ, và sự hồi hướng sau cùng để niêm phong, là những ǵ làm cho việc thiền tập của bạn thực sự có năng lực, đem lại giác ngộ. Ba nguyên lư này được Longchenpa bậc thầy Tây Tạng mô tả là "trái tim, con mắt và sức sống của sự thực hành chân chính." Như Nyoshul Khenpo nói:
- Muốn đạt toàn giác, nhiều hơn thế th́ dư, mà ít hơn th́ thiếu.
LUYỆN TẬP CHÁNH NIỆM
Thiền định là đưa tâm về nhà, và việc này trước hết được hoàn tất nhờ luyện tập chánh niệm.
Một lần có một thiếu phụ đến hỏi Bụt làm cách thế nào để thiền. Bụt bảo nàng hăy ư thức từng động tác của đôi tay khi nàng kéo nước giếng, v́ ngài biết như vậy nàng sẽ tự thấy ḿnh ở trong tâm trạng an b́nh, khoáng đạt và bén nhạy, mà chính là thiền định.
Sự thực tập chánh niệm, đưa cái tâm phân tán trở về nhà và do đó tập trung ư thức vào những khía cạnh khác nhau của con người chúng ta - được gọi là "Tịnh trú" hay "An trú," thành tựu được ba việc. Trước hết, mọi mảnh vụn của con người ta - thường mâu thuẫn chống chọi nhau – bây giờ ổn định, tan ḥa và trở thành bạn. Trong sự ổn định ấy ta bắt đầu hiểu ḿnh hơn, và đôi khi c̣n thoáng thấy được tia sáng tự tính bản nhiên của ta. Thứ hai là, luyện tập thiền định làm tiêu tan tính tiêu cực, bạo hành nơi ta, những cảm xúc hỗn độn đă chứa nhóm nhiều đời. Thay v́ đàn áp chúng hay bị lôi cuốn theo chúng, ở đây điều quan trọng là ngắm nh́n chúng và bất cứ ǵ khởi lên trong tâm, với sự chấp nhận và bao dung, càng cởi mở càng tốt. Những bậc thầy Tây Tạng thường bảo rằng tính độ lượng sáng suốt ấy giống như không gian vô biên, thân thiết và dễ chịu, làm bạn cảm thấy như thể được bao phủ, được che chở trong một cái mền bằng ánh sáng.
Dần dần, khi bạn vẫn ở trong trạng thái cởi mở, tỉnh giác ấy, và dùng một trong những phương pháp sẽ nói sau, để làm cho tâm càng lúc càng tập trung hơn, tính tiêu cực nơi bạn càng ngày càng tan loăng ra; bạn khởi sự cảm thấy thoải mái trong toàn diện bản thể bạn, hay như ngựi Pháp nói, être bien dans sa peau. Từ đấy phát sinh sự buông xả và một niềm an lạc sâu xa. Theo tôi th́ sự tập luyện này là cách tốt nhất để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh nơi bạn.
Thứ ba, sự tập luyên này vén màn, làm hiển lộ Thiện tâm căn bản của bạn, v́ nó làm tan biến thói hung ác hay tác hại ở trong bạn. Chỉ khi trừ khử được thói ấy ta mới thực sự hữu ích cho người khác. Vậy th́ nhờ tập luyện, trừ khử dần thói ác tác hại khỏi tâm ta, mà ta có thể để cho Thiện tâm chân thực của ta – ḷng tử tế, từ bi tự nhiên nơi ta - chiếu sáng, và trở thành bầu khí hậu cho bản thể đích thực của ta phát triển.
Bây giờ bạn thấy tại sao tôi gọi thiền định là sự thực hành chân thực để đi đến ḥa b́nh, đi đến sự không gây hấn, đi đến sự bất bạo động. Đ?y là sự giải trừ vũ khí chân thực và quan trọng nhất.
SỰ B̀NH AN TỰ NHIÊN
Mỗi khi giảng dạy thiền định, tôi thường bắt đầu bằng câu nói:
- Hăy đưa tâm bạn về nhà. Buông xả, và thư giăn.
Toàn thể sự thực hành thiền định có thể rút gọn vào ba điểm cốt yếu đó: Đưa tâm về nhà, buông xả và thư giăn.
Đưa tâm về nhà có nghĩa là hướng dẫn tâm đến trạng thái An trú nhờ thực tập chánh niệm. Trong ư nghĩa sâu xa nhất, th́ đưa tâm về nhà có nghĩa là xoay tâm vào trong và an trú trong bản tánh tự nhiên của nó. Điều này chính là thiền định tối thượng.
Buông xả là giải phóng tâm khỏi ngục tù chấp thủ, v́ bạn đă nhận thấy rằng mọi đau khổ, sợ hăi và lo buồn đều bắt nguồn từ sự khát ái của tâm chấp thủ. Ở b́nh diện sâu xa hơn, sự thực chứng, niềm tin phát sinh do hiểu rơ bản chất của tự tâm sẽ làm cho bạn có được tính bao dung sâu sắc và tự nhiên, khiến bạn dễ dàng buông hết mọi chấp thủ của ḿnh, để cho nó tự bay mất, tan vào trong nguồn cảm hứng của thiền định.
Cuối cùng, thư giăn có nghĩa là khoáng đạt, giải tỏa tâm khỏi mọi căng thẳng. Sâu hơn nữa, là bạn thể nhập vào bản tính chân thực tự nhiên của tâm bạn một cách thoải mái, vào trạng thái Rigpa. Tạng ngữ diễn tả tiến tŕnh này là "thư giăn trên Rigpa”. Giống như khi ta đổ một nắm cát trên một mặt phẳng, th́ mỗi hạt cát tự động an trú. Đấy là cách bạn thư giăn vào trong bản tính chân thực của bạn, để cho mọi ư nghĩa cảm xúc tự động rút lui, tan biến vào trong trạng thái tâm tự nhiên.
Mỗi khi thiền định, bài thơ sau đây của Nyoshul Khenpo luôn luôn gây cho tôi nguồn cảm hứng:
Hăy an trú tịch nhiên
Cái tâm mệt mỏi này
bị nghiệp làm xơ xác
với tư duy cuồng loạn
như sóng vỗ không ngừng
trong biển lớn sinh tử.
Hăy an trú tịch nhiên.
Cần nhất là ta hăy thoải mái tự nhiên và khoáng đạt như hư không. Hăy lặng lẽ chuồn ra khỏi cái tḥng lọng của bản ngă đầy lo âu thường ngày, buông mọi sự bám víu, và thả ḿnh vào trong bản tính chân thực của bạn. Hăy tưởng đến cái tôi thường nhật của bạn như một khối băng hay một thỏi bơ để dưới ánh mặt trời. Nếu bạn đang cảm thấy cứng cỏi lạnh lùng, th́ hăy để cho sự cứng cỏi ấy tan ra trong ánh mặt trời thiền định. Đ? cho niềm b́nh an làm việc trên bạn, giúp bạn thâu nhặt lại cái tâm phân tán gom vào trong sự An trú, và đánh thức dậy sự tỉnh giác và cái thấy sâu xa của Minh kiến. Rồi bạn sẽ thấy tất cả thói tiêu cực nơi ḿnh bị tước khí giới, tính bạo động tan ra, vọng tưởng chầm chậm tiêu tan như thể sương mù tan vào trong bầu trời khoáng đạt vô nhiễm của tính tự nhiên tuyệt đối nơi bạn.
Khi ngồi lặng lẽ, thân yên, lời im, tâm am tĩnh, bạn hăy để cho những ư tưởng, cảm xúc hay bất cứ ǵ khởi lên, tự đến và đi, không bám víu vào cái ǵ.
Trạng thái ấy ra thế nào? Dudjom Rinpoche thường nói, hăy tưởng tượng một nông phu suốt ngày làm lụng mệt nhọc ngoài đồng, bây giờ đang ngồi thoải mái trước ḷ sưởi, trong chiếc ghế mà ông yêu thích. Ông đă làm lụng trọn ngày và biết ḿnh đă làm những ǵ cần hoàn tất, không c̣n ǵ phải lo, không c̣n việc ǵ chưa xong, ông có thể buông bỏ hoàn toàn mọi lo âu bận bịu, và bây giờ hài ḷng, ông chỉ là, không c̣n ǵ phải làm nữa.
Vậy, khi thiền định, điều cần thiết là bạn phải tạo ra bối cảnh nội tâm cho thích hợp. Mọi nỗ lực và phấn đấu xảy ra đều do bởi cái tâm không khoáng đạt như hư không, bởi thế tạo ra bối cảnh thích hợp ấy là điều cốt yếu để cho thiền định thực sự xảy đến. Khi điều kiện ấy có mặt, th́ thiền định phát sinh không cần nỗ lực.
Đôi khi, lúc thiền định, tôi không dùng một phương pháp đặc biệt nào cả. Tôi chỉ để cho tâm an nghỉ, và thấy rằng tôi có thể đưa tâm về nhà và thư giăn một cách mau lẹ, nhất là mỗi khi được cảm hứng. Tôi ngồi yên lặng và an trú trong tự tính của tâm; tôi không cần tự hỏi ḿnh có ở trong trạng thái "đúng" hay không. Không có nỗ lực, chỉ có sự hiểu biết dồi dào, sự tỉnh thức, và một niềm xác tín không lay chuyển. Khi tôi ở trong trạng thái tâm bản nhiên ấy, th́ cái tâm thường ngày không c̣n ở đấy. Không cần xác định một cảm thức hiện hữu nào: tôi chỉ đang là, một cách đơn giản. Một niềm tin tưởng căn để đang có mặt. Không có việc ǵ đặc biệt phải làm.
PHƯƠNG PHÁP TRONG THIỀN
Nếu tâm bạn tự nó có thể an trú một cách tự nhiên và nếu bạn thấy ḿnh có thể trú trong sự tỉnh thức thuần tịnh của tâm bạn, th́ khi ấy bạn không cần phương pháp nào để thiền định nữa. Quả thế, đôi khi c̣n không nên cố sử dụng một phương pháp, khi tâm bạn đă ở trong một trạng thái như vậy. Tuy nhiên, phần đông chúng ta thấy khó mà đạt tới trạng thái đó ngay được. Chúng ta không biết làm sao để đánh thức tâm, tâm ta quá hoang vu và xao lăng đến độ ta cần một phương tiện thiện xảo, một phương pháp tốt, để hô triệu nó lên.
Tôi muốn nói "thiện xảo" nghĩa là hợp nhất cái biết của bạn về tự tánh tâm, cái biết những tâm trạng đang thay đổi nơi bạn và cái biết đối trị mà bạn đă phát triển qua sự thực tập – những vọng tưởng trong từng giai đoạn. Nhờ ḥa hợp chúng lại, mà bạn học được nghệ thuật áp dụng phương pháp thích hợp cho bất cứ một t́nh huống hay vấn đề đặc biệt nào, để chuyến hóa bối cảnh của tâm bạn.
Nhưng nên nhớ rằng phương pháp chỉ là phương tiện, không phải chính là thiền định. Nhờ thực hành phương pháp một cách thiện xảo mà bạn có thể đạt đến trạng thái thuần tịnh của sự tỉnh giác toàn vẹn, mà chính là thiền đích thực.
Tạng ngữ có câu: "Gompa ma yin, kompa yin" nghĩa là, không có thiền định mà chỉ có sự quen thực hành thiền định. Thiền định không phải là nỗ lực, mà tự nhiên thấm nhuần. Khi bạn tiếp tục áp dụng phương pháp, th́ dần dần thiền định phát sinh. Thiền định không phải là một cái ǵ bạn có thể làm, nó xảy đến một cách tự nhiên, chỉ khi bạn đă thuần thục trong sự thực tập.
Tuy nhiên muốn thiền định xảy đến, th́ cần tạo những điều kiện yên tĩnh và tốt lành. Muốn làm chủ được tâm, ta cần phải làm cho hoàn cảnh xung quanh được an tịnh. Lúc này tâm ta giống như ngọn đèn cầy luôn luôn lay động bởi những ngọn gió mạnh của ư tưởng và cảm xúc. Ngọn đèn chỉ đứng yên khi ta làm cho không khí xung quanh nó lắng xuống. Ta chỉ có thể thoáng thấy tự tính tâm và an trú trong đó, khi những ư tưởng và cảm xúc quay cuồng của ta đă lắng xuống. Ngược lại, khi ta đă an trú trong thiền định th́ những tiếng ồn và rối loạn đủ loại sẽ rất ít ảnh hưởng.
Ở Tây phương, người ta quen thói chú mục vào cái mà tôi gọi là "kỹ thuật thiền định". Thế giới ngày nay thực say mê máy móc cơ khí, và chỉ thích những công thức thực tiễn. Nhưng điều quan trọng hơn nhiều ở trong thiền không phải là kỹ thuật, mà là tinh thần, cách thế thiện xảo và đầy sáng tạo trong đó ta thực hành thiền định, gọi là thế ngồi.
THẾ NGỒI
Những bậc thầy nói:
- Nếu bạn tạo một điều kiện tốt lành trong thân và cảnh, th́ thiền và ngộ sẽ tự động sinh khởi.
Nói về thế ngồi không phải là dạy một chuyện bí truyền; toàn bộ của việc ngồi đúng cách chỉ là để tạo một bối cảnh gợi cảm hứng cho thiền, cho sự thức dậy của Rigpa. Có sự tương quan giữa thế ngồi của thân với thái độ của tâm, và thiền đ?nh phát sinh một cách tự nhiên khi có thế ngồi và thái độ thích hợp.
Nếu bạn đang ngồi mà tâm không hoàn toàn ḥa điệu với thân – chẳng hạn bạn đang lo lắng bận rộn một việc ǵ – th́ thân bạn sẽ kinh quá nỗi bực dọc vật lư, và những khó khăn dễ dàng xảy ra. Trong khi nếu tâm bạn an tĩnh, nó sẽ ảnh hưởng đến toàn thể thế ngồi của bạn, bạn có thể ngồi tự nhiên không cần cố gắng. Bởi thế thực rất quan trọng để phối hợp thế ngồi của thân với niềm tin phát sinh từ sự trực ngộ bản tâm nơi bạn.
Thế ngồi tôi sắp giải thích có thể khác những thế ngồi mà bạn đă quen. Nó rút từ giáo lư Dzogchen ngày xưa, đó là thế ngồi mà các bậc thầy đă dạy tôi, và tôi thấy nó đầy hiệu lực.
Trong giáo lư Dzogchen nói rằng Cái thấy và Thế ngồi của bạn phải như ngọn núi. Cái thấy là đỉnh cao của toàn thể tri kiến và tuệ giác về bản tâm mà bạn đem vào thiền định. Bởi vậy cái thấy ấy gợi cảm hứng cho thế ngồi của bạn, diễn tả cốt lơi của bản thể bạn trong lối bạn ngồi.
Vậy, hăy ngồi như thể bạn là một ngọn núi, với tất cả uy thế lẫm liệt vững chắc không ai lay chuyển nổi, của một ngọn núi. Ngọn núi hoàn toàn tự nhiên, thoải mái dù có bao nhiêu ngọn gió mạnh tạt qua nó, bao nhiêu đám mây đen dày vần vũ quanh nó. Ngồi như một ngọn núi, bạn để tâm bạn vươn lên và bay lượn.
Điều quan trọng nhất trong thế ngồi này là giữ lưng thẳng như một mủi tên hay một cọc tiền vàng. Nội khí hay prana sẽ tuôn chảy thông suốt qua các huyệt đạo cơ thể, và tâm bạn sẽ t́m được trạng thái an nghỉ thực sự của nó. Đừng gắng gượng cưỡng ép cái ǵ cả. Phần dưới của cột sống có một đường cong tự nhiên; nên thư dăn nó theo chiều thẳng đứng. Đầu bạn nên an nghỉ thoải mái trên cần cổ. Đôi vai và phần trên ngực mang tất cả sức mạnh và vẻ đẹp của thế ngồi, cần giữ yên, vững, nhưng không được có một sự căng thẳng nào.
Hăy ngồi khoanh chân, không cần phải theo thế hoa sen (kiết già) như trong pháp Yoya cao cấp. Đôi chân khoanh lại biểu trưng sự nhất thể giữa sống và chết, thiện và ác, phương tiện và trí tuệ, nguyên lư âm dương, sinh tử niết bàn, trạng thái bất nhị. Bạn cũng có thể ngồi trên ghế để thỏng chân, nhưng điều cần thiết là phải giữ lưng cho thẳng.
Trong truyền thống thiền của tôi, th́ đôi mắt phải mở: Đây là điều tối quan trọng. Nếu bạn nhạy cảm đối với những quấy rầy bên ngoài, th́ mới đầu bạn có thể nhắm mắt lại một lúc, và lặng lẽ xoay cái nh́n vào trong (nội quán). Khi đă định tĩnh, và từ từ mở mắt ra bạn sẽ thấy cái nh́n của bạn đă trở nên an tịnh hơn. Bấy giờ bạn nh́n xuống dọc theo sóng mũi, làm thành một góc bốn mươi lăm độ trước mặt. Thông thường một cái mánh thực tiễn là khi tâm tán loạn, tốt nhất là hạ tầm nh́n xuống, và khi lừ đừ muốn ngủ th́ đưa tầm nh́n lên.
Khi tâm đă định tĩnh, sự sáng suốt của tuệ giác bắt đầu sinh khởi, bạn có thể tự nhiên nh́n lên, mở lớn mắt hơn và nh́n vào khoảng không gian ngay trước mặt. Đấy là cái nh́n mà giáo lư Dzogchen thường dạy.
Giáo lư Dzogchen dạy rằng thiền định và cái nh́n của bạn phải giống như không gian bao la của đại dương: Cùng khắp, khoáng đạt và vô giới hạn. Cũng như Cái thấy và Thế ngồi không rời nhau, thiền định và lối nh́n của bạn cũng tan ḥa thành một.
Khi ấy đừng chú ư vào một cái ǵ đặc biệt, trái lại nhẹ nhàng xoay vào trong tâm bạn, cứ để cái nh́n trải rộng, càng lúc càng bao la, thấm nhuần khắp. Bấy giờ bạn sẽ thấy "cái thấy" của bạn cũng rộng răi hơn, và nhờ thế trong tia mắt của bạn có niềm b́nh an hơn, có niềm bi mẫn, hỉ xả và trầm tĩnh hơn.
Tạng ngữ gọi vị Phật của ḷng Từ bi là Chenrezig. Chen là con mắt, re là khóe mắt, và zig là nh́n; có nghĩa rằng, với đối mắt bi mẫn, ngài nh́n thấy nhu cầu của mọi chúng sinh. Vậy bạn hăy dồn sự bi mẫn – phát sinh từ thiền quán – vào đôi mắt, sao cho cái nh́n của bạn chính là cái nh́n của tâm đại bi, bao la như đại dương, và soi thấy cùng khắp.
Có nhiều lư do để giữ đôi mắt mở. Khi mở mắt, bạn ít buồn ngủ. Và thiền định không phải là một cách trốn đời, hay để tâm thoát li vào một trạng thái xuất thần mê mẩn. Trái lại, đó là cách trực tiếp giúp ta thực sự biết ḿnh trong tương giao với cuộc đời và mọi người.
Bởi thế, trong thiền định, bạn để con mắt mở, không nhắm mắt. Thay v́ đóng cửa để cuộc đời ra ngoài, bạn có thái độ phóng khoáng và ḥa b́nh với mọi sự. Bạn để cho các giác quan - thấy nghe cảm giác – cứ mở ra tự nhiên mà không bám víu vào những cái biết của chúng. Dudjom Rinpoche nói:
- Mặc dù nhiều h́nh sắc được thấy, tự bản chất chúng là không (trống rỗng); tuy thế trong không ta thấy sắc. Mặc dù nhiều âm thanh được nghe, tự bản chất chúng là không; tuy thế trong không ta nghe tiếng, Cũng vậy, nhiều ư nghĩ khởi lên, chúng vốn là trống rỗng, tuy thế trong không, ta thấy có tư tưởng.
Bất cứ ǵ bạn thấy, nghe, cứ để mặc chúng, đừng bám víu. Đ? cái nghe cứ là cái nghe, để cái thấy cứ là cái thấy, không để cho sự bám víu của bạn đi vào trong đó.
Theo sự thực tập quang sắc đặc biệt của Dzogchen, mọi ánh sáng của trí tuệ ta nằm ở tim, liên lạc tới con mắt qua những huyệt đạo thuộc trí tuệ. Con mắt là cửa ngơ của quang tướng, bởi thể bạn để mắt mở để khỏi bế tắc các huyệt đạo trí tuệ.
Khi thiền định, bạn để miệng hơi hé mở, như thể sắp thốt ra một tiếng Aaaah sâu dài thư dăn. Khi hé miệng và thở phần lớn qua ngơ ấy, người ta bảo, những luồng gió nghiệp gây ra tư tưởng tán loạn làm chướng ngại thiền định, nhờ thế mà ít có dịp phát sinh.
Tay bạn nghỉ ngơi thoái mái bao bọc hai đầu gối. Đây gọi là thế ngồi làm cho tâm an lạc.
Có một tia hy vọng lạc quan trong thế ngồi này, do sự ngầm hiểu chúng ta đều có Phật tính. Bởi vậy khi ngồi như thế, ta đang bắt chước một đức Phật, xác nhận và khuyến khích sự xuất hiện của Phật tính trong ta. Quả thế, bạn khởi sự tôn trọng chính ḿnh như một vị Phật tiềm tàng.
Đồng thời, bạn vẫn nhận ra hoàn cảnh tương đối của ḿnh. Nhưng v́ bạn đă được cảm hứng từ niềm tin ở Phật tính thực sự của bạn, ban có thể dễ chấp nhận những khía cạnh tiêu cực nơi ḿnh hơn, đối xử với chúng tử tế hơn, và có thái độ hài hước hơn. Vậy khi thiền định, bạn nên mời chính bạn hăy cảm thấy tự tôn trọng, hăy thấy ḿnh có tư cách, và có sự khiêm cung của một vị Phật. Bạn chỉ cần gợi lên niềm tin lạc quan đó là đủ: Từ niềm vui và sự hiểu biết ấy, tự nhiên thiền định sẽ phát sinh.
BA PHƯƠNG PHÁP THIỀN QUÁN
Đức Phật dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn để thuần hóa và an định những cảm xúc tiêu cực, và trong Phật giáo có vô số phương pháp thiền định. Tôi t́m thấy có ba kỹ thuật thiền đặc biệt hiệu nghiệm trong thế giới ngày nay, mà ai cũng có thể sử dụng để được lợi lạc. Đó là phương pháp "canh chừng" hơi thở, sử dụng một vật làm đối tượng, và nhẩm đọc một câu thần chú.
1. Quán hơi thở.
Phương pháp này rất xưa và có mặt trong tất cả trường phái Phật giáo. Đó là để tâm chú ư vào hơi thở một cách nhẹ nhàng đầy chánh niệm.
Hơi thở là sự sống, sự biểu hiện căn bản nhất của cuộc đời ta. Trong Do thái giáo th́ ruah, hơi thở, là linh hồn của Thượng đế thấm khắp tạo vật; trong Ki tô giáo cũng có dây nối mật thiết giữa đấng Thánh linh – nguồn gốc của mọi sự sống – và hơi thở. Trong giáo lư Phật, th́ hơi thở, Phạn ngữ là prana, được gọi là "cỗ xe của tâm", v́ chính hơi thở làm cho ta tâm ta di chuyển. Bởi thế khi ta làm an tịnh tâm bằng cách làm việc khéo léo với hơi thở, th́ cũng như ta đang luyện tâm và hàng phục tâm. Có phải ai trong chúng ta cũng đă từng thấy khỏe khoắn biết bao khi đang gặp căng thẳng mà ngồi lại vài phút để thở những hơi thở vào ra thật chậm và sâu không? Ngày cả một tập luyện đơn giản như thế cũng có thể giúp ta rất nhiều.
Vậy khi thiền định, bạn hăy thở tự nhiên, như thường ngày bạn thở. Tập trung sự chú ư của bạn vào hơi thở ra. Khi thở ra, bạn hăy buông ra theo hơi thở tất cả sự bám víu của bạn. Tưởng tượng hơi thở bạn tan vào trong khoảng không bao la của chân lư. Mỗi lần thở ra, trước khi hít vào lại, bạn sẽ thấy có một khoảng hở tự nhiên, khi sự chấp thủ đă tan biến.
Hăy an trú trong khoảng hở ấy, không gian rộng mở ấy. Và khi tự nhiên bạn thở vào, th́ đừng chú ư hơi thở vào, mà cứ tiếp tục an trú tâm nơi khoảng hở đă mở ra ấy.
Khi thực tập, điều quan trọng là bạn đừng vướng vào sự luận giải, phân tích trong tâm, hay thói lải nhải nội tâm. Đừng lầm sự lặp đi lặp lại trong tâm rằng "Bây giờ tôi đang thở vào, bây giờ tôi đang thở ra" cho đó là chánh niệm; cái quan trọng là sự tỉnh giác thuần túy không xao lăng.
Đừng quá tập trung vào hơi thở; chỉ để cho nó chừng hai mươi lăm phần trăm, c̣n bảy mươi lăm phần trăm th́ bạn hăy buông xả một cách lặng lẽ bao la. Càng chánh niệm hơi thở, bạn càng tỉnh thức về chính ḿnh, gom lại những mảnh vụn phân tán của bạn thành một nhất thể, tính nhị nguyên và ngăn cách tan biến.
Chính tiến tŕnh chánh niệm ấy lọc sạch tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi ấy, bạn cảm như đă rũ bỏ một cái lốt da ngoài, có cái ǵ được lột sạch, được phóng thích.
Tuy nhiên có nhiều người không được thoải mái với pháp quán hơi thở, họ c̣n thấy gần như bị ngộp. Đối với họ, kỹ thuật sau đây có thể tốt hơn.
2. Dùng một vật làm đối tượng.
Phương pháp thứ hai, mà nhiều người thấy tốt, là an tâm vào một đối tượng. Bạn có thể dùng một vật đẹp tự nhiên gợi cảm đối với bạn, như một đóa hoa hay b́nh pha lê. Nhưng một cái ǵ biểu tượng cho chân lư, như tượng Phật, Chúa, hay nhất là bậc thầy của bạn. Thầy là gạch nối giữa bạn với chân lư, và nhờ bạn có quan hệ mật thiết với thầy, nên nh́n gương mặt thầy bạn có thể được cảm hứng và nhớ đến Phật tính của bạn.
Nhiều người đă có được liên hệ đặc biệt với bức tranh của tượng đức Padmasambhava gọi là "Trông giống tôi," bức tượng được tạc lúc sinh thời của ngài và được ngài ban phép vào thế kỷ thứ tám ở Tây Tạng. Padmasambhava, bằng năng lực tâm linh khổng lồ của ngài đă đưa giáo lư Phật vào Tây Tạng.
Ngài được xem là vị Phật thứ hai, và được dân Tây Tạng gọi một cách âu yếm là "Thầy Rinpoche" hay "Bậc thầy quư báu." Dilgo Khientse Rinpoche nói:
- Trên đất Ấn và Tây Tạng, đă từng có nhiều bậc thầy tuyệt luân, nhưng người có công bi mẫn lớn lao nhất, người nhiều ân đức với hữu t́nh trong thời đại khó khăn này, chính là Padmasambhava, người tượng trưng từ bi và trí tuệ của tất cả chư Phật. Một trong những đức của ngài là, ngài ban phúc ngay lập tức cho ai cầu khẩn ngài, và bất cứ ǵ ta cầu xin, ngài đều có năng lực làm ta toại nguyện tức khắc.
Khi được cảm hứng từ điều này, th́ bạn hăy gắn một tấm h́nh của bức tượng ngài ngang tầm mắt bạn, rồi hướng sự chú ư của bạn đến gương mặt ngài, nhất là tia nh́n nơi đôi mắt. Có niềm an tịnh sâu xa trong cái nh́n ấy, như đang phóng ra từ bức tranh để đưa bạn đi vào một trạng thái tỉnh giác không bám víu, trạng thái thiền định. Rồi bạn để yên cho tâm bạn an nghỉ cùng với Padmasambhava.
3. Nhẩm đọc một thần chú.
Một kỹ thuật thứ ba được sử dụng rất nhiều trong Phật giáo Tây Tạng (và cả trong đạo Sufism, Ki tô giáo chính thống, và Ấn giáo), là hợp nhất tâm bạn với âm thanh của một bài chú. Định nghĩa của mantra là "cái che chở tâm." Cái che chở tâm khỏi tính tiêu cực, hay che chở bạn khỏi tâm bạn, gọi là mantra.
Khi bạn đang nóng nảy, mất hướng đi, hoặc cảm thấy yếu đuối t́nh cảm, th́ tụng đọc thần chú có thể thay đổi hoàn toàn tâm thái của bạn bằng cách thay đổi năng lực và bầu khí hậu của nó. Việc này xảy ra được bằng cách nào? Thần chú là tinh túy của âm thanh, và là hiện thân của chân lư qua h́nh thức âm thanh. Mỗi âm đều thấm nhuần năng lực tâm linh, cô đọng một sự thật về tâm linh, và rung động với ân đức của Lời chư Phật. Người ta bảo rằng tâm cỡi trên Prana hay Khí lực, khí này di chuyển khắp cơ thể và thanh lọc những huyệt đạo vi tế. Bởi thế khi đọc chú, là bạn đang chở đầy năng lực của thần chú trong hơi thở và khí lực của ḿnh, tác động trực tiếp trên tâm và thân vi tế.
Câu chú tôi khuyên các học tṛ tôi đọc là:
- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
(Người Tây Tạng nói:
Om Ah Hung Benzaa Guru Péma Siddhi Hung)
Là thần chú của Padmasambhava, của tất cả chư Phật, các bậc thầy và những bậc đă chứng ngộ, bởi thế rất có mănh lực đem lại b́nh an, chữa bệnh, chuyển hóa và che chở người ta trong thời đại hỗn độn bạo hành này. Hăy lặng lẽ đọc câu chú với sự chú tâm sâu xa, và để hơi thở, câu chú và sự tỉnh thức của bạn dần trở thành một. Hoặc tụng nó lên một cách hứng khởi, rồi an trú trong sự im lặng bao la đôi khi tiếp theo sau đó.
Mặc dù suốt đời quen thuộc với sự thực hành này, tôi vẫn c̣n đôi lúc kinh ngạc bởi năng lực của thần chú. Vài năm trước, khi tôi đang hướng dẫn một thiền hội gồm ba trăm người ở Lyon, Pháp, phần đông là những bà nội trợ và những nhà chữa tâm bệnh. Tôi đă giảng dạy suốt ngày, nhưng họ dường như muốn tận dụng khoản thời gian ở gần tôi, nên cứ tiếp tục hỏi hết câu này tới câu khác không ngừng. Cuối ngày th́ tôi hoàn toàn kiệt sức, một bầu không khí nặng nề tẻ nhạt lan khắp pḥng. Bởi thế tôi tụng lên bài chú nói trên. Tôi kinh ngạc trước hiệu quả: Trong vài phút tôi cảm thấy năng lực được phục hồi, bầu khí quanh chúng tôi thay đổi, và toàn thể thính giả trở lại tươi sáng say mê. Tôi vẫn thường có kinh nghiệm ấy nhiều lần, nên tôi biết không phải chỉ là một "phép lạ" t́nh cờ.
TÂM TRONG THIỀN ĐỊNH
Vậy, ta nên làm ǵ với tâm ta trong thiền định? Không ǵ cả. Cứ để mặc nó như nó là. Một bậc thầy mô tả thiền định là "Tâm lơ lửng trong không, không ở đâu."
Có một câu nói nổi tiếng:
- Nếu tâm không bị gượng ép, th́ nó tự nhjiên đầy hỉ lạc, cũng như nước, khi không bị quấy động th́ tự nhiên trong suốt.
Tôi thường so sánh tâm thiền với một chun nước bùn: Ta càng để yên đừng khuấy động nước lên, th́ những phân tử bụi càng ch́m xuống đáy, làm cho tính trong sáng tự nhiên của nước chiếu suốt đáy. Tính tự nhiên của tâm là nếu bạn để nó trong trạng thái đừng thay đổi, th́ nó sẽ t́m thấy tính tự nhiên chân thực của nó, hỉ lạc và trong sáng.
Bởi vậy cẩn thận đừng áp đặt lên tâm bạn một cái ǵ. Khi thiền định, không được có nỗ lực để kiểm soát, không cố để được an. Đừng quá quan trọng cảm thấy ḿnh đang làm một lễ lạc ǵ đặc biệt; hăy buông xả ngay cả cái ư niệm rằng bạn đang thiền. Hăy để thân bạn tự nhiên, hơi thở tự nhiên. Tưởng về bạn như bầu trời, bao trùm tất cả vũ trụ.
QUÂN B̀NH TẾ NHỊ
Trong thiền định cũng như trong mọi nghệ thuật, cần có một quân b́nh tế nhị giữa thư dăn và bén nhạy.
Một lần, một tu sĩ tên Shrona học thiền với một trong những đệ tử gần nhất của Phật. Ông đang gặp khó khăn trong việc để tâm như thế nào. Ông có hết sức để tập trung, làm cho ông bị nhức đầu. Rồi khi buông tâm ra, th́ buông quá độ nên ông buồn ngủ. Cuối cùng ông phải tới cầu xin Bụt giúp đỡ. Biết ông ta đă từng là nhạc công nổi tiếng lúc c̣n tại gia, Bụt hỏi:
- Có phải ông đă từng chơi đàn lúc c̣n là cư sĩ không?
Shrona thưa vâng. Bụt hỏi:
- Ông làm sao để găy ra tiếng hay nhất? Đó là lúc dây đàn thật căng, hay lúc dây thật chùng?
- Bạch Thế tôn, không quá căng cũng không quá chùng mới được.
- Vậy, với tâm ông cũng như thế đó.
Ma Chik Lap Dron, một trong những bậc nữ đạo sư của Tây Tạng, nói:
- Tỉnh, tỉnh, mà buông, buông. Đây là điểm cốt yếu trong thiền để có Tri kiến.
Hăy khơi dậy sự tỉnh giác, nhưng đồng thời buông xả, xả cho đến độ bạn không bám vào một ư niệm về buông xả.
Ư TƯỞNG VÀ CẢM XÚC: SÓNG VÀ ĐẠI DƯƠNG
Khi bắt đầu thiền, người ta thường nói những ư tưởng của họ nổi loạn, và trở nên ồn ào hơn bao giờ hết. Nhưng tôi trấn an họ rằng, đó là dấu hiệu tốt. Nó chứng tỏ bạn đă trở nên an tịnh hơn, nên mới ư thức được sự ồn ào của những ư tưởng trong tâm bạn. Bạn không nên nản chí bỏ cuộc. Dù khởi lên ư niệm ǵ, hăy để tâm bạn tỉnh thức, kéo tâm về hơi thở, ngay dù nó đang tán loạn.
Trong những chỉ dẫn về thiền ngày xưa, thường nói rằng lúc đầu những ư tưởng kéo đến té nhào lên nhau không gián đoạn, như thác đổ trên núi xuống. Dần dần, khi bạn hoàn hảo về thiền, th́ ư tưởng như nước trong vực sâu, rồi như ḍng sông lớn chảy ra biển, chỉ thỉnh thoảng có sống gợn lăn tăn.
Đôi khi người ta nghĩ rằng khi thiền định, họ không được có ư tưởng cảm xúc nào cả, nên khi chúng khởi lên, họ đâm ra bực bội cáu tiết với chính họ, v́ tưởng ḿnh thất bại. Thật không ǵ sai sự thật hơn. Tây Tạng có câu: "Đấy cũng như đ̣i thịt đừng có xương, đ̣i trà đừng có lá." Bao lâu bạn c̣n tâm là c̣n có ư tưởng và cảm xúc.
Cũng như đại dương có sóng, mặt trời có tia, những tia sáng của tâm bạn chính là những ư tưởng và cảm xúc. Biển có sóng, nhưng nó không phiền hà ǵ về những ngọn sóng. Sóng chính là bản tính của biển. Sóng sẽ nổi lên, nhưng sẽ đi về đâu? Trở về đại dương. Và những con sóng ấy từ đâu đến? Từ đại dương. Cũng thế, ư tưởng và cảm xúc là những tia sáng và biểu hiện của chính tự tính của tâm. Chúng nổi lên từ tâm, nhưng chúng tan biến đi đâu? Cũng tan trở về tâm. Dù ư tưởng ǵ khởi lên, cũng đừng xem nó như một vấn đề trọng đại. Nếu bạn không phản kháng một cách ồn ào, nếu bạn cứ kiên nhẫn, th́ nó sẽ lại trở về trong tự tính của nó.
Khi bạn hiểu được như vậy, th́ những ư tưởng khởi lên chỉ làm tăng tiến việc thực tập thiền định của bạn. Mà nếu không hiểu như vậy, th́ chúng lại trở thành hạt giống của mê mờ. Vậy hăy có một thái độ cởi mở từ bi đối với chúng, v́ những ư tưởng ấy đều là gia đ́nh của tâm bạn. Bạn hăy xử với chúng "như một ông già minh triết nh́n đứa trẻ đang chơi," như Dudjom Rinpoche đă nói.
Chúng ta thường không biết làm sao với tính tiêu cực hay vài cảm xúc rầy rà. Trong tính khoáng đạt của thiền định, bạn có thể nh́n những ư tưởng và cảm xúc bạn với một thái độ hoàn toàn cởi mở không thành kiến. Khi thái độ của bạn thay đổi, th́ toàn thể không khí của tâm bạn cũng thay đổi, cả đến bản chất của những tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi bạn trở nên dễ chịu hơn, th́ chúng cũng dễ chịu hơn; nếu bạn không khó khăn với chúng, th́ chúng cũng không khó khăn với bạn.
Bởi thế, dù tư tưởng cảm xúc nào khởi lên, hăy để cho chúng lên xuống như sóng biển. Bất cứ ǵ bạn thấy ḿnh đang nghĩ tới, hăy để cho ư nghĩ ấy tự sinh tự diệt không một gượng ép nào. Đừng nắm bắt nó, nuôi dưỡng nó, chạy theo nó; đứng bám lấy nó và củng cố nó. Không theo dơi những vọng tưởng, cũng không mời gọi chúng, bạn hăy giống như biển nh́n những làn sóng của nó, hay như bầu trời nh́n những đám mây bay qua nó.
Bạn sẽ thấy rằng những ư tưởng như cơn gió, chúng đến và đi. Bí quyết là đừng "nghĩ" về chúng, mà để cho chúng tuôn chảy qua tâm, đồng thời giữ cho tâm bạn thoát khỏi những "hậu" ư tưởng.
Trong tâm thường ngày, ta nhận thấy ḍng tư tưởng như là liên tục; song kỳ thực không phải vậy. Bạn sẽ khám phá cho chính bạn rằng có một khoảng hở giữa hai ư tưởng. Khi niệm quá khứ đă qua, th́ niệm tương lai chưa đến. Bạn sẽ luôn luôn t́m thấy một khe hở trong đó Rigpa, tự tính của tâm, làm hiển lộ. Vậy, công việc của thiền định là làm chậm lại ḍng tư tưởng, để cho khoảng hở ấy trở thành rơ rệt hơn.
Thầy tôi có một người học tṛ tên Apa Pant, một nhà ngoại đạo Ấn, một tác giả, người đă làm đại sứ Ấn ở nhiều thủ đô khắp thế giới. Ông ta đă từng làm đại diện cho chính phủ Ấn tại Tây Tạng ở Lhasa, và có một thời gian ông làm đại diện ở Sikkim. Ông cũng là một thiền giả và người thực hành yoga, và mỗi lần gặp thầy tôi, ông đều hỏi làm sao để thiền. Ông đang theo một truyền thống Đông phương, trong đó người học cứ hỏi đi hỏi lại vị thầy một câu hỏi căn bản thật nhiều lần.
Apa Pant kể cho tôi nghe chuyện này. Một hôm thầy tôi Jamyang Khientse đang ngắm một màn vũ của các Lama trước Chùa Cung điện ở Gangtok, thủ đô Sikkim, đang khúc khích xem một người hề làm tṛ giữa hai màn vũ. Apa Pant cứ hỏi đi hỏi lại măi cái câu làm thế nào để thiền định, bởi thế thầy tôi cho ông biết thầy trả lời ông ta một lần chót:
- Xem, nó giống như thế này: Khi ư tưởng quá khứ đă qua, mà ư tưởng vị lai chưa đến, có phải có một khoảng hở không?
Apa Pant đáp:
- Vâng.
Thầy tôi nói:
- Đấy, hăy kéo dài nó ra: Đó là thiền định.
KINH NGHIỆM
Khi bạn tiếp tục thực hành, bạn có thể có đủ thứ kinh nghiệm tốt cũng như xấu. Như một cái pḥng có nhiều cửa sổ cửa lớn để cho không khí ùa vào từ mọi phía, cũng thế khi tâm bạn mở ra, th́ tự nhiên mọi kinh nghiệm có thể vào trong tâm. Bạn có thể kinh quá những trạng thái hỉ lạc, sáng suốt, hay dứt mọi tư tưởng. Có thể nói đấy là những kinh nghiệm tốt, những dấu hiệu của sự tiến bộ trong thiền. V́ khi bạn có hỉ lạc, ấy là dấu hiệu dục vọng tạm thời lắng xuống. Khi bạn cảm thấy sáng suốt, là dấu hiệu sân giận tạm ngừng. Khi bạn kinh quá sự vắng bóng tư tưởng, là dấu hiệu vô minh tạm diệt. Tự bản chất, chúng là kinh nghiệm tốt, nhưng nếu bạn bám víu chúng th́ chúng trở thành những chướng ngại. Kinh nghiệm tự chúng không phải là chứng ngộ, nhưng nếu ta thoát khỏi chấp thủ vào chúng, th́ chúng là những nguyên liệu để chứng ngộ.
Những kinh nghiệm tiêu cực thường bị lầm nhất, v́ người ta dễ xem chúng như dấu hiệu xấu. Nhưng kỳ thực chúng là những ân sủng trá h́nh. Hăy cố đừng phản ứng lại với sự chán ghét như bạn thường làm, mà thay v́ thế, hăy nhận chân chúng chỉ là những kinh nghiệm, như huyễn như mộng. Sự nhận ra thực tính của kinh nghiệm sẽ giải thoát bạn khỏi tai hai nguy hiểm của nó, và do vậy ngay cả một kinh nghiệm xấu có thể trở thành một nguồn ân sủng và thành tựu lớn lao. Có rất nhiều câu chuyện về những bậc thầy đă làm việc như vậy với những kinh nghiệm xấu và đă chuyển hóa chúng thành chất xúc tác cho sự chứng ngộ.
Theo truyền thống, người ta bảo rằng đối với một hành giả thực thụ, th́ không phải nhưng kinh nghiệm xấu, mà chính những kinh nghiệm tốt mới gây ra chướng ngại. Khi mọi sự tiến hành tốt đẹp, bạn phải đặc biệt cẩn thận để khỏi đâm ra tự măn hay quá tin. Nhớ lại Dudjom Rinpoche đă bảo tôi khi tôi gặp một kinh nghiệm rất mănh liệt:
- Đừng quá náo nức. Cuối cùng, nó không tốt cũng không xấu.
Thầy biết tôi đang bám víu kinh nghiệm: Chính sự bám víu ấy phải được cắt đứt, như bất cứ sự bám víu nào khác. Điều chúng ta cần học trong thiền định cũng như trong cuộc đời, là giải thoát chấp thủ đối với những kinh nghiệm tốt, và giải thoát sự chán ghét đối với những kinh nghiệm xấu.
Dudjom Rinpoche cảnh cáo chúng ta một cái bẫy khác:
- Ngược lại, trong khi hành thiền, bạn có thể kinh quá một cảm giác bồng bềnh nửa tỉnh nửa mê, như là có cái mồng trên đầu bạn, một trạng thái chán chường mơ mộng. Đây chỉ là một t́nh trạng ứ đọng vô tâm. Làm sao bạn ra khỏi t́nh trạng ấy? Hăy thức tỉnh bạn, thẳng người lại, thở mạnh cho thán khí ra khỏi buồng phổi, và hướng sự tỉnh giác của bạn vào khoảng không gian trong sáng để làm tâm bạn tươi tỉnh lại. Nếu ở lại trong trạng thái tù đọng ấy, bạn sẽ không tiến bộ; bởi thế mỗi khi sự thụt lùi này xảy ra, th́ bạn hăy xua tan nó nhiều lần. Điều quan trọng là bạn hăy thật tỉnh táo canh chừng.
Bất cứ phương pháp nào bạn sử dụng, hăy bỏ nó, hay để nó tự tan ră, khi bạn thấy ḿnh đă đạt tới một trạng thái bén nhạy, rộng răi, và b́nh an. Rồi tiếp tục an trú trong đó lặng lẽ không xao lăng, không cần dùng một phương pháp đặc biệt nào. Phương pháp đă làm tṛn mục đích của nó. Tuy nhiên, nếu bạn trở nên phân tán, th́ hăy trở lại sử dụng bất cứ kỹ thuật nào thích hợp để gọi tâm bạn trở lại.
Vinh quang thực sự của thiền định không nằm ở phương pháp, mà ở cái kinh nghiệm liên tục về sự tỉnh giác, sự hỉ lạc, sáng suốt, b́nh an, và quan trọng hơn cả là hoàn toàn vắng bóng chấp thủ. Sự giảm bớt chấp thủ trong chính bạn là dấu hiệu chứng tỏ bạn đang dần thoát khỏi chính ḿnh.
Và bạn càng kinh quá sự giải thoát này, th́ càng chứng tỏ cái ngă và những hy vọng sợ hăi đă nuôi dưỡng nó, đang tan ră, và bạn càng tiến gần hơn đến trí tuệ vô ngă. Khi bạn ở trong cái nhà trí tuệ ấy, bạn sẽ không c̣n thấy một rào ngăn nào giữa tôi và anh, tự và tha, trong và ngoài; cuối cùng bạn đă trở về ngôi nhà chân thực, nghĩa là trạng thái bất nhị.
NGHỈ NGƠI
Phần nhiều người ta hỏi:
- Tôi nên ngồi thiền bao nhiêu lâu? Lúc nào? Tôi có nên thực tập hai mươi phút sáng chiều, hay nên làm thành nhiều thời ngắn hơn trong ngày?
Vâng, nên ngồi trong hai mươi phút, mặc dù không muốn nói mức giới hạn là hai mươi phút. Trong kinh điển tôi chưa từng thấy ở đâu nói hai mươi phút; có lẽ đấy là một quan niệm mới bày đặt ra ở phương Tây, mà tôi gọi là "Thời hạn Thiền theo tiêu chuẩn Tây phương." Vấn đề không phải là bạn phải ngồi bao lâu, mà vấn đề là sự hành thiền có thực sự đem lại cho bạn một trạng thái tỉnh thức và hiện trú hay không, một trạng thái trong đó bạn hơi cởi mở và có thể liên lạc với bản tâm của bạn. Và năm phút ngồi thiền tỉnh táo có giá trị hơn nhiều so với hai mươi phút ngủ gà ngủ gật!
Dudjom Rinpoche thường nói một người mới tập nên tập từng thời ngắn. Hăy thực tập chừng bốn năm phút, rồi nghỉ ngơi chỉ chừng một phút. Trong khi nghỉ th́ buông phương pháp ra, nhưng đừng buông hoàn toàn cái tâm tỉnh giác của bạn. Đôi khi, lúc bạn đang phấn đấu nỗ lực để thiền, th́ kỳ lạ thay, vào đúng cái lúc bạn nghỉ ngơi không dùng phương pháp – mà nếu bạn vẫn duy tŕ tỉnh giác và hiện trú, – thiền định mới thực sự xảy ra. Đấy là lư do sự nghỉ ngơi cũng là một phần của thiền định, quan trọng như chính lúc ngồi. Tôi thường bảo những học tṛ nào gặp khó khăn trong khi thực tập, hăy tu tập trong lúc nghỉ ngơi và nghỉ ngơi trong lúc tu tập.
Hăy ngồi một thời ngắn, rồi nghỉ chứng ba mươi giây hay một phút. Nhưng trong lúc ấy hăy tỉnh giác đối với mọi sự bạn làm, mà đừng đánh mất sự hiện trú của bạn, sự thoải mái tự nhiên của nó. Rồi làm cho bạn tỉnh táo ra, và ngồi tiếp. Nếu bạn tập nhiều thời ngắn như thế, những thời nghỉ ngơi của bạn thường làm cho thiền của bạn thực hơn, gợi cảm hứng nhiều hơn, tẩy trừ sự cứng đơ, tính trịnh trọng và mất tự nhiên của sự tu tập, và đem lại cho bạn nhiều chú tâm và thoải mái hơn. Dần dần, qua sự xen kẽ giữa thực tập và nghỉ ngơi như thế, cái hàng rào ngăn giữa đời sống thường ngày và thiền định sẽ sụp đổ, sự tương phản tiêu tan, và bạn sẽ thấy ḿnh càng ngày càng ở trong trạng thái tỉnh giác hiện trú một cách tự nhiên không phân tán. Khi ấy, như Dudjom Rinpoche thường nói:
- Dù cho người thiền định từ bỏ thiền, mà thiền không bao giờ rời khỏi người.
H̉A NHẬP THIỀN VỚI HÀNH ĐỘNG
Tôi đă thấy rằng phần lớn những hành giả tâm linh ngày nay thiếu tri thức để hội nhập đời sống hàng ngày của họ với thiền định. Tôi không biết làm sao để nhấn mạnh điều này: Hội nhập thiền vào hành động chính là tất cả nền tảng, lư do và mục tiêu của thiền định. Sự bạo động, căng thẳng, những thử thách và xao lăng của đời sống tân tiến làm cho sự hội nhập này càng thêm khẩn thiết hơn nữa.
Có người phàn nàn với tôi:
- Tôi đă thiền mười hai năm, những vẫn chứng nào tật ấy. Tôi không thay đổi, tại sao?
Tại v́ có một hố sâu giữa hành thiền của họ với đời sống hàng ngày. Họ dường như hiện hữu trên hai thế giới tách biệt, thế giới này không giúp ǵ cho kia. Tôi lại nhớ một thầy giáo hồi tôi c̣n đi học ở Tây Tạng. Ông ta giảng quy luật văn phạm rất xuất sắc, nhưng không bao giờ viết đúng được một câu nào.
Thế th́ làm sao chúng ta có được sự hội nhập giữa đời sống hàng ngày với tư thái b́nh tĩnh, buông xả rộng răi của thiền định? Không ǵ bằng thực tập thường xuyên, chỉ nhờ thực tập thường xuyên ta mới bắt đầu nếm được một cách không gián đoạn sự an tĩnh của tự tính ta, và có thể duy tŕ kinh nghiệm ấy trong đời sống hàng ngày.
Tôi luôn luôn bảo học tṛ tôi đừng xuất thiền quá nhanh: Hăy để vài phút cho niềm an lạc của sự hành thiền len lỏi vào đời bạn.
Thầy Dudjom Rinpoche tôi nói:
- Đừng nhảy lên bỏ chạy, mà ḥa tâm tỉnh giác của bạn với đời sống hàng ngày. Hăy giống như người bị nứt sọ, luôn luôn cẩn thận canh chừng để người khác khỏi đụng vào ḿnh.
Rồi sau thời thiền định, điều quan trọng là đừng đầu hàng cái khuynh hướng củng cố lối nhận thức của ta đối với sự vật. Khi bạn vào lại đời sống hàng ngày, hăy để cho tuệ giác, tri kiến, ḷng bi mẫn, tính khí, sự khoáng đạt và giải thoát mà thiền đă đem lại cho bạn, thể nhập trong kinh nghiệm hàng ngày. Thiền khơi dậy trong bạn cái nhận thức vạn pháp đều huyễn hóa, như mộng; bạn hăy duy tŕ nhận thức ấy ngay trong ḷng sinh tử. Một bậc thầy vĩ đại đă nói:
- Sau khi thực tập thiền định, người ta phải trở thành một đứa con của huyễn hóa.
Dudjom Rinpoche khuyên:
- Mặc dù mọi sự đều như mộng, huyễn hóa, bạn vẫn tiếp tục làm việc với thái độ hài hước. Chẳng hạn, nếu bạn đang đi dạo, hăy bước về khoảng trống khoáng đạt của chân lư. Khi ngồi, bạn hăy là thành tŕ của chân lư. Khi ăn, bạn hăy cho những thói tiêu cực và ảo tưởng của bạn vào trong cái bụng của chân-không. Và khi đi cầu, hăy xem những chướng ngại đang được tẩy sạch.
Vậy, điều quan trọng không phải chỉ là ngồi, mà chính là trạng thái tâm của bạn sau thời thiền. Chính cái tâm trạng an tĩnh tập trung ấy, bạn hăy đưa nó vào trong mọi sự bạn làm. Tôi rất thích câu chuyện thiền trong đó môn đệ hỏi bậc thầy:
- Bạch thầy, làm sao ta đưa giác ngộ vào trong hành động? Làm sao ta thực hành thiền trong đời sống?
Vị thầy đáp:
- Bằng cách ăn, ngủ.
- Nhưng bạch thầy, ăn ngủ th́ ai cũng ăn ngủ.
- Nhưng không phải ai cũng thực ăn lúc họ ăn, thực ngủ lúc họ ngủ.
Từ đấy có thiền ngữ nổi tiếng:
- Khi ăn, ta ăn; khi ngủ, ta ngủ.
Ăn khi bạn ăn và ngủ khi bạn ngủ có nghĩa là hoàn toàn hiện trú trong tất cả hành động của bạn, không có những sự phân tán của bản ngă xen vào. Đấy là hội nhập.
Và nếu bạn thực sự mong muốn hoàn thành việc này, điều cần yếu không phải là chỉ tập thiền thỉnh thoảng như uống thuốc trị bệnh, mà phải như ăn cơm bữa. Bởi vậy, một cách tuyệt hảo để phát triển khả năng hội nhập này, là đầu tiên hăy thực tập thiền trong một khung cảnh nhập thất, xa hẳn những căng thẳng của sinh hoạt đô thị ngày nay.
Người ta rất thường đến với thiền với hy vọng có những kết quả phi thường, như linh kiến, ánh sáng, hay một vài phép lạ siêu nhiên. Khi không có điều ǵ như vậy xảy ra, th́ họ hết sức thất vọng. Nhưng phép lạ thực sự của thiền định lại "thuờng" hơn, và hữu ích hơn nhiều. Đấy là một sự chuyển hóa tế nhị, không chỉ xảy ra trong tâm bạn, cảm xúc bạn, mà thực sự cả trong thân bạn. Nó chữa lành. Những bác sĩ và nhà khoa học đă khám phá rằng khi bạn vui vẻ, th́ những tế bào trong cơ thể bạn c̣n vui vẻ hơn, nhưng khi tâm bạn ở trong trạng thái tiêu cực, th́ những tế bào của bạn có thể trở thành ác tính. Toàn thể t́nh trạng sức khỏe bạn, có quan hệ mật thiết đến trạng thái tâm bạn và lối sống của bạn.
NGUỒN CẢM HỨNG
Tôi đă nói rằng thiền định là con đường đưa đến giác ngộ và là nỗ lực lớn lao nhất của đời này. Mỗi khi nói về thiền định cho sinh viên, tôi luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hành thiền với một kỷ luật quyết định và sự sùng kính nhất tâm; đồng thời, cũng rất quan trọng là thực hành thiền với cảm hứng và tinh thần sáng tạo càng nhiều càng tốt. Có thể nói thiền là một nghệ thuật, và bạn nên tập thiền định với niềm hứng thú và giàu tính phát minh của một nghệ sĩ.
Hăy hăng hái đi vào sự an lạc của bạn như bạn đang cạnh tranh điên cuồng trong cuộc đời. Có nhiều cách đề làm cho thiền định trở thành một niềm vui. Bạn có thể t́m một bản nhạc ưa thích, và dùng nó để mở tâm trí bạn. Bạn có thể sưu tập thi ca, trích dẫn lời thánh nhân động đến tâm can bạn, và giữ chúng bên ḿnh để làm bạn lên tinh thần. Tôi luôn luôn thích những bức tranh cổ thangka của Tây Tạng, vẻ đẹp của chúng làm cho tôi thêm năng lực. Bạn cũng có thể t́m những bức tranh gợi cho bạn cảm giác thiêng liêng, và treo lên tường pḥng bạn. Lắng nghe băng giảng của một vị thầy vĩ đại, hoặc nghe tán tụng. Bạn có thể biến chỗ bạn ngồi thiền thành một thiên đường giản dị, với một đóa hoa, một cây hương, một ngón nến, một bức ảnh của bậc thầy đă giác ngộ, hay một tượng Phật. bạn có thể biến gian pḥng thường nhất thành một nơi thiêng liêng ấm cúng, một khung cảnh mà mỗi ngày bạn đến gặp bản ngă đích thực của bạn với tất cả niềm vui và hạnh phúc như gặp bạn cố tri. Và nếu bạn nhận thấy thiền định không dễ dàng xảy đến trong pḥng bạn ở đô thị, th́ hăy ra ngoài thiên nhiên. Thiên nhiên luôn luôn là một nguồn cảm hứng bất tận. Muốn an tâm, bạn hăy đi dạo vào lúc b́nh minh trong công viên, hay ngắm sương mai trên một đóa hồng trong vườn. Nằm giữa đất mà ngắm nh́n bầu trời, để tâm bạn trải ra trong cái bao la đó. Hăy để cho bầu trời bên ngoài đánh thức bầu trời trong tâm bạn. Đứng bên ḍng suối mà ḥa tâm bạn vào tiếng nước chảy, ngồi bên thác đổ, để cho tiếng cười trong sáng của nó tịnh hóa tâm hồn bạn. Đi dạo trên băi biển và hứng đầy gió biển trên mặt bạn. Mừng ánh trăng sáng để cho vẻ đẹp của trăng làm lắng tâm bạn. Ngồi trên hồ hay trong vườn, thở lặng lẽ, để tâm bạn im lặng khi trăng từ từ lên tráng lệ trong bầu trời không mây. Mọi sự đều có thể dùng làm sự mời gọi thiền định. Một nụ cười, một gương mặt trên tàu hầm, một cánh hoa mọc trong khe đá bên vệ đường, một tấm vải sặc sỡ treo trong cửa tiệm, ánh trời chiếu trên chậu hoa nơi cửa sổ. Hăy nhạy bén đối với mọi dấu hiệu của cái đẹp và vẻ diễm kiều. Dâng lên mọi niềm vui, tỉnh giác vào mọi lúc, trước "những tin tức luôn luôn đến từ im lặng."
Dần dà bạn sẽ là người làm chủ lấy hạnh phúc của ḿnh, tạo ra niềm vui cho chính ḿnh, có đủ mọi phương pháp để thắp sáng, nâng cao, gợi cảm hứng cho từng hơi thở và động tác của ḿnh. Thế nào là một thiền giả vĩ đại? Đó là người luôn luôn sống với sự hiện diện của cái tự ngă chân thực của ḿnh, đă t́m ra và sử dụng liên tục suối nguồn của cảm hứng sâu xa. Nhà văn Anh Lewis Thompson viết:
- Kitô, thi nhân tối thượng, đă sống chân lư một cách say sưa đến độ mỗi hành vi của ngài đều là Hành vi thuần tịnh và ngôi Lời toàn hảo, thể hiện cái siêu việt.
Thể hiện cái siêu việt, đó là lư do chúng ta sống trên đời.
Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 03 January 2005 lúc 3:17pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 12 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
6. TIẾN HÓA, NGHIỆP VÀ TÁI SINH
Vào cái đêm lớn lao ấy, khi đức Phật giác ngộ, tương truyền rằng ngài đă kinh quá nhiều giai đoạn của sự tỉnh thực. Đầu tiên, "với tam định tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không cấu nhiễm, được làm cho mềm mại, dễ sử dụng, an trú bất động," ngài xoay chú ư về sự nhớ lại những đời quá khứ. Ngài kể lại cho ta kinh nghiệm ấy như sau:
- Ta nhớ lại nhiều đời trước: một đời, hai, ba, bốn, năm đời,.. năm mươi, một trăm đời... trăm ngàn đời, trong các thời kiếp khác nhau. Ta biết mọi sự về những thời ấy: chỗ ở, tên họ, gia đ́nh, và ta đă làm ǵ. Ta kinh quá trở lại những may mắn bất hạnh của mỗi đời, cái chết của ta trong mỗi đời, rồi lại tái sinh trở lại nhiều lần. Như thế ta nhớ lại vô số đời trước với những nét đặc biệt chính xác, và những hoàn cảnh. Minh này ta đă chứng vào canh đầu của đêm.
Từ thuở b́nh minh của lịch sử, sự tái sinh và niềm tin có đời sau đă chiếm một chỗ quan trọng trong hầu hết các tôn giáo lớn của nhân loại. Sự tin có tái sinh vẫn hiện hữu trong những người Ki tô vào thuở sơ khai của lịch sử Ki tô giáo, và tồn tại dưới nhiều h́nh thức cho đến thời Trung cổ. Origen, một trong những người có ảnh hưởng nhất trong những nhà thờ, đă tin tưởng "sự có-trước của linh hồn" và đă viết vào thế kỉ thứ ba:
- "Mỗi linh hồn đến thế giới này được tăng cường bởi vinh quang hay bị yếu kém bởi những thất bại trong những đời trước của nó."
Mặc dù Ki tô giáo cuối cùng đă chối bỏ niềm tin tái sinh, ta vẫn có thể t́m dấu vết niềm tin ấy qua tư tưởng thời Phục sinh, trong những trước tác của những thi sĩ lăng mạn chính như Blake và Shelley, và cả đến trong một con người như tiểu thuyết gia Honoré de Balzac. Từ khi có sự nổi lên ưa chuộng các tôn giáo đông phương vào cuối thế kỉ trước, một số khá lớn những người Tây phương đă bắt đầu chấp nhận tri kiến của Ấn giáo và Phật giáo về tái sinh. Một trong những người này là Henry Ford, kỹ nghệ gia nổi tiếng thương người, đă viết:
- Tôi theo lư thuyết tái sinh vào năm tôi hăm sáu tuổi. Tôn giáo không cho biết tí ǵ về vấn đề này. Ngay cả sự nghiệp cũng không đem lại cho tôi niềm thỏa măn. Sự nghiệp thật vô bổ nếu ta không thể đem theo cái kinh nghiệm ta thu nhập để sử dụng trong đời kế tiếp. Nhưng khi tôi khám phá thuyết tái sinh, th́ thời gian không c̣n bị hạn chế nữa. Tôi không c̣n là một tên nô lệ cho cái kim đồng hồ... Tôi muốn san sẻ với người khác sự an tịnh mà cái thấy ấy đă đem lại cho chúng ta.
Một cuộc trưng cầu ư kiến của viện Gallup vào năm 1982 chứng tỏ cứ bốn người Mỹ th́ có một người tin có luân hồi. Đây là một thống kê làm ta giật ḿnh, khi xét đến một nơi mà triết lư khoa học duy vật hầu như tiềm tàng trong mọi phương diện của đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên, phần đông người ta chỉ có khái niệm lờ mờ về đời sống sau khi chết, và hoàn toàn không biết nó ra như thế nào. Luôn luôn người ta bảo tôi rằng họ không thể nào tin nổi một chuyện không có bằng cứ hiển nhiên. Nhưng sự "không tin" của họ đâu phải là bằng chứng để nói không có đời sau chứ? Voltaire nói:
- Chung quy, sinh ra lần nữa cũng không là chuyện lạ lùng ǵ hơn chuyện sinh ra lần này.
Tôi thường hỏi: "Nếu ta đă từng sống trước đây, th́ tại sao ta không nhớ?" Nhưng tại sao "ta không nhớ" lại có nghĩa rằng trước kia ta chưa từng sống? Chung quy, những kinh nghiệm tuổi thơ, hay của hôm qua, hay cả đến những điều ta vừa nghĩ một giờ trước, rất sống động khi chúng xảy ra, nhưng kí ức về chúng hầu như hoàn toàn phai mờ, như thể chưa từng xảy đến. Nếu những ǵ chúng ta làm hay nghĩ vào thứ hai tuần trước mà ta c̣n không nhớ được, th́ làm sao ta nghĩ là có thể dễ dàng hay b́nh thường, để nhớ những ǵ ta làm trong đời trước?
Đôi khi tôi đùa người ta và hỏi:
- Cái ǵ làm bạn cương quyết cho rằng không có đời sau như vậy? Bạn có bằng chứng ǵ? Nếu bạn chết mà thấy quả thực có đời sau th́ bạn tính sao? Có phải là bạn phải tự giới hạn ḿnh, khi bạn tin rằng không có đời sau nào cả? Có phải là có lư hơn nếu bạn cứ đặt một nghi vấn về đời sau, hay ít nhất có thái độ cởi mở về điều ấy, mặc dù không có cái mà bạn gọi là "bằng chứng cụ thể"? Cái ǵ sẽ làm bằng chứng cụ thể là có đời sau?
Tôi lại muốn người ta hăy tự hỏi ḿnh:
- Tại sao bạn thấy tất cả tôn giáo lớn đều tin có đời sau, tại sao hàng trăm triệu người suốt lịch sử, kể cả những triết gia lỗi lạc nhất, thánh hiền và những thiên tài của Á châu, đều sống niềm tin này như một phần cốt yếu của đời họ? Phải chăng họ đều ngu cả?
Ta hăy trở lại vấn đề bằng chứng cụ thể. Không phải chỉ v́ ta chưa bao giờ nghe về Tây Tạng, hay chưa từng đến đấy, mà ta nói rằng không có xứ Tây Tạng. Trước khi lục địa khổng lồ Mỹ châu được "t́m ra," có ai ở châu Âu ngờ rằng nó có đấy? Ngay cả sau khi t́m ra châu Mỹ, người ta c̣n tranh căi về sự có mặt của nó. Tôi nghĩ chính cái tri kiến hạn hẹp của ta về cuộc đời đă ngăn cản ta chấp nhận hay khởi sự tư duy nghiêm chỉnh về khả tính của tái sinh.
May thay, chuyện chưa hết. Những người nào trong chúng ta có tu tập tâm linh, như tu thiền chẳng hạn, sẽ khám phá nhiều chuyện về tâm thức chúng ta, mà từ trước ta chưa biết đến. V́ khi tâm ta càng mở ra cho kinh nghiệm kỳ lạ, bao la về hiện hữu của tự tính tâm, th́ ta bắt đầu thấy một chiều không gian khác hẳn, trong đó mọi quyết đoán của chúng ta về lai lịch ḿnh và về thực tại, mà ta tưởng ḿnh biết thật rơ, bây giờ khởi sự tan ră, và trong đó ta thấy đời sau ít nhất cũng là một chuyện có thể xảy đến. Ta khởi sự hiểu rằng mọi sự mà các bậc thầy nói về sống chết và đời sau, quả là thực có.
VÀI "BẰNG CHỨNG" VỀ TÁI SINH
Hiện nay đă có rất nhiều sách nói về những chứng cứ của những người tuyên bố họ có thể nhớ lại đời trước. Tôi đề nghị nếu bạn thực t́nh muốn hiểu về tái sinh, th́ hăy điều nghiên việc này với tâm trạng cởi mở, và càng nhiều tinh thần phân tích càng tốt.
Trong số hàng trăm câu chuyện về tái sinh có thể kể ra đây, có một chuyện làm tôi thích thú đặc biệt. Đó là câu chuyện của một người đàn ông trung niên ở Norfolk, Anh quốc, tên Arthur Flowerdew. Năm mười hai tuổi ông ta có kinh nghiệm về những tâm ảnh sống động của một đô thị lớn nào đó ở giữa một sa mạc. Một trong những h́nh ảnh xuất hiện nhiều lần trong trí ông là một ngôi đền chạm trổ từ một mỏm đá. Những h́nh ảnh lạ lùng này cứ trở lại trong trí ông, nhất là khi ông nhặt những ḥn sỏi màu hồng và màu cam trên bờ biển cạnh nhà. Khi lớn lên, những chi tiết về đô thị trong tâm trí càng rơ hơn, ông thấy thêm nhiều ṭa nhà, đường sá, lính, và đường đến đô thị xuyên qua một con kênh hẹp.
Măi lâu về sau, hoàn toàn t́nh cờ, ông xem một phim tài liệu về đô thị Petra cổ của Jordan. Ông rất ngạc nhiên khi trông thấy lần đầu tiên, h́nh ảnh mà ông đă thấy nhiều lần trong trí qua nhiều năm. Ông cho biết ông chưa hề đọc sách vở ǵ về Petra. Những linh kiến của ông trở thành nổi tiếng, và sự xuất hiện của ông trên truyền h́nh của đài BBC làm chính phủ Jordan lư ư, đề nghị đưa ông bằng phi cơ đến Jordan cùng với một phóng viên quay phim của BBC.
Trước khi phái đoàn xuất hành, Arthur Flowerdew được giới thiệu với một nhà khảo cổ chuyên về Petra, đă viết một quyển sách về thành phố này. Nhà khảo cổ lấy làm lạ lùng trước sự hiểu biết rành mạch của ông ta, một vài điều ông nói ra chỉ có một chuyên gia khảo cổ về vùng ấy mới biết được. Đài BBC ghi lại sự mô tả của Arthur Flowerdew về Petra trước khi đi, để so sánh. Flowerdew nêu lên ba địa điểm trong linh kiến của ḿnh về Petra: Một mỏm đá h́nh núi lửa ở ngoài đô thị, một ngôi đền nhỏ ở đấy ông tin rằng ông đă bị giết vào thế kỷ thứ nhất trước Thiên chúa, và một xây cất bất thường trong thành phố, mà các nhà khảo cổ rất quen thuộc, nhưng họ không biết để làm ǵ.
Chuyên gia khảo cổ không nhớ có mỏm đá nào như vậy, và tỏ vẻ hoài nghi. Khi ông ta đưa cho Flowerdew xem một bức ảnh chụp đô thị Petra, ông lấy làm kinh ngạc v́ Flowerdew chỉ đúng cái nơi có di tích ngôi đền. Rồi người đàn ông trung niên này thản nhiên giải thích, mục đích của cái cấu trúc kỳ lạ kia là cái vọng gác trong đó ông ta đă làm lính canh, cách hai ngàn năm về trước.
Một số lớn những tiên đoán của ông chứng tỏ rất chính xác. Khi đoàn đến gần thành Petra, Arthur Flowerdew chỉ chỗ mỏm đá kỳ bí, và khi vào thành, ông đến ngay vọng gác, không cần nh́n bản đồ, và chứng minh cái cách lạ lùng mà thời xưa đă sử dụng để điểm danh lính gác. Cuối cùng ông đi đến nơi mà ông bảo ông đă bị một mủi kiếm của kẻ thù đâm chết vào thế kỉ thứ nhất trước Tây lịch, và lại chỉ ra những địa điểm, mục đích của những cấu trúc chưa khai quật được tại đô thị này.
Làm sao giải thích được sự hiểu biết lạ lùng của Arthur Flowerdew ngoại trừ sự tái sinh luân hồi?
Rồi lại có trường hợp những trẻ em nhớ lại một cách tự nhiên những chi tiết về đời trước. Nhiều trường hợp như vậy đă được tiến sĩ Ian Stevenson thuộc đại học Virginia sưu tập. Một tường thuật về những kí ức của một trẻ em về đời quá khứ đă gây sự chú ư của đức Dalai Lama. Ngài đă gửi một đại diện đến phỏng vấn và xác chứng những kí ức của em.
Tên em bé là Kamaljit Kor, con một thầy giáo sống trong một gia đ́nh theo đạo Sikh ở tỉnh Punjab ở Ấn. Một ngày kia, khi đi coi hội chợ với cha tại một khu làng, t́nh cờ cô bé bảo cha đưa đến một làng khác cách đó không xa. Cha cô rất ngạc nhiên, hỏi tại sao. Cô bảo:
- Con không có ǵ ở đây. Đây không phải nhà của con. Cha hăy đưa con đến làng ấy. Một đứa bạn học và con đang cỡi xe đạp th́ chúng con bị xe buưt đụng. Bạn con chết ngay, con bị thương ở đầu, tai, mũi. Con được đưa đi khỏi chỗ xảy ra tai nạn và đến nằm trên một ghế dài trước một ṭa án nhỏ gần đấy. Rồi người ta đưa con đến bệnh viện làng. Những vết thương của con chảy máu thật nhiều, cha mẹ bà con đều theo con đến đấy. V́ bệnh viện làng không đủ phương tiện, họ tính đưa con đi Ambala. Khi các bác sĩ nói không cứu con được nữa, con đă yêu cầu đưa con về nhà.
Cha cô bé lấy làm kinh ngạc, nhưng v́ cô bé năn nỉ, ông phải đưa cô đến khu làng cô muốn. Khi đến gần, cô bé nhận ra ngay, chỉ chỗ đụng xe, và gọi một chiếc xích lô.
Cô bảo xe ngừng khi họ đến một cụm nhà mà cô bảo đă từng ở đó. Người cha vẫn không tin cô, nên hỏi những người ở đấy xem họ có biết gia đ́nh mà cô Kamaljit Kour đă mô tả. Họ xác nhận quả có việc như thế, và bảo người cha cô bé rằng Rishma, tên cô gái trước kia, khi chết đă được mười sáu tuổi, chết trong xe trên đường từ bệnh viện về nhà. Người cha hết sức bực bội, bảo cô bé họ nên trở về, song cô đi ngay tới nhà cũ, đ̣i bức ảnh cô chụp ở trường, và ngắm nh́n thích thú. Khi ông nội và chú của cô Rishma đến, th́ cô bé nhận ra ngay, nói đúng tên họ. Cô chỉ cái pḥng riêng của cô, và đưa cha cô đi xem những pḥng khác trong nhà. Rồi cô đ̣i những quyển sách học cũ, đôi ṿng bạc và những cái nơ cùng với bộ áo quần mới màu marông. Cô của Rishma giải thích, đấy là những vật sở hữu cũ Rishma ngày xưa. Hôm sau cô gặp tất cả những bà con cũ, và khi tới giờ lên xe buưt trở về, cô bé không chịu, bảo cha rằng cô sẽ ở lại. Nhưng cuối cùng ông đă năn nỉ cô bé cùng về.
Gia đ́nh khởi sự ráp câu chuyện lại. Kamalljit Kour đă ra đời mười tháng sau khi Rishma chết. Mặc dù chưa đi học, em bé vẫn thường làm bộ đọc sách, và nhớ được tất cả tên bạn trong tấm ảnh trường học. Kamaljit cũng thường đ̣i mặc áo marông. Cha mẹ cô bé khám phá ra rằng Rishma đă được tặng một bộ quần áo màu ấy mà em rất thích, nhưng chưa được mặc. Điều cuối cùng mà em bé nhớ về đời trước của ḿnh là những ánh sáng trên chiếc xe hơi bỗng vụt tắt trên đường từ bệnh viện về nhà; có lẽ đấy là lúc em chết.
Ai muốn khảo sát nghiêm túc khả tính về đời sau, tôi đề nghị họ xem những chứng cứ cảm động về kinh nghiệm cận-tử. Rất nhiều người sống lại đă phát sinh một niềm xác tín rằng cuộc đời vẫn tiếp tục sau khi chết; nhiều người trong đó không có tín ngưỡng cũng chưa từng có kinh nghiệm tâm linh nào:
Bây giờ, suốt đời tôi hoàn toàn tin chắc có đời sau, không một chút nghi ngờ ǵ. Và tôi không sợ chết nữa, không. Nhiều người tôi biết rất sợ chết, sợ quá. Tôi luôn luôn cười thầm khi nghe người ta hoài nghi về đời sau, hay bảo, "Chết là hết." Tôi tự nhủ: "Họ thực sự không biết ǵ cả."
“Cái điều xảy đến cho tôi lúc đó là kinh nghiệm lạ lùng nhất tôi chưa từng thấy. Nó làm cho tôi nhận ra rằng có đời sau."
"Tôi biết là có đời sau. Không ai có thể lay chuyển ḷng tin của tôi. Tôi không hoài nghi ǵ nữa. Chết thật an ổn, không có ǵ phải sợ. Tôi không biết c̣n ǵ ngoài ra cái mà tôi đă kinh nghiệm, nhưng với tôi, đă là tràn trề hạnh phúc...".
"Nó cho tôi một giải đáp cho cái điều mà tôi nghĩ sẽ làm mọi người ngạc nhiên vào lúc này hay khác trong đời. Vâng, có đời sau! Đẹp hơn bất cứ ǵ ta có thể tưởng tượng! Khi bạn đă biết, th́ không có một cái ǵ có thể sánh bằng nó. Bạn chỉ biết thế!"
Những khảo cứu về đ? tài ấy cũng chứng tỏ những người đă chết hụt sau đó thường cởi mở hơn và có khuynh hướng chấp nhận tái sinh luân hồi.
Và phải chăng những thiên tài đặc biệt về âm nhạc hoặc toán nơi một số trẻ em có thể suy từ sự phát triển của chúng trong những đời trước? Như Mozart năm tuổi đă soạn những đoản khúc, và xuất bản những khúc sonatas vào năm tám tuổi.
Bạn có thể đặt câu hỏi:
- Nếu có đời sau, th́ tại sao quá khó để nhớ lại đời trước của ḿnh như vậy?
Trong tác phẩm "Myth of Er" (Huyền thoại về Er) Platon gợi ư một giải thích cho sự thiếu trí nhớ này.
Er là một quân nhân được xem đă chết trận, và dường như đă trải qua một kinh nghiệm cận tử rồi sống lại. Y thấy nhiều chuyện trong khi "chết," và được bảo phải trở về lại cuộc đời để kể cho người khác nghe trạng thái sau khi chết ra thế nào. Ngay trước khi trở về, y thấy những người đang được chuẩn bị để tái sinh phải di chuyển trong hơi nóng ngột ngạt ghê gớm qua "Cánh đồng quên lăng", một sa mạc không có cây cối. Khi chiều đến, họ cắm trại gần Con Sông Thất Niệm, mà nước của nó không thể múc được. Tất cả đều được bảo uống một ít nước này, và một số người không có được cái trí tuệ để ngăn họ uống nhiều. Mỗi người khi uống th́ quên hết mọi sự.
Er không được phép uống nước, và khi thức dậy y thấy ḿnh đang nằm trên giàn hỏa, và có thể nhớ lại tất cả những ǵ y đă thấy nghe.
Có chăng một định luật chung để làm cho ta hầu như quên hết mọi sự về thời gian và nơi chốn ta đă sống trước kia? Hay chỉ v́ quá nhiều kinh nghiệm, phạm vi và cường độ của chúng quá lớn, đă xóa hết những kí ức chúng ta về những đời quá khứ?
Đôi khi tôi tự hỏi, chúng sẽ giúp ta được bao nhiêu nếu ta nhớ được? Hay lại c̣n làm cho chúng ta rối ren thêm?
TÍNH TƯƠNG TỤC CỦA TÂM THỨC
Theo quan điểm Phật giáo, luận cứ chính xác nhận có tái sinh là dựa trên một hiểu biết sâu xa về tâm tương tục. Tâm thức từ đâu đến? Nó không thể không từ đâu mà khởi lên. Mỗi sát na tâm không thể khởi nếu không có sát na tâm đi trước nó. Đứa Dalai Lama giải thích tiến tŕnh phức tạp này như sau.
- Căn bản trên đó Phật giáo chấp nhận có tái sinh, chính yếu là sự tương tục của tâm thức. Hăy lấy thế giới vật chất làm ví dụ: tất cả yếu tố trong vũ trụ hiện tại của chúng ta, cho đến mức vi tế nhất, có thể t́m về một nguồn gốc, một khởi điểm ở đấy mọi vật thể của thế giới vật chất được cô đọng lại thành cái mà khoa học gọi là "lượng tử". Những phân tử này lại là kết quả sự phân hóa của một vũ trụ có trước nó. Bởi thế có một chu kỳ miên viễn trong đó vũ trụ thành và hoại, rồi lại tái sinh.
Tâm cũng tương tự như thế. Sự kiện ta có một cái gọi là "tâm hay thức" thật rơ ràng, v́ kinh nghiệm chúng ta chứng tỏ sự hiện hữu của nó. Rồi kinh nghiệm cũng cho thấy rơ rằng cái mà ta gọi là "tâm hay thức” luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh, điều kiện. Điều này cho ta thấy bản chất liên tục và thay đổi của tâm thức.
Một sự kiện khác nữa cũng rơ ràng, là những tầng lớp thô của tâm thức liên lạc mật thiết với những trạng thái vật lư của cơ thể, và kỳ thực tùy thuộc vào chúng. Nhưng phải có một căn bản nào đó, một năng lực, nguồn gốc, khiến cho tâm thức, khi tác động hỗ tương với những phân tử vật chất, có thể sản xuất những hữu t́nh chúng sinh.
Cũng như b́nh diện vật chất, tâm cũng phải có sự tương tục từ quá khứ. Bởi thế nếu bạn theo dấu tâm trở về quá khứ, th́ bạn sẽ thấy bạn đang t́m về nguồn gốc của tâm tương tục - hệt như của thế giới vật chất – là một chiều không gian vô biên; bạn sẽ thấy nó không có khởi thủy.
Bởi thế, phải có những đời tái sinh tương tục th́ ḍng tâm thức tương tục mới có ở đấy.
ởi thế, phải có những đời tái sinh tương tục th́ ḍng tâm thức tương tục mới có ở đấy.
Phật giáo tin ở lư duyên sinh theo đó mọi sự đều biến đổi, và đều có nguyên nhân và điều kiện. Bởi thế không có chỗ cho một thần sáng tạo, hay những thực thể tự-sinh. Đúng hơn, mọi sự phát sinh do kết quả của những nhân và duyên hay điều kiện. Bởi vậy tâm hay thức cũng xuất hiện kể như hậu quả của những tâm đi trước nó.
Khi nói về nhân và duyên, có hai loại: những nguyên nhân thực thụ, chất liệu từ đó một vật được sinh ra; và những yếu tố hợp tác góp phần vào sự tạo nên vật ấy, hay pháp duyên sinh ấy. Trong trường hợp tâm và thân, mặc dù cái này có thể ảnh hưởng cái kia, songc ái này không thể là chất liệu của cái kia... Tâm và vật, mặc dù lệ thuộc lẫn nhau, song không phải là những nguyên nhân thực thụ thuộc loại "chất liệu" cho nhau.
Đây là cơ sở trên đó Phật giáo chấp nhận có tái sinh. (*)
Phần đông người hiểu từ ngữ "tái sinh" như một "vật" sinh trở lại, du hành từ đời này sang đời khác. Nhưng trong Phật giáo, chúng tôi không tin có một thực thể độc lập bất biến như một linh hồn hay cái ngă tồn tại sau khi thân xác chết đi. Cái yếu tố đem lại sự tiếp nối những đời sống, theo Phật giáo, không phải là một thực thể, mà là tầng lớp vi tế sâu xa tối hậu của tâm thức. Đức Dalai Lama giải thích:
- Theo lối giải thích Phật giáo, nguyên lư sáng tạo tối hậu là tâm. Có nhiều tầng lớp của tâm. Cái mà ta gọi là bản tâm sâu xa nhất vẫn luôn luôn hiện diện ở đấy. Sự tương tục của bản tâm ấy hầu như là một cái ǵ trường cửu, như những lượng tử không gian. Trong địa hạt vật chất, đấy là lượng tử (phân tử không gian); trong địa hạt tâm thức, đấy là Ánh sáng Căn bản, điểm Linh Quang... Điểm Linh Quang, với năng lực đặc biệt của nó, tạo nên sự móc nối với tâm.
Cách tái sinh xảy ra đă được minh họa rơ ràng trong ví dụ sau.
- Những hiện hữu liên tiếp trong một chuỗi tái sinh không giống như những hạt ngọc trong một chuỗi ngọc, được xâu lại với nhau bằng một sợi dây gọi là "linh hồn," xuyên qua tất cả hột châu; đúng hơn chúng như những con xúc xắc chồng lên nhau, mỗi con xúc xắc là riêng biệt, nhưng nó chống đỡ con ở trên nó, tự căn để có liên hệ với nhau. Giữa những con xúc xắc không có sự giống nhau nhưng có điều kiện tính.
Kinh điển Phật giáo nói rất rơ về tiến tŕnh duyên sinh hay điều kiện tính này. Bậc thánh tăng Nagasena giải thích cho vua Milinda trong một loạt những giải đáp nghi vấn mà nhà vua đă hỏi ngài.
Vua hỏi:
- Khi một người nào tái sinh, th́ y là một với người vừa chết, hay là khác?
Nagasena trả lời:
- Không phải một cũng không phải khác... Nếu một người đốt một ngọn đèn, có thể nó cho ánh sáng suốt đêm không?
- Có thể.
- Ngọn đèn cháy trong canh một có phải là một với ngọn đèn cháy trong canh hai... hay canh cuối?
- Không.
- Như vậy có phải nghĩa là ngọn đèn canh một khác, ngọn đèn canh hai khác, ngọn đèn canh ba khác?
- Không, v́ cũng chính ngọn đèn ấy cháy suốt cả đêm.
- Tái sinh cũng giống như vậy: Một hiện tượng này khởi lên và hiện tượng kia chấm dứt, hai cái đồng thời. Bởi thế tâm đầu tiên khởi lên trong đời sống mới không phải một cũng không phải khác với tâm cuối cùng trong đời trước.
Nhà vua xin một ví dụ khác để giải thích rơ bản chất của tương quan này, và Nagasena đă so sánh với sữa:
- Ván sữa, bơ, hay gia ua làm ra từ sữa không phải là một với sữa, nhưng cũng không phải khác, v́ hoàn toàn tùy thuộc vào sữa.
Khi ấy vua hỏi:
- Nếu không có thực thể nào di chuyển từ thân xác này qua thân xác khác, th́ có phải là ta sẽ thoát khỏi những nghiệp xấu mà ta đă làm trong các đời trước?
Nagasena cho tỉ dụ sau đây:
- Một người ăn trộm xoài người khác. Xoài y lấy không phải xoài người chủ đă trồng, làm sao lại phạt y được? Lí do y bị phạt là, những trái xoài y ăn trộm chỉ có được nhờ trước tiên người chủ có trồng ra. Cũng thế, chính v́ những nghiệp của ta trong quá khứ, thanh tịnh hay không thanh tịnh, mà ta được nối liền với một đ?i khác, và không thể thoát khỏi hậu quả.
NGHIỆP
Vào canh hai, khi Phật đạt giác ngộ, ngài chứng một loại hiểu biết hay minh thứ hai, bổ túc cho trí biết về tái sinh hay túc mạng trí, đó là trí biết về nghiệp, định luật tự nhiên của nhân và quả.
"Với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy hữu t́nh chết và tái sinh, người hạ liệt kẻ cao sang, người may mắn kẻ bất hạnh tùy theo hạnh nghiệp của chúng."
(Tùy nghiệp thú trí, liên hệ đến thiên nhăn. Dịch giả)
Sự thật và năng lực điều động tái sinh là cái mà ta gọi nghiệp. Người ta thường hiểu lầm nghiệp với định mệnh hay tiền định. Tốt nhất nên hiểu nghiệp là luật nhân quả tất yếu điều khiển vũ trụ. Danh từ karma, nghiệp, có nghĩa là "hành động," và karma vừa là năng lực tiềm tàng trong hành động vừa là hậu quả mà hành động đem lại.
Có nhiều loại nghiệp: Nghiệp quốc tế, nghiệp quốc gia, nghiệp đô thị, và nghiệp cá nhân. Tất cả đều tương quan mật thiết với nhau, và chỉ có một người đă giác ngộ mới hiểu được sự phức tạp của chúng.
Nói giản dị th́ nghiệp là ǵ? Nó có nghĩa là bất cứ ǵ ta làm, qua thân, lời hay ư, đều sẽ có một hậu quả tương ứng. Mỗi hành vi, dù nhỏ nhất, đều mang nặng những kết quả của nó. Những bậc thầy nói rằng chỉ một chút độc dược cũng có thể gây ra cái chết, một hột nhỏ có thể trở thành một cây khổng lồ. Và đức Phật cũng dạy:
- Đừng khinh việc ác nhỏ chỉ v́ nó nhỏ; một đóm lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy một đống cỏ khô lớn như ngọn núi.
Ngài c̣n dạy:
- Đừng xem thường việc lành nhỏ, nghĩ rằng không lợi lạc; những giọt nước tuy nhỏ cũng có thể làm đầy hồ.
Nghiệp không hư hoại như những vật thể ở ng̣ai hay trở thành vô hiệu lực. Nó không thể bị thời gian, lửa hay nước phá hoại. Năng lực của nghiệp sẽ không bao giờ biến mất cho đến khi nó chín mùi. Mặc dù những hậu quả của nghiệp chúng ta có thể chưa chín, nhưng chúng chắc chắn sẽ chín, khi gặp điều kiện thích hợp.
Thường chúng ta quên những ǵ ḿnh làm, và thực lâu về sau những hậu quả mới đến đuổi kịp chúng ta. Khi ấy ta không thể nào liên hệ chúng với những nhân, sinh ra chúng. Jigmé Lingpa nói:
- Hăy tưởng tượng, một con đại bàng đang bay cao trên bầu trời, không có bóng, không có ǵ chứng tỏ nó có ở đấy. Rồi th́nh ĺnh nó ŕnh mồi, lặn xuống, và sà xuống đất. Và khi nó rớt xuống, th́ cái bóng đe dọa của nó xuất hiện.
Những hậu quả hành động chúng ta thường bị triển hạn, ngay cả vào những đời sau; chúng ta không thế gán một nguyên nhân duy nhất, v́ bất cứ biến cố nào cũng có thể là một pha trộn vô cùng phức tạp của nhiều nghiệp chín cùng một lúc. Bởi thế chúng ta có khuynh hướng cho rằng mọi sự "t́nh cờ" xảy đến cho chúng ta, và khi mọi sự tiến hành tốt đẹp, ta chỉ gọi đấy là "may mắn." Tuy nhiên, cái ǵ khác ngoài nghiệp, có thể thực sự giải thích thỏa đáng những sai khác kỳ lạ giữa chúng ta? Dù chúng ta có thể sinh ra trong cùng một gia đ́nh hay xứ sở, hay trong những hoàn cảnh giống nhau, chúng ta đều có tính t́nh khác nhau, gặp những sự việc hoàn toàn khác nhau, có tài năng khác nhau, khuynh hướng và số phận khác nhau.
Như lời Phật dạy:
- Hiện tại ta là những ǵ trong quá khứ ta đă từng là, và tương lai ta sẽ là ǵ tùy thuộc vào hiện tại ta làm ǵ.
Padmasambhava cũng nói:
- Muốn biết đời quá khứ, hăy nh́n t́nh trạng hiện tại của bạn; muốn biết đời vị lai, hăy nh́n những hành động hiện tại.
THIỆN TÂM
Như vậy, loại tái sinh mà ta sẽ có trong đời vị lai được định đoạt bởi bản chất của những hành động ta trong đời hiện tại. Và điều thật quan trọng là đừng bao giờ quên rằng hậu quả của hành động chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào ư định hay động cơ đằng sau những họat động ấy, chứ không phải tùy theo phạm vi tầm mức của chúng.
Vào thời Phật, có một bà lăo ăn xin tên gọi là "Nương tựa Niềm Vui." Bà thường ngắm những vua chúa và mọi người cúng dường Phật và đệ tử của Ngài. Và không có ǵ bà thích hơn là được làm như họ. Bởi thế bà đi xin suốt ngày, và được một đồng tiền nhỏ. Bà đem đồng tiền ấy đi mua một ít dầu. Người bán dầu bảo bà không mua ǵ được với đồng tiền ít ỏi ấy, nhưng khi nghe bà muốn cúng Phật, anh ta thương hại, cho bà một ít dầu bà cần. Bà đem đến chùa đốt một cây đèn, và phát nguyện:
- Con không có ǵ cúng dâng Phật, ngoại trừ cây đèn nhỏ này. Nhưng do sự cúng dường này, mong cho con đời sau có trí tuệ. Mong cho con giải thoát tất cả hữu t́nh ra khỏi bóng tối ngu si. Mong cho con tịnh hóa tất cả những cấu uế chướng ngại của họ, và đưa họ đến giải thoát.
Đêm ấy tất cả các ngọn đèn đều cháy hết cả dầu. Nhưng vào lúc b́nh minh, ngọn đèn của bà lăo vẫn tiếp tục cháy, khi tôn giả Mục kiền liên đi thâu lại những cây đèn. Khi trông thấy ngọn đèn c̣n cháy sáng, đầy dầu và bấc mới, ngài nghĩ: "Không lư ǵ để cho cây đèn này vẫn cháy vào ban ngày," và ngài cố thổi tắt. Nhưng cây đèn vẫn cháy. Ngài lấy tay bóp, lấy y chụp lên cho nó tắt, mà nó vẫn tiếp tục cháy sáng. Đức Phật vẫn nh́n ngài từ lúc đầu, và bảo:
- Mục kiền liên, có phải ông muốn dập tắt ngọn đèn ấy không? Ông không làm được đâu. Ông không di chuyển được nó, chứ đừng nói là dập cho nó tắt. Nếu ông đem được bốn biển mà tưới lên cây đèn này, nó vẫn không tắt được, tại sao? V́ cây đèn này đă được đốt lên để dâng cúng với tất cả niềm sùng kính, và với tâm trí thanh tịnh. Chính động cơ ấy đă làm cho nó có công đức vô cùng.
Khi đức Phật nói lời này, th́ bà lăo ăn xin đi đến ngài, và ngài nói lời thọ kí cho bà trong tương lai sẽ thành Phật, hiệu là "Ánh sáng ngọn đèn."
Như vậy chính động lực tốt hay xấu của chúng ta đă định đoạt kết quả hành động chúng ta. Shantideva nói:
- Tất cả niềm vui có được trên đời
Đều do muốn an lạc cho kẻ khác,
Tất cả đau khổ trên đời này
Đều do muốn hạnh phúc cho chính ḿnh.
V́ luật nhân quả là không lầm lẫn và không thể tránh, mỗi khi ta hại người khác, là ta đang tự hại ḿnh; mỗi khi ta đem lại hạnh phúc cho người khác, là ta đang đem lại cho chính chúng ta hạnh phúc tương lai. Bởi thế Đức Dalai Lama nói:
- Nếu bạn cố hàng phục những động lực ích kỉ, giận dữ vân vân... và phát triển ḷng từ bi đối với người khác, th́ cuối cùng bạn sẽ được lợi lạc hơn nhiều, cho chính bạn. Bởi thế tôi thường bảo những người ích kỉ khôn ngoan nên thực hành kiểu đó. Những kẻ ích kỉ dại dột th́ luôn luôn nghĩ về chính ḿnh, và kết quả là không được cái ǵ. Người ích kỉ khôn ngoan th́ nghĩ tới người khác, giúp đỡ người khác càng nhiều càng tốt, và được kết quả là chính họ cũng nhận được lợi lạc.
Niềm tin vào tái sinh cho ta thấy có một thứ công bằng tối hậu hay thiện tính trong vũ trụ. Chính thiện tính ấy mà tất cả chúng ta đang cố phơi bày, làm cho hiển lộ. Bất cứ khi nào chúng ta có hành động tích cực, là ta đang tiến về phía nó; khi ta hành động tiêu cực, là ta bít lấp nó. Và khi ta không thể biểu lộ nó trong đời sống và hành động của ta, th́ ta cảm thấy đau khổ, bất măn.
Vậy nếu bạn muốn rút ra một thông điệp từ sự kiện tái sinh, th́ đó sẽ là:
- Phát triển thiện tâm, mong muốn người khác được hạnh phúc lâu dài, và hành động để có được hạnh phúc ấy.
Đức Dalai Lama nói:
- Không cần xây chùa; không cần triết lư rắc rối. Trí năo ta, trái tim ta là ngôi chùa của ta. Triết lư của tôi là ḷng tốt.
TÍNH SÁNG TẠO
Nghiệp như vậy không có tính cách định mệnh hay tiền định. Nghiệp là khả năng của chúng ta có thể định đoạt cách thức và lư do chúng ta hành động. Chúng ta có thể thay đổi. Tương lai nằm trong tay ta, và trong tay của trái tim ta. Phật dạy:
- Nghiệp tạo tất cả, như một họa sĩ.
Nghiệp sáng tác như một vũ công.
V́ mọi sự là vô thường, tuôn chảy, và hỗ tương lệ thuộc, nên cách làm và nghĩ của ta đương nhiên thay đổi tương lai. Không có hoàn cảnh nào dù có vẻ ghê gớm vô vọng tới đâu, - như một cơn bệnh tới thời kỳ chót – mà chúng ta không có thể sử dụng để tiến hóa. Và không có tội ác hay sự tàn bạo nào mà không được tịnh hóa nhờ sự sám hối chân thành và tu tâm thực sự.
Milarepa được xem như vị đạo sư Du già vĩ đại nhất ở Tây Tạng, một nhà thơ, một bậc thánh. Tôi c̣n nhớ hồi nhỏ tôi đă ớn lạnh như thế nào khi đọc câu chuyện đời ngài, và nghiền ngẫm những bức minh họa trong cuốn tập chép tay của tôi về cuộc đời ngài. Khi c̣n trẻ, Milapera đă được huấn luyện làm phù thủy, và với tà thuật ngài đă giết và tàn hại vô số người. Thế nhưng nhờ ăn năn sám hối, và những nỗi đau khổ nhọc nhằn mà ngài đă phải chịu đựng với vị thầy vĩ đại Marpa, ngài đă có thể lọc sạch tất cả ác nghiệp. Ngài tiến lên đến sự giác ngộ, trở thành một nguồn cảm hứng cho hàng triệu người sau qua nhiều thế kỉ.
Ở Tây Tạng chúng tôi nói: "Ác nghiệp có một điều hay, đó là nó có thể được tịnh hóa." Bởi vậy luôn luôn c̣n có hy vọng. Ngay cả những kẻ sát nhân và những kẻ trọng tội ghê gớm nhất cũng có thể thay đổi và vượt qua cái hoàn cảnh đưa họ đến tội lỗi. Hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, nếu biết sử dụng khéo léo, có trí tuệ, có thể gợi hứng cho ta thoát khỏi dây trói của đau khổ.
Những ǵ đang xảy ra cho ta hiện tại phản ảnh nghiệp quá khứ của ta. Nếu ta biết điều ấy, và biết thực sự, th́ mỗi khi đau khổ hay khó khăn giáng xuống cho ta, ta sẽ không xem chúng đặc biệt như một thất bại hay tai họa, hay xem đau khổ như một sự trừng phạt nào đó. Chúng ta cũng không trách kẻ khác, hay tự ghét ḿnh. Chúng ta xem đau khổ mà ta đang trải qua cũng như sự hoàn tất của những kết quả của nghiệp quá khứ. Người Tây Tạng nói rằng đau khổ là "một cái chổi quét sạch những nghiệp ác của ta." Chúng ta lại c̣n nên cám ơn (sự đau khổ) v́ đấy là một cái nghiệp ta đang đi đến kết thúc. Chúng ta biết rằng "sự may mắn" một kết quả tốt của nghiệp, có thể trôi qua nếu ta không khéo sử dụng, nhưng "rủi ro" kết quả của ác nghiệp, quả có thể đem cho chúng ta một cơ hội tuyệt diệu để tiến hóa.
Với những người Tây Tạng, nghiệp có một ư nghĩa thiết thực sống động trong đời sống hàng ngày. Họ sống những nguyên lư của nghiệp, trong sự hiểu biết sự thật của nó, và đây là căn bản của đạo đức Phật giáo. Họ hiểu nghiệp là một tiến tŕnh tự nhiên và công bằng. Bởi thế nghiệp gợi cho họ có được một ư thức trách nhiệm cá nhân trong bất cứ việc ǵ họ làm.
Hồi tôi c̣n bé, gia đ́nh tôi có một nô bộc kỳ diệu tên là A pé Dorje thương tôi rất mực. Ông ta thực là một người thánh thiện, suốt đời không bao giờ hại ai. Mỗi khi tôi nói hay làm điều ǵ có hại, ông liền nhẹ nhàng nói: "Ồ, thế là không phải." bằng cách ấy ông gieo cho tôi một ư thức sâu xa về sự có mặt khắp nơi của nghiệp, và hầu như một thói quen máy móc để chuyển hóa những phản ứng của tôi, nếu tôi có một ư tưởng tai hại.
Có phải thực sự khó thấy vận hành của nghiệp không? Há chẳng phải ta chỉ cần nh́n lại đời ḿnh, để thấy những hậu quả của một vài nghiệp chúng ta đă làm? Khi chúng ta làm tổn thương một người nào, có phải là nó dội lại trên chính ta? Có phải chúng ta c̣n lại một hoài niệm đen tối đắng cay, và bóng đen của sự tự ghét? Hoài niệm và bóng đen đó chính là nghiệp. Những thói quen và những nỗi sợ của chúng ta cũng thế, là do nghiệp, hậu quả những hành động, lời nói, tư tưởng ta đă làm trong quá khứ. Nếu ta xem xét những hành động của ta, và thực sự ư thức về chúng, ta sẽ thấy rằng có một mẫu mực luôn luôn trở lại trong những hành động của ta.
Bất cứ lúc nào ta có hành động xấu, nó liền đưa đến đau khổ; khi ta có hành động tốt, cuối cùng sẽ có kết quả là hạnh phúc.
TRÁCH NHIỆM
Tôi vẫn thường xúc đông về sự xác nhận của những báo cáo về kinh nghiệm cận tử, v́ nó cho thấy rơ ràng sự thật về nghiệp. Một trong những yếu tố chúng của kinh nghiệm cận tử - một yếu tố đă gợi nhiều suy nghĩ – là "sự thấy lại toàn cảnh cuộc đời." H́nh như rằng những người trải qua kinh nghiệm này không những thấy lại những chi tiết sống động nhất của cuộc đời đă qua, mà c̣n có thể chứng kiến những ẩn ư trọn vẹn nhất của những ǵ họ đă làm. Quả thế, họ kinh quá toàn thể những hậu quả hành động của họ trên người khác, và tất cả những cảm giác mà họ đă khơi dậy trong người khác, có thể là rất kinh khủng.
"Mọi sự trong suốt cuộc đời trải ra trước mắt tôi. Tôi hổ thẹn v́ nhiều chuyện tôi đă kinh quá, v́ lúc đó dường như tôi có một cái biết khác... Không những tôi thấy lại những ǵ tôi đă làm, mà c̣n thấy ảnh hưởng việc làm ấy trên người khác... Tôi nhận ra rằng ngay những ư tưởng của ta cũng không mất.
“Cuộc đời tôi trải ra trước mắt tôi... mọi cảm xúc tôi đă từng có trong đời, tôi đều cảm thấy. Và mắt tôi chỉ cho tôi thấy cái căn bản là những cảm xúc ấy đă ảnh hưởng đến đời tôi như thế nào. Đời tôi đă làm ǵ bấy nay để ảnh hưởng đến những cuộc đời người khác...
"Tôi chính là những người mà tôi làm thương tổn, và tôi chính là người mà tôi làm sung sướng.
“Đấy là một sự sống lại mọi ư nghĩ tôi đă nghĩ, mọi lời tôi đă nói, mọi việc tôi đă làm; cùng với hậu quả của từng ư nghĩ, lời nói, hành vi của tôi đối với mọi người và bất cứ người nào ở trong tầm ảnh hưởng tôi, dù tôi có biết họ hay không...; cộng thêm hậu quả của mỗi ư nghĩ, lời nói, và hành động tôi đối với thời tiết, cây cối, loài vật, đất, nước, lửa, gió.”
Tôi nghĩ rằng những chứng cứ này đáng được xem xét thực nghiêm túc. Chúng sẽ giúp tất cả chúng ta nhận chân được những hành ẩn của hành động, lời nói và ư nghĩ của chúng ta, và buộc chúng ta trở nên có trách nhiệm. Tôi đă để ư rằng nhiều người cảm thấy bị đe dọa trước thực tại về nghiệp, v́ họ bắt đầu hiểu được họ không thể thoát khỏi định luât tự nhiên của nó. Có nhiều người tuyên bố họ coi thường nghiệp, nhưng tận tâm để, họ vẫn có những hoài nghi sâu xa về sự phủ nhận của họ. Ban ngày họ có thể hành động hoàn toàn coi khinh đạo đức, nhưng khi một ḿnh ban đêm, tâm họ thường u ám và giao động.
Cả Đông lẫn Tây đều có những lối đặc biệt đưa cái cách họ hiểu về "nghiệp" ra để
tránh né trách nhiệm. Ở phương đông người ta dùng nghiệp để làm cái cớ khỏi giúp đỡ người khác, bảo rằng, người nào khổ là do cái "nghiệp" của họ. Trong thế giới "tư tưởng tự do" ở phương tây, th́ ngược lại, những người Tây phương tin vào nghiệp có thể nhạy cảm và cẩn thận quá lố, và bảo rằng thực sự nếu ta giúp người nào tức là can thiệp vào cái nghiệp của họ, một cái ǵ họ phải tự lo liệu lấy cho ḿnh. Thật là một cách né tránh phản lại ḷng nhân đạo! Có lẽ ta nên cho rằng cái nghiệp của chúng ta là t́m cách giúp đỡ họ. Tôi biết nhiều người giàu có: Tài sản họ có thể tàn phá họ, khi họ làm tăng thêm thói ích kỉ và lười biếng; nhưng họ cũng có thể tóm lấy cơ hội mà tài sản đem lại để giúp đỡ người khác, và khi làm thế, giúp đỡ chính họ.
Đừng bao giờ quên rằng chính qua hành động, lời nói và ư nghĩ, mà ta có quyền chọn lựa. Và nếu ta chọn lựa, ta có thể chấm dứt đau khổ và nguyên nhân đau khổ, và giúp cho tiềm năng chân thực của ta, Phật tính, thức dậy trong ta. Chừng nào Phật tính này hoàn toàn tỉnh thức, chừng nào chúng ta được giải thoát khỏi vô minh và ḥa nhập với tâm giác ngộ bất tử, th́ ta mới có thể chấm dứt ṿng sống chết. Như vậy, giáo lư dạy ta, nếu ta không chịu đảm nhận toàn trách nhiệm cho chính ḿnh trong đời hiện tại, th́ sự đau khổ của chúng ta sẽ tiếp tục dài dài không những một vài đời mà hàng ngàn đời.
Chính nhận thức nghiêm trọng này đă làm cho những người theo Phật xem những đời sau c̣n quan trọng hơn cuộc đời này, v́ c̣n có nhiều điều chờ đợi chúng ta trong tương lai. Cái thấy trường-ḱ ấy chủ động lối sống của họ. Họ biết rằng nếu chúng ta v́ một đời này mà không nghĩ ǵ đến tương lai vô tận th́ cũng giống như điên rồ đem tất cả tiền dành dụm đuợc cả đời vào một cuộc rượu duy nhất, không cần biết hậu quả.
Nhưng nếu chúng ta tuân theo luật nhân quả và đánh thức thiện tâm, ḷng từ bi trong ta, nếu chúng ta thanh lọc ḍng tâm thức và dần dần khơi dậy trí tuệ của tự tính, th́ chúng ta có thể thành một con người đúng nghĩa, và cuối cùng sẽ giác ngộ.
Albert Einstein nói:
- Một con người là một phần của toàn thể vũ trụ, một phần được giới hạn trong thời-không. Nó tự xem ḿnh, những tư tưởng cảm giác của ḿnh, như là cái ǵ tách biệt với toàn thể - đấy là một loại ảo tưởng của tâm thức. Ảo tưởng này là một nhà tù giam giữ chúng ta, giới hạn chúng ta vào những dục vọng riêng, và chỉ yêu mến vài người gần chúng ta nhất. Nhiệm vụ chúng ta là phải giái thoát ḿnh khỏi ngục tù ấy bằng cách nới rộng ṿng bi mẫn để bao gồm tất cả sinh loài và tất cả thiên nhiên trong vẻ đẹp của nó.(1)
TÁI SINH TẠI TÂY TẠNG
Những người nắm vững định luật về nghiệp và đă chứng ngộ, có thể chọn tái sinh nhiều lần để giúp đỡ những người khác. Ở Tây Tạng một truyền thống nhận chân những tái sinh (gọi là tulkus) như thế, được bắt đầu từ thế kỉ mười ba và tiếp tục đến ngày nay. Khi một bậc thầy đắc đạo chết, vị ấy có thể để lại những chỉ dẫn rơ ràng về nơi chốn sẽ tái sinh. Một trong những đệ tử thân tín nhất của vị ấy hay bạn đạo của vị ấy sau đó có thể có một linh kiến hay chiêm bao, nói trước sự tái sanh sắp đến. Trong vài trường hợp, những đệ tử có thể đến một bậc thầy nổi tiếng về tài nhận ra những tulkus, và bậc thầy này có thể có một giấc mộng hay linh kiến giúp ông chỉ đạo sư t́m kiếm. Khi một đứa bé được t́m ra, th́ chính bậc thầy này là người xem xét có phải thật hay không.
Mục đích của truyền thống này là nó bảo đảm kí ức tuệ giác của những bậc thầy đă chứng ngộ khỏi tan mất. Điều quan trọng nhất về đời một vị tái sinh là, trong quá tŕnh huấn luyện, bản lai diện mục - thức dậy, và đấy là dấu hiệu chứng tỏ "thứ thiệt". Chẳng hạn đức Dalai Lama thừa nhận ngài có thể hiểu dễ dàng từ lúc tuổi c̣n rất nhỏ, những khía cạnh thâm ảo của giáo lư Phật mà người ta cần phải nhiều năm mới hiểu được.
Nuôi dưỡng những vị tái sinh cần sự cẩn thận tối đa. Ngay cả trước khi sự huấn luyện bắt đầu, cha mẹ được chỉ dẫn phải đặc biệt chăm sóc những vị ấy. Sư huấn luyện những vị tái sanh c̣n gắt gao hơn huấn luyện tu sĩ thường, v́ những triễn vọng mà người ta chờ đợi ở các vị ấy.
Đôi khi họ nhớ những đời trước, hoặc chứng tỏ những khả năng lạ lùng. Như Đức Dalai Lama đă nói:
- Chuyện thông thường là những trẻ tái sanh nhớ được những vật và người từ những đời trước. Một vài trẻ c̣n có thể thuộc những kinh chưa được ai dạy.
Một vài người chỉ cần học qua đă thuộc, như trường hợp thầy Jamyang Khientse tôi. Khi c̣n bé, thầy có một vị dạy kèm rất khó tín. Thầy tôi phải sống với ông trong am cốc trên núi. Một buổi sáng ông bận đi làm lễ cho một người mới chết ở làng lân cận, và trước khi ra đi ông dặn thầy tôi đến chiều phải thuộc một quyển kinh nhan đề là "Tụng những danh hiệu của Văn thù," một bài kinh rất khó dài năm chục trang, mà thường phải mất nhiều tháng mới thuộc được.
Như mọi chú bé khác, ông vừa đi khỏi là thầy tôi bắt đầu chơi. Những người xung quanh lo ngại và bảo thầy tôi nên khởi sự học kẻo sẽ bị đ̣n, v́ họ biết ông thầy dạy kèm rất nghiêm khắc và nóng tính. Thầy tôi vẫn chơi đùa cho đến xế chiều, biết ông ta sắp về, mới chịu đọc qua bài kinh một lần. Khi vị thầy dạy kèm trở về hỏi bài, th́ thầy tôi đă thuộc ḷng không sót một chữ.
Thông thường, th́ không bậc thầy nào lại bắt một đứa trẻ làm một việc như vậy. Nhưng trong thâm tâm, vị này biết thầy tôi là một hóa thân của ngài Văn thù, vị Phật của đại trí huệ, và gần như là ông muốn dụ cho ngài phải tự chứng minh. Chú bé - tức thầy Jamyang Khientse – khi nhận một công việc khó khăn như thế mà không phản đối, cũng đă mặc nhiên tự nhận ḿnh là ai. Về sau thầy Khientse viết trong tự truyện của ngài rằng vị thầy của ngài rất thán phục mặc dù không nói ra.
Cái ǵ tiếp tục nơi một vị tái sinh? Có phải vị ấy là một người với tiền thân vị ấy? Vừa phải vừa không phải. Động cơ và sự phát nguyện giúp đỡ mọi hữu t́nh th́ giống, nhưng không phải cũng một người ấy. Yếu tố tiếp nối đời này sang đời khác là một ân phước. Sự truyền thừa ân phước này ḥa điệu và thích hợp với mỗi thời đại kế tiếp, và vị tái sinh xuất hiện một cách thích nghi nhất với nghiệp của người đồng thời đại, để có thể hoàn toàn giúp đỡ họ.
Có lẽ ví dụ cảm động nhất về sự phong phú, hiệu quả, và tinh vi của hệ thống này là Đức Dalai Lama. Ngài được tôn sùng bởi tất cả Phật tử như là nhập thể của Phật Quan Âm, vị Phật của ḷng bi mẫn bao la.
Lớn lên ở Tây Tạng, làm vị Phật-Vương, đức Dalai Lama hấp thụ tất cả sự huấn luyện cổ truyền và những giáo lư chính thống của mọi hệ phái, và trở thành một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của Tây Tạng hiện nay. Nhưng thế giới th́ chỉ biết đến ngài như là một người có đức b́nh dị thẳng thắn và cái nh́n rất thực tiễn. Ngài có một quan tâm nhạy bén đối với nhiều khoa học đương thời: Vật lư, Thần kinh học, Tâm lư học, và Chính trị. Quan điểm và thông điệp của ngài về trách nhiệm đại đồng không những được Phật tử nghe theo mà cả những người thuộc đủ mọi tôn giáo trên thế giới. Sự dấn thân của ngài trong phong trào bất bạo động trong cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tây Tạng trải qua bốn mươi năm đă đem lại cho ngài giải thưởng Nobel Ḥa b́nh năm 1989. Trong một thời đại bạo động, tấm gương của ngài đă khởi hứng cho nhiều dân tộc trên khắp địa cầu, trong khát vọng tự do của họ. Đức Dalai Lama đă trở thành một trong những người lên tiếng bảo vệ sinh môi trên thế giới, không mỏi mệt trong nỗ lực thức tỉnh con người trước hiểm họa của một nền triết lư ích kỉ duy vật. Ngài được những nhà trí thức và lănh tụ khắp nơi ngưỡng mộ, tuy thế tôi đă biết hàng trăm người thường dân đủ loại và ở khắp các quốc gia, mà cuộc đời họ đă biến đổi nhờ niềm vui được thấy vẻ đẹp, tính hài hước và sự hiện diện thánh thiện của ngài. Đức Dalai Lama, tôi tin tưởng, chính là gương mặt của Đức Phật Từ Bi đang hướng về một nhân loại lâm nguy; ngài là hiện thân của Quán Âm không những cho Tây Tạng hay cho Phật tử, mà cho toàn thế giới đang cần hơn bao giờ hết, đức bi mẫn và tấm gương của ngài, hoàn toàn phụng sự cho ḥa b́nh.
Người Tây phương sẽ ngạc nhiên khi biết được rằng ở Tây Tạng đă có bao nhiêu tái sinh, bao nhiêu vị đă từng là đạo sư, học giả, tác giả, bậc thánh, đă có những đóng góp nổi bật cả về giáo lư lẫn về xă hội. Những vị này đóng một vài tṛ cốt yếu trong lịch sử Tây Tạng. Tôi tin rằng tiến tŕnh tái sinh này không giới hạn ở Tây Tạng, mà có thể xảy ra trong mọi nước vào mọi thời. Trong lịch sử đă có nhiều thiên tài về nghệ thuật, sức mạnh tâm linh, nhân bản, đă giúp loài người tiến hóa. Tôi nghĩ đến Gandhi, Einstein, AbLincoln, Mẹ Theresa, đến Shakespeare, đến thánh Francis, đến Beethoven, đến Michelangelo. Khi người Tây Tạng nghe đến những vị ấy, họ liền bảo ngay đấy là những Bồ tát. Và mỗi khi tôi nghe về họ, về tác phẩm, tri kiến của họ, tôi rất xúc động trước sự vĩ đại của tiến tŕnh rộng lớn mà chư Phật và các bậc thầy đă tỏa ra để giải thoát hữu t́nh và cải thiện thế giới.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 13 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
7. BARDO và NHỮNG THỰC TẠI KHÁC
Danh từ Bardo trong Tạng ngữ chỉ có nghĩa là một chuyển tiếp hay một khoảng hở giữa sự hoàn tất một trạng huống và sự bắt đầu một trạng huống khác. Bar nghĩa là "ở giữa", và do có nghĩa "bị lơ lửng," "bị ném vào." Bardo là một danh từ trở thành nổi tiếng do sự nổi tiếng của cuốn Tử thư Tây Tạng. Từ khi bản dịch tác phẩm ấy ra đời đầu tiên năm 1927, quyển sách đă khơi dậy một sự chú ư lớn lao trong số những nhà tâm lư học, văn sĩ, triết học ở Tây phương, và đă bán ra hàng triệu bản.
Nhan đề Tử thư Tây Tạng do dịch giả người Mỹ Evans-Wentz đặt ra, phỏng theo tác phẩm danh tiếng (và cũng được đặt nhan đề sai lạc như thế) Tử thư Ai cập. Tên thật của quyển sách là Bardo Todrol Chenmo, có nghĩa "Sự Giải thoát lớn do Nghe trong cơi Trung gian." Giáo lư về cơi trung gian rất xưa cũ và được t́m thấy trong Dzogchen Tantras (Mật điển phái Dzogchen). Giáo lư này có một truyền thừa vượt ngoài những đạo sư nhân loại từ đời Phật Nguyên ủy (Phạn ngữ là Samantabhadra, và Tạng ngữ là Kuntuzangpo), tiêu biểu tính thuần tịnh nguyên sơ tuyệt đối giống như bầu trời của bản tâm ta. Nhưng Bardo Todrol Chenmo chính nó là một phần của một chu kỳ giáo lư rộng lớn được truyền từ bậc đạo sư Padmasambhava và được hiển thị vào thế kỷ mười bốn nhờ bậc thấu thị Tây Tạng Karma Lingpa.
"Sự giải thoát lớn do Nghe trong cơi Trung gian, Bardo Todrol", là một quyển sách độc đáo về tri kiến. Nó là một loại sách dẫn, một sách chỉ lộ tŕnh những trạng thái sau khi chết, cốt để một bậc thầy hay bạn đạo đọc cho một người sắp chết và sau khi chết. Ở Tây Tạng người ta tin rằng có "Năm Phương Pháp để đạt Giác Ngộ mà không cần Thiền": Nhờ thấy một bậc thầy vĩ đại hay một vật thiêng liêng; nhờ mặc những bức đồ h́nh mật tông và thần chú đă được làm phép đặc biệt; nhờ nếm nước thiêng, được chú nguyện bởi những bậc thầy trong thời gian tu nhập thất; nhờ nhớ lại sự chuyển di tâm thức, gọi là phowa, vào lúc chết; và nhờ nghe một vài giáo lư sâu xa, như "Giải thoát lớn do Nghe trong cơi Trung gian."
Quyển sách này, Tử thư Tây Tạng, đư?c dành cho một hành giả hay người đă quen thuộc với giáo lư trong đó. Đối với một độc giả tân tiến, th́ thật vô cùng khó để thâm nhập, nó nêu lên rất nhiều nghi vấn không thể trả lời nếu không có vài hiểu biết về truyền thống đă phát sinh ra Tử thư ấy. Nhất là v́ quyển sách này không thể được sử dụng và hiểu thấu đáo nếu không biết được những chỉ dẫn khẩu truyền mà một bậc thầy truyền cho môn đệ làm ch́a khóa để thực hành.
Trong tác phẩm này, tôi sẽ đặt những lời dạy – mà Tây phương đă quen thuộc qua quyển Tử thư Tây Tạng – trong một bối cảnh rộng lớn hơn và dễ hiểu hơn nhiều.
BARDO HAY CƠI BARDO
V́ tính cách phổ thông của cuốn Tử thư Tây Tạng, nên người ta thường liên kết danh từ Bardo với sự chết. Quả thực danh từ ấy, trong ngôn từ thường ngày ở Tây Tạng, được dùng để chỉ trạng thái trung gian giữa chết và tái sinh, nhưng nó có một ư nghĩa rộng lớn sâu xa hơn nhiều. Chính trong giáo lư này có lẽ hơn bất cứ chỗ nào khác, mà ta có thể thấy tri kiến của đức Phật về sống chết thực sâu xa và bao quát đến mức nào, và thực sự cái mà ta gọi chết kỳ thực bất khả phân ly, khi được nh́n và hiểu rơ từ nhăn quan của giác ngộ.
Chúng ta có thể chia toàn thể hiện hữu ta thành bốn thực tại: Sống, hấp hối và chết, sau khi chết, và tái sinh. Đấy là bốn Bardo hay Giai đoạn trung quan:
Bardo tự nhiên của đời này.
o Bardo đau đớn của sự chết.
o Bardo quang minh của pháp tánh.
o Bardo nghiệp của sự trở thành hay tái sinh.
1. Bardo tự nhiên của đời này trải dài suốt thời gian từ lúc sinh ra đến lúc chết. Trong t́nh trạng hiểu biết của ta hiện tại, giai đoạn này có vẻ như một cái ǵ to tát hơn là một chuyển tiếp. Nhưng nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rơ rằng, so với chiều dài vô tận của lịch sử nghiệp của ta, th́ thời gian ta sống trong đời này thực tương đối ngắn. Giáo lư nhấn mạnh với ta rằng, bạt đô đời này là thời gian duy nhất và tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết: Bằng cách làm quen với giáo lư này và ổn định sự tu tập.
2. Bardo đau đớn khi chết kéo dài từ khi hấp hối cho đến khi chấm dứt cái được biết là "hơi thở bên trong”; giai đoạn này lên cao độ ở sự ló dạng của tự tính tâm, cái ta gọi là "Ánh sáng căn bản" vào lúc chết.
3. Bardo quang minh của pháp giới là kinh nghiệm ngay sau khi chết về ánh sáng của tự tính tâm, quang sắc hay "Linh quang," xuất hiện dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.
4. Bardo nghiệp của hiện hữu hay trở thành, là cái mà ta thường gọi là cơi Bardo hay trung gian kéo dài cho tới khi ta tái sinh.
Điều phân biệt, định ranh giới mỗi Bardo là, chúng đều là những khoảng hở, những giai đoạn trong đó khả tính tỉnh thức hiện diện một cách rơ rệt. Những cơ hội để giải thoát đang xảy ra liên tục suốt cuộc sống chết, và giáo lư Bardo là ch́a khóa, là khí cụ giúp ta khám phá và nhận diện được những cơ hội ấy, và tận dụng chúng tối đa.
BẤT TRẮC VÀ CƠ HỘI
Một trong những đặc tính chính yếu của những Bardo (Giai đoạn trung gian) là, đấy là những thời kỳ vô cùng bất định. Cuộc đời này là một ví dụ rơ nhất. Thế giới quanh ta càng ngày càng quay cuồng, nên cuộc đời ta cũng càng phân tán thành nhiều mảnh. V́ bị mất liên lạc, không tiếp xúc được với chính ḿnh, chúng ta thường lo âu, bất an, và gần như bị chứng thần kinh loạn. Một khủng hoảng nhỏ cũng đủ chọc thủng cái bong bóng của những kế hoạch ta dự tính. Một phút giây kinh hoàng cũng đủ cho ta thấy mọi sự thật bấp bênh làm sao. Sống trong thế giới ngày nay là sống trong một cảnh rơ ràng là cơi Bardo, bạn không cần phải chết mới kinh quá một cơi như thế.
Tính cách bất định này, mà hiện tại đang thấm nhuần khắp mọi sự vật, càng trở nên mănh liệt hơn, rơ nét hơn, sau khi ta chết, khi mà tính sáng suốt hay mê mờ của chúng ta, theo lời những bậc thầy, "được nhân lên bảy lần."
Bất cứ ai nh́n cuộc đời một cách trung thực, cũng sẽ thấy rằng chúng ta đang sống trong một t́nh trạng miên viễn của hồi hộp và bất định. Tâm thức ta luôn luôn di chuyển từ trạng thái sáng suốt đi vào mê mờ, và từ mê mờ ra sáng suốt. Nếu mê mờ luôn, th́ ít nhất nó cũng sẽ đưa đến một thứ sáng suốt nào đó. Một điều đáng buồn cười của cuộc đời này là đôi khi, nh́n chung th́ ta ngu thực, song ta cũng có thể sáng suốt đột xuất! Điều này chứng tỏ cho ta thấy Bardo là ǵ: Một sự chập chờn giữa sáng suốt và mê mờ, giữa hoang mang và tuệ giác, chắc chắn và không chắc, khi tỉnh khi điên. Trong tâm ta hiện tại, tuệ giác và mê mờ khởi lên cùng lúc, đồng khởi. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải luôn luôn đối diện với một t́nh trạng chọn lựa giữa hai trường hợp, và mọi sự tùy thuộc ở chỗ ta sẽ chọn trường hợp nào.
Tính bất trắc miên viễn này có thể làm cho mọi sự có vẻ đáng chán và hầu như vô vọng, nhưng nếu nh́n kỹ, bạn sẽ thấy rằng tự bản chất nó đă tạo ra những khe hở, những khoảng không trong đó những cơ hội, dịp may để chuyển hóa luôn luôn phát sinh – nghĩa là, nếu chúng ta có thể thấy được và tóm lấy chúng.
V́ cuộc đời chỉ là một sự tuôn chảy bất tận giữa sống, chết và chuyển tiếp, nên những kinh nghiệm Bardo đang xảy đến cho chúng ta luôn luôn, và là một phần căn để làm nên toàn thể tâm thức ta. Tuy nhiên, b́nh thường chúng ta quên mất những bardo và khoảng hở giữa chúng, v́ tâm ta đi từ một t́nh huống "chắc ăn" này tới một t́nh huống chắc chắn khác, ta quen bỏ qua những chuyển tiếp luôn luôn xảy ra. Kỳ thực, như giáo lư có thể giúp ta hiểu, từng mỗi lúc trong kinh nghiệm của chúng ta là một Bardo, v́ mỗi ư tưởng, mỗi cảm xúc sinh khởi từ tự tính tâm và ch́m trở vào trong tự tính ấy. Giáo lư cho ta biết rằng, chính vào những lúc thay đổi và chuyển tiếp đặc biệt quan trọng, mà tự tính tâm nguyên ủy giống như bầu trời của chúng ta mới có cơ hội xuất hiện.
Tôi xin lấy một ví dụ. Tưởng tượng một ngày làm việc bạn trở về nhà và thấy cửa nhà bạn đă bị phá tung, cánh cửa lơ lửng treo nơi bản lề. Bạn đă bị kẻ cướp viếng nhà. Bạn đi vào trong, và thấy mọi thứ bạn sở hữu đều đă biến mất. Trong một lúc, bạn điếng người v́ cú sốc, và đầy tuyệt vọng bạn quay cuồng trải qua một tiến tŕnh tâm thức cố làm sao tạo lại những ǵ đă mất. Tai nạn đă tới: Bạn đă mất hết mọi thứ. Tâm thức đầy bất an giao động của bạn khi ấy bỗng choáng váng, và những ư tưởng lắng lại. Bỗng dưng có một sự vắng lặng sâu xa đột ngột, hầu như một kinh nghiệm hạnh phúc. Không c̣n phải phấn đấu, không cần ǵ nỗ lực nữa, v́ cả hai chuyện đều vô vọng. Bạn chỉ có buông bỏ, v́ không có chọn lựa nào khác.
Thế là một phút trước, bạn mất một cái ǵ quư báu, và ngay sau đó, bạn cảm thấy tâm bạn đang ở trong một trạng thái an tĩnh sâu xa. Khi loại kinh nghiệm ấy xảy đến, th́ đừng vội bủa đi t́m một giải pháp ngay. Hăy ở lại một lúc trong trạng thái an tĩnh đó. Hăy cứ để nó là một khoảng hở. Và nếu bạn thực sự an trú trong khoảng trống ấy, nh́n vào tâm bạn, bạn sẽ thoáng thấy được bản chất bất tử của tâm giác ngộ. Ta càng có tính cảm thụ sâu xa và tỉnh giác bén nhạy đối với những khoảng trống, những giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời như trên (đó là những cơ hội lạ lùng đưa ta đến tuệ giác căn để), th́ nội tâm ta càng được chuẩn bị khi chúng xảy đến một cách vô vàn mănh liệt hơn, và không được kiểm soát, vào lúc ta chết.
Điều này tối quan trọng, v́ giáo lư về Bardo cho ta biết có những lúc mà tâm thức tự do hơn b́nh thường rất nhiều, những thời điểm mănh liệt hơn những thời khác rất nhiều, những giây phút mang theo gánh nặng và hàm ẩn của nghiệp mạnh mẽ hơn nhiều lúc khác. V́ lúc ấy cơ thể bị bỏ lại, và ta được cống hiến cái cơ hội ngàn năm một thuở để giải thoát.
Dù ta có làm chủ được tâm một cách thuần thục đến bao nhiêu, ta vẫn bị giới hạn bởi thân xác và nghiệp của nó. Nhưng với cái chết – sự phóng thích xác thân vật lư – ta có được cái cơ hội kỳ diệu nhất để hoàn tất những ǵ ta đă nỗ lực theo đuổi trong suốt cuộc đời tu tập của ta. Ngay cả một bậc thầy tối thượng đă đạt đến sự chứng ngộ cao nhất, th́ sự giải phóng cuối cùng cũng chỉ xảy đến vào lúc chết, gọi là Parinirvana, đại niết bàn. Đấy là lư do ở Tây Tạng, chúng tôi không mừng sinh nhật những bậc thầy, mà mừng Ngày chết của họ, cái giây phút họ đạt giác ngộ tối hậu.
Lúc tôi c̣n bé ở Tây Tạng, và nhiều năm về sau, tôi đă nghe nhiều chuyện kể về các bậc hành giả mật tông vĩ đại và ngay cả những cư sĩ tu yoga có vẻ b́nh thường, đă chết một cách lạ lùng gây nhiều cảm kích. Chỉ đến lúc chết họ mới phô diễn chiều sâu của sự thực chứng nơi họ, và năng lực của nền giáo lư mà họ đă thể hiện.
Giáo lư Dzogchen cổ xưa - từ đó phát sinh Tử thư Tây Tạng – có nói về một giống chim thần thoại, chim Garuda (kim sí điểu), mới sinh ra đă đủ lông cánh. H́nh ảnh ấy tượng trưng cho bản tính sơ nguyên của ta, đă hoàn hảo từ khởi thủy. Con chim con Garuda đă phát triển lông cánh đầy đủ ở trong trứng, nhưng không thể bay trước khi trứng nở ra. Chỉ vào lúc vỏ trứng nứt ra, nó mới tung cánh bay lên bầu trời. Cũng vậy, theo lời các bậc thầy, những đức tính của Phật bị che mờ bởi cái thể xác, nên khi rũ bỏ được xác thân, những đức tính ấy sẽ hiển lộ một cách sáng chói.
Lư do tại sao thời điểm chết lại là cơ hội đầy tiềm năng như thế, là v́ chính lúc đó bản chất căn để của tâm, Ánh sáng Căn bản hay Linh Quang, sẽ tự nhiên hiển bày một cách rộng lớn và tráng lệ huy hoàng. Theo giáo lư Bardo, nếu vào lúc ấy ta có thể nhận chân được Ánh sáng Căn bản, th́ ta sẽ đạt giải thoát.
Tuy nhiên điều này không thể xảy ra nếu bạn chưa làm quen và thực sự quen thuộc với bản chất của tâm trong đời sống, qua sự thực hành thiền định. Và đấy là lư do tại sao một người giải thoát vào lúc chết được xem là giải thoát trong đời này, chứ không phải trong trạng thái trung gian sau khi chết. V́ chính trong lúc sống mà sự trực ngộ ánh Linh Quang đă xảy và được an trú. Đây là điểm tối quan trọng cần thiết.
NHỮNG THỰC TẠI KHÁC
Tôi đă nói rằng những Bardo là những cơ hội, nhưng cái ǵ thực sự ở trong những bạt đô làm cho ta có thể tóm lấy cơ hội mà chúng cống hiến? Câu trả lời rất đơn giản: Chúng đều là những trạng thái khác nhau, những thực tại khác của tâm.
Trong sự thực hành Phật giáo, qua thiền định, chúng ta chuẩn bị để khám phá những khía cạnh tương quan của tâm, và khéo léo đi vào những mức độ khác nhau của ư thức. Có một tương quan chính xác và rơ rệt giữa những trạng thái trung gian và những tầng lớp tâm thức mà ta kinh nghiệm qua chu kỳ sống chết. Bởi thế khi ta di chuyển từ một Bardo này tới Bardo khác, cả trong lúc sống lẫn lúc chết, th́ có một thay đổi tương đương trong tâm thức; và nhờ thực tập thiền, chúng ta có thể làm quen, thân thiết với nó, và cuối cùng có thể hoàn toàn hiểu rơ nó.
V́ cái tiến tŕnh diễn ra trong cơi trung gian sau khi chết đă nằm sẵn trong những tầng sâu của tâm thức chúng ta, nên nó cũng thể hiện trong đời sống với nhiều từng bực. Chẳng hạn, có một tương đương rơ rệt giữa những mức độ tinh tế của tâm thức mà chúng ta trải qua trong giấc ngủ và mộng mị, với ba Bardo liên hệ tới cái chết:
o Đi ngủ là giống như Bardo chết, trong đó tứ đại và tiến tŕnh tư duy tan ră, mở vào kinh nghiệm Ánh sáng căn bản.
o Chiêm bao là giống như Bardo tái sinh, trạng thái trung gian trong đó bạn có một “ư sanh thân” (thân bằng tư tưởng) rất hoạt động và sáng suốt, trải qua đủ thứ kinh nghiệm. Trong trạng thái mộng mị, chúng ta cũng có một loại thân như thế, thân trong mộng, trong đó chúng ta trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống trong mộng.
o Khoảng giữa Bardo chết và Bardo tái sinh, có một trạng thái rất đặc biệt của quang sắc hay Ánh sáng căn bản, được gọi là "Bardo pháp tánh.” Đấy là một kinh nghiệm xảy đến với tất cả mọi người, nhưng rất ít người có thể chú ư đến nó, huống hồ kinh nghiệm nó một cách toàn vẹn, v́ nó chỉ được nhận chân bởi một hành giả đă tu tập. Bardo pháp tánh này tương đương với giai đoạn sau khi ngủ và trước khi bắt đầu chiêm bao.
Dĩ nhiên những giai đoạn tâm mờ mịt (tức những Bardo) trong khi chết là những trạng thái tâm thức sâu xa hơn và mănh liệt hơn nhiều so với trạng thái ngủ và mộng, nhưng chúng cũng có từng mức độ tinh tế như vậy. Những bậc thầy thường sử dụng sự so sánh đặc biệt này để chỉ cho ta thấy thật khó như thế nào để duy tŕ sự tỉnh giác suốt trong những trạng thái Bardo. Có bao nhiêu người trong chúng ta ư thức được sự thay đổi trong tâm ta trong khi ngủ? Hay ư thức được cái lúc những giấc mộng bắt đầu? Có bao nhiêu người trong chúng ta ư thức được ngay khi mộng, rằng ḿnh đang nằm mộng? Vậy, hăy tưởng tượng duy tŕ được sự tỉnh giác trong giây phút kinh hoàng của những giai đoạn trung gian sau khi chết là khó đến mức nào.
Tâm bạn như thế nào trong giấc ngủ và trong trạng thái mộng, chỉ cho bạn biết tâm bạn sẽ như thế nào trong những trạng thái chết và tái sinh; ví dụ, cái cách bạn phản ứng đối với chiêm bao, ác mộng, và những khó khăn hiện tại, chứng tỏ bạn sẽ phản ứng như thế nào sau khi bạn chết.
Đấy là lư do pháp yoga về ngủ và mộng đóng vai tṛ quan trọng trong sự chuẩn bị cho cái chết. Điều mà một hành giả thực thụ t́m cách làm là giữ cho sự tỉnh giác về tự tánh tâm luôn luôn liên tục không gián đoạn ngày và đêm, và dùng ngay những giai đoạn khác nhau của giấc ngủ và mộng để trực nhận và quen thuộc với những ǵ sẽ xảy ra trong các giai đoạn bạt đô sau khi chết.
Bởi thế chúng ta t́m thấy hai Bardo khác cũng gồm trong Bardo tự nhiên của đời này: Bardo ngủ và mộng, và Bardo của thiền định. Thiền định là hành thiền ban ngày, c̣n yoga ngủ và mộng là thực hành về đêm. Trong truyền thống mà Tử thư Tây Tạng thuộc vào, có thêm hai Bardo này vào bốn Bardo nói trên, làm thành sáu Bardo.
SỐNG CHẾT TRONG L̉NG BÀN TAY
Mỗi Bardo có một loạt chỉ dẫn và hành thiền riêng của nó, được hướng dẫn đúng vào những thực tại và tâm trạng đặc biệt của từng Bardo. Đây là cách làm thế nào những thực tập và huấn luyện tâm linh dành cho mỗi trạng thái Bardo có thể giúp chúng ta tận dụng những trạng thái ấy, và những cơ hội do chúng đem lại, để giải thoát. Điểm cốt yếu cần hiểu về Bardo là: Nhờ tuân theo sự luyện tập này, ta có thể thực sự trực nhận được những trạng thái tâm ấy trong lúc ta c̣n sống. Chúng ta có thể thực sự kinh nghiệm chúng ngay bây giờ ở đây.
Sự hoàn toàn làm chủ những chiều không gian khác nhau của tâm thức có thể khó hiểu đối với người tây phương, nhưng không phải là không thể đạt được.
Kunu Lama Tenzin Gyaltsen là một bậc thầy đă thành tựu tâm linh, xuất thân từ vùng núi tuyết thuộc miền Bắc Ấn. Khi c̣n trẻ, ngài gặp một vị Lama ở Sikkim, ông khuyên ngài đi Tây Tạng để học Phật. Bởi thế ngài đi đến tỉnh Kham miền đông Tây Tạng, ở đấy ngài hấp thụ giáo lư từ một vài Lạt ma vĩ đại, trong đó có Jamyang Khientse, thầy tôi. Kiến thức về Phạn ngữ của Kunu Lama làm cho ngài được kính nể và mở ra cho ngài nhiều cánh cửa. Những bậc thầy hăng hái dạy ngài với hy vọng ngài sẽ đem những giáo lư ấy về truyền bá ở Ấn Độ, nơi mà giáo lư Phật hầu như đă biến mất. Trong thời gian ngài ở Tây Tạng, Kunu Lama trở thành một bậc đa văn và có thực chứng.
Cuối cùng ngài cũng trở về Ấn Độ, ở đấy ngài sống như một nhà khổ hạnh chân chính. Khi thầy tôi và tôi đến hành hương xứ Ấn sau khi rời Tây Tạng, chúng tôi đi t́m kiếm ngài khắp nơi ở Benares. Cuối cùng chúng tôi gặp ngài đang ở trong một ngôi đến Ấn giáo. Không ai biết ngài là ai, lại c̣n không biết ngài là một người theo Phật giáo, đừng nói ǵ biết ngài là một bậc thầy. Người ta chỉ biết ngài là một thầy tu yoga thánh thiện dễ mến, và cúng dường ngài thực phẩm. Mỗi khi nghĩ về ngài, tôi luôn tự nghĩ:
- Có lẽ thánh Francis of Assisi cũng như thế đấy.
Khi những tu sĩ Tây Tạng mới đến Ấn trong cuộc lưu đày, Kunu Lama được chọn để dạy văn phạm và Phạn ngữ ở một ngôi trường do Dalai Lama sáng lập. Nhiều Lamas uyên bác theo học với ngài, và đều xem ngài là một vị thầy tuyệt hảo về ngôn ngữ. Nhưng một ngày nọ, có người t́nh cờ hỏi ngài về Phật pháp. Câu trả lời của ngài vô cùng sâu sắc. Bởi vậy họ tiếp tục hỏi ngài nhiều câu, và thấy rằng ngài có thể giải đáp bất cứ câu hỏi nào họ đặt ra. Danh tiếng ngài lan rộng, và chẳng bao lâu ngài giảng dạy cho những tu sĩ thuộc các trường phái khác nhau, những giáo lư thuộc truyền thống riêng của họ.
Đức Dalai Lama lúc ấy đă nhận ngài làm vị hướng đạo tâm linh. Ngài công nhận Kunu Lama là nguồn cảm hứng cho ngài giảng dạy và thực hành từ bi. Quả thế, Kunu Lama là một điển h́nh sống động của từ bi. Mặc dù ngài rất nổi tiếng, ngài không hề thay đổi. Ngài vẫn vận những y phục đơn giản như cũ, và sống trong một gian pḥng nhỏ. Khi ai đến cúng dường ngài một thứ ǵ, ngài liền đem làm quà cho người khác kế tiếp. Ai nấu cho ngài, ngài sẽ ăn, nếu không ai nấu, ngài nhịn.
Một hôm một bậc thầy mà tôi quen biết tới viếng Kunu Lama để hỏi ngài vài câu hỏi về những trạng thái Bardo. Vị thầy này là một giáo sư rất uyên bác trong truyền thống Tử thư, và có kinh nghiệm về những sự hành tŕ liên hệ đến Bardo. Ông ta kể lại cho tôi nghe ông đă ngạc nhiên mê mẩn như thế nào khi lắng nghe Kunu Lama trả lời. Ông chưa từng nghe những điều hay như thế bao giờ. Khi ngài mô tả những trạng thái Bardo, thực quá sống động và khúc chiết đến nỗi ta có cảm tưởng ngài đang chỉ dẫn đường đi đến Kensington High Street, hay Công viên trung ương, hay điện Elysées. Nó dường như thể ngài đă từng thực sự sống trong những trạng thái ấy.
Kunu Lama chỉ dẫn những Bardo bằng kinh nghiệm trực tiếp của chính ngài. Một hành giả tầm cỡ như ngài thường du hành qua tất cả chiều không gian khác nhau của thực tại. Và v́ những trạng thái Bardo đều chứa sẵn trong tâm chúng ta, nên chúng có thể được khơi mở, phóng thích, nhờ những thực hành thiền quán.
Những giáo lư ấy xuất phát từ trí tuệ của chư Phật, những người có thể thấy suốt sinh tử như nh́n vào ḷng bàn tay.
Chúng ta cũng là những vị Phật. Bởi thế nếu ta có thể thực hành trong cơi trung gian là cuộc đời này, tập đi sâu vào tự tính tâm chúng ta, ta có thể khám phá tri kiến về những cơi trung gian hay Bardo khác. Sự thật của những giáo lư về cơi trung gian tự nó sẽ mở ra trong ta. Bởi thế, giai đoạn trung gian tự nhiên của đời này là giai đoạn quan trọng nhất. Chính ngay bây giờ và ở đây, ta phải chuẩn bị cho tất cả những giai đoạn Bardo khác:
- Cách tối thượng để chuẩn bị là ngay bây giờ, đạt giác ngộ ngay trong đời này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 14 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
8. ĐỜI NÀY: CƠI BARDO TỰ NHIÊN
Ta hăy thám hiểm Bardo đầu tiên, Bardo tự nhiên của cuộc đời, cùng những hàm ẩn của nó, rồi sẽ tiếp tục thám hiểm ba Bardo kia theo thứ tự và thời gian thích hợp. Bardo tự nhiên của cuộc đời này trải dài suốt cuộc đời từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Giáo lư về Bardo làm ta hiểu rơ tại sao đời này lại là một cơ may quư báu, được làm người có nghĩa ǵ, và ǵ là điều quan trọng nhất, cốt yếu nhất ta nên làm đối với tặng phẩm vô giá này, nghĩa là một đời người.
Những bậc thầy cho ta biết có một khía cạnh làm nền tảng căn để của tâm ta, gọi là "nền tảng của tâm thường ngày." Longchenpa, bậc thầy Tây Tạng thế kỷ thứ mười bốn, mô tả nó như sau:
- Đó là một trạng thái trung tính, không giác ngộ, thuộc về tâm và tâm sở, đă trở thành nền tảng cho mọi hành nghiệp và dấu vết của sinh tử và niết bàn.
Nó có nhiệm vụ như một cái nhà kho, trong đó những dấu ấn của các hành vi quá khứ do cảm xúc tiêu cực gây ra được tích chứa lại như những hạt giống. Khi những điều kiện thích hợp phát sinh, chúng nẩy mầm và biểu hiện thành hoàn cảnh của đời ta.
Hăy tưởng tượng cái nền tảng của tâm ấy giống như một ngân hàng trong đó nghiệp được gửi vào kể như những dấu ấn của khuynh hướng thói quen. Nếu ta có thói suy nghĩ theo một mẫu mực đặc biệt nào đó, tiêu cực hay tích cực, những khuynh hướng ấy sẽ bị kích động dễ dàng, cứ trở lại và tiếp tục trở lại. Với sự lặp đi lặp lại ấy, những khuynh hướng và tập quán của ta càng ăn sâu, tăng trưởng, thêm năng lực, ngay cả khi ta ngủ. Đây là cách những thói quen, khuynh hướng ấy định đoạt đời ta, cái chết và tái sinh của ta.
Chúng ta thường tự hỏi: "Tôi sẽ như thế nào khi tôi chết?" Câu trả lời là, như cái tâm trạng mà hiện thời ta đang là, loại người mà ta đang là:
- Ta sẽ như thế ấy khi ta chết, nếu ta không thay đổi. Đấy là lư do tại sao thực quan trọng để xử dụng cuộc đời hiện tại của ḿnh để thanh lọc luồng tâm thức, và do đó thanh lọc con người và tính t́nh ta, trong khi ta c̣n có thể làm việc ấy.
CÁI THẤY DO NGHIỆP LỰC
Tại sao chúng ta sinh làm người? Tất cả hữu t́nh có nghiệp giống nhau sẽ có một cái thấy giống nhau về thế giới xung quanh, toàn bộ thấy biết mà họ cùng có ấy gọi là "cái thấy do nghiệp." Sự tương ứng mật thiết giữa nghiệp chúng ta với hoàn cảnh ta gặp, cũng giải thích được sự xuất hiện những h́nh tướng khác nhau: Chẳng hạn bạn và tôi là những con người, là do cái nghiệp căn để chung mà chúng ta cùng san sẻ. Tuy nhiên ngay trong thế giới người, chúng ta c̣n có mỗi người một nghiệp riêng. Chúng ta được sinh ra trong những xứ sở khác nhau, đô thị, gia đ́nh khác; mỗi người hấp thụ một nền giáo dục khác, có những ảnh hưởng và niềm tin khác, tất cả những thứ này gồm chung lại thành nghiệp riêng của mỗi người. Mỗi chúng ta là một tổng thể những thói quen và hành động quá khứ, do vậy chúng ta chỉ có thể nh́n thấy sự vật bằng cái lối nh́n riêng biệt độc đáo của ta. Con người có vẻ giống nhau nhưng nh́n sự vật với cách hoàn toàn khác nhau, mỗi người sống trong một thế giới độc đáo của riêng ḿnh. Kalu Rinpoche nói:
- Một trăm người chiêm bao, th́ có trăm cảnh mộng khác nhau. Có thể nói mọi giấc mộng đều thực, nhưng thật phi lư nếu cả quyết rằng chỉ có một của một người là cảnh thực, những cảnh mộng khác đều sai sự thật. Mỗi người thấy sự thực tùy theo nghiệp chi phối những nhận thức của họ.
LỤC ĐẠO
Đời người chúng ta không phải là nghiệp cảnh duy nhất. Phật giáo phân biệt sáu cơi hiện hữu: Trời, a tu la, người, súc sinh, quỷ đói, địa ngục. Mỗi cơi là hậu quả của một trong sáu cảm xúc tiêu cực chính yếu: Kiêu mạn, ganh tị, dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ.
Sáu cơi ấy có thực sự hiện hữu bên ngoài không? Chúng quả có thể hiện hữu vượt ngoài tầm nghiệp thấy của ta. Đừng bao giờ quên: "Cái ǵ chúng ta thấy chỉ là do nghiệp, thấy của chúng ta khiến cho thấy, không ǵ khác." Cũng như trong hiện tại, với nhận thức bất tịnh, chưa tiến hóa của chúng ta, chúng ta chỉ biết được vũ trụ này, một con vi trùng cũng thế, có thể thấy một ngón tay của ta như cả một phong cảnh. Chúng ta kiêu căng tới nỗi chỉ tin rằng "thấy là tin tưởng" (nghĩa là, có thấy mới tin.) Nhưng những giáo lư cao của Phật thường nói đến vô lượng thế giới trong nhiều chiều không gian khác nhau – có thể có nhiều thế giới rất giống với thế giới chúng ta – và nhiều nhà thiên văn hiện đại đă có những giả thuyết về sự hiện hữu những vũ trụ song hành với vũ trụ này. Làm sao ta có thể cả quyết cái ǵ hiện hữu hay không hiện hữu ở bên kia giới hạn tri kiến hẹp ḥi của chúng ta?
Nh́n vào thế giới xung quanh ta, và vào tâm ta, ta có thể thấy quả thực có sáu cơi luân hồi. Chúng hiện hữu khi chúng ta vô t́nh để cho những cảm xúc tiêu cực nơi ta chiếu ra và kết tinh thành những hoàn cảnh sống (cơi, hay y báo), và để cho những cảm xúc ấy định đoạt mẫu mực, h́nh dạng, hương vị và toàn thể đời ta trong những cơi ấy. Sáu cơi cũng hiện hữu trong tâm ta dưới dạng những hạt giống và khuynh hướng tiêu cực luôn sẵn sàng để nẩy nầm và tăng trưởng, tùy theo ảnh hưởng bên ngoài và lối sống của ta.
Ta hăy nh́n xem một vài cơi như thế đă được phản chiếu và cô đọng lại trong thế giới quanh ta như thế nào. Đặc tính chính của cơi trời chẳng hạn, là vắng bóng khổ đau, một cơi có sắc đẹp bất biến và mê mẩn theo dục lạc. Hăy tưởng tượng những vị thiên thần cao ráo, tóc hung đang tản bộ trên bờ biển, trong những khu vườn ngập nắng, đang lắng nghe bất cứ bản nhạc nào họ ưa thích, đang say sưa với đủ mọi thứ kích thích, hăng say học yoga thiền định, luyện thân thể, và t́m đủ cách để cải thiện chính ḿnh, nhưng không bao giờ động năo, không bao giời xúc chạm một sự rắc rối nào, một hoàn cảnh đau khổ nào, không bao giờ ư thức đến tính bản nhiên của họ, bị "gây mê" đến độ họ không bao giờ ư thức được t́nh huống đích thực của ḿnh.
Nếu một vài vùng ở California hay úc châu hiện lên trong tâm ta như cơi thiên giới, th́ bạn cũng có thể thấy cơi tu la có lẽ diễn ra hàng ngày trong sự cạnh tranh mưu mẹo ở vùng Wall Street hay trong những hành lang của Washington và Ṭa Bạch ốc. C̣n cơi ngạ quỷ ở đâu? Nó hiện hữu ở bất cứ nơi nào mà con người, dù đă giàu có vô tận, cũng không bao giờ thỏa măn, muốn chiếm lấy công ti này, công ti nọ, hoặc tỏ ḷng tham không đáy của họ tại các vụ án ṭa. Hăy bật truyền h́nh lên bất cứ đài nào, bạn sẽ đi vào ngay cái thế giới của tu la và quỷ đói.
Tính chất cuộc đời trong cơi chư thiên có vẻ như thư thản hơn thế giới chúng ta, nhưng các bậc thầy lại bảo đời người là vô vàn quư báu hơn. Tại sao? V́ chính cái sự kiện rằng chúng ta có tỉnh giác và thông minh, những nguyên liệu cho giác ngộ. Và v́ sự đau khổ lan khắp cơi người ta chính là cái bàn đạp để cho ta làm cuộc chuyển hóa tâm linh. Sự đau đớn, buồn phiền mất mát, và đủ thứ bất măn vô tận ở trong cuộc đời, thực sự chỉ có một mục đích đáng kể duy nhất là: Đánh thức chúng ta tỉnh dậy, giúp ta có thể - gần như bắt buộc ta - phải bứt ra khỏi chu kỳ sinh tử và nhờ thế bung ra được ánh quang vinh đang bị vây hăm trong ta.
Mọi truyền thống tôn giáo đều nhấn mạnh rằng đời người là cơ hội duy nhất, và có một tiềm năng ghê gớm mà thường ta không ngờ tới. Nếu ta để lỡ cơ hội mà cuộc đời này cống hiến cho ta tự chuyển hóa, th́ có thể một thời gian vô cùng tận nữa ta mới có được cơ hội khác. Hăy tưởng tượng có một con rùa mù bơi trong đại dương bát ngát. Trên mặt biển có một cái ṿng bằng gỗ nhấp nhô theo sóng. Cứ một trăm năm con rùa mới ngoi lên mặt biển một lần. Theo ví dụ trong Phật giáo, được sinh làm người c̣n khó hơn là con rùa nổi lên và chui được cái đầu của nó vào chiếc ṿng gỗ ấy. Và trong số những người được sinh làm người, th́ những kẻ may mắn được gặp nền giáo lư này cũng rất hiếm; và những người thực sự để tâm đến giáo lư và thể hiện giáo lư trong đời sống lại càng hiếm hoi, quả vậy, "như sao mọc ban ngày."
CÁNH CỬA NHẬN THỨC
Như tôi đă nói, cách chúng ta nh́n thế giới tùy thuộc hoàn toàn vào nghiệp của ta. Những bậc thầy có ví dụ sáu loài chúng sinh nh́n ḍng sông. Loài người thấy con sông là nước, để tắm rửa hoặc để uống; loài cá thấy đó là nhà ở của chúng; loài trời trời thấy đó là vị cam lồ đem lại phúc lạc; loài tu la thấy đó là khí giới của chúng, loài quỷ đói thấy ra máu mủ tanh hôi; c̣n loài địa ngục th́ thấy là nước đồng sôi. Nước chỉ có một, nhưng được trông thấy nhiều cách khác nhau, nhiều khi hoàn toàn trái ngược.
Sự nhận thức theo nhiều kiểu đa dạng như thế chứng tỏ rằng tất cả cái thấy do nghiệp đều là ảo tưởng; v́ nếu một chất mà có thể được thấy ra nhiều cách như thế, th́ làm sao có thứ ǵ thực sự có được một thực hữu nội tại? Và nó cũng cho ta thấy rằng có thể một vài người cảm thấy thế giới này là thiên đường, vài người khác cho là địa ngục.
Giáo lư cho ta biết cốt yếu có ba loại thấy: "Cái thấy bất tịnh, do nghiệp" của phàm phu; "Cái thấy do kinh nghiệm," mở ra cho những người hành thiền, mà là con đường siêu việt; và "Cái thấy thuần tịnh" của những bậc giác ngộ. Một vị Phật hay người đă giác ngộ, sẽ thấy thế giới này toàn hảo một cách tự nhiên, một cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh sáng chói. V́ đă tịnh trừ những nguyên nhân gây nên cái thấy đầy nghiệp chướng, nên họ thấy mọi sự trong vẻ thiêng liêng nguyên ủy giản đơn của nó.
Sở dĩ thấy mọi sự quanh ta theo kiểu ta thấy bây giờ, là v́ ta luôn luôn củng cố kinh nghiệm về thực tại bên trong và bên ngoài cùng một cách ấy đời này sang đời khác, và điều này đưa ta đến nhận thức sai lầm rằng cái ǵ ta trông thấy là thực hữu một cách khách quan. Kỳ thực, khi ta đi sâu hơn vào sự tu tập, ta dần biết cách làm việc thẳng với những nhận thức cố chấp của ta. Mọi khái niệm sai lầm cũ của ta về thế giới, về vật chất và về chính ta, đều được lọc sạch, tan ră, và một cái thấy hoàn toàn mới, gần như thiên nhăn mở ra, như Blake nói:
- Nếu cái cửa nhận thức được lọc sạch
Th́ mọi sự sẽ xuất hiện nguyên vẹn bao la
Tôi không sao quên được lúc thầy Dudjom Rinpoche cao hứng thân mật bảo tôi qua giọng nói cao và khàn của thầy:
- Này, con biết chứ, thực sự mọi vật chung quanh ta đang biến mất, biến mất...
Nhưng với phần đông chúng ta, nghiệp và những cảm xúc tiêu cực cứ ngăn che chúng ta không cho thấy bản chất nội tại tự nhiên của ḿnh, và bản chất sự vật. Kết quả là ta bám lấy hạnh phúc và đau khổ cho là thực có, và một cách ngu si ta cứ tiếp tục gieo hạt giống cho đời sau của ta. Những hành nghiệp cứ trói buộc chúng ta vào chu kỳ tiếp nối của sinh tử bất tận. Bởi thế mọi sự đang bấp bênh, tùy thuộc cách ta sống hiện giờ, ngay giờ phút này. Ta đang sống như thế nào bây giờ, có thể ảnh hưởng toàn thể tương lai ta.
Đấy là lư do cấp thiết thực sự khiến ta phải chuẩn bị để gặp gỡ cái chết với thái độ thông minh, để chuyển hóa nghiệp vị lai của ta, tránh cái thảm kịch cứ bị rơi trở lại vào trong vô minh vọng tưởng và lập lại chu kỳ sống chết khổ nhọc. Cuộc đời này là th́ gian và nơi chốn duy nhất cho ta chuẩn bị, và ta chỉ có thể thực sự chuẩn bị nhờ tu tập tâm linh. Đây là thông điệp không thể tránh của đời này, một giai đoạn trung gian tự nhiên. Padmasambhava nói:
- Khi Bardo đời này xuất hiện với tôi.
Tôi sẽ từ bỏ lười biếng v́ cuộc đời ngắn ngủi
Đi vào con đường thấy, nghe, nghĩ, quán tưởng không xao lăng
Lấy tâm và nhận thức làm con đường, để thực hiện ba thân: tâm giác ngộ.
Bây giờ một khi tôi đă được thân người
Không có th́ giờ cho tâm lang thang trên đường nữa.
TUỆ GIÁC VÔ NGĂ
Đôi khi tôi tự hỏi một người nhà quê ở Tây Tạng sẽ cảm thấy thế nào nếu bạn th́nh ĺnh đưa họ đến một đô thị tân tiến với đủ thứ kỹ thuật tinh xảo. Có lẽ người ấy sẽ tưởng ḿnh đă chết và đang ở trong trạng thái Bardo, sẽ há hốc miệng ra, đầy ngờ vực, mà nh́n những chiếc phi cơ bay trong bầu trời trên đầu y, hoặc ngắm một người đang nói chuyện bằng điện thoại với một người khác ở bên kia thế giới. Y sẽ cho rằng ḿnh đang chứng kiến những phép thần thông. Thế mà tất cả điều đó dường như rất tự nhiên đối với người sống trong thế giới tân tiến, được nền giáo dục Tây phương giải thích từng bước một.
Cũng giống như thế, trong Phật giáo Tây Tạng, có một nền giáo dục tâm linh cơ bản, sơ đẳng, b́nh thường, một sự huấn luyện tâm linh đầy đủ về cơi trung gian là cuộc đời này, đem lại cho bạn ngữ vựng thiết yếu, ABC của tâm thức. Căn bản của sự huấn luyện này được gọi là "ba dụng cụ của trí tuệ": Văn tuệ, biết lắng nghe; Tư tuệ, biết tư duy quán tưởng, và Tu tuệ, biết thiền. Nhờ đấy chúng ta đi đến chỗ đánh thức tự tính tâm của ta, nhờ đấy chúng ta t́m thấy đư?c sự thật ta là ai, và thể hiện niềm vui giải thoát - gọi là trí vô ngă.
Tưởng tượng một người th́nh ĺnh tỉnh dậy ở bệnh viện sau một tai nạn xe hơi, và thấy ḿnh hoàn toàn mất trí nhớ. Bên ngoài, mọi sự vẫn y nguyên: Nàng vẫn c̣n gương mặt ấy, h́nh dáng ấy, các giác quan và tâm vẫn ở đấy, nhưng hoàn toàn không nhớ thực sự ḿnh là ai. Cũng y hệt như vậy, ta không thể nhớ được bản lai diện mục của ḿnh. Khinh hoàng, sợ hăi, ta nh́n quanh và đặt bày ra một lư lịch khác, một lư lịch ta bám lấy với tất cả sự tuyệt vọng của một người đang rơi vào hố thẳm. Cái lư lịch giả tạo, được bày đặt trong lúc vô minh đó gọi là cái tôi, "tự ngă."
Vậy, ngă là sự vắng mặt tri kiến chân thực về ta là ai, cùng với những hậu quả của nó: Một sự bám víu tuyệt vọng, bằng mọi giá, vào một khối chắp vá, một h́nh ảnh tạm thời về cái ta, một tự ngă luôn luôn biến chuyển và phải biến chuyển để duy tŕ cái ảo tưởng về hiện hữu của nó. Tạng ngữ gọi ngă là dak dzin, có nghĩa "tóm lấy một cái ngă." Ngă như vậy được định nghĩa là những di chuyển không ngừng của sự chấp thủ một quan niệm lừa dối về "tôi" và "của tôi," tự và tha, và chấp thủ mọi khái niệm, ư tưởng, dục vọng, và hoạt động nào sẽ duy tŕ cái cấu trúc giả tạo ấy. Một sự bám víu như vậy là vô lối ngay từ khởi thủy, và đương nhiên phải bất măn, v́ không có cơ sở chân lư nào trong đó, v́ những ǵ ta bám víu tự bản chất đă không thể nắm bắt. Sự kiện chúng ta cần bám víu và cứ vẫn tiếp tục bám víu, chứng tỏ rằng tự thẳm sâu trong bản thể ta, ta biết cái ngă đó vốn không có thực chất nội tại. Từ cái biết âm thầm, làm ta bực bội đó, phát sinh mọi nỗi bực bội đó, phát sinh mọi nỗi bất an lo sợ trong ta.
Bao lâu ta chưa lột mặt nạ cái ngă thi nó c̣n tiếp tục đánh lừa chúng ta, như một chính trị gia bịp bợm luôn luôn rêu rao những hứa hẹn giả dối, hay một luật sư không ngừng phát minh những lời nói dối và biện hộ tinh vi, hay một chuyên viên quảng cáo cứ tiếp tục ba hoa những lời thuyết phục ngọt lịm mà trống rỗng.
Nhiều đời kiếp vô minh đă đưa ta đến chỗ đồng hóa toàn diện bản thể ḿnh với cái ngă. Chiến thắng lớn nhất của cái ngă là thuyết phục được cho ta tin rằng lợi lạc nhất cho nó cũng là cho ta, và lại c̣n đồng hóa sự sống c̣n của ta với của chính nó. Đây là một mỉa mai to lớn, khi ta xét rằng ngă và sự chấp thủ của nó chính là gốc rễ mọi đau khổ của ta. Nhưng v́ chúng ta đă bị cái ngă lừa bịp quá lâu, bị nó thuyết phục quá hay, đến nỗi nội cái ư nghĩ rằng ta có thể trở thành vô ngă làm cho ta sợ hăi. Cái ngă rỉ tai ta rằng, vô ngă là mất hết tất cả huyền thoại phong phú của con người, chỉ c̣n là một người máy vô vị hay một cây cỏ không óc năo.
Cái ngă đánh một đ̣n xuất sắc vào nỗi sợ hăi căn để của ta, là sợ mất quyền kiểm soát, sợ cái mà ta chưa từng biết. Ta có thể tự nhủ:
- "Ḿnh cũng nên buông cái ngă ra lắm chứ, ḿnh đau khổ v́ nó, nhưng nếu ḿnh làm thế, th́ cái ǵ sẽ xảy đến cho ḿnh?"
Cái ngă sẽ tán đồng ngay trong một cách ngọt lịm:
- "Tôi biết đôi khi tôi cũng rầy rà thực, và thực t́nh tôi hoàn toàn thông cảm nếu anh muốn buông tôi ra. Nhưng có thực anh muốn như thế không nào? Ai sẽ săn sóc anh? Ai sẽ che chở và thương lấy anh như tôi đă làm bao nhiêu năm nay?"
Và ngay dù ta thấy rơ tận ruột gan những lời dối trá của cái ngă, chúng ta cũng quá sợ không dám bỏ nó, v́ ta chưa biết một tí ǵ về tự tính của tâm ta, lư lịch chân thực của ta, nên rơ ràng ta không có cách nào khác hơn là bám lấy ngă. Chúng ta tuân theo những đ̣i hỏi của nó với thái độ tự khinh ghét, như bợm rượu với lấy chất uống mà y biết đang tàn phá y, hoặc như kẻ ghiền ma túy lục t́m chất kích thích mà họ biết sau một hồi "phi" ngắn ngủi sẽ đem lại cho họ sự chán chê tuyệt vọng.
CÁI NGĂ TRÊN ĐƯỜNG TÂM LINH
Chấm dứt sự chuyên chế oái ăm của bản ngă chính là lư do ta bước lên đường tu tập tâm linh, nhưng quyền năng của cái ngă hầu như vô tận, và mỗi giai đoạn nó đều có thể phá hoại và và xoay chuyển ta khỏi cái ước muốn giải thoát nó. Chân lư thật giản dị, và những lời dạy cũng vô cùng sáng sủa, nhưng nhiều lần tôi phải buồn bă mà thấy rằng, mỗi khi giáo lư bắt đầu lay chuyển được chúng ta, th́ cái ngă lại cố làm cho những lời dạy trở thành rắc rối, v́ nó biết nó đang bị đe dọa tận căn để.
Lúc đầu, khi chúng ta mới khởi sự say mê con đường tu tập với những khả năng của nó, th́ cái ngă có thể cổ vũ ta và bảo:
Thật là kỳ diệu. Chính là điều anh nên làm. Lời dạy này hoàn toàn có lư.
Rồi khi chúng ta nói chúng ta muốn thử thực tập thiền, hay nhập thất, th́ cái ngă vỗ về:
- Thật là một ư nghĩ tuyệt vời. Tại sao tôi lại không theo anh. Cả hai chúng ta có thể học được vài điều.
Suốt kỳ trăng mật của sự tu tập tâm linh, cái ngă cứ giục ta:
- Thật tuyệt, thật lạ lùng, gợi cảm hứng...
Nhưng vừa khi chúng ta đi vào giai đoạn mà tôi gọi là "thời kỳ bếp núc" của con đường tu tập, và giáo lư bắt đầu động tới bản ngă sâu xa của chúng ta, th́ không sao tránh khỏi chúng ta va chạm với sự thật về bản ngă. Khi cái ngă được phơi bày, những chỗ yếu của nó bị động tới, là đủ mọi thứ vấn đề bắt đầu nổi lên. Nó như một tấm gương để ngay trước mặt chúng ta mà ta không thể tránh nh́n chỗ khác. Tấm gương hoàn toàn trong sáng, nhưng trong đó có một cái mặt xấu xí, cau có, cái mặt chúng ta, đang trừng trừng nh́n lại chúng ta. Chúng ta khởi sự nổi loạn phản kháng v́ ta ghét cái ǵ ḿnh không thấy; chúng ta có thể nổi giận đập vỡ cái gương, nhưng nó chỉ vỡ ra thành hàng trăm gương mặt xấu xí giống nhau, và vẫn trợn trừng nh́n lại chúng ta.
Bấy giờ là lúc chúng ta bắt đầu nổi đóa và phàn nàn một cách cay đắng:
- Thế th́ ngă của ta nằm ở đâu?
Cái ngă đang đứng bên ta một cách trung thành, xúi giục:
Anh hoàn toàn đúng. Chuyện này xúc phạm quá thể chịu đựng. Đừng theo nó!
Khi chúng ta mê mẩn lắng nghe, th́ cái ngă tiếp tục hô triệu đủ loại hoài nghi, cảm xúc, hốt hoảng, như đổ thêm dầu vào lửa:
Anh không thấy giáo lư ấy không thích hợp với anh à? Tôi đă bảo. Anh không thấy ông ta không xứng làm thầy của anh sao? Hăy xem: Anh là một con người tây phương thông minh, tân tiến, từng trải; c̣n những chuyện xa lạ như thiền, Sufi, Zen, Phật giáo Tây Tạng... thuộc về văn hóa phương đông. Một triết học ở tuốt trên dăy Hy Mă Lạp Sơn một ngàn năm về trước th́ phỏng có ích lợi cho anh được?
Khi cái ngă vui mừng ngắm ta càng lúc càng bị vướng vào lưới của nó, nó c̣n trách móc ta về tất cả những nỗi nhọc nhằn, cô đơn, gian khổ mà chúng ta đă trải qua, khi chúng ta biết được chính ḿnh qua lời giảng dạy, và qua bậc thầy:
- Những ông đạo sư ấy không cần biết anh đă phải trải qua những ǵ. Họ chỉ cốt khai thác anh. Họ chỉ xử dụng những danh từ như từ bi, sùng tín, để làm cho anh rơi vào quyền năng của họ...
Cái ngă quá khôn lanh tới độ có thể bóp méo giáo lư để xài cho mục tiêu của nó; v́ "Quỷ Xa tăng có thể trích dẫn kinh thánh cho mục đích ḿnh." Khí giới cuối cùng của cái ngă là chỉ ngay vào mặt ông thầy và những tín đồ mà bảo:
- Không có ai ở đây sống đúng theo giáo lư ấy được cả.
Bây giờ cái ngă lại đóng vai tṛ trọng tài công b́nh cho mọi hành vi: Vị trí láu cá hơn hết, từ điểm này nó có thể phá hỏng niềm tin của bạn, và làm tiêu ma bất cứ sự sùng kính nào, sự phát nguyện tu tập nào mà bạn đă có.
Nhưng dù cái ngă cố hết sức để phá hoại con đường tu của bạn, nếu bạn thực sự tiếp tục thực hành thiền định, bạn sẽ dần nhận ra ḿnh đă bị cái ngă gạt gẫm như thế nào: Hy vọng và lo sợ hăo huyền. Dần dần bạn thấy rằng cả hy vọng lẫn lo sợ đều là kẻ thù của sự an tâm; hy vọng đánh lừa bạn, bỏ bạn thất vọng trống rỗng, c̣n sợ hăi th́ làm bạn tê liệt trong tù ngục hẹp ḥi của bản ngă giả tạo. Bạn bắt đầu thấy cái ngă đă lung lạc tâm bạn như thế nào, và trong bầu trời giải thoát mà thiền định đă mở ra, mỗi khi bạn tạm thời thoát khỏi chấp thủ, bạn hé thấy cái khoáng đạt của tự tính chân thực. Bạn nhận ra rằng trong hàng bao nay cái ngă của bạn, giống như một kẻ lường gạt bạn với đủ kế hoạch hứa hẹn mà toàn thị là láo khoét, chỉ có đưa bạn đến sự phá sản tâm linh. Khi bạn thấy điều này trong sự an tĩnh của thiền định, mà không an ủi hay muốn che đậy những ǵ bạn thấy, th́ tất cả kế hoạch mưu đồ của ngă tự cho thấy nó trống rỗng, và bắt đầu sụp đổ.
Đây không phải là một tiền tŕnh phá hoại thuần túy. V́ cùng với sự nhận chân đau đớn tính giả dối tội lỗi của cái ngă của bạn, và của mọi người, phát sinh một cảm thức về tầm bao la của nội tâm, một trực cảm về vô ngă và tính duyên sinh của vạn pháp, và tính hài hước độ lượng, mà chính là dấu hiệu của giải thoát.
Nhờ bạn đă tập đơn giản hóa sự sống và làm cho cái ngă bớt có cơ hội quyến rũ bạn, và nhờ bạn đă tập sự tỉnh giác của thiền định – do vậy nới lỏng kềm tỏa của tính bạo động, bám víu và tiêu cực trong bạn – mà tuệ giác từ từ có thể ló dạng. Trong ánh sáng soi cùng khắp của nó, tuệ giác này có thể chỉ cho bạn một cách rơ ràng trực tiếp, những vận hành tinh vi nhất của tâm bạn, và đồng thời, bản chất của thực tại.
HƯỚNG ĐẠO MINH TRIẾT
Hai con người đă luôn sống trong bạn suốt cả đời bạn. Một người là bản ngă, nói nhiều, đ̣i hỏi, nóng nảy, tính toán; người kia là con người tâm linh kỳ bí mà tiếng nói lặng lẽ minh triết của y bạn hiếm khi nghe được hoặc nghe theo. Khi bạn càng học giáo lư, quán xét, và ḥa nhập giáo lư đời sống của bạn, th́ tiếng nói bên trong bạn, trí phân biệt bẩm sinh của bạn được đánh thức và tăng trưởng, và bạn khởi sự phân biệt giữa sự hướng dẫn của nó với những tiếng nói của bản ngă. Kí ức về bản lai diện mục của bạn bắt đầu trở về với tất cả vẻ huy hoàng và tin tưởng.
Bạn sẽ thấy bạn đă t́m ra trong chính bạn người hướng đạo cho bạn. V́ người ấy biết rơ bạn – y chính là bạn – nên có thể giúp bạn dàn xếp mọi rắc rối của tư tưởng và cảm xúc bạn. Người hướng đạo của bạn có thể có mặt thường xuyên, vui vẻ, đôi khi chế nhạo, người luôn luôn biết cái ǵ là tốt hơn cả cho bạn, giúp bạn càng lúc càng t́m ra lối thoát khỏi những ám ảnh của những phản ứng do thói quen và những cảm xúc mê mờ. Khi tiếng nói của "trí phân biệt" trong bạn càng mạnh và rơ hơn, bạn sẽ phân biệt được chân lư của nó và những lừa bịp của bản ngă, và bạn có thể lắng nghe nó với niềm tư tưởng.
Bạn càng thường xuyên nghe theo người hướng đạo này, th́ càng dễ dàng thay đổi được những tâm thái tiêu cực nơi bạn. Dần dần bạn sẽ thấy ḿnh có thể thoát ra càng ngày càng nhanh hơn, khỏi những cảm xúc đen tối đă ngự trị đời bạn, và khả năng làm được việc ấy là phép lạ mầu nhiệm nhất. Terton Sogyal, nhà thần bí Tây Tạng, đă nói rằng, ngài không khâm phục ǵ một người có thể biến hóa được cái nền nhà thành trần nhà, hay lửa thành nước. Phép lạ đích thực theo ngài là người nào có thể giải tỏa một cảm xúc tiêu cực.
Như vậy, dần dà, thay v́ nghe tiếng lải nhải của bản ngă, bạn sẽ thấy ḿnh càng ngày càng nghe được trong tâm ḿnh nhưng chỉ dẫn rơ ràng của giáo lư đang khởi hứng, khuyên bảo, hướng đạo, chỉ thị cho bạn ở mỗi khúc quanh. Càng lắng nghe, bạn càng nhận được những hướng dẫn. Nếu bạn nghe theo tiếng nói của người hướng đạo minh triết ấy, của trí phân biệt nơi bạn, và để cho bản ngă im tiếng, th́ bạn sẽ kinh quá sự hiện diện của trí tuệ và phúc lạc mà chính thực là bạn. Một cuộc đời mới hoàn toàn khác cuộc đời trước đây khi bạn c̣n khoác cái lốt bản ngă, bắt đầu trong bạn. Và khi cái chết đến, th́ bạn đă biết cách làm thế nào để kiểm soát những cảm xúc và ư tưởng nổi lên trong các trạng thái trung gian, những cảnh tượng mà nếu bạn không biết trước th́ có vẻ thực một cách ghê gớm.
Khi bệnh mất trí nhớ của bạn về chính ḿnh bắt đầu được chữa khỏi, cuối cùng bạn sẽ nhận ra rằng dak dzin, sự chấp thủ bản ngă, là căn nguyên mọi đau khổ của bạn. Bạn sẽ hiểu nó đă tàn hại bạn và kẻ khác đến mức nào, và sẽ thấy rằng điều cao quư nhất và lại khôn ngoan nhất để làm, là yêu thương người khác thay v́ yêu thương chính ḿnh. Việc ấy sẽ chữa lành trái tim, khối óc của bạn, và chữa lành tâm linh bạn. Điều quan trọng là luôn luôn nhớ rằng nguyên tắc vô ngă không phải là lúc đầu có một bản ngă, rồi theo Phật th́ phải từ bỏ bản ngă. Trái lại, vô ngă có nghĩa là tự khởi thủy chưa bao giờ có một cái ngă, và nhận chân được điều này gọi là thấy "vô ngă".
BA KHÍ CỤ CỦA TRÍ TUỆ
Cái cách để t́m được sự tự do giải thoát do trí tuệ vô ngă đem lại, là nhờ tiến tŕnh lắng nghe, tư duy quán tưởng và thiền định. Các bậc thầy khuyên ta bắt đầu bằng lắng nghe giáo lư thực nhiều lần (văn tuệ), và khi lắng nghe, giáo lư ấy nhắc đi nhắc lại cho ta nhớ bản tính trí tuệ bị che giấu trong ta. Giống như thể ta là người đang nằm trong bệnh viện bị mất trí nhớ sau một tai nạn, và có người thương yêu săn sóc ta đang th́ thầm trong tai ta tên thật của ta, chỉ cho ta những h́nh ảnh của bạn bè thân quyến ta, cố đưa ta trở về tri giác để biết ḿnh là ai. Dần dần, khi lắng nghe giáo lư, có vài đoạn vài tri kiến trong đó tác động trên ta môt cách mạnh mẽ, những kí ức bản lai diện mục của ta sẽ bắt đầu t́m lối quay về, và một cảm giác sâu xa về một cái ǵ thân thiết, quen thuộc sẽ chầm chậm thức dậy trong ta.
Lắng nghe là một tiến tŕnh vô cùng khó khăn hơn phần đông người ta tưởng, lắng nghe thực sự - theo các bậc thầy muốn nói – là hoàn toàn buông bỏ cái ta, buông tất cả thông tin, khái niệm, tư tưởng và thành kiến đă được độn đầy đầu óc ta. Nếu bạn thực t́nh lắng nghe giáo lư, th́ những thứ ấy - vốn dĩ là chướng ngại thực sự ngăn che ta với tính bản nhiên của ta – có thể từ từ được rửa sạch.
Khi cố lắng nghe thực sự, tôi thường thấm câu nói của thiền sư Suzuki Rodhi:
- Nếu tâm bạn trống rỗng, th́ nói luôn luôn sẵn sàng cho mọi sự; mở ra cho mọi sự. Trong tâm người sơ học, có thật nhiều khả năng, nhưng trong tâm của chuyên gia th́ có rất ít khả năng.
Tâm người sơ cơ là một cái tâm trống rỗng, rộng mở, sẵn sàng đón nhận, và nếu ta thực sự lắng nghe với một cái tâm của người sơ học, th́ ta mới có thể thực sự nghe được một cái ǵ. V́ nếu ta lắng nghe với một tâm im lặng, càng thoát khỏi thành kiến càng tốt, th́ có thể tạo cơ hội cho sự thật của nền giáo lư xuyên thủng khối vô minh nơi ta, và làm cho ư nghĩa của sự sống chết trở nên càng ngày càng rơ rệt một cách lạ lùng. Thầy Digo Khientse Rinpoche tôi thường nói:
- Càng lắng tai, càng nghe nhiều, càng nghe nhiều, hiểu càng sâu.
Hiểu biết được sâu xa là nhờ quán xét và tư duy (tư tuệ), khí cụ thứ hai của trí tuệ. Khi ta quán xét những ǵ ta đă nghe, nó từ từ thẩm thấu vào ḍng tâm thức ta và thấp khắp kinh nghiệm nội tâm về cuộc đời ḿnh. Những sự cố hàng ngày bắt đầu xác chứng sự thật của giáo lư, v́ sự quán tưởng dần mở ra cho ta thấy những ǵ ta đă hiểu trên phương diện tri thức, sự quán tưởng mang hiểu biết ấy từ đầu óc đi vào tim ta.
Khí cụ thứ ba của trí tuệ là thiền định (tu tuệ). Sau khi lắng nghe giáo lư và tư duy về những lời dạy, ta đem thực hành những tri kiến ta đă đạt được và áp dụng chúng một cách trực tiếp trong nhu cầu hàng ngày, qua quá tŕnh thiền định.
NHỮNG HOÀI NGHI TRÊN ĐƯỜNG
Thầy Dudjom Rinpoche tôi thường kể câu chuyện ở Ấn Độ về một tướng cướp khét tiếng ngày xưa. Sau vô số lần cướp của giết người, y đâm ra hối hận v́ ḿnh đă gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho người khác. Y khao khát t́m cách sám hối tội lỗi y đă làm, và đến viếng một thiền sư. Y nói với Ngài:
- Con là một kẻ phạm tội, bây giờ con bị lương tâm cắn rứt ghê gớm. Có lối thoái nào không? Con phải làm ǵ?
Bậc thầy nh́n tướng cướp từ đầu đến chân, rồi hỏi y có được tài nghệ ǵ. Tên cướp trả lời:
- Không có tài ǵ cả.
Vị thầy hét:
- Không à? Ngươi phải giỏi một nghề ǵ mới được chứ.
Tên cướp im lặng một hồi, rồi cuối cùng xác nhận:
- Thực sự, có một nghề duy nhất mà con chuyên môn, đó là nghề trộm cướp.
Vị thầy cưới khúc khích:
- Tốt. Đấy chính là tài nghệ mà bây giờ ngươi cần dùng. Hăy đi đến một nơi thanh vắng, và cướp hết tất cả những ư tưởng nhận thức của người, ăn trộm hết tất cả tinh tú, hành tinh trong bầu trời, cho chúng tan mất và trong cái bụng của Chân không, không gian to rộng của tâm hồn nhiên.
Chỉ trong hai mươi mốt ngày, tên cướp đă trực ngộ bản tâm và cuối cùng trở thành một người được xem là một trong những bậc thánh vĩ đại của xứ Ấn.
Như vậy, ở thời cổ, có những bậc thầy phi thường và môn đệ nhạy bén và nhất tâm như tên cướp nọ, chỉ nhờ thực hành với niềm tin không chuyển hướng, một lời dạy duy nhất mà chứng đắc giải thoát. Ngay cả bây giờ, nếu ta để tâm thực hành một phương pháp và làm việc với nó một cách trực tiếp, th́ cũng sẽ có hy vọng giác ngộ.
Tuy nhiên, tâm chúng ta thường giao động và hoang mang v́ hoài nghi. Đôi khi tôi nghĩ nghi quả là một chướng ngại bế tắc tiến hóa nhân loại hơn cả tham lam chấp thủ. Xă hội chúng ta đề cao sự khôn khéo thay v́ trí tuệ, và ca tụng những khía cạnh nông cạn, khó chịu và ít lợi ích nhất của trí thông minh. Chúng ta đă trở nên quá tinh khôn và loạn thần kinh đến nỗi ta xem chính hoài nghi là chân lư, và sự hoài nghi – mà chỉ là nỗ lực vô vọng của bản ngă để tự vệ - lại được thần thánh hóa xem như mục tiêu và kết quả hiểu biết. H́nh thức hoài nghi nhỏ nhen thấp kém này là chúa tể thảm hại của luân hồi sinh tử, được phụng sự bởi một đám "chuyên gia" chuyên dạy cho ta không phải thứ hoài nghi rộng mở mà Phật xác nhận là cần thiết để thử nghiệm nền giáo lư, mà một h́nh thái hoài nghi phá hoại không chừa lại cho ta một điều ǵ để tin vào, không có ǵ để hy vọng, và không có ǵ để sống theo.
Như thế nền giáo dục hiện đại đă nhồi sọ chúng ta trong sự tôn vinh hoài nghi, trong đó muốn được xem là thông minh th́ ta phải hoài nghi tất cả mọi sự, phải luôn luôn bới lông t́m vết và ít khi hỏi có cái ǵ là đúng, tốt lành; phải chế nhạo mọi lư tưởng tâm linh, mọi triết lư ta thừa hưởng, hoặc nhạo báng bất cứ ǵ đư?c làm với tâm vô tư và thiện chí.
Đức Phật kêu gọi ta đến một hoài nghi khác, "như phân tích vàng, nướng nó lên, cắt, cọ xát để thử tính chất nó có thực sự là vàng ṛng hay không." Để có được thứ hoài nghi thực sự sẽ đưa ta đến chân lư ấy, muốn theo đến cùng, quả thực chúng ta không đủ tri kiến, can đ?m, và cũng không đư?c huấn luyện để làm việc ấy. Chúng ta đă được huấn luyện cho quen cái thói mâu thuẫn vẫn thường xuyên tước đoạt khỏi ta hết mọi sự cởi mở để đón nhận bất cứ một sự thật nào khoáng đạt và cao quí hơn.
Thay v́ h́nh thái hoài nghi chấp đo?n diệt như hiện nay, tôi sẽ mời bạn đặt một nghi vấn mà tôi gọi là "hoài nghi cao cả," một thứ hoài nghi vốn là một thành phần làm nên con đường đưa đến giác ngộ. Chân lư rộng lớn của những giáo lư mật tông được truyền lại cho chúng ta ngày nay, quả không phải là một cái ǵ mà thế giới đang lâm nguy hiện nay có thể bác bỏ được. Thay v́ nghi ngờ những giáo lư ấy, tại sao ta không nghi ngờ chính ta: Sự ngu dốt của ta, sự hợm hĩnh tự cho ta đă hiểu biết tất cả mọi sự, thói chấp thủ và tránh né của ta, ḷng say mê đối với những cái gọi là giải thích thực tại, những giải thích không giống chút nào với trí tuệ bao la khả úy mà những bậc thầy, những sứ giả của Thực tại, đă cho ta biết?
Loại hoài nghi cao cả ấy giục ta tiến lên, gợi cảm hứng cho ta, thử thách ta, làm cho ta càng ngày càng trở nên chân thực, thêm năng lực cho ta, và kéo ta lại gần từ trường của chân lư. Khi gần những bậc thầy, tôi thường hỏi đi hỏi lại những vấn đề tôi cần giải đáp. Đôi khi tôi không được những giải đáp rơ ràng, song tôi không nghi ngờ thầy, hay nghi ngờ nền giáo lư. Đôi khi tôi có thể nghi ḿnh chưa đủ tŕnh độ tâm linh, hoặc nghi khả năng nghe (văn tuệ) của ḿnh chưa đủ để hiểu trọn vẹn. Và thường khi, tôi cứ tiếp tục hỏi đi hỏi lại cho đến khi có được một giải đáp rơ ràng. Và khi giải đáp ấy đến, vang lên một cách mạnh mẽ trong sáng trong trí tôi, tim tôi nhói lên một niềm tri ân đón nhận, th́ trong tôi phát sinh một ḷng tin kiên cố mà dù cả thế giới đầy những người nhạo báng cũng không phá hoại nổi.
Tôi nhớ một mùa đông, tôi cùng lái xe với một trong những sinh viên của tôi từ Paris xuống Ư vào một đêm trăng sáng. Bà ta là một nhà chữa tâm bệnh, và đă qua nhiều loại huấn luyện. Bà bảo tôi, điều bà nhận thấy là càng biết nhiều, ta càng nghi nhiều, và càng viện cớ để nghi mỗi khi sự thật bắt đầu động chạm đến ḿnh một cách sâu xa. Bà bảo, bà đă cố nhiều lần để chạy trốn giáo lư này, nhưng cuối cùng bà nhận ra rằng không chạy đâu thoát được, v́ thực sự là bà đang chạy trốn chính ḿnh.
Tôi bảo bà rằng hoài nghi không phải là một cái bệnh, mà chỉ là một triệu chứng của thiếu ‘Tri kiến’, thiếu sự nhận chân về bản tính tự nhiên của tâm. Khi có Tri kiến, th́ không thể nào nghi ngờ ǵ nữa, v́ khi ấy ta sẽ nh́n thực tại với chính con mắt của thực tại. Nhưng khi ta chưa đạt giác ngộ, tôi nói, th́ đương nhiên phải c̣n hoài nghi, v́ nghi là hoạt động căn bản của cái tâm chưa ngộ. Và cách duy nhất để xử lư những hoài nghi là, không đàn áp chúng cũng không say mê theo chúng.
Cần có sự khéo léo để xử lư những hoài nghi, nhưng tôi để ư ít ai biết cách theo dơi những hoài nghi hoặc xử dụng chúng. Có phải mỉa mai chăng, trong một nền văn minh sùng thượng thế lực của sự giảm giá và hoài nghi như vậy, lại không có ai can đảm để hạ giá chính những tuyên bố của hoài nghi, để làm như một bậc thầy Ấn Độ đă nói, hoài nghi chính cái sự hoài nghi, lột mặt nạ tính đa nghi và t́m xem nó có nguồn gốc từ nỗi tuyệt vọng nào, nỗi sợ hăi ǵ, từ đâu tới? Khi ấy hoài nghi không c̣n là một chướng ngại, mà là một cánh cửa mở đến thực chứng, và mỗi khi hoài nghi xuất hiện trong trí, một người tầm đạo sẽ đón nó như một phương tiện để đi sâu vào sự thật.
Có một câu chuyện về một thiền sư mà tôi rất thích. Thiền sư này có một đệ tử trung thành nhưng rất ngốc nghếch, cứ xem ông như một vị Phật sống. Một hôm t́nh cờ ngồi trên một cây kim, ông la lên "Ối" rồi tung ḿnh lên để tránh. Người đệ tử liền mất hết tin tưởng nơi vị thầy, và bỏ đi, bảo rằng anh ta rất thất vọng v́ thấy thầy ḿnh chưa chứng đạo, nếu chứng th́ ông đă không nhảy lên mà la lớn như thế. Vị thầy buồn bă khi nghe người đệ tử đă bỏ đi, và bảo:
- Tội nghiệp cho y! Nếu y hiểu được rằng kỳ thực không có ta, không có cây kim, cũng không có tiếng la nào thực hữu!
Ta không nên lập lại cái lỗi của người đệ tử nọ. Đừng nên xem những hoài nghi quan trọng quá mức, để cho chúng lớn quá cỡ, hay trở nên cuồng tín về chúng. Điều ta cần học là làm thế nào dần dần chuyển được sự vướng vào hoài nghi do bối cảnh văn hóa thành ra một hoài nghi có tính chất hài hước và bi mẫn. Điều này có nghĩa hăy cho những hoài nghi có thời gian, và cho chúng ta có thời gian, để t́m giải đáp cho những nghi vấn của ḿnh, những nghi vấn không phải chỉ có về phương diện tri thức hay triết lư, mà thực, sống, và có thể giải được. Những hoài nghi không thể tự chúng giải quyết ngay; nhưng nếu chúng ta đủ kiên nhẫn th́ một khoảng không có thể được sinh ra trong nội tâm ta, ở đó những hoài nghi có thể được xem xét cẩn thận, khách quan, và do đó được gỡ rối, được giải quyết.
Không nên quá hấp tấp để giải quyết tất cả mọi vấn đề và hoài nghi của bạn; v́ các bậc thầy nói, "Hăy gấp rút một cách từ từ." Tôi luôn luôn bảo sinh viên tôi đừng có những mong đợi phi lư, v́ sự tiến bộ tâm linh cần thời gian. Muốn học Nhật ngữ thật giỏi hay trở thành bác sĩ cũng phải cần nhiều năm. Làm sao chúng ta có thể hy vọng có được tất cả những giải đáp chỉ trong vài tuần, huống ǵ là đạt giác ngộ? Cuộc hành tŕnh tâm linh là một cuộc học hỏi và thanh luyện không ngừng. Khi biết như vậy, bạn sẽ trở nên khiêm cung. Có một châm ngôn Tây Tạng rằng:
- "Đừng lầm hiểu với chứng ngộ, và đừng lầm chứng ngộ với giải thoát."
Và Milapera nói:
- "Không nên hy vọng chứng đạo, mà hăy hành đạo suốt đời bạn."
Một trong những điều tôi thích nhất trong truyền thống tôi, là sự thực tế giản dị, và ư thức mănh liệt rằng những thành tựu lớn nhất cần có sự kiên nhẫn sâu xa và thời gian dài nhất.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 15 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
9. CON ĐƯỜNG TÂM LINH
Rumi, bậc thầy đạo Sufisme có viết:
- Bậc thầy nói, có một điều duy nhất trên đời mà ta không bao giờ được quên. Nếu bạn quên hết mọi sự khác, mà không quên điều này, th́ sẽ không có ǵ phải lo, nhưng nếu bạn nhớ thực hành chu tất mọi sự khác mà lại quên mất việc duy nhất này, th́ quả thực bạn chưa làm được cái ǵ. Ví như khi vua sai bạn đến một xứ nọ để làm một công việc đặc biệt nào đó; khi đến, bạn làm cả trăm việc khác, nhưng quên làm cái sứ mạng của ḿnh được sai đi, th́ cũng như là bạn chưa làm ǵ hết. Cũng vậy con người xuất hiện trên đời v́ một công việc đặc biệt, đó là mục đích của y. Nếu y không hoàn tất, th́ coi như y không làm ǵ cả.
Mọi bậc thầy tâm linh của nhân loại đều nói cho chúng ta biết cùng một chuyện ấy, rằng mục đích cuộc sống trên trái đất là để thực hiện sự hợp nhất với cái bản chất giác ngộ căn để của chúng ta. "Công việc" mà "vua" đă gửi ta vào cái xứ sở đen tối lạ lùng này là để thực chứng và thể hiện con người thật của ta. Có một cách duy nhất để làm việc đó, là khởi sự cuộc hành tŕnh tâm linh, với tất cả hăng say và trí tuệ, can đảm và cương quyết để chuyến hóa. Trong Katha Upanishad, thần chết bảo Nachiketas rằng:
- Có con đường trí tuệ và con đường vô minh. Hai con đường dẫn đến những mục đích hoàn toàn khác nhau.... Trú trong vô minh, nghĩ ḿnh khôn lanh bác học, những kẻ ngu lang thang không mục đích, như kẻ mù dắt người mù. Những ǵ nằm bên kia cuộc đời không hiển lộ cho những kẻ khờ khạo, bất cẩn, hoặc bị của cải làm mê hoặc.
T̀M ĐƯỜNG
Vào thời khác và trong những nền văn minh khác, con đường chuyển hóa tâm linh này chỉ giới hạn cho một số ít người được chọn. Nhưng ngày nay, một tỉ lệ lớn trong loài người cần phải t́m kiếm con đường trí tuệ nếu muốn giữ ǵn trái đất khỏi những mối nguy bên trong và bên ngoài đang đe dọa nó. Trong thời đại phân hóa và bạo hành này, tri kiến tâm linh không phải là xa xỉ phẩm dành cho thiểu số chọn lọc, mà là một cái ǵ cấp thiết cho sự sống c̣n.
Việc đi theo con đường tâm linh chưa bao giờ lại cấp thiết và gay go hơn bây giờ. Xă hội chúng ta dành hoàn toàn cho sự tôn vinh bản ngă, tôn vinh chính những sức mạnh của tham lam và vô minh đang tàn phá quả địa cầu. Chưa bao giờ khó hơn để nghe tiếng nói của chân lư, và chưa bao giờ khó hơn để tuân theo tiếng nói ấy nếu nó được nghe đến. Bởi v́ trong thế giới quanh ta không có cái ǵ hỗ trợ cho sự chọn lựa của ta, và cái xă hội ta sống dường như phủ nhận tất cả mọi ư nghĩa thiêng liêng, vĩnh cửu. Bởi vậy, vào thời gian nguy ngập nhất của chúng ta khi chính tương lai chúng ta cũng thật khả nghi, th́ chúng ta, những con người, lại thấy ḿnh đang ở giai đoạn hoang mang nhất, và bị vướng vào một cơn ác mộng do chính chúng ta tạo nên.
Tuy thế vẫn có một nguồn hy vọng đầy ư nghĩa trong t́nh huống bi đát này, đó là, giáo lư tâm linh của mọi truyền thống mật tông vĩ đại vẫn c̣n có thể xử dụng. Rủi thay, có rất ít bậc thầy thể hiện được những giáo lư ấy, và hoàn toàn thiếu sự biện biệt nơi những người tầm đạo. Phương tây đă trở thành một thiên đường cho những lang băm về tâm linh. Nếu là lĩnh vực khoa học th́ bạn có thể xác thực ai thực ai giả, v́ có những nhà khoa học khác kiểm chứng tŕnh độ và những t́m ṭi phát minh của họ. Nhưng ở Tây phương, v́ không có tiêu chuẩn của một nền văn hóa trưởng thành về trí tuệ, nên tính trung thực của những người được gọi là "đạo sư" hoàn toàn không thể thiết lập được. Dường như bất cứ ai cũng có thể diễn hành tự xưng bậc thầy và lôi cuốn một số tín đồ.
Ở Tây Tạng không có như vậy, nơi người ta nhận thấy bảo đảm hơn nhiều nếu chọn cho đúng một con đường và đúng thầy để theo. Những người đến Tây Tạng lần đầu thường lấy làm ngạc nhiên tại sao người ở đây đặt nặng ḍng tu đến thế, đặt nặng sự truyền thừa không gián đoạn từ bậc thầy này đến bậc thầy khác. Ḍng tu được dùng làm sự bảo đảm cốt yếu: Nó duy tŕ tính chân thực và thuần tính của nền giáo lư. Người ta biết được một bậc thầy qua bậc thầy của vị ấy. Đó không phải chuyện giữ ǵn một tri thức đă xưa cũ, có tính cách lễ tục, mà một truyền thừa từ tâm sang tâm, từ trí sang trí, một trí tuệ sống và nguyên chất, cùng với những phương pháp thiện xảo.
Nhận ra ai cũng là bậc thầy ai không, làm một công việc tế nhị và đ̣i hỏi nhiều điều kiện. Nhưng ở thời đại như chúng ta, ham giải trí, ưa những câu trả lời dễ dàng, những giải pháp nhanh, th́ những bậc thầy tâm linh đạm bạc không làm bộ, có thể không được ai để ư. Những ư tưởng ta nghĩ về sự thánh thiện có thể làm ta không thấy được biểu hiện của tâm giác ngộ đôi khi rất linh động và lại có vẻ giỡn đùa. Patrul Rinpoche viết:
- Những đức tính kỳ diệu của những vĩ nhân là giấu kín sự thánh thiện của họ, làm cho những người thường như chúng ta không thể thấy, dù ta có nỗ lực xem xét. Ngược lại, ngay cả những lang băm cũng lừa đảo rất tài t́nh bằng cách ăn nói như những bậc thánh.
Nếu Patrul Rinpoche có thể viết như vậy về thế kỷ trước tại Tây Tạng, th́ điều ấy lại càng đúng biết bao trong cảnh hỗn loạn của cái siêu thị tâm linh hiện thời?
Vậy, chúng ta làm thế nào để trong thời đại cực kỳ khả nghi này, có thể t́m ra được niềm tin cậy quá cần thiết cho sự tu tập tâm linh? Theo tiêu chuẩn nào để biết một vị thầy là thực hay dỏm?
Tôi nhớ rơ một lần ở bên vị thầy tôi biết, khi ấy ông hỏi các học tṛ cái ǵ đă lôi cuốn họ đến ông, tại sao họ tin cậy ông. Một phụ nữ nói:
- Tôi đă nhận ra rằng điều thầy thực sự muốn, hơn bất cứ ǵ khác, là muốn cho chúng tôi hiểu và áp dụng giáo lư, và thấy thầy hướng dẫn chúng tôi thật khéo léo để chúng tôi có thể hiểu được.
Một người đàn ông ngũ tuần bảo:
- Không phải những ǵ thầy biết làm tôi cảm động, mà chính v́ thầy thực sự có ḷng vị tha và tâm tốt.
Một phụ nữ trung niên nói:
- Tôi đă cố coi thầy như mẹ tôi, cha tôi, bác sĩ tâm thần của tôi, chồng tôi, người yêu tôi; thầy đă lặng lẽ ngồi chứng kiến tất cả tấn tuồng do tôi phóng chiếu ra đó, và không bao giờ bỏ rơi tôi.
Một kỹ sư ngoài hai mươi tuổi nói:
- Điều tôi t́m thấy nơi thầy rất khiêm cung, thầy thực sự mong muốn sự tốt lành nhất cho tất cả chúng tôi, và trong khi thầy làm thầy, thầy vẫn không bao giờ ngưng làm một đệ tử của những bậc thầy.
Một luật sư trẻ nói:
- Đối với thầy, chính nền giáo lư mới là quan trọng nhất. Đôi khi tôi lại c̣n nghĩ rằng có lẽ cái lư tưởng của thầy là, chính thầy hoàn toàn biến mất, chỉ trao truyền lại những lời dạy càng vô ngă càng tốt.
Một sinh viên khác rụt rè nói:
- Lúc đầu tôi sợ phải mở tôi ra trước thầy. Tôi vẫn quá thường khi bị xúc phạm. Nhưng khi tôi khởi sự thổ lộ tâm can, th́ tôi để ư những thay đổi thực sự trong tôi. Dần dần tôi càng biết ơn thầy, v́ tôi nhận ra thầy đă giúp tôi nhiều quá. Và rồi tôi khám phá trong tôi một niềm tin cậy sâu xa đối với thầy, sâu hơn tôi có thể tưởng tượng.
Cuối cùng, một chuyên viên điện toán tuổi ngoại tứ tuần, bảo:
- Thầy đă là một tấm gương kỳ diệu cho tôi soi vào, và thầy chỉ cho tôi hai điều: Khía cạnh tương đối về tôi là ai, và khía cạnh tuyệt đối tôi là ai. Tôi có thể nh́n vào thầy và thấy – không phải v́ thầy là ai, mà v́ những ǵ thầy phản chiếu lại nơi tôi - tất cả sự rối ren tương đối của tôi, rất rơ ràng. Nhưng tôi cũng có thể nh́n vào thầy và thấy phản ảnh nơi thầy cái tự tánh của tâm, từ đấy mọi sự đang sinh khởi, từng giây phút.
Những câu trả lời trên đây cho ta thấy rằng những bậc thầy thực sự th́ tử tế, bi mẫn, không biết mệt trong ước muốn san sẻ bất cứ trí tuệ nào họ có được từ những bậc thầy của họ, không bao giờ lợi dụng hay điều động các đệ tử dưới bất cứ hoàn cảnh nào, không bao giờ bỏ rơi họ, phụng sự cho nền giáo lư vĩ đại hơn là cho mục đích riêng tư, và luôn luôn khiêm hạ. Sự tin cậy chân thực có thể phát triển, và chỉ nên phát triển đối với một người nào bạn biết được, qua thời gian, hội đủ tất cả những đức tính ấy. Bạn sẽ thấy niềm tin ấy trở thành nền tảng của đời bạn, nó vẫn ở đấy để nâng đỡ bạn qua những gian khổ của sống chết.
Trong Phật giáo chúng ta xác định một bậc thầy là chân thực hay không tùy theo sự hướng dẫn của họ có phù hợp với giáo lư Phật dạy hay không. Ta phải luôn luôn nhấn mạnh rằng chính sự thật của giáo lư mới là tất cả tầm quan trọng, chứ không bao giờ quan trọng cá nhân của bậc thầy. Bởi vậy đức Phật đă nhắc nhở chúng ta nguyên tắc Bốn chỗ y cứ (tứ y) là:
o Y pháp bất y nhân
o : Dựa trên thông điệp của bậc thầy, không phải trên nhân cách của ông; Ư nghĩa bất y ngữ
o : Dựa trên ư nghĩa, không chỉ dựa trên lời; Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa
o : Dựa trên ư nghĩa chân thực, không dựa trên ư nghĩa tạm thời; Y trí bất y thức
: Dựa trên tâm trí tuệ của bạn, không dựa trên tâm phân biệt thường ngày của bạn.
Bởi thế thật quan trọng để nhớ rằng vị thầy chân thực, như ta sẽ thấy, là phát ngôn viên của chân lư. Quả thế, tất cả chư Phật, đạo sư, nhà tiên tri, đều là những biểu hiện của chân lư ấy, hóa hiện bằng vô số h́nh dạng khéo léo đầy từ bi để dắt dẫn chúng ta trở về chân tánh của ta qua lời giảng dạy của họ. Bởi vậy, lúc đầu, việc quan trọng hơn việc t́m thầy, là t́m thấy sự thật của giáo lư và sống theo nó. Bởi v́, nhờ bắt liên lạc được với sự thật của giáo lư mà bạn sẽ t́m được liên lạc với một bậc thầy.
THEO MỘT CON ĐƯỜNG
Tất cả chúng ta đều có cái nghiệp gặp phải môt con đường tâm linh này hay khác, và tôi sẽ khuyên bạn, tự đáy tim tôi, hăy đi theo với sự chân thành trọn vẹn, con đường nào gợi cảm hứng cho bạn nhiều nhất. Hăy đọc kinh sách của tất cả các truyền thống, t́m hiểu các bậc thầy muốn nói ǵ khi nói giải thoát giác ngộ, và t́m con đường chân lư nào thực sự lôi cuốn bạn nhất. Hăy vận dụng khả năng phân biệt của bạn; con đường tâm linh đ̣i hỏi nhiều thông minh, nhiều khả năng phân biệt tinh tế hơn bất cứ đường nào khác, v́ đó là việc quan hệ đến chân lư tối thượng. Hăy xử dụng lương tri bạn trong mọi lúc. Đến với con đường ấy và biết rơ hành lư bạn mang theo: những thiếu sót, tưởng tượng, yếu đuối, phóng chiếu của tâm thức. Trong khi tự thức được bản tính chân thực của bạn là như thế nào, bạn hăy ḥa hợp sự khiêm hạ sát đất với một sự thấm định rơ ràng bạn đang ở đâu trên con đường tâm linh, và những ǵ c̣n phải được thấu hiểu và thực chứng.
Điều quan trọng nhất là đừng để vướng vào cái mà tôi thấy khắp nơi ở phương tây, một kiểu "đi chợ tâm linh": Chạy quanh từ thầy này đến thầy khác, giáo lư này đến giáo lư khác, mà không có một sự dấn ḿnh thực sự vào bất cứ nên giới luật nào. Gần hết mọi bậc thầy tâm linh thuộc mọi truyền thống đều đồng ư rằng điều cốt yếu là phải làm chủ, nắm vững lấy một đường lối tu tập, một con đường đưa đến chân lư, bằng cách tuân theo một truyền thống với tất cả tim óc bạn, đi cho đến cuối cuộc hành tŕnh tâm linh, trong khi vẫn giữ thái độ cởi mở kính trọng đối với tri kiến của các truyền thống khác. Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói: "Khi biết rơ một chuyện th́ ta có thể thành tựu được tất cả." Tư tưởng đặc biệt thời nay là, ta có thể luôn luôn mở ra cho mọi chọn lựa và bởi thế không bao giờ dấn ḿnh vào một cái nào. Nhưng đấy là một trong những ảo tưởng lừa dối nhất trong nền văn hóa hiện nay, một trong những kiểu hiệu nghiệm nhất của bản ngă để phá hỏng sự tu tập của chúng ta.
Khi bạn cứ tiếp tục t́m kiếm măi, th́ chính sự t́m kiếm trở thành một căn bệnh ám ảnh bạn. Bạn trở thành một khách du lịch về tâm linh, đi khắp nơi chốn mà không bao giờ tới một chỗ nào. Như Patrul Rinpoche nói:
- Bạn để con voi của bạn ở nhà mà đi t́m dấu chân của nó ở trong rừng.
Theo một con đường không phải là một kiểu tự giam giữ bạn hay để con đường ấy chiếm độc quyền đối với bạn. Mà con đường ấy là một phương tiện thiện xảo đầy bi mẫn để giữ cho bạn tập trung luôn luôn vào đấy, dù có bao nhiêu trở ngại mà chính bạn và cuộc đời của bạn chắc chắn sẽ xen vào.
Bởi thế, khi bạn đă thăm ḍ những truyền thống mật tông, hăy chọn một vị thầy và theo sự hướng dẫn của vị ấy. Khởi hành lên đường tu tập là một chuyện, mà có được kiên nhẫn, tŕ chí, tuệ giác, can đảm và sự khiêm hạ để theo cho đến cùng, là một chuyện khác. Bạn có thể có duyên nghiệp để t́m ra một vị thầy, nhưng khi ấy chính bạn phải tạo ra cái nghiệp để theo vị thầy ấy. V́ rất ít người trong chúng ta biết được làm cách nào để theo thầy, đó là cả một nghệ thuật. Cho nên dù giáo lư có vĩ đại đến đâu, bậc thầy vĩ đại đến đâu, điều cốt yếu vẫn là, bạn phải t́m trong chính bạn cái tuệ giác và thiện xảo trong sự tu tập làm sao để yêu mến và tuân theo bậc thầy và giáo lư.
Điều ấy không dễ. Sự việc không bao giờ toàn hảo. Làm sao mà toàn vẹn được, khi chúng ta đang c̣n ở trong thế giới tương đối của sinh tử. Ngay cả khi bạn đă chọn được một vị thầy và rất chân thành theo giáo lư, bạn vẫn thường gặp phải những rắc rối và bất măn, mâu thuẫn và bất toàn. Đừng ngă quị trước những chướng ngại nhỏ nhen ấy. Đấy chỉ là những cảm xúc trẻ con của bản ngă. Đừng để chúng làm bạn đui mù trước giá trị bền bỉ và tinh túy mà bạn đă chọn được. Đừng để cho sự mất kiên nhẫn của bạn lôi bạn đi xa khỏi sự dấn ḿnh t́m chân lư của bạn. Đă bao nhiêu lần tôi lấy làm buồn khi thấy nhiều người chọn được một giáo lư và bậc thầy, theo học với một niềm hăng say đầy hứa hẹn, mà sau đó lại mất niềm tin khi xảy đến những chướng ngại nhỏ không thể tránh. Họ rơi trở lại vào con đường luân hồi sinh tử, vào những tập quán cũ, và để lăng phí nhiều năm tháng, có lẽ cả cuộc đời họ.
Đức Phật đă dạy trong bài Pháp đầu tiên của ngài, căn nguyên của mọi khổ đau chúng ta trong sinh tử là vô minh. Vô minh có vẻ như là bất tận, khi ta chưa giải thoát khỏi nó. Ngay cả khi ta đă lên đường tu tập, sự t́m kiếm của ta cũng vẫn c̣n bị sương mù vô minh vây phủ. Tuy nhiên, nếu bạn nhớ điều này, và luôn giữ lời Phật dạy trong tâm bạn, th́ dần dần bạn sẽ phát triển được trí phân biệt để nhận ra được những mê muội của vô minh, và nhờ vậy chúng không tác hại được sự tu hành của bạn hay làm bạn mất mục tiêu nhắm tới.
Đức Phật dạy, cuộc đời ngắn ngủi như một làn chớp; tuy nhiên, như Wordsworth nói:
- Cuộc đời này thực quá nặng nề: Làm ra tiền và xài tiền cũng đủ làm cho chúng ta tiêu ma hết năng lực.
Chính sự tiêu ma năng lức ấy có lẽ là cái sự nát ḷng nhất về đời người: Nó phản bội lại tinh túy của ta, nó để lỡ mất cơ hội quư báu mà cuộc đời này – cơi Bardo tự nhiên – đem lại cho ta, để hiểu được và thể hiện được tự tính giác của ta. Điều mà những bậc đạo sư cốt nói cho ta biết là, ta hăy chấm dứt tự làm cho ta mê muội: Ta đă học được điều ǵ, nếu vào lúc chết ta không biết ḿnh thực sự là ai? Tử thư Tây Tạng nói:
Tâm nghĩ xa xôi, không nghĩ cái chết sắp đến,
Làm những hoạt động vô nghĩa này,
Rồi trở về hai bàn tay trắng
Thực là mê muội hoàn toàn;
Điều cần là trực nhận bản tâm và giáo lư
Tại sao không tu tập đạo lộ trí tuệ ngay lúc này?
Những lời này từ kim khẩu bậc thánh nói ra:
Nếu bạn không ghi nhớ lời thầy vào tâm khảm
Th́ có phải bạn đă tự lừa dối ḿnh?
BẬC THẦY
Đức Phật dạy trong một mật điển:
- Trong tất cả chư Phật đă đạt giác ngộ, không có một vị nào thành tựu việc này mà không nhờ một bậc thầy, và trong tất cả ngàn vị Phật sẽ xuất hiện trong đại kiếp này, không một vị nào sẽ đạt giác ngộ mà không nương tựa vào một bậc thầy.
Vào năm 1987, sau khi bậc thầy thân yêu Dudjom của tôi từ trần ở Pháp th́ tôi đang ngồi trong xe lửa từ miền Nam nước Pháp nơi ngài ở, để trở về Paris. Trong trí tôi hiện ra muôn ngàn hành vi độ lượng, hiền lành và từ ái của ngài, tôi rưng nước mắt tự nhủ với ḿnh nhiều lần:
- Nếu không nhờ thầy, th́ làm sao con hiểu được?
Tôi nhận chân một cách tha thiết cái điều trước đấy tôi chưa bao giờ biết đến, đó là tại sao truyền thống chúng tôi lại đặt tầm quan trọng thiêng liêng như vậy vào liên hệ thầy tṛ, và mối liên hệ ấy là thiết yếu như thế nào đối với việc truyền thừa chân lư từ trí sang trí, từ tâm sang tâm. Nếu không có những bậc thầy tôi, th́ tôi đă không thể trực nhận chân lư của lời dạy, tôi đă không thể đạt đến tầm mức hiểu biết khiêm tốn mà tôi có được.
Nhiều người Tây phương nghi ngờ thầy, thông thường bất hạnh thay, lại là v́ những lư do chính đáng. Tôi không cần phải kể ra đây vô số trường hợp ghê gớm, đáng chán, về sự điên rồi, tham lam, và lường gạt đă xảy ra trong thế giới hiện nay, kể từ khi tây phương mở cửa đón nhận nền minh triết đông phương vào những thập niên 1950 và 1960. Tuy nhiên, tất cả truyền thống trí tuệ lớn, dù là Ki-tô, Sufi, Phật giáo hay Ấn giáo, muốn có năng lực đều phải dựa vào quan hệ thầy tṛ. Bởi thế điều mà thế giới cấn một cách cấp thiết hiện nay, là sự hiểu biết rơ ràng càng minh bạch càng tốt, một bậc thầy chân thực là ǵ, và một môn đệ chân thực là ǵ, và ǵ là thực chất của sự chuyển hóa xảy ra nhờ ḷng tin đối với thầy.
Có lẽ sự mô tả cảm động và chân xác nhất về bản chất chân thực của bậc thầy mà tôi từng nghe, là cách mô tả của thầy Jamyang tôi. Ngài nói rằng mặc dù bản tính chân thực của chúng ta là Phật, song từ vô thỉ nó đă bị che mờ bởi một đám mây đen vô minh mê lầm. Tuy thế, bản tính chân thực ấy, Phật tính của ta, không bao giờ hoàn toàn đầu hàng sự chuyên chế của vô minh, ở đâu đó Phật tính ấy luôn luôn chống lại sự thống trị của vô minh.
Như thế Phật tính của chúng ta có một khía cạnh tích cực, đó là "bậc thầy nội tâm" của chúng ta. Ngay khi chúng ta trở nên mờ mịt, là bậc thầy nội tâm ấy đă làm việc cho chúng ta không biết mỏi mệt, cố đưa chúng ta trở về sự sáng sủa, khoáng đạt của bản thể chân thực chúng ta. Bậc thầy ấy không bỏ rơi ta giây phút nào. Trong ḷng từ bi vô lượng như của chư Phật và của các đấng giác ngộ, Phật tính ấy không ngừng hoạt động cho sự tiến hóa của ta - không những đời này mà tất cả đời quá khứ của ta – dùng đủ phương tiện thiện xảo, đủ loại hoàn cảnh để giáo hóa, thức tỉnh chúng ta, và để dẫn chúng ta trở về chân lư.
Khi chúng ta đă cầu nguyện, khát ngưỡng chân lư trong một thời gian dài, qua nhiều đời kiếp, và khi nghiệp ta đă được thanh lọc khá đủ, th́ một thứ phép lạ xảy ra. Và nếu ta có thể hiểu và xử dụng phép lạ này, th́ nó có thể đưa đến sự vĩnh viễn chấm dứt vô minh: Vị thầy nội tâm, người luôn luôn theo sát chúng ta, xuất hiện dưới h́nh dạng một "vị thầy bên ngoài", người mà gần như do một huyễn thuật, ta đă gặp được trong thực tế. Sự gặp gỡ này là quan trọng nhất trong tất cả đời kiếp.
Ai là vị thầy bên ngoài? Không ai khác hơn là hiện thân, là tiếng nói và đại diện của vị thầy bên trong. Vị thầy mà h́nh dáng con người, tiếng nói con người, và trí tuệ của ông, đă khiến ta thương mến hơn bất cứ người nào khác trong các đời kiếp của ta, người ấy không ai khác hơn là biểu hiện của sự thật huyền bí nội tâm ta. Nếu không th́ làm sao giải thích được tại sao cảm thấy liên hệ mănh liệt đến vị thầy ấy như thế?
Ở tầng mức cao sâu nhất, thầy và tṛ không thể có sự ngăn cách, v́ công việc của thầy là dạy cho ta nhận được thông điệp rơ ràng của vị thầy bên trong tâm ta, và làm cho ta nhận chân được sự hiện diện liên tục của bậc thầy tối hậu ấy ở trong tâm. Tôi cầu cho quư vị có thể thưởng thức được trong đời này, niềm hỉ lạc của mối tương giao hoàn hảo nhất đó.
Không những vị thầy là phát ngôn chính thức của chính vị thầy trong tâm bạn, mà ông c̣n là người chuyên chở, truyền đạt tất cả những ân phước của các đấng giác ngộ. Đấy là điều làm cho vị thầy của bạn có khả năng phi thường để soi sáng tâm trí bạn. Vị thầy không khác ǵ hiện thân của cái tuyệt đối, đấy là đường dây điện thoại qua đó tất cả chư Phật và các bậc giác ngộ có thể liên lạc với bạn. Vị thầy là kết tinh của trí tuệ tất cả chư Phật, và hiện thân của ḷng từ bi của các ngài luôn luôn hướng về bạn: Ánh sáng của chư Phật nhắm thẳng vào tim óc bạn để giải thoát bạn.
Trong truyền thống chúng tôi xem vị thấy c̣n tốt hơn cả những vị Phật. Mặc dù ḷng từ bi và năng lực chư Phật luôn luôn hiện hữu, song những mê mờ đă ngăn che chúng ta không gặp được chư Phật một cách trực tiếp. Nhưng vị thầy của chúng ta có thể gặp; vị thầy đang ở đó, sống, thở, nói, làm việc. Vị thầy luôn ở trước mắt ta để chỉ cho ta bằng mọi cách có thể, con đường của chư Phật: Con đường giải thoát. Với tôi, những bậc thầy của tôi là hiện thân của chân lư sống, là những dấu hiệu ám chỉ rằng sự giác ngộ có thể đạt được khi c̣n thân xác, ngay trong đời này, trong thế giới này, ngay bây giờ và tại đây. Các ngài là những nguồn cảm hứng tối thượng trong việc tu tập của tôi, trong công việc, đời sống của tôi, và trong cuộc hành tŕnh của tôi tiến đến giải thoát. Những bậc thầy đối với tôi là hiện thân của lời nguyện thiêng liêng đặt giác ngộ lên trên hết, cho đến khi tôi thực hiện được nguyện ấy. Tôi biết rằng chỉ khi đạt giác ngộ tôi mới hiểu biết hoàn toàn những vị ấy thực sự là ai, và biết được trọn vẹn ḷng độ lượng, từ bi và trí tuê vô biên của các vị.
Tôi muốn san sẻ với các bạn lời cầu nguyện đẹp đẽ sau đây, mà ở Tây Tạng chúng tôi đọc để triệu thỉnh vị thầy trong tâm ta:
Từ đóa sen ḷng sùng kính trong tim con
Hỡi Thầy từ bi, chỗ nương cậy duy nhất của con;
Hăy xuất hiện che chở con trong cơn khốn đốn
Bởi các nghiệp quá khứ và cảm xúc hỗn loạn.
Như viên ngọc an trú trên đầu con, mandala của đại lạc
Khơi dậy tỉnh giác và sáng suốt trong con, xin Thầy!
NĂNG LỰC CỦA L̉NG SÙNG KÍNH
Như Phật đă dạy về các vị Phật đă giác ngộ, không ai là không nương vào một bậc thầy, Ngài c̣n dạy:
- Chỉ nhờ ḷng sùng kính mà thôi, ta có thể thực chứng chân lư tuyệt đối.
Chân lư tuyệt đối không thể thực chứng được trong phạm vi cái tâm thường ngày. Và tất cả truyền thống trí tuệ lớn, đều dạy con đường để vượt ngoài tâm thường ngày là trái tim. Con đường của trái tim là sự sùng kính.
Dilgo Khientse Rinpoche nói:
- Chỉ có một cách duy nhất để đạt giải thoát giác ngộ, đó là theo một bậc thầy chân thực. Thầy là vị hướng đạo giúp ta vượt biển sinh tử.
Như mặt trời, trăng phản chiếu trên mặt nước lặng trong, ân phước chư Phật cũng luôn luôn hiện diện cho những người có ḷng tin tuyệt đối. Ánh sáng mặt trời rơi khắp, nhưng chỉ nơi nào có kính hội tụ th́ mới đốt được cỏ khô. Khi những tia sáng bao la của tâm Phật từ bi được hội tụ vào tấm gương lớn của ḷng tin và sự sùng kính, th́ ngọn lửa ân phước sẽ cháy bùng trong bản thể bạn.
Vậy th́ điều cốt yếu là biết được sùng kính thực sự có nghĩa ǵ. Đấy không phải là sự tôn thờ vô ư thức, không phải là bỏ hết trách nhiệm đối với chính bạn, tuân theo một cách mù quáng sự bốc đồng của một người khác. Sùng kính chân thực là một sự luôn sẵn sàng đón nhận chân lư không gián đoạn. Sự sùng kính ấy có gốc rễ trong niềm tri ân kính phục, nhưng sáng suốt và có trí tuệ, có căn cứ.
Khi bậc thầy có thể khơi mở cái tâm sâu xa của bạn, làm cho bạn thấy được tự tính của tâm, th́ trong bạn nổi lên một niềm tri ân hoan hỉ đối với người đă giúp bạn thấy được. V́ sự thật mà bạn thấy là những ǵ mà bậc thầy thể hiện trong con người, trong giáo lư và trong trí tuệ của thầy. Cảm giác chân thực tự nhiên ấy luôn luôn có gốc rễ trong kinh nghiệm nội tâm, và chỉ điều này mới được gọi là sùng kính, Tạng ngữ là Mogu. Mogu nghĩa là "khát khao và kính trọng": Kính trọng thầy, niềm kính trọng càng tăng khi bạn càng hiểu bậc thầy là ai, và khao khát những ǵ mà thầy có thể khai thị cho bạn, v́ bạn đă biết thầy chính là gạch nối của tâm bạn với chân lư tuyệt đối, hiện thân của tự tính chân thực trong bạn.
Dilgo Rinpoche nói:
- Lúc đầu sự sùng kính này có thể chưa tự nhiên, nên ta phải dùng một số kỹ thuật để giúp ta có được sự sùng kính. Điều chính yếu là phải luôn luôn nhớ những đức tính tuyệt hảo của vị thầy, nhất là ḷng tử tế của vị ấy đối với ta. Nhờ liên tục phát sinh niềm tin tưởng, tán thán vị thầy, tận tụy với thầy, mà sẽ có ngày chỉ cần nhớ tên hay nghĩ đến vị ấy cũng đủ dừng lại mọi vọng tưởng của ta, và ta sẽ thấy vị ấy như chính là đức Phật.
Thấy thầy không phải như một con người, mà như chính đức Phật, đó là nguồn gốc của ân phước lớn nhất. Padmasambhava nói:
- Sùng kính tuyệt đối đem lại ân phước lớn lao; không hoài nghi đem lại thành công mỹ măn,
Những người Tây Tạng biết nếu bạn xem thầy như Phật, th́ bạn sẽ nhận được phước của Phật, nhưng nếu bạn xem thầy như một con người mà bạn chỉ được phước của con người. Vậy nếu muốn nhận được năng lực chuyển hóa trọn vẹn của lời dạy của bậc thầy, th́ bạn phải khơi mở trong chính ḿnh ḷng sùng kính lớn lao nhất. Chỉ khi bạn xem thầy như Phật th́ một nền giáo lư như-của-Phật mới đến với bạn từ tâm giác ngộ của bậc thầy. Nếu bạn không thể xem thầy như Phật, mà chỉ xem như người, th́ không bao giờ có được ân phước trọn vẹn, và ngay cả nền giáo lư vĩ đại nhất bạn cũng không thể đón nhận được.
Càng tư duy về sự sùng kính và vai tṛ của nó trong tri kiến về giáo lư, tôi càng nhận sâu xa rằng đấy cốt yếu là một phương tiện thiện xảo để làm cho chúng ta dễ hấp thụ chân lư mà thầy truyền dạy. Những bậc thầy không cần sự tôn thờ của chúng ta, nhưng có xem thầy như Phật sống th́ ta mới có thể lắng nghe thông điệp của giáo lư và nhất nhất tuân theo những chỉ giáo của họ. Như vậy, có thể nói sự sùng kính là cách thực tiễn nhất để có niềm tôn trọng tuyệt đối và do đó mở ḷng ra để đón nhận giáo lư mà bậc thầy truyền đạt và thể hiện qua con người của họ. Càng sùng kính, bạn càng mở ḷng ra đối với lời giảng dạy, và bạn càng mở ḷng ra th́ giáo lư càng có nhiều cơ hội để thấm vào tim óc bạn, và nhờ vậy phát sinh một sự chuyển hóa tâm linh toàn diện.
Vậy, chỉ nhờ xem thầy như Phật sống, mà tiến tŕnh "thành Phật" của bạn có thể thực sự bắt đầu và hoàn tất. Khi tâm trí bạn đă hoàn toàn mở ra trong niềm hân hoan, ngạc nhiên, biết ơn đối với sự mầu nhiệm là hiện diện của bậc thầy, hiện thân của giác ngộ, th́ khi ấy, dần dà trải nhiều năm, có thể xảy ra sự truyền thừa từ tâm trí tuệ của bậc thầy sang tâm của bạn, mở cho bạn thấy ánh quang vinh của Phật tính nơi chính bạn, và cùng với Phật tính ấy là ánh quang vinh của toàn vũ trụ.
T́nh sư đệ thân thiết sâu xa nhất ấy trở thành một tấm gương phản chiếu mối tương quan của người đệ tử đối với cuộc đời và thế giới nói chung. Bậc thầy trở thành h́nh ảnh cốt cán trong sự thực hành "tri kiến thuần tịnh," cao điểm của nó là khi hành giả thấy một cách trực tiếp không c̣n chút nghi ngờ nào: Thầy là Phật sống, lời thầy là Phật ngôn, tâm thầy là tâm giác ngộ của tất cả chư Phật, mỗi hành động của thầy là một biểu hiện của Phật hạnh, chỗ thầy ở là cảnh giới Phật, và ngay cả những người xung quanh thầy là ánh sáng do trí tuệ của thầy chiếu ra.
Khi những nhận thức như vậy càng ngày càng hiện thực và vững chắc, th́ phép lạ trong tâm mà hành giả đă trông ngóng từ bao đời kiếp có thể dần dần xuất hiện: Hành giả khởi sự thấy một cách tự nhiên rằng ḿnh, vũ trụ và tất cả hữu t́nh trong đó đều trong sáng toàn hảo một cách tự nhiên: Thế là cuối cùng hành giả đang nh́n vào Thực tại với chính con mắt của ḿnh. Bậc thầy, như vậy, là con đường, là phiến đá thử vàng mầu nhiệm để phát sinh một chuyển hóa toàn diện của mọi nhận thức nơi người đệ tử.
Sự sùng kính trở thành phương thức nhanh nhất, giản dị nhất và thuần tịnh nhất để trực ngộ bản tâm và vạn pháp trong vũ trụ. Càng tiến trên con đường này, ta thấy tiến tŕnh ấy hỗ tương duyên sinh một cách kỳ diệu: Khi chúng ta cố liên tục phát sinh ḷng sùng kính, sự sùng kính ta có được ấy lại phát sinh ra ánh sáng của tự tâm ta; sự thấy được ánh sáng tự tâm lại làm cho ta tăng ḷng sùng kính đối với bậc thầy đă khơi niềm cảm hứng cho ta. Như thế là sùng kính tuôn phát từ trí tuệ: Sùng kính và kinh nghiệm về bản tâm trở thành một thực thể bất khả phân, và gợi cảm hứng lẫn nhau.
Thầy của Patrul Rinpoche là Jikmé Gyalwé Nyugu. Trong nhiều năm ngài nhập thất trong một hang động. Một ngày kia khi ngài ra ngoài, mặt trời đang đổ xuống; ngài nh́n lên trời thấy một đám mây đang di chuyển về hướng mà Jikmé Lingpa, bậc thầy ngài đang cư trú. Ngài nghĩ trong tâm, "Thầy ta đang ở nơi kia," và một niềm khát ngưỡng và sùng kính dâng trào trong tâm ngài, mănh liệt tới nỗi ngài ngă quị. Khi ngài tỉnh dậy, toàn thể tâm giác ngộ của bậc thầy đă được truyền sang cho ngài, và ngài đạt đến tŕnh độ chứng nhập cao nhất, gọi là "Diệt tận định."
D̉NG ÂN SỦNG
Những câu chuyện về năng lực của ḷng sùng kính và ân phước của bậc thầy không phải là những chuyện chỉ có trong quá khứ. Trong một con người như Khandro Tsering Chodron, bậc nữ đạo sư của thời đại chúng ta, ta có thể thấy được kết quả sự tu tập và sự sùng kính sâu xa đối với bậc thầy là như thế nào. Tính khiêm hạ, giản dị của bà, trí tuệ trong sáng của bà được mọi người Tây Tạng tôn kính, mặc dù bà cố hết sức ở lại trong bóng tối, không bao giờ xuất đầu lộ diện. Bà sống cuộc đời khổ hạnh ẩn cư của một hành giả tu thiền quán ngày xưa.
Tôi thường nghe Khandro nói nhiều lần rằng nếu liên hệ của bạn với thầy bạn được giữ thực sự trong sáng, th́ mọi sự trong đời bạn sẽ tốt đẹp. Cuộc đời bà là điển h́nh cảm động nhất về điều này. Sự sùng kính đă làm cho bà thể hiện được tinh hoa của giáo lư, và tỏa chiếu cho người khác ánh sáng ấm áp của tinh hoa ấy. Khandro không giảng dạy một cách trịnh trọng, kỳ thực bà không nói nhiều; nhưng điều ǵ bà nói thường rơ rệt một cách sâu xa đến nỗi nó trở thành lời tiên tri. Lắng nghe bà tụng lên những lời kinh, hay thực tập thiền định với bà, bạn được cảm hứng sâu xa tận tâm để. Ngay cả khi đi dạo với bà, hay chỉ ngồi với bà, ta cũng thấy như được tấm trong niềm hỉ lạc mănh liệt của sự hiện diện ấy.
V́ Khandro rất dè dặt, và v́ sự vĩ đại của bà nằm ở tính b́nh dị, nên chỉ có người nào thực sự trí tuệ mới thấy được bà là ai. Chúng ta sống trong một thời đại mà chỉ những người phô trương ḿnh ra lại thường được thán phục nhiều nhất. Nhưng chính trong những người khiêm cung như Khandro, mà chân lư đang sống thực sự. Nếu Khandro có bao giờ đến giảng dạy ở Tây phương, bà sẽ là một bậc thầy toàn hảo, bậc nữ đạo sư vĩ đại nhất, người nhập thể được một cách huyền nhiệm toàn triệt, đức từ bi và trí tuệ của Tara – tâm bi mẫn có tuệ giác được thể hiện qua thân h́nh một nữ nhân – có năng lực chữa trị tâm linh. Nếu tôi phải chết, mà có Khandro tiếp nối, th́ tôi sẽ cảm thấy tin tưởng và an tâm hơn bất cứ bậc thầy nào khác.
Tất cả những ǵ tôi thực hiện được đều là nhờ sùng kính các bậc thầy. Càng ngày tôi càng ư thức rơ với niềm úy phục rằng những ân sủng của các bậc thầy đang làm việc qua tôi. Tôi không là ǵ nếu không có sự ban ân của thầy, và nếu có điều ǵ tôi làm được, th́ đấy là làm một nhịp cầu giữa bạn và các bậc thầy. Nhiều lần, tôi đă nhận thấy rằng khi tôi nói về các thầy tôi trong các buổi giảng dạy, th́ ḷng sùng kính của tôi gợi cảm hứng nơi những người nghe, và trong những giây phút kỳ diệu ấy tôi cảm thấy các thầy tôi đang hiện diện, đang ban ân phước và mở những trái tim các học tṛ tôi, cho họ thấy được chân lư.
Tôi nhớ ở Sikkim vào thập niệm 1960, sau khi thầy Jamyang tôi chết không bao lâu, Dilgo Khientse Rinpoche đang làm một loạt dài những lễ quán đảnh thuộc giáo lư của Padmasambhava, có thể kéo dài nhiều tháng. Nhiều bậc thầy đang ở trong một tu viện trên ngọn đồi phía sau thủ đô Gangtok, và tôi đang ngồi với Khandro Tsering Chodron và Lama Chokden, phụ tá của thầy Jamyang Khientse và là một thầy nghi lễ.
Chính vào lúc ấy tôi kinh nghiệm được sự thật về cách làm thế nào một bậc thầy có thể truyền phúc lạc của tâm giác ngộ cho đệ tử (truyền tâm ấn). Một ngày, Dilgo Khientse Rinpoche giảng dạy về sự sùng kính và nói về thầy Jamyang Khientse, tuôn ra từ tâm ngài như ḍng thác hùng hồn và đầy thi vị tâm linh. Khi nh́n thấy Dilgo Khientse Rinpoche và lắng nghe thầy nói, một cách mầu nhiệm tôi nhớ lại phong thái của chính thầy Jamyang Khientse những lúc thầy giảng giáo lư tuyệt vời một cách thao thao bất tuyệt, như từ một suối nguồn bất tận. Từ từ tôi kinh ngạc nhận thấy cái ǵ đă xảy đến: Đó là ân sủng tuệ giác của thầy Jamyang Khientse đă được trao truyền trọn vẹn cho pháp tử của ngài, Dilgo Khientse Rinpoche, và giờ đây ở trước chúng tôi, ân sủng tuệ giác ấy đang phát ngôn một cách lưu loát không cần nỗ lực, qua thầy Dilgo Rinpoche.
Sau buổi giảng, khi quay lại Khandro và Chokden, tôi thấy mặt họ đang ràn rụa nước mắt, và bảo:
- Chúng tôi biết Dilgo Khientse là một bậc thầy vĩ đại, và chúng tôi cũng biết người ta thường bảo một vị thầy có thể truyền hết ân sủng tuệ giác cho pháp tử của ḿnh. Nhưng chỉ mới hôm nay, bây giờ và tại đây, tôi mới thực chứng được sự thật ấy có nghĩa ǵ.
Khi nghĩ lại cái ngày kỳ diệu ấy ở Sikkim, và nghĩ đến những bậc thầy vĩ đại mà tôi đă biết, th́ tôi lại nhớ đến những lời này của một bậc thánh Tây Tạng:
- Khi mặt trời sùng kính chói chang (của môn đệ) chiếu trên đỉnh núi tuyết là bậc thầy, th́ ḍng thác ân sủng của thầy sẽ tuôn xuống.
Tôi lại nhớ đoạn văn của chính Dilgo Khientse Rinpoche đă diễn tả những đức tính cao quí vô biên của bậc thầy một cách hùng hồn hơn bất cứ đoạn văn nào khác:
- Thầy như một con thuyền lớn cho chúng sinh vượt qua đại dương hiểm nghèo của sinh tử, thầy là thuyền trưởng vững vàng hướng dẫn chúng tới bến bờ khô ráo của giải thoát; thầy là cơn mưa dập tắt ngọn lửa năo phiền, là ánh nhật nguyệt chói lọi xua tan bóng tối vô minh, là đất kiên cố có thể chuyên chở sức nặng của ác và thiện, một Cây ước ban bố niềm vui tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu, là kho tàng giáo lư thâm diệu bao la, là ngọc châu như ư đem lại tất cả đức tính của chứng ngộ, là cha là mẹ trải ḷng thương b́nh đẳng lên tất cả hữu t́nh, là con sông lớn của ḷng từ, là ngọn núi vươn lên trên mọi lo phiền thế tục, không lay chuyển trước những gió băo của cảm xúc; thầy là vừng mây lớn đem mưa rưới mát những dằn xé của dục vọng. Tóm lại, thầy ngang với tất cả chư Phật. Chỉ cần liên lạc với bậc thầy bằng bất cứ cách nào, hoặc trông thấy thầy, hoặc nghe giọng nói của thầy, hoặc được thầy lấy tay sờ đầu, hoặc nhớ đến thầy, cũng sẽ đưa ta đến giải thoát. Hoàn toàn đặt tin tưởng nơi bậc thầy, đó là cách bảo đảm nhất để có tiến bộ trên đường chứng đắc tuệ giác. Sự ấm áp của trí tuệ và từ bi của thầy sẽ làm tan những cấu uế trong người ta và giải tỏa được chất vàng ṛng của Phật tính trong ta.
Tôi đă ư thức được niềm ân sủng mà các bậc thầy tôi rót vào tâm tôi mà tôi hầu như không hay biết. Từ ngày Dudjom Rinpoche chết, những học tṛ tôi bảo rằng những lời giảng dạy của tôi trở nên lưu loát rơ ràng hơn. Cách đây không lâu, sau khi nghe Dilgo Khientse Rinpoche giảng một bài pháp hay đặc biệt, tôi đă bày tỏ ḷng thán phục của tôi và nói:
- Thật như là một phép lạ, khi những lời giảng tuôn ra từ tâm trí tuệ của ngài một cách tự nhiên không nỗ lực.
Thầy nhẹ nhàng ngả về phía tôi và nói, với một ánh mắt trêu chọc:
- Và mong sao những lời dạy của con bằng tiếng Anh cũng tuôn ra dễ dàng trôi chảy như vậy.
Từ đấy trở đi, tự nhiên tôi có cảm giác cái khả năng diễn đạt giáo lư nơi tôi trở nên tự nhiên hơn, hoàn toàn không do luyện tập. Tôi xem quyển sách này như một biểu hiện của niềm ân sủng từ những vị thầy tôi, được truyền từ tâm trí tuệ của bậc thầy và vị đạo sư tối hậu là Padmasambhava. Vậy, quyển sách này là tặng phẩm của các ngài đến cho bạn.
Chính niềm sùng kính đối với những bậc thầy đă đem lại cho tôi sức mạnh để giảng dạy, và tâm hồn rộng mở, tính cảm thụ sâu xa để học hỏi và luôn luôn học hỏi. Chính thầy Dilgo Khientse Rinpoche cũng không bao giờ ngưng học hỏi một cách khiêm hạ từ những bậc thầy khác, phần lớn là từ chính những đệ tử của ngài. Bởi thế, niềm sùng kính gợi cảm hứng cho sự giảng dạy cũng là sự sùng kính đem cho ta tính khiêm hạ để tiếp tục học hỏi. Vị đại đệ tử của Milapera là Gampopa đă hỏi thầy ḿnh lúc chia tay:
- Khi nào th́ đúng lúc con nên khởi sự d́u dắt đệ tử?
Milapera trả lời:
- Khi con không phải như con bây giờ, khi toàn thể nhận thức của con đă được chuyển hóa, và con có thể thấy, thực sự thấy, cái ông già trước mặt con không ai khác hơn là chính đức Phật. Khi ḷng sùng kính đă đem lại cho con giây phút nhận thức được như thế, cái lúc ấy sẽ là dấu hiệu chứng tỏ thời gian ra giáo hóa của con đă đến.
Giáo lư này đă đến với bạn từ tâm giác ngộ của Padmasambhava xuyên qua hàng bao thế kỷ, trên ngàn năm, qua một ḍng truyền thừa không gián đoạn gồm những bậc thầy mà mỗi vị đều trở thành bậc thầy chỉ nhờ đă biết khiêm hạ làm đệ tử, và vẫn luôn luôn, trong ư nghĩa sâu xa nhất, là đệ tử của những bậc thầy họ suốt cả đời. Ngay cả vào lúc ngài đă tám mươi hai tuổi, mỗi khi Dilgo Khientse Rinpoche nói về Thầy ḿnh là Jamyang Khientse Rinpoche, mắt ngài đều rướm lệ, những giọt nước mắt của niềm tri ân và sùng kính. Trong bức thư cuối cùng gửi cho tôi trước khi chết, ngài đă kư tên là "Đệ tử đệ nhất." Điều ấy chứng tỏ cho tôi thấy thực vô tận thay ḷng sùng kính chân thực, và cùng với sự chứng ngộ cao nhất cũng phát sinh niềm sùng kính lớn nhất và niềm tri ân toàn vẹn nhất, v́ nó đầy cả đức khiêm cung.
PHÉP ĐẠO SƯ DU GIÀ; H̉A VỚI TÂM TRÍ TUỆ CỦA BẬC THẦY
Tất cả chư Phật, Bồ tát và những bậc giác ngộ luôn luôn hiện diện để giúp chúng ta, và chính nhờ hiện diện của bậc thầy mà tất cả ân sủng của Phật, Bồ tát được tập trung trực tiếp trên ta. Những người đă biết Padmasambhava th́ biết sự thật của lời hứa mà ngài đă lập trên ngàn năm trước:
- Tôi không bao giờ xa các người có đức tin, hay cả đến những người không có đức tin, mặc dù họ không trông thấy tôi. Những người con của ta sẽ luôn luôn được ḷng từ bi của tôi che chở.
Chúng ta chỉ cần xin cầu nếu muốn được giúp đỡ trực tiếp. Há không phải Ki-tô cũng nói:
- Hăy xin, ngươi sẽ được cho; hăy t́m kiến, ngươi sẽ gặp; hăy gơ, và cửa sẽ được mở cho ngươi. Ai xin đều nhận được, ai t́m đều gặp được.
Tuy thế, hỏi xin là điều khó khăn nhất đối với chúng ta. Tôi nghĩ nhiều người trong chúng ta hoàn toàn không biết làm thế nào để hỏi. Đôi khi v́ ta kiêu căng, đôi khi v́ ta không muốn được giúp đỡ, đôi khi v́ ta biếng nhác, đôi khi v́ tâm ta bận rộn đủ thứ vấn đề, lo ra, và mờ mịt đến nỗi ta không bao giờ nghĩ đến chuyện giản dị là hỏi. Khúc quanh quan trọng trong bất cứ sự cai rượu hay cai nghiện nào, là khi những người nghiện chấp nhận họ có bệnh và xin được giúp đỡ. Có thể nói chúng ta đều là những kẻ nghiện sinh tử; cái lúc sự giúp đỡ có thể đến với ta là lúc ta công nhận ḿnh có bệnh nghiện và chỉ có việc xin cầu giúp đỡ.
Điều ta cần hơn bất cứ ǵ, là tính can đảm và khiêm hạ thực sự để cầu xin sự giúp đỡ, từ đáy tim ta cầu xin ḷng từ bi của các bậc giác ngộ, cầu sự gạn lọc và chữa lành, cầu được khả năng hiểu thấu ư nghĩa của khổ đau và chuyển hóa nó; cầu xin trên b́nh diện tương đối, được tăng trưởng sự sáng suốt, b́nh an, khả năng phân biệt, và cầu được chứng ngộ bản chất tuyệt đối của tâm, nhờ tan ḥa vào cái tâm giác ngộ bất tử của bậc thầy.
Để có được sự giúp đỡ của chư Phật, để khơi dậy ḷng sùng kính và trực nhận bản tính tự tâm, không có pháp môn nào nhanh hơn, cảm động hơn và hiệu lực hơn pháp môn Đạo sư Du già. Dilgo Khientse Rinpoche viết:
- Danh từ Guru Yoya có nghĩa là "hợp nhất với đấng đạo sư," và trong sự thực tập này, chúng ta được cho những phương pháp để ḥa nhập tâm ḿnh với tâm giác ngộ của bậc thầy.
Hăy nhớ rằng bậc thầy - đạo sư - thể hiện sự kết tinh của những ân sủng của tất cả chư Phật, tất cả bậc thầy, và các bậc đă giác ngộ. Bởi thế triệu thỉnh bậc thầy cũng là triệu thỉnh tất cả; và ḥa nhập tim óc bạn với chân lư và với chính hiện thân của giác ngộ.
Bậc thầy bên ngoài trực chỉ cho bạn chân lư về bậc thầy bên trong bạn. Chân lư ấy càng được khải thị qua lời dạy bậc thầy, qua cảm hứng từ bậc thầy, th́ bạn càng nhận ra rằng bậc thầy bên ngoài và bên trong bạn là bất khả phân. Khi bạn dần dần khám phá ra chân lư này cho chính bạn, qua phương pháp triệu thỉnh trong lối thực hành phép Đạo sư Du già, th́ một niềm tin tưởng, tri ân, hỉ lạc và sùng kính phát sinh trong bạn, qua đó tâm bạn và tâm giác ngộ của bậc thầy thực sự trở thành bất khả phân. Dilgo Khientse Rinpoche có soạn theo yêu cầu của tôi trong một thời thực tập Đạo sư Du già như sau:
Cái ǵ hoàn tất sự thanh lọc lớn lao của nhận thức
Chính là sự sùng kính, ánh sáng của Tự tâm chiếu ra
Nhận chân, và nhớ rằng tự tâm ta chính là bậc thầy –
Qua điều này, mong rằng tâm con và ta ḥa làm một.
Đó là lư do tất cả truyền thống trí tuệ của Tây Tạng đều đặt tầm quan trọng vào phép thực hành Đạo sư Du già, và tất cả những bậc thầy đều xem đấy là pháp môn tâm đắc nhất của họ. Dudjom Rinpoche viết:
- Điều cốt yếu là đặt tất cả nghị lực của bạn vào Đạo sư Du già, bám lấy pháp này xem như sự sống, như trái tim của sự tu luyện. Nếu không vậy, th́ thiền định của bạn sẽ cùn nhụt, và dù bạn có làm được chút tiến bộ, cũng không chấm dứt được những chướng ngại, và sẽ không có khả năng để sự chứng ngộ chân thực phát sinh trong tâm bạn. Bởi thế, nhờ tha thiết cầu nguyện với sự sùng kính không giả tạo, mà sau một thời gian ân sủng trực tiếp từ tâm giác ngộ của bậc thầy sẽ truyền vào bạn, gia tŕ cho bạn sự thực chứng vượt ngoài mô tả, phát sinh từ trong tâm khảm của bạn.
Điều mà tôi sẽ đem lại cho bạn bây giờ là một phép đơn giản để thực hành Đạo sư Du già mà người theo tôn giáo nào cũng có thể tập. Đây là pháp tu chính yếu của tôi, là trái tim và cảm hứng của cả đời tôi. Mỗi khi tôi thực hành pháp này, th́ Padmasambhava chính là người mà tôi tập trung vào. Khi đức Phật nhập niết bàn, ngài có tiên đoán rằng Padmasambhava sẽ ra đời để gieo rắc giáo lư mật tông. Như tôi đă nói, chính Padmasambhava là người thiết lập đạo Phật ở Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám. Đối với người Tây Tạng chúng tôi, th́ Padmasambhava, Bậc thầy yêu quư, là hiện thân của một nguyên lư rộng lớn không có thời gian. Ngài là bậc thầy của tất cả. Ngài đă xuất hiện vô số lần cho các bậc thầy của Tây Tạng thấy. Những linh kiến này, những cuộc gặp gỡ này đă được ghi chép rơ ngày tháng, nơi chốn và cách xuất hiện, cùng với những giáo lư và lời tiên tri mà ngài cho biết. Ngài cũng đă để lại hàng ngàn giáo lư cho đời sau, được hiển thị nhiều lần bởi nhiều bậc thầy vĩ đại hậu thân của ngài. Một trong những giáo lư ngài để lại ấy là Tử thư Tây Tạng.
Tôi luôn luôn cầu Padmasambhava trong những lúc gặp khó khăn khủng hoảng, và ngài không bao giờ không ban ân sủng và năng lực cho tôi. Khi tôi nghĩ về ngài, th́ các bậc thầy của tôi đều là hiện thân của ngài. Đối với tôi th́ ngài hoàn toàn sống động vào mọi lúc, và lúc nào toàn vũ trụ cũng chiếu sáng với vẻ đẹp, năng lực và hiện diện của ngài.
Ôi hỡi Đạo sư, Bậc thầy tôn quư,
Ngài là hiện thân của từ bi
và ân sủng của tất cả chư Phật,
Là đấng che chở tất cả hữu t́nh
Thân con, tài sản con, tim con, linh hồn con
Tất cả, con xin dâng lên ngài
Từ giờ phút này đến khi con đạt giác ngộ,
Trong hạnh phúc hay đau buồn,
Trong hoàn cảnh tốt hay xấu, lên cao hay xuống thấp
Con hoàn toàn nương tựa vào ngài, hỡi đấng Liên Hoa Sanh,
Người biết con: hăy thương tưởng, d́u dắt con, làm cho con trở thành một với ngài.
Tôi xem Padmasambhava như là nhập thể của tất cả bậc thầy tôi, bởi thế khi tôi ḥa nhập tâm tôi với Ngài trong phép Đạo sư Du già, th́ tất cả bậc thầy của tôi đều bao hàm trong đó. Tuy nhiên, bạn có thể dùng bất cứ một vị đă giác ngộ nào, bậc thánh, hay bậc thầy từ bất cứ tôn giáo nào hay truyền thống nào mà bạn cảm thấy sùng kính, dù họ c̣n sống hay đă chết.
Pháp Đạo sư Du già này có bốn giai đoạn chính: Triệu thỉnh; ḥa nhập tâm bạn với bậc thầy qua tinh túy của vị ấy là thần chú; nhận sự gia tŕ hay ân sủng; ḥa nhập tâm bạn với bậc thầy và an trú trong bản tính tự nhiên Rigpa.
1. Triệu thỉnh.
Ngồi yên lặng. Từ đáy sâu của tim bạn, hăy gợi ra những bầu trời trước mặt bạn hiện thân của chân lư dưới h́nh thức của bậc thầy bạn, hay một vị thánh, hay một người đă giác ngộ.
Cố quán tưởng bậc thầy hay đức Phật ấy đang sống, tỏa chiếu ánh sáng trong suốt như cầu vồng. Hăy tin tưởng, với niềm tin tuyệt đối, rằng tất cả niềm ân sủng và đức tính của trí tuệ, từ bi, và năng lực của tất cả chư Phật đều được nhập thể trong vị ấy.
Nếu bạn thấy khó mà quán tưởng bậc thầy, th́ hăy tưởng tượng hiện thân của chân lư như là một thực thể thuần ánh sáng, hoặc cảm thấy sự hiện diện toàn vẹn của bậc thầy ở đấy trong bầu trời trước mặt bạn; đó là hiện diện của tất cả chư Phật và các bậc thầy. Hăy để cho nguồn cảm hứng, hỉ lạc, úy phục mà bạn cảm thấy lúc đó thay cho sự quán tưởng. Chỉ cần tin tưởng rằng sự hiện diện mà bạn triệu thỉnh đă thực sự ở đấy. Chính đức Phật cũng đă nói:
- Kẻ nào nghĩ đến ta, là ta đă ở trước mặt kẻ ấy.
Thầy tôi Dudjom Rinpoche thường nói không hề ǵ nếu lúc đầu bạn không thể quán tưởng; điều quan trọng là cảm thấy sự hiện diện trong tim bạn, và biết rằng hiện diện ấy là hiện thân của ân sủng, từ bi, năng lực và trí tuệ của tất cả chư Phật.
Rồi, khi thư dăn và để tim bạn tràn đầy hiện diện bậc thầy, bạn hăy triệu thỉnh vị ấy một cách tha thiết thành khẩn trong tâm:
- Xin giúp con, làm cho con thanh tịnh tất cả phiền năo nghiệp chướng, để chứng ngộ bản tâm.
Đoạn với niềm sùng kính sâu xa, hăy ḥa nhập tâm bạn với bậc thầy, và an trú tâm bạn trong tâm giác ngộ của thầy. Và khi bạn làm như thế, bạn hăy hoàn toàn quy phục nơi thầy, tự nhủ:
- Xin giúp con, săn sóc con. Cho con tràn ngập niềm vui và năng lực của ngài, trí tuệ của ngài. Hăy thâu tóm con vào trong tâm giác ngộ của ngài. Hăy ban cho con ân sủng và trí tuệ.
Khi ấy th́ "chắc chắn sự gia tŕ sẽ được rót vào tâm bạn," Dilgo Khientse Rinpoche nói.
Khi chúng ta khởi sự pháp tu này, th́ đấy là một cách trực tiếp, thiện xảo và hiệu nghiệm để mang ta ra khỏi tâm phàm phu và nhập vào lĩnh vực thanh tịnh của trí giác Rigpa, ở đấy chúng ta sẽ khám phá rằng tất cả chư Phật đều hiện diện.
Bởi thế, pháp môn này thực sự chuyển hóa được tâm bạn. Khi bạn triệu thỉnh Phật, th́ Phật tính của tự tâm bạn có thể được đánh thức và khai ngộ, tự nhiên như một đóa hoa dưới ánh mặt trời.
2. Đào sâu và làm chín mùi ân sủng.
Khi đến giai đoạn này của sự tu tập, ḥa lẫn tâm tôi với bậc thầy qua câu thần chú, tôi đọc câu chú:
- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM.
Mà tôi tưởng như là Padmasambhava thực sự, và là ân sủng của tất cả những bậc thầy, dưới h́nh thức âm thanh. Tôi tưởng tượng toàn thân tôi tràn ngập hiện diện của ngài, và câu thần chú tinh túy của ngài, đang ngân vang và thấm khắp người tôi, như thể hàng trăm Padmasambhava dưới dạng âm thanh đang lưu hành trong tôi, chuyển hóa toàn bản thể tôi.
Vậy, dùng câu chú, dâng hiến tim và hồn của bạn trong niềm sùng kính nhất tâm, ḥa tâm bạn với Padmasambhava hay bậc thầy của bạn. Dần dà bạn sẽ thấy ḿnh đến gần Padmasambhava hơn, và lấp khoảng trống ngăn cách tâm bạn với tâm giác ngộ của ngài. Dần dần, nhờ năng lực của thực tập này, bạn sẽ thực sự kinh nghiệm tâm ḿnh được chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Padmasambhava và bậc thầy; bạn bắt đầu nhận chân được tính bất khả phân của hai tâm ấy. Như khi thọc ngón tay vào nước th́ ướt, vào lửa th́ nóng, cũng vậy nếu bạn để tâm bạn vào tâm giác ngộ của chư Phật, th́ tâm bạn sẽ chuyển thành bản chất giác ngộ của chư Phật. Dần dần tâm bạn tự thấy ḿnh ở trong trạng thái tự tính tâm, Rigpa, v́ tự tính tâm sâu xa nhất, không khác ǵ tâm giác ngộ của tất cả chư Phật. Nó giống như thể tâm phàm phu của bạn dần dần tan biến, và sự tỉnh giác thuần tịnh, Phật tính của bạn, bậc thầy bên trong, hiển lộ. Đây là ư nghĩa chân thực của "ân sủng", một sự chuyển hóa trong đó tâm bạn siêu việt vào trạng thái tuyệt đối.
Sự chín mùi của ân sủng này là trọng tâm, phần chính của sự tu luyện, phần mà bạn cần dành nhiều th́ giờ nhất, khi bạn thực hành pháp Đạo sư Du già.
3. Gia tŕ.
Bây giờ, bạn hăy tưởng tượng, từ nơi bậc thầy, hàng ngàn ánh sáng rực rỡ tuôn tràn về phía bạn, thâm nhập vào người bạn, tịnh hóa, chữa lành, ban ân sủng, gia tŕ cho bạn và gieo vào tâm bạn những hạt giống giác ngộ. Để cho sự tu tập này càng thêm phong phú, bạn có thể tưởng tượng nó mở ra trong ba giai đoạn:
Trước hết, ánh sáng chói chang như pha lê màu trắng tuôn ra từ trán của vị thầy và đi vào luân xa ở trán bạn, tràn ngập toàn thân bạn. Ánh sáng trắng này tượng trưng ân sủng của thân Phật: Nó thanh lọc tất cả những ác nghiệp mà bạn đă tích lũy do thân ác hành; nó tịnh hóa những huyệt đạo vi tế của hệ thống tâm-vật-lư của bạn; nó đem lại cho bạn phúc lạc của Phật thân, nó gia tŕ năng lực cho bạn thực hành quán tưởng; và nó mở ra cho bạn sự chứng ngộ năng lực từ bi của tự tánh tâm, hiển lộ nơi mọi sự vật.
Kế đến, một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu ra từ yết hầu của vị thầy, đi vào luân xa yết hầu của bạn, tràn ngập thân thể bạn. Ánh sáng đỏ này tượng trưng ân sủng của Lời chư Phật: Nó lọc sạch tất cả ác nghiệp bạn đă tích lũy qua ngữ ác hành; nó thanh lọc nội khí của hệ thống tâm-vật-lư bạn; nó đem lại cho bạn ân sủng ngữ nghiệp của chư Phật; nó gia tŕ năng lực cho bạn thực hành thần chú; và mở ra cho bạn chứng ngộ ánh sáng của tự tánh Rigpa.
Thứ ba, một luồng ánh sáng màu xanh như ngọc lưu ly tuôn phát từ tim của bậc thầy vào luân xa ở tim bạn và tràn ngập người bạn. Ánh sáng xanh này tượng trưng cho ân sủng từ tim của chư Phật. Nó lọc sạch tất cả ác nghiệp bạn đă tích lũy qua ư ác hành; nó tịnh hóa khí lực trong cơ thể tâm vật lư của bạn; nó đem lại cho bạn ân sủng của tâm Phật; nó gia tŕ cho bạn trong các thực tập yoga cao cấp; và mở ra cho bạn chứng ngộ sự thanh tịnh nguyên ủy của tự tính tâm Rigpa.
Bây giờ, bạn hăy nhận biết rằng bạn đă được gia tŕ qua sự ban ân sủng, bằng thân, lời, ư không thể phá hoại của Padmasambhava, của tất cả chư Phật.
4. An trú trong Rigpa.
Bây giờ, hăy để cho vị thầy tan thành ánh sáng và nhập làm một với bạn, trong tự tính tâm bạn. Hăy nhận chân không nghi ngờ rằng bản tính như bầu trời của bạn chính là vị thầy tuyệt đối. Tất cả chư Phật ở đâu, nếu không phải ở trong Rigpa, tự tính tâm bạn?
Được bảo đảm trong nhận thức ấy, trong một trạng thái thoải mái khoáng đạt, bạn an trú trong sự ấm áp quang vinh và phúc lạc của bản thể tuyệt đối trong bạn. Bạn đă đạt đến nền tảng nguyên thủy: Sự trong sáng nguyên ủy và tính giản dị tự nhiên. Khi bạn an trú trong trạng thái Rigpa ấy, bạn sẽ nhận chân sự thật của lời dạy Padmasambhava:
- Tâm chính là Padmasambhava; không có thực hành thiền định nào ngoài tâm ấy.
Tôi đă tŕnh bày pháp tu ấy ở đây, như một thành phần của cơi trung gian tự nhiên của đời này, bởi v́ đấy là thực tập quan trọng nhất trong đời, và bởi thế quan trọng nhất vào lúc chết. Phép Đạo sư Du già, như bạn sẽ thấy ở chương mười ba, "Giúp đỡ tinh thần cho người hấp hối," là nền tảng của phép Chuyển di tâm thức, phowa, vào lúc chết. V́ nếu vào lúc chết, bạn có thể đầy tin tưởng, hợp nhất tâm bạn với tâm giác ngộ của bậc thầy, và chết trong niềm b́nh an ấy, th́ tôi xin hứa và bảo đảm với bạn là mọi sự sẽ tốt đẹp.
Vậy công việc của ta trong đời là thực tập nhiều lần, sự ḥa nhập với tâm giác ngộ của bậc thầy, làm sao để nó trở thành một việc tự nhiên đến nỗi mọi hoạt động hàng ngày - ngồi, đi, đứng, ăn, uống, ngủ, mộng – càng lúc càng thấm nhuần sự hiện diện sống động của bậc thầy. Dần dần, sau nhiều năm tập trung sùng kính, bạn bắt đầu biết và trực nhận được rằng tất cả tướng thế gian đều hiển bày trí giác của bậc thầy. Mọi hoàn cảnh trong đời – ngay cả những hoàn cảnh đă từng có vẻ bi thương, vô nghĩa, hăi hùng – bây giờ càng ngày càng tỏ lộ cho bạn thấy chính là sự giáo hóa trực tiếp và là ân sủng của bậc thầy, và thầy nội tâm. Như Dilgo Khientse Rinpoche nói:
- Sùng kính là tinh túy của con đường tu tập, và nếu trong tâm ta không có ǵ ngoài bậc thầy, không cảm thấy ǵ ngoài sự sùng kính nhiệt tâm, th́ bất cứ ǵ xảy đến đều được xem như ân sủng của thầy. Nếu chúng ta chỉ thực hành với sự sùng kính luôn luôn hiện diện này, th́ đây chính là sự cầu nguyện.
Khi tất cả mọi ư nghĩa đều thấm nhuần sự sùng kính đối với bậc đạo sư, th́ có một niềm tin tưởng tự nhiên rằng, không cần phải lo bất cứ ǵ xảy đến. Mọi sắc tướng đều là bậc đạo sư, mọi âm thanh đều là lời cầu nguyện, và mọi ư tưởng thô hoặc tế đều là sự sùng kính. Mọi sự vật khi ấy được giải phóng một cách tự nhiên vào bản chất tuyệt đối.
Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 03 January 2005 lúc 3:42pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 16 of 22: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 3:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
10. TỰ TÁNH SÂU XA CỦA TÂM
Không ai có thể chết một cách vô úy và hoàn toàn bảo đảm, khi họ chưa thực sự giác ngộ được bản chất sâu xa của tâm. V́ chỉ có sự chứng ngộ này, được thuần thục qua nhiều năm thiền định, mới có thể giữ vững tâm suốt tiến tŕnh rối loạn của cái chết. Trong tất cả những phương pháp mà tôi biết để giúp người trực nhận bản tâm, th́ phương pháp Dzogchen – ḍng tuệ giác trực tiếp và cổ nhất trong giáo lư Phật, và chính là nguồn gốc của giáo lư Bardo, - là phương pháp minh bạch nhất, hiệu nghiệm nhất, và thích hợp nhất cho nhu cầu hiện nay.
Nguồn gốc của Dzogchen trở về từ thời Phật nguyên ủy, đức Samantabhadra (Phổ Hiền) truyền xuống trong một hệ truyền thừa không gián đoạn cho đến ngày nay. Hàng trăm ngàn người ở Ấn, Hy Mă Lạp Sơn và Tây Tạng, đă đạt ngộ nhờ thực hành phương pháp ấy. Có một lời tiên tri kỳ diệu rằng:
- Vào thời đại tối tăm, trái tim của Samantabhadra sẽ chiếu sáng như lửa.
Cuộc đời tôi, sự giảng dạy của tôi và quyển sách này, được phụng hiến để thắp lên ngọn lửa ấy trong tim và năo của thế giới.
Sự nâng đỡ, niềm cảm hứng và thầy hướng đạo miên viễn của tôi là ngài Padmasambhava, bậc thầy tối thượng Liên Hoa Sanh. Ngài là linh hồn của Dzogchen, là người hoằng dương vĩ đại nhất cho giáo lư này, nhập thể của giáo lư, với những đức tính quảng đại sáng chói, với thần thông, với năng lực tuệ giác và ḷng từ bi vô biên.
Dzogchen không được giảng dạy rộng răi ở Tây Tạng, và trong một thời gian nhiều bậc thầy lớn nhất cũng không giảng dạy pháp môn này ở thế giới tân tiến. Thế th́ tại sao bây giờ tôi giảng dạy? Một vài bậc thầy đă bảo tôi rằng đă đến lúc nên hoằng dương Dzogchen, thời gian mà lời tiên tri đă nói đến. Tôi cũng cảm thấy rằng thực thiếu từ bi nếu không san sẻ với mọi người, hiện hữu của một tuệ giác kỳ diệu như thế.
Nhân loại đă đến một giai đoạn khủng hoảng trong cuộc tiến hóa, và thời đại cực kỳ hỗn loạn đ̣i hỏi một nền giáo lư minh bạch, có hiệu năng. Tôi cũng thấy con người ngày nay cần một con đường được tỉa sạch giáo điều, độc đoán, siêu h́nh phức tạp, và những thứ phụ tùng có tính cách ngoại lai về phương diện văn hóa; một con đường vừa giản dị, vừa sâu sắc, một con đường không cần phải thực hành trong am thất hay tu viện, mà có thể ḥa nhập vào đời sống hàng ngày, và có thể thực hành bất cứ ở đâu.
Vậy Dzogchen là ǵ? Đó không phải là một giáo lư đơn thuần, không phải là một nền triết học khác; một hệ thống tinh vi khác, cũng không phải là một mớ kỹ thuật hấp dẫn. Dzogchen là một trạng thái tâm, cái trạng thái nguyên ủy, toàn giác vốn là cốt lủy của tất cả chư Phật và tất cả các con đường tâm linh, đó là tột đỉnh của tiến hóa tâm linh nơi một con người. Dzogchen thường được dịch là "Sự toàn hảo lớn lao." Tôi thích để nguyên danh từ "Dzogchen, bởi khi nói sự toàn hảo là bao hàm có một cái ǵ ta phải cố đạt tới, một mục đích nằm cuối con đường dài gian khổ. Không ǵ đi xa ư nghĩa thực sự của Dzogchen hơn thế: V́ Dzogchen là trạng thái đă toàn hảo của bản tính nguyên ủy của ta, không cần phải làm cho toàn, v́ nó ngay từ khởi thủy, đă toàn vẹn, như bầu trời.
Tất cả giáo lư Phật đều được giải thích theo "Cảnh, hành, quả". Cảnh hay "nền tảng" của Dzogchen là trạng thái nguyên ủy căn để này, bản chất tuyệt đối của chúng ta, vốn đă toàn hảo và luôn luôn có mặt. Patrul Rinpoche nói:
- Nó không cần t́m kiếm bên ngoài, cũng không phải là một cái ǵ trước đây bạn chưa có và bây giờ phải mang vào trong tâm bạn.
Vậy trên phương diện Cảnh (hay Nền tảng) – cái tuyệt đối – th́ bản chất hay tự tính của chúng ta đồng với chư Phật, và ở tầng mức này, th́ không có vấn đề giáo lư hay thực hành nào cả, "dù chỉ bằng tơ tóc."
Tuy nhiên cần hiểu rằng, chư Phật đi một đường, chúng ta đi một nẻo. Chư Phật nhận chân được Phật tính và đạt giác ngộ, c̣n chúng ta không nhận chân được Phật tính ấy nên trờ thành mê mờ rối ren. T́nh trạng này được gọi là "một cảnh hai đường." Hoàn cảnh tương đối của chúng ta là, tự tâm chúng ta bị mê mờ, cho nên ta cần giáo lư và thực hành để quay trở về chân lư: Đây là con đường của Dzogchen (Hành). Cuối cùng, trực nhận bản tâm ta là đạt giải thoát hoàn toàn và trở thành một vị Phật. Đây là Quả của Dzogchen, và nó có thể thực hiện ngay trong một đời này nếu hành giả thực sự để hết tâm trí ḿnh vào đó.
Những bậc thầy Dzogchen biết rơ những nguy hiểm của sự lầm lẫn cái tuyệt đối với cái tương đối. Những người không hiểu được tương quan này có thể bỏ qua – ngay cả coi thường – khía cạnh tương đối của sự tu tập và định luật nhân quả nghiệp báo. Tuy nhiên, người nào thực sự nắm được ư nghĩa của Dzogchen th́ lại càng có ư thức sâu xa hơn về nghiệp, và càng xem trọng nhu cầu cần thiết là thanh luyện và tu tập tâm linh. Bởi v́ những người này hiểu được ở trong đó c̣n cả một kho tàng rộng lớn đang bị che khuất, nên càng cố gắng nhiệt tâm với một kỷ luật tự nhiên, luôn luôn hăng hái để tẩy trừ bất cứ chướng ngại ǵ ngăn che ḿnh với bản tính chân thực của ḿnh.
Giáo lư Dzogchen giống như một tấm gương phản chiếu. Nền tảng của bản tính nguyên ủy của ta, vốn thanh tịnh, giải thoát vô cấu, không bị giam giữ bởi một tri thức ngụy tạo nào dù tinh vi, quyến rũ đến đâu.
Thế th́ với tôi, sự kỳ diệu của Dzogchen là ǵ? Tất cả giáo lư đều đưa đến giải thoát, nhưng điểm độc đáo của Dzogchen là ngay cả khía cạnh tương đối của giáo lư này, ngôn ngữ của Dzogchen, cũng không bao giờ làm nhiễm ô cái tuyệt đối bằng những khái niệm. Nó để cho cái tuyệt đối ở yên trong vẻ sơ nguyên, năng động, giản đơn, tráng lệ của nó, nhưng đối với kẻ nào có tâm khoáng đạt th́ ngôn ngữ ấy thật rơ ràng, mạnh mẽ đến độ dù chưa giác ngộ mà nghe tới, ta cũng đủ có một thoáng nh́n thấy được vẻ tráng lệ huy hoàng của trạng thái giác ngộ.
CÁI THẤY
Sự thực tập tu luyện Dzogchen được mô tả là "Kiến, Thiền, Hành". Thấy được một cách trực tiếp trạng thái tuyệt đối, CẢNH hay nền tảng của bản thể chúng ta - tự tánh, tánh bản nhiên, - đó là Kiến; Cái cách để làm cho cái thấy ấy không gián đoạn gọi Thiền; và hội nhập cái thấy ấy vào trong toàn thể thực tại và cuộc đời chúng ta, gọi là Hành.
Vậy th́ Kiến là ǵ? Đấy là thấy đuợc thực trạng của vạn pháp như nó là, đấy là biết được rằng bản tánh thực của tự tâm cũng là bản tánh thực của sự vật, và đấy là nhận được rằng bản tánh thực của tâm ta chính là chân lư tuyệt đối. Dudjom Rinpoche nói:
- Kiến là sự bao gồm của trạng thái tỉnh thức sơ nguyên, trong đó mọi sự được chứa đựng: Nhận thức giác quan và hiện tượng bên ngoài, sinh tử và niết bàn. Sự tỉnh thức ấy có hai khía cạnh; "Không" là cái tuyệt đối và "tướng" hay nhận thức là cái tương đối.
Điều này muốn nói rằng toàn thể lĩnh vực tướng có thể hiện ra, và tất cả hiện tượng trong mọi thực tại khác nhau, dù sinh tử hay niết bàn, tất cả, vẫn luôn luôn và sẽ măi măi toàn vẹn, đầy đủ trong bầu trời bao la của tự tánh tâm. Nhưng mặc dù tinh túy của vạn pháp là trống rỗng, và "thanh tịnh từ khởi thủy", bản chất của nó vẫn đầy đủ đức tánh cao quư sung măn mọi khả năng. Đó là một môi trường sáng tạo vô biên, năng động không ngừng nghỉ và luôn luôn tự nhiên toàn hảo:
Bạn có thể hỏi:
- Nếu trực nhận cái thấy ấy là chứng ngộ bản tâm, thế th́ bản tâm là ǵ?
Hăy tưởng tượng một bầu trời trống rỗng bao la, trong sáng từ khởi thủy, "Tinh túy" (Thể) của nó là như thế. Hăy tưởng tượng một mặt trời sáng, trong, không bị mây che, hiện diện một cách tự nhiên: "Bản chất" (Tướng) của nó là như thế. Hăy tưởng tượng mặt trời ấy chiếu ra một cách vô tư trên tất cả người vật, đi vào mọi hướng: "Năng lực" (Dụng) của nó, biểu hiện của tâm đại bi – là như thế - không ǵ làm chướng ngại nó được, và nó thâm nhập khắp cả.
Bạn cũng có thể tưởng đến tự tánh tâm như một tấm gương, với năm năng lực hay trí khác nhau.
Tính mở rộng, bao la của nó là "Pháp giới thể tánh trí," thai tạng của ḷng bi mẫn. Khả năng phản chiếu của tấm gương từng chi tiết đều hiện rơ khi một vật đi qua nó, đấy là "Đại viên cảnh trí." Bản chất không thiên vị chút nào của nó đối với mọi ấn tượng in lên nó, là "B́nh đẳng tánh trí." Khả năng phân biệt rơ ràng không lẫn lộn mọi hiện tượng khởi lên, đó là "Diệu quan sát trí." Và tiềm năng có được mọi sự đă viên thành toàn vẹn, hiện diện tự nhiên là "Thành sở tác trí."
Trong Dzogchen "Kiến" được thầy trực tiếp truyền cho môn đệ. Chính cái cách độc đáo của sự điểm đạo này, đă làm cho Dzogchen thành đặc biệt, độc nhất vô nhị.
Cái được truyền cho môn đệ trong lúc khai đạo chính là kinh nghiệm trực tiếp về tâm giác ngộ của chư Phật, qua sự ban ân của một bậc thầy biểu tượng của sự chứng ngộ toàn vẹn. Muốn có thể tiếp nhận được sự khai đạo, người học cần phải đạt đến một giai đoạn trong đó họ vừa có được tâm khoáng đại vừa có ḷng sùng kính để làm cho họ dễ cảm thụ đối với ư nghĩa chân thực của Dzogchen.
Làm sao tâm giác ngộ của chư Phật có thể truyền được?
Hăy tưởng tượng bản tâm như cái mặt của bạn; nó luôn luôn ở với bạn, nhưng bạn không thấy được nếu không có sự giúp đỡ. Tưởng tượng rằng bạn chưa hề thấy một tấm gương. Sự khai ngộ của vị thầy là như th́nh ĺnh đưa lên trước mặt bạn một tấm gương và lần đầu tiên bạn thấy được chính cái mặt của bạn phản chiếu. Cũng như mặt bạn, sự tỉnh giác thuần túy về Tự tánh tâm, không phải là một cái ǵ bậc thầy mới đem lại cho bạn mà lâu nay bạn không có, đó cũng không là một cái ǵ mà bạn có thể t́m ở bên ngoài bạn. Nó vẫn luôn luôn là của bạn, nhưng cho đến lúc ấy, bạn chưa từng thực sự nh́n thấy nó một cách trực tiếp.
Patrul Rinpoche giải thích:
- Theo truyền thống đặc biệt của những bậc thầy, th́ bản tâm được khai ngộ ngay khi tâm phân biệt tan biến.
Trong lúc khai thị, bậc thầy cắt đứt hoàn toàn cái tâm phân biệt, để bày ra tự tánh nguyên sơ của tâm, gọi là tính giác Rigpa, hiển thị bản chất thực của nó một cách rơ ràng.
Trong giây phút mănh liệt ấy, có một sự ḥa nhập giữa tâm và trí xảy ra, người học có ngay kinh nghiệm không chối căi được về tự tánh, bản chất Rigpa. Trong cùng một giây phút ấy, thầy khai thị và tṛ chứng ngộ. Khi vị thầy hướng ân sủng của ḿnh do trí giác của ông về tự tính, vào tự tính tâm của đệ tử, là thầy trực chỉ cho đệ tử bản lai diện mục của y.
Tuy nhiên, muốn cho sự khai ngộ của thầy được hoàn toàn công hiệu, th́ cần phải tạo cho đúng điều kiện và môi trường thích hợp. Trong lịch sử chỉ có một số ít người đặc biệt, nhờ nghiệp đă thanh tịnh, mới có thể trực nhận bản tâm và ngộ ngay tức khắc. Phần đông c̣n lại, sự khai thị phải luôn luôn được chuẩn bị bởi một số điều kiện trước đấy. Chính những chuẩn bị này tịnh hóa, lột hết cái tâm phàm, đưa bạn đến trạng thái trong đó tâm bản nhiên có thể được khải thị cho bạn.
Trước tiên thiền định – phương thuốc chữa bệnh phân tán – đưa tâm về nhà, khiến nó có thể an trú trong trạng thái tự nhiên.
Thứ hai, những thực tập sâu xa về thanh luyện – tăng cường thiện nghiệp nhờ tích lũy công đức và trí tuệ - làm ṃn, tiêu mất những tấm màn cảm xúc và tri thức che khuất bản tánh tự nhiên của tâm. Thầy tôi đă viết:
- Khi những chướng ngại ngăn che đă được tẩy trừ, th́ trí tuệ bản nhiên của tự tánh sẽ chiếu sáng.
Những thực tập để thanh luyện này đă được thi thiết khéo léo để đem lại một sự chuyển hóa nội tâm toàn vẹn. Chúng bao quát toàn bản thể - thân, lời, ư – và khởi sự bằng một quán sát sâu xa về.
* Tính độc nhất vô nhị của đời người.
* Tính thường tại của vô thường và chết.
* Tính nhân nào quả ấy của mọi hành vi.
* Ṿng lẩn quẩn đau khổ của luân hồi sinh tử.
Những tư duy này gợi lên ư thức mănh liệt về "từ bỏ," một ước muốn cấp thiết để ngoi lên khỏi sinh tử và đi theo con đường giải thoát. Đây là nền tảng cho sự thực hành đặc biệt gồm có:
* Quay về nương tựa Phật, chân lư trong lời dạy của Ngài, và tấm gương của những hành giả đă thực hành giáo lư ấy, và nhờ vậy đánh thức niềm tin và Phật tính ở trong ta.
* Nảy sinh ḷng bi mẫn (hay tâm Bồ đề, trái tim của trí giác, sẽ giải thích ở chương 12), luyện tâm để làm việc với chính ḿnh và người khác, và những khó khăn trong đời.
* Tẩy trừ những chướng ngại và cấu uế nhờ quán tưởng và tŕ chú để thanh lọc và chữa lành thân tâm.
* Tích lũy công đức và trí tuệ bằng cách phát triển bố thí và tạo những hoàn cảnh lành tốt.(*)
Tất cả những thực tập nói trên họp thành, xoay quanh pháp Du già đạo sư, phương pháp căn bản mănh liệt cảm động hơn tất cả, tối cần thiết để mở mang tâm trí hầu trực nhận trạng thái thiền.
Thứ ba, một tra tầm đặc biệt đi sâu vào bản chất của tâm và các tướng sẽ làm kiệt quệ sự không ngừng theo đuổi tư duy t́m kiếm của tâm, sự lệ thuộc đủ thứ khái niệm, phân tích, tham khảo của nó, và đánh thức sự chứng nhập bản chất chân không.
Những chuẩn bị ấy vô cùng quan trọng, cần được thực hiện song hành một cách có hệ thống, để làm cho người học có thể đánh thức bản tâm, sẵn sàng cho thời điểm được thầy khai thị bản lai diện mục.
Nyoshul Lungtok, về sau trở thành một trong những đạo sư vĩ đại về thiền đốn ngộ trong thời hiện đại, đă theo thầy Patrul trong mười tám năm. Suốt thời gian ấy hai thầy tṛ không rời nhau. Nyoshul học và hành rất chuyên cần, đă tích lũy một kho công đức, thực tập và tịnh hóa, sẵn sàng để nhận ra bản tâm, nhưng vẫn chưa được thầy khai thị. Rồi vào một buổi chiều, Patrul Rinpoche đă khai thị cho ông. Việc ấy xảy ra vào lúc họ cùng ở lại trong một am ẩn cư trên núi, phía trên ngôi tu viện. Đấy là một đêm đẹp trời. Bầu trời xanh thẳm sáng lên dưới ánh sao lấp lánh. Âm thanh tịch mịch càng tăng thêm bởi tiếng chó sủa xa xa. Patrul Rinpoche đang nằm dài dưới đất, thực tập một kiểu tu Dzogchen đặc biệt. Ngài gọi Nyoshul đến bảo:
- Có phải ông bảo là ông chưa biết tự tánh tâm là ǵ hay không?
Nyoshul đoán biết qua giọng nói của thầy rằng đấy là một giây phút nghiêm trọng. Ông gật đầu chờ đợi. Patrul Rinpoche nói:
- Kỳ thực th́ không có ǵ.
Ngài nói bâng quơ và thêm:
- Này con, hăy tới nằm đây như cha già của con.
Nyoshul tiến đến duỗi dài cạnh ông, Patrul hỏi:
- Con có thấy những v́ sao trên trời không?
- Có.
- Con có nghe chó sủa phía dưới tu viện không?
- Có.
- Con có nghe ta nói ǵ với con không?
- Có.
- Được rồi, tự tánh tâm, bản chất của Dzogchen chỉ là thế đấy.
Nyoshul kể lại những ǵ xảy ra lúc đó:
- Ngay khi ấy, tôi đạt đến một sự chắc chắn của thực chứng nội tâm. Tôi đă giải thoát khỏi xiềng xích của phải và không phải. Tôi đă nhận chân trí giác nguyên thủy, sự hợp nhất đơn thuần giữa Không với trực giác nội tại. Tôi được khai ngộ nhờ ân phước của thầy như Saraha bậc thầy vĩ đại của Ấn Độ đă nói:
- "Kẻ nào mà lời thầy đă thâm nhập vào tâm
Sẽ thấy được chân lư như ngọc trong ḷng tay"
Vào lúc ấy mọi sự hiển bày, kết quả bao năm tu tập, thanh luyện đă phát sinh, Nyoshul đă chứng ngộ bản tánh. Không có ǵ phi thường trong lời lẽ mà bậc thầy đă xử dụng, chúng kỳ thực rất b́nh thường, nhưng ngoài lời lẽ, một cái ǵ khác đă được truyền thông. Cái mà bậc thầy khai thị là bản chất nội tại của mọi sự, mà chính là ư nghĩa chân thật của Dzogchen. Vào lúc này bậc thầy đă đưa đệ tử vào trạng thái chứng ngộ qua năng lực và sự gia tŕ của sự thực chứng nơi ngài.
Nhưng các bậc thầy không giống nhau, họ có thể dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo để tạo ra sự thay đổi tâm lư ấy nơi đệ tử. Patrul Rinpoche chẳng hạn đă được khai ngộ bằng một cách lạ lùng bởi vị thầy quái dị tên Do Khientse, mà tôi được nghe truyền tụng như sau:
Patrul Rinpoche đang tu một phép quán Yoga cao cấp và bị kẹt, không một đồ h́nh nào về chư thiên hiện ra trong tâm ông. Một hôm ông đi đến thầy đang ngồi uống trà bên đống lửa giữa trời. Ở Tây Tạng khi bạn thấy một bậc thầy mà ḿnh kính trọng th́ bạn lạy dài. Khi Patrul Rinpoche khởi sự lạy từ xa, th́ Do Khientse điểm mặt ông mà gầm lên:
- Ê con chó già kia, có giỏi th́ cứ đến đây!
Do Khientse có dáng vóc một hiệp sĩ dữ tợn với tóc xơa dài, áo quần xốc xếch, ưa cỡi ngựa. Khi Patrul Rinpoche tiếp tục lạy và tiến gần ông, ông luôn mồm chửi rủa và ném sỏi, đá càng lúc càng lớn cho đến khi Patrul tới trong tầm tay th́ ông quật ngă ngất xỉu. Khi tỉnh dậy Patrul ở trong một trạng thái tâm khác hẳn. Những đồ h́nh lâu nay quán không được bỗng nhiên hiện rơ cho ngài. Mỗi câu chửi và nhục mạ của vị thầy đă phá tan những dư tàn trong tâm phân biệt của người đệ tử, và mỗi cục đá trúng người ông đă mở những huyệt đạo bế tắc trong cơ thể ông. Trong hai tuần kỳ diệu tiếp theo, những h́nh ảnh của đồ h́nh đă không rời ông.
Bây giờ tôi sẽ cố đưa ra một vài ư nghĩa Kiến là ǵ, nó ra sao khi đă trực ngộ bản tâm, mặc dù thực sự th́ không ngôn từ phân biệt nào mô tả được điều ấy.
Dudjom Rinpoche nói lúc đó giống như cất một cái mồng ra khỏi đầu bạn, thật là nhẹ nhơm khoáng đạt vô biên. Đây là cái Thấy tối thượng, thấy cái chưa từng thấy trước đây. Khi bạn "thấy được cái chưa từng thấy" th́ mọi sự mở ra, trải rộng, rơ ràng, đầy sức sống, lạ lùng, tươi mát. Nó như thể là một cái mái vừa bay khỏi tâm bạn hay một bầy chim th́nh ĺnh bay ra từ một cái tổ đen tối. Mọi sự hạn cuộc trong đời đều tan biến rơi rụng, "Như xé một dấu niêm phong," người Tây Tạng thường nói.
Tưởng tượng bạn đang ở trong một ngôi nhà trên đỉnh một ngọn núi cao nhất thế giới. Th́nh ĺnh toàn thể ngôi nhà đă ngăn bít nhăn quan của bạn bấy lâu bỗng sụp đổ, làm cho bạn thấy được mọi sự vật xung quanh trong và ngoài. Nhưng kỳ thực không có vật ǵ để thấy; những ǵ xảy ra không thể so sánh với bất cứ thường ngày; đấy là một sự "thấy" toàn vẹn, đầy đủ, chưa từng có trước kia.
Dudjom Rinpoché bảo:
- Kẻ thù nguy hiểm nhất của bạn đă trói bạn vào ṿng sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay, chính là sự chấp thủ và cái bị chấp thủ. Khi bậc thầy khai thị và bạn nhận được, th́ hai thứ đó bị đốt sạch như lông chim trong ngọn lửa, không c̣n dấu vết.
Cả sự chấp thủ và cái bị chấp thủ, vật bị chấp thủ và con người chấp thủ được giải phóng trọn vẹn từ căn bản. Căn nguyên của vô minh đau khổ hoàn toàn khô kiệt. Và mọi sự xuất hiện như bóng trong gương, trong suốt, long lanh và như mộng huyễn.
Khi bạn tự nhiên đạt đến trạng thái thiền định ấy, khởi hứng bởi Kiến, th́ bạn có thể an trú rất lâu, không xao lăng, không cần nỗ lực. Khi ấy không có ǵ gọi là "thiền định" để bảo vệ giữ ǵn, và bạn đang ở trong trạng thái ḍng tuệ giác tự nhiên gọi là Rigpa. Và khi ở trong đó, th́ bạn thấy nó vẫn luôn luôn như vậy rồi. Khi trí giác bản nhiên chiếu sáng, th́ không một bóng tối hoài nghi nào có thể c̣n lại, và một tri kiến sâu xa, toàn vẹn sinh khởi trực tiếp, không nỗ lực.
Bạn sẽ thấy tất cả những h́nh ảnh và ẩn dụ tôi đă dùng, tan hóa thành một kinh nghiệm bao quát về chân lư. Sự sùng kính ở trong trạng thái ấy, tâm đại bi ở trong trạng thái ấy, và tất cả tuệ giác, phúc lạc, sáng sủa, vô tưởng, tất cả ḥa nhập với nhau, liên kết với nhau thành một vị duy nhất. Lúc ấy là lúc giác ngộ. Một năng khiếu hài hước sâu xa tuôn phát từ trong tâm, khiến bạn mỉm cười trước khái niệm tư duy trật lất của ḿnh bấy lâu về tự tánh tâm như thế nào. Từ đấy phát sinh một niềm tin không thể lay chuyển, một xác tín rằng "nó đây rồi": Không c̣n ǵ khác để t́m kiếm, không c̣n ǵ hơn thế để mà hy vọng. Tính chắc chắn của Kiến này là cái cần làm cho sâu xa bằng cách liên tục nh́n vào tự tánh của tâm, nó cần được an trú qua kỷ luật thiền định.
THIỀN ĐỊNH
Thế th́ thiền định trong Dzogchen nghĩa là ǵ? Đấy chỉ là an trú trong KIẾN không xao lăng, một khi đă được khai thị. Dudjom Rinpoche mô tả:
- Thiền là trú âm vào trạng thái Tâm bản lai (Rigpa), không hết thảy mọi tạo tác của tâm, trong khi hoàn toàn buông xả, không xao lăng cũng không bám víu.
V́ người xưa đă nói rằng:
- Thiền không phải là nỗ lực, mà tự nhiên thấm vào trong đó.
Toàn thể mục đích của thiền trong pháp tu Dzogchen là tăng cường và an trú trạng thái Tâm bản nhiên (Rigpa), khiến cho nó phát triển toàn vẹn. Cái tâm b́nh thường theo tập quán, đầy những dự phóng, thật là mănh liệt vô cùng. Nó cứ luôn luôn trở lại, và tóm lấy ta một cách dễ dàng khi ta không chú ư, hoặc xao lăng, Dudjom Rinpoche thường nói:
- Bây giờ tâm bản nhiên (Rigpa) của ta như một hài nhi bé bỏng bị mắc kẹt trên một băi chiến trường vọng tưởng nổi lên rất mạnh.
Tôn muốn nói rằng chúng ta khởi sự công việc "giữ em", giữ cái Tâm bản nhiên ở trong môi trường bảo đảm của thiền định.
Nếu thiền định chỉ là tiếp tục ḍng Tâm bản nhiên sau khi đă được khai thị, th́ làm sao ta biết được lúc nào đó là Tâm bản nhiên, lúc nào không phải Tâm bản nhiên? Tôi đă hỏi Dudjom Rinpoche câu ấy, và Ngài đă trả lời với sự giản dị đặc biệt nơi Ngài:
- Nếu con ở trong tâm trạng không thay đổi, đó là Tâm bản nhiên.
Nếu chúng ta không vẽ rắn thêm chân, lèo lài cái tâm bằng bất cứ cách nào, mà an trú trong trạng thái bất biến, sự tỉnh giác thuần tịnh của nó, th́ đấy là Tâm bản nhiên. Nếu có một sự gượng ép nào, một lèo lái nào, một bám víu nào của ta, th́ đó không phải là Tâm bản nhiên. Tâm bản nhiên là một trạng thái trong đó không c̣n một hoài nghi nào, thực sự không có cái tâm nào để hoài nghi. Bạn thấy một cách trực tiếp. Nếu bạn ở trong trạng thái ấy, th́ một niềm vui, một xác tín tự nhiên khởi lên cùng với Tâm bản nhiên, làm cho bạn biết.
Truyền thống Dzogchen là một truyền thống cực kỳ minh bạch, v́ càng đi sâu càng có thể khởi lên vọng tưởng vi tế, và cái đang cần là tri kiến về thực tại tuyệt đối. Ngay cả sau khi khai thị, vị thầy vẫn c̣n giải rơ chi tiết những trạng thái không phải là thiền Dzogchen và không được lầm lẫn. Một trong những trạng thái đó là, bạn trôi giạt vào "một cơi đất không thuộc về đâu" trạng thái tâm trong đó không có tư tưởng, không kí ức, một trạng thái thờ ơ, đen tối, chán chường, ở đó bạn ch́m lại vào trong nền tảng của tâm phàm t́nh. Trong trạng thái thứ hai có một chút ít yên lặng và hơi sáng sủa, nhưng là một thứ yên lặng trầm trệ, vẫn c̣n vùi trong tâm phàm t́nh. Trong một trạng thái thứ ba, bạn cảm nghiệm một sự vắng bóng tư tưởng, nhưng lại rơi vào không gian trống rỗng lạ lùng. Trong một trạng thái thứ tư, tâm bạn đi lang thang, chạy theo những tư tưởng, dự phóng. Không có trạng thái nào trong đấy là thiền định thật sự, và hành giả cần phải xem chừng một cách thiện xảo để tránh bị lừa dối bằng những cách ấy.
Tinh yếu của hành thiền Dzogchen được đề ra trong bốn điểm sau:
* Khi một niệm quá khứ đă chấm dứt mà niệm vị lai chưa sanh, trong khoảng hở đó giữa hai niệm, có phải là có một ư thực tại, mới mẻ, nguyên sơ, không bị thay đổi bởi một tơ tóc khái niệm nào, thuần là một sự tỉnh giác nguyên vẹn hay không?
Đấy! Tâm bản nhiên là thế đấy!
* Tuy nhiên nó không ở măi trong trạng thái như vậy, bởi v́ một niệm khác lại khởi lên, phải chăng?
* Nhưng nếu bạn không nhận ra niệm ấy đúng như bản chất nó (nghĩa là khi có tâm, th́ tự nhiên có ư tưởng khởi lên. DG) ngay khi nó khởi, th́ nó sẽ trở thành một ư tưởng khác, như trước. Đây gọi là "dây chuyền vọng tưởng", và là nguồn gốc của sinh tử.
* Nếu bạn có thể nhận chân được bản chất thật sự của ư tưởng (niệm) ngay khi nó khởi lên, và cứ để yên nó đừng theo đuổi thêm, th́ bất cứ ư tưởng nào khởi lên đều tự động tan trở lại vào trong khoảng bao la của Tâm bản nhiên, và được giải thoát.
Đương nhiên, cần cả một đời tu tập mới hiểu và nhận chân được tính phong phú và vĩ đại của bốn điều giản dị mà thâm sâu này. Ở đây tôi chỉ có thể cho bạn nếm qua một chút vị của cái khoáng đạt của thiền Dzogchen là như thế nào.
Có lẽ điểm quan trọng nhất là Dzogchen trở thành một ḍng liên tục của Tâm bản nhiên, như một con sông chảy liên tục ngày đêm không gián đoạn. Dĩ nhiên đây là trạng thái lư tưởng, v́ sự an trú vào kiến một cách không xao lăng ấy, sau khi được khai thị và nhận chân – chính là phần thưởng của nhiều năm tu tập kiên tŕ.
Thiền Dzogchen rất hiệu lực trong công việc xử lư những sanh khởi của tâm và có cái nh́n độc đáo về những sanh khởi ấy. Mọi sự khởi tâm đều được thấy trong bản chất thật của chúng, nghĩa là không rời Tâm bản nhiên và không chống chọi với nó, mà kỳ thực không ǵ khác hơn – và điều này rất quan trọng – là những tia tự chiếu của Tâm bản nhiên, những biểu hiện năng lực của nó.
Giả sử bạn thấy ḿnh ở trong một trạng thái yên lặng sâu xa; thông thường trạng thái ấy không kéo dài, một ư niệm, một chuyển động luôn luôn khởi lên, như sóng trong biển. Đừng chối bỏ sự chuyển động hay đặc biệt ôm lấy sự yên tĩnh, mà cứ tiếp tục ḍng hiện trú thuần túy ấy của tâm bạn. Trạng thái an b́nh lan khắp của thiền định ấy chính là Tâm bản nhiên, mọi sự khởi lên trong tâm không ǵ khác hơn là tâm ấy chiếu ra. Đây là trái tim, là nền tảng của pháp hành thiền Dzogchen. Một cách để tưởng tượng điều này là, như thể bạn đang cỡi trên tia mặt trời để trở về mặt trời. Bạn theo dơi ngay những niệm khởi trở về căn nguyên của chúng, nền tảng Tâm bản nhiên. Khi bạn thể hiện sự bền vững của kiến, th́ bạn không c̣n bị đánh lừa và chia trí bởi bất cứ ǵ sanh khởi, và do đó không thể làm mồi cho vọng tưởng.
Dĩ nhiên trong biển có sóng to, sóng nhỏ; có những cảm xúc mạnh kéo đến như giận dữ, dục vọng, ganh tị. Hành giả thực thụ sẽ nhận chân những thứ này không phải quấy rầy hay chướng ngại, mà là một cơ hội lớn. Phản ứng lại những sinh khởi như thế với khuynh hướng thông thường là chấp nhận và chối bỏ chính là dấu hiệu chứng tỏ không những bạn chia trí, mà c̣n không nhận ra được, và đă mất dấu Tâm bản nhiên. Phản ứng lại những cảm xúc bằng cách đó th́ chỉ làm cho chúng có thêm năng lực, và trói buộc chúng ta chặt chẽ hơn vào dây xích vọng tưởng. Bí quyết lớn của Dzogchen là nh́n suốt những cảm xúc khi chúng khởi lên, để thấy mặt thực của chúng là biểu hiện sống động như hiện chớp của chính năng lực Rigpa, Tâm bản nhiên. Khi bạn tập dần cách làm này, th́ ngay cả những cảm xúc rầy rà nhất cũng không thể tóm lấy bạn, mà tan biến như sóng lớn dậy lên rồi lùi lại và ch́m vào đại dương yên tĩnh.
Hành giả khám phá – và đây là một cái nh́n đảo lộn, mà sự vi tế và năng lực của nó không thể suy lường - rằng không những cảm xúc mạnh không thể kéo bạn đi, lôi bạn trở lại vào ḍng nước xoáy của sự thác loạn trong bạn, mà chúng có thể thực sự hữu ích để đào sâu, làm mạnh thêm, tăng cường Rigpa, trạng thái Tâm bản nhiên. Năng lực vũ băo trở thành nguyên liệu để nuôi dưỡng cái năng lượng đă được đánh thức của Tâm bản nhiên. Cảm xúc càng mạnh, càng bốc lửa, th́ trạng thái Tâm bản nhiên càng được tăng cường. Tôi thấy rằng phương pháp độc đáo này của Dzogchen có mănh lực ghê gớm để giải tỏa ngay cả những vấn đề tâm lư và cảm xúc đă ăn sâu, thâm căn cố đế.
Bây giờ tôi xin đưa ra cho bạn một lối giải thích giản dị về tiến tŕnh này hoạt động ra sao. Điều này sẽ vô giá về sau, khi ta xét đến những ǵ xảy ra vào lúc chết.
Trong Dzogchen, bản chất nội tại tự nhiên của mọi sự gọi là "Ánh sáng căn bản" hay "Ánh sáng Mẹ." Nó lan khắp lĩnh vực kinh nghiệm của chúng ta, và bởi thế cũng là bản chất nội tại của những tư tưởng và cảm xúc khởi lên trong tâm ta nữa, mặc dù chúng ta không nhận ra điều đó. Khi bậc thầy khai thị cho chúng ta bản tính chân thật của tâm, tức là trạng thái Rigpa hay Tâm bản nhiên, th́ điều ấy giống như thầy cho ta một cái ch́a khóa. Trong Dzogchen chúng ta gọi ch́a khóa ấy - sẽ mở cho chúng ta đến tri kiến toàn vẹn – là "Ánh sáng đạo lộ" hay "Ánh sáng con."
Ánh sáng căn bản và ánh sáng đạo lộ thực ra chỉ là một, nhưng v́ mục đích giảng dạy mà được phân ra như thế. Nhưng một khi có được ch́a khóa Ánh Sáng Đạo Lộ nhờ sự khai thị của bậc thầy, th́ ta có thể sử dụng nó tha hồ để mở vào cánh cửa Bản tánh tự nhiên của thực tại. Sự mở cửa này được gọi theo Dzogchen là "Gặp gỡ giữa Ánh sáng Căn bản và Ánh sáng Đạo lộ" hay "Mẹ con gặp gỡ." Nói cách khác là, vừa khi một ư tưởng hay cảm xúc khởi lên, Ánh sáng Đạo lộ - Rigpa - nhận ra ngay bản chất của nó, tính nội tại của nó, là Ánh sáng Căn bản. Trong giây phút nhận ra nhau ấy, hai ánh sáng tan ḥa vào nhau, tư tưởng và cảm xúc được giải phóng ngay tại nền tảng của nó.
Điều cốt yếu là kiện toàn sự tập luyện hội nhập hai ánh sáng này và giải tỏa những móng tâm động niệm ngay khi đang sống, bởi v́, điều xảy ra vào lúc chết, với tất cả mọi người là: Ánh sáng căn bản xuất hiện trong vẻ huy hoàng rộng lớn, và mang theo nó một cơ hội để giải thoát hoàn toàn - nếu, và chỉ nếu - bạn đă biết làm thế nào để nhận ra nó.
Có lẽ đến đây, điều rơ ràng là sự tan ḥa hai ánh sáng và tự hóa giải mọi ư tưởng cảm xúc, chính là thiền định ở tầng sâu xa nhất của nó. Kỳ thực th́ danh từ "thiền định" quả không thích hợp với pháp hành tŕ Dzogchen, v́ thiền định bao hàm sự tư duy về một cái ǵ, mà trong Dzogchen th́ tất cả chỉ là và luôn luôn là Tâm bản nhiên. Bởi thế không có vấn đề một sự thiền định tách rời với sự an trú cái hiện diện thuần túy của Tâm bản nhiên.
Danh từ duy nhất có thể diễn đạt được cái này là không-thiền. Trong trạng thái ấy, theo lời các bậc thầy, dù bạn có đi t́m vọng tưởng cũng không c̣n sót lại cái nào. Cho dù bạn muốn kiếm một ḥn sỏi b́nh thường trên một ḥn đảo vàng ngọc, th́ bạn cũng không cách nào t́m được. Khi Kiến đă hiện diện liên tục, ḍng Tâm bản nhiên không gián đoạn, sự ḥa nhập hai Ánh sáng là tự nhiên, liên tục, th́ mọi vọng tưởng khả hữu đều được giải tỏa ngay tại gốc của nó, và toàn thể nhận thức của bạn khởi lên liên tục là Tâm bản nhiên.
Những bậc thầy nhấn mạnh rằng muốn ổn định Kiến trong thiền định, cốt yếu trước hết là hoàn tất sự luyện tập này trong một khung cảnh đặc biệt của nhập thất, ở đấy mọi điều kiện thuận lợi đều sẵn có. C̣n ở giữa sự tán loạn rộn ràng của thế gian, th́ dù bạn có thiền bao nhiêu, kinh nghiệm thực thụ cũng không phát sinh được trong tâm bạn.
Thứ hai, mặc dù trong Dzogchen không có sự khác biệt giữa thiền và đời sống thường nhật, song khi bạn chưa có được sự an trú thực vững vàng nhờ thiền tập vào những thời khóa hẳn hoi, th́ bạn không thể nào hội nhập tuệ giác của thiền định vào kinh nghiệm hàng ngày.
Thứ ba, ngay cả khi bạn thực hành, bạn có thể an trú ḍng tương tục Tâm bản nhiên với niềm tin của Kiến; nhưng nếu bạn không thể tiếp tục ḍng ấy vào mọi lúc và mọi t́nh huống, ḥa lẫn sự tu tập với đời sống hàng ngày của bạn, th́ nó sẽ không làm phương thuốc cứu bạn được, mỗi khi hoàn cảnh khó chịu khởi lên, và bạn sẽ bị ư tưởng, cảm xúc dẫn cho lạc vào mê vọng.
Có câu chuyện thú vị về một hành giả Dzogchen sống không khoe khoang, nhưng lại có một đám đông đồ đệ. Có một thầy tu rất kiêu hănh về học vấn đa văn của ḿnh, đâm ra ganh tị với hành giả mà ông ta biết là không đọc sách nhiều. Ông ta nghĩ:
- Sao một người tầm thường như thế dám dạy đệ tử? Sao y dám tự xưng thầy? Ta sẽ đến thử tri kiến của y, cho lộ cái sự giả dối của y, và làm nhục y trước mặt đệ tử, để bọn này bỏ y mà theo ta.
Bởi vậy y đến viếng vị hành giả, và hỏi với vẻ khinh miệt:
- Này đồng bạn Dzogchen, có phải ông chỉ có thiền mà thôi không?
Vị hành giả trả lời một câu hoàn toàn bất ngờ:
- Có ǵ để thiền?
Vị học giả nói một cách đắc thắng.
- Thế th́ ông không thiền định ǵ cả sao?
Vị hành giả đáp.
- Nhưng có bao giờ tôi tán loạn đâu?
HÀNH
Khi sự an trú trong Tâm bản nhiên trở nên một thực tại, th́ nó bắt đầu thấm nhuần sự sống và hành động hàng ngày của hành giả, nuôi dưỡng một sự ổn định và niềm tin sâu xa. Dudjom Rinpoché nói:
- Hành có nghĩa là thật sự ngắm nh́n những ư tưởng của chính bạn, xấu hay tốt, nh́n suốt bản chất thực sự của bất cứ ư tưởng nào có thể khởi lên, không truy tầm quá khứ cũng không mời gọi tương lai, không để cho tâm bám víu vào một kinh nghiệm hạnh phúc, cũng không để nó tràn ngập bởi những t́nh cảnh đau buồn. Khi làm như vậy, bạn cố đạt đến và an trú trong đại xả, trong đó mọi sự tốt xấu, an nguy đều không có lai lịch ǵ chân thực.
Sự trực ngộ Kiến một cách tinh vi toàn triệt, sẽ thay đổi cái nh́n của bạn đối với sự vật. Càng ngày tôi càng nhận rơ rằng chính ư tưởng và khái niệm đă ngăn cản không để cho chúng ta luôn an trú trong tuyệt đối. Bây giờ tôi mới hiểu v́ sao thầy tôi thường dạy: "Hăy cố gắng đừng tạo ra quá nhiều hy vọng hay lo sợ", v́ chúng chỉ tổ gây thêm sự bám víu trong tâm. Khi Kiến có mặt, th́ những ư tưởng được nh́n thấy đúng như bản chất chúng, đó là phù du, trong suốt, và chỉ có tính cách tương đối. Bạn thấy suốt mọi sự một cách trực tiếp, như thể là bạn có con mắt X-quang. Bạn không bám víu cũng không xua đuổi những ư tưởng cảm xúc, mà chào đón tất cả chúng trong ṿng ôm lớn rộng của Tâm bản nhiên. Những ǵ mà trước đây bạn coi là rất quan trọng - những tham vọng, kế hoạch, mong đợi, hoài nghi, đam mê – không c̣n khống chế bạn một cách sâu xa nữa, v́ chánh kiến đă giúp bạn thấy được cái trống rỗng, phi lư của tất cả chúng nó, nhờ vậy phát sinh trong bạn một tinh thần từ bỏ thật sự.
An trú trong niềm tin và ánh sáng của Tâm bản nhiên làm cho những ư tưởng cảm xúc của bạn được giải tỏa một cách tự nhiên không cần nỗ lực, vào trong không gian rộng lớn của Tự Tính tâm, giống như là viết chữ trên nước hay vẽ trên nền trời. Nếu bạn thật sự tu tập như thế đến chỗ toàn vẹn, th́ nghiệp không c̣n cơ hội để tích lũy, và trong trạng thái buông xả hoàn toàn ấy, định luật nhân quả trong ṿng nghiệp báo không c̣n cách nào trói buộc bạn.
Đừng tưởng điều ấy dễ. Thật vô cùng gay go để an trú không xao lăng trong Tự tánh của tâm, dù chỉ trong chốc lát, chứ đừng nói đến giải tỏa một ư niệm hay cảm xúc ngay khi nó sinh khởi. Chúng ta thường cho rằng chỉ v́ ḿnh hiểu được một điều ǵ trên phương diện tri thức, hoặc tưởng ḿnh đă hiểu, mà việc ấy có nghĩa rằng ḿnh đă thật sự đạt ngộ. Đấy là một ảo tưởng lớn lao. Cần phải có sự chín mùi, thuần thục của sự tu tập, qua nhiều năm học lắng nghe, tư duy, quán tưởng, thiền định và thực hành kiên tŕ. Và nhất là sự thực hành Dzogchen luôn luôn cần sự hướng dẫn và khai đạo của một bậc thầy đủ tư cách.
Nếu không, th́ sẽ có một mối nguy mà truyền thống này gọi là "Kiến nuốt mất Hành." Một giáo lư cao siêu mănh liệt như Dzogchen kéo theo một nguy cơ trầm trọng. Khi tự lừa dối ḿnh - tưởng ḿnh đă giải thoát hết tư tưởng cảm xúc, mà kỳ thực tuyệt nhiên bạn chưa có khả năng làm chuyện ấy; hoặc tưởng ḿnh đang hành động một cách tự nhiên như thiền sư Dzogchen thực thụ - th́ bạn chỉ có đang kết nạp, tích lũy vô số ác nghiệp. Như Padmasambhava nói, và điều này tất cả chúng ta đều nên có, là:
- Mặc dù Kiến ta bao la như bầu trời.
Mà hành động và niềm tôn kính đối với nhân quả nơi ta nhỏ nhiệm, vi tế như hạt bụi.
Những bậc thầy trong truyền thống Dzogchen vẫn thường nhấn mạnh rằng, nếu không hoàn toàn quen thuộc một cách sâu xa với "tinh yếu và phương pháp tự giải thoát" nhờ thực tập lâu dài, th́ thiền "chỉ có đi sâu thêm vào con đường hư vọng." Điều này có vẻ gay cấn, nhưng thực sự là thế, bởi v́ chỉ có nhờ liên tục tự giải tỏa tư tưởng mới thực sự chấm dứt được sự thống trị của hư vọng và che chở bạn khỏi ngụp lặn trong đau khổ và loạn thần kinh. Nếu không có phương pháp tự giải tỏa, th́ bạn sẽ không thể nào chống chọi những bất hạnh và hoàn cảnh xấu mỗi khi gặp phải; và dù có thiền định, bạn vẫn bị những cảm xúc mạnh như giận dữ, ham muốn hoành hành. Mối nguy hiểm của những loại thiền khác không theo phương pháp này là, chúng trở thành giống như "thiền định của chư thiên," dễ dàng lạc vào trạng thái đăm chiêu trịnh trọng, hoặc xuất thần thụ động, hoặc trống rỗng "ngoan không", không thứ nào trong đây tấn công và đánh tan vọng tưởng tận gốc rễ.
Bậc thầy Dzogchen vĩ đại, Vimalamitra nói về những cấp độ của tính tự nhiên trong sự giải thoát này một cách minh bạch nhất: Lúc mới làm chủ được công phu này, sự giải thoát xảy ra đồng thời với sự sanh khởi, giống như nhận ra người quen trong đám đông. Khi thuần thục đi sâu vào công phu, th́ giải thoát xảy ra đồng thời với sự khởi lên những ư tưởng và cảm xúc, như một con rắn mở ra những khoanh cuộn tṛn của nó. Và trong trạng thái cuối cùng của sự làm chủ pháp môn này, th́ giải thoát ví như một kẻ trộm đi vào ngôi nhà trống, dù cái ǵ khởi lên cũng không có hại hay có lợi ǵ cho một hành giả thực thụ.
Ngay cả trong một hành giả Dzogchen cao cấp nhất, nỗi buồn niềm vui, hy vọng sợ hăi vẫn c̣n nổi lên như trước. Cái khác nhau giữa một người thường với một hành giả là cái cách họ nh́n những cảm xúc của họ và phản ứng đối với những cảm xúc đó. Một người thường sẽ theo bản năng mà chấp nhận hay chối bỏ ngay những cảm xúc, và thế là khởi dậy ràng buộc hoặc chán ghét, kết quả là tích lũy thêm ác nghiệp. Nhưng một hành giả Dzogchen th́ nhận ra mọi sự khởi lên trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó, không để cho sự chấp thủ khởi lên trong nhận thức của ḿnh.
Dilgo Khientse Rinpoche mô tả một hành giả lang thang qua một khu vườn. Ông hoàn toàn tỉnh giác trước vẻ đẹp huy hoàng của những đóa hoa, thưởng thức màu sắc, h́nh dáng, mùi hương của chúng. Nhưng không có dấu vết nào của sự bám víu ở nơi ông, hay bất cứ một "hậu ư" nào trong tâm. Như Dudjom Rinpoche nói:
- Bất cứ nhận thức ǵ khởi lên, bạn hăy nên làm như một đứa trẻ đi vào một ngôi chùa trang hoàng lộng lẫy. Nó nh́n mà sự bám víu tuyệt nhiên không đi vào nhận thức của nó. Cứ thế, bạn để mọi sự vật ở nguyên trong trạng thái mới mẻ, tự nhiên, sống động, vô nhiễm của nó. Khi bạn để mọi sự ở nguyên trạng thái nó, th́ h́nh dáng nó không thay đổi, màu sắc của nó không phai nhạt, vẻ sáng sủa của nó không biến mất. Bất cứ ǵ xảy đến không bị ô nhiễm bởi chấp thủ nào, bởi thế tất cả ǵ bạn thấy đều khởi lên như là tuệ giác trần trụi của (Rigpa) Tâm bản nhiên, và vốn là sự bất khả phân của ánh sáng và hư không.
Sự hài ḥa, tin tưởng, sự trong sáng khoáng đạt, sức mạnh và tính hài hước sâu xa, niềm xác tín khởi lên do sự trực nhận chánh kiến về Tâm bản nhiên, là kho tàng vĩ đại nhất của cuộc đời, là hạnh phúc tối thượng, mà một khi đă đạt đến, th́ không ǵ có thể phá hủy, ngay cả cái chết. Didgo Rinpoche nói:
- Một khi bạn đă có chánh kiến, th́ dù cho những nhận thức lừa dối của sinh tử vẫn c̣n khởi lên trong tâm, bạn vẫn như bầu trời: khi một cầu vồng xuất hiện trước mặt, nó cũng không lấy làm hănh diện, mà khi mây mù xuất hiện, nó cũng không lấy làm buồn bực. Có một cảm giác sâu xa về sự hài ḷng. Bên trong bạn cười thầm khi thấy mặt tiền của niết bàn và sinh tử. Chánh kiến làm cho bạn luôn luôn vui vẻ, một nụ cười hàm tiếu luôn nở trong tâm.
Dudjom Rinpoche nói:
- Khi đă thanh lọc ảo tưởng lớn, bóng đen của tâm thức, th́ tia sáng của mặt trời không bị ngăn bít cứ liên tục chiếu ra.
Người nào để trong tâm, sự chỉ dạy trong quyển sách này về Dzogchen và thông điệp của nó về sự chết, th́ sẽ được gợi cảm hứng để đi t́m, t́m được và đi theo một bậc thầy có tư cách, và khởi sự dấn ḿnh vào công phu tu tập. Trọng tâm của công phu Dzogchen là hai việc luyện tập Trekcho và Togal, tối cần cho sự thấu hiểu sâu xa về những ǵ xảy ra trong các giai đoạn trung gian (Bardo). Ở đây tôi chỉ có thể cho một dẫn nhập sơ lược nhất về hai pháp ấy. Sự giải thích toàn vẹn chỉ được làm bởi một bậc thầy đối với môn đệ, khi người đệ tử đă hoàn toàn nhiệt tâm theo giáo lư, và đă đến một giai đoạn tu tập nào đó. Điều tôi đă giải thích trong chương này. "Tinh yếu sâu xa," chính là trái tim của sự thực hành Trekcho.
Trekcho có nghĩa là cắt ngang vọng tưởng một cách trực tiếp, mạnh mẽ và toàn triệt. Vọng tưởng được cắt đứt cốt yếu là nhờ năng lực của Kiến về tâm bản nhiên, như một con dao cắt xuyên qua một thỏi bơ hay một lực sĩ Karate chặt một chồng gạch. Toàn thể lâu đài vọng tưởng sụp đổ như thể nền móng của nó bị giựt sập. Vọng tưởng bị cắt đứt và sự trong sáng nguyên thủy, tính giản dị tự nhiên của Tâm bản nhiên được hiển bày.
Chỉ khi bậc thầy xác định bạn đă có căn bản trong sự thực hành Trekcho th́ vị ấy mới khai thị cho bạn pháp tu nâng cấp gọi là Togal. Hành giả Togal làm việc trực tiếp với Điểm Linh Quang nội tại, "hiện trú một cách tự nhiên," trong mọi hiện tượng; dùng những công phu đặc biệt và rất hiệu lực để làm hiển lộ nó ở ngay trong tâm hành giả.
Togal có đặc tính là sự trực ngộ tức khắc đồng thời. Thay v́ phải băng qua một dăy núi để đạt đến chóp đỉnh của một ngọn núi đằng xa, phương pháp Togal sẽ là nhảy một cái tới ngay đích. Hiệu quả của Togal là giúp cho người ta thực hiện mọi khía cạnh khác nhau của Tuệ Giác nội tâm ngay trong một đời này. Bởi vậy nó được xem như phương pháp độc đáo phi thường của Dzogchen. Nếu Trekcho là trí tuệ của Dzogchen, th́ Togal chính là phương tiện thiện xảo của nó. Pháp môn này cần một kỉ luật lớn lao, và thông thường được luyện tập trong môi trường nhập thất.
Tuy nhiên cần nhấn mạnh lần nữa rằng con đường Dzogchen chỉ có thể được theo dưới sự hướng dẫn trực tiếp của mộc bậc thầy đủ tư cách. Đức Dalai Lama đă nói:
- Một điều bạn cần nhớ kỹ, là sự thực hành những pháp môn thuộc thiền đốn ngộ như Trekcho và Togal, chỉ có thể được hoàn tất dưới sự chỉ dẫn của một bậc thầy có kinh nghiệm, và nhờ nhận được cảm hứng và ban phước của một người đă chứng ngộ pháp môn này.
THÂN THỂ CẦU VỒNG
Qua những công phu cao cấp về Dzogchen này, những hành giả đă hoàn tất sự tu tập có thể đưa cuộc đời họ đến một kết thúc phi thường và vinh quang. Khi chết, họ có thể làm cho cơ thể ḿnh tan ḥa trở lại trong tinh chất ánh sáng của tứ đại đă tạo ra nó, và kết quả là cơ thể vật chất họ tan thành ánh sáng và biến mất hoàn toàn. Tiến tŕnh này gọi là "thân thể cầu vồng" hay "thân thể ánh sáng," v́ sự tan ră cơ thể thường xảy ra đồng thời với sự xuất hiện tự nhiên của ánh sáng và cầu vồng. Những mật điểm Dzogchen xưa cổ và trước tác của các bậc thầy vĩ đại phân biệt rơ ràng các loại khác nhau của hiện tượng lạ lùng này, v́ đă có một thời việc ấy xảy ra nếu không phải b́nh thường th́ cũng khá thường xuyên. Thông thường một người khi biết thân ḿnh sắp thành ánh sáng cầu vồng, sẽ yêu cầu được đặt thi thể trong một cái pḥng hay lều, đừng động tới trong bảy ngày. Vào ngày thứ tám người ta chỉ thấy tóc và móng là bất tịnh duy nhất của cơ thể c̣n để lại. Điều này có thể khó tin đối với chúng ta ngày nay, nhưng lịch sử truyền thừa của Dzogchen đầy những trường hợp cá nhân đă chứng được thân cầu vồng, và Dudjom Rinpoche thường nói đây không phải chỉ là chuyện lịch sử quá khứ. Trong số nhiều trường hợp, tôi xin đơn cử một trường hợp gần đây nhất mà tôi có liên hệ mật thiết. Vào năm 1952 ở miền đông Tây Tạng, có một vụ nổi tiếng về thân thể biến thành ánh cầu vồng được nhiều người chứng kiến. Người đạt được chuyện ấy là Sonam Namgyal, thân phụ của thầy tôi và là anh của Lama Tseten, người có cái chết tôi đă mô tả ở đầu sách này.
Ông là một con người b́nh dị khiêm cung, làm nghề đẻo đá dạo, khắc những câu thần chú và kinh lên đá. Một vài người nói hồi c̣n trẻ ông đă từng làm thợ săn, và đă thụ giáo với một bậc thầy vĩ đại. Không ai biết sự thật ông là một hành giả, ông quả là một vị tu mật hạnh. Một thời gian trước khi chết, người ta trông thấy ông lên trên một đỉnh núi và cứ ngồi im ĺm giữa nền trời, mắt nh́n vào không trung. Ông tự đặt ra những bài thánh ca để tụng đọc thay v́ đọc những bài cổ truyền. Không ai biết ông đang làm ǵ. Rồi ông ngă bệnh hay dường như thế, nhưng lạ thay ông càng có vẻ sung sướng hơn. Khi bệnh t́nh trở nặng, gia đ́nh ông thỉnh các bậc thầy và mời bác sĩ. Con trai ông dặn ông nên nhớ lại tất cả những giáo lư mà ông đă được nghe. Ông chỉ mỉm cười bảo:
- Ta đă quên tuốt luốt rồi. Vả lại chẳng có ǵ để mà nhớ. Mọi sự đều huyễn ảo, nhưng ta tin tất cả đều tốt đẹp.
Ngay trước khi chết, vào năm ông 79 tuổi, ông nói:
- Tôi chỉ yêu cầu một chuyện là khi tôi chết, hăy để thi hài tôi yên ổn đừng động chạm trong một tuần lễ.
Khi ông chết, gia đ́nh quàng thây ông và thỉnh các vị tu sĩ, lạt ma đến hành lễ cho ông. Họ đặt thi thể ông vào một pḥng nhỏ trong nhà, và họ không thể không để ư rằng mặc dù b́nh thường ông cao lớn, lúc bấy giờ họ đưa ông vào đó rất dễ dàng, như thế là người ông thu nhỏ lại. Đồng thời có ánh sáng cầu vồng tỏa khắp xung quanh nhà. Vào ngày thứ sáu, khi nh́n vào căn pḥng, người ta thấy thi thể ông càng rút lại thêm nữa. Ngày thứ tám sau khi ông chết, buổi sáng vào giờ làm tang lễ, những người phu đến để nhặt xác ông. Khi mở những vải liệm ra, họ không thấy ǵ ngoài ra là tóc và móng của người đă chết.
Thầy tôi Jamyang Khyentse bảo đem những di vật này đến cho ngài xem, và ngài đă xác nhận đấy là một trường hợp của thân thể biến thành ánh sáng cầu vồng.
(HẾT PHẦN I)
Sửa lại bởi thienkhoitimvui : 03 January 2005 lúc 3:47pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
anhdung61 Hội viên

Đă tham gia: 15 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 15
|
Msg 17 of 22: Đă gửi: 20 March 2006 lúc 5:09am | Đă lưu IP
|
|
|
Xin cám ơn Bác Thienkhoitimvui, xin mời Bác tiếp tục!
|
Quay trở về đầu |
|
|
vucong Hội viên

Đă tham gia: 02 March 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 17
|
Msg 18 of 22: Đă gửi: 20 March 2006 lúc 9:28am | Đă lưu IP
|
|
|
Đang đọc hay tự dưng ... ngưng vậy nhỉ?
|
Quay trở về đầu |
|
|
vuithoi Hội viên


Đă tham gia: 08 April 2005 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 375
|
Msg 19 of 22: Đă gửi: 20 March 2006 lúc 7:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào mọi người,
Mọi người có thể đọc ở link dưới đây:
Tử thư tây tạng
Kính chúc mọi người an lạc,
vuithoi
__________________ vui thoi ma
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 20 of 22: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 9:24pm | Đă lưu IP
|
|
|
CHẾT, TRUNG ẤM THÂN VÀ TÁI SINH
1. CHẾT :
Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đă h́nh thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu. Khi con người chết, nếu có những khuynh hướng như thế sẽ tiếp tục đầu thai trong ṿng sanh tử luân hồi với thân và tâm được thừa hưởng từ sự tích lũy nghiệp thiện và ác ở kiếp sống vừa qua.
Một số người chết v́ kiệt sức hoàn toàn, một số khác chết do hao ṃn phước đức, chết không đúng thời điểm hay c̣n gọi là bất đắc kỳ tử.
Một người chết trong ba trạng thái tâm : Thiện, Bất thiện hay Vô kư. Trong trường hợp thứ nhất, người hấp hối có thể quán tưởng về Tam Bảo hay một vị thầy đức hạnh của ḿnh, bằng cách đó tâm của vị ấy mới phát sinh tín tâm. Hoặc người hấp hối có thể nuôi dưỡng niềm hỷ lạc vô biên để thoát khỏi sự ràng buộc của những phiền năo tham dục, luyến ái, thay vào đó bằng cách quán niệm Tánh không và Tâm từ bi. Điều này có thể tự người hấp hối làm hoặc qua sự trợ niệm của người khác. Nếu những yếu tố trên được nuôi dưỡng trong thời điểm hấp hối, một người chết với tâm thanh tịnh như thế th́ việc tái sinh của họ sẽ được cải thiện. Đây là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết.
Mặt khác, ta nên tránh đánh thức, quấy nhiễu người đang hấp hối, điều đó chỉ khiến cho họ nổi giận thôi. Đôi khi người thân và bạn bè tập trung quanh tử sàng bày tỏ niềm tiếc thương và khóc lóc bi thảm, sẽ làm cho người hấp hối khởi tâm tham ái và quyến luyến. Nếu người chết với tâm niệm bất thiện như thế, sẽ đẩy họ đầu thai vào cơi xấu, điều này rất nguy hiểm.
Trong bất cứ trường hợp nào, trạng thái tâm của người hấp hối bao giờ cũng quan trọng trước khi chết. Bởi v́ ngay cả một người tu luyện tâm linh mà bị quấy rầy vào thời điểm ấy cũng làm cho phiền năo phát khởi, chính trạng thái tâm này sẽ tạo ra ác nghiệp và đó là động cơ chính dẫn dắt người ấy tái sinh vào một cơi bất lợi như tam đồ ác đạo : Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh. V́ thế, điều tối quan trọng cho cả người hấp hối lẫn người sống là tránh tạo ra những t́nh huống gây bất lợi cho tâm thức của người chết. Chúng ta cần biết điều này.
Những người chết trong trạng thái tâm thiện đều có cảm giác ḿnh thoát ra ánh sáng từ trong bóng tối, loại bỏ sự khổ đau và đạt được hạnh phúc. Có nhiều trường hợp người bệnh rất nặng, đến lúc gần chết đă nói ra những điều tốt đẹp thoải mái thay v́ nói đến căn bệnh của họ. C̣n đối với người bệnh tuy nhẹ nhưng nỗi sợ hăi quá lớn, giai đoạn cuối cùng này tâm họ luôn hoảng hốt, nên có cảm giác ḿnh từ nơi ánh sáng đi vào trong bóng tối và từ nơi hạnh phúc bị rơi vào cảnh khổ đau.
Một số người, thân thể ấm áp của họ đă bị suy yếu qua cơn bệnh nên họ trở nên khao khát muốn được hơi nóng, bằng cách này củng cố thêm cho khuynh hướng tái sinh của họ vào nơi như địa ngục nóng hoặc một nơi có khí hậu nóng. Những người khác thích cái mát lạnh, thích uống nước lạnh và khiến cho khuynh hướng tái sinh của họ vào nơI như địa ngục hàn băng chẳng hạn. V́ thế điều này rất quan trọng là tránh khởi những ư niệm tham ái trong lúc chết và trực tiếp hướng tâm đến những điều thiện.
2. THÂN TRUNG ẤM :
Thân trung ấm (bardo/intermediate state) nên hiểu nôm na là sự sống sau khi chết trước khi thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu cơi nào đó (Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ va Súc sinh). Thân trung ấm là thân không có xác thịt mà là lấy tư tưởng làm thân. Sau khi người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác th́ trụ lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần lễ, rồi sau đó t́m kiếm một nơi thích hợp với nghiệp lực của ḿnh mà đi tái sinh. Nếu trong thời gian này, thân trung ấm chưa t́m thấy một nơi tương ứng với ḿnh để tái sinh th́ nó lại chết đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển qua một thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái sinh.
Trong thời gian ở lại với cơi trung ấm này, vào những ngày đầu, vong linh không nhận ra ḿnh đă chết, họ quay lại gia đ́nh để gặp những người thân nhưng không ai biết, họ hỏi thăm từng người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh hoạt trở lại b́nh thường như lúc c̣n sống nhưng không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra bóng h́nh không in lên đất, không phản chiếu trên gương, họ mới biết là ḿnh đă chết. Từ đây, họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà họ đă tạo ra trong đời sống vừa qua. Tất cả những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ đau đều hiện ra trước họ như một cuộn phim suốt cuộc đời họ. Nếu vong linh là người từng tạo phước, tu tập tâm linh, th́ luôn có những cảm giác yên b́nh, thanh thản và dễ dàng để t́m đường tái sinh vào cơi lành. C̣n nếu những người từng tạo ra ác nghiệp, có đời sống tiêu cực th́ luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ đau, kinh hoàng, sợ hăi, thất vọng và chán chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng trong cơi trung ấm và muốn t́m một thân xác để tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ. Nếu thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần thức của ḿnh, th́ người ấy chọn lựa cho ḿnh một cảnh giới tốt để tái sinh, ngơ hầu tiếp tục tu luyện hoặc v́ hạnh nguyện cứu độ chúng sinh. Trái lại th́ không có sự lựa chọn nào, mà thần thức người ấy bị buộc phải thọ sinh vào một cảnh giới nào đó khế hợp với nghiệp lực của ḿnh, cho dù người ấy có muốn đi hay không.
3. TÁI SINH :
Nếu được tái sinh trở lại cơi người, thần thức của người ấy thấy cha mẹ tương lai của ḿnh đang nằm với nhau. Nếu người ấy tái sinh thành người nam th́ phát khởi tâm muốn chiếm hữu người mẹ mà rất ghét người cha. Nếu tái sinh trở thành người nữ th́ ngược lại, thần thức người khởi tâm muốn giao hợp với người kia, nhưng lúc ấy họ chỉ thấy bộ phận sinh dục của người kia (nam hay nữ) mà không thể thực hiện được, do đó họ nổi giận, chính cơn giận này đă làm chấm dứt thân trung ấm của họ và thần thức của họ được chuyển qua đời sống kế tiếp, bằng cách nhập vào bào thai của người mẹ và bắt đầu với h́nh dáng của một con người. Khi ấy tinh cha và huyết mẹ được kết hợp với thần thức của người ấy, họ tự nhiên và dần dần phát triển thành một con người.
Như đă nói ở trên, khi gần đến ngày tái sinh, thần thức của người ấy bị lôi kéo về nơi tái sinh tương lai, thậm chí nơi ấy là địa ngục. Ví dụ, một người đồ tể nh́n thấy một con cừu, anh ta muốn đuổi bắt và giết chết nó, nhưng lập tức anh ta thấy bóng mờ xuất hiện, nên anh ta giận dữ, cơn giận đă làm kết liễu thân trung ấm của y và thần thức của y rơi vào địa ngục hay súc sinh.
Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này sang đời khác là nghiệp lực. Nghiệp (karma) có một năng lực cá biệt và đóng một vai tṛ rất quan trọng trong việc cấu tạo tâm tánh của con người. Nghiệp được h́nh thành dưới sự tập hợp của tam độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính vô minh (ignorance) và ái dục (desire) là cội rễ của mọi ác nghiệp. Do ác nghiệp này mà khiến cho con người trôi lăn trong ṿng sinh tử luân hồi. Để thoát khỏi ṿng luân hồi sinh tử khổ đau này con người phải nổ lực tu tập đoạn diệt cho bằng được cội rễ của vô minh. Khi vô minh bị tận diệt th́ ái dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt th́ sinh, lăo, bệnh, tử sầu bi khổ ưu năo cũng không c̣n, và lúc ấy con người mới thật sự thoát khỏi ṿng vây của sinh tử luân hồi.
------------------------------------------------------------ --------------------
CUỘC HÀNH TR̀NH ĐI ĐẾN KIẾP SAU
Thượng tọa Pende Hawter, sáng lập viên Dưỡng Đường Tiếp Dẫn Kasura để chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Đại Lợi, đă thực hiện cuộc phỏng vấn các bậc Lama tên tuổi như Dalai Lama, Dilgo Khyentse Rinpoche, Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, về tiến tŕnh hấp hối, chết và tái sinh của con ngườị. Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995 tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Độ.
GIÚP ĐỠ CHO NGƯỜI HẤP HỐI
Xin cho biết cách nào tốt nhất để chung ta có thể giúp đỡ cho người đang hấp hối và người vừa qua đời ?
Dalai Lama : Khi gặp người đang hấp hối tuyệt đối tránh quấy rầy họ. Đặc biệt là không làm cho họ nổi giận hoặc khóc lóc để họ sanh tâm quyến luyến. Ngược lại, phải nhắc nhở để họ hành tŕ, tu tập vào giờ phút cuối, ví dụ như quán tưởng h́nh ảnh của chư Phật, các vị thầy đức hạnh, Chúa Jesus, hoặc một lời dạy nào đó tùy theo tín ngưỡng của họ. Nếu người ấy không theo một tôn giáo nào, nên giúp đỡ cho họ chết trong thanh thản và yên b́nh.
Khi người ấy trở nên hôn mê, nếu là hành giả, th́ nhắc nhở pháp môn mà họ công phu thường ngày, đặc biệt là lúc họ sắp ra đi. Kế đó tụng một số bài cầu nguyện. Nếu thân nhân muốn tốt cho người đang hấp hối th́ tự tụng niệm hoặc cung thỉnh chư tăng về nhà để cầu nguyện cho họ. Trường hợp không có chư Tăng tiếp dẫn, người thân trong gia đ́nh có thể tụng thần chú Om mani padme hum, hoặc những thần chú khác mà họ biết, để tiếp dẫn cho người chết. Sau tang lễ, gia đ́nh tiếp tục thọ tŕ, tụng niệm đến ngày thứ 49 cho hương linh dễ dàng t́m lối tái sinh vào cơi lành.
Công việc mai táng thi hài c̣n tùy nghi theo mỗi nền văn hóa hay tập tục của người chết, điều này không mấy quan trọng, bởi v́ một khi thần thức (consciousness) đă thoát thân th́ xác chết ấy cũng giống như một đống đất. Tại một làng không theo Phật giáo thuộc miền Nam Ấn Độ, tập quán của họ là chôn cất thi hài rồi trồng cây lên mộ. Đây là một cách để chấm dứt việc ô nhiễm không khí (air pollution) từ hỏa táng bằng củi đuốc, một tập tục thường thấy ở Ấn Độ, điều này c̣n tránh đi việc hủy diệt cây rừng, một tài nguyên quư giá của quốc gia. Đây là một phương pháp tốt mặc dù nó không bằng như ở phương Tây nơi dùng điện để hỏa táng.
Garje Khamtul Rinpoche : Đối với người hấp hối và người vừa chết, cách tốt nhất mà bạn muốn giúp đỡ là phát khởi ḷng bi mẫn của chính bạn hướng đến với người sắp lâm chung. Ḷng thương yêu và bi mẫn của bạn rất có lợi ích cho người hấp hối, v́ nó phát khởi từ ḷng bạn nên bạn dễ dàng tỏ bày cho người ấy ḷng bi mẫn vô điều kiện mà người sắp chết rất cần. Ḷng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên b́nh cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai. Một điều quan trọng khác là bạn đừng xa lánh và bỏ người đang hấp hối một ḿnh. Chết là sự thật và là một nỗi sợ hăi ghê gớm nhất đối với con người. Do đó, bạn nên ở bên cạnh họ, hoặc cầm tay họ nói lời an ủi, hoặc nh́n vào mắt họ với niềm cảm thông. Thân thể cũng có ngôn ngữ yêu thương của nó, hăy sử dụng nó đừng sợ hăi v́ e rằng họ hôi hám, dơ bẩn hoặc sợ họ bắt ḿnh theo, nếu bạn thể hiện được những cử chỉ tŕu mến như thế, th́ bạn sẽ đem lại cho người sắp lâm chung niềm an lạc lớn nhất ở cuối cuộc đời họ.
Khi bạn chắc chắn người ấy đă chết, bạn vẫn duy tŕ ḷng bi mẫn vô bờ của bạn và cùng với mọi người ở bên cạnh tử sàng mà tụng lớn danh hiệu chư Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà hoặc danh hiệu 35 vị Phật v.v... Nếu bạn niệm Phật với ḷng bi mẫn vô biên của bạn sẽ giúp cho người lâm chung một bước đường tái sinh.
Kirti Tsenshab Rinpoche : Có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất là người có tín ngưỡng. Thứ hai là người không theo một tôn giáo đặc biệt nào. Nếu người hấp hối là một Phật tử th́ chúng ta tụng kinh và niệm Phật tiếp dẫn siêu độ cho họ. Nếu người ấy không theo tín ngưỡng nào th́ điều tốt nhất để giúp đỡ họ là khuyên họ nghĩ đến những người tốt và những điều tốt đẹp nhất trên cuộc đời. Khi một người đang hấp hối và trong giờ phút bối rối ấy, không ǵ tốt hơn là đem lại cho họ cái cảm giác b́nh an và ấm áp của ḷng người, cảm giác này rất có ích cho tâm thức của họ.
Tôi sẽ giải thích chi tiết về những ǵ để giúp đỡ hai hạng người này. Đối với người theo đạo Phật, chúng ta có thể gợi cho họ hồi hướng về những ǵ mà họ từng quy y và tu tập. Chúng ta có thể nhắc cho họ nhớ về Bồ đề tâm, tỉnh thức tâm, thanh tịnh tâm và sự tập trung thiền định... Điều này rất có lợi cho một Phật tử. Đối với người không có đạo, chúng ta có thể khuyên họ suy nghĩ rằng : "Cầu mong cho mọi người được hạnh phúc, cầu mong cho mọi sinh linh được an vui, cầu nguyện cho mọi chúng sanh thoát khỏi những khổ sầu của họ". Những ư tưởng muốn sự tốt đẹp đến với người khác, rất có ích cho người hấp hối.
Đối với Phật tử lúc sắp chết, nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh của chư Phật, nhớ về h́nh ảnh của một vị Phật nào đó, có thể đặt một ảnh Phật trong pḥng của họ... Điều này rất có ích và là điều kiện giúp cho vong linh tái sinh vào đất tịnh.
Ngay sau khi người ấy chết, điều rất quan trọng cần lưu ư là không được đụng chạm đến thi hài của họ để cho tiến tŕnh chết không bị gián đoạn, tiến tŕnh này chỉ chấm dứt khi thân trung ấm (Bardo/Intermediate state) hoàn toàn thoát ra khỏi thân xác. Ở Tây Tạng, người thân phải đợi 48 tiếng đồng hồ sau mới tiến hành tang lễ.
Geshe Lamrimpa : Nói chung, khi đă xác định người ấy sẽ chết, điều quan trọng là phải hoàn thành mọi ước nguyện của họ. Nếu họ tỏ ra luôn luôn giận dữ th́ chúng ta nên làm cách nào để ngăn chặn cơn giận của họ, giữ cho họ luôn ở trạng thái thanh thản và yên b́nh. Nên tránh gây ồn ào và di chuyển đi lại thường xuyên bên người ấy. Nếu người hấp hối quá quyến luyến người thân, vợ (hoặc chồng), cha mẹ con cái, th́ tốt nhất không cho những người thân này đến gần tử sàng. Hăy cố gắng làm điều này để chấm dứt ḷng luyến ái của người hấp hối. Nếu xác định chắc chắn rằng họ sẽ chết, th́ chúng ta nên cho họ những thức ăn uống về những thứ mà họ đ̣i hỏi để họ vui ḷng và thỏa măn, ngay cả thức ăn được kiêng cữ trong thời gian điều trị. Tuy nhiên, không được cung cấp độc dược và thức ăn có thể đe dọa đến mạng sống.
Nếu chúng ta cố gắng nói pháp cho người hấp hối nhưng họ không thích nghe, th́ tốt hơn hết là đừng nói, v́ điều này tạo cho họ có ác cảm đối với Chánh pháp. Nếu họ nghĩ như vậy th́ đời sau họ sẽ không thích gần gũi với Phật pháp.
Tương tự, nếu họ thích an꠵ống mà ḿnh không làm thỏa măn ước muốn của họ, điều này làm họ giận dữ và là nguyên nhân khiến họ đọa vào loài ngạ quỷ (hungry ghost).
Nếu một người tin tưởng vào sự giúp đỡ của người khác và cũng là người từng giúp đỡ kẻ khác trong đời này, chúng ta nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh tốt của họ và chúc mừng họ về việc tốt mà họ đă làm. Việc này làm tâm họ vui và họ sẽ tái sinh ở một nơi đầy hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp cho ước nguyện của người hấp hối hoàn thành, th́ họ sẽ rất măn nguyện. Điều này ngăn ngừa ḷng tham ái, giận dữ, quyến luyến và những tâm tà kiến khác của người hấp hối nổi lên, v́ thế sẽ giúp họ không đọa vào cơi xấu mà tái sinh vào cơi lành.
Đối với Phật tử và người từng thọ tŕ một pháp môn nào đó th́ thật là thuận lợi nếu họ được chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi chết như sau :
1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ mọi dục vọng ở đời này. Nên cố gắng và tránh hướng tâm ái luyến đến người thân của ḿnh, v́ dẫu đời sau có gặp lại th́ cũng phải chia ĺa. Trong thời điểm hấp hối, ta phải bỏ tất cả mọi thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm tấm thân của ḿnh, v́ lúc chết ta phải rời bỏ nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức ăn, áo quần, nhà cửa, v́ những thứ ấy cuối cùng cũng từ bỏ ta.
2. Ta nên phát khởi ḷng bi mẫn và thương yêu đối với mọi chúng sanh.
3. Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và thù hằn, nếu không th́ nó sẽ làm hại ta trong kiếp sau.
4. Tất cả các giới pháp mà ḿnh thọ tŕ nấu đă vi phạm th́ phải cố gắng sám hối cho thanh tịnh trước khi chết.
5. Ta phải phát tâm dơng mănh trong đời vị lai sẽ thọ tŕ và giữ giới pháp thanh tịnh.
6. Ta phải cảm thấy đau xót về những ác nghiệp mà ḿnh đă gây tạo cho người khác trong đời này và phải sám hối để dễ dàng tái sanh.
7. Ta phải nhớ đến những công đức mà ḿnh đă làm trong đời này, về những công đức của người khác đă làm và phát tâm sẽ tiếp tục làm trong vị lai.
8. Ta nên nghĩ đă đến lúc ḿnh phải ra đi để đến đời sau, không có ǵ sợ hăi cả, v́ đó là quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.
9. Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên ma hoại diệt.
10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật hiện tượng đều vô ngă để ta vượt thoát khỏi sầu và đạt được sự an lạc.
Dilgo Khyentse Rinpoche : Cách tốt nhất để giúp cho người hấp hối là lời nói và hành động của ḿnh phải được thúc đẩy bởi ḷng từ bi. Nếu có thể th́ cung thỉnh Lama đức hạnh đến để làm pháp chuyển đi tâm thức (transference of consciousness) cho người hấp hối. Pháp này Tạng ngữ gọi là Powa, được xem là một pháp tu đặc biệt có giá trị và hiệu quả nhất để giúp cho người hấp hối. Bạn quán tưởng h́nh ảnh đức Phật ở trên đầu người hấp hối. Quán tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người sắp lâm chung làm sạch bản thể của họ, và quán thấy họ tan thành ánh sáng, ḥa nhập vào ánh sáng của chư Phật. Việc chuyển di tâm thức có thành công hay không là c̣n tùy thuộc vào sức thiền định của người đang thực hiện pháp tu nà Pháp tu đặc biệt này không những dành cho người sắp chết mà c̣n có thể giúp tịnh hóa và chữa lành bệnh cho người c̣n sống. Các vị Lama vẫn thường dùng pháp này để cầu an thọ mạng cho người già yếu. Một số vị thầy cho rằng nên thực hiện pháp chuyển di tâm thức vào khoảng ngừng lại giữa hơi thở vào và hơi thở ra. Nhiều người khác th́ nói rằng nên thọ tŕ pháp này càng nhiều càng tốt sau khi người đó chết để hộ tŕ cho thân trung ấm của họ dễ dàng tái sinh.
Theo giáo nghĩa của Luật Tông th́ nên hỏa táng thi thể càng sớm càng tốt sau khi chết. Nhưng theo Mật Tông th́ tốt nhất là đừng di dời thân thể sau khi chết trong ṿng ba ngàbsp;
Hỏi : Người sắp lâm chung rất đau đớn về thể xác và hăi hùng với nỗi sợ chết. Phương pháp nào tốt nhất để giúp họ vượt qua nỗi sợ hăi đó ?
Garje Khamtul Rinpoche : Ở phương Tây người ta thường dùng thuốc Á phiện hoặc thuốc an thần để giảm nỗi đau thể xác của người hấp hối và giúp cho họ chết trong b́nh an. Tuy nhiên theo Phật giáo th́ con người cần phải chết một cách đầy đủ ư thức, có sự tự chủ và tỉnh táo càng nhiều càng tốt. V́ thế cần phải kiểm soát sự đau đớn để nó không thể che mờ ư thức của người sắp lâm chung, đó là điều kiện cốt yếu của việc làm giảm sự đau đớn về thể xác.
Thứ hai, làm ǵ để giúp người sắp chết vượt qua nỗi sợ chết? Trước hết, bạn phải thật b́nh tĩnh và chính bạn cũng phải vượt qua trước nỗi sợ ấhi giúp đỡ người hấp hối, bạn cần phải để ư mỗi phản ứng của chính bạn, v́ phản ứng của bạn sẽ phản chiếu trên phản ứng của người sắp chết và nó sẽ góp phần rất lớn vào sự an ủi của họ hay tàn phá họ. Khi niệm Phật tiếp dẫn, bạn cần chú ư trấn an người hấp hối rằng trong giờ phút cuối cùng ngày họ sẽ đối mặt với vô số những cảnh tượng hăi hùng khác nhau mà lâu nay họ chưa từng biết, và điều đó khiến cho họ vô cùng sợ hăi. Tuy nhiên, bạn phải đảm bảo chắc chắn rằng những ảo ảnh đó là không có thật, chúng chỉ là sản phẩm từ ảo giác của người hấp hối. Nếu có thể trao cho họ chuỗi ngọc Mani, hoặc một xâu chuỗi hạt của các thầy đức hạnh sẽ giúp đỡ cho họ vượt qua nỗi sợ hăị (Chuỗi hạt ở đây là biểu tượng năng lực của bậc đạo sư).
Hỏi : Đối với người không phải là Phật tử, họ không theo một tín ngưỡng nào, th́ làm ǵ để giúp họ ?
Garje Khamtul Rinpoche : Đối với một người không tin hoặc không biết ǵ về đạo Phật, chỉ cho họ viên ngọc Mani cũng như an ủi và giải thích cho họ biết những cảnh tượng rùng rợn mà họ sắp thấy trong chốc lát chỉ là những ảo ảnh trong giấc mộng chứ không thật có. Nhờ sự dặn ḍ trước này mà họ sẽ vượt qua nỗi sợ hăi khi hấp hối.
------------------------------------------------------------ --------------------
KHI NÀO THẦN THỨC CỦA NGƯỜI MỚI RA KHỎI THỂ XÁC ?
Hỏi : Ở phương Tây, dấu hiệu thông thường của cái chết là chấm dứt hơi thở và tim ngừng đập. C̣n theo Phật giáo th́ phải mất bao lâu sau khi việc này xảy đến thần thức mới thoát ra khỏi thể xác ?
Kirti Tsenshab Rinpoche : Có lẽ có hai hạng người cần xem xét ở đâhứ nhất, những người trẻ tuổi hoặc những người đă nằm chờ chết trong một thời gian dài. Hạng người này tâm thức rất tinh tế và thần thức của họ sẽ không lưu lại trong thể xác lâu, có thể chỉ một ngày thôi. Thứ hai là những người mạnh khỏe và cái chết đến nhanh, thần thức của họ lưu lại trong thể xác đến ba ngàbsp;
Những cái chết khác như chết bất đắc kỳ, chết v́ tai nạn hay v́ bạo lực. Chẳng hạn hai người đánh chém nhau, một người trong số đó chết đột ngột, th́ thần thức của họ không lưu lại trong thể xác lâu. Nói chung mọi người tùy thuộc vào tâm thức nặng hay nhẹ của ḿnh mà thoát ra khỏi thân xác sau khi chết.
Geshe Lamrimpa : Khi hơi thở dứt và tim ngừng đập, nó chỉ rơ rằng phần thô của thần thức đă tan mất. Tuy nhiên có nhiều trường hợp, phần tinh tế của tâm thức c̣n lưu lại trong xác thân người ấy hàng tuần lễ, thậm chí có lúc cả tháng. Nhưng hầu hết là phần tinh tế tâm thức rời khỏi thể xác trong ba hoặc bốn ngày, trong thời gian này thi hài không bốc mùi hoặc thối rữa.
Garje Khamtul Rinpoche : Chưa thể xác định rằng một người b́nh thường chết thần thức của họ rời khỏi xác trong ba ngày sau đó. Nhiều người lưu lại lâu hơn, nhưng một số người khác th́ trụ lại thời gian ngắn hơn. Có nhiều ví dụ điển h́nh trong số các vị Lama Tây Tạng. Như đức Lama Ling Rinpoche, thầy dạy học của đức Dalai Lama, thần thức của ngài đă trụ lại trong xác thân cả tuần lễ sau khi viên tịch. Ở trong cộng đồng người Tây Tạng, những trường hợp tương tự vẫn thường xảy ra.
Tóm lại, việc hỏa táng hoặc tiến hành tang lễ hay di chuyển thể xác tốt nhất phải đợi ba ngày sau. Tuy nhiên, ngày nay điều này khó thực hiện được v́ người ta sợ ô nhiễm, do vậy, nên làm phép chuyển di tâm thức trước khi động đến thể xác của quá cố.
Hỏi : Trường hợp của những người chết v́ bệnh quá nặng như ung thư và Aids (Sida) th́ thần thức của họ có thoát xác nhanh hơn không ?
Garje Khamtul Rinpoche : Điều này không chắc chắn lắm. Việc thoát xác sớm hay muộn không thực sự tùy thuộc vào người chết bị tai nạn hay bị bệnh nặng, mà tôi nghĩ rằng việc ấy có liên hệ mật thiết đến thiện và ác nghiệp của người mất. Ví dụ, đối với một người tu tập theo pháp Dzogchen hay một pháp nào khác th́ sau khi chết họ tiếp tục quán tưởng Tánh không và thần thức của họ duy tŕ lại trong thể xác rất lâu, cho dù họ không thể luyến ái tấm thân ngũ uẩn này.
Hỏi : Các ngài có thể cho biết khi nào th́ thần thức rời khỏi thể xác ? Những dấu hiệu nào cho chúng ta biết rơ điều này ?
Kirti Tsenshab Rinpoche : Một lần nữa chúng ta lại thảo luận về hai hạng người thoát xác sau khi chết. Bây giờ tôi sẽ không đề cập đến hạng người có thần thức lập tức thoát xác sau khi chết mà chỉ nói đến hạng người có phần tinh tế thần thức lưu lại trong thi thể nhiều ngàgười ta nói rằng trước khi thần thức người ấy thoát ra khỏi xác th́ trên thi thể họ sẽ có một điểm nóng được tụ lại duy nhất có màu đỏ hoặc màu trắng, điểm nóng tụ lại ở đâu th́ thần thức sẽ thoát ra ở chỗ đó. Ví dụ, nếu điểm nóng hội tụ ở đỉnh đầu th́ chúng ta tin rằng người ấy sẽ tái sinh vào cơi lành, điểm nóng tụ lại ở bàn chân th́ chắc chắn người ấy sẽ đọa vào hạ giới. Dấu hiệu cho biết khi thần thức thoát xác sẽ có một ít máu chảy ra ở lỗ mũi hoặc tinh dịch thoát ra từ bộ phận sinh dục.
Tuy nhiên, có một số người không thấy dấu hiệu này, đó là những người chết đột ngột v́ tai nạn hay bị bệnh tim. Dấu hiệu này chỉ t́m thấy ở những người có tiến tŕnh chết chậm và lâu.
Geshe Lamrimpa : Hầu hết người nào bị chết v́ bệnh nặng th́ khi thần thức rời khỏi thể xác đều có dấu hiệu máu hoặc chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi hoặc bộ phận sinh dục. Khi thần thức thoát ra th́ thể xác mới có mùi hôi. Đức Dalai Lama thứ 14 từng nói chuyện với các bác sĩ nổi tiếng ở phương Tây về vấn đề thần thức rời khỏi thể xác khi bệnh nhân tắt thở. Các bác sĩ đă trắc nghiệm và nói rằng họ đă thấy một làn khói trắng nhỏ thoát ra từ một điểm nào đó trên thân của người chết. Kết quả này được kiểm tra bằng máy móc và phân tích thể xác một cách cẩn thận.
Những dấu hiệu như giọt máu hoặc nước vàng đều xảy ra đối với những người chết v́ bệnh nặng. Tuy nhiên, thi thể người ấy thường được di chuyển quá nhiều trước khi thấy những dấu hiệu này, v́ vậy những trường hợp như thế tuyệt đối không bao giờ xảy ra. Ở Tây Tạng, theo tập quán truyền thống phải giữ thi thể trong ba, bốn hoặc bảy ngày ngơ hầu giúp cho thần thức có đủ thời gian để thoát xác. Trong thời gian chờ đợi này, các lễ kỳ siêu cho người quá cố được tiến hành một cách nghiêm mật.
Garje Khamtul Rinpoche : Bạn có thể biết khi thần thức thoát xác từ sự biến đổi của thi thể. Khi thần thức c̣n lưu lại trong thể xác th́ bạn cảm thấy người ấy chưa chết thật sự, nước da của họ c̣n tươi và sáng lạ thường, giống như họ đang nằm ngủ. Nhưng một khi thần thức đă thoát xác th́ lập tức ta thấy thi thể thay đổi khác liền, nước da khô, tái xanh đi và bắt đầu có mùi hôi. Lúc ấy, bạn mới có cảm giác đó là một xác chết chứ không phải là một người nữa.
Những kinh nghiệm về làn khói hoặc giọt máu xuất ra khi thần thức thoát xác không phải lúc nào cũng nh́n thấy được, chúng ta chỉ nh́n thấy ở một số ít người. Trong số những người này, khi thần thức thoát xác, chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi và ở hạ bộ. Có một vị Lama cao cấp chết và khi thần thức thoát xác, lỗ mũi của ngài liền chảy ra hai ḍng chấ dịch lỏng, một bên th́ màu đỏ c̣n bên kia màu trắng.
Hỏi : Có đúng là cho đến khi thần thức thoát xác, thi thể mới bắt đầu có mùi hôi và có dấu hiệu thối rữa ?
Garje Khamtul Rinpoche : Sự thật đúng như thế.
Hỏi : Khi một người chết nhưng thần thức vẫn c̣n lưu lại trong thể xác. Như vậy người ác có cảm giác ǵ không nếu bị người khác đụng chạm đến họ ?
Geshe Lamrimpa : Ho sẽ không có cảm giác ǵ cả. Khi phần khô của thần thức tan mất th́ người ấy không c̣n cảm giác nữa. Đối với các vị Lama chứng đắc và người Phật tử có tu tập, khi chết, phần tinh tế thần thức c̣n lưu lại trong thể xác, th́ họ có thể ở trong tư thế ngồi thiền, đến khi thần thức thoát xác, thi thể của vị ấy mới ngă xuống.
Mấy mươi năm trước, khi những người Tây Tạng đầu tiên đến tạn tại tỉnh Buxa của Ấn Độ, tại một Phật học viện của Phật giáo Tây Tạng nọ, có hai vị tăng đánh nhau và một người chết. Sau đó, v́ sự vụ này mà chính quyền Ấn và người dân địa phương chỉ trích rất gắt gao đối với người dân Tây Tạng, họ nói rằng các tu sĩ Tây Tạng chỉ biết chém giết nhau mà thôi. Về sau có một Lama đức hạnh tên là Gyari Rinpoche, đến từ tu viện Gender ở Tây Tạng, vị này đă viên tịch tại Ấn với tư thế ngồi kiết già trong bảy ngày; Người Ấn được mời đến chứng kiến cái chết lạ thường của vị Lama này và họ cố gắng giật mạnh khăn trải giường để làm cho thi thể của ngài ngă xuống, nhưng ngài vẫn ngồi thẳng như pho tượng, dù trải qua bảy ngày nhưng thể xác của ngài vẫn không có mùi hôi. Sau sự kiện này, quan điểm của họ về các Tăng sĩ Tây Tạng đă thay đổi hẳn, họ không c̣n phê b́nh, chê bai nữa và họ để cho các vị muốn làm ǵ th́ làm.
Hỏi : Nếu đụng chạm và di chuyển thi thể trước khi thần thức thoát xác có ảnh hưởng ǵ đến tâm thức của người chết không ? V́ ở trong bệnh viện, sau khi người hấp hối ngừng thở và tim hết đập, c̣n nhiều thủ tục khác chi phối đến tử thi. Sự can thiệp này có hại cho thần thức người chết không ?
Kirti Tsenshab Rinpoche : Trước hết, nếu đó là một người tinh thông có năng thiền định, họ cố gắng luyện tập thiền định sau khi trút hơi thở, nếu ta lắc mạnh thi thể của họ vào lúc họ ở trong tạng thái thiền định th́ sẽ quấy rầy đến tiến tŕnh tập trung thần thức của họ. Do đó, tốt nhất là đừng nên đụng chạm đến thể xác họ trong thời điểm ấy. Ngay cả một người thường (người không có tu tập) cũng không được đụng đến thi thể của họ cho đến ba ngày sau. Nếu một người đang ngủ say, nhưng ta lắc mạnh th́ họ sẽ thức giấc ngay, người chết ở đây cũng vậy, khi chạm đến họ, không có tác hại ǵ cho thể xác, nhưng có hại rất lớn đến thần thức của họ.
Thêm vào đó, nếu chúng ta buộc phải thay tấm khăn trải giường và nệm từ giường của người vừa chết cho sạch sẽ th́ cũng nên thao tác nhẹ nhàng. Tương tự, nếu người chết c̣n mở mắt và hả miệng, th́ yêu cầu một người thân trong gia đ́nh đến trước tử thi bày tỏ ḷng kíng trọng cuối cùng rồi giúp họ khép mắt và miệng lại để trông dễ nh́n hơn. Đối với những người bị dị tật, tay chân cong quẹo, lúc tẩm liệm phải kéo thẳng ra dễ dàng đưa vào quan tài. Nhưng mỗi cử chỉ đối với người chết đều phải nhẹ nhàng và phải ba ngày sau khi người ấy trút hơi thở cuối cùng.
Hỏi : Có lợi ích ǵ khi chúng ta chạm hoặc kích thích trên đỉnh đầu của người hấp hối và người chết, đặc biệt là người vừa chết ?
Garje Khamtul Rinpoche : Khi một người vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm vào đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt đạo tốt nhất để thần thức thoát ra mà ngài Lama Je Tsong Khapa gọi là "chiếc cổng vàng". Do đó, bạn nên kích thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần thức của người chết thoát ra ngoài bằng đường này th́ chắc chắn họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành.
Nhưng nếu thần thức thoát ra các đường ở hạ bộ, từ lỗ rốn trở xuống, người ấy sẽ thác sinh vào ác đạo, như cơi ngạ quỷ hay loài cầm thú. V́ thế, người Tây Tạng không bao giờ tiếp xúc phần hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ th́ thần thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát ra ngoài.
Dilgo Khyentse Rinpoche : Tiếp xúc vào đỉnh đầu của người hấp hối được xem như là đang làm phép "chuyển di tâm thức" cho họ. Thực hiện phép này không phải là một vấn đề đơn giản, phải làm cẩn thận để giúp cho thần thức của người hấp hối tập trung ở đỉnh đầu, chỗ mái tóc giáp nhau, gọi là cửa Brahma. Nếu đầu của người ấy không bị sói th́ chúng ta phải nhổ năm ba sợi tóc bên trên cửa ấy và dùng ngón tay trỏ cạo nhiều lần vào chỗ ấy, việc làm này nhằm giúp cho thần thức của người chết biết chỗ mà thoát ra ngoài. Kỹ thuật này cũng thường giúp cho chất nước vàng chảy ra từ cửa ấy, dấu hiệu đó chứng minh cho phép chuyển di tâm thức đă thành công.
------------------------------------------------------------ --------------------
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|