Tác giả |
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 1 of 45: Đă gửi: 10 March 2004 lúc 9:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Bắt đầu từ hôm nay, tôi sẽ giới thiệu với mọi người cuốn sách : HÀNH TR̀NH VỀ PHƯƠNG ĐÔNG hay nó c̣n có một cái tên khác : CÁC LẠT MA HOÁ THÂN kể về cuộc đời của một Lat Ma Tây Tạng. Đây là một cuốn sách mà tôi rất thích nên muốn chia xẻ với mọi người.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 2 of 45: Đă gửi: 10 March 2004 lúc 9:51am | Đă lưu IP
|
|
|
THỜI THƠ ẤU
- A ha! Aha! Đă lên tới bốn tuổi rồi mà không ngồi vững trên lưng ngựa! Mi sẽ không bao giờ trở nên một người hùng! Rồi đây cha mi sẽ nói sao? Vừa nói xong, ông Tzu thẳng tay quất vào mông con ngựa một ngọn roi da, đầu ngọn roi cũng đét luôn cả vào người kỵ mă bất đắc dĩ, và nhổ luôn một băi nước bọt xuống đất một cách khinh bỉ. Những nóc nhọn và mái bầu bịt vàng của điện potala chói sáng dưới ánh mặt trời nóng gắt. Gần bên chúng tôi, hồ sen trong vắt của ngôi Đền Rắn dợn sóng lăn tăn. Đằng xa, trên đường ṃn gồ ghề đá sạn, những khách lữ hành vừa rời khỏi thủ đô Lhassa cố gắng thúc giục những con Yak đi mau hơn, với những tiếng kêu inh ỏi. Từ những đồng cỏ xanh ở kế cận, vọng đến tai tôi những tiếng kèn khổng lồ do những sư săi nhạc công thực tập thổi kèn ở một nơi vắng vẻ. Nhưng tôi không có thời giờ để ngắm nh́n những cảnh vật vẫn từng diễn ra hằng ngày mà tôi đă quen mắt nhàm tai. Công việc của tôi trong hiện tại, ôi, một công việc khó nhọc thay là ngồi vững trên lưng con lừa nhỏ bất kham của tôi. Nhưng con lừa Nakkim lại có những ư nghĩ khác. Nó muốn tách khỏi người kỵ mă tí hon của nó, để có tự do ăn cỏ, nằm lăn trên đất và chơi một ḿnh. Ông Tzu là một ông thầy rất khó chịu. Suốt đời, ông luôn luôn nghiêm khắc và khó tính; trong lúc hiện tại, trong vai tṛ vơ sư quyền thuật và huấn luyện viên kỵ mă cho một đứa trẻ lên bốn tuổi, ông thường tỏ ra bất măn và nổi nóng hơn là kiên nhẫn. Xuất xứ từ vùng Kham, ở miền Đông xứ Tây Tạng, ông được chọn lựa cùng với vài người khác nhờ bởi vóc vạc cao lớn và lực lưỡng. Nhiều người có tác cao hơn hai thước và được tuyển dụng làm những sư săi cảnh binh trong các tu viện. Họ mặc áo dài và độn vai rất cao để cho có vẻ to lớn, lấy lọ bôi mặt để cho có vẻ hung tợn, và sử dụng những cây gậy to và dài để trừng phạt những kẻ bất hảo. Như vậy ông Tzu là một vị sư săi cảnh binh, kiêm chức vơ sư dạy quyền thuật và môn cưỡi ngựa cho một thiếu nhi con nhà quư tộc! Không thể đi đứng được lâu v́ bị tật ở chân, ông ta chỉ di chuyển bằng cách đi ngựa. Năm 1904, quân Anh dưới quyền chỉ huy của đại tá Younghusband, đă xâm lăng xứ Tây Tạng và gây nên nhiều sự tàn phá, thiệt hại. Chắc hẳn là họ nghĩ rằng phương tiện tốt nhất để thu phục được t́nh thân hữu của Tây Tạng là bắn phá nhà cửa, làng mạc và giết hại dân tộc của xứ ấy. Trong cuộc pḥng thủ diệt địch, ông Tzu đă bị đạn bắn vẹt mất một phần xương háng bên trái khi ông chiến đấu ngoài mặt trận. Cha tôi là một trong những viên chức có quyền thế nhất trong Chính phủ. Người thuộc ḍng quư tộc và có thế lực rất mạnh trong việc quốc chính. Cha tôi cao gần tới hai thước, và có một sức mạnh phi thường. Hồi c̣n thanh niên người đă có lần ra sức giơ hẳn một con lừa khỏi mặt đất; người là một trong những người Tây Tạng có thể chiến thắng những thổ dân vùng Kham trong những cuộc so tài về môn đô vật. Xứ Tây Tạng đă trải qua một thời kỳ loạn ly. Năm 1904 khi quân đội Anh xâm lăng lănh thổ Tây Tạng, vị Quốc vương xứ này là đức Đạt Lai Lạt Ma sang tị nạn bên xứ Mông Cổ, giao quyền nhiếp chính lại cho cha tôi và cùng với những viên chức trong nội các trong khi ngài vắng mặt. Năm 1909, ngài trở về nước sau một thời gian sống tại Bắc Kinh. Năm 1910, quân Trung Hoa, được khích lệ tinh thần bởi cuộc xâm lăng thành công trước đây của quân đội Anh, bèn đem quân tấn công thủ đô Lhassa. Một lần nữa đức Đạt Lai Lạt Ma lại lưu vong tị nạn nhưng lần này ngài sang Ấn Độ. Năm 1911, trong cuộc cách mạng Trung Hoa, quân Tàu bị đánh bật ra thủ đô Lhassa, sau khi đă gây nhiều cảnh giết chóc tang thương đối với dân chúng Tây Tạng. Năm 1912, đức Đạt Lai Lạt Ma trở vể thủ đô Tây Tạng. Trong khi ngài vắng mặt, suốt thời kỳ vô cùng khó khăn ở quốc nội, cha tôi đă cùng với các quan chức đồng liêu trong nội có đảm đương trọng trách của Chánh Phủ. Mẹ tôi thường nói rằng trách nhiệm nặng nề đó đă làm cho cha tôi giảm thọ rất nhiều. Một điều chắc chắn là người không có thời giờ săn sóc con cái và người không hề có dịp biểu lộ t́nh phụ tử đậm đà đối với chúng tôi. Dường như tôi có cái khả năng đặc biệt là hay làm cho cha tôi nóng giận nên ông Tzu, bản tính vốn đă khắc nghiệt, lại được cha tôi giao phó trách nhiệm là bắt buộc tôi phải vâng lời tuyệt đối, bằng lời êm dịu hay "Bằng roi vọt nếu cần." Ông Tzu lại coi việc cưỡi ngựa dở của tôi như là một sự sỉ nhục cho vai tṛ huấn luyện viên của ông ta. Ở Tây Tạng, trẻ con trong các gia đ́nh quư tộc tập cưỡi ngựa trước khi tập đi! Làm một người kỵ mă giỏi là một điều tối cần thiết trong một xứ núi non không có phương tiện giao thông, một xứ mà mọi sự di chuyển đều là bằng cách đi bộ hay cưỡi ngựa. Con nhà quư phái tập cưỡi ngựa hằng giờ hằng phút mỗi ngày. Khi họ đă tập luyện tinh nhục đến mức tuyệt luân, họ có thể đứng vững trên yên ngựa đang phi nước đại, và bắn cung hay bắn súng vào các mục tiêu di động. Đôi khi từng đoàn kỵ mă đă tập luyện thuần phục phi nước đại trong những cánh đồng, và trong khi săi ngựa như bay họ đổi ngựa với nhau bằng cách nhảy từ yên ngựa này sang yên ngựa khác. Trong khi đó, năm lên bốn tuổi, tôi lại thấy khó khăn mà ngồi vững trên một yên ngựa. Xứ Tây Tạng là một nước sùng thượng thần quyền. Sự "Tiến bộ" của thế giới bên ngoài không làm cho dân tộc xứ ấy ham thích. Người Tây Tạng chỉ muốn tự do thiền định suy tư và vượt qua những giới hạn của xác thể. Từ lâu, những nhà hiền triết của xứ này vẫn từng biết rằng những tài nguyên phong phú của xứ Tây Tạng khêu gợi ḷng tham của các nước Tây phương và họ biết rằng khi nào người ngoại bang đến xứ này là sẽ không có ḥa b́nh. Nhà tôi ở tại khu Lingkhor, một khu vực sang trọng của thủ đô Lhassa, ở bên đường lộ bao quanh đường phố, và ở dưới bóng mát của điện Potala. Chung quanh Lhassa có ba đường ṿng đồng tâm, con đường ở ṿng ngoài, cũng gọi là đường Ling khor làcon đường quen thuộc của khách hành hương. Cũng như tất cả các ngôi nhà khác ở Lhassa, vào lúc tôi mới sinh, nhà tôi chỉ có hai tầng ở phía day mặt ra đường lộ. Mọi người đều bị tuyệt đối cấm nhặt không được cất nhà nhiều tầng và vượt quá chiều cao đó, v́ không ai được phép từ trên cao nh́n xuống đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng v́ lệnh cấm này thật ra chỉ áp dụng mỗi năm có một lần vào dịp rước lễ hằng năm, nên nhiều người dân Tây Tạng cất trên nóc bằng của nhà họ thêm một tầng nữa bằng cây ván có thể tháo gỡ được dễ dàng, mà họ có thể sử dụng mỗi năm trong mười một tháng. Nhà tôi ở là một ngôi kiến trúc cổ bằng đá, h́nh vuông, xây trên một khu đất rộng và bao bọc xung quanh một cái sân giữa. Năm 1910, trong cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa, nhà tôi bị tàn phá hết một phần, nhất là những vách tường phía trong. Về sau, cha tôi đă cho xây cất lại bốn tầng lầu. V́ những tầng lầu này không day ra ngoài đường cái, tức con đường Ling khor, nên chúng tôi không thể từ trên cao nh́n xuống đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuộc rước lễ hằng năm, thành thử không ai phàn nàn hay phản đối. Cánh cửa lớn trổ ra cái sân giữa rất kiên cố và trở nên xám đen với thời gian. Quân Tàu không chọc thủng nổi cánh cửa dày và chắc nịch này nên chúng đă triệt hạ một góc tường để lọt vào nhà. Từ một văn pḥng đặt ở ngay phía trên cái cửa này, người quản gia để ư quan sát những kẻ ra vào. Người quản gia này có quyền thâu dụng hoặc sa thải những kẻ nô bộc, và chăm lo chu đáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà. Khi những tiếng kèn trong những tu viện đón chào bóng hoàng hôn, đánh dấu một ngày sắp tàn, th́ những kẻ hành khất của thủ đô Lhassa tề tựu đến trước cánh cửa sổ của vị quản gia để nhận lănh những phần ăn của họ trong chiều hôm đó. Theo thủ tục đó, tất cả những nhà danh giá quư tộc bố thí cho kẻ nghèo ở trong vùng của họ ở. Những kẻ tù phạm bị xiềng xích cũng thường đến xin ăn, v́ khám đường rất hiếm và họ đi rảo khắp các nẻo đường để xin của bố thí. Ở Tây Tạng, những kẻ tu phạm không bị khinh khi hay đối xử tàn tệ như những kẻ hạ cấp. Người ra biết rằng phần nhiều trong thành phần của họ có lẽ ở vào t́nh trạng của những người tù phạm kia nếu họ bị bắt quả tang, bởi đó những kẻ phạm pháp ít may mắn hơn được đối xử một cách tương đối dễ chịu. Có hai vị sư săi trú ngụ trong các pḥng ở phía tay mặt gian pḥng của vị quản gia; đó là các vị tư tế có phận sự cầu nguyện Trời Phật gia hộ cho gia đ́nh chúng tôi. Những gia đ́nh quư tộc bậc trung hay bậc thấp hơn chỉ có một vị tư tế trong nhà; cấp đẳng xă hội của gia đ́nh tôi bắt buộc phải có hai vị. Các vị tư tế này không được hỏi ư kiến trước mỗi biến cố hay quyết định quan trọng, và họ có bổn phận cầu nguyện các đấng Thiêng liêng che chở và ban ân huệ cho gia đ́nh chúng tôi. Ba năm một lần, họ lại trở về tu viện của họ, và những sư săi khác đến thay thế. Mỗi chái ở hai bên hông nhà là một đền thờ nhỏ trong đó những ngọn đèn thắp bằng bơ cháy sáng ngày cũng như đêm trên một bàn thờ bằng gỗ chạm. Trên bàn thờ, bảy chén nước Thánh được lau chùi sạch bóng và được thay nước mới nhiều lần trong ngày. Các vị tư tế được ăn uống đầy đủ, họ dùng các thức ăn như người trong gia đ́nh, để cho những lời cầu nguyện của họ được sốt sắng hơn và để cho thần thánh biết rằng họ được biệt đăi. Ở bên trái gian pḥng vị quản gia, là pḥng của vị cố vấn luật pháp, vị này có phận sự xem xét cách giữ ǵn nhà cửa của gia đ́nh tôi cho đúng theo nghi thức của nhà quyền quí. Người Tây Tạng rất tôn trọng luật lệ, và để làm gương cho dân chúng, cha tôi phải xử thế như một công dân gương mẫu. Anh tôi, Paljor, chị tôi, Yasodhara và tôi cùng ở tại phần mới xây cất của ngôi nhà. Paljor không sống được lâu v́ không có đủ sức khỏe để chấp nhận cuộc sống khắc khổ, dành cho mọi đứa trẻ con nhà quư tộc. Anh tôi qua đời trước khi lên bảy tuổi. Khi ấy Yaso lên sáu và tôi mới lên bốn. Tôi vẫn c̣n h́nh dung anh tôi, chỉ c̣n là một cái xác không hồn, ngày mà những Âm Công đến lượm xác anh tôi để làm lễ "điểu táng" tức là chặt từng mảnh quăng cho kên kên ăn theo phong tục bổn xứ. Khi tôi trở thành người con trai kế nghiệp của gia đ́nh, th́ sự giáo dục của tôi được săn sóc chu đáo. Năm tôi lên bốn tuổi, tôi hăy c̣n là một kỵ mă quá dở! Cha tôi vốn dĩ đă là một người rất nghiêm khắc, nay với tư cách là một chức sắc của giáo hội, bèn đặt tôi vào một thứ kỷ luật sắt để làm gương cho sự giáo dục của những đứa trẻ khác. Ở xứ Tây Tạng, một đứa trẻ thuộc giai cấp càng cao th́ sự giáo dục của nó lại càng nghiêm khắc. Và nhà quư tộc đă bắt đầu chủ trương một kỷ luật ít khắc khổ hơn cho sự giáo dục thiếu nhi, nhưng cha tôi không đồng ư, viện lẽ rằng những đứa trẻ nghèo hèn không hy vọng có một đời sống tiện nghi sung sướng hơn trong tương lai, cần phải được đối xử một cách dịu dàng tử tế khi chúng c̣n nhỏ. Trái lại, những đứa trẻ con nhà quư tộc, được thụ hưởng mọi thứ tiện nghi sung sướng khi đến tuổi trưởng thành, nên cần phải được giáo dục trong sự khắc khổ tối đa khi chúng tôi c̣n nhỏ, để nhờ sự kinh nghiệm trong đau khổ mà chúng mới biết thương người về sau này. Đó cũng là quan điểm chính thức của chính phủ Tây Tạng. Chính sách đó rất tai hại đối với những đứa trẻ có thể chất yếu đuối, nhưng c̣n những đứa nào vượt qua được mà không chết th́ sẽ có thể đương đầu với bất cứ một nghịch cảnh nào! Vơ sư Tzu chiếm một gian nhà ở từng dưới gần chỗ cửa vào. Sau khi đă có dịp quan sát đủ mọi hạng người trong nhiều năm với tư cách là một sư săi cảnh binh, ông ta không thể sống ẩn dật lánh đời, v́ cuộc sống đó không thích hợp với nếp sống quen thuộc của ông ta. Gần bên pḥng của ông ta ở, là những chuồng ngựa, trong đó cha tôi nuôi hai chục con ngựa, cùng những loài vật kéo xe khác. Những người giữ ngựa không ưa ông Tzu v́ tính quá sốt sắng của ông ta và thói quen hay xen vào công việc của họ. Khi cha tôi cưỡi ngựa đi đâu, th́ luôn luôn có sáu người kỵ mă vơ trang đi theo hộ vệ. Những người cận vệ này đều mặc đồng phục và ông Tzu luôn luôn kiểm soát chặt chẽ để giữ cho y phục của họ lúc nào cũng được chỉnh tề. V́ một lư do mà tôi không biết rơ, sáu người kỵ mă này có thói quen ngồi trên lưng ngựa sắp thành hàng giờ day lưng vào tường của một lẫm lúa, và phóng ngựa chạy theo khi thấy cha tôi vừa xuất hiện. Tôi nhận thấy rằng nếu tôi nghiêng ḿnh ra ngoài cửa sổ của lẫm lúa, th́ một trong những người kỵ mă lọt vào tầm tay của tôi. Một ngày nọ, nhân lúc không có việc ǵ làm, tôi bèn rón rén đến gần và xỏ một sợi dây gai vào cái đai da nịt lưng của y trong khi y đang kiểm điểm đồ tư trang trước khi lên đường. Kế đó tôi cột chặt cả hai đầu dây và máng một đầu vào một cái móc sắt ở bên trong lẫm lúa. Việc ấy hoàn toàn diễn ra trong âm thầm không ai để ư, giữa lúc mọi người đang mắc bận rộn rối rít. Khi cha tôi vừa xuất hiện, đoàn kỵ mă phóng ngựa chạy theo, trừ ra người thứ sáu mắc phải sợi dây nên bị té ngựa và kêu la ỏm tỏi. Cái đai nịt lưng của y sút ra và trong cơn náo loạn, tôi lén rút lại sợi dây gai và biến mất mà không ai hay biết. Ngày hôm sau, tôi lấy làm khoái trá mà nói với nạn nhân sự đùa nghịch của tôi: "Thế nào, Nê Túc, tôi tưởng chỉ có một ḿnh tôi là cưỡi ngựa dở, c̣n anh cũng vậy sao?" Chương tŕnh học của chúng tôi gồm có Hán văn, chữ Tây Tạng, toán học và khắc bản gỗ. Về việc ấn loát ở Tây Tạng, người ta thường dùng những bản gỗ có khắc chữ, nên việc khắc bản gỗ được coi như một bộ môn rất hữu ích. Lớp học của chúng tôi là một gian pḥng rất rộng có thể chứa độ sáu chục đứa trẻ. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên sàn gạch, trước một cái bàn hay một cái ghế dài, chiều cao độ năm tấc tây và ngồi xoay lưng về phía thầy học để cho chúng tôi không thể biết rằng thầy có nh́n ḿnh hay không. Thầy bắt chúng tôi học một cách rất kham khổ và không để chúng tôi nghỉ ngơi một giây phút nào. Có một phần trong chương tŕnh học mà tôi không bao giờ quên: đó là lập lại những Điều Răn tôn giáo. Chúng tôi phải đọc những Điều Răn này khi vào lớp và lập lại một lần nữa trước khi rời khỏi lớp vào giờ tan học. Đó là: Hăy lấy ân báo ân, lấy đức báo đức Đừng ăn hiếp những kẻ hiền lành Hăy siêng đọc các kinh điển và giáo lư Hăy giúp đỡ kẻ đồng loại Luật pháp khắc khổ đối với kẻ giàu sang Để dạy họ sự thông cảm và sự công bằng Luật pháp khoan hồng đối với kẻ nghèo hèn để an ủi họ Hăy trả dứt nghiệp quả nợ nần càng sớm càng hay Để cho chúng tôi không thể nào quên, những Điều Răn đó được viết trên những tấm bản đóng trên bốn vách tường của lớp học. Tuy nhiên, cuộc đời hằng ngày của chúng tôi không phải hoàn toàn dành cho sự học và sự sống khắc khổ. Chúng tôi cũng lao ḿnh vào những cuộc chơi điền kinh, thể dục một cách hăng say ngoài giờ học. Những môn thể dục này được đặt ra để tạo cho chúng tôi một thể xác cường tráng có thể chịu đựng khí hậu vô cùng gắt gao của xứ Tây Tạng. Ở xứ này, vào lúc giữa trưa mùa hè nhiệt độ lên rất cao và ban đêm có thể xuống thấp dưới không độ. Vào mùa đông, thời tiết c̣n lạnh hơn thế rất nhiều. Bắn cung, một môn thể dục rất tốt để làm nở nang bắp thịt và để tập nhắm một cách chính xác, là bộ môn mà chúng tôi rất thích. Cung nỏ của chúng tôi dùng đều làm bằng gỗ mun nhập cảng từ Ấn Độ; người ta chế tạo những cái ná bằng gỗ bổn xứ. Là Phật tử chân chính, chúng tôi không bao giờ bắn loài thú vật. Để tập bắn cung chúng tôi dùng những cái bia di động, mà những kẻ gia nô núp ở chỗ ẩn khuất cầm dây kéo lên hoặc hạ xuống bất thần mà không cho chúng tôi hay. Phần nhiều những bạn hữu của tôi có thể bắn trúng đích trong khi họ săi ngựa như bay. Về phần tôi, trái lại, tôi không thể ngồi vững trên lưng ngựa được lâu như thế! Một tṛ chơi tiêu khiển khác là đi cà khêu. Chúng tôi dùng hai cây cà khêu, giống như hai cây nạng gỗ nhưng rất dài, có bàn đạp để xỏ hai chân vào đó, và sau khi đă ngụy trang làm những người khổng lồ, chúng tôi thường xáp chiến với nhau trong những cuộc đấu sức dị kỳ, kẻ nào thua là kẻ bị té ngă trước nhất. C̣n những môn thể dục khác nữa là nhảy sào và đá cầu. Nhưng ở Tây Tạng nhất là ở vùng ngoại ô thủ đô Lhassa, cuộc chơi thịnh hành nhất là môn thả diều, mà người ta có thể gọi là môn thể dục của dân tộc. Chúng tôi chỉ có thể chơi diều vào những mùa nhất định. Nhiều năm về trước, người ta nhận thấy rằng thả diều trên những vùng núi cao đă gây nên những trận mưa lũ, khi đó người ta nghĩ rằng có lẽ các vị thần làm mưa đă nổi giận, nên dân chúng chỉ được phép chơi diều vào mùa thu, tức là mùa tạnh ráo ở Tây Tạng. Có những ngày nhất định, người ta giữ im lặng không kêu to ở các miền núi, v́ tiếng vang của họ gây nên một sự chuyển động quá mau của những đám mây mù ẩm thấp từ bên Ấn Độ bay qua, do đó mà có những trận mưa lũ bất ngờ. Ngày đầu mùa thu, một con diều đầu tiên được phóng lên từ nóc điện Potala. Trong vài phút, những con diều khác đủ mọi h́nh thức, lớn nhỏ đủ cỡ và đủ các màu sắc, liền xuất hiện trên nền trời Lhassa, trên đó chúng nó bay lượn nhảy nhót theo chiều gió thổi mạnh. Tôi rất say mê cuộc chơi này và luôn luôn sắp đặt cách nào để con diều của tôi bay lên trong số những con đầu tiên. Mọi đứa trẻ con đều tự tay chúng nó chế tạo những con diều của ḿnh, thường là với một cái sườn bằng tre được bao bọc ở phía ngoài bằng một thứ hàng tơ rất đẹp. Chúng tôi làm diều bằng những vật liệu thứ tốt hảo hạng v́ danh dự của gia đ́nh cũng có liên hệ trong cuộc chơi này. Cái sườn bằng gỗ giống như cái hộp được chế tạo xong, chúng tôi mới gắn vào đó cái đầu, hai cánh và cái đuôi một con rồng có một h́nh dáng dữ tợn. Cuộc tranh đấu bằng diều diễn ra một cách vô cùng sôi nổi trong khi đó, chúng tôi cố gắng hạ những con diều của các địch thủ. Để thực hiện điều đó, chúng tôi gắn những miểng chai trên diều của chúng tôi và ngâm sợi dây diều trong một thứ keo trộn
|
Quay trở về đầu |
|
|
CDMT Hội viên


Đă tham gia: 12 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 3 of 45: Đă gửi: 10 March 2004 lúc 11:28am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào bạn Soida.
Hành tŕnh về phương đông là một cuốn sách rất hay. Nhưng theo như tôi biết cuốn sách mà bạn đang post lên mạng là quyển" Các Lạt ma hoá thân" c̣n " Hành tŕnh về Phương đông" là 1 quyển sách khác. Theo như tôi được biết th́ gồm có 3 quyển.
1. Hành tŕnh về Phương đông
2. Con đường mây trắng(Đường mây qua xứ tuyết)
3. Các Lạt ma hoá thân.
Vài ḍng chia sẻ
---------------------
Tâm tĩnh là đủ
|
Quay trở về đầu |
|
|
binhbinh Hội viên


Đă tham gia: 08 November 2002 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 239
|
Msg 4 of 45: Đă gửi: 10 March 2004 lúc 12:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
B́nh B́nh cũng nghĩ như bạn CDMT
Thân,
__________________ T́nh thương là vũ khí mạnh nhất để chiến thắng kẻ thù
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 5 of 45: Đă gửi: 10 March 2004 lúc 10:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn anh/chị CDMT đă inform, bây giờ Tôi mới biết điều này. Sở dĩ quyển sách tôi đang có trong tay, người ta không chú thích ǵ cả, nên tôi chỉ biết có mỗi một quyển sau cùng. Nếu anh/chị CDMT có thể post lên được cho mọi người đọc th́ hay quá
THÂN
Sửa lại bởi soida : 10 March 2004 lúc 10:43pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
CDMT Hội viên


Đă tham gia: 12 June 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 6 of 45: Đă gửi: 10 March 2004 lúc 11:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào bạn soida
Quyển " Hành trình về phương đông" bạn có thể đến trang web
http://www.tamlinh.net
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 7 of 45: Đă gửi: 11 March 2004 lúc 9:45am | Đă lưu IP
|
|
|
Rất cám ơn anh CDMT
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 8 of 45: Đă gửi: 11 March 2004 lúc 9:46am | Đă lưu IP
|
|
|
với bột thủy tinh nghiền nát; sau đó, chúng tôi chỉ cần phóng diều lên để cắt đứt sợi dây của các địch thủ và bắt lấy con diều của họ. Đôi khi, lúc trời tối chúng tôi lén thả diều lên trời sau khi đă cột chặt những cái đèn nhỏ thắp bằng bơ vào bên trong cái sườn gỗ và ở chỗ đầu rồng. Đôi mắt rồng liền phóng ra những tia lửa đỏ và ḿnh rồng lóng lánh muôn màu ngh́n sắc liền nổi bật trên không trung giữa nền trời u ám của đêm khuya. Chúng tôi đặc biệt thích cuộc chơi này khi có những đoàn thương buôn lớn chở hàng trên lưng những con Yak từ vùng Lhodzong đến thủ đô Lhassa. Với tuổi ngây thơ chúng tôi nghĩ rằng người thương buôn "Dốt nát" ở các vùng quê hẻo lánh chắc chưa bao giờ nghe nói đến những phát minh diễm ảo tân ḱ như những con diều của chúng tôi. Vậy nên chúng tôi quyết định gây cho họ một cơn sợ sệt kinh hoàng một phen nên thân. Một trong những phát minh khác nữa của chúng tôi là gắn trong ḿnh con diều ba loại vỏ ốc khác nhau, và đặt cách nào cho gió thổi vào làm các vỏ ốc phát ra một tiếng hú kinh hồn. Khi thả diều lên trời, con rồng lửa uốn khúc muôn màu phát ra những tiếng rú rùng rợn trong đêm khuya, và chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ gây cho các tay thương buôn đến từ các tỉnh lẻ xa xôi một cơn sợ sệt mà họ sẽ nhớ đến suốt đời không quên. Tây Tạng không phải là xứ có thể dung nạp những người có thể chất yếu đuối. Thủ đô Lhassa ở vào một vùng cao nguyên bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, có một thời tiết rất chênh lệch giữa cực nóng và cực lạnh. Những vùng cao hơn lại có một khí hậu gắt gao hơn nữa. Những người có thể chất yếu đuối có thể làm liên lụy đến sự sống của kẻ khác. Chính v́ bởi lẽ đó, chứ không phải do sự tàn ác, mà sự giáo dục thiếu nhi thật là vô cùng khắc khổ như đă kể trên. Ở những vùng sơn cước, người ta đem ngâm những đứa trẻ sơ sinh dưới suối nước lạnh và xem chúng có đủ sức chịu đựng dẻo dai hay không, để có quyền sống như mọi người. Tôi thường thấy những người đi diễu hành đến một ngọn suối, ở một vùng núi non chiều cao trên sáu ngàn thước. Đến bờ suối, đoàn người dừng lại, một bà lăo bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay, rồi cả gia đ́nh gồm cha, mẹ và thân quyến đứa trẻ ngồi vây chung quanh bà. Khi người ta lột hết áo quần đứa trẻ, bà lăo bèn ngâm thân ḿnh đứa bé sơ sinh dưới nước suối, chỉ c̣n thấy cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Dưới nước suối lạnh buốt, thân ḿnh đứa trẻ trở nên đỏ au, rồi xanh rờn, những tiếng kêu của nó đă im bặt, nó không c̣n kêu la phản đối nữa. Nó có vẻ chết lịm, nhưng bà lăo đă từng kinh nghiệm nhiều về việc này bèn rút nó lên khỏi mặt nước, lau chùi khô ráo và mặc quần áo lại cho đứa bé. Nó sống lại chăng? Đó là các thần linh đă quyết định như thế. Nếu nó chết, th́ đó lại càng hay v́ nó khỏi phải chịu những sự khổ đau về sau này của cuộc đời trần thế! Người ta không thể làm ǵ khác hơn dưới một khí hậu gắt gao như ở Tây Tạng. Không nên có những kẻ bệnh hoạn, yếu đuối ở một xứ mà mọi phương tiện cứu trợ y tế đều thiếu thốn: Thà để vài đứa bé sơ sinh chết c̣n hay hơn. Khi anh tôi qua đời, th́ tôi cần phải xúc tiến việc một cách ráo riết hơn. Thật vậy, vào năm lên bảy tuổi, tôi đă phải bắt đầu chuẩn bị tương lai. Tôi sẽ đi theo con đường nào và chọn lựa nghành hoạt động nào? Điều đó sẽ do các nhà chiêm tinh quyết định. Ở Tây Tạng, bất cứ việc ǵ lớn nhỏ, từ việc mua một con Yak đến việc chọn một nghề nghiệp, đều do sự quyết đoán của các nhà chiêm tinh. Trước ngày sinh nhật năm tôi lên bảy, mẹ tôi mở một cuộc tiếp tân khổng lồ, trong dịp đó những quan khách gồm các nhà quư tộc và các chức viên cao cấp trong chính phủ được mời tham dự để nghe những lời tiên tri của các nhà chiêm tinh. Mẹ tôi là một mệnh phụ đảm đang, với một vóc vạc phương phi, một gương mặt tṛn và tóc đen huyền. Những phụ nữ Tây Tạng bới đầu theo một kiểu rất mỹ thuật và cài trên mái tóc một thứ lược bằng gỗ. Những lược gỗ này thường sơn mài màu đỏ thắm, có cẩn những hột đá quí, cẩm thạch hoặc san hô, là những mỹ phẩm làm rất khéo léo. Cài trên một đầu tóc đen huyền có sức dầu bóng loáng, những lược sơn mài đó tạo nến một vẻ đẹp rất thanh lịch. Những áo dài Tây Tạng có những màu sắc rất vui mắt mà nổi bật nhất là màu đỏ, màu lục và màu vàng. Thường ngày các bà nội trợ đeo phía trước ngực một mảnh vải trơn với một cái vệt ngang khác màu, nhưng màu sắc được chọn cho tiệp với nhau một cách mỹ thuật. Họ đeo những chiếc bông tai mà kích thước lớn nhỏ tùy nơi giai cấp của họ trong xă hội. Mẹ tôi, xuất thân từ một gia đ́nh quyền quí, đeo những chiếc bông tai dài trên muời lăm phân tây. Người Tây Tạng chủ trương một sự b́nh đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ. Nhưng về vấn đề coi sóc nội trợ gia đ́nh, mẹ tôi không phải chỉ bằng ḷng với sự b́nh đẳng. Với một ư chí độc tài và một quyền hành tuyệt đối, mẹ tôi ngự trị trong gia đ́nh như một nhà vua, mẹ tôi biết mẹ tôi muốn ǵ và khi muốn ǵ mẹ tôi phải được cái đó. Trong sự nhộn nhịp xôn xao nhân dịp chuẩn bị cuộc tiếp tân, mẹ tôi mới thật sự là có đất dụng vơ. Nào là tổ chức, phải ra lệnh, soạn thảo kế hoạch để "Ăn đứt" những kẻ láng giềng. Mẹ tôi tỏ ra rất thông thạo v́ trong nhiều chuyến du hành theo cha tôi sang Ấn Độ, Bắc Kinh và Thượng Hải, mẹ tôi đă thu thập được hằng khối những sáng kiến nước ngoài. Khi ngày tiếp tân đă định, những sư săi như thư kí mới viết thiệp mời trên một loại giấy dày, làm bằng tay, chỉ được dùng trong những dịp giao tế tối quan trọng. Mỗi thiệp mời đo độ ba mươi phân bề ngang trên sáu mươi phân bề dài và có đóng triện son của người gia trưởng. Mẹ tôi cũng đóng triện son riêng của ḿnh vào đó v́ người thuộc về ḍng dơi quư phái. Ngoài ra lại c̣n một cái triện chung cho cả gia đ́nh, tức là có tất cả ba cái triện son đóng trên thiệp mời, làm cho nó trở nên một bản văn kiện thật là nghiêm trọng. Nghĩ rằng tôi là nguyên nhân cho tất cả những lễ nghi trịnh trọng đó làm cho tôi rùng ḿnh. Tôi không biết rằng tầm quan trọng của tôi thật ra chỉ là phụ thuộc so với một tập quán xă hội. Nếu người ta nói cho tôi biết rằng cuộc tiếp tân long trọng này sẽ đem nhiều vinh dự cho cha mẹ tôi, th́ tôi sẽ không hiểu ǵ cả. Bởi vậy, tôi vẫn nơm nớp lo sợ. Những sứ giả đem thơ được đặc biệt thu dụng trong dịp này để đem các thiệp mời đến các quan khách. Mỗi người đều cưỡi một con tuấn mă và cầm nơi tay một cái gậy ngắn có khe hở ở một đầu để xếp cái thiệp mời vào đó, ở ngoài bao có in những phù hiệu chánh thức của gia đ́nh chúng tôi. Khi các sứ giả đă sẵn sàng lên đường th́ trong sân nhà chúng tôi diễn ra một cảnh tượng náo động khôn tả. Các gia nô kêu gọi nhau đến khan cả cổ họng, ngựa hí vang tai, những con chó ngao đen lớn sủa ầm lên như điên. Sau một chầu rượu bia cuối cùng, những chàng kỵ mă đặt mạnh những ly cốc xuống bàn, trong khi đó những cánh cửa cổng nặng nề đă mở ra với những tiếng động ầm ĩ và đoàn kỵ mă vừa phóng ngựa phi nước đại vừa hét vang tai nghe thật rùng rợn. Nếu họ mang những bức thơ tín viết tay th́ đồng thời các sứ giả cũng chuyển đạt luôn một thông điệp truyền khẩu, mà nội dung có thể hoàn toàn khác hẳn. Thời xưa, những tay côn đồ, cường đạo thường phục kích các sứ giả đem thơ ở giữa đường rồi ngụy trang và dùng những bức thông điệp đó để tấn công một ngôi nhà không pḥng thủ hay một đoàn thương buôn chẳng hạn. Từ đó, người ta thường cố ư viết những thơ tín giả để gài bẫy và dụ bọn cướp đến những chỗ có phục binh và tiêu diệt chúng. Thủ tục cổ truyền về việc gởi đi một lượt hai thông điệp, một viết tay và một truyền khẩu, là một cái di sản của thời quá khứ. Dầu cho ở thời đại này, người ta cũng có khi gởi đi hai thông điệp song đôi như thế; trong trường hợp đó th́ chỉ có thông điệp truyền khẩu mới có giá trị. Trong nhà tôi thật là náo nhiệt tưng bừng! Những vách và trần nhà được phết lên một lớp sơn mới, những sàn gỗ được đánh bóng trơn tru đến nỗi đi phải coi chừng kẻo trượt ngă. Những bàn thờ được lau chùi và sơn phết lại sạch bóng. Một số lớn những ngọn đèn mới thắp bằng bơ được đem ra sử dụng; có những ngọn đèn bằng vàng và những ngọn đèn khác bằng bạc, nhưng cả thảy đều lau chùi bóng láng đến nỗi không thể phân biệt được nữa. Mẹ tôi và người quản gia không ngớt chạy tới chạy lui trong nhà, chỉ trích, sửa đổi chỗ này, dọn dẹp sắp đặt chỗ kia và ra lệnh cho những kẻ gia nô làm việc không hở tay. Cha mẹ tôi có trên năm chục người nô bộc giúp việc nhà và có một số khác được thâu dụng thêm trong việc tiếp tân. Không một người nào là nhàn rỗi và tất cả đều làm việc một cách hăng hái. Sân nhà cũng được quét dọn, lau chùi cho đến khi những tảng đá chiếu sáng ngời như mới vừa đem ở động đá về. Để làm cho sân nhà có vẻ lộng lẫy, những chỗ trống ở giữa các phiến đá cũng được tô thêm một lớp màu. Khi mọi việc đều xong xuôi, mẹ tôi tụ tập tất cả gia nhân và ra lệnh cho họ hăy mặc đồng phục tươm tất, chỉnh tề. Trong nhà bếp, có sự hoạt động ráo riết ngày đêm để chuẩn bị đầy đủ các đồ cao lương mỹ vị đăi khách. Xứ Tây Tạng là một cái tủ lạnh thiên nhiên, đồ vật thực một khi đă nấu nướng xong, có thể để dành rất lâu mà không hư hoại, v́ thời tiết lạnh và khô ráo. Dẫu cho khi tiết trời nóng bức, bầu không khí khô ráo cũng giữ cho các thức ăn không hư. Nhờ đó, thịt có thể để dành suốt năm mà vẫn c̣n tươi và lúa ḿ có thể để dành suốt nhiều thế kỷ. V́ người Phật tử giữ giới bất sát sinh, nên người ta chỉ ăn thịt những con thú v́ rủi ro bị té chết trong khe núi, hoặc chết bởi các tai nạn khác. Nhà bếp của gia đ́nh tôi có trữ sẵn nhiều loại thịt này. Ở Tây Tạng cũng có những người làm nghề đồ tể, bán thịt nhưng những gia đ́nh Phật tử chính thống không giao tiếp với hạng người này, v́ họ thuộc về một giai cấp hạ tiện, "Bất khả tiếp xúc". Mẹ tôi quyết định tiếp tân theo một lối vừa khác thường vừa linh đ́nh trọng thể, và đăi khách một món đặc biệt là món mứt hoa rhododendron. Vài tuần lễ trước, những kẻ gia nô nhà tôi đă cưỡi ngựa đến tận triền núi Tuyết Sơn là nơi có những loại hoa đẹp nhất. Ở Tây Tạng, hoa rhododendron mọc rất lớn và có rất nhiều loại thuộc đủ các màu sắc và hương thơm. Người ta chọn những hoa chưa nở hẳn và đem về rửa sạch một cách rất cẩn thận. Thật vậy, nếu một cái hoa hơi nát một chút là làm cho mứt bị hỏng. Kế đó, mỗi hoa được để ngâm trong một cái bồn thủy tinh lớn chứa đầy nước và mật ong, rồi đậy thật chặt để cho kín gió. Mỗi ngày và liên tiếp trong nhiều tuần, bồn hoa được đem phơi nắng và xoay trở từng kỳ hạn để cho tất cả các phần của hoa đều được hứng ánh nắng cần thiết. Hoa trong bồn nở lớn từ từ và thấm nhuần chất nước pha mật ong. Có người thích đem phơi gió vài ngày trước khi ăn để cho hoa được khô và hơi gịn, mà vẫn không mất hương vị hay sắc tươi của nó. Họ cũng rắc đường lên các cánh hoa để cho nó có vẻ đượm tuyết giống như thiên nhiên. Tất cả những phí tổn để làm món mứt hoa này làm cho cha tôi nhăn nhó, cằn nhằn. Người nói: "Với cái giá tiền để mua những hoa đẹp này, chúng ta có thể mua sáu con Yak mẹ cùng với một bầy Yak con." Mẹ tôi đáp với một giọng đầy nữ tính: - "Ông đừng ngớ ngẩn. Cuộc tiếp tân của chúng ta nhất định phải thành công, và dầu sao chăng nữa, những phí tổn này là phần việc nội trợ của tôi". Món vi cá nhập cảng từ Trung Hoa là một món mỹ vị khác, mà người ta dùng để nấu canh. Có người nói rằng món canh vi cá là món tuyệt đỉnh của nghệ thuật làm bếp. Riêng tôi, tôi nhận thấy món ấy rất dở, và thật là một cực h́nh khi tôi bắt buộc phải ăn món vi cá. Cá mập được chở đến xứ Tây Tạng trong một trạng thái mà người ta không c̣n nhận ra nó được nữa! Ta có thể nói một cách ôn ḥa là nó hơi kém tươi", điều này có người lại cho rằng làm cho vi cá càng trở nên ngon hơn. Món măng tre non, cũng nhập cảng từ Trung Hoa, là món ăn rất ngon: đó là món tôi thích nhất. Có nhiều cách để nấu măng, nhưng tôi thích nhất là ăn sống với một chút muối. Tôi luôn luôn chọn những búp măng vàng và xanh để ăn riêng, và bởi có nhiều khúc măng để trong bếp bị ngắt đứt đầu trước khi đem lên soong chảo. Người đầu bếp có vẻ nghi ngờ tôi, nhưng y không có bằng cớ. Thật đáng tiếc, v́ chính y cũng thích ăn búp măng sống! Ở Tây Tạng, nấu bếp là công việc của đàn ông; phụ nữ cũng làm bếp nhưng họ rất vụng về và không chịu cải tiến. Đàn ông có sáng kiến hơn và chịu khó hơn, bởi vậy họ nấu ăn rất thiện nghệ. Riêng về môn quét dọn và ngồi lê đôi mách, th́ phụ nữ chiếm giải quán quân, và lẽ tất nhiên họ cũng rất giỏi về vài môn khác nữa. Nhưng nhất định là không, nếu nói về việc làm món tsampa. Món tsampa là món ăn căn bản của người Tây Tạng. Nhiều người Tây Tạng quanh năm chầy tháng chỉ sống bằng món tsampa và trà đến suốt đời. Món tsampa làm bằng lúa mạch nha sấy khô cho đến khi nó trở thành gịn và có một màu vàng sậm. Những hột lúa mạch nha khi đó mới được giă, và tán thành bột, bột này lại được nướng lên lần nữa và đặt trong một cái chén, rồi người ta đổ vô đó trà nóng trộn với bơ con Yak, một loại ḅ lông dài. Kế đó người ta trộn cho đều để cho nó đông đặc lại thành một thứ bánh và cho thêm muối, chất hàn the và bơ con Yak tùy sở thích từng người. Thứ bánh đó gọi là tsampa, có thể cuốn tṛn lại và cắt thành từng khoanh, rồi dọn ra để ăn. Món tsampa là món ăn thông thường của hạng người b́nh dân, nó có đủ chất bổ béo để cho người dân Tây Tạng có thể sống dưới mọi khí hậu và trong mọi hoàn cảnh. Một nhóm gia nô làm món tsampa, một nhóm khác làm bơ theo một phương pháp đặc biệt của dân bổn xứ. Những cái bao lớn bằng da trừu, bề mặt có lông trộn vào trong, bề trái lộn ngược ra ngoài, được dùng làm đồ dụng cụ đánh sữa. Người ta đổ trong các bao da đó đầy sữa con Yak hay sữa dê. Để tránh khỏi bị hao hớt, phần trên các bao da đó được túm và xếp lại rồi may lại thật chắc. Kế đó, những bao da đựng sữa mới được nhồi thật mạnh cho đến khi sữa trở thành chất bơ. Để đánh sữa bằng phương pháp này, người ta dùng một chỗ có nhô lên những tảng đá bề cao chừng ba mươi phân. Sau khi đă đổ đầy sữa vô bao, người ta mới buông những bao đó cho rơi xuống các mô đá, việc này gọi là "đánh sữa". Chừng mười kẻ gia nô làm công việc này trong nhiều giờ liên tiếp. Họ vừa hít một hơi thở vào vừa giơ các bao da lên cao, và buông các bao da cho rơi xuống những mô đá với một tiếng động êm dịu
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 9 of 45: Đă gửi: 13 March 2004 lúc 10:07am | Đă lưu IP
|
|
|
Đôi khi một bao da đă quá cũ hoặc do bởi người đánh sữa quá vụng về, th́nh ĺnh nổ bung ra. Tôi c̣n nhớ một gia nhân nhà tôi rất khỏe mạnh lực lưỡng, y thường hay khoe khoang sức vóc của ḿnh. Y làm việc nhanh gấp đôi kẻ khác, và sự cố gắng làm gân cổ y nổi vồng lên. Một ngày nọ, có người nói với y: "Anh Timon, chắc anh già rồi, v́ bây giờ anh làm việc không nhanh bằng khi trước." Hét lên một tiếng giận dữ, Timon bèn nắm lấy phía trên một bao da, giơ lên cao với hai cánh tay khỏe mạnh để buông cho nó rơi xuống. Nhưng sức mạnh của y đă phản ngược lại y: Y c̣n nắm cái miệng bao da th́ phần dưới đă lở xuống và rớt xuống những mô đá. Một cây cột bơ hăy c̣n hơi lỏng vọt ra và văng trúng ngay vào giữa mặt Timon, y "Lănh đủ" tất cả vào miệng, vào mắt, vào mũi, vào tai, vào tóc. Năm chục đến sáu chục lít bơ chảy tuôn xuống dọc theo thân ḿnh y và bao phủ y bằng một chất nhờn màu vàng. Nghe tiếng động, mẹ tôi hối hả chạy vào. Đó là lần đầu tiên trong đời mà tôi thấy mẹ tôi đứng sững nh́n trong im lặng. Có lẽ mẹ tôi tức giận v́ thấy những bấy nhiêu bơ bị hủy hoại chăng? Hay mẹ tôi đang lo ngại cho thằng ngốc đang bị ngẹt thở? Dù rằng thế nào, mẹ tôi bèn nắm lấy cái bao da rách bụng và đập một cái lên đầu y. Chàng Timon vô phước bèn trượt ngă xuống đất nằm sóng sượt trên một cái ao... bơ! Những gia nô vụng về như Timon có thể làm hủy hoại mất nhiều bơ. Chỉ hơi cẩu thả một chút trong khi buông tay cho cái bao rơi xuống là những sợi lông liền tách rời ra khỏi da và lẫn lộn với chất sữa. Lượm lấy hai hay hai chục sợi lông trong chất bơ đă làm xong, là một điều rất thông thường, nhưng nếu lại thấy có cả chùm lông trong đó th́ ấy là một điều rất dở. Chất bơ bị hư hoại được cất riêng một nơi để dùng đốt đèn, hoặc để bố thí cho những kẻ ăn mày, họ sẽ nấu lại và lọc sạch bằng một miếng giẻ cũ để dùng ăn lần. Những thơ trả lời cho thiệp mời của chúng tôi không bao lâu đă đến. Những người kỵ mă phóng nước đại đến nơi, tay vung lên những cây gậy nhỏ có chẻ một đầu có đựng những thơ tín. Khi đó người quản gia mới bước ra để nghinh đón sứ giả của các nhà quư tộc. Sau khi rút bức thông điệp từ trong gậy ra, người sứ giả cũng thốt lên một thông điệp truyền khẩu, thậm chí không kịp lấy lại hơi thở. Kế đó, y sụm xuống trên hai đầu gối và để rơi ḿnh xuống đất trong một giàn cảnh rất khéo léo, dường nhưng để tỏ cho mọi người thấy y đă xả thân không quản công lao khó nhọc để làm tṛn bổn phận và để đến nhà gia đ́nh tôi kịp giờ! Trong những dịp đó, những gia nô nhà tôi thường vây chung quanh y và nói: "Tội nghiệp thằng nhỏ!" Y đến thật là mau! Thật là một kỳ công hăn hữu! Chắc hẳn là y chạy mau đến muốn đứng tim. Thật là cao quư thay, một tinh thần phục vụ hăng say như thế!" Một ngày nọ tôi, đă ngứa miệng xen vào câu chuyện và nói: "Ấy không! Y không có chạy mau đến muốn đứng tim! Tôi vừa thấy y ngồi nghỉ mệt ở đầu làng gần đây. Chắc y nghỉ lấy sức để chạy một đoạn đường cuối cùng!" Sự kín đáo bắt buộc tôi phải bỏ qua không nói đến cái cảnh tượng vụng về lúng túng tiếp theo đó. Sau cùng, ngày đại nhật đă đến, cái ngày mà tôi vẫn e ngại biết bao, v́ người ta quyết định cuộc đời tương lai của tôi mà không cần hỏi ư kiến của tôi. Những tia nắng đầu tiên của mặt trời b́nh minh vừa ló dạng từ đằng sau các ngọn núi xa ở tận chân trời, th́ một người gia nô bước vào pḥng tôi: "Cậu chưa ngủ dậy ư, cậu Lâm Bá? Hay là cậu giả vờ ngủ? Đă bảy giờ rồi, và chúng tôi có nhiều việc phải làm. Thôi, cậu hăy thức dậy đi!". Tôi bỏ mền ra và ngồi dậy. Ngày đó là ngày mà con đường tương lai sẽ rộng mở trước mắt tôi. Ở Tây Tạng, trẻ con được gọi bằng tên của nó do cha mẹ đặt cho khi c̣n sống trong gia đ́nh. Nhưng khi một đứa trẻ bước vào tu viện, nó nhận được một tên khác, đó là pháp danh của nó. Đó là trường hợp của tôi chăng? Phải đợi những giờ sắp tới đây mới biết được. Tôi đă lên bảy tuổi và muốn trở nên một người chèo đ̣ để thả thuyền lênh đênh trên sông TsangPo, cách đó độ sáu chục cây số. Nhưng hăy khoan, để c̣n xem lại. Tôi có thật sự muốn điều đó chăng? Dầu sao, những người chèo đ̣ đều thuộc giai cấp dưới, v́ những đ̣ của họ đều làm bằng da con Yak đóng trên những cái khuôn bằng gỗ. Tôi, một anh lái đ̣? Tôi, một người thuộc gia cấp hạ tiện? Không. Không phải vậy. Tôi muốn trở nên một nhà chuyên nghiệp về môn thả diều. Ừ, phải đấy, thả diều trên không trung, nhảy tự do như không khí, c̣n hơn là ngồi trong một chiếc đ̣ căng bằng da thú, làm hạ nhân cách và trôi theo ḍng nước xoáy mạnh nguy hiểm. Một chuyên viên thả diều, đó là điều mà tôi muốn làm, và tôi sẽ chế tạo những con diều khổng lồ với những cái đầu to lớn và đôi mắt sáng rực như lửa. Nhưng hôm nay, những giáo sĩ chiêm tinh sẽ có quyền quyết định. Có lẽ tôi đă chờ đợi quá lâu: Nay th́ đă quá trễ để nhảy qua cửa sổ và chạy trốn. Cha tôi chắc sẽ cho người chạy theo bắt tôi trở lại. Dầu sao, tôi là con nhà thế gia vọng tộc và tôi phải tuân theo truyền thống. Biết đâu các nhà chiêm tinh chẳng tiên tri rằng tôi sinh ra đời để làm một chuyên viên thả diều? Tôi chỉ có thể đợi chờ và hy vọng
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 10 of 45: Đă gửi: 14 March 2004 lúc 9:22am | Đă lưu IP
|
|
|
LỜI TIÊN TRI
- Vân Kỳ, anh bứng hết tóc của tôi! Dừng tay lại, không th́ đầu tôi sẽ sói như một ông săi. - Hăy để yên, Lâm Bá. Cái bím tóc của cậu phải được thắt cho ngay và thoa bơ cho láng bóng, nếu không th́ bà lớn sẽ trừng phạt tôi. - Hăy nhẹ tay một chút, Vân Kỳ, anh vặn cổ tôi đau quá! - Không sao đâu, tôi phải làm gấp mới được. Tôi ngồi dưới đất và một kẻ nô lệ phũ phàng với hai bàn tay chuối mắn, vặn cái bím tóc tôi như người ta vặn cái "Maniven" quay máy xe hơi! Sau cùng cái bím tóc tôi trở nên cứng đơ như một con yak bị rét cóng và sáng ngời như ánh trăng rằm trên mặt hồ. Mẹ tôi bận rộn quay cuồng như cơn gió lốc; mẹ di chuyển trong nhà mau lẹ dường như người có phép phân thân ở nhiều chỗ cùng một lúc. Có những chỉ thị vào giờ chót, những sự chuẩn bị cuối cùng, và rất nhiều lời lăng xăng dường như một mệnh phụ bốn mươi cái xuân. Cha tôi trốn cảnh náo nhiệt ồn ào đó bằng cách bế môn và rút lui vào pḥng riêng của ḿnh. Mẹ tôi quyết định đưa chúng tôi đến JoKang, ngôi đền lớn ở thủ đô Lhassa; đó hẳn là v́ mẹ tôi muốn cho cuộc lễ tiếp tân được diễn ra trong một bầu không khí tôn giáo. Vào lúc mười giờ sáng, một tiếng cồng với ba âm điệu khác nhau điểm giờ tựu họp. Chúng tôi tất cả đều cưỡi ngựa, cha tôi, mẹ tôi, Yaso và tôi cùng vài người trong thân quyến sửa soạn lên đường. Chúng tôi noi theo con đường LingKhor, và đi ṿng quanh dưới chân điện Potala, một ṭa cung điện lâu đài nguy nga tráng lệ của vị Đạt Lai Lạt Ma, độ một trăm ba mươi thước bề cao và bốn trăm thước chiều dài. Sau khi đi qua làng Shô, và đi ngựa mất nửa giờ trên đồng bằng Kyi Chu, chúng tôi đă đến trước cửa đền. Chung quanh đền là những ngôi nhà trọ, cửa tiệm và chuồng ngựa đợi khách hàng trong những đám người hành hương. Từ ngày được dựng lên trước đây mười ba thế kỷ, ngôi đền Jo Kang vẫn luôn luôn tiếp đón khách hành hương. Ngôi đền cổ đă biểu lộ những nét tàn phá của thời gian. Các viên tảng đá dưới nền đă bày ra những đường nứt nẻ sâu đến nhiều phân tây do những bước chân dẫm lên của hàng ngh́n tín đồ. Những tượng thần bằng vàng của nền tôn giáo Tây Tạng được xếp thành hàng dài dọc theo các vách tường. Những màn lưới sắt dầy và kiên cố giữ ǵn những pho tượng này đối với những tín đồ mà ḷng tham có thể mạnh hơn là ḷng tôn sùng. Những tượng thần lớn nhất phần nhiều đều tràn ngập đến quá nửa thân ḿnh với hàng đống ngọc quư và châu báo mà những người sùng tín cầu xin ân huệ thiêng liêng đă đặt lên đó. Trên những chân đèn bằng vàng khối, những ngọn bạch lạp được thấp thường xuyên, tỏa ra ánh sáng không bao giờ tắt đă từ mười ba thế kỷ. Từ những góc âm u của ngôi đền vọng đến tay chúng tôi những tiếng chuông ngân, tiếng cồng và tiếng tù và thổi vang tai. Chúng tôi noi theo con đường ṿng trước chánh điện theo như truyền thống bắt buộc, và sau khi đă lễ bái xong, chúng tôi bước lên trên nóc bằng của ngôi đền. Nơi đây chỉ có một số ít người có đặc quyền được lên. Cha tôi, với tư cách Bảo Thế của Giáo Hội, luôn luôn có mặt ở tại đây mỗi khi đến viếng ngôi đền này. Tiện đây, tôi xin nói sơ lược về nền chính trị của xứ Tây Tạng. Đứng đầu quốc gia và Giáo Hội là đức Đạt Lai Lạt Ma, tục gọi là Phật Sống Tây Tạng. Ngài vừa là vị nguyên thủ quốc gia cầm quyền chính trị, vừa là nhà lănh đạo tôn giáo, vừa là vị Thẩm phán tối cao cầm cán cân công lư của dân Tây Tạng. Mọi người dân bất cứ sang hèn đều có thể thỉnh cầu đến ngài. Nếu một sự khiếu nại hay đơn thỉnh nguyện có lư do chính đáng, hoặc trong trường hợp có sự bất công oan ức, vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ xét xử để thỏa măn các nguyện vọng và san bằng mọi nỗi bất công. Thật không phải là quá đáng mà nói rằng tất cả mọi người, không trừ một ai, đều yêu mến và kính trọng ngài. Ngài là vị quốc vương có quyền hành tuyệt đối. Ngài sử dụng uy quyền thế lực của ngài v́ hạnh phúc của dân chúng, chứ không bao giờ v́ những mục đích ích kỷ. Ngài đă tiên đoán sự xâm lăng của quân Trung Cộng từ nhiều năm về trước. Ngài cũng biết rằng nền tự do của xứ Tây Tạng tạm thời sẽ trải qua một thời kỳ xuống dốc. V́ bởi những lư do đó mà một số ít người trong giới tu sĩ được một sự thụ huấn đặc biệt, để cho những kiến thức Huyền Môn mà các nhà đạo sĩ thời xưa đă góp nhặt từ nhiều thế kỷ sẽ khỏi phải bị mai một và đắm ch́m trong quên lăng. Dưới quyền lănh đạo của đức Đạt Lai Lạt Ma có hai Hội Đồng: Một là Hội Đồng Tôn Giáo, gồm có bốn vị cao tăng ở cấp đẳng Lạt Ma. Những vị này đều chịu trách nhiệm trước đấng Thậm Thâm (một danh hiệu khác của đức Đạt Lai Lạt Ma. Người ta thường gọi ngài là đức Thái Tuế, đấng Thậm Thâm Le Très Profond, đấng Khôn Lường, I’Inappréciable.) về những vấn đề liên quan đến các tổ chức tu viện Lạt Ma Giáo (lamaseries) và đạo viên trong xứ. Tất cả những vấn đề tâm linh và tôn giáo đều phải qua tay các vị ấy phát lạc. Kế đó là Hội Đồng Nội Các, gồm có bốn vị Tổng Trưởng trong số đó có ba vị thuộc thành phần dân chính và một vị là tu sĩ. Các vị này nắm quyền cai trị toàn xứ và đảm trách việc ḥa hợp Quốc Gia vào Giáo Hội thành một khối duy nhất. Hai viên chức chính phủ mà người ta có thể gọi là các vị Thủ Tướng, làm "Ủy viên liên lạc" với hai Hội Đồng trên, và đệ tŕnh những ư kiến của hai Hội Đồng này lên cho đức Đạt Lai Lạt Ma. Hai vị ấy đóng một vai tṛ quan trọng trong những phiên họp rất hiếm của Quốc Hội, gồm năm mươi nghị viện đại diện cho các gia đ́nh quư tộc và những tu viện lớn nhất của thủ đô Lhassa. Quốc Hội chỉ nhóm trong những trường hợp rất khẩn cấp, như hồi năm 1904 khi đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong tị nạn sang Mông Cổ trước sự xâm lăng của quân đội Anh. Về điểm này, tưởng cần giải thích rơ rằng sự lưu vong tị nạn của đức Đạt Lai Lạt Ma không có nghĩa là Ngài chạy trốn. Chiến tranh ở xứ Tây Tạng có thể ví như một cuộc chơi cờ tướng: Bên nào ông tướng bị bắt th́ bên đó thua. Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị Quốc vương của xứ Tây Tạng. Không có ngài, th́ mọi sự chiến đấu đều trở nên vô ích: Ngài phải được ẩn trú an toàn để bảo vệ sự hợp nhất của xứ sở. Số nghị sĩ Quốc Hội có thể lên đến bốn trăm người khi nào những thân hào nhân sĩ ở các tỉnh tham dự đông đủ các phiên nhóm. Với thời gian qua, đức Đạt Lai Lạt Ma càng gia tăng quyền hành của ngài và không cần đến sự giúp đỡ ư kiến của những Hội Đồng hay của Quốc Hội nữa. Xứ Tây Tạng chưa bao giờ có được một sự cai trị anh minh và sáng suốt như thế. Từ trên nóc đền nh́n ra xa, là một phong cảnh vô cùng ngoạn mục. Nằm về phía đông là vùng đồng bằng Lhassa xanh tươi, rải rác có những cụm rừng nhỏ với những lùm nhỏ uốn khúc, phản chiếu ánh nắng mặt trời như những con rắn bạc, trước khi chảy vào sông Tsang Pô ở cách đó sáu mươi cây số. Ở phía bắc và nam, những dăy núi cao dựng lên chơm chởm như thành quách bao bọc chung quanh các vùng thung lũng và cao nguyên Tây Tạng, làm cho dân tộc xứ này sống biệt lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Nhiều tu viện Lạt Ma Giáo được dựng lên trên các triền núi. Ở trên những ngọn núi cao hơn, có những đạo viện nhỏ nhô lên một cách nguy hiểm trên những sườn núi cheo leo bên bờ vực thẳm. Về phía tây, hai ngọn núi song đôi của điện Potala và tu viện Chakpori nhô lên ở đằng xa. Giữa hai ngọn núi này, cánh cửa Tây Môn chiếu sáng ngời trong ánh sáng b́nh minh c̣n sương mờ lạnh lẽo. Màu đỏ sậm của nền trời càng nổi bật lên một cách dị thường, tương phản với màu tuyết trắng tinh bao phủ các dăy núi nhô lên ở phía chân trời. Trên đầu chúng tôi, những đám mây lợt lướt nhẹ trong không gian. Trong thành phố, ở gần bên, toà Thị Sảnh day lưng vào mặt bắc của ngôi đền. Sở Ngân Khố ở sát bên cạnh, cùng với những gian hàng, cửa tiệm và chợ búa mà người ta có thể mua đủ mọi thứ, thượng vàng hạ cám. Cách đó không xa, ở về phía đông, là một tu viện của nữ giới và vùng cư trú của Âm Công. Những khách hành hương đă tấp nập trước cửa đền, một trong những nơi thánh địa lớn nhất của Phật Giáo. Chúng tôi nghe tiếng nói chuyện không ngớt và những tiếng động ồn ào của các tín đồ hành hương đến từ những vùng xa xôi với những đồ lễ vật mà họ đem cúng dâng với hy vọng được Ơn Trên ban ân huệ. Có người đem theo những con thú mà họ đă mua lại ở ḷ sát sinh với những số tiền nhỏ nhoi khiêm tốn của họ. Cứu sống một sinh vật dầu đó là một con thú hay một người, là một nghiệp tốt rất lớn về phương diện tâm linh. Trong khi chúng tôi nh́n xem những cảnh tượng cổ điển đó, chúng tôi nghe những tiếng kinh kệ ngân nga của các sư săi, có những giọng thâm trầm của các vị sư già chen lẫn với những giọng thanh, nhẹ của những chú tiểu sơ cơ. Tiếng trống và những tiếng kèn cũng trỗi dậy vang tai. Những sư săi không bận rộn công việc, chạy tới lui lăng xăng không ngớt. Vài vị mặc áo màu vàng, những vị khác mặc màu tím, nhưng phần đông mặc áo tràng màu đỏ lợt của những "Sư săi thường", màu hoàn kim và màu đỏ sậm dành cho các sư săi trong điện Potala. Những chú tiểu sơ cơ và các sư săi cảnh binh mặc áo già sậm cũng qua lại lăng xăng. Hầu hết đều có một điểm chung: Áo của họ dầu cũ hay mới, đều là áo cà sa vá từng miếng như của Đức Phật ngày xưa. Những sư săi có phận sự trong điện Potala mặc một chiếc áo vàng ngắn, không tay, ở bên ngoài áo dài của họ. Màu hoàng kim được coi như một màu linh thiêng ở Tây Tạng (nó không bao giờ phai, bởi nó là một màu tinh khiết), và đó là màu chính thức của đức Đạt Lai Lạt Ma. Những sư săi hay các vị Lạt Ma cao cấp hầu cận bên ngoài, có quyền mặc áo ngắn màu vàng phủ ngoài áo của họ. Từ trên nóc đền Jokang chúng tôi đi về phía điện Potala th́ thấy có nhiều vị áo vàng đi qua lại. Chúng tôi ngước mắt nh́n lên th́ thấy những ngọn cờ tôn giáo phất phơ trước gió và những mái bầu của ngôi đền chiếu lóng lánh dưới ánh mặt trời. Nền trời đỏ thắm trông tuyệt đẹp với những làn mây nhẹ và dài, coi dường như một bức tranh vẽ. Chúng tôi vừa đang ngắm cảnh mà cảm thấy say sưa ngây ngất, th́ mẹ tôi đă gián đoạn cái giây phút huyền diệu đó mà nói: - Thôi ta đi kẻo mất thời giờ. Ḿnh phải về xem chừng kẻo bọn gia nô nó làm hỏng việc. Chúng tôi bèn lên ngựa trở về nhà theo con đường Lingkhor, mỗi bước chân ngựa vang trên mặt đường lộ càng đưa tôi đến gần, điều mà tôi gọi là một cuộc "thử thách", nhưng mẹ tôi th́ coi như là ngày Đại Nhật của ḿnh. Về đến nhà, mẹ tôi xem qua tất cả mọi việc một lần cuối cùng, và chúng tôi liền ăn uống một bữa no bụng để chuẩn bị chờ những ǵ sắp đến. Thật vậy, chúng tôi biết rằng trong những dịp như thế, những quan khách được thết đăi ăn uống no say, c̣n những người nhà th́ phải lo tiếp đăi mà thôi, chớ không được ăn uống ǵ cả. Tiếng nhạc trống vang rền báo hiệu các sư săi nhạc công đă đến, họ liền được đưa vào khu vườn phía sau nhà. Họ có mang theo những kèn loa, kèn ống, trống, tù và, và đeo chụp chơa trên cổ. Họ vừa bước vào khu vườn, vừa nói chuyện huyên thuyên và gọi đem rượu bia uống cho thấm giọng để lấy hứng. Những tiếng rít chát chúa và tiếng thổi điếc tai của những kèn loa, chiếm trọn mất nửa giờ: Các sư săi đang "Lên dẩy" và thử lại những nhạc khí của họ. Vị quan khách đầu tiên đă đến, với một đoàn tùy tùng cưỡi ngựa theo hầu và cầm những ngọn cờ hiệu bay phất phơ trước gió, gây nên những tiếng động ồn ào ngoài sân. Những cổng sắt mở toang và các gia nô nhà tôi đứng sắp hàng hai bên cửa vào để nghinh tiếp những người mới đến. Vị quản gia cùng với hai người phụ tá đứng kèm hai bên, mỗi người cầm nơi tay hàng tá những khăn choàng cổ bằng lụa mà người Tây Tạng dùng để dâng cho khách như một cách chào hỏi theo phong tục bổn sứ. Có tất cả tám loại khăn choàng để dâng cho các vị khách tùy chức vị hay cấp bậc cao thấp, và người ta phải biết dâng cái nào cho thích hợp kẻo mang lỗi bất kính. Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ ban cho và thu nhận những khăn choàng thượng hảo hạng. Những khăn choàng này tên gọi là Khata, và đây là nghi thức để dâng biếu: Nếu người gia trưởng có cấp bậc ngang hàng với khách, th́ y đứng thụt lại ở phía sau, và đưa hai tay thẳng tới trước. Người khách cũng làm y như vậy. Kế đó, người gia trưởng vái chào và đặt cái khăn choàng lên hai cườm tay của vị quư khách, người này cũng đáp lễ, rồi gỡ hai cườm tay ra, cầm lấy khăn choàng trở qua lộn lại nơi tay để tỏ ra ḿnh chấp nhận món quà biếu, và giao cái khăn cho một người hầu cận. Nếu người biếu khăn là người ở đẳng cấp rất thấp, th́ y qú xuống, le lưỡi ra chào (nghi thức này tương đương với cử chỉ ngả nón chào của người phương Tây) và đặt cái khăn choàng dưới chân khách, kế đó khách đáp lễ bằng cách đặt cái khăn choàng riêng của ḿnh ṿng quanh cổ người gia trưởng. Ở Tây Tạng, mọi quà biếu đều có kèm theo một cái khăn choàng thích nghi, hoặc những thơ khen tặng hay văn bằng tưởng lệ cũng vậy. Những khăn choàng của chính phủ màu vàng, c̣n những khăn choàng khác màu trắng. Nếu đức Đạt Lai Lạt Ma muốn ban một danh dự lớn lao cho một người nào, ngài đặt nơi cổ người ấy một khăn choàng cột bằng một sợi chỉ tơ đỏ có ba ṿng. Và nếu trong khi đó ngài đưa hai bàn tay ra, ḷng bàn tay lật ngửa lên trời, th́ đó là một cái danh dự rất đặc biệt! Thật vậy, người Tây Tạng tin chắc rằng quá khứ và tương lai đều có ghi trên những đường chỉ trong ḷng bàn tay.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 11 of 45: Đă gửi: 21 March 2004 lúc 9:45am | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Đạt Lai Lạt Ma, bằng cách lật ngửa hai bàn tay của Ngài, tỏ ḷng ưu ái và thiện cảm đậm đà nhất. Về sau, tôi được Ngài ban cho cái danh dự đó hai lần. Đây nói về người quản gia đứng tiếp đón khách trước cửa với hai người phụ tá ở hai bên. Y chào khách và nhận khăn choàng của khách rồi đưa qua cho người phụ tá đứng bên tả. Trong khi đó người phụ tá đứng bên hữu đưa cho y một khăn choàng thích nghi mà y đặt lên cườm tay hay lên cổ của người khách, tùy theo cấp bậc tương xứng. Tất cả những khăn choàng này đều được sử dụng lại rất nhiều lần. Vị quản gia và hai người phụ tá mỗi lúc càng thêm bận rộn, v́ quan khách đến mỗi lúc càng đông. Dầu cho họ đến từ những trang trại láng giềng, từ thành phố Lhassa, hay từ những vùng ngoại ô, những đoàn kỵ mă tùy tùng của họ luôn luôn đến bằng Lingkhor, rồi đi vào con đường nhỏ thuộc địa phận của gia tộc chúng tôi, ở dưới bóng mát của điện Potala. Những bà mệnh phụ phu nhân phải đi bằng ngựa trong nhiều giờ, dùng một cái mặt nạ bằng da để che mặt cho khỏi bị những ngọn gió lốc có quến đầy cát bụi. Trên các mặt nạ ấy thường có phác họa những nét chân dung của vị chủ nhân. Khi đến nơi, các bà mới lột mặt nạ ra và đồng thời cởi luôn cái áo tơi bằng da con Yak. Những bức chân dung ấy luôn luôn làm tôi thích thú: Các bà càng già và xấu, th́ những bức chân dung vẽ trên mặt nạ lại càng trẻ và đẹp! Một sự hoạt động tấp nập diễn ra trong nhà tôi. Những gia nô không ngớt đem ra những tấm nệm cho khách ngồi. Ở Tây Tạng người ta không ngồi trên ghế, mà ngồi trên tấm nệm độ một thước vuông và dày độ hai mươi phân. Ban đêm, người ta ghép nhiều tấm nệm lại để làm chỗ ngủ, và chúng tôi thấy nằm ngồi trên nệm thoải mái dễ chịu hơn là ngồi trên ghế bành hay nằm trên giường. Khi khách vừa đến, họ được mời dùng trà pha bơ; và kế đó họ được đưa vào pḥng ăn. Tại đây, đủ các thức ăn đă dọn sẵn và khách có thể ăn uống tùy thích trong khi chờ đợi cuộc tiếp tân thật sự bắt đầu. Bốn mươi vị phu nhân thuộc gia đ́nh quyền quư đă đến cùng với những vị quư bà tâm phúc của họ. Trong khi mẹ tôi đang tiếp đón một nhóm các bà mệnh phụ này, th́ một nhóm các bà khác đi dạo khắp nơi trong nhà, ngắm nh́n bàn ghế và thưởng thức trị giá các đồ vật trang hoàng. Thật chẳng khác nào một cuộc "Xâm lăng" vĩ đại: Các bà khách có mặt ở khắp nơi, đủ các h́nh dạng, đủ các màu sắc, đủ mọi hạng tuổi. Có vài bà xuất hiện ở những chỗ bất ngờ nhất và không chút do dự, cất tiếng hỏi bọn gia nô giá tiền của món đồ này, hay giá trị của món vật khác. Nói tóm lại, các bà xử sự như tất cả mọi người đàn bà khác trên thế giới. Đó cũng là sự thường t́nh. Chị Yaso của tôi đủng đỉnh trong một bộ lễ phục mới toanh và bới đầu theo kiểu mới nhất, hay ít ra đó là chị nghĩ như vậy. Tôi th́ cho rằng kiểu tóc của chị thật lố lăng, nhưng tôi luôn luôn vẫn có óc chỉ trích những việc làm của nữ giới. Dầu sao, có điều chắc chắn là ngày hôm đó tôi thấy các bà có vẻ tự do xâm lăng một cách độc đáo. Để làm cho cuộc tiếp tân càng sôi nổi đ́nh đám hơn nữa, những cô gái kiểu mẫu cũng có mặt trong hàng quan khách. Ở Tây Tạng, một vị phu nhân thuộc ḍng sang phải có rất nhiều y phục sang trọng và đồ nữ trang quư giá. Những bộ y phục này cần phải được triển lăm vào những dịp giao tế công cộng, nhưng v́ người ta không thể làm như vậy nếu không thay đổi y phục thường xuyên, nên những cô gái được huấn luyện đặc biệt, gọi là "Chủng nữ", được dùng làm kiểu mẫu. Bởi đó, những cô chủng nữ này khoác vào những bộ y phục và đeo đồ nữ trang của mẹ tôi, và vừa ngồi len lỏi trong đám quan khách vừa uống hàng tá đếm không hết những chén trà pha bơ, trước khi đi thay bộ y phục khác và đeo những đồ nữ trang khác. Lẫn lộn trong hàng quan khách, các cô ấy cũng giúp đỡ mẹ tôi trong vai tṛ nữ chủ nhân. Trong một ngày, các cô "Chủng nữ" đó có thể thay đổi y phục và nữ trang đến năm sáu lần. Các quư khách bên nam giới th́ chú ư nhiều hơn đến những tṛ chơi tiêu khiển ở trong vườn. Người ta đă cho một đoàn tṛ xiếc đến để giúp vui. Ba người trong đoàn này cầm dựng đứng một cây sào cao năm thước, trên chót hết có một người nữa chổng ngược đầu và giữ thăng bằng trên đỉnh cây sào. Khi đó, cây sào bị giật ra th́nh ĺnh và người làm tṛ xiếc nhẹ ḿnh rơi xuống đất trên hai chân như một con mèo. Những đứa trẻ con nh́n xem tṛ xiếc này bèn rủ nhau ra một chỗ vắng để bắt chước. Chúng t́m được một cây sào cao độ hai, ba thước và cầm dựng đứng lên. Một đứa trẻ gan ĺ nhất trèo lên. Nhưng ơ ḱa, khi y thử chổng ngược đầu lên cây sào, y mất thăng bằng và rơi xuống như một tảng đá lên đầu những đứa khác. Nhưng may thay, những đứa này có một cái sọ khá cứng, và ngoài những cục u to bằng những quả trứng vịt ra, không ai bị thương nặng. Mẹ tôi xuất hiện trong khu vườn, người hướng dẫn một nhóm các bà phu nhân muốn xem các tṛ biểu diễn và nghe nhạc. Điều này không khó, v́ các sư săi nhạc công đă có đủ thời giờ để sưởi ấm ḷng bằng những chầu rượu bia dồi dào thỏa thích. Mẹ tôi ăn mặc một cách long trọng đặc biệt: Áo kỵ mă "Bolero" ngắn màu vàng tím, trên một cái "Jupe" bằng nỉ màu đỏ sậm dài đến gót chân. Những đôi ủng rất cao bằng nỉ trắng tinh với những gót đỏ thắm và những sợi dây ủng rất đẹp làm nổi bật màu y phục một cách rất mỹ thuật. Bên trong chiếc áo kỵ mă, mẹ tôi mặc một áo lót bằng lụa đỏ. Phủ bên ngoài là một cái khăn choàng bằng lụa thêu vắt ngang trước ngực từ vai bên mặt qua hông bên trái và cột lại ở bên hông với một cái khoen bằng vàng khối. Cái khăn choàng này tḥng xuống đến tận lưng, có màu đỏ thắm ở phía trên dây lưng, và chuyển qua màu vàng lợt đến màu vàng nghệ rất đậm. Mẹ tôi đeo trên cổ ba gói bùa cột bằng một sợi dây vàng, mà mẹ tội không lúc nào rời. Ba gói bùa này là những món quà cưới của mẹ tội, hai gói là quà tặng của gia đ́nh, và gói thứ ba, một danh dự đặc biệt, là quà tặng của đức Đạt Lai Lạt Ma. Mẹ tôi cũng đeo đồ nữ trang rất quư giá, v́ ở Tây Tạng những đồ nữ trang của một vị phu nhân nhiều hay ít tùy ở cấp đẳng của họ trong xă hội. Bởi đó, một người chồng phải tặng đồ vàng ngọc cho vợ mỗi khi được thăng quan tiến chức. Phải mất nhiều ngày để làm đầu tóc của mẹ tôi, với tất cả một trăm lẻ tám lọn tóc. Số một trăm lẻ tám là một số linh thiêng, và những phụ nữ có nhiều tóc để có thể kết thành bấy nhiêu lọn rất được hâm mộ. Đầu tóc của mẹ tôi chia làm hai phần có một đường chẻ ở giữa, được kết lại bởi một cái măo bằng cây đặt trên đỉnh đầu như một cái nón. Măo này sơn màu đỏ thắm, có nhận kim cương chiếu lóng lánh, cẩn vàng và ngọc thạch. Mẹ tôi đeo một đôi hoa tai bằng san hô rất lớn và nặng đến nỗi để cho trái tai khỏi bị quá căng và có thể đứt ra, người phải giữ nó lại bằng một sợi chỉ đỏ quấn chung quanh vành tai, và đầu sợi chỉ tḥng xuống gần đụng tới dây lưng. Tôi ngắm nh́n mẹ tôi mà phải nh́n nhận rằng mẹ tôi rất đẹp. Tuy nhiên, với đôi bông tai nặng như thế, mẹ tôi làm sao quay đầu lại phía sau? Những quan khách đi bách bộ dạo chơi, vừa ngắm cảnh trong các khu vườn vừa trằm trồ khen ngợi. Những vị khách ngồi riêng từng nhóm để trao đổi những câu chuyện vặt. Nhất là các bà th́ không để lở mất một phút nào mà không nói chuyện của người láng giềng... Nhưng thật sự, tất cả đều đợi chờ đến phần chính của buổi tiếp tân, kỳ dư các mục khác trong chương tŕnh chỉ là một sự chuẩn bị tinh thần để đưa họ đến cái giờ phút quan trọng khi các nhà đạo sĩ chiêm tinh nói tiên tri về bước đường tương lai của tôi. Cuộc đời tôi sau này sẽ tùy thuộc nơi quyết định của họ. Ngày đă sắp tàn, khi ánh tà dương kéo dài những bóng đen của mọi vật và cây cỏ trên mặt đất, các quan khách đều tỏ ra uể oải đối với các tṛ giúp vui và tiêu khiển. Bửa tiệc no say đặt họ trong một trạng thái thụ cảm. Những kẻ gia nô mệt mỏi vẫn c̣n đem thêm thức ăn lên bàn khi những dĩa chén đă cạn, nhưng sau cùng mọi người đă ăn uống no đủ với giờ khắc trôi qua. Những người làm tṛ xiếc giúp vui cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, hết người nọ đến người kia, họ lần lần rút lui, đi vào nhà bếp nghỉ ngơi và gọi thêm một chầu rượu bia cuối cùng. Các nhạc công vẫn c̣n sắc diện tươi tắn, thổi kèn loa, đánh chụp chơa và đánh trống một cách đầy hứng khởi. Trên những tàn cây to, loài chim sợ hăi v́ tiếng động ồn ào đă rời khỏi những tổ quen thuộc của chúng. Không phải chỉ có chim là biết sợ sệt. Những con mèo cũng đă biến mất dạng và ẩn núp trong những chỗ kín đáo từ khi những quan khách đầu tiên cùng các đoàn tùy tùng rầm rộ đến nhà. Những con chó ngao đen lớn của nhà tôi cũng êm hơi lắng tiếng, giấc ngủ đă khớp mỏ chúng. Chúng đă ăn uống no bụng đến mức không c̣n sức để ăn nữa. Trời càng tối dần trong những khu vườn. Mùi hương thơm ngát xông lên từ những b́nh lư hương khói trầm nghi ngút. Những khu vườn của cha tôi nổi tiếng khắp sứ Tây Tạng v́ những kỳ hoa dị thảo và những ḥn non bộ vĩ đại nhập cảng từ Trung Hoa. Có những cây lê, cây táo, cây mơ lùn thấp, bên cạnh những cây cổ thụ cao lớn, trên tàn cây có cắm cờ xí bay phất phơ dưới ngọn gió nhẹ ban chiều. Sau cùng, vầng hồng đă khuất dạng sau những dăy núi Tuyết Sơn xa tít tận chân trời: Một ngày đă chấm dứt. Từ những tu viện Lạc Ma giáo vọng đến tiếng kèn điểm giờ khắc trôi qua; hằng trăm ngọn đèn bơ đă được thắp sáng khắp nơi, trên các cành cây, dưới những mái nhà, và có những ngọn đèn khác thả lướt nhẹ trên mặt nước êm đềm của ao sen trong vườn nhà. Chỗ này, có ngọn đèn bị kẹt trong các lá sen chẳng khác nào những chiếc tàu bị kẹt trên băi cát, và chỗ kia, vài ngọn đèn trôi lênh đênh phiêu bạt về cái cù lao nơi đó những con hạc sẽ trú ngụ lúc ban đêm. Một tiếng cồng vừa điểm, mọi người quay đầu nh́n lại: Một cuộc diễn hành từ đằng xa sắp sửa đến gần. Trong khu vườn nhà, đă dựng sẵn một cái lều rất lớn, màn treo trướng rũ. Cửa lều mở rộng, bên trong có đặt một cái sàn gỗ và bốn cái đôn Tây Tạng làm chỗ ngồi. Đoàn người diễn hành bước đến trước liều, do bốn người gia nhân của nhà tôi cầm đuốc dẫn đường. Theo sau họ là bốn người nhạc công thổi kèn loa bằng bạc. Kế đó, cha tôi, mẹ tôi, bước lên sàn gỗ cùng với hai vị trưởng lăo, là những bậc giáo sĩ kiêm chức Thiên Giám Quan, đảm nhiệm việc tiên tri các điều họa phước của quốc gia. Những vị trưởng lăo này, xuất xứ từ vùng Nechung, là những nhà chiêm tinh giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Những lời tiên tri của các vị nhiều lần tỏ ra đă chính xác và đúng như các sự việc đă xảy ra về sau. Một tuần lễ trước đó, đức Đạt Lai Lạt Ma đă mời các vị đến để nh́n xem tương lai của một đứa trẻ lên bảy tuổi. Hai vị ấy đă lấy lá số của tôi và nghiên cứu cặn kẽ từng ly từng tí trong nhiều ngày những ảnh hưởng của các v́ tinh tú. Hai vị Lạt Ma đem theo lá số chiêm tinh và những bảng đoán số. Hai vị khác tiến đến và đỡ hai vị Thiên Giám Quan già bước lên sàn gỗ, trên đó hai vị này ngồi sát cạnh nhau như hai pho tượng bằng ngà. Những chiếc áo rộng bằng lụa Trung Hoa màu vàng lại càng làm nổi bật tuổi tác cao niên của họ. Họ đội trên đầu chiếc măo lớn của các đạo sĩ mà trọng lượng có vẻ quá nặng đối với những cái cổ nhăn nheo của họ. Các quan khách đều vây chung quanh cái sàn gỗ và ngồi trên những tấm nệm trải dưới đất. Những câu chuyện đều ngưng bặt, mọi người đều lắng tai nghe lời phán quyết của vị niên trưởng trong hai vị Thiên Giám Quan lăo thành. Vị niên trưởng bắt đầu nói bằng một giọng nhẹ nhàng: - "Lha dre mig cho nang chig". (Quỷ thần và nhân gian cùng bị chi phối như nhau bởi những định luật huyền bí trong vũ trụ. Ư nói: Người ta có thể tiên đoán việc tương lai.) Bằng một giọng trầm, vị Thiên Giám Quan cao niên nói tiên tri suốt một tiếng đồng hồ. Kế đó, người nghỉ ngơi trong mười phút, và lại nói thêm một giờ nữa, khi đó, người tiếp tục vạch trần tương lai của tôi dưới những nét đại cương. - "Lạ quá, thật là kỳ diệu!" toàn thể cử tọa bất giác thốt lên trong khi họ đang đắm ch́m trong một cơn thích thú mê ly. Như thế, người ta đă nói cho tôi biết trước tương lai của tôi: "Sau một giai đoạn thử thách cam go gian khổ, đương số sẽ là một đứa trẻ lên bảy tuổi, sẽ bước chân vào tu viện để được thụ huấn như một tu sĩ kiêm y sĩ giải phẫu. Y sẽ gặp nhiều nghịch cảnh gian lao, sẽ rời khỏi xứ sở và sống ở ngoại quốc. Y sẽ mất hết tất cả, sẽ phải làm lại cuộc đời từ con số không và sau cùng y sẽ thành công". Cuộc tiên tri đă bế mạc, các quan khách cũng đă giải tán lần lần. Những vị khách ở xa c̣n nán lại nhà tôi một đêm để sáng ngày hôm sau lên đường. Những người khác trở về ngay đêm đó cùng với gia nhân tùy tùng của họ dưới ánh sáng của những ngọn đuốc. Họ tựu hợp ở ngoài sân, giữa những tiếng ngựa khua móng sắt trên nền đá và những tiếng người kêu gọi lẫn nhau. Một lần nữa, cái cổng sắt nặng nề lại mở toang ầm ĩ để cho đoàn người ngựa đi qua. Tiếng chân ngựa khua vang và những giọng nói chuyện tṛ của họ nghe đă thưa dần, và sau cùng chỉ c̣n lại cái im lặng của ban đêm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 12 of 45: Đă gửi: 22 March 2004 lúc 9:41am | Đă lưu IP
|
|
|
TÔI CHUẨN BỊ XUẤT GIA
Trong nhà tôi, vẫn c̣n sự hoạt động nhộn nhịp ồn ào. Trà bơ được rót ra như suối chảy và thức ăn được dọn ra vào giờ chót để đăi những quan khách c̣n ở lại đêm nay. Tất cả các gian pḥng trong nhà đều bị chiếm đóng; không c̣n pḥng nào cho tôi. Tôi đi thẫn thơ, ḷng buồn man mác; để giết thời giờ, tôi vừa đi bách bộ vừa đá những viên sỏi và tất cả những ǵ nằm dưới chân tôi, nhưng sự bận rộn đó cũng không đủ làm cho tôi giải khuây. Không ai chú ư đến tôi: Những quan khách đều đă mỏi mê và được hài ḷng, c̣n những gia nô th́ mệt nhoài và bực bội. Tôi thầm nghĩ và cằn nhằn: - Loài ngựa có lẽ dễ thông cảm hơn. Ta sẽ ngủ chung với ngựa đêm nay. Những chuồng ngựa đều ấm áp, và nằm trên đống rơm rạ cũng êm lưng, nhưng giấc ngủ khó đến. Mỗi khi tôi chợp mắt thiếp đi, th́ một con ngựa lại thúc đẩy tôi, hoặc tôi bị đánh thức một cách đột ngột bởi một tiếng động từ trong nhà. Lần lần, mọi vật đều đắm ch́m trong im lặng. Tôi ngồi nhổm dậy nh́n ra ngoài, th́ thấy đèn lửa lần lần đă tắt. Trong giây lát, chỉ c̣n lại ánh trăng lạnh lùng phản chiếu sáng ngời trên những ngọn núi đầy tuyết phủ. Những con ngựa đă ngủ, có con ngủ đứng, có con nằm nghiên qua một bên. Sau cùng tôi cũng đă ngủ thiếp đi. Sáng ngày hôm sau, tôi bị đánh thức dậy một cách phủ phàng, có người nói với tôi: - Dậy đi Lâm Bá. Tôi c̣n phải thắng yên ngựa, mà cậu nằm choán hết chỗ. Thành thử tôi đứng dậy đi về nhà để kiếm thức ăn đỡ dạ. Trong nhà, đang có sự náo động ồn ào. Các quan khách sửa soạn ra về và mẹ tôi chạy từ nhóm này sang nhóm khác để tiễn đưa khách. Cha tôi th́ bàn về việc sửa nhà và vườn cho đẹp thêm. Người nói cho một ông bạn già biết ư định sẽ nhập cảng kính thủy tinh từ Ấn Độ để làm cửa sổ. Ở Tây Tạng không có kính, người ta không chế tạo kính trong xứ, và thật là tốn kém mà nhập cảng kính từ Ấn Độ. Cửa sổ các nhà ở Tây Tạng có những khuôn gỗ trên đó có căn một thứ giấy sáp sáng đục nhưng không trong suốt. Những cánh cửa sổ bằng gỗ nặng được gắn ở ngoài, không phải để pḥng kẻ gian phi, mà để tránh những cơn băo cát. Cơn băo cát này, đôi khi có quện theo những viên sỏi nhỏ, có thể làm găy nát những cửa sổ trơn, không có pḥng vệ. Nó cũng có thể cắt đứt da thịt trên mặt và trên bàn tay với những vết cắt rất sâu; bởi vậy thật rất nguy hiểm mà đi du lịch trong những mùa gió lớn. Dân chúng thủ đô Lahassa luôn luôn để ư coi chừng ngọn núi của điện Potala. Nếu th́nh ĺnh nó biến mất dưới một đám sương mù đen kịt, mọi người sẽ lo kiếm chỗ ẩn núp an toàn để tránh băo. Nhưng không phải chỉ có loài người là mới báo động: Loài vật cũng biết trước khi sắp có băo và các loài chó, ngựa thường đi trước người ta để kiếm chỗ ẩn núp. Loài mèo không bao giờ bị băo làm hại, và loài Yak không có ǵ phải sợ. Sau khi người khách cuối cùng đă rời khỏi nhà, cha tôi cho gọi tôi và nói: - Con hăy đi chợ mua sắm những thứ cần dùng, Ông Tzu biết con phải mua sắm những vật ǵ. Tôi nghĩ đến những đồ dùng cần thiết: Một cái chén đựng tsampa bằng gỗ, một cái dĩa bạc và một xâu chuỗi gồm một trăm lẻ tám hột bằng gỗ đánh bóng. Số một trăm lẻ tám này là một con số linh thiêng, nó cũng chỉ bấy nhiêu những điều giới răn mà một vị sư săi cần phải nhớ. Chúng tôi lên đường ra chợ, ông Tzu cưỡi ngựa c̣n tôi cưỡi lừa. Sau khi qua nhiều khúc đường quanh co, chúng tôi đă đến khu chợ buôn bán tấp nập. Tôi nh́n quanh dường như đó là chuyến đi đầu tiên. Nhưng trong thâm tâm, tôi e ngại rằng đó là chuyến đi cuối cùng! Những tay thương buôn vừa đến Lhassa, tràn vào các cửa tiệm và tranh luận sôi nổi để định giá hàng. Có người đem trà sang đây từ Trung Hoa, những người khác đem tơ lụa từ bên Ấn Độ. Chúng tôi vạch đường đi xuyên qua đám rừng người đến những cửa tiệm có những đồ vật mà tôi cần dùng. Thỉnh thoảng ông Tzu trao đổi lời chào hỏi với một bạn già quen từ hồi niên thiếu. Tôi cần mua một áo tràng màu đỏ sậm, cỡ lớn, không phải chỉ v́ lư do tôi sẽ lớn thêm, mà cũng v́ một lư do khác rất thực tế. Ở xứ này, những người lớn mặc áo rất rộng, nịt sát lưng. Phần trên chiếc áo có thể dùng như một cái túi đựng mọi thứ cần dùng. Một sư săi "Trung b́nh" chẳng hạn, đem theo trong cái túi đó một chén ăn tsampa, một cái dĩa, một con dao, vài thứ bùa phép, một bao gạo mạch nha đă sấy và thường là một ít tsampa. Nhưng ta đừng quên rằng một sư săi luôn luôn đem theo trong ḿnh tất cả những ǵ y sở hữu trên thế gian này. Ông Tzu kiểm soát việc sắm sửa của tôi. Tôi chỉ được mua những ǵ tối cần thiết, tất cả đều là những hạng rất xoàng, tương xứng với một "Chú tiểu sơ cơ nghèo": Một đôi dép bằng da con Yak, một cái bọc nhỏ để đựng gạo mạch nha sấy, một cái chén bằng gỗ, một cái dĩa cũng bằng gỗ (chứ không phải bằng bạc!) và một con dao. Thêm vào đó là một xâu chuỗi hạng thường mà tôi phải tự ḿnh đánh bóng tất cả một trăm lẻ tám hột; đó là tất cả những ǵ mà tôi được mua sắm. Cha tôi là một nhà quư tộc tỷ phú, có những tài sản rộng lớn khắp nơi trong xứ, nhưng trong một thời gian tập sự làm một tu sĩ, và ngày nào cha tôi c̣n sống tôi phải là một chú tiểu nghèo mà thôi. Tôi c̣n nh́n một lần cuối, đường xá và dăy nhà hai tầng ở hai bên. Tôi cũng nh́n cả những tiệm bán hàng hóa treo lủng lẳng những khúc vi cá mập và những yên ngựa ở trước cửa. Một lần nữa, tôi lắng tai nghe những lời nói đùa của những người lái buôn và những câu trả giá vui vẻ của những khách hàng. Tôi chưa từng thấy con đường này có vẻ ấm cúng dễ chịu như thế bao giờ, tôi ước ao cái số phận của những người nh́n thấy nó hằng ngày và sẽ tiếp tục sống hằng ngày ở tại đây. Những con chó hoang đi rong khắp chốn, đưa mũi đánh hơi vật nọ vật kia, và cất tiếng sủa vang; những con ngựa đợi chủ ra lệnh cất vó, thỉnh thoảng lại hí lên một tràng dài. Những con Yak vừa thốt ra những tiếng kêu khàn giọng, vừa len lỏi giữa những đám người bộ hành. Có bao nhiêu sự bí ẩn ở đằng sau những cửa sổ bọc giấy sáp kia! Có hằng bao nhiêu những hàng hóa lạ lùng đến từ bốn phương trời, đă được chở xuyên qua những cánh cửa gỗ chắc nịch kia, và có bao nhiêu giai thoại kỳ thú mà những cánh cửa sổ mở kia có thể thuật cho ta nghe nếu chúng biết nói. Tôi nh́n tất cả những vật ấy dường như là những vật đă quen thuộc từ lâu. Tôi không hề nghĩ rằng có ngày tôi sẽ tái ngộ những cảnh vật trên các đường phố này, dầu rằng thỉnh thoảng chỉ một đôi lần. Tôi nghĩ đến những ǵ tôi muốn làm, những ǵ tôi muốn mua. Sự mơ mộng của tôi bỗng nhiên bị gián đoạn một cách phũ phàng. Một bàn tay vừa to lớn vừa hăm dọa, hạ xuống trước mặt tôi, kéo vành tai tôi và vặn xoay nó một ṿng đau kinh khủng. Ông Tzu quát to, dường như muốn cho cả thế giới đều nghe: - Lâm Bá, mi đă biến thành pho tượng đá rồi chăng? Ta tự hỏi không biết những thiếu niên đời nay nuôi những ǵ trong óc của chúng. Vào thời buổi của ta, không hề có như vậy. Ông Tzu có vẻ bất cần về việc tôi sẽ bị đứt một vành tai nếu tôi cứ đứng yên một chỗ, hay tôi muốn giữ nó lại bằng cách đi theo ông. Tôi có thể làm ǵ được ngoài ra việc "Tranh thủ thời gian?" Trên đường về, ông Tzu vừa cưỡi ngựa đi trước vừa cằn nhằn và chỉ trích rơ rệt "Cái thế hệ hiện kim, gồm toàn những bọn vô ích, lười biếng, bất trị, và luôn luôn mơ tưởng chuyên trên mây". Nhưng khi vừa đến đường lộ Lingkhor, chúng tôi gặp một cơn gió lớn thổi mạnh. Tôi bèn nép ḿnh vào phía sau cái thớt lưng khổng lồ của ông Tzu để tránh cơn giông. Khi tôi về đến nhà, mẹ tôi liếc mắt nh́n qua những đồ vật dụng mà tôi đă mua. Tôi lấy làm thất vọng khi mẹ tôi cho rằng những vật ấy cũng khá tốt đối với tôi. Tôi vẫn hy vọng rằng mẹ tôi sẽ quở trách ông Tzu, và sẽ cho phép tôi mua những đồ dùng có phẩm chất tốt hơn. Một lần nữa, những hy vọng của tôi về cái dĩa bằng bạc lại tiêu tan như mây khói, và tôi phải chấp nhận cái dĩa bằng gỗ mua ở một tiệm tạp hóa ở Lhassa. Trong tuần lễ cuối cùng, người ta không để tôi sống yên lặng một ḿnh. Mẹ tôi bắt buộc tôi phải đi theo người để viếng thăm các gia đ́nh quư tộc ở Lhassa và để chào từ giă, trước khi tôi lên đường xuất gia để bước vào tu viện. Mẹ tôi rất thích những dịp xuất hành như thế, những cuộc viếng thăm xă giao và nói chuyện hàn huyên, nó gồm một phần chương tŕnh hằng ngày của mẹ tôi. Tôi cảm thấy chán ngấy; đối với tôi, những cuộc viếng thăm đó là những cực h́nh v́ tôi không có năng khiếu để ḥa ḿnh một cách vui vẻ với những kẻ phàm tục. Tôi chỉ muốn chơi đùa thỏa thích ở ngoài trời trong những ngày c̣n lại, thả diều, nhảy sào hay bắn cung; nhưng thay v́ được tự do tiêu khiển, tôi bị lôi kéo đi khắp nơi như một con Yak trúng giải hạng nhất, và tŕnh diện với những bà nhạt nhẽo vô duyên, họ không có việc ǵ làm khác hơn là ngồi suốt ngày trên nệm nhung êm ấm và sai bảo kẻ tôi tớ. Không phải chỉ có mẹ tôi mới làm tôi bực ḿnh. Tôi c̣n phải đi theo cha tôi đến tu viện Lạt Ma Giáo Drebung. Tu viện này là tu viện lớn nhất thế giới, với tất cả mười ngàn sư săi, với những ngôi đền cao vút, và nhà cửa dinh thự xây bằng đá. Đó là một cộng đồng tu viện, một thành phố có tường rào chung quanh, và cũng như mọi thành phố, nó có thể sống tự túc. Drebung có nghĩa là "Núi Gạo", và thật vậy, nó giống như một đống gạo chất lên thành núi nếu nh́n từ đằng xa, với những đài cao và mái bầu chiếu rạng ngời duới ánh nắng. Nhưng tôi không c̣n ḷng dạ nào để thưởng thức cái đẹp của những công tŕnh kiến trúc thẩm mỹ: Tôi cảm thấy se ḷng mà phải lăng phí một thời giờ rất quư báu đối với tôi. Cha tôi có việc cần bàn luận với vị Sư Trưởng và các vị phụ tá, nên tôi chỉ có thể đi thất thiểu một ḿnh trong tu viện, như một vật vô chủ trôi giạt lênh đênh sau cơn băo tố. Khi tôi thấy cách cư xử của người lớn đối với vài kẻ thiếu nhi sơ cơ, tôi có những cơn sợ hăi đến rùng ḿnh. Drebung thật là bảy tu viện sáp nhập làm một, gồm có bảy ḍng tu, và bảy giáo đường khác nhau. Thật quá lớn lao đồ sộ để có thể đặt dưới sự điều khiển của một người; bởi vậy có đến mười bốn vị Sư Trưởng, tất cả đều chủ trương một kỷ luật sắt, đảm nhiệm lấy công việc cai quản tu viện này. Khi cuộc viếng thăm kết thúc, tôi cảm thấy rất sung sướng, nhưng tôi c̣n hài ḷng hơn khi được biết tôi sẽ không vào tu viện Drebung hay tu viện Sera, ở độ năm cây số phía bắc thủ đô Lhassa. Tuần lễ cuối cùng đă chấm dứt. Người ta tịch thu những con diều của tôi để làm quà cho kẻ khác; những cung tên của tôi bẻ gẫy để làm cho tôi hiểu rằng tôi không c̣n là một đứa trẻ con, và bởi vậy tôi không c̣n cần những món đồ chơi đó nữa. Tôi có cảm tưởng rằng quả tim tôi muốn vỡ nát, nhưng dường như không ai chú ư đến điều ấy. Đêm hôm ấy, cha tôi gọi tôi vào pḥng giấy của người; đó là một gian pḥng trang trí rất mỹ thuật, có bày những pho sách cổ rất quư giá. Cha tôi ngồi gần bên bàn thờ tổ tiên và ra lệnh cho tôi qú trước mặt người để bắt đầu nghi lễ đọc quyển Gia Phả của gịng họ nhà tôi. Lịch sử của gia đ́nh tôi từ bao nhiêu thế kỷ trước, được ghi chép trong quyển sách khổng lồ đó, bề dày đến một thước rưỡi và bề ngang ba tấc. Trong ấy có ghi tên họ các vị tổ tiên sáng lập của gịng họ nhà tôi cùng những công lao hạn mă nhờ đó mà các vị ấy được ban quyền tước quư hiển.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 13 of 45: Đă gửi: 25 March 2004 lúc 9:18am | Đă lưu IP
|
|
|
Trong đó cũng có ghi chép những công trạng mà gia đ́nh tôi đă lập nên trong việc phục vụ xứ sở và phụng sự vị chúa tể của đất nước tôi, là đức Đạt Lai Lạt Ma. Đó là lần thứ nh́ mà quyển Gia Phả được lật ra cho tôi, v́ tôi thấy ngày sinh tháng đẻ của tôi đă có ghi chép sẵn trong đó. Các nhà chiêm tinh đă căn cứ vào những chi tiết đó để lập nên lá số và phán quyết những lời tiên tri về tương lai của tôi. Tôi phải tự ḿnh kư tên vào bản Gia Phả, v́ ngày hôm sau sẽ là ngày bắt đầu một cuộc đời mới, khi tôi bước chân vào tu viện. Kế đó, quyển sách được xếp lại và để vào chỗ cũ. Quyển sách ấy rất nặng; cha tôi hơi lảo đảo dưới trọng lượng của nó khi người đứng dậy để đặt nó vào một cái hộp thiếp vàng. Người kính cẩn đặt cái hộp dưới bàn thờ, trong một cái ô vuông xây bằng đá rất sâu. Kế đó, người nấu sáp trong một cái "Soong" nhỏ bằng bạc, trải sáp mỏng trên nắp ô và đóng triện của người lên đó để niêm phong lại. Kế đó cha tôi mới ngồi nghiêm chỉnh lên tấm nệm ở giữa pḥng. Người gơ một tiếng vào cái chuông nhỏ đặt gần bên, và một người nô bọc đem vào một cái khay trà pha với bơ. Sau một cơn im lặng kéo dài, cha tôi mới kể cho tôi nghe bí sử của sứ Tây Tạng, một chuyện lịch sử cổ xưa đến bao nhiêu ngh́n năm và thậm chí được coi như cổ sử dẫu ở vào thời kỳ cuộc đại hồng thủy. Người thuật cho tôi nghe rằng đă có một thời kỳ xứ Tây Tạng chỉ là một vùng biển cả muôn trùng, điều này đă được chứng thực bởi những cuộc khảo cổ dưới ḷng đất. Người nói rằng cho đến ngày nay, khi người ta đào đất ở chung quanh thủ đô Lhassa, họ có thể t́m thấy những bộ xương cá và những loại vỏ ṣ vỏ ốc rất dị kỳ, cùng những đồ khí cụ lạ lùng làm bằng kim khí, mà người ta không biết rơ sự công dụng của nó. Những sư săi thường t́m thấy những đồ khí cụ đó khi họ thám hiểm những hang động trong vùng, và họ đem đến cho cha tôi. Cha tôi mới đưa cho tôi xem vài món đồ khí cụ đó. Kế đó, người nói qua chuyện khác: - Theo như luật định, con nhà quư tộc phải được nuôi trong sự khắc khổ, c̣n con nhà nghèo sẽ được hưởng mọi sự dễ dăi, khoan dung. Trước khi được nhận vào tu viện, con c̣n phải trải qua một cuộc thử thách rất gian lao. Cha tôi cho tôi biết rằng tôi cần phải tỏ ra tuyệt đối dễ dạy và nhắm mắt tuân theo mọi lệnh trên sai khiến. Những lời cuối cùng của cha tôi không làm cho tôi được yên ḷng. Người nói: - Con hỡi, chắc con sẽ nghĩ rằng cha là người nghiêm khắc và khô khan, lạnh lùng. Cha chỉ nghĩ đến danh dự của gịng họ nhà ta. Cha nói thật cho con biết: Nếu con không được thâu nhận vào tu viện, con hăy đừng trở về nhà. Chừng đó con sẽ bị đối xử như một người xa lạ ở cái nhà này. Nói đến đó, cha tôi ra hiệu cho tôi lui ra, mà không nói thêm một lời nào. Lúc ban chiều, tôi đă từ giă Yaso, chị tôi. Chị tôi rất xúc động: Chúng tôi đă chơi chung với nhau từ thuở nhỏ, nay chị đă lên chín, lớn tôi hai tuổi. Tôi không sao gặp được mẹ tôi. Mẹ tôi đă đi ngủ sớm và tôi không thể nào từ giă mẹ trước khi lên đường. Tôi bèn lui về pḥng riêng một ḿnh để nghỉ một đêm cuối cùng. Tôi nằm dài trên những chiếc nệm trải dưới đất, nhưng không sao ngủ được. Trí óc tôi nghĩ liên miên đến những điều cha vừa nói lúc ban chiều. Tôi nghĩ đến tính nghiêm khắc độc đáo của cha tôi, và tôi hồi hộp nghĩ đến đêm hôm sau, khi mà lần đầu tiên tôi sẽ ngủ xa nhà. Bên hè, vầng trăng vẫn tiếp tục soi bóng. Một con chim ăn đêm vừa nhảy vừa đập cánh trên khung cửa sổ. Sau cùng tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Khi trời chưa sáng, một người gia bộc đă đánh thức tôi dậy với một chén tsampa và một chén trà bơ. Ông Tzu th́nh ĺnh bước vào pḥng khi tôi đang ăn bữa điểm tâm thanh đạm đó, và nói: - Con hỡi! Đây là giờ phút mà chúng ta phải ly biệt nhau. Ta sẽ có thể trở lại coi sóc bầy ngựa như trước. Con hăy ráng làm tṛn bổn phận, và hăy nhớ tất cả những ǵ mà ta đă dạy con. Nói đến đây, ông ta quay gót lui ra. Thái độ đó rất là cận nhân t́nh, tuy rằng hồi ấy tôi không được vừa ư. Những lời từ giă đầy cảm xúc có lẽ đă làm cho sự lên đường của tôi trở nên khó khăn hơn nhiều, đó lại là một chuyến ra đi đầu tiên, mà tôi nghĩ rằng không hẹn ngày trở lại. Nếu lúc ấy mẹ tôi thức dậy để nói với tôi mấy lời từ giă th́ chắc chắn là tôi đă cố gắng thuyết phục mẹ tôi hăy giữ tôi ở lại một bên người. Nhiều đứa trẻ Tây Tạng sống một cuộc đời rất dịu dàng êm ái, c̣n tôi phải sống một cuộc đời khắc khổ về đủ mọi phương diện. Về sau tôi phát hiện ra rằng sở dĩ mẹ tôi không từ giă tôi vào giờ phút chót, ấy là do lệnh của cha tôi, để cho tôi tập lấy tính cương nghị và có kỷ luật trong những năm đầu tiên. Tôi ăn điểm tâm xong, bèn dồn cái chén và cái dĩa vào trong áo, và lấy thêm một cái áo tràng để thay đổi. Với cái áo này, tôi làm một cái bọc trong đó tôi gói một đôi ủng lót bằng nỉ. Tôi vừa bước ra khỏi pḥng th́ một người gia nô dặn tôi nên đi nhẹ bước để khỏi làm mất giấc ngủ của người trong nhà. Tôi bước ra hành lang. Trong khi tôi bước xuống nấc thang tam cấp để đi ra đường lộ, th́ bóng tối hăy c̣n dầy đặc trước khi ánh b́nh minh xuất hiện để mở đầu một ngày mới. Tôi bước ra khỏi nhà trong t́nh trạng đó. Tôi đi lủi thủi một ḿnh, băn khoăn lo ngại và ḷng dạ se sắt
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 14 of 45: Đă gửi: 25 March 2004 lúc 9:22am | Đă lưu IP
|
|
|
TRƯỚC THỀM CHÁNH ĐIỆN
Tôi noi theo con đường đưa đến tu viện Chakpori, tu viện này vừa là một đạo viện vừa là một trường y khoa có tiếng là kỷ luật rất cao. Tôi đi bộ vượt qua mấy cây số đường trường dưới ánh sáng b́nh minh mỗi lúc càng tỏ rạng. Đến ngoài cổng lớn đưa vào sân mặt tiền của tu viện, tôi gặp hai thiếu nhi khác cũng như tôi đến xin được thu nhận. Chúng tôi nh́n nhau một cách dè dặt, nhưng không ai nói với ai một lời nào. Chúng tôi định bụng là hăy tỏ ra lịch sự với nhau nếu chúng tôi sẽ cùng thụ huấn trong một tu viện. Chúng tôi gơ cửa một cách e dè trong một lúc nhưng không ai trả lời. Một bạn đồng cảnh ngộ của tôi luc ấy cúi xuống lượm một viên đá lớn đập vào cửa cổng để làm cho người ta chú ư. Một vị sư săi xuất hiện, tay huơ một cây gậy: Chúng tôi sợ sệt đến nỗi tưởng chừng như cây gậy to lớn bội phần. Một sư săi cất tiếng hỏi: - Chúng bây muốn ǵ, lũ tiểu quỷ? Chúng bây tưởng rằng tao không có việc ǵ làm khác hơn là phải mở cửa cho những lũ tiểu yêu như tụi bây sao? Tôi đáp: - Chúng tôi muốn trở nên tu sĩ. - A! Tu sĩ? Tụi bây giống như lũ khỉ th́ đúng hơn. Hăy đứng đợi tại đây, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp chúng bay khi nào Người có thời giờ. Cánh cửa lớn đóng sầm lại rất mạnh, và một bạn đồng đội với tôi vô ư đứng gần bên suưt nữa bị té ngă. Chúng tôi ngồi xuống đất v́ đứng lâu đă mỏi chân. Lác đác có vài người đă vào tu viện. Một mùi đồ ăn xào nấu ngon lành từ nhà bếp bay lọt ra ngoài cửa sổ và phảng phất trong không khí, làm cho tôi cảm thấy như chịu một cực h́nh v́ cơn đói bụng mỗi lúc càng tăng. Ôi! Thức ăn ngon lành ấy tuy ở gần kề một bên, nhưng đồng thời cũng lại xa cách với chúng tôi biết bao! Sau cùng cánh cửa lớn lại mở rộng, và một vị sư săi tác cao và gầy ốm xuất hiện. Ông ta quát to: - Lũ tiểu yêu, chúng bay muốn ǵ đây, hử? - Chúng tôi muốn trở thành tu sĩ. Ông ta nói lớn: - Lạy trời, đời nay sao có chuyện lạ vậy? Người tu sĩ ra hiệu cho chúng tôi bước vào bên trong bức tường rào của tu viện. Người ấy hỏi chúng tôi là những thứ ǵ, chúng tôi là ai, và thậm chí tại sao chúng tôi sinh ra đời và sinh ra để làm ǵ? Thật không khó ǵ mà hiểu rằng chúng tôi không gây ra nơi người ấy một ấn tượng tốt lành nào cả! Ông ta nói với thiếu nhi đầu tiên, người này tự xưng là con của một người mục đồng: - Vô đây mau lên. Nếu ngươi vượt qua được những cuộc thử thách, th́ ngươi sẽ được thu nhận. Kế đó ông ta nói với người thiếu nhi kia: - C̣n thằng kia? ... sao, mi nói ǵ? ... cha mi làm nghề đồ tể? A! Đó là người hàng thịt, một người phạm giới sát sinh và không tuân theo giới luật của phật. Vậy mà mi c̣n dám tới đây? Cút đi mau kẻo ta lại cho mi ăn gậy bây giờ! Nói xong ông ta nhảy tới chụp lấy thằng nhỏ, thằng này thấy thế nguy bèn quên cả sự mệt nhọc và cố gắng thu thập tinh thần. Nhanh như chớp, nó quay đầu trở lại, phóng ra ngoài đường lộ và chạy một mạch vắt gị lên cổ, làm cho đường cái dậy bụi lên từng đợt nhỏ. Chỉ c̣n lại một ḿnh tôi. Người tu sĩ quay lại nh́n tôi với cặp mắt hung tợn và tôi cảm thấy sợ sệt đến nỗi chút nữa tôi đă ngất xỉu ngay tại chỗ! Ông ta bèn hươi gậy một cách hâm dọa và quát lớn: - C̣n thằng nhỏ này! Mi là ai? ... A ha! Con một vị hoàng thân quốc thích mà muốn trở thành tu sĩ. Nhưng trước hết mi phải chứng minh giá trị của mi tới đâu, cùng những ǵ mi có trong bụng. Đây không phải là chỗ của những con nhà quư tộc ương hèn, nhu nhược. Mi hăy lui lại bốn chục bước và ngồi yên tại chỗ theo tư thế ngồi thiền cho đến khi có lệnh mới. Cấm không được cựa quậy thậm chí đến một sợi lông nheo! Nói xong, ông ta lui gót đi ngay. Tôi lặng lẽ thu nhặt khăn gói và lùi lại bốn chục bước. Tôi ngồi xuống trong tư thế kiết dà theo như lời dặn. Tôi ngồi yên như thế suốt ngày không cựa quậy. Những cơn gió lốc hất vào ḿnh tôi những bụi bậm của đường xá, lần lần cát bụi đóng vào ḿnh tôi. Chất từng đống nhỏ trên hai bàn tay lật ngửa của tôi, trên vai tôi và len lỏi vào tóc tai của tôi. Khi ánh sáng mặt trời mỗi lúc càng yếu dần, tôi càng cảm thấy đói khát hơn, một cơn khát nước như cực h́nh nó làm khô cuống họng tôi: Từ lúc sáng sớm đến giờ tôi chưa ăn uống ǵ cả. Những sư săi trong tu viện rất đông, họ đi qua lại không ngớt, nhưng không ai để ư đến tôi. Vài con chó hoang thỉnh thoảng ngừng lại, đưa mỏ vào ḿnh tôi để đánh hơi một cách ṭ ṃ, rồi lại bỏ đi. Một đám trẻ nhỏ đi ngang qua. Một đứa trong bọn chúng không có việc ǵ làm, chắc hẳn là ngứa tay, bèn ném vào ḿnh tôi một viên sỏi trúng nơi màng tang, máu chảy ṛng ṛng. Nhưng tôi vẫn không cựa quậy. Tôi đă quá sợ hăi. Nếu tôi thất bại trong cơn thử thách này, cha tôi sẽ không để cho tôi trở về nhà và tôi sẽ không biết phải đi đâu. Tôi không c̣n có thể làm ǵ hơn là ngồi yên, âm thầm chịu khổ sở với các bắp thịt đau đớn như rần và những khớp xương tê cứng. Mặt trời đă khuất dạng sau những dăy núi, và đêm tối đă đến. Các tinh tú chói lập ḷe trên nền trời u ám. Hàng ngh́n những ngọn đèn nhỏ thắp bằng bơ chiếu sáng ở các cửa sổ của những tu viện. Một ngọn gió lạnh như băng đă dậy lên: Tôi nghe tiếng gió rít lạnh lùng và tiếng lá xào xạc trên những cành liễu cùng với những tiếng động làm thành bản nhạc lạ lùng bí hiểm của ban đêm. Dù việc ǵ đă xảy ra, tôi vẫn ngồi yên bất động, v́ hai lư do chính: Một là v́ tôi quá sợ hăi, và hai là tứ chi của tôi đă quá tê cứng để có thể cử động được. Khi đó, tôi nghe có tiếng dép đi trên đất cát: Tôi nhận ra đó là những bước chân của một ông lăo đang lần ṃ t́m đường đi trong bóng tối. Một bóng đen xuất hiện trước mặt tôi, đó là một vị sư săi già đă c̣ng lưng và mệt mỏi sau bao nhiêu đêm khổ hạnh. Những bàn tay của người đă run, điều này không làm cho thản nhiên khi tôi thấy ông ta làm đổ nghiên chén trà cầm nơi tay. Trong bàn tay kia, ông ta cầm một bát Tsampa, và đưa cho tôi luôn cả hai thứ. Tôi vẫn ngồi yên không cử động. Ông ta nói- Con hỡi, hăy cầm lấy, v́ con có quyền cử động trong những giờ ban đêm. Tôi bèn uống chén trà, và sớt món Tsampa vào cái chén riêng của tôi. Ông lăo lại nói: - Bây giờ con hăy ngủ đi nhưng khi trời hừng sáng, con hăy ngồi lại trong tư thế cũ, v́ đây là một cuộc thử thách chứ không phải là một h́nh phạt vô ích như con có thể nghĩ trong lúc này. Chỉ có những kẻ nào vượt qua cuộc thử thách này mới có thể được thu nhận vào ḍng tu của chúng ta. Nói xong, ông lăo cầm lấy những chén bát và đi thẳng. Tôi bèn đứng dậy, vươn vai, duỗi thẳng tay chân, rồi nằm xuống nghỉ lưng; tôi vừa nằm nghiêng một bên vừa ăn chén stampa. Quả thật là tôi đă quá kiệt sức. Sau khi ăn no, tôi kê cái gói áo để gối đầu và nằm luôn dưới đất. Bảy năm của cuộc đời tôi trên thế gian này thật là không được sung sướng chút nào. Cha tôi luôn tỏ ra nghiêm khắc trong mọi việc, nghiêm khắc một cách kinh khủng, tuy vậy đây là lần đầu tiên mà tôi ngủ xa nhà và suốt ngày hôm đó tôi không hề sửa đổi tư thế, hoàn toàn ngồi yên bất động và xác thể bị dày ṿ v́ cơn đói khát. Tôi không biết ngày mai sẽ đưa đến cho tôi cái số phận như thế nào, và người ta sẽ bắt tôi phải chịu những điều ǵ nữa. Nhưng bây giờ, tôi phải ngủ, ngủ dưới màn trời lạnh lẽo, cô đơn, một ḿnh với sự sợ hăi bóng tối, một ḿnh với sự sợ hăi những ngày sắp tới. Dường như tôi chỉ nhắm mắt được không bao lâu, th́ tôi đă thức giấc v́ tiếng kèn thổi vang tai. Tôi vừa mở mắt th́ đă thấy ánh b́nh minh phản chiếu trên nền trời đằng sau những dăy núi. Tôi hối hả thức dậy và liền giữ lấy tư thế ngối thiền. Trước mặt tôi, cả tu viện điều đă lần lần thức giấc. Lúc đầu nó giống như một thành phố bị đắm ch́m trong giấc ngủ. Kế đó, mỗi tiếng động nhẹ đầu tiên mỗi lúc càng tăng trưởng dần dần và tu viện trở thành ồn ào náo nhiệt như một cái tổ ong ṿ vẻ trong một ngày mùa hạ. Khi mặt trời ló dạng, những toán sư săi đầu cạo sạch bóng đi qua lại trong những cửa của tu viện. Mặt trời càng lên cao, tôi càng cảm thấy tê buốt các khớp xương, nhưng tôi không dám cử động; tôi không dám ngủ thêm, v́ chỉ một cử động nhẹ là tôi đă thất bại và sau đó tôi biết đi đâu?
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienY Hội viên

Đă tham gia: 13 February 2004 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 19
|
Msg 15 of 45: Đă gửi: 25 March 2004 lúc 1:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
SoiDa ơi,
Chuyện thật là hay, cám ơn SoiDa đã bỏ nhiều công sức để có thể chia xẻ bài này lên trang web. Mỗi lần đánh máy được dài như vậy thì phải biết võ "ngón" của SoiDa cao siêu lắm. ThienY thật khâm phục.
Chúc SoiDa luôn được an vui.
ThienY
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 16 of 45: Đă gửi: 26 March 2004 lúc 9:42am | Đă lưu IP
|
|
|
Rất cám ơn lời khen và khích lệ của Thiên Y
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 17 of 45: Đă gửi: 26 March 2004 lúc 9:45am | Đă lưu IP
|
|
|
Cha tôi đă nói rơ ràng: Nếu tu viện không bằng ḷng thu nhận tôi, th́ cha tôi cũng sẽ không nhận tôi trở về. Từng nhóm nhỏ các sư săi bước ra khỏi các gian nhà của tu viện để làm công việc hàng ngày. Vài thiếu niên đi rảo ngoài sân; đôi khi chúng nó lấy chân đá một cái, hất văng cát bụi bay mù mịt và những viên sỏi nhỏ về phía tôi ngồi, hoặc chúng đua nhau thốt ra những lời thô bỉ, tục tằn, cố ư nhắm vào tôi làm mục tiêu. Thấy tôi không đáp lại, chúng chán nản bỏ đi t́m những nạn nhân khác dễ chọc ghẹo hơn. Một ngày nữa lại qua mau; lần lần mặt trời lại ngả về tây và những ngọn đèn bơ của tu viện lại được thắp sáng. Trong giây lát, tôi đă ngồi dưới ánh sao, v́ đó là ngày thượng tuần, trăng lên hơi muộn. Th́nh ĺnh, tôi cảm thấy lo sợ; hay là người ta đă quên tôi rồi? Hay đây là một cuộc thử thách, trong khi đó tôi phải chịu nhịn đói? Tôi không hề cử động suốt ngày hôm đó, một ngày kéo dài vô tận, và sự đó khát đă làm cho tôi mệt nhừ. Th́nh ĺnh, một tia hy vọng nhen nhúm trong ḷng tôi và làm tôi muốn nhảy dựng lên. Tôi nghe có tiếng chân đi và một bóng đen tiến về phía tôi. Nhưng than ôi, đó là một con chó ngao lớn và đen đang kéo lê một vật ǵ. Không một mảy may chú ư đến tôi, nó vẫn tiếp tục đi thẳng, cũng không chút xót thương cho cái t́nh trạng khó khăn của tôi. Niềm hy vọng của tôi bèn sụp đổ. Tôi cảm thấy muốn khóc để chống lại sự yếu hèn đó, tôi bèn tự nhắc nhở lấy ḿnh rằng chỉ có đàn bà con gái mới dại dột mà sử sự như thế. Sau cùng, tôi nghe tiếng bước chân của vị sư già. Lần này, ông lăo nh́n tôi với đôi mắt dịu hiền và nói: - Con hỡi, đây là những đồ ăn thức uống cho con, nhưng sự thử thách chủa phải là hết. C̣n ngày mai nữa. Con hăy nhớ đừng làm một cử động nào, v́ có nhiều người đă thất bại vào giờ phút chót. Nói xong, ông lăo từ biệt đi ngay. Trong khi vị sư già nói chuyện, tôi uống chén trà bơ và một lần nữa, sớt stampa vào cái bát riêng của tôi. Một lần nữa, tôi lại nằm dài dưới đất, thật ra cũng không sung sướng ǵ hơn đêm trước. Vừa nằm tôi vừa suy nghĩ về cách đối xử bất công này, tôi không c̣n muốn làm tu sĩ nữa. Người ta không để cho tôi có quyền định đoạt số phận của tôi, chẳng khác nào như tôi là một con lừa bị bắt buộc phải trèo qua một triền núi, thế thôi. Tôi ngủ thiếp đi trên cái ư nghĩ đó. Ngày hôm sau, cuộc thử thách bước qua ngày thứ ba. Khi tôi ngồi dậy theo tư thế tọa thuyền, tôi cảm thấy yếu sức hơn mọi ngày và đầu óc tôi choáng váng. Tôi thấy tu viện dường như xoay tít trong một khối xa mù gồm những ṭa đinh ốc, những màu mè sặc sỡ, những đốm đỏ với những núi non và những sư săi quay cuồng lẫn lộn với nhau một cách vô cùng hỗn độn. Tôi phải làm một cố gắng phi thường để vượt qua được cơn chóng mặt đó. Tôi cảm thấy kinh hoàng với ư nghĩ rằng tôi có thể thất bại sau khi đă chịu tất cả những sự đau khổ trong những ngày qua. Tôi có cảm giác rằng những tảng đá mà tôi ngồi ở trên, lần lần đă trở nên bén nhọn cũng như dao cắt, nó làm cho tôi đau nhức ở những bộ phận nhạy cảm nhất trong ḿnh tôi. Ngôi mặt trời dường như đứng yên một chỗ; ngày ấy kéo dài như vô tận. Nhưng sau cùng, ánh nắng bắt đầu dịu bớt, vầng hồng đă xuống thấp và ngọn gió chiều đă thổi phất phơ một sợi lông chim do một con chim én bay qua đă bỏ rớt lại. Lại một lần nữa, những ánh đèn bơ đă lần lượt nối tiếp nhau thấp thoáng qua khung cửa sổ. Tôi thầm nghĩ. - "Tôi mong sao được chết trong đêm nay, tôi không c̣n chịu đựng được nữa." Ngay lúc ấy, cái bóng đen cao lớn của vị chưởng môn Đoàn Sơ Cơ xuất hiện nơi khung cửa. Ông ta nói: - Con hỡi, hăy lại đây! Tôi thử đứng dậy, nhưng hai chân tôi đă chai cứng đến nỗi tôi phải nằm dài trên mặt đất. Người lại nói: - Nếu con muốn nằm nghỉ, con có thể ở lại đây một đêm nữa. Ta không thể chờ đợi lâu hơn. Tôi bèn hối hả thu lượm khăn gói và tiến lại gần vị Chưởng Môn với một bước đi khập khễnh. Ông ta nói: - Vào đây. Con hăy dự cuộc lễ tối và sáng mai con hăy đến gặp ta. Bên trong tu viện, không khí rất ấm áp và mùi hương trầm làm cho tôi cảm thấy khỏe mạnh. V́ quá đói, giác quan nhạy cảm của tôi cho tôi biết rằng cách đó không xa chắc có thức ăn no ḷng, tôi bèn đi theo một nhóm sư săi hướng về phía tay mặt. À, có đồ ăn đây rồi: Tsampa và trà bơ! Tôi ráng chen lên hàng đầu dường như tôi đă quen làm như vậy suốt đời tôi Các sư săi toan nắm chớp tôi khi tôi ḅ bốn cẳng luồng qua chân họ để đi tới trước nhưng vô ích; tôi đang muốn ăn, và không có ǵ có thể ngăn cản tôi được nữa. Sau khi đă ăn uống no ḷng, tôi theo chân các sư săi vào trong nội điện để dự cuộc lễ. Tôi đă quá mệt mỏi để có thể hiểu biết những ǵ xảy ra, nhưng không ai để ư đến tôi. Sau cuộc lễ, khi các sư săi sắp hàng một đi ra ngoài, tôi mới lẻn ra phía sau một cây cột lớn, nằm dài xuống mặt sàn bằng đá, gối đầu trên cái bọc vải đựng quần áo của tôi và ngủ một giấc ngon lành. Tôi đang mơ màng giấc điệp th́ những tiếng động chung quanh đánh thức tôi dậy một cách phũ phàng. Có những giọng nói thốt lên: - À, một con ma mới. Một đứa con nhà giàu. Ta hăy đánh cho nó một trận! Một chú tiểu Sơ Cơ phất lên trên không cái áo dài thay đổi mà y đă rút ra trong bọc quần áo gói đầu của tôi, một tên khác đoạt lấy đôi giầy ủng của tôi. Một nắm Tsampa mềm và ướt từ đâu ném tới trúng vào giữa mặt tôi. Những cú đấm đá tới tấp như mưa nhắm vào tôi từ tứ phía, nhưng tôi không tự vệ. Đó có thể là một cuộc thử thách để xem tôi có tuân theo hay chăng, lời răn thứ mười sáu nói rằng: "Ngươi hăy chịu đựng sự đau khổ và tai họa một cách kiên nhẫn và an phận." Bỗng nghe có tiếng quát lớn: "Có chuyện ǵ xảy ra ở đây?" kế đó là những tiếng th́ thầm sợ hăy: - À! Vị chưởng Môn đă đến! Chúng ta đă bị bắt quả tang! Tôi đang lo gỡ miếng Tsampa ra khỏi mắt tôi, th́ vị chưởng Môn nhóm Sơ Cơ liền quay về phía tôi, nắm lấy cái bím tóc tôi và kéo tôi đứng dậy. - Đồ gà mái ướt! Đồ nhu nhược! Mi mà muốn trở thành một nhà lănh đạo tương lai? Hăy lănh lấy mấy quả đấm này! Kế đó, tôi bị đ̣n dưới một trận mưa quả đấm tàn bạo. - "Đồ vô dụng, đồ hèn, thậm chí mi cũng không biết tự vệ..." Những cú đấm đá vẫn tiếp tục dường như không bao giờ ngừng. Tôi bèn nhớ lại lời nói của vơ sư Tzu lúc ông từ giă tôi: - "Con hăy làm bổn phận, và hăy nhớ tất cả những ǵ ta đă dạy con." Tôi bèn giữ thế thủ và lừa dịp đưa tay đẩy nhẹ một cái theo một thế vơ Tây Tạng mà vơ sư Tzu đă dạy tôi. Vị Chưởng Môn, trong lúc bất thần không kịp đỡ, vừa thốt lên một tiếng rên siết v́ đau đớn, vừa bay bổng lên khỏi đầu tôi, rơi xuống sàn gạch trong tư thế nằm sắp rồi chúi tới trước trên cái sống mũi, làm sống mũi bị lột da, và ngừng lại khi đầu ông ta va vào một cái cột lớn với một tiếng động kinh hồn! Tôi thầm nghĩ: "Thôi rồi! Phen này ḿnh chắt chết. Âu cũng đành vậy để chấm dứt tất cả mọi nỗi lo âu." Thế giới dường nhu ngừng lại. Những thiếu niên Sơ Cơ đều nín thở. Một tiếng hét lớn, trong chớp mắt vị Chưởng Môn cao lớn và xương xẩu đă đứng phắt dậy. Máu từ trong hai lỗ mũi ông ta tuông ra đỏ ḷm. Thật là một cảnh tượng quái gở, v́ khi đó ông ta cất lên tiếng cười vang trong một chuỗi cười dài cởi mở và thật t́nh! Ông ta nói với tôi: - À, vậy mi là một con gà chọi, phải chăng? Gà chọi hay chuột ướt? Mi là giống nào? Để c̣n xem lại mới biết. Vị Chưởng Môn bèn quay lại phía một thiếu niên mười bốn tuổi, có một thân xác to lớn rồi đưa tay ra hiệu và nói: - Nga Quắn, mi là con trâu mộng nặng cân nhất của tu viện này. Mi hăy tỏ cho mọi người thấy rằng con nhà lái buôn có giá trị hơn con nhà vương giả hay chăng trong một cuộc đấu vơ. Lần đầu tiên trong đời, tôi thầm tạ ơn ông Tzu, vị vơ sư già của tôi. Thuở thiếu thời, ông ta từng là một chuyên viên về môn vơ thuật Tây Tạng, một tay vô địch xuất xứ từ vùng Kham. Theo lời ông ta nói, ông ta đă truyền lại cho tôi tất cả các thế vơ bí truyền, nhờ đó tôi có thể đối địch với cả những người lớn. Tôi đă tiến bộ rất nhiều về môn vơ thuật này, trong đó sức mạnh và tuổi tác không có ích lợi ǵ cả. V́ cuộc đấu vơ này quyết định tương lai của tôi, nên sau cùng tôi cảm yên tâm. Nga Quắn là một thanh niên lực lưỡng và khỏe mạnh, nhưng thiếu lanh lẹ mềm dẻo trong những cử động của y. Hiển nhiên là y đă quen những cuộc đánh đấm hung hăng trong đó bạo lực của y giúp cho y nắm ưu thế. Y lao ḿnh tới trước để nắm lấy tôi và quyết hạ được tôi. Tôi không nao núng, nhờ đă có học vơ với ông Tzu và trong huấn luyện, đôi khi ông ta cũng tỏ ra bạo tàn. Khi Nga Quắn khởi thế công, tôi bước qua một bên để tránh và thuận tay tôi vặn một cánh tay của y. Hai chân y bị mất thăng bằng, y lảo đảo xoay nửa ṿng trước khi té ngă chúi đầu xuống đất. Y nằm rên một hồi trên sàn gạch, rồi th́nh ĺnh y đứng dậy và phóng tới tôi. Tôi thụp xuống, ngă ḿnh trên sàn gạch và đưa tay vặn một chân của y vào lúc y sắp sửa đè lên ḿnh tôi. Lần này y xoay trọn một ṿng, lảo đảo trên hai chân và té ngă, vai trán nện xuống đất. Nhưng y chưa thật sự đo ván. Y cố gắng đứng lên và đi thật trọng từng bước chung quanh tôi, rồi th́nh ĺnh nhảy qua một bên, y chụp một cái đỉnh bằng đồng và có dây xúc xích và quay tít nó lên trên không. Một khí giới như vậy thật là chậm chạp, nặng nề và dễ tránh. Tôi bước một bước tới trước, luồn ḿnh dưới nách y và đưa một ngón tay nhẹ nhàng điểm vào chỗ nhược ở phía dưới của y, như vơ sư Tzu thường chỉ dạy cho tôi về môn điểm huyệt. Y liền ngă lăn xuống đất như một tảng đá hai tay buông sợi dây xúc xích, cái đỉnh đồng bị hất văng vào đám trẻ sơ cơ và nhóm sư săi đang đứng chung quanh nh́n xem chuộc đấu vơ gây lên một cuộc náo động ồn ào. Nga Quắn nằm bất tỉnh trong nửa giờ. Sự điểm huyệt đặc biệt đó thường làm cho linh hồn rời khỏi thể xác để đi chu du trên cơi trung giới hoặc để có những hoạt dộng tương tự. Vị Chưởng Môn Đoàn Sơ Cơ tiến đến gần tôi, vỗ vai tôi một cái thật mạnh làm tôi suưt nữa cũng lại nằm đo ván, và nói: - Con hỡi, quả thật con là người hùng. Tôi đánh bạo đáp lại: - Như vậy bạch sư tôn, con có xứng đáng được ăn uống chút ít ǵ chăng? Từ mấy ngày nay, con chưa được ăn uống đầy đủ bữa nào. Vị Chưởng Môn nói: - Con hỡi, con hăy ăn uống cho thỏa ḷng. Sau đó, con hăy bảo một đứa trong nhóm sơ cơ dẫn đường cho con đến gặp ta. Từ nay con sẽ làm trưởng đoàn dể dạy vơ nghệ cho chúng nó. Vị sư già đă đem thêm thức ăn cho tôi hai đêm trước cũng vừa đến ngay khi đó. Ông ta nói: - Con hỡi, con đă hành động xứng đáng. Nga Quắn đă tỏ ra hống hách đối với nhóm sơ cơ. Con hăy thay chân nó ở chức vụ đoàn trưởng, nhưng con hăy có ḷng từ bi nhân hậu trong mọi quyết định.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 18 of 45: Đă gửi: 30 March 2004 lúc 10:11am | Đă lưu IP
|
|
|
Con đă có một sự giáo dục rất tốt. Con hăy sử dụng tài nghệ của con cho đúng chỗ và chớ nên truyền thụ vơ nghệ cho những kẻ không xứng đáng. Bây giờ con hăy theo ta và ta sẽ cho con ăn uống no ḷng. Khi tôi đến tư thất của người, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ tiếp đón tôi một cách rất ưu ái. Người nói: - Con hăy an tọa. Ta muốn biết xem về mặt tri thức con có xuất sắc như về môn vơ nghệ không. Con hăy coi chừng, ta sẽ hỏi khó con đấy. Kế đó, người mới đưa ra cho tôi nhiều câu hỏi, vừa sát hạch, vừa viết tay. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc nệm, và cuộc trắc nghiệm diễn ra suốt sáu tiếng đồng hồ, trước khi người tuyên bố hài ḷng về sự giải đáp của tôi. Tôi cảm thấy đă mệt mỏi, người bèn đứng dậy và nói: - Con hăy theo ta. Ta sẽ đưa con vào tŕnh diện với vị Sư Trưởng. Đó là một cái vinh dự đặc biệt, con sẽ hiểu lư do tại sao. Tôi đi theo vị Chưởng Môn qua những hành lang rộng lớn, những văn pḥng, những nội diện, những lớp học... Chúng tôi buớc lên một thang lầu, vượt qua những hành lang chằng chịt như mê cung, đi ngang những thánh điện thờ vị Thần và kho chứa các loại thảo dược. Lại lên một cầu thang nữa, sau cùng chúng tôi bươc lên sân thượng, trên nóc bằng của tu viện và đi về phía tịnh thất của vị Sư Trưởng. Đến trước cửa, có một tượng Phật bằng vàng, biểu tượng của ngành Y học; qua khỏi cửa chúng tôi đă bước vào tu thất của Sư Trưởng. Vị Chưởng Môn dặn tôi: - Con hăy vái chào đảnh lễ và làm theo ta. Người liền cuối lạy vị Sư Trưởng sau khi đă chắp tay vái ba lần. Tôi làm theo, trong ḷng hồi hộp. Vị Sư Trưởng điềm nhiên nh́n chúng tôi, và nói: - Các con hăy an tọa. Chúng tôi ngồi trên những chiếc nệm, hai chân xếp bằng. Vị Sư Trưởng im lặng nh́n tôi một lúc rất lâu. Kế đó người nói: - Hỡi Lâm Bá, ta biết tất cả những ǵ về con, tất cả những ǵ đă được tiên tri từ trước. Cuộc thử thách mà con đă phải chịu, thật là gian lao. Con sẽ hiểu lư do tại sao trong một vài năm nữa. Nhưng c̣n bây giờ, con hăy biết rằng trong một ngàn sư săi, chỉ có một hai người là có khả năng học hỏi những việc cao xa, và có thể đạt tới một tŕnh độ tiến hóa cao. Kỳ dư chỉ làm những bổn phận thông thường hằng ngày. Họ là những người làm việc bằng tay chân, và lần chuỗi tụng niệm mà thôi, chứ không cần học hỏi ǵ cả. Ở đây không thiếu những người đó. Chúng ta chỉ thiếu những người giữ ǵn cái kho tàng kiến thức Huyền Môn khi xứ này bị nạn ngoại xâm. Con sẽ được thụ huấn đặc biệt, một sự huấn luyện ráo riết để trong vài năm ngắn ngủi con sẽ có nhiều kiến thức hơn là một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một đời. Con đường Đạo sẽ gay go, hiểm trở và thường là dẫy đầy gian khổ. Thật vậy, tu luyện để có được nhăn quang thần thông đ̣i hỏi nhiều công phu rất khó nhọc, và xuất hồn đi chu du trên cơi trung giới đ̣i hỏi hành giả phải có một bộ thần kinh hệ vững chắc không ǵ lay chuyển và một ư chí cứng rắn như sắt đá. Tôi chăm chú nghe với tất cả tâm hồn, không mất một chữ nào. Những điều đó đối với tôi dường như quá khó khăn. Tôi không có một nghị lực cứng cỏi đến bực đó! Vị Sư Trưởng nói tiếp: - Ở đây con sẽ học y khoa và khoa chiêm tinh. Chúng ta sẽ giúp đỡ con về mọi mặt. Con cũng sẽ học các pháp môn bí truyền. Con đường của con đă được vạch sẵn, hỡi Lâm Bá. Tuy con mới có bảy tuổi, ta nói với con như nói với một người lớn, v́ vậy con đă được giáo dục như một người trưởng thành. Nói xong, Sư Trưởng khẽ nghiêng đầu, vị Chưởng Môn đoàn Sơ Cơ bèn đứng dậy và cúi rập ḿnh chào rất lâu. Tôi làm y theo vị Chưởng Môn và chúng tôi cùng lui ra. Khi về đến tư thất, vị Chưởng Môn mới phá tan sự im lặng: - Con hỡi, con sẽ phải làm việc nhiều. Nhưng chúng ta sẽ giúp đỡ con hết ḷng. Bây giờ, con hăy theo ta, để ta chỉ chỗ cho con đi cắt tóc. Ở Tây Tạng, khi một đứa thiếu sinh bước vào tu viện, người ta bắt y cạo hết tóc, chỉ trừ một cái chỏm nhỏ ở đỉnh đầu, cái chỏm này cũng sẽ được cạo luôn vào ngày mà y nhận được một pháp danh mới và bỏ cái tên cũ. Vị Chưởng Môn đưa tôi đi qua một dăy hành lang đến một gian pḥng nhỏ, dùng làm nơi hớt tóc, tại đây người ta bảo tôi ngồi xuống đất. Vị Chưởng Môn nói- Tâm Chu, ngươi hăy cạo sạch tóc cho người thiếu nhi này. Ngươi cũng cạo luôn cái chỏm v́ y sẽ nhận pháp danh luôn ngày hôm nay. Tâm Chu bước tới, với bàn tay mặt y nắm lấy cái bím tóc của tôi, giơ hẳn lên, và nói: - À, à, cậu nhỏ này. Bím tóc đẹp thật, thoa bơ láng bóng và giữ ǵn cẩn thận. Cắt nó đi thật là sướng tay xiết bao. Y bèn lấy một cây kéo rất lớn, giống như loại kéo mà những người nô bộc nhà tôi dùng để xén cây làm vườn, và gọi to: - Tư Tỷ, lại đây cầm dùm một đầu. Tư Tỷ, người phụ tá của y, chạy đến và kéo cái bím tóc của tôi mạnh đến nỗi tôi gần bị giơ hẳn lên khỏi mặt đất. Miệng há hốc, Tâm Chu bắt tay vào việc với cây kéo cùn. Sau nhiều cơn bực ḿnh và cằn nhằn, cái bín đă cắt xong. Nhưng đó chỉ là mới đầu. Người phụ tá đem tới một thau nước nóng bỏng đến nỗi, khi y dội nước lên đầu tôi, tôi đau điếng nhảy nhổm một cái. Người thợ cạo hỏi: - Có ǵ không ổn, hử, cậu nhỏ? Phỏng nước sôi chăng? - Phải đấy, nước nóng quá. - Đừng sợ, không việc ǵ, nước nóng như vậy, cạo tóc dễ hơn! Y vừa đáp vừa lấy con dao ba cạnh, h́nh tam giác, mà ở nhà tôi người ta thường dùng để cạo sàn gỗ mỗi khi rửa nhà. Sau cùng, sau một thời gian dài dường như vô tận, đầu tôi đă được cạo sạch. Vị Chưởng Môn bèn gọi tôi vào pḥng riêng và đặt cho tôi một pháp danh mới. Đó là một tên Tây Tạng rất dài, nhưng trong quyển sách này, tôi vẫn dùng cái tên cũ cho tiện. Kế đó, tôi được đưa vào một lớp học. Tôi cảm thấy đầu tôi trơ trẽn như một quả trứng mới đẻ. V́ tôi đă được hấp thụ một nền giáo dục tốt trong gia đ́nh, người ta cho rằng tôi có những kiến thức cao hơn mữ trung b́nh, nên họ xếp tôi vào lớp học của những thiếu niên sơ cơ mười bẩy tuổi. Tôi cảm thấy như một người tí hon sống giữa những người khổng lồ. Những thiếu niên này đă thấy tôi đánh ngă Nga Quắn, nên không ai muốn quấy rầy tôi, trừ ra một đứa lớn xác và ngu xuẩn. Y tiến đến gần từ phía sau lưng tôi và đặt hai bàn tay to lớn và dơ bẩn lên đầu tôi, hăy c̣n rát và ê ẩm v́ mới cạo trọc. Tôi đứng phắt dậy và với một đầu ngón tay, tôi điểm nhẹ vào phía dưới cùi chỏ của y, làm cho y lùi lại thét lên v́ đau đớn. Sau vụ ấy, các đứa trẻ khác bèn để tôi yên. Vị Chưởng Môn vừa quay lưng khi đứa trẻ đặt hai tay lên đầu tôi, sau đó mới được biết những ǵ đă xảy ra. Nhưng kết qủa của vụ xung đột làm cho Vị Chưởng Môn bất giác cười lớn đến nỗi Người vui ḷng để cho chúng tôi về sớm. Lúc ấy đă gần tám giờ rưỡi, chúng tôi c̣n được tự do trong ba khắc đồng hồ trước khi cuộc dự lễ tối đúng chín giờ một khắc. Nhưng tôi đă quá vội mừng. Một vị Lạt Ma ra hiệu cho tôi bước lại gần vào lúc tôi vừa ra khỏi lớp học. Tôi bước đến gần, người nói: "Hăy theo ta". Tôi vâng lời đi theo và tự hỏi không biết chuyện ǵ đang chờ đợi tôi đây. Vị Lạt Ma bước vào một pḥng âm nhạc, tại đây có độ hai chục thiếu nhi mới, cũng như tôi. Ba nhạc công sắp sửa chơi nhạc, một người đánh trống, một người thổi tù và, và người thứ ba thổi kèn bằng bạc. Vị Lạt Ma nói: - Tất cả mọi người cùng hát, để ta có thể sắp đặt giọng hát từng nhóm trong cuộc hợp ca. Các nhạc công đánh một bản nhạc rất quen thuộc mà ai cũng hát được. Chúng tôi vừa cất tiếng hát... th́ cặp chân mày của vị Nhạc Sư đă nhướng lên rất cao! Sự ngạc nhiên hiện trên gương mặt người, kế đó sắc diện người lộ vẻ đau đớn khôn tả. Người đưa hai tay lên tỏ dấu phản đối và kêu to: - "Ngưng lại! Ngưng lại tất cả! Các em xé cả lỗ tai của đấng Thánh Thần! Hát lại từ đầu và coi chừng!" Chúng tôi hát lại lần nữa, nhưng lần này, người cũng chận chúng tôi lại. Lần này, người bước đến trước mặt tôi và nói: - Thằng ngốc, mi định chế nhạo ta chăng? Lần này khi trỗi nhạc mi sẽ hát một ḿnh v́ mi không muốn ḥa giọng với những đứa khác. Một lần nữa, các nhạc công lại trỗi nhạc, và một lần nữa tôi lại hát. Nhưng không được lâu. Vị Nhạc Sư hoàn toàn thất vọng và giận dữ khoa chân múa tay trước mặt tôi và nói: - Lâm Bá, âm nhạc không phải là một trong những tài năng của mi. Trong năm chục năm trời từ ngày ta đến đây, ta chưa bao giờ nghe một giọng hát vụng về như thế. Vụng về ư? Được vậy c̣n đỡ. Giọng mi hoàn toàn sai, vô phương cứu văn. Này thằng nhỏ, mi sẽ không được hát nữa. Trong giờ âm nhạc, mi sẽ học một môn khác.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 19 of 45: Đă gửi: 01 April 2004 lúc 9:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Khi dự lễ trong nội điện, mi phải câm miệng lại, không th́ mi làm hỏng tất cả. Bây giờ, mi hăy cút đi, thứ lỗ tai trâu! Thế là, tôi lánh đi chỗ khác chơi. Tôi đi dạo chơi cho đến khi những tiếng kèn điểm giờ hành lễ cuối cùng trong ngày. Chỉ mới ngày hôm qua tôi bước chân vào tu viện, nhưng tôi có cảm tưởng rằng dường như tôi đă có mặt nơi đây từ thuở xa xăm nào! Tôi cảm thấy rằng tôi đi như người mê ngủ và tôi bắt đầu cảm thấy đói. Có lẽ như vậy c̣n hay hơn, v́ nếu lúc ấy tôi no bụng th́ chắc là tôi đă ngủ gật. Có người nắm lấy tay áo tôi và giơ hẳn tôi lên trên không. Một vị Lạt Ma cao lớn, vẻ mặt hiền ḥa, đặt tôi ngồi trên hai vai rộng của người, và nói: - Con hỡi, coi chừng con đến trễ giờ dự cuộc lễ tối và con sẽ bị quở. Nếu con đến trễ, con sẽ không được ăn, và chừng đó bụng con sẽ rỗng không như một cái trống! Khi vị Lạt Ma bước vào nội điện, người vẫn c̣n khiêng tôi trên vai. Người ngồi ngay phía sau những tấm nệm dành riêng cho đám sơ cơ và cẩn thận đặt tôi ngồi xuống trước mặt người. Người nói: - Con hăy coi đây, và lập lại những ǵ ta nói. Nhưng khi ta cất tiếng hát thánh ca, th́ con hăy im lặng chớ mở miệng đó nhé, a ha! Tôi thầm biết ơn vị Lạt Ma đă có ḷng ưu ái đối với tôi. Từ trước đến giờ, ít có người đă tỏ ra tốt bụng đối với tôi. Sự giáo dục mà tôi đă hấp thụ được trong quá khứ chỉ là đặt trên một nền tảng quát tháo, thịnh nộ hay đánh đập. Tôi đă ngủ thiếp đi trong một lúc. Khi đó tôi giật ḿnh thức dậy, tôi nhận thấy rằng cuộc lễ tối đă chấm dứt tự bao giờ. Vị Lạt Ma đă cơng tôi đến pḥng ăn khi tôi c̣n đang mê ngủ, và đặt tôi ngồi xuống trước bàn, trên đó người đă đặt sẵn trà bơ, Tsampa và rau đậu nấu chín. Người nói: - Con hăy ăn no, rồi đi ngủ! Ta sẽ chỉ cho con biết buồng ngủ của con. Đêm nay, con có quyền ngủ thẳng giấc đến năm giờ sáng. Con hăy đến gặp ta khi con thức dậy. Đó là những lời cuối cùng mà tôi nghe trước khi tôi thức giấc vao lúc năm giờ sáng. Một thiếu niên sơ cơ đă tỏ ra có thiện cảm với tôi từ đêm trước, đến đánh thức tôi dậy một cách rất khó khăn giữa lúc tôi c̣n mê man giấc điệp. Khi thức tỉnh tôi mới thấy rằng tôi đă nằm trên tấm nệm giữa một pḥng lớn. Người thiếu niên nói: - Vị Lạt Ma Minh Gia Đại Đức đă dặn tôi đến đánh thức sư huynh đúng năm giờ sáng. Tôi ngồi dậy và xếp ba tấm nệm chồng chất lên nhau sát vách tường theo gương những đứa trẻ khác. Tất cả những trẻ sơ cơ đă ra ngoài; người bạn trẻ của tôi bèn nói: - Chúng ta hăy ăn điểm tâm; rồi sau đó tôi sẽ đưa sư huynh đến gặp Minh Gia Đại Đức. Khi đó, tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn, không phải tôi thích tu viện hay tôi muốn ở lại đó, mà tôi nghĩ rằng v́ không thể làm sao hơn, nên tốt nhất là tôi nên êm thuận và ḥa ḿnh với hoàn cảnh. Đến giờ ăn điểm tâm, vị sư xướng ngôn đọc bằng một giọng trầm một đoạn kinh rút trong một trăm mười hai quyển của bộ kinh Kangyur của Phật Giáo Tây Tạng. Vị sư hẳn đă nh́n thấy tôi đăng trí và lo ra, v́ th́nh ĺnh người gọi giật tôi lại: - Này, thằng nhỏ, ta vừa mới nói những ǵ? Hăy trả lời mau! Nhanh như chớp và không suy nghĩ một giây đồng hồ tôi đáp ngay: - Bạch sư ông, ngài vừa nói rằng: Thằng nhỏ này đăng trí không nghe ta đọc kinh, ta phải bắt nó tại trận! Câu trả lời ấy làm cả cử tọa đều bất giác cười ầm lên, và nhờ đó tôi khỏi bị đ̣n v́ tội vô kỷ luật. Vị sư cũng mỉm cười, đó là một việc hiếm có và giải thích rằng người muốn tôi lập lại đoạn kinh người vừa đọc, nhưng thôi, "Lần này th́ như vậy cũng được". Mỗi bữa ăn, vị sư xướng ngôn đều ngồi trước một bàn nhỏ và đọc những đoạn kinh phật. Các sư săi không được phép nói chuyện trong giờ ăn, hoặc nghĩ đến những chuyện riêng tư, mà phải lắng tai nghe đọc kinh. Họ phải tiêu thụ thánh giáo cùng một lượt với thức ăn. Chúng tôi tất cả đều ngồi trên những chiếc nệm đặt dưới đất và ăn trên những chiếc bàn nhỏ cao độ năm tấc Tây. Không ai được gây tiếng động hoặc để cùi chỏ lên bàn, v́ đó là những điều bị tuyệt đối cấm nhặt. Tại tu viện Chakporl, người ta áp dụng kỷ luật sắt. Danh từ Chakporl có nghĩa là "Thiết Sơn" hay núi sắt. Trong phần lớn các tu viện, kỷ luật thường lỏng lẻo và thời khắc biểu không được áp dụng chặt chẽ. Các sư săi có thể làm việc hoặc nghỉ ngơi tùy ư. Có thể chỉ có một người trong hàng ngàn sư săi thật t́nh muốn tiến bộ tâm linh, và chính người đó mới trở nên một vị Lạt Ma, v́ danh từ Lạt Ma có nghĩa là "Thượng nhân", và không áp dụng cho bất cứ người nào. Trong tu viện của chúng tôi kỷ luật rất chặt chẽ và thậm chí c̣n gắt gao là khác. Chúng tôi phải trở thành những người lănh đạo của giai cấp tu sĩ. Đối với chúng tôi, th́ trật tự và giáo dục là tuyệt đối cần thiết. Chúng tôi không được phép mặt áo trắng là màu áo thông thường của cấp sơ cơ: Áo của chúng tôi mặt phải là màu đỏ sậm như áo của các vị sư săi. Chúng tôi cũng có những kẻ nô bộc để sai khiến nhưng đó là những săi lao công, nô bộc, có phận sự quét dọn, lao chùi và côi sóc phần sinh hoạt thực tế của tu viện. Chúng tôi thay phiên nhau làm công việc hèn mọn này, để cho những ư nghỉ tự phụ, kêu căng không có chỗ mà chen vào đầu óc của ḿnh. Chúng tôi phải luôn luôn nhớ câu sáo ngữ Phật Giáo: "Hăy tự ḿnh nêu gương tốt cho kẻ khác. Hăy làm điều thiện và tránh mọi điều ác. Đó chính là giáo lư của Phật vậy". Vị Sư Trưởng của tu viện, tức vị Lạt Ma Champa La, cũng nghiêm khắc như cha tôi và đ̣i hỏi một sự vâng lời tuyệt đối. Một trong những lời dạy mà người thường hay nhắc đến là: "đọc và viết là những then chốt của mọi đức tính". Bởi đó, trên lănh vực này, chúng tôi có rất nhiều việc phải làm.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 20 of 45: Đă gửi: 02 April 2004 lúc 9:59am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỜI NGƯỜI TU SĨ SƠ CƠ
Tại tu viện Chakpori, một "Ngày" của chúng tôi bắt đầu từ lúc nửa đêm. Khi tiếng kèn điểm giờ tư canh ba vang dội âm thanh đến những hành lang u tối, chúng tôi c̣n đang ngái ngủ, đă phải thức dậy xếp lại nệm chiếu và ḍ dẫm t́m cái áo tràng trong bóng tôi. Mặt áo xong, chúng tôi vừa bước ra đi vừa dồn mọi đồ vật dụng vô áo tràng. Chúng tôi bước xuống than lầu và nện gót giầy trên cầu thang với những tiếng động ồn ào, v́ vào giờ này, chúng tôi thường bực bội không vui. Trong phần giáo lư của chúng tôi có câu: "Thà nghỉ ngơi với một tâm hồn an tỉnh hơn là ngồi tham thiền tụng niệm mà ôm cơn tức giận trong ḷng". Tôi thường có một ư nghỉ bất kín: Nếu vậy tại sao người ta không để cho chúng tôi nghỉ ngơi trong sự yên tỉnh? Sự thức giấc vào lúc nửa đêm này làm cho tôi tức giận! Nhưng không ai đă đưa cho tôi một lời giải đáp thỏa đáng, thành thử tôi phải đi cùng với mọi người vào nhà Nguyện Đường để dự cuộc lễ cầu nguyện ban đêm. Tại đây, vô số những ngọn đèn thắp bằng bơ chiếu ánh sáng rung rinh xuyên qua những luồng khói hương nghi ngút bay lượng trong không khí. Dưới ánh sáng lập lè này, và giữa những bóng người qua lại, những pho tượng khổng lồ của các vị Thần dường như cũng cử động và h́nh như cũng nghiên ḿnh đáp lại những tiếng thánh ca của các sư săi. Hàng năm các sư săi và thiếu niên Sơ Cơ ngồi xếp bằng trên những tấm nệm xếp thành những hàng dài trong nhà Nguyện Đường. Họ ngồi day mặt đối diện với một hàng và xoay lưng vào một hàng. Họ cất tiếng hát những bản thánh ca du dương dùng những tiết điệu đặt biệt, v́ người Đông Phương đă từng hiểu biết về những quyền năng của âm thanh. Cũng như một âm thanh được phát ra đúng cách, có thể làm bể một cái ly th́ một bản nhạc dùng nhiều thanh điệu ghép lại theo một tiết điệu nhất định cũng có quyền năng siêu h́nh, thần bí. Trong buổi lễ, cũng có đọc kinh Kangyur. Thật là một cảnh tượng huy hoàng mà thấy hàng trăm sư săi mặt áo tràng màu đỏ sẫm, với mảnh lụa yểm tâm màu vàng che trước ngực, vừa nghiêng ḿnh vừa hát ḥa tấu những bài thánh ca, kèm theo tiếng ngân của những cái chuông nhỏ và tiếng trống. Những đám khói hương trầm và đèn nhang nghi ngút luồng qua chân các pho tượng thần khổng lồ và người ta có cảm giác rằng giữa cái ánh sáng âm u đó, những pho tượng ấy cũng nh́n chúng tôi dường như để chứng kiến cuộc lễ uy nghiêm. Buổi lễ kéo dài gần một giờ, sau đó chúng tôi trở về pḥng để ngủ lại cho đến bốn giờ sáng. Một cuộc lễ sớm bắt đầu vào lúc bốn giờ một khắc. Đến năm giờ, chúng tôi ăn điểm tâm với Tsampa và trà pha bơ. Dẫu cho trong khi ăn, chúng tôi cũng c̣n phải lắng nghe giọng nói đọc âm chán phèo của vị sư xướng ngôn, trong khi đó, vị sư giám thị ngồi kế bên ḍ xét chúng tôi với cặp mắt cú vọ. Trong dịp này người ta đưa ra cho chúng tôi tất cả mọi thông tri và huấn lệnh. Thí vụ như trong trường hợp có việc cần phải đi ra thành phố Lhassa, th́ trong giờ ăn điểm tâm người ta nêu tên những sư săi có phận sự lănh công việc đó. Những vị này mới được phép rời khỏi tu viện trong một khoảng thời gian nhất định và được phép vắng mặt trong một vài buổi lễ trong ngày. Đến sáu giờ, chúng tôi vào lớp học, sẵn sàng học buổi học đầu tiên. Lời răn thứ nh́ của Phật Giáo Tây Tạng dạy rằng: "Người sẽ làm tṛn bổn phận tôn giáo và người sẽ học hỏi kinh thánh". Trong sự ngây thơ của tuổi lên bảy, tôi không hiểu tại sao người ta phải tuân theo Lời Răn này trong khi lời răn thứ năm: "Ngươi phải kính trọng những bậc trưởng thượng và những người thuộc ḍng quư tộc". Lại không được tuyệt đối tuân theo? Thật vậy, kinh nghiệm của tôi cho tôi thấy rằng có một cái ǵ hổ thẹn mà sinh trưởng làm con nhà "Quư phái". Tôi thật sự đă là nạn nhân của sự "Quư phái" đó. Hồi đó tôi không hiểu rằng giai cấp của một người không phải là điều quan trọng mà chỉ có đức hạnh mới là đáng kể. Đến chín giờ, chúng tôi ngưng học trong bốn mươi phút để dự một cuộc lễ khác. Sự gián đoạn này đôi khi cũng dễ chịu nhưng chúng tôi phải trở về lớp học vào mười giờ kém mười lăm phút. Khi đó, một môn học khác lại bắt đầu và kéo dài cho đến một giờ trưa. Chúng tôi vẫn chưa được phép ăn uống ǵ và phải dự một cuộc lễ trưa độ nửa giờ trước khi dùng bữa ăn trưa gồm có Tsampa và trà pha bơ. Kế đó là một giờ làm công việc nhà để giúp cho chúng tôi vận động cơ thể và để dạy chúng tôi đức tính khiêm tốn. Những công việc dơ bẩn nhất và khó chịu nhất được giao phó cho tôi, dường như nhiều lần hơn là tới phiên tôi phải làm. Đến ba giờ chiều chúng tôi tụ hợp lại để nghỉ ngơi một tiếng đồng hồ. Trong giờ đó, sự nghỉ ngơi bị bắt buộc; cấm không được nói chuyện hay cử động; chúng tôi phải giữ im lặng hoàn toàn. Chúng tôi không thích sự sắp đặt đó chút nào, v́ một giờ th́ ít quá để ngủ trưa và dài quá để ngồi yên không làm ǵ! Sau giờ nghỉ trưa đó, đúng bốn giờ, chúng tôi trở lại lớp học. Đến đây mới bắt đầu giai đoạn gian lao nhất trong ngày, nó kéo dài suốt năm tiếng đồng hồ, không một chút nào nghỉ ngơi, trong năm tiếng đồng hồ đó chúng tôi không được phép rời khỏi lớp học v́ bất cứ một lư do nào, nếu trái lệnh, chúng tôi sẽ bị trừng phạt rất nặng nề. Các vị thầy học sử dụng những gậy gộc to lớn một cách tự do và có vài vị tỏ ra rất sốt sắng trong việc trừng phạt những kẻ vi phạm. Chỉ có những học tṛ nào không thể chịu đựng được nữa hoặc những kẻ thật ngu xuẩn mới xin phép vắng mặt "đi ra ngoài" v́ khi họ trở về lớp, sự trừng phạt là điều không thể tránh khỏi. Đến chín giờ tối, chúng tôi mới được "Giải thoát" để dùng bữa ăn cuối cùng trong ngày, cũng chỉ gồm có bấy nhiêu món là trà bơ và Tsampa. Đôi khi, nhưng cũng rất hiếm, chúng tôi được ăn rau, thường là những khoanh củ cải trắng hay đậu Ḥa Lan. Những thứ rau đậu này chỉ ăn sống, nhưng cũng ăn được đối với những thiếu niên sinh bụng đói. Có một lần, năm tôi lên tám tuổi, người ta cho chúng tôi ăn búp măng Tây trộn dấm. Tôi rất thích ăn măng tây, v́ tôi thường được ăn món ấy hồi c̣n ở nhà. V́ ăn c̣n thèm, tôi đă dại dột đề nghị với một bạn trẻ ngồi gần bên để đổi cái áo tràng thứ hai của tôi lấy phần ăn của nó. Vị sư giám thị bắt gặp quả tang chuyện này, bèn gọi tôi ra đứng giữa pḥng ăn để công khai thú tội trước mặt mọi người. Để trừng phạt tội tham ăn của tôi, tôi phải chịu nhịn đói, nhịn khát trong hai mươi bốn giờ. C̣n cái áo tràng của tôi th́ bị tịch thu, họ viện lẽ rằng nó không có ích lợi ǵ cho tôi, v́ tôi đă muốn đổi nó lấy một vật không cần thiết lắm! Đến chín giờ rưỡi, chúng tôi trở về pḥng. Ai cũng muốn về mau để đi ngủ! Lúc đầu, tôi nghĩ rằng những giờ học dài quá mức đó có thể làm hại sức khỏe tôi, và có lẽ tôi sẽ lăn ra chết bất cứ lúc nào hoặc tôi sẽ ngủ luôn để không bao giờ thức dậy nữa. Cùng với những ma mới khác, chúng tôi thường rút lui vào một góc hẻo lánh để ngủ gà một giấc. Nhưng lần lần, tôi đă quen rất mau với cái thời khắc biểu khắc nghiệt đó, và sau cùng, những chuỗi ngày dài vô tận đó không c̣n làm cho tôi khó chịu nữa. Lúc ấy đă gần sáu giờ khi người thiếu niên dẫn đường đưa tôi đến trước cửa tư thất của Minh Gia Đại Đức. Tuy tôi không gơ cửa, người cũng lên tiếng trước gọi tôi vào. Pḥng khách của Đại Đức rất trang nhă với những bức tranh tuyệt đẹp, vài bức tranh được vẽ ngay trên tường và những bức họa khác được vẽ trên những tấm màn trướng bằng lụa. Trên những bàn nhỏ có sắp những pho tượng các vị thần hay thần nữ bằng vàng hoặc bằng cẩm thạch. Trên tường cũng có gắng một bánh xe luân hồi rất lớn, biểu tượng của định luật Tuần Hoàn trong vũ trụ, ngồi theo tư thế liên hoa trên một tấm nệm, trước một cái bàn đầy những sách vỡ, vị Lạt Ma đang nghiên cứu kinh điển khi tôi bước vào. Người nói: - Lâm Bá, con hăy ngồi đây gần bên ta, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều. Nhưng trước hết, đối với một thiếu niên đang ở tuổi sắp lớn, ta cần hỏi con một câu: Con có được ăn uống đầy đủ hay không? - Bạch Ngài, có. - Sư Trưởng có nói rằng chúng ta có thể làm việc chung với nhau. Chúng ta đă t́m thấy được tiền kiếp của con: Con đă tiến bộ khá lắm. Bây giờ chúng ta muốn phát triển lại vài khả năng và sở đắc mà con đă thu thập được trong kiếp sống vừa qua. Chúng ta muốn rằng trong khoảng vài năm, con sẽ thu hoạch được nhiều kiến thức hơn là một vị Lạt Ma có thể thu thập được suốt cả một đời. Nói đến đây, Đại Đức bèn ngừng lại và chăm chú nh́n tôi một lúc rất lâu, với đôi mắt sáng dường như soi thấu mọi vật. Người lại nói: - Mọi người phải được tự do chọn lựa con đường của ḿnh. Tương lai của con sẽ rất gian lao khổ cực trong bốn mươi năm nếu con chọn con đường tốt, nó sẽ đưa đến những phần thưởng lớn lao trong kiếp sau. Trái lại, trên con đường dở, con sẽ được giàu sang với đầy đủ mọi sự tiện nghi sung sướng của cơi trần nhưng con sẽ không có được sự tiến bộ tâm linh. Vậy con hăy tự ḿnh quyết định lấy. Nói xong, người nh́n tôi chờ đợi. Tôi đáp: - Bạch Ngài, cha con có nói rằng nếu con thất bại và rời khỏi tu viện, con không nên trở về nhà. Làm sao con có thể sống cuộc đời sung sướng tiện nghi nếu con không có nhà để trở về? Và ai sẽ chỉ dẫn cho con theo con đường tốt nếu con chọn đường đó? Đại Đức mỉm cười và nói: - Con đă quên rồi chăng? Chúng ta đă t́m thấy lại được kiếp trước của con. Nếu con chọn con đường dở, tức con đường dễ dăi tiện nghi, con sẽ được quy định ngôi thứ trong một tu viện như một vị Hóa Thân. Và trong vài năm, con sẽ được đưa lên chức vị Sư Trưởng. Cha con chắc sẽ không cho đó là một sự thất bại chứ? Tôi bèn hỏi tiếp: - Bạch Đại Đức, theo ư ngài đó có phải là một sự thất bại không? Người đáp: - Phải. Với tất cả những ǵ mà ta biết, th́ đối với ta, đó là một sự thất bại. - Bạch Đại Đức, ai sẽ hướng dẫn cho con? - Ta sẽ là người hướng dẫn con, nếu con chọn con đường tốt, nhưng con hăy tự ḿnh quyết định lấy, không ai có quyền ép buộc con hết cả. Tôi ngước mắt lên nh́n Đại Đức và tôi cảm thấy tôi yêu mến người đối diện với tôi lúc ấy: Một người cao lớn, với đôi mắt đen huyền, cái nh́n trong sáng, một gương mặt cởi mở và một vầng trán cao rộng. Phải, tôi cảm thấy tràn đầy thiện cảm đối với người! Tuy tôi mới lên bảy, cuộc đời tôi trước kia thật là vất vả khổ cực và tôi đă từng gặp gỡ nhiều nhân vật: Thật sự tôi có thể xét đoán tính chất của một người. Tôi nói: - Bạch sư phụ, con sẽ chọn con đường tốt và ước mong được làm đệ tử của Ngài. Tôi nói thêm với một giọng băn khoăn: - Nhưng chắc là con sẽ không thích làm việc nhiều! Đại Đức cất tiếng cười lớn, một giọng cười cởi mở, nó sưởi ấm ḷng tôi và nói: - Lâm Bá, ở đời không ai là người thích làm việc nhiều, nhưng ít có người thành thật nh́n nhận điều ấy. Đại Đức nh́n vào các giấy tờ trên bàn và nói: - Một phép luyện bí mật sẽ cần thiết để giúp cho con mở được năng khiếu Thần Nhăn. Sau đó, chúng ta sẽ sử dụng khoa thôi miên để hối thúc sự học hỏi của con cho mau có kết quả. Chúng ta sẽ giúp cho con tiến rất xa trên các lănh vực y khoa và Huyền Môn. Tôi cảm thấy e ngại trước một chương tŕnh bề bộn như thế: Nó hứa hẹn một sự làm việc ráo riết không ngừng và khó nhọc dường nào! Nhất là sau khi tôi đă trải qua bao nhiêu sự học vấn khắc khổ trong bảy năm qua, không hề có dư thời giờ cho các môn giải trí... và chơi diều! Vị Lạt Ma dường như đọc được tư tưởng của tôi. Người nói: - Thực vậy, con hỡi. Sau này con sẽ có thời gian để chơi diều nhưng đó sẽ là những con diều thật lớn và có thể chở người ngồi bên trong. C̣n hiện giờ, ta cần thiết lập một thời khắc biểu hợp lư đến mức tối đa. Sư phụ tôi lại cúi xuống mớ giấy tờ trên bàn: - Xem nào, từ chín giờ sáng đến một giờ trưa, có được chăng? Phải đấy, ta hăy bắt đầu như vậy. Con hăy đến đây mỗi buổi sáng đúng chín giờ thay v́ dự buổi lễ sáng và ta sẽ thảo luận về những vấn đề quan trọng. Buổi học đầu tiên sẽ là sáng mai. Con có muốn nhắn ǵ với cha mẹ con không? Ta sẽ đến viếng song thân của con ngày hôm nay. Con hăy đưa cho ta mớ tóc củ của con hôm trước! Điều đó làm tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Khi một thiếu niên được nhận vào tu viện, người ta xuống tóc cho y và gởi cái bím tóc dài vừa cắt xong cho cha mẹ y qua sự trung gian của một thiếu niên Sơ Cơ để chứng minh rằng con của họ đă được thâu nhận. Trong trường hợp này th́ chính Minh Gia Đại Đức đích thân đem cái bím tóc của tôi về nhà! Điều này có nghĩa là từ nay Đại Đức sẽ hoàn toàn đảm trách cuộc đời tôi và tôi đă trở nên đứa "Con tâm linh" của người. Minh Gia Đại Đức là một nhân vật rất quan trọng, một người có một trí thông minh hiếm có và được nổi tiếng khắp nơi ở xứ Tây Tạng.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|