Tác giả |
|
anhhaoquang Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 18 June 2006 lúc 6:30am | Đă lưu IP
|
|
|
Từ Đức Thích Ca Đến Phật Di Lặc
(Vô Nhất Đại Sư Hoà Thượng Thích
Thiền Tâm)
Tiết mục:
I.
Phật-pháp trong ba thời kỳ
II. Phật-pháp trong năm thời kỳ
III. Những lời huyền kư về thời mạt kiếp
IV. Đức Từ-Thị và hội Long-Hoa
Kinh sách tham khảo: Tam-Tạng-Kư-Lục, Nhơn-Vương-Kinh-Sớ, Kinh Đại-Tập-Nguyệt-Tạng,
Tân-Bà-Sa -Luận, Kinh Đại-Bi, Kinh Ma-Ha-Ma-Gia, Kinh Pháp-Diệt-Tận, Kinh
Di-Lặc-Hạ-Sanh, Kinh Trường-A-Hàm, An-Sĩ-Toàn-Thơ, Thái-Hư-Toàn-Thơ.
Đề yếu: Muôn vật giữa đời, có thạnh tất có suy, dù cho đạo pháp của Phật
cũng vậy. Nhưng động cơ chánh trong sự suy vong của nền đạo là do con người chớ
không phải do giáo pháp. Như hiện thời có thể nói Tam-tạng Kinh-điển đầy đủ hơn
xưa, nhưng sở dĩ gọi là mạt-pháp, v́ con người kém đạo đức căn lành không giữ
đúng theo lời dạy của Phật. Cho nên người xưa có câu: “Nhơn năng hoằng đạo, phi
đạo hoằng nhơn”, chính là ư nầy, “Người hay mở mang cho đạo, không phải đạo mở
mang cho người”, câu nầy chỉ có ư nghĩa phiến diện!
Về đạo Phật, theo thuyết tam thời, th́ hiện tại là thời mạt-pháp; theo thuyết
ngũ thời, hiện tại chính nhằm thời đấu tranh. Từ đây về sau, cứ đúng theo thật
tế mà nói, Phật-pháp có ở trong t́nh trạng tiệm suy, nếu có vùng dậy cũng chỉ
trong giai đoạn tạm thời, hay hoặc chỉ có ảnh hưởng bên ngoài. Vậy, nhất là
hàng Phật-tử, càng nên cố gắng thật học, thật tu, để duy tŕ pháp vận, lợi ích
thế gian, và phải làm với hết sức của ḿnh. Tuy nhiên, hết thạnh rồi suy, hết
suy lại thạnh, Phật Thích-Ca đă nhập diệt, Đức Di-Lặc sẽ kế tiếp giáng sinh,
nên chung qui chánh-pháp vẫn là bất diệt, chẳng qua chỉ tạm ẩn để phục hưng đấy
thôi.
Những vị muốn được dự vào Long-Hoa-tam-hội, nên kết duyên bằng cách quy kính hộ
tŕ Tam-bảo và thiết thực hành thiện ngay trong lúc nầy.
Tiết I: Phật Pháp Trong Ba Thời Kỳ
Khi một Đức Phật ra đời rồi nhập diệt, đạo pháp của vị
giáo chủ ấy được chia thành ba thời kỳ là: chánh-pháp, tượng-pháp và mạt-pháp.
Về pháp vận của Đức Thích-Ca, tham khảo trong ba tạng, các kinh, luật, luận đều
nói có hai thời chánh và tượng; luận Câu-Xá, kinh Tạp-A-Hàm duy nói một thời chánh-pháp;
riêng kinh Đại-Bi là có nói đủ ba thời mà thôi.
Về vấn đề trên, các Kinh-luận ghi chép cũng không đồng, đại khái có bốn thuyết:
1. Chánh-pháp 1.000 năm, tượng pháp 1.000 năm, mạt-pháp
10.000 năm, là thuyết của kinh Đại-Bi. Kinh Tạp-A-Hàm nói chánh-pháp 1.000 năm,
Luật-Thiện-Kiến nói chánh, tượng đều 1.000 năm; hai bộ kinh và luật nầy tuy một
không đề cập đến tượng, mạt, một không nói về mạt-pháp, song đại lược cũng đồng
với thuyết của kinh Đại-Bi.
2. Chánh-pháp 500 năm, tượng pháp 500 năm, là thuyết của
kinh Đại-Thừa-Tam-Tụ-Sám-Hối.
3. Chánh-pháp 1000 năm, tượng pháp 500 năm, là thuyết của
kinh Bi-Hoa
4. Chánh-pháp 500 năm, tượng pháp 1.000 năm, là thuyết của
các kinh: Đại-Tập-Nguyệt-Tạng, Hiền-Kiếp, Ma-Ha-Ma-Gia. Cổ lai, các bậc danh
Đức Phật-giáo bên Trung-Hoa đều thể dụng thuyết chánh-pháp 500 năm, tượng pháp 1.000
năm, và y cứ theo kinh Đại-Bi thêm vào phần mạt-pháp 10.000 năm.
Sao gọi là chánh, tượng và mạt-pháp? Sở dĩ nói chánh-pháp,
v́ “chánh” có nghĩa là “chứng”. Trong thời kỳ nầy, Đức Thế-Tôn tuy đă nhập diệt,
nhưng pháp nghi chưa cải, có giáo lư, có kẻ hành tŕ, có nhiều người chứng quả.
Nói tượng-pháp, v́ “tượng” có nghĩa “tương tợ”, tức là mường tượng. Trong thời
kỳ nầy đạo hóa chỉ c̣n mường tượng, pháp nghi lệch lạc, tuy có giáo lư, có
người hành tŕ, nhưng rất ít kẻ chứng đạo. Nói mạt-pháp, v́ “mạt” hàm ư “vi
mạt”, nghĩa là mong manh nhỏ nhiệm, như chót đầu lông chim nhỏ, như hạt bụi
điểm sương. Trong thời kỳ nầy đạo hóa suy vi, tuy có giáo lư, song rất ít kẻ
hành tŕ đúng pháp, huống chi là chứng đạo? Nhơn-Vương-Kinh-Sớ nói: “Có giáo
lư, có hành tŕ, có quả chứng, gọi là chánh-pháp. Có giáo lư, có hành tŕ không
quả chứng, gọi là tượng-pháp. Có giáo lư, không hành tŕ, không quả chứng, gọi
là mạt-pháp”. Thật ra, thời tượng pháp chẳng phải là không có quả chứng, song
bậc chứng quả như sao buổi sáng trên nền trời, khó t́m khó gặp; thời mạt-pháp
chẳng phải là không có người hành tŕ, song kẻ hành tŕ đúng theo giáo lư rất
ít, hầu như không có, nên mới gọi là không hành tŕ.
Trên đây là thuyết minh đại lược ba thời kỳ chánh, tượng,
mạt và di-pháp của Đức Thích-Ca-Mâu-Ni. Dẫn ra đoạn nầy, không phải bút giả cố
ư gây quan niệm chán nản tiêu cực cho hàng Phật-tử; nhưng ngoài sự tŕnh bày để
người học Phật biết thế nào là chánh, tượng, mạt, c̣n nói lên lời nhắc nhở đồng
nhơn nên nh́n vào thật hạnh, đừng để cho pháp đă mạt lại càng thêm mạt.
Tiết II: Phật Pháp Trong Năm Thời Kỳ
Theo Kinh Đại-Tập-Nguyệt-Tạng, sau khi Đức Thế-Tôn
niết-bàn, Phật-pháp sẽ diễn biến qua năm thời kỳ, từ thạnh đến suy. Năm thời ấy
gọi là Ngũ-kiên-cố, mỗi giai đoạn là 500 năm. Hai chữ kiên-cố trong đây, ư nói tùy
mỗi thời, nghiệp duyên và tâm niệm của chúng-sanh hướng theo mỗi chiều hướng
một cách bền chắc, ví như gốc cây to rễ bám đă sâu, khó nhổ lên hoặc xô cho lay
chuyển. Danh từ kiên-cố nầy, các Kinh-luận khác cũng thường dùng, như kinh
Pháp-Hoa có câu: “Diệu-Quang giáo hóa nay kiên-cố”. Năm thời kiên-cố như sau:
1. Giải-thoát-kiên-cố: Sau khi Đức Thế-Tôn niết-bàn, trong
500 năm đầu tiên, đệ-tử của Phật có nhiều vị chứng quả, được vào cảnh an vui
giải thoát. Thời kỳ nầy các phương diện học, tu, chứng đều thạnh, hành nhơn hiểu
sâu lẽ mầu, giữ ǵn giới hạnh, một trăm người tu có đến sáu bảy mươi vị đắc
đạo. Bấy giờ trong nhơn gian đầy dẫy những bậc thánh-hiền.
2. Thiền-định-kiên-cố: Sang 500 năm thứ hai, hàng Phật-tử
xuất-gia, tại-gia tuy ít kẻ chứng đạo như thời gian trước, song phần nhiều đều
thực hành đúng theo lời Phật dạy, đi sâu vào cảnh giới thiền định. Giai đoạn nầy,
trong một trăm người tu, có được sáu, bảy người chứng đạo.
3. Đa-văn-kiên-cố: Qua 500 năm thứ ba, đạo căn của
chúng-sanh đă cạn cợt hơn trước, người tu Phật đa số chỉ thích học rộng nghe
nhiều; các phương diện diễn dịch kinh sách, biện luận đạo lư được thạnh hành
khắp nơi. Lúc nầy kẻ thiết thật cầu giải thoát thâm nhập thiền định, c̣n ít có
người, huống chi là chứng quả. Tuy nhiên, trong muôn ức người tu, cũng có đôi
ba bậc đắc đạo.
4. Tháp-tự-kiên-cố: Sang 500 năm thứ tư, Phật-giáo đồ phần
nhiều hướng về việc cất chùa, xây tháp, bố thí, tụng kinh để cầu phước báo; về
phương diện văn tự rất ít có người, huống nữa là tu? Thuở xưa, cũng vào khoảng thời
gian nầy, bên Trung-Hoa có một bậc cao tăng là Tĩnh-Công. Sau khi ngài tham
thiền ngộ đạo, một vị tôn túc bảo rằng: “Ngày kia ông ra hoằng hóa, dưới ṭa có
đến 1.000 tăng chúng, song không kẻ nào là bậc xuất-gia”. Quả nhiên, sau
Tĩnh-Công đáp lời yêu thỉnh của Tiền-công, về trụ tŕ một ngôi chùa, tăng chúng
quy tụ đến số ngàn, song chỉ toàn là hạng tụng kinh để gieo căn lành phước báo
ở tương lai, không có vị nào tham thiền ngộ đạo. Cổ-đức quan niệm rằng: nghĩa
chân thật của “xuất-gia” là phải ra khỏi nhà tam giới, hay ít nữa ra khỏi nhà
phiền năo, không phải chỉ ra khỏi nhà thế tục vào cửa chùa, cạo tóc mặc áo
cà-sa là đủ. Cách bốn mươi năm về trước, những bạn đồng tham với Tĩnh-Công,
trong 1.000 người cũng được bảy tám mươi vị đại ngộ; không ngờ qua một thời
gian chẳng bao lâu mà lại có sự sai biệt dường ấy! Sự kiện nầy tương tợ các
sông rạch gặp cơn nước kém, mỗi ngày mực nước mỗi thấp xuống; căn cơ của
chúng-sanh trong thời giảm kiếp cũng như vậy.
5. Đấu-tranh-kiên-cố: Đến 500 năm thứ năm, nhơn loại v́
ngă chấp nặng, tự ái nhiều, chẳng những ngoài đời thường xảy ra cảnh tượng
tranh đua giết hại lẫn nhau, mà trong đạo cũng lắm kẻ chen lấn trên đường danh
nẻo lợi. Giai đoạn nầy, hàng đệ-tử Phật tuy nhiều, song đối với Tam-tạng
Kinh-điển ít người tin hiểu sâu, ít ai thiết thật v́ đạo, đi đúng với đạo trên phương
diện tự lợi lợi tha. Kinh Kim-Cang nói: “Năm trăm năm rốt sau” chính là thời kỳ
nầy.
Trong An-Sĩ-Toàn-Thơ có đoạn nói về t́nh trạng hơn kém của
phước báo xưa và nay như sau: “Con người do có đức nên mới được hưởng phước,
nếu đức đă giảm th́ tất cả đều giảm. Chẳng hạn như: thọ số lần lần giảm, phước
báo lần lần suy, ngũ cốc lần lần mất mùa, bảy báu lần lần ẩn một, y thực lần lần
khó khăn, dung mạo lần lần thô xấu, tư bẩm lần lần tối tăm, tinh thần lần lần
bại nhược, phong hóa lần lần hoang sơ, thân tộc lần lần bất ḥa, sưu thuế lần
lần cao nặng, tai nạn nước lửa trộm giặc lần lần thêm nhiều, người lành lần lần
điêu tàn, kẻ ác lần lần tăng thạnh, tà đạo lần lần phát hưng, Phật-pháp lần lần
hư phế. Lấy một ít việc để suy nghiệm: như thời xưa vào đời nhà Châu, Vơ-Vương
thọ 93 tuổi, Văn-Vương thọ được 97 tuổi. Trước Văn-Vương 1.000 năm, vua Hạ-Vơ
thọ 106 tuổi, vua Thuấn thọ 110 tuổi, vua Nghiêu thọ 117 tuổi. Trước vua
Nghiêu, vua Đế-Cốc ở ngôi 70 năm, vua Chuyên-Húc ở ngôi 78 năm, vua Thiếu-Hạo ở
ngôi 84 năm, vua Huỳnh-Đế ở ngôi 100 năm, vua Viêm-Đế ở ngôi 140 năm. Thời gian
tại vị mà c̣n dài như thế, thọ số tất cao biết dường nào! Thế th́ thuyết nhà
Phật nói thọ lượng nhơn loại lúc cực tăng được 84.000 tuổi, khi vào giảm kiếp
qua 100 năm bớt một tuổi, không phải là việc hoang đường. Cho nên Hàn-Dũ dâng
biểu tâu nói thời xưa không có Phật mà nhơn loại sống lâu, đời nay có Phật mà
thiên hạ chết yểu, là bởi ông ta chưa rơ thuyết giảm kiếp của nhà Phật. Đức Thích-Ca
ra đời lúc nhơn thọ giảm c̣n 100 tuổi, thuở ấy nhằm thời đại Châu-Chiêu-Vương
của Trung-Hoa. Bấy giờ thọ số con người thường trên dưới 100 tuổi nên theo pháp
chế nhà Châu, trai gái đến 30 tuổi mới được phép có chồng vợ. Từ đời
Châu-Chiêu-Vương đến nay đă gần 3.000 năm, thọ số con người chỉ trên dưới thất
tuần, trai gái mới 13, 14 tuổi đă sớm nghĩ đến đường t́nh ái. Lại có người khai
phát những mộ cổ từ đời nhà Tùy, Đường trở về trước, thấy xương của người xưa
to lớn, so với xương người thời nay cao hơn độ hai thước (thước Trung-Hoa). Thế
th́ thuyết “khi nhơn thọ cao, sắc thân của loài người tùy theo thọ số mà cao
lớn” cũng không phải là điều huyễn hoặc. Về trân bảo, như thuở đời Hạ, Thương,
Châu, khi các vương hầu tống tặng nhau, thường sắm lễ vàng ṛng mấy muôn lượng,
ngọc bạch bích mấy trăm đôi, chưa từng dùng thuần bạch kim. Đến đời nhà Hán mới
xen dùng bạch kim, những thứ ngọc dạ quang ánh sáng chiếu xa đôi mươi cỗ xe,
các nước nhỏ đều có. Đến nay th́ vàng, bạc là vật quí báu hi hữu, người ta lại pha
chế xen đồng bỏ vào; đây là triệu chứng bảy báu lần lần ẩn một vậy. Thuở xưa
quốc khố chứa không đủ lương tiền chi dụng trong mười năm gọi là “bất túc”,
chứa không đủ lương tiền chi dụng trong sáu năm gọi là “cấp”. Đời nay cầu cái
“cấp” c̣n không được; ấy chẳng phải triệu chứng sự thọ dụng về ăn mặc lần lần
khó khăn là ǵ? Thời xưa các bậc vương hầu c̣n đến núi rừng thôn dă để cầu
hiền, hoặc kết giao với người đạo đức; hàng khanh tướng tuy sang trọng, nhưng
không có công lớn chẳng dám ngồi xe quí. Người đời nay vừa được chút quan tước
đă coi rẻ bạn bè, xem thường làng xóm, cho đến trẻ không kính già, tṛ ngang
ngỗ với thầy. Đây là triệu chứng phong hóa lần lần hoang sơ, đồi trụy. Thuở xưa
các bậc cao tăng có khi vua mời không đến, vua xuống chiếu thơ cầu thỉnh tất
xưng tặng như bậc thầy; nên ngài Huyền-Trang tịch mà vua Cao-Tôn băi triều ba
ngày, và các bậc hiền vương hoặc thường giá lâm đến chùa, hoặc thỉnh pháp nơi
nội điện. Đời nay hàng sĩ thứ thấy tượng Phật không lễ, gặp bậc cao-tăng không
chào; ấy cũng bởi bên trong ít người đạo đức, bên ngoài nhiều kẻ ngạo kiêu. Đây
chính là triệu chứng Phật-pháp lần lần điêu phế vậy.
Tóm lại, năm thời kiên cố đi theo chiều kiếp giảm, nên căn
lành của chúng-sanh càng ngày càng kém. Phước đức căn lành của nhơn loại càng
kém, th́ trong đạo càng ngày ít bậc cao-tăng, ngoài đời càng ngày thêm nỗi đảo điên
tai nạn. Cảm tác cảnh thanh tu giải thoát của người xưa, Bát-Chỉ-Đầu-Đà đă có
câu:
“Mâu tháp
đăng hôn tăng nhập định.
Tùng chi
nguyệt lănh hạc sơ hoàn”
(Giường
lau đèn tối tăng vào định.
Trăng
lạnh cành thông bóng hạc về)
Trong
tăng giới ngày nay, khó t́m được phong độ tiêu sái ấy. Gần đây, Hư-Vân thiền-sư
xuất thần lên cung trời Đâu-Xuất, được nghe Di-Lặc Bồ-Tát nói pháp Duy-tâm-thức-định;
sau cùng Bồ-Tát thuyết kệ trong ấy có câu: “Kiếp nghiệp đương đầu. Cảnh tích
phổ giác”. Đại ư của hai câu nầy, Bồ-Tát bảo ngài Hư-Vân: “Dưới trần thế đang ở
trong giai đoạn khởi đầu của tam-tai tiểu-kiếp. Vậy ngươi hăy trở về nhắc nhở
khuyên mọi người nên giác ngộ, cố gắng tu hành”. Tân-Bà-Sa-Luận nói: “Nếu kẻ
nào thọ giới bất sát đúng pháp trong một ngày đêm, sẽ được tránh khỏi tai nạn
đao binh ở tương lai. Nếu kẻ nào đem ḷng ân cần trong sạch dùng một trái
Ha-lê-lặc cúng dường chư tăng, sẽ không gặp tai nạn tật dịch ở tương lai.
(Ha-lê-lặc là thứ trái có thể trị bịnh, người muốn tịnh thí có thể dùng thuốc
men để thay thế). Nếu kẻ nào sanh tâm bi mẫn, dùng một nắm cơm bố thí cho loài
hữu-t́nh, quyết định không gặp tai nạn cơ cẩn ở tương lai”.
Những ai
muốn chủng phước duyên, tránh tam tai tiểu-kiếp, nên thực hành các hạnh lành
như trên. Và muốn cho kiếp nạn được tiêu giảm, không chỉ sức của một đôi người,
mà tất cả mọi người phải đồng tâm hướng thiện.
|
Quay trở về đầu |
|
|
anhhaoquang Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 18 June 2006 lúc 6:31am | Đă lưu IP
|
|
|
Tiết
III: Những Lời Huyền Kư Về Thời Mạt Kiếp
Khi Đức
Thế-Tôn sắp niết-bàn, Ngài có huyền kư t́nh trạng trong đời mạt-pháp và lúc
chánh-pháp sắp diệt. Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật-tử xuất-gia
tại-gia tự kiểm điểm, gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.
Trong
kinh Đại-Bi, Đức Phật bảo: “Nầy A-Nan! Khi ta niết-bàn rồi, trong thời gian 500
năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo chánh-pháp, lần lần tiêu giảm; các bè
đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày tăng thêm nhiều. Do chúng-sanh phỉ báng
chánh-pháp, gây nhiều ác hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh
khiếp nổi lên. Bấy giờ có nhiều Tỷ-khưu đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm,
giới, huệ. Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng ṭa, pḥng xá, thuốc men,
rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời
nói như đao kiếm.
Cho nên,
A-Nan! Đối với những vị xuất-gia tu phạm hạnh, thân khẩu ư thực hành đạo từ bi,
ông nên cung cấp những thức cúng dường cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh
hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tin, hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế
nào cho họ không khởi ḷng năo loạn, nên vâng giữ điều nầy! Tại sao thế? V́
trong cơi ngũ trược vào thời mạt kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: đói, khát,
giặc, cướp, nắng hạn, băo lụt, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có
nhiều nhân duyên làm cho chúng-sanh bị xúc năo.
A-Nan!
Lúc bấy giờ có các hàng trưởng-giả, cư-sĩ, tuy bị nhiều sự khổ năo bức thiết,
song vẫn sanh ḷng tịnh tín, cung kính tôn trọng ngôi Tam-bảo, bố thí, giữ
giới, tụng kinh, tu các công đức, khuyên người y theo Phật-pháp làm lành. Do thiện
căn đó, khi mạng chung họ được sanh về Thiên-đạo, hưởng các điều vui. C̣n các
Tỷ-khưu ác kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất-gia; nhưng sau khi
xuất-gia, họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị
đọa vào ác đạo”...
Kinh
Đại-Tập nói: “Trong đời mạt-pháp, có những vua, quan, cư-sĩ ỷ ḿnh giàu sang
quyền thế, sanh tâm kinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất-gia. Nên biết những
kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết...”
Kinh
Ma-Ha-Ma-Gia nói: “Khi đấng Nhất-thiết-trí vào Niết-bàn rồi, một trăm năm sau,
có Tỷ-khưu Ưu-Ba-Cúc-Đa, đủ tài biện thuyết như Phú-Lâu-Na, độ vô lượng chúng.
Hai trăm năm sau, có Tỷ-khưu Thi-La-Nan-Đà, khéo nói pháp yếu, độ mười hai ức
người trong châu Diêm-Phù. Ba trăm năm sau, có Tỷ-khưu Thanh-Liên-Hoa-Nhăn
thuyết pháp độ được nữa ức người. Bốn trăm năm sau, có Tỷ-khưu Ngưu-Khẩu thuyết
pháp độ được một vạn người. Năm trăm năm sau có Tỷ-khưu Bảo-Thiên thuyết pháp
độ được hai vạn người, và khiến cho vô số chúng-sanh phát tâm Vô-thượng-bồ-đề.
Đến đây thời kỳ chánh-pháp đă chung măn. Sáu trăm năm sau, 96 thứ ngoại-đạo
phục hưng, nhiều tà thuyết nổi lên phá hoại chánh-pháp. Lúc ấy có Tỷ-khưu
Mă-Minh ra đời, dùng tài huệ biện hàng phục ngoại giáo. Bảy trăm năm sau, có
Tỷ-khưu Long-Thọ ra đời, dùng sức chánh trí xô ngă cột phướn tà kiến, đốt sáng
ngọn đuốc Phật-pháp. Tám trăm năm sau, hàng xuất-gia phần nhiều tham trước danh
lợi, giải đăi buông lung, trong trăm ngàn người tu, chỉ có một ít người đắc
đạo. Chín trăm năm sau, trong giới tăng ni, phần nhiều là hạng nô tỳ bỏ tục
xuất-gia. Một ngàn năm sau, các Tỷ-khưu nghe nói pháp bất-tịnh-quán,
pháp-sổ-tức, buồn chán không thích tu tập, trong trăm ngàn người chỉ có ít
người được vào chánh định. Từ đó về sau, lần lần hàng xuất-gia hủy phá
giới-luật, hoặc uống rượu, hoặc sát sanh, hoặc đem bán đồ vật của ngôi Tam-bảo,
hoặc làm hạnh bất tịnh, nếu có con th́ trai làm tăng, gái làm ni, chỉ c̣n số ít
người biết giữ giới hạnh, gắng lo duy tŕ và hoằng dương chánh giáo. Khi áo
cà-sa của tăng ni biến thành sắc trắng, đó là triệu chứng Phật-pháp sắp diệt...”
Trong
kinh Pháp-Diệt-Tận, Đức Phật bảo: “Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cơi
ngũ trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm
Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo
cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham trước mùi vị, không có từ tâm
tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau. Bấy giờ có các vị Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán
v́ bản nguyện hộ tŕ Phật-pháp, hiện thân làm Sa-môn, tu hành tinh tấn, đạo
hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng. Các bậc ấy có đức thuần hậu, từ
ái, nhẫn nhục, ôn ḥa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên
người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng-sanh một cách b́nh đẳng, tu nhiều công
đức, không nệ tổn ḿnh lợi người. Khi có những vị Sa-môn đạo đức như thế, các
Tỷ-khưu ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp,
xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên. Từ đó các Tỷ-khưu ác càng lộng
hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng,
làm các nghề không hợp pháp để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại
chúng-sanh không có chút từ tâm. Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất-gia làm
tăng ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật-pháp
suy vi chính là do bọn nầy. Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa
đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa
tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng
thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết. Nếu có đọc tụng
kinh văn, họ không rành câu, chữ, không t́m hỏi bậc cao minh, tự măn cầu danh,
cho ḿnh là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô,
để hy vọng mọi người cúng dường. Các Tỷ-khưu ma nầy sau khi chết sẽ bị đọa vào
Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh
làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam-bảo.
Lúc
Phật-pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái
lại, người nam phần nhiều kém ḷng tin tưởng, thường hay giải đăi khinh mạn,
không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa-môn th́ rẻ rúng chê
bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng-sanh, mưa nắng không điều
ḥa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bịnh dịch lưu hành, người chết vô số. Thời bấy
giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn
nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó t́m được
người lương thiện, c̣n kẻ ác th́ nhiều như cát ở băi biển, đạo đức suy đồi, chư
thiên buồn thương rơi lệ.
Nầy
A-Nan! Lúc đạo pháp ta sắp diệt, ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều
kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đă điểm bạc. Về phần người nam, bởi nhiều
dâm dật nên hay yểu chết, trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai
nạn nổi lên, như giặc cướp, bịnh tật, băo lụt, nhơn dân hoặc không tin hiểu đó
là nghiệp báo, hoặc v́ sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc thường. Bấy giờ
nếu có bậc Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do nghiệp ác của
chúng-sanh và sức ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai đến dự pháp hội. C̣n bậc tu
hành chân chánh, phần nhiều ẩn cư nơi núi rừng xa vắng, giữ đời sống an vui đạm
bạc, được chư thiên hộ tŕ. Khi nhơn thọ giảm c̣n 52 tuổi, áo cà-sa của hàng
Sa-môn đổi thành sắc trắng, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Bát-Chu-Tam-Muội tiêu diệt
trước, các kinh khác lần lần diệt sau, cho đến không c̣n văn tự.
Nầy
A-Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ
và mất hẳn. Đạo-pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ
đó về sau trải qua ức triệu năm, mới có Phật Di-Lặc ra đời giáo hóa
chúng-sanh”.
Tiết
IV: Đức Từ Thị Và Hội Long Hoa
Gần đây,
có nhiều thuyết tuyên truyền nói không bao lâu hội Long-Hoa sẽ mở, Đức Di-Lặc
sẽ ra đời giáo hóa chúng-sanh. Có người lại quả quyết rằng: độ chừng 40 năm
nữa, sẽ có hội Long-Hoa mở ra tại núi Cấm. Chẳng những ở Việt-Nam, mà thời gian
trước tại Trung-Hoa cũng có thuyết ấy. Đó là do những người của các giáo phái
khác không tham khảo chính xác về đạo Phật, nghe nói hội Long-Hoa rồi phụ họa
theo mà tuyên truyền, nếu có người thử hỏi ư nghĩa của hai chữ Long-Hoa, không
chừng họ chẳng hiểu nữa là khác! Cũng có giáo phái cố ư đem hội Long-Hoa của
đạo Phật làm của ḿnh, nên mới sanh ra sự đồn đăi như trên. Xét ra họ được điểm
tốt là khuyên mọi người cố gắng làm lành “để rồi gần đây sẽ gặp Di-Lặc”. Nhưng
cũng có điều lỗi lầm là đă vô t́nh hoặc cố ư làm sai lạc giáo thuyết trong kinh
Phật.
Theo
Phật-giáo, Đức Thích-Ca ra đời lúc nhơn thọ c̣n 100 tuổi. Qua mỗi trăm năm thọ
số con người bớt xuống 1 tuổi, giảm đến khi nhơn thọ c̣n 10 tuổi rồi lại tăng
lần đến lúc 84.000 tuổi là măn tiểu-kiếp thứ chín của trụ kiếp. Sang tiểu-kiếp
thứ mười, lúc nhơn thọ từ 84.000 tuổi giảm c̣n 80.000 tuổi, Đức Di-Lặc mới ra
đời. Từ khi Phật Thích-Ca niết-bàn đến nay đă được 2.508, ta tạm kể chẵn là
2.500 năm, mức sống con người hiện thời 75 tuổi là thượng thọ. Lấy mức nhơn thọ
75 tuổi kể theo số niên kiếp tăng giảm, th́ từ đây đến lúc Đức Di-Lặc ra đời
c̣n 8.805.500 năm nữa. Lúc Đức Di-Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc
đại thọ, cành cây như ḿnh rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên
gọi cây nầy là Long-Hoa-bồ-đề. Sau khi thành đạo quả, Phật Di-Lặc cũng ngồi nơi
đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long-Hoa-pháp-hội.
Theo
kinh Di-Lặc-Hạ-Sanh và Trường-A-Hàm, th́ khi Đức Di-Lặc giáng sinh, nhơn thọ
được tám muôn tuổi. Bấy giờ mực nước biển giảm xuống để lộ thêm 3.300
du-thiện-na đất liền, châu Nam-Thiệm-Bộ chu vi rộng được một vạn du-thiện-na.
Dưới đây là một đoạn kinh tả cảnh tượng vui đẹp thanh b́nh trong lúc đó:
Thuở ấy
nước giàu thạnh
Dân không bị h́nh phạt
Khỏi tất cả tai ách
Chúng nam nữ trong xứ
Đều do thiện nghiệp sanh.
Đất khắp nơi bằng phẳng
Không có những chông gai
Cỏ xanh tốt dịu mềm
Đi êm như bông nệm
Ngoài nội mọc lúa thơm
Đủ hương vị ngon lạ.
Các cây sanh y phục
Mọi vẻ đều tươi sáng
Cây cao ba câu-xá
Hoa trái thường sung măn.
Bấy giờ người trong nước
Đều sống tám muôn tuổi
Không có các tật bịnh
Tướng mạo rất xinh đẹp
Sắc lực đều đầy đủ
Tâm hằng được an vui
Khi biết ḿnh mệnh chung
Đến Thi-lâm xả thọ.
Chỗ Luân-vương đóng đô
Là thành Diệu-Tràng-Tướng
Dọc mười hai do-tuần
Bảy do-tuần ngang rộng.
Những kẻ ở trong đó
Đều đă chủng nhân mầu
Đây là nơi phước địa
Người hưởng cảnh nhàn vui
Lâu đài để trấn quốc
Bằng bảy báu nguy nga
Các cửa ngơ trong ngoài
Đều trang nghiêm mỹ lệ
Những hào lũy quanh thành
Cũng xây bằng chất báu
Hoa tươi khắp bốn bề
Chim lành bay đậu hót
Ngoài thành cây Đa-la
Đủ bảy ṿng bao bọc
Lưới đẹp cùng linh ngọc
Giăng nối các hàng cây.
Mỗi cơn gió thoảng qua
Tiếng linh khua thanh diệu
Dường như nhạc bát âm
Khiến ḷng người vui vẻ.
Trong ngoài nhiều ao hồ
Trong hồ nhiều sen lạ
Vườn hoa cùng hương lâm
Trang nghiêm cảnh thành ấy...
Đại
khái, nhơn loại thời đó đều xinh đẹp sống lâu, trai gái 500 tuổi mới có vợ
chồng. Cảnh vật trong nước sáng sủa tốt tươi, không có các loài ruồi muỗi rắn
rết độc trùng; gạch ngói sạn đều biến thành lưu ly. Con người thuở ấy không bị
khổ v́ chiến tranh, khỏi lo nhọc về sự ăn mặc. Tất cả đều hiền lành, tu mười nghiệp
thiện, sau khi chết phần nhiều được sanh lên cơi trời. Nhưng phước đức chưa
được đầy đủ, nên bấy giờ loài người c̣n có những nghiệp tướng như: nóng, lạnh,
đói, khát, tiểu tiện, đại tiện, tham dục, thích ăn uống, suy già. Tuy nhiên, do
phước nghiệp, khi đại tiểu tiện xong, đất chỗ ấy nứt ra rồi khép lại che dấu uế
vật, hoa sen đỏ liền ló lên tuôn ra mùi thơm đánh tan xú khí.
Vị
Luân-vương thời đó tên là Hướng-Khê. Vua cai trị bốn châu, có bảy báu, một ngàn
người con và đủ cả bốn binh. Trong nước có bốn kho tàng lớn; mỗi kho chứa trăm
vạn ức châu báu. Vị Quốc-sư cũng chính phụ tướng đại-thần đương triều là
Thiện-Tịnh Bà-La-Môn, ông nầy có bà phu-nhơn xinh đẹp tên là Tịnh-Diệu. Di-Lặc
Bồ-Tát từ cơi trời Đâu-Suất giáng sinh làm con trai của vợ chồng Quốc-sư.
Bồ-Tát lúc sanh ra, có đủ 32 tướng tốt, thân h́nh đầy đặn, khuôn mặt đoan trang
tươi sáng như trăng rằm, đôi mắt trong đẹp như cánh hoa sen xanh. Khi Bồ-Tát
lớn lên, ngài thông thuộc các nghề, kẻ tùy học được 84.000 người. Một năm nọ,
vua Hướng-Khê làm tràng Diệu-bảo để mở hội Thí-vô-giá, các phạm-chí v́ giành
giựt châu báu làm găy nát bảo tràng. Bồ-Tát thấy thế ngộ lư vô thường, xuất-gia
tu thành Phật, hiệu là Từ-Thị Như-Lai. Trong hội thuyết pháp đầu tiên, Đức
Từ-Tôn độ được 96 ức người thành đạo quả; hội thứ hai độ được 94 ức người và
hội thứ ba độ được 92 ức người. Nơi thiền-môn, vào kỷ niệm Đức Di-Lặc, chư tăng
ni thường đọc bài tán, trong ấy có câu: “Long-Hoa tam hội nguyện tương phùng”
(Ba hội Long-Hoa nguyền được gặp). Câu nầy là chỉ cho ba pháp hội đă nói trên. Nhưng
thật ra, Đức Từ-Thị Như-Lai thuyết pháp rất nhiều hội, chớ không phải chỉ có ba
hội ấy. Sở dĩ trong kinh nói có ba là muốn nêu ra tánh cách quan trọng và lớn
lao nhất của ba hội trong nhiều pháp hội đó thôi. Người nào muốn dự ba hội Long-Hoa,
nên thực hành đúng ba điều kiện, theo lời nguyện của Đức Di-Lặc như sau:
1. Những
vị tăng ni xuất-gia trong giáo pháp của Phật Thích-Ca-Mâu-Ni, nếu có thể giữ
ǵn giới hạnh trang nghiêm, tương lai sẽ được tham dự và độ thoát trong pháp
hội đầu tiên của ta.
2. Hàng
Phật-tử tại-gia, nếu giữ đúng Ngũ-giới, Bát-quan-trai-giới, phụng thờ và cung
kính cúng dường ngôi Tam-bảo, sẽ được độ thoát trong pháp hội thứ hai của ta.
3. Những
kẻ tuy chưa giữ giới, nhưng có ḷng chánh tín đối với ngôi Tam-bảo biết kính lễ
Phật và đem tâm thành cúng dường Phật, Pháp, Tăng, sẽ được độ thoát trong pháp
hội thứ ba của ta.
Trên đây
là đại lược về thời kỳ giáng sinh thành Phật của Đức Di-Lặc ở tương lai. Nếu vị
nào muốn nghe pháp và được hóa độ trong ba hội Long-Hoa, cần nên chú ư.
(
Nguồn: TV Hoa Sen)
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|