Tác giả |
|
NgocLinhTu Hội viên

Đă tham gia: 12 July 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 203
|
Msg 1 of 7: Đă gửi: 28 December 2004 lúc 11:55am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN THỦ THIÊN TƯ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
ĐÀ LA NI THẦN CHÚ KINH
QUYỂN THƯỢNG
Hán dịch: Đời Đường, chùa Tổng Tŕ - Sa Môn TRÍ THÔNG
Việt dịch: HUYỀN THANH
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Thân trước của con có nhân duyên phước đức chẳng thể nghĩ bàn. Nay mong Đức Thế Tôn thọ kư cho con. V́ muốn khiến lợi ích cho tất cả chúng sinh nên khởi Tâm Đại Bi hay cắt đứt tất cả sự ràng buộc cột trói, hay diệt tất cả sự sợ hăi, tất cả chúng sinh nương theo uy thần này thảy đều xa ĺa nhân Khổ được quả an vui.
Năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nào, ngày đêm y theo Pháp thọ tŕ Đà La Ni Thần chú Pháp Môn này th́ tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả Đà La Ni Thần chú thảy đều thành tựu. Nay con muốn báo đáp ân đức của Thế Tôn, dù cho ở bất cứ nơi nào: thôn xóm, thành thị, đất nước, xă ấp, tụ lạc, hoặc ở núi non, đồng bằng, rừng rú. Con thường tùy ủng hộ người đó chẳng để cho tất cả Quỷ thần gây điều nhiễu hại”.
Lúc ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Sau 500 năm, phần lớn chúng sinh: uế nhiều, phước mỏng, chẳng thể chuyên tâm. Giả sử có kẻ thọ tŕ lại bị Quỷ thần xâm hại. Nay con dùng sức uy thần của Phật, rộng v́ lợi ích cho tất cả chúng sinh, đem lại an vui cho hàng: Trời, người, A Tu La … mà nói Pháp của Đà La Ni.
Trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ, con đă từng gần gũi cúng dường Pháp của Đà La Ni như vậy cho đến chư Phật Quá khứ, Vị lai, Hiện tại đều nhân vào Pháp Môn của Đà La Ni này mà được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttara Samyaksamïbuddha – Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác).
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện chuyên niệm Pháp Môn của Đà La Ni này th́ đời này người ấy nói năng lưu loát không bị trở ngại, thông đạt Tuệ Biện, là bậc đệ nhất ở trong đại chúng của tất cả Trời, người. Người nghe vui vẻ thảy đều cúi lạy. Nói ra điều ǵ, mọi người đều tin nhận. Nên biết đây là sức uy thần của chư Phật chứ chẳng phải tự lực của Ta”.
Khi đó, Đức Thế Tôn khen ngợi Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông hay làm lợi ích an vui cho hàng Trời, Người, A Tu La … và Tịnh Nghiệp Đạo. Nay Ta dùng Trí Ấn ấn chứng cho để ông vĩnh viễn không bị thoái chuyển”.
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con nhớ trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ. Con ở trong núi Bổ Đát La (Potala) gặp Ma Vương thống lănh các Ma chúng gây năo loạn Pháp của con khiến cho Chú cú (câu chữ của Thần chú) chẳng thành. Lúc ấy, con dùng Pháp của Đà La Ni này giáng phục làm cho Ma ấy thảy đều lui tan, nên biết sức của Đà La Ni này chẳng thể nghĩ bàn được”.
Khi đó, Quán Thế Âm Bồ Tát v́ Từ Bi, lợi ích an vui cho Trời, Người liền nói Pháp của Mẫu Đà La Ni:
r Thiên thủ Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Đạt Thân Chú Đệ Nhất (Dùng Thủ Nhiếp Thân ấn)
1. Ná ma Tát la-bà nhạ gia
2. Ná mô hát la đát-na đa la dạ dă
3. Ná mô A di dà bà gia, đát tha yết đa gia
4. A la ha đê, tam miệu tam bồ đà gia
5. Ná mô A lợi-gia phạt lột chỉ đế
6. Thấp phộc la gia
7. Bồ đề tát đỏa gia
8. Ma ha tát đỏa gia
9. Ma ha ca lỗ ni ca gia
10. Ná mô ma ha Tát tha-ma bà-la bát-đa gia
11. Bồ đề tát đỏa gia
12. Ma ha tát đỏa gia
13. Ma ha ca lỗ ni ca gia
14. Ná mô tỳ bổ la Tỳ ma gia
15. Tố bát-lị để sắt-gia đa
16. Tăng dịch gia Tố lị-gia xả đa, sa ha tát-la A đê lị ca
17. Bát-la bà, a phộc bà tất đa mộ lật-đát duệ
18. Ma ha mạt ni, ma cự tra, quân trà la, đà lật nê
19. Bạc già phạt để, bát đầu-ma bà noa
20. Duệ tát la-bà lộ ca, a bạt gia
21. Xa ma na gia
22. Tỳ tỳ đà độc khư tam ma bệ xá phệ sắt-tra
23. Tát bà tát đỏa, bạt lị mộ giả na gia
24. Đát điệt tha
25. ÁN
26. Bộ bộ bá
27. Ma ha lộ ca yết la khả hách
28. Na đá ma
29. Tất-để nhĩ la
30. Bát tra la
31. Tỳ na xá ná, ca la gia
32. La già-đội phế lệ, ma ha mộ ha xà la
33. Xa ma ca
34. Xa ma ca
35. La khất xoa ca
36. Tát bà ba gia, đột lị-yết để
37. Bát la xá ma ca na, yết la gia
38. Tát bà đát tha yết đa
39. Tam ma phộc đà
40. Na yết la, hê hê
41. Ma ha bồ đề tát đỏa, phộc la đà
42. Bát đầu-ma, lộ ca, tam bộ đà
43. Ma ha ca lô ni ca
44. Chiết tra ma cự lăng, ngật-lật đa
45. Xả lị lan ma ni yết na ca la xà đa, bạt chiết-la phệ trụ lị gia
46. Lăng ngật-lị đa, xả lị la
47. A nhĩ đa, bà thị na
48. Ca ma la, lăng ngật-lật đa
49. Bát-la bá la na la na la giả, na ma ha xă na ná la na lị
50. Xá đa, sa ha tát-la A tỳ la sử đa, ca gia
51. Ma ha bồ đề tát đỏa
52. Tỳ đà ma, Tỳ đà ma
53. Tỳ na xá na, Tỳ na xá na
54. Ma ha diễn đổ-lỗ ngật-lệ xa ca bá tra bá bạn đá tăng sa la già la ca
55. Bá la ca-la ma địa na
56. Bố lô sa, bát đầu-ma
57. Bố lô sa, na già
58. Bố lỗ sa, sa già la
59. Tỳ la, Tỳ la phệ lị xà gia
60. Tố đản đá
61. Bát lị phiệt-lị đa
62. Đà ma, đà ma
63. Sai ma, sai ma
64. Đổ lô, đổ lô
65. Bát-la xa ma gia
66. Bát-la xa tát gia
67. Kỳ ly, kỳ ly
68. Tỳ lê, Tỳ lê
69. Chỉ la, Chỉ la
70. Mụ lô, mụ lô
71. Mụ dữu, mụ dữu
72. Muộn già, muộn già
73. Đổ na, đổ na
74. Tỳ đỗ na, tỳ đỗ na
75. Đổ lỗ, đổ lỗ
76. Già gia, già gia
77. Già đà gia, già đà gia
78. Hạt sa, hạt sa
79. Bát-la ha sa, bát-la ha sa
80. Tỳ đà, tỳ đà
81. Yết-lệ xa
82. Phộc tát na
83. Ma ma tả (Tôi tên là …)
84. Hà la, hà la
85. Tăng hà la, tăng hà la
86. Đổ lỗ trưng, đổ lỗ chi
87. Ma ha mạn trà la
88. Đổ lỗ trưng, ca la noa
89. Xá đá bát-la tế ca
90. Bá bà sa
91. Tỳ sa na, xá ma ca
92. Ma ha bồ đề tát đỏa
93. Bá la đà
94. Sa ha
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nói Đà La Ni này tên là: “Bạc Già Phạm Liên Hoa Thủ Nghiêm Sức Bảo Trượng”.
Đức Thế Tôn ở Điện Đại Kim Cương Hoan Hỷ nói nơi khen ngợi của Tối Thắng Bồ Tát và vô lượng Trời, Rồng, Khẩn Na la … đều tồi hoại núi nghiệp chướng rộng lớn.
Nếu có người được nghe, hoặc đọc hoặc tụng Đà La Ni này th́ hết thảy tất cả nghiệp chướng phiền năo của người ấy đều được tiêu diệt.
Nếu có người vào buổi sáng, buổi chiều sinh tâm tôn trọng tụng Đà La Ni này, thường được Quán Thế Âm Bồ Tát luôn luôn tùy toại ủng hộ người đó, mọi việc suy nghĩ đều được thành tựu, nếu có điều cầu nguyện sẽ khiến được thành tựu. Nên ngồi riêng ở nơi yên lặng, tâm nhớ Quán Thế Âm Bồ Tát không duyên nơi khác, tụng Đà La Ni này 7 biến th́ không có nguyện nào mà chẳng được quả. Lại được tất cả chúng sinh yêu mến, chẳng bị đọa vào tất cả các nẻo ác. Hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng thường niệm Phật như đối trước mắt th́ hết thảy các tội nghiệp ác mà người ấy đă gom chứa trong vô lượng trăm ngàn câu chi đời đều được tiêu diệt. Người đó thường được đầy đủ phước của 1.000 vị Chuyển Luân Vương. Đời đời được ở cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng thời được sinh ra ở nhà Quư Tính (Tôn quư).
Nếu đem một bụm đầy hương hoa rải tán ở trước Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng Đà La Ni này 7 biến sẽ được Đại Thiên Công Đức Đại Bi Pháp Tính. Người ấy ở thế gian đựơc thành tựu đại lực.
Nếu nh́n vào mặt Quán Thế Âm, tụng Đà La Ni chú này liền được thấy tướng mỉm cười của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nh́n thấy rồi liền được Địa Ly Cấu. Hay chiếu sáng thế gian. Tức ở đời này thường được thấy Phật Từ Niệm nhiếp thụ. Sau khi chết, như vào Thiền Định, đời đời sinh ra đều được Túc Mệnh Trí, hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt.
Nếu muốn thọ tŕ Đà La Ni này, nên vào ngày 15 của tháng Bạch Nguyệt, thọ tŕ 8 Giới, mặc áo trắng sạch, ở Tháp Xá Lợi của Phật hoặc ở trước Xá Lợi của Phật th́ mới được làm. Dùng Bạch Đàn làm bùn xoa tô Đàn (Mài Bạch Đàn ở trên đá thành bụi nhỏ, dùng xoa tô đất). Lấy mọi thứ hoa rải bên trong Đàn ấy, đốt hương thắp đèn trước tượng Phật. Liền ở trước Phật sinh tâm cung kính th́ Quán Thế Âm Bồ Tát đi đến vào trong Đàn ấy. Thường tụng Đà La Ni này 108 biến th́ hết thảy tất cả tội chướng, tội nặng 5 nghịch của người ấy đều được tiêu diệt. Nghiệp Thân, Khẩu, Ư đều được thanh tĩnh. Được Phật Tam Muội Lực, Quán Đỉnh Lực, Ba La mật Địa Lực, Thù Thắng Trí Lực thảy đều thành tựu.
Nếu muốn cầu mưa, nên nh́n lên trời, tụng Đà La Ni này th́ trời liền tuôn mưa xuống.
Nếu ngó xuống đất, tụng Đà La Ni này hay khiến cho trăm giống lúa (Bách cốc) đều được thành tựu.
Nếu ở bên cạnh ao, sông, suối khô cạn, tụng Đà La Ni này nơi ấy lại được nước tràn đầy.
Nếu bị tất cả bệnh, nên tụng Đà La Ni này, dùng tay xoa lên chỗ bị đau liền được khỏi bệnh.
Ở bên cạnh người bị mất niệm, tụng Đà La Ni này th́ được Chính Niệm trở lại.
Nếu ở cạnh người đói khát, thường nh́n vào mặt người đó, tụng Đà La Ni này th́ hết thảy đói khát thảy đều trừ diệt.
Nếu muốn kết Giới, nên vào trong nước ao, viết Đà La Ni này, cột buộc trên cây phướng th́ trong 100 do tuần không có các sự suy kém tai họa. Tức thành kết Giới, ủng hộ thành tựu.
° Ấn thứ nhất: Thiên Thủ Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Tổng Nhiếp Thân Ấn
Trước hết, đứng thẳng, thân ngay ngắn, 2 bàn chân đứng ngang bằng nhau, hơi cong bàn chân phải một chút. Duỗi bàn tay trái xuống dưới, co ngón giữa và ngón vô danh dính nhau trong ḷng ban tay. Duỗi bung ngón út, ngón trỏ, ngón cái. Ngửa ḷng bàn tay hướng lên trên. Tiếp theo tay phải cũng như thế, co khuỷu tay sao cho cánh tay ngang rốn, hướng ḷng ban tay về phía trước. Đây là Tổng Nhiếp Thân Ấn. Chú là:
“Nam mô hạt-la đát-na dạ gia. Na mô A lợi-gia ba lộ cát đế nhiếp-phạt la gia, Bồ đề tát đỏagia, ma ha tát đỏa gia, ma ha ca lô ni ca gia. Đát điệt tha: A bạt đà, A bát đà, bạt lị đế, yên hê duệ hê, sa ha”.
Ä NAMO RATNA TRAYÀYA
NAMAHÏ ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀ SATVAYA, MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA
TADYATHÀ: ABÀDHA, ABÀDHA – PARIPATI EHYEHI – SVÀHÀ
° Ấn thứ hai: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Tổng Tŕ Đà La Ni Ấn
Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chắp tay để ngang trái tim, đem 5 ngón tay cài chéo nhau, bên trái đè bên phải, dựng thẳng hai ngón trỏ dính đầu nhau, 2 ngón cái phụ đè trên vằn thứ nhất của ngón trỏ, hơi mở ḷng bàn tay. Ấn này tên là Tổng Tŕ Đà La Ni Pháp.
Tác Ấn này hay diệt trừ nghiệp ác của vô lượng kiếp sinh tử sau này, tội chướng được tiêu diệt hết trong một thời, ngày sau văng sinh về Tĩnh Thổ ở 10 phương. Khi xưa Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lúc sắp thành Đạo bị Ma Vương quấy nhiễu, Ngài tác Tổng Tŕ Đà La Ni Ấn này mà được Thiền Định an vui. Chú là:
“Đá điệt tha: Tát bà đà la ni, mạn trà la gia, yên hê di hê, bát-la ma thâu đà tát đá bà gia, Sa ha”
Ä TADYATHÀ: SARVA DHÀRANÏ̀ MANÏDÏALÀYA PRAMA ‘SUDDHA SATVÀYA - SVÀHÀ
° Ấn thứ ba: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát giải Thoát Thiền Định Ấn
Trước tiên, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay để trên đỉnh đầu, co 2 ngón trỏ dính đầu ngón, 2 ngón cái phụ trên vằn thứ hai của ngón trỏ. Ấn Pháp này tên là: Giải Thoát Thiền Định Ấn.
Chư Phật Quá khứ đồng tu Pháp này mà được Thần Thông giải thoát của Th́ên Định. Mỗi khi dùng Pháp này cúng dường sẽ được chư Phật 10 phương rơ ràng trước mắt. Chú đồng với chú trước.
° Ấn thứ 4: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Thiên Nhăn Ấn
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên đem các ngón giữa, ngón vô danh, ngón út giáp dính lưng nhau. Dựa thẳng 2 ngón trỏ dính nhau, 2 ngón cái đặt nghiêng trên vằn thứ hai của ngón trỏ, mở cổ tay khoảng 5 thốn, đặt ở my gian (Tam Tinh). Đây gọi là Thiên Nhăn Ấn.
Tác Ấn Chú Pháp Môn này liền quán sát thấy quốc thổ tĩnh diệu của chư Phật trong trăm ngàn vạn ức thế giới. Mỗi một cơi Phật đều được trăm vạn bốn ngàn Bồ Tát cùng làm bạn lữ với Hành giả.
Nếu chưa trải qua 3 Mạn Trà La ắt chẳng được nh́n thấy Ấn Chú của Ấn Pháp Môn này kẻo khiến người bị tội (Thần Thông tác Pháp ấn này, Thân nghiệp Pháp yếu của Bồ Tát và Trí Thôn. Phàm có ước nguyện thảy đều măn túc). Chú là:
“ÁN – Tát bà chước-sô già la gia đà la ni, Nhân địa lị gia, sa ha”
Ä OMÏ - SARVA CAKSÏU GARJA DHÀRANÏI INDR̀YA – SVÀHÀ
° Ấn thứ 5: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Thiên Tư Tổng Nhiếp Ấn
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Ngửa ḷng bàn tay phải, 5 ngón đều phụ nhau. Lại ngửa ḷng bàn tay trái đè trên ḷng bàn tay phải rồi để chạm dính trái tim. Đây gọi là: Tổng Nhiếp Thiên Tư Ấn.
Ấn này hay giáng phục Ma oán của 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới. Chú là:
“Đát điệt tha: Bà lô chỉ đế nhiếp phạt la gia. Tát bà đột sắt tra, ô ha, mi gia, Sa ha”
Ä TADYATHÀ: AVLOKITE’SVARÀYA SARVA DUSÏTÏA UHA MIYA SVÀHÀ
° Ấn thứ 6: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Thông Đạt Tam Muội Thành Ấn
Đứng thẳng, hai chân chạm nhau. Trước tiên dựng 5 ngón tay trái cùng nắm nhau, cong khuỷu tay hướng về phía trước. Tiếp theo, tay phải cũng vậy. Co khuỷu tay hướng vào bên trong. Đây gọi là Thông Đạt Tam Muội Ấn.
Ấn này hay khiến cho thông đạt tất cả Tam Muội Trí Ấn, phương tiện trang nghiêm, 8 vạn 4 ngàn Pháp Môn đều nhân theo Pháp này mà được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác). Dùng Đại Thân Ấn lúc trước.
° Ấn thứ 7: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Hô Triệu Thiên Long Bát Bộ Quỷ Thần Tập Hội Ấn
Đứng thẳng, 2 chân song song nhau. Trước tiên tay trái lấy ngón vô danh vịn trên móng ngón cái. Tiếp theo, tay phải cũng như vậy, dựng thẳng 2 ngón út và ngón giữa dính đầu nhau, hợp cổ tay cùng phụ dính nhau, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là:
“ÁN – Tát bà đề bà, na già, A na lị, Sa ha”
ÄOMÏ - SARVA DEVA NÀGA ANALE - SVÀHÀ
° Ấn thứ 8: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Hô Triệu Đại Phạm Thiên Vương cập (và) Kiều Thi Ca lai vấn (đến hỏi) Pháp Ấn
Dựa theo Ấn trước, mở cổ tay để cạnh tay dính nhau, ngửa ḷng bàn tay, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là:
“ÁN – Ma ha phạm ma gia yên hê di hê, Sa ha”
Ä OMÏ - MÀHÀ BRÀHMÀYA EHYEHI – SVÀHÀ
Pháp Ấn chú này hay nhiếp vô lượng vô số Đà La Ni Ấn Pháp Môn đều đến tập hội. Nếu vào lúc Nhật Nguyệt Thực, chú vào bơ 21 biến, dùng Ấn ấn lên bơ rồi ăn vào sẽ khiến cho người ấy thông minh, 1 ngày tụng vạn bài kệ.
Ấn Pháp Môn này do Nhật Tụng Như Lai truyền cho Quán Thế Âm Bồ Tát.
° Ấn thứ 9: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ư Chân Ấn
Đứng thẳng, chắp tay để ngang trái tim, co 2 ngón cái song song vào trong ḷng bàn tay, duỗi thẳng 4 ngón c̣n lại, chắp tay để ngang trái tim. Tụng Đại Thân Chú lúc trước 21 biến ắt quyết định được vào cung điện của chư Thiên, dạo chơi các quốc thổ của Phật ở 10 phương, trăm ngàn vạn báu tùy theo ư đă tu đều được cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, tất cả Thánh chúng.
Nếu có người hay tác Pháp Môn này, vào lúc sáng sớm thức dậy, tắm gội sạch sẽ, tác Ấn Pháp này sẽ nh́n thấy hằng hà sa Phật ở 10 phương, diệt trừ nghiệp ác tội nặng trong sinh tử thuộc vô lượng kiếp sau. V́ thế cho nên khen ngợi công đức như vậy.
° Ấn thứ 10: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Khất Nguyện Tùy Tâm Ấn
Dựa theo Ấn trước, co 2 ngón trỏ đè trên móng 2 ngón cái so cho lưng móng của ngón trỏ dính nhau. Dùng Thân chú lúc trước. Nếu có người tùy theo ước nguyện mong cầu đều được măn túc, quyết định chẳng thoái Đạo Bồ Đề.
° Ấn thứ 11: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Nhập Diệt Tận Định Tam Muội Ấn
Dựa theo Ấn trước, duỗi thẳng và bung ngón trỏ, ngón cái rồi mở ḷng bàn tay.
Ấn này, lúc Ta (Quán Thế Âm Bồ Tát) ở tại Nhân Địa có hằng hà sa chư Phật trao cho Ta Ấn này khiến cho Ta chứng đạo Bồ Đề. Tụng Đại Thân Chú.
° Ấn thứ 12: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Thỉnh Phật Tam Muội Ấn
Dựa theo Ấn trước, chắp tay để ngang trái tim, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là:
“ÁN – Tát bà bột đà tam ma gia, yên hê di hê Bát-la ma thâu đà tát đỏa, Sa ha”
Ä OMÏ - SARVA BUDDHA SAMAYA – EHYEHI PRAMA ‘SUDDHA SATVA – SVÀHÀ
_ Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Trí (đặt, dựng) Thập Khuỷu Man Noa La Đàn Pháp
Tiếp, nói về Đàn Pháp. Phàm lúc tác tất cả Mạn Trà La Pháp Môn, cẩn thận khảo xét bản Phạn là:
“Quốc thổ này không có đất làm Mạn Trà La. Như nước Thiên Trúc đều lấy đất phước Đức Thắng Thượng dùng làm Đàn Trường. Riêng nước Bà La Môn có phương pháp chọn đất là: nơi ở trên đỉnh núi có h́nh thế, đào đất bỏ gạch đá, vật bằng sành sứ, đất uế ác, vật dơ … xong rồi bắt đầu làm cho bằng phẳng (b́nh trị). Lấy Cù Ma Di ḥa với hương xoa tô đất”.
Nếu nước Thiên Trúc đều chọn đất phước Đức thượng thắng dùng làm Đàn Trường th́ nước Bà La Môn có phương pháp chọn lựa đất riêng, chẳng có thể rộng nói. Có điều luận về đất Hán (Trung Quốc) này th́ bậc nhất là nơi nhàn tĩnh ở núi. Ngay trên đỉnh núi, nơi có h́nh thế, đào đất loại bỏ gạch đá, vật sành sứ, đất ác, vật ác … xong bắt đầu nện cho bằng phẳng. Dùng Cù Ma Di ḥa với hương để xoa tô đất rộng khoảng 1 trượng 6 thước, quá lắm là 20 ngón tay cho đến 16 ngón tay, 1 khuỷu tay làm thắng thượng. Thứ nhất lấy Hương Bạch Chiên Đàn mài trên đá rồi dùng bụi nhỏ xoa tô Mạn Trà La, dùng pháp Ngũ sắc vạch giới hạn. Đàn ấy mở 4 cửa:
Cửa Đông đặt Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương
(Dhrïta Ràsïtïra Deva Ràja – Tŕ Quốc Thiên Vương)
Cửa Nam đặt Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương
(Virùdhaka Deva ràja – Tăng Trưởng Thiên Vương)
Cửa Tây Đặt Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương
(Virùpàksïa Deva Ràja – Quảng Mục Thiên Vương)
Cửa Bắc đặt Tỳ Sa Môn Thiên Vương
(Vai’sravanïa Deva Ràja – Đa Văn Thiên Vương)
Tiếp theo đặt để Thiên Vương (Deva Ràja) ở bên phải, bên trái kèm với quyến thuộc đều ở Bản vị.
Chính giữa Mạn Trà La ấy đặt trượng Thiên Thủ Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát (Sahasra Bhùja Avalokite‘svara Bodhisatva). Trước tượng để cái bàn (Án), trên bàn đặt Chú Pháp. Đốt mọi loại hương, đặt bày mọi thức ăn uống, rải mọi loại hoa dùng để chúng dường, chỉ trừ vật tạp, vật hôi tanh (Huân tân), rượu thịt là không được cúng.
Từ ngày khác riêng làm Tân hương, Tô Giả Hoa, Thụ Quả Tử. Ở trước tượng để Tam bạch thức là sữa, tô lạc, mật. Đốt Đàn Hương, Trầm Hương, Tô Hợp hương, Long Năo hương. Mỗi ngày 3 thời tắm gội, thọ 3 luật nghi. Chí tâm tụng chú cúng dường Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát (Sahasra Netre Avalokite’svara Bodhisatva). Sáng sớm, giờ Ngọ, buổi chiều cúng dường ngày ngày chẳng gián đoạn. Như vậy cho đến 2 ngày tận ư cúng dường, xong đi đến gặp Chú Sư làm Đàn tác Pháp: Hô Triệu tất cả đều hiện h́nh tượng trên đồ họa. Nay xem bản Phạn th́ không có việc này. Nên biết Chú Sư ấy hướng mặt về phương Đông tụng Chú. Kết Ấn từ ấn thứ nhất, ấn thứ hai cho đến ấn thứ 12 “Thỉnh Phật Tam Muội Ấn” đâu cần lao nhọc Thiết Ấn (Khắc Ấn).
Tác Ấn lúc trước 1 lần, tụng Chú 7 biến cho đến Ấn thứ 12 th́ xong. Nên tự phát chẳng thoái lui, bền chắc. Có điều tác Pháp Hô Triệu th́ tất cả đều đến, khiến phát TÂm Bồ Đề quyết định. Ngồi ngay thẳng tưởng tất cả Chú Thần ở ngay trước mắt, một lần không có chướng nạn chẳng được hoàn tất (?) Tụng Đại Thân Chú lúc trước măn 1.080 biến.
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện ra thân tướng diện mạo của A Nan (Ananda) đến hỏi Hành giả: “Tu theo Pháp nào? Cầu nguyện điều ǵ?” (Câu này do thầy Trí Thông gần gũi tự cúng dường nương theo ghi câu hỏi này)
Hành giả thưa rằng: “V́ cầu Pháp Đà La Ni của Bồ đề Vô Thượng”
Nếu lúc mong được thọ kư th́ chỉ nguyện phát Tâm siêng năng không cầu Danh Lợi, ước nguyện nên cầu cho tất cả chúng sinh quán cùng 1 chữ, lại nguyện cho tất cả Quỷ Thần đều thuận phục. Được như nguyện rồi chỉ tự biết thôi chẳng được hướng về người mà truyền nói.
Nếu muốn được cầu tất cả nguyện nên làm Pháp Thủy Mạn Trà La (Thủy Đàn – Đàn h́nh tṛ) rộng 4 khuỷu tay, đốt Trầm Thủy Hương, tụng Thân chú lúc trước 108 biến, tác Khất Nguyện Ấn thứ 10 lúc trước, liền được tất cả như nguyện, măn túc sự cầu xin. Bản Phạn không có phần này, v́ từ bên ngoài nên không như cúng dường này. Tất cả Đà La Ni Pháp Môn thảy đều thành tựu.
Lại có Pháp: nếu muốn được tất cả sự vui vẻ, kết Ma Ni Tùy Như Ư Châu Ấn thứ 9 lúc trước, tụng Thân chú, chú vào Ô Ma 21 biến rồi thiêu đốt trong lửa, liền được như ư.
Nếu muốn khiến cho các Hạt-la xà (Ràja – Vua chúa) vui vẻ nên lấy cành cây trong vườn của Hạt-la xà chú 21 biến rồi ném đặt trong vườn, liền đựơc vui vẻ.
Nếu muốn giáng phục người ác, oan gia. Nên chú vào cây Khổ Luyện 21 biến rồi thiêu đốt trong lửa, liền được quy phục.
Lại có Pháp. Nếu có Thần quỷ, kẻ khó điều phục. Lấy An Tất Hương với hạt cải trắng, chú 21 biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt th́ tất cả Quỷ Thần, loài gây bệnh tự nhiên thần phục.
Nếu có bệnh dịch lưu hành, nên làm Thủy Mạn Trà La rộng 4 khuỷu tay. Lấy Ngưu Tô tốt, chú 108 biến rồi thiêu đốt trong lửa th́ tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt. Lại lấy chút ít bơ (Tô) cho người bị bệnh dịch ăn th́ lập tức khỏi bệnh.
Như nước Kế tân có bệnh dịch hoành hành, người bị bệnh chẳng qua 1, 2 ngày đều chết. Có vị Bà La Môn Chân Đế đem Pháp này hành, tức th́ bệnh dịch liền được tiêu diệt, Hành bệnh Quỷ Vương ra khỏi quốc thành, nên biết rất hiệu nghiệm vậy.
Lại có Pháp. Nếu nước khác xâm nhiễu, giặc cướp nghịch loạn khởi dậy. Tác Ấn thứ nhất lúc trước “Tổng Nhiếp Thân Ấn”, chú 108 biến th́ tất cả giặp cướp tự nhiên tiêu tan.
Nếu tất cả chúng sinh bị nghiệp báo, mệnh căn đă hết. Tác “Diệt Tận Định Ấn” lúc trước, ngày ngày cúng dường, đốt Trầm Thủy Hương, tụng chú măn 1.080 biến, liền chuyển được nghiệp chướng ấy.
Như nước Ba La Nại có vị Trưởng giả có 1 đứa con mà tuổi thọ chỉ được 16 năm. Đến năm thứ 15, có 1 vị Bà La Môn đi đến cửa xin ăn nh́n thấy Trưởng Lăo ấy buồn rầu chẳng vui, vợ chồng tiều tụy mặt không được sáng sủa. Vị Bà La Môn hỏi rằng:
“Trưởng Lăo! V́ sao ông chẳng vui?”
Vị Trưởng lăo nói rơ duyên cớ, Bà La Môn đáp rằng:
“Trưởng Lăo chẳng nên buồn rầu. Tác Pháp Môn này 1 ngày 1 đêm sẽ được vua Diêm La (Yama Ràya) báo cho biết “Mệnh căn của con Trưởng Lăo chỉ có 16 năm. Giờ đă là năm thứ 15, chỉ c̣n 1 năm nữa. Nay gặp nhân duyên lành sẽ được thọ đến năm 80 mới đến tương bái”.
Khi ấy vợ chồng Trưởng Lăo hớn hở vui vẻ, đem tiền của trong nhà, cấp thí cho Tăng chúng của Phật Pháp. Nên biết Pháp này có đầy đủ đại thần nhiệm chẳng thể luận bàn.
Nếu đă vào trong Đại Đô Hội Tâm Mạn Trà La Kim Cương Đại Đạo Trường rồi th́ chẳng cần làm Mạn Trà La. Chỉ cần kết Ấn, tụng Chú ắt không có ǵ chẳng được quả và mau chóng thành Phật.
Nếu có người nữ lúc sinh đẻ chịu khổ năo lớn, chú vào bơ 21 biến rồi cho ăn ắt được an vui. Sinh ra trai gái có đủ đại tướng hảo, mọi thiện trang nghiêm. Do đời trước sinh ra gốc Đức khiến cho người kính yêu, thường ở trong đời người thọ nhận khoái lạc thù thắng.
Nếu có chúng sinh bị bệnh về mắt. Chú Sư dùng Bồ Tát Thiên Nhăn Ấn, chú 21 biến, đem Ấn ấn lên mắt th́ con mắt liền khỏi bệnh. Dùng đại nhân duyên này cùng với người đắc được Thiên Nhăn, ánh sáng chiếu suốt nh́n thấy cơi Trên, nơi mọi loại Thiên Nhân thọ hưởng khoái lạc thù thắng.
r Tiếp, nói về Pháp VẼ TƯỢNG:
Xem xét bản Phạn cẩn thận. Tạo Tượng đều dùng vải trắng tốt, rộng 10 khuỷu tay (1 trượng 6) dài 20 khuỷu tay (3 trượng 2) thân Bồ Tát làm màu vàng ánh, mặt có 3 con mắt, 1.000 cánh tay trong mỗi một bàn tay có 1 con mắt. Trong màu vẽ chẳng được dùng keo nấu bằng da thú. Dùng hương, sữa ḥa với màu vẽ. Đầu Bồ Tát đội Thiên Quan bằng 7 báu, thân đeo Anh lạc.
Lại có 1 bản ghi rằng: Nếu nơi này không có vải trắng tốt rộng như vậy, có thể lấy một mảnh lụa trắng vẽ thân Bồ Tát dài 5 tấc, có 2 cánh tay.
Y theo Ấn thứ 5 “Thiên Tư Ấn” Pháp cúng dường cũng được, không cần ngàn mắt ngàn tay. Pháp này cũng y theo bản Phạn, chỉ có trên trán Bồ Tát vẽ một con mắt liền được.
Nếu muốn cúng dường Pháp Môn này. Trước hết, nên vẽ tượng, cùng với Pháp vẽ tượng nên làm 1 Mạn Trà La như Pháp. Khiến người thợ vẽ thọ 8 Giới trai, ra vào nhà cầu 1 lần th́ tắm rửa 1 lần. Khi làm xong tượng đó, người thợ vẽ với Chú Sư lo sợ chẳng được như Pháp th́ đối trước tượng sám hối tội lỗi. Liền đem tượng để trong Đàn, nên tác Pháp bày biện cúng dường rộng lớn, đầy đủ 21 ngày. Tượng Thiên Tư Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát iền phóng ra ánh sáng lớn vượt hơn mặt trời, mặt trăng. Trừ kẻ chẳng chí tâm.
Pháp tượng Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát ấy. Trong năm Vũ Đức có vị Bà La Môn ở Trung Thiên Trúc tên là Cù Đà Đề Bà (? Gupta Deva) đem Tượng này đến dâng hiến, vào bên trong liền chẳng ra được.
Thông (Thầy Trí Thông) xem xét bản Phạn chỉ nói Thiên Nhăn Thiên Tư mà không có tên dịch.
Lại căn cứ vào bản Phạn. Thời Quá khứ, Bồ Tát ở nơi Đức Tỳ Bà Thi Phật cũng hiện làm thân Giáng Phục Ma, trong 1.000 con mắt mỗi mắt tuôn ra 1 vị Phật tức là 1.000 vị Phật đời Hiền Kiếp, 1.000 cánh tay mỗi cánh đều hóa ra 1 vị Chuyển Luân Vương (tức 1.000 vị Chuyển Luân Vương). Trung Thân Giáng Ma của Bồ Tát th́ Thân này là tối thượng đệ nhất.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát đẳng rằng: “Ta dùng Thần lực của Phật, dù đến cùng kiếp cũng chẳng thể nói hết được”.
THIÊN THỦ THIÊN TƯ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
ĐÀ LA NI THẦN CHÚ KINH
HẾT
|
Quay trở về đầu |
|
|
NgocLinhTu Hội viên

Đă tham gia: 12 July 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 203
|
Msg 2 of 7: Đă gửi: 28 December 2004 lúc 11:56am | Đă lưu IP
|
|
|
THIÊN THỦ THIÊN TƯ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ĐÀ LA NI THẦN CHÚ KINH
QUYỂN HẠ
Hán dịch: Đời Đường, chùa Tổng Tŕ - Sa Môn TRÍ THÔNG
Việt dịch: HUYỀN THANH
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát nói Chú thời 3.000 Đại Thiên Thế Giới cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên chấn động theo 6 cách. Sách Cứu Cánh Thiên, Ma Hê Thủ La Thiên chẳng an. Nơi ấy đều rất hoảng hốt, tất cả Quỷ ác kêu la lớn tiếng chịu khổ năo lớn, bỏ chạy tứ tán chẳng biết lối trốn.
Khi ấy, Hóa Thân (Quán Thế Âm Bồ Tát) nói với các Đại chúng với các hàng Quỷ thần ác rằng: “Nếu chẳng tùy thuận Chú của Ta mà làm điều trái ngược th́ đầusẽ bị vỡ nát”.
Chú này có thể phá tan các núi, làm cho biển lớn khô kiệt. Chú này hay nghiền nát quân A Tu La, ủng hộ các quốc thổ. Chú này hay tồi phục: tất cả các Quỷ thần ác, tất cả các tú, tất cả sự độc ác, tất cả các bệnh, tất cả người ác. Chú này hay tồi phá 33 Trời đều khiến giáng phục.
Nếu có kẻ trai lành có khả năng tụng tŕ chú này th́ người ấy có uy lực chẳng thể nói hết. Chú này hay khiến cho người tụng tŕ được hào phú tự tại, cũng hay khiến cho yêu nhớ cả đời, việc mong cầu xứng ư đều được măn túc.
Nếu muốn giáng phục loài Ma oán nên thiêu đốt phân Cầu La Hương, tụng Thân của của Ta 21 biến.
Nếu muốn khiến cho tất cả mọi người yêu mến ḿnh, chú vào cành Dương liễu 21 biến, ngậm trong miệng liền được yêu kính.
Nếu muốn khiến cho tự thân đựơc biện tài, trí tuệ. Chú vào Xương Bồ 1.008 biến, xoa ở trên trái tim liền được biện tài vô ngại. Tác Mẫu Đà La Ni Tâm Chú Ấn.
° Ấn thứ 13: Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Biện Tài Vô Ngại Ấn
Để 2 tay cùng chung lưng rồi chắp lại, duỗi ngón cái hướng về phía trước.
Ấn này hay hộ ḿnh hộ người. Cần phải Kết Giới tùy theo chốn đi đến (du phương) hoặc chú vào nước sạch hoặc chú vào tro sạch, đều chú 7 biến. Ở ngay trú xứ dùng ta bụm lấy tro. Trước tiên rưới văi ngay thân ḿnh, sau đó hướng về 4 phương 4 góc như Pháp tán rải.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị các chúng Quỷ ác, Vơng Mị Tà gây hại hoặc gây rối. Lấy cành Thạch lựu với cành Dương liễu, âm thầm tụng chú này rồi đánh nhẹ vào người bệnh th́ không có bệnh nào không khỏi. Chú rằng:
“Nam mô Tát bà bột đà, đạt ma, tăng kỳ tỳ-gia. Nam mô A lợi gia bà lô cát đế nhiếp phạt la tả, bồ đề tát đa bà tả. Nam mô Bạt chiết la bà ni tả, bồ đề tát đá bà tả.
Đát điệt tha: Đồ tỉ, đồ tỉ ca gia – Đồ tỷ sa la xà bà la ni, Cấp bá ha”
Ä NAMO SARVA BUDDHA, DHRAMA, SANƠGHEBHYAHÏ
NAMAHÏ ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA
NAMAHÏ VAJRA PÀNÏ̀YA BODHISATVÀYA
TADYATHÀ: DHUPE DHUPE KÀYA – DHUPE PRAJVALANÏI - SVÀHÀ
Chú Ấn này hay giáng phục các Ngoại đạo Tà kiến. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ngày 3 thời: Sáng sớm, giờ Ngọ, sập tối. Mỗi thời tụng 1 biến, liền cùng với mọi thứ cúng dường 10 ức chư Phật không có sai khác, vĩnh viễn chẳng thọ thân nữ, sau khi chết xa ĺa hẳn Tam đồ (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh) liền được văng sinh về cơi Phật A Di Đà. Đức Như Lai trao tay, quán đỉnh “Ngươi đừng có có sợ hăi, đến sinh vào nước của Ta th́ thân này chẳng bị chết đột ngột, chẳng bị Quỷ thần đựơc dịp thuận tiện hăm hại”.
°Ấn thứ 14: Bồ Tát Phá Đại Thiên Thế Giới Diệt Tội Ấn
Đứng thẳng, hướng tay trái về phía trước giương cánh tay, hướng về phía trước bung mở thẳng 5 ngón. Tiếp theo, tay phải: co ngón cái vào trong ḷng bàn tay, nắm 4 ngón c̣n lại thành quyền để trên lỗ tay trái, nên tụng Thân Chú, đưa ngón trỏ qua lại.
Ấn này kết riêng 3 thời, 1 thời tụng 7 biến, hay diệt 5 tội nghịch, 4 tội nặng. Đối với tất cả chúng sinh khởi tâm Từ BI liền hay thiêu đốt gốc rễ của tất cả tội, sau khi thân này diệt liền được gặp Phật. Ở cơi Phật ấy làm Chuyển Luân Thành Vương, lại được Đà La Ni tên là “Vô Lượng Vô Tận Tạng”, lại được Tam Muội tên là “Trí Đẳng”, lại được 28 loại tướng tốt của Thân. Thân này chẳng bị bệnh về mắt, lưỡi, tai, mũi … cho đến tất cả bệnh tật trong thân thảy hay diệt trừ. Nếu có tội nghiệp lúc trước cũng được tiêu diệt.
Nếu gặp Trời hạn hán thời lấy Ô Ma Tử ḥa với cỏ có hạt nhỏ, hạt mè, mỡ làm thành viên, chú 108 biến ném vào trong nước liền được trời mưa. Nếu mưa quá nhiều, lấy lúa gạo đốt ra tro, lấy hạt Cà Độc Dược (Mạn Tinh Tử), mỡ ḥa làm viên, chú 108 biến ném vào trong nước th́ mưa liền ngưng.
° Ấn thứ 15: Bồ Tát Giáng Phục Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Ma Oán Ấn
Đem 5 ngón tay cài chéo nhau, bên trái đè bên phải nắm chặt thành quyền rồi để dính trên đỉnh đầu. Tụng Thân chú liền được giáng phục.
Nếu tác Pháp này, hướng về trước tháp Xá Lợi 29 ngày đêm lấy Bạch Đàn Hương làm bột xoa tô đất tạo Mạn Trà La. Trong đó rải mọi thứ hoa, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tay bưng ḷ hương thiêu đốt Trầm thủy Hương. Ngồi hướng mặt về phía Đông, chú 1.008 biến. Đây là công năng tối sơ.
Lại lấy hạt cải, mè đen trộn lẫn nghiền thành bụi. Dùng 3 ngón tay nhúm lấy chút ít, chú vào 1 biến rồi quang vào trong lửa. Như vậy 7 ngày mỗi ngày 108 biến. Sau đó việc làm thảy đều thành tựu.
° Ấn thứ 16: Bồ Tát Quảng Đại Vô Úy Ấn
Đứng thẳng, 2 chân song song nhau. Trước tiên, đem tay phải nâng đầu cùi trỏ tay trái. Tay trái cũng vậy.
Ở trước tháp Xá Lợi, tụng Thân chú 108 biến liền được Vô Úy Thí nơi chúng sinh.
Lại lấy Hồi hương, hạt cải trắng, Xương Bồ, Xả đa bà lị. Đem nhóm vật này ném vào trong lửa thiêu đốt. Lúc đốt trong lửa nên ở trước tượng Phật hoặc ở nơi thanh tịnh tụng chú 32 biến, dùng hương hoa cúng dường th́ Chú Pháp thảy đều thành tựu, bao nhiêu việc đă làm thảy đều được quả.
Nếu chú khác không ứng nghiệm. Dùng Chú này chú vào cũng đều thành tựu.
Nếu muốn cầu mộng, tụng Chú này và tác Ấn rồi ấn lên mắt, liền tùy theo chỗ muốn thấy đều được nh́n thấy trong mộng.
Nếu người không có phước, cầu ǵ cũng không được. Một ngày tụng 3 biến Chú, măn 7 ngày th́ hết thảy sự mong cầu đề thành tựu tất cả.
Bấy giờ, Bồ Tát ở Sa Kiệt La Long Cung Hải Hội nói Pháp, nh́n thấy các chúng Rồng chịu khổ năo lớn. V́ thương các chúng Rồng nên cứu độ chúng sinh bị khổ năo đều được xa ĺa các khổ, không có oán hại.
Khi ấy, Long Nữ dâng 1 viên ngọc quư, giá trị bằng thế giới Ta Bà. V́ cầu Pháp nên nói rằng: “Hăy v́ con mà rộng nói về cách xa ĺa các khổ nạn”.
Lúc đó, Thủy Tinh Bồ Tát v́ muốn lợi ích hộ tŕ Chú này nên nói chú là:
° Ấn thứ 17: Thủy Tinh Bồ Tát Hộ tŕ Thiên Nhăn Ấn Chú
“Tỳ ma lê, ma ha tỳ ma lê, úc ha lê, ma ha úc ha lê, hưu ma lê, ma ha hưu ma lê, tát ha lê chỉ lê đệ, cấp bà ha”
Ä VIMALE MAHÀ VIMALE – UD-ÀRI MAHÀ UD-ÀRI – UD-BALE MAHÀ UD0BALE – SAHARI KIRTTI – SVÀHÀ
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ở tại nơi đi đến (Du phương) thọ tŕ Thiên nhăn Thiên Tư Bồ Tát Pháp này, ta sẽ thường tùy hộ vệ cho đến các quyến thuộc của Ma cũng không dám gây năo loạn.
Nếu có người bị nạn cấp bách, nước khác xâm lấn, trộm cướp, nghịc loạn. Nên dùng chỉ ngũ sắc kết gút, tụng chú 21 biến,1 lần chú 1 lần thắt gút rồi đeo ở cánh tay trái. Lại đem ngón vô danh, ngón giữa, ngón trỏ của tay phải nắm quyền, đè quyền trên móng ngón cái, giương ngón út, chỉ về phương có giặc, tụng Chú 7 biến th́ giặc đều lui tan chẳng dám làm hại.
Bấy giờ, Bồ Tát ở trong núi Tuyết nói Pháp, quán thấy nhân dân trong nước Dạ Xoa La Sát chỉ ăn máu thịt của chúng sinh, không có Tâm lành. Bồ Tát v́ muốn lợi ích nên dùng phương tiện giáo hóa, vận sức thần thông đi đến nước đó, hiện thân Thiên Nhăn Thiên Tư Giáng Phục Ma, bày sự thành tựu, kết Mẫu Đà La Ni Ấn. Lúc đó Vua nước La Sát đi đến cầu xin đảnh lễ Ta, Ta dùng Ấn Thành tựu ấn cho liền được Đạo Vô Thượng.
° Ấn thứ 18: Bồ Tát Thành Tựu Ấn
Đứng thẳng, 2 chân song song nhau, chắp tay để ở ngang trái tim, đem ngón út cùng cài chéo nhau, bên trái đè bên phải, tụng Thân Chú 21 biến th́ mọi thứ đều được thành tựu. Nếu cầu cho chúng sinh đang bị khổ năo trong 6 nẻo, nên dùng Luân Ấn. Đem 10 ngón tay đều vịn nhau, mở cổ tay, mở bên trong ḷng bàn tay. Liền mở 10 ngón tay cách nhau chừng 1 thốn. Tức là Bồ Tát ở trong 6 nẻo Luân hồi, cứu độ các nạn khổ. Dùng Ấn này chuyển hồi thảy đều được ĺa khổ.
° Ấn thứ 19: Bồ Tát Thành Chính Đẳng Giác Ấn
Ngồi Kiết già. Trước tiên duỗi 5 ngón tay trái ngửa ḷng bàn tay đặt trên đầu gối trái. Lại duỗi 5 ngón tay phải, úp bàn tay đè trên đầu gối phải. Ấn này đồng với Pháp Diệt Tận Ấn.Chư Phât Quá khứ, Vị Lai, Hiện tại đều đồng với Ấn này được Phật Bồ Đề Ấn hay trừ tất cả nghiệp chướng. Nếu tọa Thiền mà các Pháp chẳng hiện tiền, nên 7 ngày 7 đêm ở chốn A Luyện Nhă, tụng Đà La Ni này và Ấn Pháp này. Chí tâm niệm Phật, ngày đêm 6 thời sám hối liền được các Pháp hiện tiền và đạt được phước nhiều vô lượng vô biên chẳng thể tính đếm.
° Ấn thứ 20: Bồ Tát Hô Triệu Tam Thập Tam Thiên Ấn
Trước tiên đem 4 ngón của tay trái nắm quyền, lại dùng tay phải nắm ngón cái trái cũng như nắm quyền khiến cho ngón cái trái ở trong hổ khẩu của tay phải và ló đầu ngón. Đưa ngón trỏ phải qua lại. Chú là:
“ÁN – Câu trí, Câu trí, Câu gia lợi, già lợi, già lợi, ǵ la lệ, Tô-bà ha”
Ä OMÏ – KUTÏ̀ KUTÏ KUNƠJALI JR̀ JR̀ JARJAYA – SVÀHÀ’
Đà La Ni Ấn Chú này chẳng thể luận bàn. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện lúc muốn nằm ngủ, tụng chú này 108 biến th́ điều ước nguyện trong tâm đều được thấy biết trong giấc mộng.
Nếu có thể ngày ngày tụng Chú này cũng hay diệt tất cả tội, phát tâm bồ Đề. Người đó đêm tối nằm mộng, dần dần tăng rộng đều được tốt lành cho đến mộng thấy Đức Như Lai ở dưới cây Bồ Đề thọ kư cho thành Đạo, cho đến chư Thiên Thích Phạm thường đến thị vệ.
° Ấn thứ 21: Bồ Tát Hộ Triệu Thiên Long Bát Bộ Quỷ Thần Ấn
Đứng thẳng, 2 chân song song nhau. Trước tiên co ngón cái trái vào trong ḷng bàn tay, 4 ngón c̣n lại nắm quyền để dính trên trái tim. Tiếp theo, tay phải cũng vậy, đem tay phải để cạnh lỗ tai phải, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là:
“Nam mô Ni càn đà – Nam mô A lợi xà ba đà, Cấp-bà ha – Nam mô A lợi xà la, cấp-bà ha – yên hế di hế, cấp bà ha”
Ä NAMO NIKANÏTÏHA
NAMO ALI JAVÀDI – SVÀHÀ
NAMO ALI JARA SVÀHÀ
EHYEHI SVÀHÀ
Ấn Chú này. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện thọ tŕ đọc tụng sẽ biết Túc Mệnh 7 đời, rắn độc chẳng thể cắn gây thương, thuốc độc tự nhiên trừ dao gậy chẳng thể hại, Vua cũng chẳng có thể giận, trọn kiếp chẳng thọ khổ Địa ngục.
Nếu tụng Chú này thời 28 Bộ Quỷ Thần đều đến ngồi bên cạnh người Tŕ chú, nghe tụng Chú.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị dính Quỷ Mị. Dùng chỉ trắng làm sợi dây chú, 1 lần chú 1 lần thắt gút, như vậy 49 gút rồi cột dưới cổ họng người bệnh th́ bệnh đó liền trừ.
Nếu trong nước có tai dịch lưu hành, người trong nước chết rất nhiều. Nên lấy hoa sen dưới ao vườn của nhà vua, 108 cây, cứ 1 cây hoa đều chú 1 biến rồi ném vào trong lửa cho đến hoa sen th́ tai nạn liền trừ.
° Ấn thứ 22: Bồ Tát Giải Thoát Ấn
Ngồi kiết già. Trước tiên, tay trái đem ngón giữa, ngón cái vịn đầu nhau, ngửa chưởng hướng lên trên bung duỗi 3 ngón c̣n lại rồi đặt trên đầu gối trái. Tiếp dùng tay phải cũng như thế, úp bàn tay trên đầu gối phải. Tụng Thân Chú 21 biến th́ điều ước nguyện thảy đều măn túc, sự khổ năo của các Hữu t́nh thảy đều giải thoát.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện tạo đủ 10 tội ác, 5 tội nghịch nhiều như bụi nhỏ của đất phủ trên cơi Diêm Phù Đề, mỗi một hạt bụi thành 1 kiếp. Người đó gây tội nếu 1.000 tội phải đọa Địa ngục muôn kiếp chịu khổ không có kỳ ra. Kẻ trai lành, người nữ thiện ấy hay ở trước tượng Xá Lợi, ngày 15 của tháng Bạch nguyệt, 1 ngày 1 đêm chẳng ăn, kết Ấn tụng Chú măn 108 biến th́ các tội như trên thảy đều tiêu diệt. Nếu chẳng tiêu diệt thật không hề có chuyện ấy.
° Ấn thứ 23: Bồ Tát Tự Tại Thần Túc Ấn
Đứng thẳng. Trước tiên đem tay trái nắm ngón chân cái trái như nắm quyền. Tiếp, tay phải nắm trên lưng cổ tay trái, tụng Thân Chú 7 biến ắt muốn đi xa ngàn dặm chẳng có ǵ là khó. Tụng Chú đừng để phát ra tiếng.
° Ấn thứ 24: Bồ Tát Thần Biến Tự TaÏi Ấn
Trước tiên, tay trái đem ngón cái vịn trên móng ngón út. Tiếp tay phải cũng như thế. 3 ngón c̣n lại đều bung thẳng, hợp cổ tay dính nhau, đặt ở trên đỉnh đầu, tụng Thân Chú 21 biến đều được du hành tự tại.
° Ấn thứ 25: Thỉnh Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm Vương Ấn Chú
Chắp 2 tay lại, giữa trống rỗng. Hợp cổ tay, đưa 2 ngón trỏ qua lại (Ấn này là Đệ Nhất Căn Bản Khải Thỉnh Ấn). Chú là:
“ÁN – A lỗ lực, đế sái, lộ ca, vĩ xả gia – Tát bà thước đổ-lô, bát-la ma đà na, ca la gia – Hàm phán, Sá ha”
Ä OMÏ – AROLIK TRAILOKA VIJAYA SARVA ‘SATRÙ PRAMADANA KARÀYA HÙMÏ PHATÏ SVÀHÀ
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát nghe Đức Phật nói xong, vui vẻ tin nhận, tác lễ rồi lui ra.
THIÊN NHĂN THIÊN TƯ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
ĐÀ LA NI THẦN CHÚ KINH
QUYỂN HẠ HẾT
|
Quay trở về đầu |
|
|
ngoc anh Hội viên


Đă tham gia: 09 December 2004 Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 6
|
Msg 3 of 7: Đă gửi: 30 December 2004 lúc 5:17am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào bạn !!
Xin cho tôi cau chú hộ thân chơn ngôn đi , câu chú tiêu trừ tai nạn ,Thành thật cám ơn bạn
__________________ Phú quư tại thiên
Sanh tử tại số
|
Quay trở về đầu |
|
|
NgocLinhTu Hội viên

Đă tham gia: 12 July 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 203
|
Msg 4 of 7: Đă gửi: 30 December 2004 lúc 10:31am | Đă lưu IP
|
|
|
2/ TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Namah samanta, Buddhanam, apratihatasa, sananam, tadyatha:
OM KHA KHA, KHAHI, KHAHI, HUM HUM, JVALA JVALA, PRAJVALA PRAJVALA, TISTA TISTA, SITIRI SITIRI, SPHATI SPHATI, SHANTIKA, SRIYE SVAHA.
Âm Hán:
Nam mô tam măn đà, mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẳng nẫm, đát điệt tha:
Án khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát nhập phạ ra, để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí rị, ta phấn tra ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.
Nghĩa:
Hỡi ánh lửa rực rỡ của Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng đă thiêu cháy mọi năng chấp, sở chấp, hăy tỏa sáng rực rỡ khiến cho con được an trú trong sự gia tŕ này nhằm phá tan sự tŕ độn chậm chạp của Nội Chướng và Ngoại Chướng. Đồng thời khiến cho con dứt trừ được mọi tai nạn, thành tựu sự an vui tốt lành.
Xuất Xứ: Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni. Thần chú tiêu trừ các tai nạn, thành tựu việc cát tường. Một trong 4 Đà La Ni thông dụng trong Thiền lâm, cũng là pháp Tức Tai trong Mật giáo. Thần chú này xuất phát từ Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni và Kinh Đại Oai Đức Kim Luân Phật Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu Diệt Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni.
Sửa lại bởi NgocLinhTu : 30 December 2004 lúc 10:32am
|
Quay trở về đầu |
|
|
amduong05 Hội viên


Đă tham gia: 10 December 2004 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 52
|
Msg 5 of 7: Đă gửi: 31 December 2004 lúc 5:57am | Đă lưu IP
|
|
|
Xin chào !!
Cho tôi hỏi nhé :Tôi nghe nói rằng nếu người b́nh thường không phải thầy ...chẳng hạn như phật tử vậy nếu đọc kinh lăng nghiêm , hay kinh kim cang th́ sẽ mất niệm có phải không NLT? tôi là người b́nh thường có thể niệm bài chú của bạn có được không vậy ? Mong chờ hồi đáp của bạn NLT. Cám ơn
__________________ Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
NgocLinhTu Hội viên

Đă tham gia: 12 July 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 203
|
Msg 6 of 7: Đă gửi: 31 December 2004 lúc 8:18am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào amduong05,
Theo như NLT biết th́ thần chú của chư Phật ai cũng có thể tŕ tu.ng. Quan trọng là niềm tin. Có tŕ tụng và sự tin tưởng tất sẽ có hiệu nghiệm.
Mến chúc amduong05 luôn vui vẻ và an lạc
Chúc ít kiến thức nông cạn.
Ngọc Linh Tử
|
Quay trở về đầu |
|
|
may man Hội viên


Đă tham gia: 28 February 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 374
|
Msg 7 of 7: Đă gửi: 09 March 2005 lúc 7:31am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào amduong05,
Mỗi bài Chú đều có sự diệu dụng riêng trong ấy!
ḿnh không phản bác ư kiến của Bác Ngoclinhtu; tuy vậy khuyên Bạn nên tập trung vào một Bài nào thích hợp với sự cần cầu của Bạn! Chẳng hạn cần sự B́nh An th́ tŕ Chú Tiêu Tai Cát Tường, nhưng có sự b́nh an rồi th́ may mắn cũng tự nhiên sẽ tiếp nối đến với Bạn...Đừng quá dàn trải quá rộng, từ bài nầy qua bài khác và cũng đừng nghĩ là bài nầy " linh " hơn bài kia ! Tập trung lực vào một mũi khoan bao giờ cũng hiệu quả hơn là nơi nào cũng khoan một chút xíu rồi dừng lại. Quan trọng là duy tŕ đều đặn như bỏ ống mỗi ngày vậy!
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|