thanhtinh Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 30 May 2006 lúc 5:21am | Đă lưu IP
|
|
|
THIỀN ĐỊNH VÀ TỊNH ĐỘ
Lập trường căn bản của Phật Giáo Nguyên thủy, là do nơi tâm ta mà giải quyết tất cả mọi vấn đề. Giá trị thế giới cũng được quy định bởi trạng thái do tâm chủ tŕ: mê ngộ, hạnh phúc, khổ đau, ma quỷ, Phật Thánh: tất cả đều do nơi tâm. Đối với ư nghĩa này, lập trường của Phật Giáo Nguyên thủy tuy không thể nói là triết học Quan niệm-luận, nhưng ít ra là thực tiễn Duy tâm luận. Chúng ta có thể gọi là Do-tâm-luận hay cũng có thể gọi là Luân lư duy tâm luận. Nhưng bất luận mệnh danh như thế nào đi nữa, Phật Giáo lúc khởi thủy rơ ràng là lấy khuynh hướng Quan niệm luận làm đặc sắc, đó là điều ta cần ghi nhận nếu ta muốn hiểu rơ Phật Giáo. Song, điều ta cần lưu ư ở đây là: Phật Giáo tuy cho tâm là căn bản của hết thảy sự vật, nhưng quyết không phải hoàn toàn đóng khung tất cả trong chủ quan, phủ định hết thảy đối tượng của tâm ở ngoại giới. Đứng trên lập trường nhận thức mà xét th́ tâm, trong sự phát hiện, phải đủ cả phần chủ quan và khách quan. Về điều kiện khách quan đó, ít ra cũng phải dự liệu một thứ ngoại giới theo ư nghĩa đối tượng. Đương nhiên cái đối tượng đó không hẳn cần phải là thực tại khách quan mà cũng có thể là quan niệm hoặc ảnh tượng được cấu tạo trong nội tâm. Phật Giáo tuy trước sau vẫn đặt trọng ở nội tâm, nhưng về điều kiện phát động của tâm th́ ít ra ở thời đại Nguyên thủy Phật Giáo cũng đă thừa nhận sự tồn tại khách quan ngoài tâm. Và ngoài trường hợp nhận thức phổ thông ra, Phật Giáo c̣n khoáng trương cái đối tượng của Thiền định tư niệm, khuynh hướng cho đối tượng của tư niệm ấy một thực tại tính. Mà Thiền-định Tam Muội lại chiếm địa vị trung tâm trong tu hành quan của Phật Giáo nên cái đối tượng tự niệm ít ra cũng trở thành mục tiêu sinh hoạt tinh thần, và dưới nhiều h́nh thái đă h́nh thành chủng tử của thế giới quan Phật Giáo, từ Phật Giáo Nguyên thủy đến Đại Thừa, đều này đă trở thành đặc chất nhất quán của Phật Giáo.
Phật Giáo tuy lấy tâm hay quan niệm làm điểm xuất phát nhưng dần dần đă thừa nhận có thực tại khách quan. Do đó, vấn đề được nêu lên ở đây là: Như-lai và Tịnh Độ nên được coi là sự tồn tại trong quan niệm hay đó là thực tại khách quan?
Tưởng không cần nói ai cũng biết rằng đặc chất của giáo lư Đại Thừa lúc đầu, theo lập trường Đệ Nhất Nghĩa Đế, ít ra đă chủ trương thuyết "không", nghĩa là hết thảy không ngoài sự biến hiện của tâm, mà ngay chính cái tâm cũng không c̣n tồn tại tính: đó là lập trường của Phật Giáo Đại Thừa lấy Bát-Nhă làm trung tâm. Song, đồng thời, Đại Thừa giáo, để phương tiện đạt đến không quán thực tiễn đó, đă thành lập nhiều loại Tam Muội mà trong đó sự thanh tịnh hóa, tâm về mặt biểu tượng, là Tam Muội có một nội dung tích cực. Đặc biệt một điểm rơ rệt là nhờ tư niệm các đức Như-lai và các cơi Tịnh Độ của Ngài mà tâm được vui mừng, diệt bỏ được phiền năo, rồi dần dần tiến sâu vào không quán tự thân để tạo thành cái gọi là "Bát chu Tam Muội Phật hiện tiền định" hay là "Quán Phật Tam Muội". Trong Đại Thừa, đứng trên lập trường Thiền Định, có thể nói đă theo Phật hiện tiền Tam Muội hoặc Quá-Phật-Tam Muội này mà lập nên các thuyết về Phật-Đà. Mà điểm hữu hiệu nhất là tự niệm Phật A-Di-Đà và Tịnh Độ của Ngài là thế giới Cực Lạc, hay nói theo một ư nghĩa khác là quán Vô Lượng Thọ, đại khái là đại biểu cho Quán Phật Tam Muội. Cho nên, trong Đại Thừa lúc đầu, cái điều kiện tất nhiên để quán chư Phật là nhập Thiền Định, nói cách khác nếu xa ĺa Thiền quán th́ không thể thấy được Phật. Điều đó đă được nói rơ trong Bát-Nhă, Pháp-Hoa và nhất là trong kinh Quán Phật Tam Muội, kinh Bát Chu Tam Muội (kinh Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội), và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc của Ngài lúc đầu cũng đă do đối tượng của Thiền quán mà được thành lập. Bởi thế, cái gọi là Như-lai (Di Đà) và Tịnh Độ (Cực Lạc) bản lai là sự tồn tại trong quan niệm, đây là một sự thật hiển nhiên trong giáo lư của Phật Giáo.
Song, ở đây ta cần lưu ư: lúc đầu Như-lai hay Tịnh Độ điều chỉ là v́ phương tiện hoặc đối tượng của Thiền quán mà được thành lập, thế dần dần nó đă đạt đến một ư nghĩa và biểu tượng độc lập khách quan. Chủ nghĩa quan niệm tuy đă tiến đến cái gọi là "tự thân tức Di Đà, duy tâm tức Tịnh Độ", nhưng về phương diện thông tục hóa th́ Như-Lai và Tịnh Độ đă xa ĺa Thiền quán mà tự thân ở vào một phương sở nhất định, rồi do ḷng từ bi và năng lực trí tuệ mà tiếp dẫn và cứu độ những chúng sinh biết tư niệm đến. Do đó, đến đây, sự chỉ phương lập hướng không c̣n là một quyền nghi phương tiện nữa mà đă trở thành một chân lư như thực. Đúng như Phật Giáo Nguyên thủy_thời đại Tiểu Thừa giáo, do tâm thái Thiền mà rồi Dục, Sắc, Vô Sắc chung cùng đă tiến đến thế giới khách quan. Và cái tư tưởng dùng Thiền quán để đạt đến quả Bất Hoàn (sinh lên Thiên giới và ở đó nhập Niết-Bàn) của thời đại Nguyên thủy Phật Giáo đă được ứng dụng và biến thành tư tưởng niệm Phật Di Đà cầu văng sinh Cực Lạc và ở vào ngôi vị Bất Thoái Chuyển (tương đương với quả Bất Hoàn). Không bao lâu Cực Lạc được giải thích là một cảnh giới đứng sau Niết-Bàn: đó là lập trường của kinh Đại Vô Lượng Thọ.
Tịnh Độ giáo trong Phật Giáo thật đă khai triển như trên chứ không phải lấy Di Đà hay Tịnh Độ làm lư niệm mà là do tín ngưỡng cụ thể có thể thấy được thật sự, chính đó là cái đặc trưng của Tịnh Độ giáo. Nhất là Tịnh Độ giáo tại Trung Quốc và Nhật Bản đă ly khai ư nghĩa và hứng vị Thiền quán, chiếu theo văn tự mà nhận xét th́ việc nhờ ở sự dẫn dụ của Phật Di Đà ở thế giới Cực Lạc bên phương Tây mà được văng sinh đă trở thành tín ngưỡng đệ nhất nghĩa. Nói theo lập trường này th́ tuy Tịnh Độ giáo có đủ ư nghĩa quan niệm dự liệu bên trong, nhưng về mặt biểu diện th́ thuyết chỉ phương lập hướng của Thiện Đạo Đại sư ít ra cũng đại biểu cho chủ ư của Tịnh Độ giáo, nếu cho nó chỉ tồn tại trong quan niệm th́ nói theo một ư nghĩa nào đó, hẳn là đă đi ngược lại với Thánh Đạo Môn.
ĐIỂM LỢI. HẠI CỦA THUYẾT QUAN NIỆM VÀ THUYẾT THỰC TẠI
Bây giờ, lấy vấn đề Kim Tử (cho rằng Như-Lai và Tịnh Độ là sự tồn tại quan niệm) làm trung tâm để thảo luận vấn đề Tịnh Độ quan niệm và Tịnh Độ thực tại, th́ đứng trên lập trường giáo lư sử mà nhận xét, bất luận vấn đề nào cũng có lư do tương đương của nó. Sự bất đồng chủ yếu trong vấn đề này là: căn cứ vào điểm xuất phát là quan niệm Thiền mà nhận xét hay căn cứ vào kết quả của sự biểu tượng hóa của Thiền mà nhận xét? Nếu đứng trên lập trường chân tông truyền thống Tịnh Độ mà nói th́ thuyết của Kim Tử hơi tiền tiến thái quá, đó là điều công c̣n hồ nghi ǵ nữa. Song cái nhận xét đó dù có phù hợp với chân ư của Phật Gáio cũng như có thảo măn được nhu cầu lư tính của chúng ta không? V́ phương diện biểu tượng tuy có, nhưng cái lập trường nhất quán của Phật Giáo thông cả Tiểu Thừa và Đại Thừa là tất cả đều do nơi tâm, hơn nữa, cái căn cứ chung cùng của tôn giáo là phải t́m nơi tinh thần: đó là phương pháp bất biến từ ngàn xưa. Như vậy trong thuyết Quan niệm của Kim Tử, đứng về mặt truyền thống mà nói, có nhiều điểm hợp lư. Đối lại với vấn đề này là lư tưởng tôn giáo t́m ở ngoài tâm, theo thuyết truyền thống Chỉ phương lập hướng mà tiến hành, tín niệm Phật A Di Đà trong thế giới Cực Lạc ở phương Tây, cầu sự tiếp dẩn để mong được an tâm lập mệnh.
Như vậy, nếu có thể nói có điểm lợi, hại trong vấn đề quan niệm và thực tại th́ đó là do có chỉ dương thống hợp được hai phương diện này để t́m ra con đường chung mà tiến hành Tịnh Độ Giáo hay không. Duy có điều đáng tiếc là vấn đề này đă phát sinh nhiều nghị luận mà trong đó không có một người nào đă có thể thử đưa ra phương pháp điều ḥa hai thuyết trên đây. Đa Điền Đỉnh không cho thuyết quan niệm của của Kim Tử là quan niệm cá nhân của chúng ta mà lại cho nó là quan niệm của đức Thích Tôn rồi đưa ra ư kiến tu chính. Song khốn nỗi cái ư kiến tu chính đó lại không có được thỏa đáng tính lịch sử. Sự thống hợp chân chính là phải lấy lịch sử làm bối cảnh, biện minh đặc chất của giáo lư, rồi phải khảo lự điểm lợi, hại của yêu cầu mới có thể thí nghiệm được, bằng không th́ đó chẳng qua là sự độc đoán mà thôi.
THUYẾT SINH THÀNH THỐNG HỢP HAI THUYẾT TRÊN
Trong khi tổng hợp Quan niệm Tịnh Độ và Thực tại Tịnh Độ, đồng thời để cho phù hợp với mục đích của nó, đối với cuộc vận động xă hội của Phật Giáo, cần phải đề xuất một nguyên lư chỉ đạo. Đó là vấn đề coi Như-Lai và Tịnh Độ là mục tiêu lư tưởng có thể thực hiện ở tương lai. Nói cách khác, Như-Lai và Tịnh Độ tuy được coi như là quan niệm chủ quan, nhưng điều đó quyết không phải chỉ thuộc về không tưởng, mà do ư chí của ta, nó có thể được coi là một đồ án thực hiện được và sáng tạo được. Điều này căn cứ vào cái gọi là "Nghiệp Luận Tổng Hợp pháp" của Phật Giáo. Nghĩa là, nó được xây dựng trên thuyết Do Nhiệp (ư chí, hành vi, tập khí) mà h́nh thành cái lư pháp của chính ḿnh và thế giới trong tương lai, một đồ án lư tưởng giới dự định có thể thực hiện được. Nhận xét này phù hợp với tinh thần kiến thiết Cực Lạc thế giới của Phật Di Đà. Nói theo kinh Đại Vô Lượng Thọ th́ Phật A Di Đà, trong thời kỳ c̣n là Bồ-Tát, đă tham quan vô số Tịnh Độ, trải qua nhiều kiếp cố gắng, nhờ cái gọi là Bản Nguyện Nghiệp-lực, cuối cùng đă kiến thiết nên thế giới Cực Lạc. Tham-quan các Tịnh Độ chính là để cấu thành đồ án, nhiều kiếp tu hành và cuối cùng do nghiệp lực mà sáng tạo và thực hiện được. Nghĩa là, Phật Di Đà do đồ án mà sáng tạo Cực Lạc, c̣n chúng ta lại lấy Cực Lạc làm đồ án rồi nhờ vào nỗ lực của ư chí chúng ta mà trù hoạch việc thực hiện thế giới lư tưởng: đó là ư nghĩa quan niệm Như-Lai và Tịnh Độ. Duy Tịnh Độ của Phật Di Đà do Bản Nguyện nghiệp lực mà có, tuy đă được hoàn thành rồi, nhưng nói theo lập trường của chúng ta, th́ nó là cảnh giới sẽ được thực hiện trong tương lai. Đó là ư nghĩa Tịnh Độ đă phát xuất từ lập trường này. Trong kinh Pháp-Hoa và Bát-Nhă đều nói các Bồ-Tát do Bản Nguyện và nỗ lực, tương lai sẽ được thành Phật và kiến thiết Tịnh Độ riêng của ḿnh. Mà Bản Nguyện nghiệp lực. Tóm lại không ngoài nghĩa ư chí phát động hợp lư, do ư chí phát động hợp lư mà thế giới lư tưởng dần dần được sáng tạo và thực hiện: đó là căn cứ lư luận của việc kiến thiết Tịnh Độ. Do đó, nếu xuất phát từ lập trường này, việc kiến thiết Tịnh Độ, tuy cũng biến thành Bản Nguyện tự lực, nhưng thích ứng nó với ḷng khao khát thực hiện Như-Lai hay Tịnh Độ (gọi là Bồ Đề Tâm hay Phật Tinh) th́ quên mất nỗ lực tự kỷ, quên sự khổ nhọc của chính ḿnh mà lại hoài bảo tha lực giúp đỡ, do đấy mà đă không c̣n là tự lực mà thuần nhiên đă biến thành Bản Nguyện tha lực. Cái mô phạm để hoàn thành Như-Lai và Tịnh Độ tối cao cũng có thể được coi là tín ngưỡng. Di Đà và Cực Lạc đă biến thành chủ nghĩa tha lực chính cũng không ngoài cái kết quả cực độ đó. Song mà lư tưởng th́ bất luận ở đây cũng đều là lư tưởng; chân ư của Tịnh Độ văng sinh là ở như tự ḿnh thành A Di Đà, tự ḿnh cấu tạo thế giới Cực Lạc, đến đây th́ quan niệm và thực tại đă không nhất trí: đó là điểm ta không thể quên.
Tóm lại, sự liên lạc giữa quan niệm và thực tại là quá tŕnh sáng tạo của ư chí và căn cứ vào đó mà được đổi thành cái gọi là Tịnh Độ Sinh Thành. Mà quan điểm này, trừ kinh Đại Vô Lượng Thọ ra, c̣n nếu nhận xét theo lập trường của nhất ban luận th́, trên giáo lư sử của Phật Giáo, nó là Tịnh Độ quan có một địa vị trọng yếu. Duy có điều bất hạnh là cho tới nay ư nghĩa của Tịnh Độ quan đó vẫn chưa được thể hiện. Phật Giáo đồ ngày nay tuy đă khởi xướng nhiều hoạt động xă hội, nhưng v́ quá khổ tâm về lư tưởng nên đă quên đi ư nghĩa thiển cận của Tịnh Độ quan đó, nghĩa là họ đă quên đi vấn đề của chính ḿnh là kiến thiết Tịnh Độ ngay trong hiện thực giới. Cái gọi là Tịnh Độ là căn cứ vào sự hoán chuyển của tâm (Quán chiếu Tịnh Độ, hay nghệ thuật Tịnh Độ) hay phải đợi đến sau khi chết mới thực hiện được ở một cơi khác? Phật Giáo đồ tuy có những nguyên lư chỉ đạo xă hội rất phong phú nhưng không khai thác được chúng một cách triệt để. Nếu nghiên cứu kỹ ta sẽ thấy những phương châm cụ thể để chỉ đạo xă hội có đầy dẫy trong các Bản Nguyện của chư Phật và Bồ-Tát (xem lại mục "Sự khai triển của tư tưởng Bản Nguyện"). Đối với ư nghĩa đó, chúng tôi thường chủ trương vận dụng tinh thần Phật Giáo, trước hết là tinh thần Bản Nguyện theo ư nghĩa tôn giáo, đạo đức và văn hóa, vào ngay cuộc sống hằng ngày mà trái lại là để phát huy ư nghĩa đă có sẵn trong giáo lư Phật Giáo từ lâu rồi. Tôi tin chắc những vị nào đă từng nghiên cứu Phật Giáo theo lập trường văn hóa sử sẽ rất dễ đồng ư với quan điểm đó.
Nhưng chúng tôi cũng quyết không phải v́ nhiệt thành với đối tượng mà quên hay phủ định "thế giới bỉ ngạn" (thế giới bên kia). Song đồng thời với thế giới bỉ ngạn, ta cũng cần phải nổ lực thực hiện Tịnh Độ ngay trên "thế giới thử ngạn" (thế giới bên này) nữa: đó là nhiệm vụ mới của tất cả Phật Giáo đồ.
|