tiendong Hội viên


Đă tham gia: 13 April 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 17
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 30 May 2006 lúc 4:53am | Đă lưu IP
|
|
|
TỰ LỰC VÀ THA LỰC CỦA NGOẠI GIÁO
Sự an tâm lập mệnh của chúng ta là do chính chúng ta nổ lực mà đạt được hay do một cái ǵ ngoài chúng ta mà có? Về mặt tín ngưỡng tôn giáo, đây là một vấn đề rất lớn lao. Nếu nh́n qua các tôn giáo lớn trên thế giới, ta thấy như Cơ Đốc giáo, Hồi giáo và Bà La Môn giáo, đại để xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa tha lực; c̣n như Phật giáo (đặc biệt là Phật giáo Nguyên thủy), Kỳ Na giáo (Jainism) v.v... đại để xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa tự lực.
Song, thật ra đây chỉ là sự quan sát đại thể mà thôi. Nếu nói một cách chặt chẽ th́ tự lực, tha lực, về mặt đối tượng của tín ngưỡng, chưa hẳn là vấn đề nhất trí với sự lập nhân cách khách thể hoặc không lập nhân cách khách thể. Căn cứ theo lịch sử tôn giáo cho biết th́: trong những tôn giáo lấy tín ngưỡng lư trí làm chủ có cả phần tự lực lẫn tha lực; đồng thời, trong những tôn giáo ấy tín ngưỡng t́nh cảm làm chủ cũng lại bao gồm cả hai chủ nghĩa đó. Như vậy rất kháo mà quyết định một cách nhất khái được.
Bây giờ ta hăy thử quan sát vấn đề này như sau:
Tín ngưỡng của Cơ Đốc giáo, như trên đă nói, đại để là chủ nghĩa tha lực: sự cầu nguyện của Gia Tô không phải là để đạt đến ư chí của chính Ngài, mà là lấy ư chí của Thượng Đế để đạt đến ư chí của chính Ngài: đó là chỗ lập cước của Gia Tô. Song đến thời kỳ Thần Học được giải thích th́ vấn đề này không thể không được đề cập đến. Quan niệm cho rằng sự cứu rỗi là hoàn toàn nhờ vào ân huệ của Thượng Đế chứ con người không thể tự lực đạt đến được, đó là một phương diện. Ở một phương diện khác, đồng thời, cũng lại phát sinh một quan niệm cho rằng phải nhờ vào sự nổ lực của chính ḿnh mớii có thể được hưởng sự ân huệ của Thượng Đế. Dĩ nhiên, ở vào thời kỳ đầu của nền Thần Học, các học giả chưa có một quan niệm nhất định về vấn đề này.
Hiện giờ phái Thần học chính thống điều ḥa cả hai thuyết trên, chủ trương do tự lực và ân huệ mà được cứu rỗi để thành lập thuyết gọi là Thần nhân hiệp đồng luận (Synergisme), nhưng mà đạt đến điểm đó thật đă tốn nhiều công tŕnh tư lự. Một điều đặc biệt thú vị là giữa các phái Lạt Ma Nô Ca (thành lập vào thế kỷ 12 sau Tây lịch) tại Nam, Bắc Ấn Độ cũng đă có những cuộc tranh luận tương tự những những thuyết trên đây. Dĩ nhiên, tuy cùng mong cầu ân sủng tối cao của thần Tỳ Nữu Noa (Vis-nu) nhưng về điều kiện được cứu rỗi th́ lại có sự tranh luận về tự lực và tha lực bất đồng. Phái Nam phương (Tengaila) chủ trương: Thượng Đế cứu rỗi người ta cũng giống như mèo mẹ đối với mèo con vậy, nghĩa là mèo con không cần phải cố gắng uổng công mà mèo mẹ vẫn cứ tha chúng đi bất cứ chỗ nào mà nó cho là an toàn để ǵn giữ nuôi nấng. Cũng thế, con người không cần phải cố gắng mà Thượng Đế vẫn cứu rỗi như thường. Do đó mà người ta mệnh danh cho phái này là phái Miêu thuyết (Marjara Nyaya - Thuyết Con mèo), c̣n phái Bắc phương (Vadagala) th́ lại chủ trương: Thượng Đế tuy v́ ḷng bác ái mà cứu rỗi con người, nhưng để được cứu rỗi, con người cũng cần phải nổ lực một chút mới mong được ân huệ cứu rỗi, cũng giống như con vượn con ôm lấy bụng vượn mẹ mà được che chở hay di chuyển đến chỗ an toàn. Do đó mà người ta mệnh danh cho phái này là phái Viên Thuyết (Mar kata Nyaya - Thuyết Con Vượn). Như vậy Miêu thuyết chủ trương tha lực chủ nghĩa tuyệt đối vô điều kiện, c̣n Viên thuyết lại chủ nghĩa chủ nghĩa tha lực có điều kiện tự lực để tạo thành một chủ thuyết mà hiển nhiên là tương tự như thuyết Thần nhân hiệp đồng (Synergisme) của Cơ Đốc giáo vậy: có thể nói đây là điểm rất thú vị.
SỰ TRIỂN KHAI CỦA THUYẾT TỰ LỰC VÀ THA LỰC TRONG PHẬT GIÁO
Đứng trên lập trường tự lực chủ nghĩa mà nhận xét vấn đề này, ta thấy Phập Giáo Nguyên thủy dĩ nhiên đă không dựng lên một vị Nhân-Cách-Thần nào, mà trên đại thể, đă hoàn toàn là tự lực chủ nghĩa. Đến thời đại Bộ-phái, cũng có phái chủ trương theo đúng lời Phật dạy "Tự ḿnh thấp đuốc lên mà đi" và lấy đó làm phương châm tu dưỡng. Nhưng đến điểm ngộ nhập th́ trong đó lại phát sinh ra chủ trương tha lực, nghĩa là do người khác mà ngộ nhập Thánh-đạo. V́ nảy sinh ra tư tưởng đó (chủ trương của Đại-chúng-bộ) cho nên trong nội bộ giáo hội cũng lại phát sinh ra những mối tranh luận, đây là sự thật hiển nhiên trong thời kỳ đầu của lịch sử giáo hội. Về điểm này, đặc biệt thú vị là sự bất đồng giữa phái Du-Già (Yoga) và phái Số Luận (Samkhya). Phái Số Luận muốn do tự lực quan sát để đạt đến cảnh giới giải thoát an vui, trái lại Du Già phái lập nên một đấng thần linh để mong cầu sức phù tŕ gia hộ và coi đó là phương tiện để đạt đến mục đích giải thoát.
Xem hai chủ trương trên đây ta có thể nhận thấy sự đối lập giữa tự lực và tha lực chủ nghĩa. Nếu đem vấn đề này mà khai triển thêm th́ dĩ nhiên ta không thể không đề cập đến Đại Thừa Phật Giáo. Cái gọi là sự hơn, kém giữa Tự-lực-thánh-đạo-môn và Tha-lực-tịnh-độ môn trong tín ngưỡng Phật Giáo, trong một truờng hợp nào đó, chính là vấn đề đă được bàn luận một cách sội nổi. Một đặc trưng của giáo lư Đại Thừa là: một mặt thừa nhận Phật tính của ta, mặt khác lấy chủ thể từ bi cứu độ để khai triển tư tưởng Phật thân thường trụ, cho nên vấn đề tự lực và tha lực tự nhiên đă sinh khởi.
Thế là những người chủ trương tự lực chủ nghĩa th́ cho rằng đức Phật tuy cũng cứu độ, nhưng điều đó chỉ có nghĩa như một nguời chỉ đường mà thôi, chứ thật sự việc giải thoát là phải do chính ḿnh nỗ lực tự tạo lấy bằng cách mở mang trí tuệ và phát triển Phật tính: c̣n những người chủ trương tha lực chủ nghĩa th́ lại cho rằng nhệm vụ của Phật là dùng ḷng từ bi vô điều kiện để cứu độ hết thảy chúng sinh, nhất là trường hợp Phật Di-Đà, v́ đă phát nguyện nếu chưa độ hết chúng sinh th́ không thành Phật, cho nên, để giữ lời nguyện ước đó, Ngài không đợi chúng ta phải cầu khẩn hay cố gắng, theo phương diện tương đối mà đến cứu độ. Và theo chủ trương đó, nhiều sự phê phán về phương diện hơn kém trong việc được cứu độ đă được thiết lập. Nếu lấy các tông phái Phật Giáo tại Nhật Bản hiện giờ mà nói Tịnh Độ Tông, Chân Tông thuộc về tha lực tịnh độ môn; c̣n tất cả các tông phái khác thuộc về Tự lực thánh đạo môn. Nhưng sự đối lập rơ rệt nhất là Chân Tông và Thiền Tông, Chân Tông quy tất cả về bản nguyện của Phật Di Đà, không thừa nhận một chút tự lực nào; c̣n Thiền Tông, trái lại v́ chủ trương "trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật " cho nên quy tất cả cho tự lực: cả hai đều rất triệt để.
Mục đích của tôi ở đây không phải tŕnh bày lịch sử của chủ nghĩa tự lực và tha lực, cho nên vấn đề phê phán sự thực cũng như sự hơn kém của nó xin miễn không bàn tới. Khi nêu ra vấn đề này, tôi chỉ muốn phát hiện sự điều ḥa giữa hai chủ nghĩa đó thôi. Và theo chổ tôi hiểu th́ về ư thức tôn giáo, cái gọi là tự lực tha lực chẳng qua là sự bất đồng trên văn từ hoặc khái niệm, chứ về bản chất thật ra không có sự khu biệt nào cả. Trong tự bao hàm cả tha và ngược lại trong tha bao gồm cả tự, nhưng chỉ v́ quá câu nệ về danh tướng nên chia có tự có tha. Bây giờ nếu ta muốn t́m hiểu cái bản chất của hai chủ nghĩa th́ ít ra ta phải gạt bỏ mọi thiên kiến tông phái; đó là mục đích của tôi khi nêu lên vấn đề này để bàn luận.
BẢN CHẤT HỌAT ĐỘNG CỦA SINH MỆNH
Muốn hiểu rơ bản chất của chủ nghĩa tự lực và chủ nghĩa tha lực, trước hết ta cần phải hiểu tự thể của ư thức tôn giáo như thế nào. Song, muốn thuyết minh tự thể của ư thức tôn giáo, ta cần phải hiểu cái bản chất hoạt động của sinh mệnh trước đă.
Ở đây ta hăy tạm gác vấn đề vũ trụ luận. Bản chất của sinh vật là ở ư chí muốn sống c̣n: đó là quan điểm của Phật và Schopenhauer. Song, cái ư chí muốn sống c̣n đó là cái tự thể vô minh; nói theo Schopenhauer th́ đó là cái ư manh mục. Tuy nhiên, nó có thể hoạt động đầy đủ theo ba khuynh hướng. Nói theo Phật, con người lấy sinh tồn dục làm trung tâm mà hướng đến việc khoáng trương ái dục và danh lợi dục. Đó chính là biểu hiện bản năng thực dục (bảo tồn chính ḿnh ), tính dục (bảo tồn chủng tộc), du hư dục (tự do). Tất cả mọi sinh vật, bất luận là hữu thức hay vô thức, đều hoạt động theo ba cái dục căn bản đó.
Vậy ư thức tôn giáo có địa vị và ư nghĩa ǵ đối với hoạt động sinh động? Hoạt động sinh mệnh tự thể tuy là manh mục (mù quáng), nhưng v́ luôn luôn có khuynh hướng khai triển nên mới phát sinh ra những hoạt động tâm lư. Đức Phật nói do hành (ư chí) mà sinh thức, Schopenhauer nói do ư chí mà có biểu tượng chính là cái đó. Như vậy là do hoạt động sinh mệnh mà tiến triển đến hoạt động tâm lư, rồi phát đạt mà thành lư tính trong đó con người tự sinh khởi ư thức. Sự dục động của ta, xét về mặt biểu hiện, chẳng qua là để thỏa măn yêu cầu khát dục; nhưng một khi t́m đến ư nghĩa tiềm tàng tại nội bộ, th́ sự dục động đó lấy việc duy tŕ, kế tục và tự do khoáng đại sinh mệnh làm mục tiêu mà tiến triển. Dĩ nhiên, không phải tất cả mọi người đều tự ư thức được nghĩa đó, nhưng mặc dầu vô ư thức, tất cả mọi người đều lấy đó mà mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp mà hành động: đó là một sự thật hiển nhiên. Mà sự duy tŕ, kế tục, khoáng đại tự do đó cuối cùng tiến tới vô hạn. Do đó con người mới lấy vô hạn làm mục đích để tư duy và hành động: và căn cứ vào đó mà con người hữu hạn đă có những yêu cầu vô hạn.
Ta hăy tạm gọi đó là yêu cầu "cầu sinh mệnh vô hạn" hoặc là "sinh mệnh tuyệt đối" Đương nhiên nếu nói theo tâm lư học th́ yêu cầu đó là yêu cầu kéo dài cuộc sống hiện thực. C̣n về phương diện tôn giáo, ta có thể nói yêu cầu đạt đến sinh mệnh tuyệt đối.
|
tiendong Hội viên


Đă tham gia: 13 April 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 17
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 30 May 2006 lúc 4:55am | Đă lưu IP
|
|
|
YÊU CẦU VÔ HẠN SINH MỆNH VỚI Ư THỨC TÔN GIÁO
Một khi đă ư thức đến yêu cầu đó th́ yêu cầu ư chí của chúng ta do đó cũng gồm có hai đặc tính: nghĩa là một xây dựng trên cơ sở dục động mà thực hiện khuynh hướng t́m cầu sự khoái lạc; c̣n một th́ lại mong cầu một sự sống lư tưởng tuyệt đối. Mà hai yêu cầu đó tuy là hai khía cạnh ngoại diện và nội diện của chính sự sống, nhưng khi nghiên cứu nó th́ tựa hồ nó lại biểu hiện một cách tuyệt đối không dung hợp nhau. Một là yêu cầu cấp thiết, c̣n một lại là toàn nhất, do đó yêu cầu trước có tính cách cá thể, c̣n yêu cầu sau có tính cách phổ biến; cái trước là vật chất, cái sau là tinh thần; cái trước là yêu cầu bất tuyệt mà không thỏa măn, cái sau là lư tưởng tuyệt đối thỏa măn ; cái trước là tạm bợ, cái sau là vĩnh cửu.Vậy hai yêu cầu này là một hay khác nhau ? Diểm này, khi nói đến sự không dung ḥa th́ nó nghiễm nhiên trở thành đối lập.
Nếu khảo sát những hoạt động của sinh mệnh một cách toàn thể th́ tất lại phải tiến đến vấn đề ư thức tôn giáo. Trong sự thành lập của các tôn giáo tuy có nhiều loại và tŕnh độ khác nhau, nhưng nếu đứng về phương diện yêu cầu mà nói, th́ bất luận tôn giáo nào cũng không ngoài việc lấy yêu cầu sinh mệng tuyệt đối trên đây làm nội chứng để thực hiện yêu cầu của ḿnh, tức là yêu cầu sinh mệnh vô hạn lấy liên tục, tự do và sáng suốt làm sáng suốt làm thuộc tính. Mà ḷng yều cầu đó tức là tâm tôn giáo hoặc gọi là tâm Bồ Đề. Kết hợp tự giác với ḷng từ bi cứu thế mà hoạt động trong trạng thái giải thoát. Lấy một vị Thượng Đế toàn trí, toàn năng của Cơ Đốc làm thuộc tính, lấy đức Phật Di Đà vô lượng quang, vô lượng thọ làm thuộc tính, lấy Phật Thích-Ca thường ở trên núi Linh Thứu làm thuộc tính đều là những chủ trương muốn thích ứng yêu cầu sinh mệnh tuyệt đối vậy. Nhất là trong Phật Giáo tuy cũng có phái lấy Niết-Bàn không tịch làm lư tưởng, nhưng Niết-Bàn không tịch đó chẳng qua cũng chỉ là sự biểu hiện khía cạnh khác của sinh mệnh tuyệt đối mà thôi.
Như vậy, tất cả các tôn giáo, mặc dầu khác nhau về tŕnh độ nhưng bất luận dưới h́nh thái nào, trong thâm tâm ít ra cũng có thể nói rằng đều lấy sinh mệnh vô hạn làm mục tiêu và lấy sự thực hiện sinh mệnh đó làm bản chất
SỰ THỰC HIỆN SINH MỆNH VÔ HẠN VỚI THUYẾT TỰ LỰC VÀ THA LỰC
Như vậy các phương pháp để thực hiện sinh mệnh tuyệt đối đó như thế nào? Đây mới chính là vấn đề then chốt, một vấn đề trung tâm có mối quan hệ đến chủ nghĩa tự lực và chủ nghĩa tha lực.
Nh́n qua lịch sử tôn giáo, từ xưa đến nay, những phương pháp được các tôn giáo áp dụng tuy rất nhiều, nhưng nếu căn cứ theo ư thức ntôn giáo vừa nói trên mà phân loại, th́ đại khái có hai phương pháp hoàn toàn khác nhau: một chuyên lấy việc ức chế sinh mệnh hiện thực làm tôn chỉ, và một chuyên lấy việc trong đợi sự hoạt diệu của chính sinh mệnh tuyệt đối làm tôn chỉ.
Đứng về mặt phương pháp lấy ức chế sinh mệnh hiện thực mà nói th́ chúng ta tuy có yêu cầu sinh mệnh vô hạn, nhưng sở dĩ không thực hiện được là v́ chúng quá lệ thuộc vào những sinh hoạt hiện thực, bị vật dục trói buộc, không thể vươn lên lư tưởng sinh mệnh tuyệt đối được. Bởi thế, nếu muốn thực hiện được sinh mệnh tuyệt đối, cần phải vượt lên trên sinh hoạt hiện thực th́ phải ức chế những dục vọng bản năng, nhất là ngă chấp, ngă dục. Ức chế được ngă chấp, ngă dục th́ sinh mệnh tuyệt đối tự nó sẽ biểu hiện, v́ con người lúc đó đă tự giác, đă được giải thoát. Mà sự ức chế ngă-chấp, ngă-dục đáo để phải nhờ vào nổ lực bản thân, phải có một tinh thần phấn đấu mạnh mẽ và bất tuyệt.
Đứng về mặt phương pháp chuyên trông đợi ở sự hoạt diệu của sinh mệnh tuyệt đối mà nói th́ cái ta nhỏ bé này dù có cố gắng mấy đi nữa cũng chỉ là cái sức nhỏ nhoi, yếu ớt, không thể tự lực vươn lên đến sinh mệnh tuyệt đối được, cũng như người ta đứng lơ lửng giữa không trung được. Con người muốn thực hiện sinh mệnh tuyệt đối cần phải nhờ một sức thiêng liêng ở ngoài cái ta bé nhỏ hẹp ḥi này. V́ trông đợi ở một đấng từ bi bác ái cứu thế ấy, nên mới dốc ḷng cầu nguyện, mong đem cái tâm kiền thành cầu sự cứu rỗi giải thoát ở sức thiêng liêng đó, chứ không tin ở nổ lực bản thân. Đó là lập trường của những người chủ trương tha-lực chủ nghĩa, nghĩa là chủ trương cho rằng sinh mệnh tuyệt đối chỉ có thể t́m ở ngoài bản thân.
Như vậy ta thấy về phương pháp thực hiện sinh mệnh tuyệt đối giữa các tôn giáo hoặc tông phái rơ rằng những quan điểm hoàn toàn bất đồng, mà chung quy cũng liên quan đến hai chủ trương căn bản là Tự-lực chủ nghĩa và Tha-lực chủ nghĩa
SỰ QUAN HỆ GIỮA TỰ LỰC VÀ THA LỰC
Tiến một bước nữa mà khảo sát th́ sự tương quan giữa hai chủ nghĩa trên như thế nào? Và con đường điều ḥa giữa hai chủ nghĩa ấy ra sao? Nếu nói một cách tương đối, tuy có những khuynh hướng tự lực, tha lực khác nhau, nhưng lập trường của đa số tôn giáo tựa hồ cũng muốn điều ḥa giữa hai chủ nghĩa này. Nghĩa một mặt do chủ nghĩa ức chế ngă chấp, ngă dục, mặt khác, trông mong một tha lực tuyệt đối từ bi cứu tế của một vị Phật hoặc một vị thần thiêng liêng làm chỗ an tâm lập mệnh. Nh́n vào h́nh thức hành đạo của tất cả các tôn giáo ta đều thấy hiện tượng đó. Ở đây tôi muốn t́m ra mối quan hệ cũng như sự điều ḥa giữa hai chủ nghĩa và thử xem có hay không có cái khả năng tính thống nhất.
Như trên kia tôi đă nói qua, đối với vấn đề này, nếu chỉ nhận xét qua h́nh thức, th́ giữa hai chủ nghĩa tuy có điểm tuyệt đối bất đồng, nhưng nếu nói theo kinh nghiệm thuần túy tôn giáo th́ nó lại có điểm tuơng dung: có thể nói chẳng qua cùng một kinh nghiệm mà phiên dịch thành những biểu tượng khác nhau mà thôi.
Trước hết hăy đề cập đến chủ nghĩa tuyệt đối tự lực. Lập trường của Phật Giáo Nguyên thủy và Thiền -Tôn là: không ỷ lại vào Trời, không ỷ lại vào Thần, duy chỉ nhờ vào sự khắc phục lấy ḿnh mà triệt để đại ngộ: đó là phương châm tu dưỡng của chủ nghĩa Tự-Lực. Tuy nhiên, khi đạt đến giai đoạn chứng ngộ lại không thể không nhờ một thứ tha lực. Tại sao vậy? V́ phương pháp hành đạo để đạt đến chứng ngộ tuy có thể do ư chí của hành-giả quy định, nhưng cái đương thể của sự chứng ngộ th́ cuối cùng lại phải tùy thuộc vào cái gọi là "thời tiết nhân duyên ". Nghĩa là dù cho hành giả có tự nổ lực đến đâu đi nữa mà thời tiết nhân duyên chưa đến th́ vẫn chưa có thể chứng ngộ được. Sự chứng ngộ ở đây có nghĩa là thực hiện sự giải thoát, mà giải thoát lại là trạng thái bộc phát bất thần, cho nên, đứng về phương diện của người tu hành mà nói, ta có thể cho đó là một loại "Thiên-khải". Đức Phật phải mất sáu năm mới thành Chính-Giác; A Nan đă gần gũi Phật hai mươi lăm năm sau khi Phật nhập diệt mới khai ngộ. Sự bộc phát bất thần: tức là "hốt nhiên đại ngộ"; thật sự đă xăy ra trong mọi trường hợp chứng ngộ, đặc biệt ta thấy trong các truyện kư về ngộ đạo tại Trung Quốc và Nhật Bản điểm này rất rơ ràng. Tuy có phân chia Nam đốn, BẮc tiệm khác nhau, nhưng đến sự chứng ngộ th́ được như một sự kiện "Thiên khải " siêu việt hẳn sự tư lự và phân biệt. Dĩ nhiên sự "hốt nhiên đại ngộ" đó, trên đại thể, tuy là do kết quả do công khu tu luyện, nhưng cái đó chưa hẳn là điều kiện duy nhất, mà yếu tố "cơ hội bất khả tư nghị" ( thời tiết nhân duyên) cũng đóng một vai tṛ quan trọng. Điểm này rất tương tự với cái gọi là Dự định luận của tính ngưỡng tha lực, nghĩa là sự cứu tế đến mau hay chậm là tùy thuộc ở ư chí của đấng Thiêng liêng tuyệt đối. "Hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất thông" tuy là chủ nghĩa tha lực của Gia Tô Giáo, thế nhưng ngay đến chủ nghĩa tư lực của Thiền Tôn cái quan hệ" hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất thông" đó cũng được biểu hiện trong câu "Thối, chác đồng thời ", nghĩa là (theo truyền thuyết), cái trứng sắp đến lúc nở. Con chim con ở trong động đậy th́ ngay lúc đó chim mẹ ở ngoài mổ vỏ trứng để cho chim con ra. Cái cảnh giới chứng ngộ cũng vậy, do nỗ lực của hành giả cùng với thời tiết nhân duyên trong ngoài nhất trí mới ngộ đạt được. Theo một ư nghĩa sâu xa mà nói th́ chủ nghĩa tự lực chung cùng cũng phải nhất trí tha lực, bởi v́ cảnh giải thoát tuy có thể t́m cầu ngay trong chính ḿnh, nhưng nếu siêu việt cái tự kỷ nhỏ bé th́ lại tưởng đến một cái ǵ ở ngoài ḿnh.
Bây giờ bước sang chủ nghĩa tha lực. Trung tâm của chủ nghĩa này là khước từ ư chí tự kỷ hoàn toàn và tuyệt đối trông cậy ở một đấng thiêng liêng tối cao. Nhưng nếu muốn có được đức tin ấy, trước hết không thể bỏ qua cái tác dụng của tự lực. V́ ḷng khẩn cầu nhờ vào tha lực để đạt đến tuyệt đối, nhưng nếu không xả ly ngả chấp, ngă dục th́ quyết không thể hướng đến tuyệt đối được. Mà xả ly ngă chấp, ngă dục tức là đă phải nhờ vào tự lực rồi. Chẳng hạn, tin tưởng niệm Phật, nhờ nguyện lực của Phật để được giải thoát, nhưng nếu không cùng một lúc tinh tiến diệt bỏ tham, sân, si th́ chí nguyện không thể thành. Duy có điểm bất đồng giữa chủ nghĩa tự lực cho sự diệt trừ ngă chấp, ngă dục là nơi ư chí của chính ḿnh, c̣n chủ nghĩa tha lực th́ lại cho là do hơi tha lực giúp đỡ. Nhưng bất luận là giải thích theo cách nào đi nữa người ta cũng đều lấy ư chí xả ly ngă-chấp, ngă dục làm điều kiện tất yếu để được cứu rỗi hay chứng ngộ: có thể nói, trên thực chất điểm này hoàn toàn giống nhau.
Như vậy, nhận xét theo hai phương diện, nghĩa là trong tự lực bao hàm cái lư tha lực, và trong tha lực cũng bao hàm cái lư tha tự lực, ta thấy tự hay tha chẳng qua chí bất đồng trên quan điểm mà thôi. Hơn nữa, nếu nh́n vào tự thể ư thức tôn giáo th́ cái cảnh giới đạt đến có thể nói là tâm thái đồng nhất. Lập trường của các phái tuy có chỗ khác nhau, nhưng giữa các bậc Thánh nhân, nếu ta quan sát một cách tường tận, ta sẽ thấy có nhiều điểm nhất trí khiến ta phải ngạc nhiên: đó là một sự thật. Cái gọi là Di-Đà là Thiên-Đế, là tâm tính, chẳng qua chỉ là sự phiên dịch thành biểu tưởng và danh từ khác nhau của yêu cầu sinh mệnh tuyệt đối mà người ta muốn thể hiện bằng sự tự giác cái đương thể đó mà thôi
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU H̉A GIỮA TỰ LỰC VÀ THA LỰC
Căn cứ vào những sự khảo sát trên để tiến đến tinh thần biểu tượng và thực hành, ta thấy có cách nào để điều ḥa hai chủ nghĩa tự lực và tha lực không? Nói cách khác, dựa vào giáo lư nào để duy tŕ cái ư thức thuần túy trên đây? Và muốn thực hiện nó phải làm thế nào? Đó là những vấn đề không thể không bàn đến.
Trước hết hăy nói về phương diện giáo lư. Sự giáo lư hóa ư thức tôn giáo tuy có nhiều giai đoạn khác nhau nhưng theo A.Drew, có thể chia nó thành ba giai đoạn. Thứ nhất, trực quán cảm giác (Diesinnlieh Anshauung); thứ hai, biểu tượng (Die Vorstellung); và thứ ba, lư niệm (Die Idee).
1) Trực quán cảm giác là cái gọi là Đa Thuần Giáo, ngoài tự kỷ ra lập nên nhiều Thần.
2) Biểu tượng là Nhất Thần giáo chủ trương Nhị-nguyên luận, cho Thần là thống nhất và duy nhất, nhưng lại cho thế giới và sinh vật tồn tại ngoài Thần.
3) Lư niệm, A.Drew c̣n gọi nó là Nhất Nguyên luận cụ thể (Der konkrete Monismus), tuy cho Thần ở ngay trong tự kỷ, nhưng lại chủ trương ư thức cá nhân tồn tại ngoài Thần: có thể nói đây là một loại khảo sát Phiếm Thần luận (Arthur Drews, Dre Religion als Selbstbewusstsein des Gottes, pp. 163 _184).
Vậy trong những thuyết trên đây, thuyết nào thích hợp với sự chỉ dương thống hợp giữa hai chủ nghĩa tự và tha lực? Đương nhiên là thuyết Lư niệm thứ ba thích hợp hơn cả. Tại sao? V́ Đa-thần trong cái gọi là đối tượng tạp tu tạp hành tuy là thích hợp, nhưng nếu theo đó mà thống hợp triệt để chủ nghĩa tự lực và tha lực th́ rất khó, cho nên nó không thích hợp. C̣n Nhất Thần Giáo siêu việt tuy cũng thích hợp để sinh khởi và duy tŕ chủ nghĩa tự lực, nhưng thống hợp cả hai th́ nó lại không thích đáng. Đến tôn giáo lư niệm th́ đặc biệt, trên tính chất, kiêm cả hai chủ nghĩa nên có thể đứng trên tư cách đó để thống hợp điều ḥa. Trong Đại Thừa Phật Giáo, như triết học Khởi-Tín-Luận chính là đứng trên lập trường này để phê phán và thống hợp hai chủ nghĩa đó. Nghĩa là lấy tâm Chân-như (lư niệm thể) để thuyết minh quá tŕnh thực hiện tự kỷ. Một mặt khác lại nói dùng các pháp thanh tịnh để huân tập tự thể Chân-như, tiêu diệt tác dụng mê t́nh: đó là phương pháp nhằm chỉ dương hai chủ nghĩa, mà lập công. Chính trong Áo Nghĩa Thư ta cũng thấy ư tứ phảng phất giống như lập trường tôn giáo lư niệm này. Cái chân ngă dù có nhờ Phệ Đà, nhờ năng lực lư giải, hay nhờ học nhiều đi nữa cũng không thể có được, mà duy chỉ nhờ chính cái chân ngă đó quyết định mới được. Nghĩa là, cái đương thể của chân ngă không phải nhờ ở sự tạp tu tạp hành mà có được, duy chỉ nhờ ở sự hoạt động thiên khải của chính chân nhă đó, trên đại thể tuy là chủ nghĩa tự lực, nhưng trong đó vẫn phảng phất cái ư tứ tha lực mà không mâu thuẫn , cho nên ta có thể cho đó là phương pháp ngụ ư tổng hợp hai chủ nghĩa. Sau này đến phái Vedanta, cái tư tưởng đó của Áo Nghĩa Thư lại càng trở nên rơ rệt.
Cứ theo hai thí dụ trên đây, ta thấy tôn giáo lư niệm là tổ chức giáo lư duy nhất phù hợp với sự thống nhất hai chủ nghĩa, không những thế nó c̣n là h́nh thức thể hiện gần đúng với tự thể của tôn giáo nữa. Cái lư do tại sao tôn giáo lư niệm được coi là cao siêu nhất trong các tôn giáo chính là ở điểm này. Song, nếu đặt nó thành vấn đề lư luận mà khảo sát cho thật khúc chiết, để giải quyết mọi vấn đề tiềm tàng trong đó, th́ không thể nói một cách đơn giản được v́ đây là một vấn đề vô cùng trọng đại, bởi thế chỉ xin tŕnh bày những chỗ đại thể mà thôi.
Sau nữa, phải có thái độ hay tâm địa nào để thích ứng với tôn giáo lư niệm đó mà thực hiện nó trong cuộc sống thực tế? Về vấn đề này, nếu nói một cách đơn giản th́: đặc trường của chủ nghĩa tự lực ở chỗ nỗ lực; đặc trường của chủ nghĩa tha lực là ở sự an vật. Như vậy, cái phương pháp điều ḥa hai chủ nghĩa để thống nhất nó trong cuộc sống thực tế, tóm lại, là ở nơi sự cố gắng liên tục không ngừng. Mà hễ thấu hiểu được tôn giáo lư niệm một cách triệt để th́ tự nhiên cái thái độ hay tâm cảnh cũng xuất hiện, V́ nói theo tôn giáo lư niệm, tuyệt đối v́ bản chất của ta và của thế giới, cho nên tuy chúng ta đă có thể bảo chứng được thân phận an trụ tuyệt đối, nhưng cái hiện được cái đương thể đó một cách như thực. Bởi thế, cần phải có sự nỗ lực liên tục, bất tuyệt trong công cuộc thực tu. Đây tuy là một thí dụ cổ xưa, nhưng, lấy lư niệm làm bối cảnh, thái độ của chúng ta đối với cuộc sống thực không thể không liên tục mài dũa viên bảo châu, Mài gạch thành gương tuy là một công việc làm uổng công, nhưng mài ngọc để làm cho có ánh sáng là việc làm có hy vọng thành công. Cho nên, nỗ lực, hy vọng và hoan hỷ phải được thống hợp trong việc thực hành để thể hiện cái khả năng tính duyệt đối. Cái thái độ thực tế lấy tín ngưỡng lư niệm làm bối cảnh cũng thế. Nói một cách dễ hiểu hơn, được cổ vũ bởi lư tưởng vĩnh viễn, hành giả vui vẽ hăng hái tiến tới mục tiêu, tự lực cũng được mà tha lực cũng được, tất cả đều được thống hợp.
|