Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 210 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: SỰ TRIỂN KHAI CỦA TƯ TƯỞNG CHÂN NHƯ ĐẾN THỜI KỲ BÁT NHĂ Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 1 of 2: Đă gửi: 30 May 2006 lúc 4:20am | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

SỰ TRIỂN KHAI CỦA TƯ TƯỞNG CHÂN NHƯ ĐẾN THỜI KỲ BÁT NHĂ


1) Chân như quan ở thời kỳ Nguyên thủy Phật giáo.

Như đă nói ở trên, tư tưởng Chân như đă bắt nguồn từ thời Nguyên thủy Phật giáo. Tưởng không cần nói, Chân như của Đại thừa sau này, khi c̣n ở giai đoạn phôi thai, ít ra cũng c̣n hàm chứa tư tưởng Nguyên thủy Phật giáo, mà tư tưởng Chân như của Nguyên thủy Phật giáo vốn nằm trong phần giáo lư thâm áo.

Mục đích chủ yếu của Đức Phật là làm cách nào để đạt đến cảnh Niết bàn giải thoát, mà muốn đạt đến mục đích đó, theo Phật, điều tất yếu là phải hiểu thấu được cái chân tướng của mọi sự vật. Đó là điều kiện thứ nhất. Tiến thêm một bước nữa, lấy sự hiểu biết ấy làm cơ sở để xác lập cái tướng chân thật của mọi sự vật mà định đoạt thủ đoạn để thực hiện, đó là điều kiện thứ hai. Sự hiểu biết gồm đủ hai điều kiện này mới được cái tướng chân thật của thế gian mới có thể cấu tạo thành cái thế giới lư tưởng xác thật, do đó mà phần trí kiến trở thành vô cùng trọng yếu. Đứng trên cơ sở của sự quan sát đó, Đức Phật đă phủ nhận một đấng Tạo vật chủ đă sáng tạo ra vũ trụ, bài xích linh hồn cá thể; vạn hữu là một ḍng lưu chuyển không ngừng, chỉ có Niết bàn là hằng hữu, đó là giáo lư căn bản của Phật giáo. Trong kinh A Hàm thường gọi cách quan sát này là “như thực” hay “như chân”, theo nguyên văn là Yathatatha hay Yathabhutam. Tựu trung, chữ Yathabhtam là một danh từ rất rơ rệt, chỉ sự nhận thức cái chân tướng của mọi sự vật. Trong các bản dịch kinh A Hàm bằng chữ Hán, những chữ đó được dịch là “Như chân” hoặc “Chân như”, nhưng thật ra đó không phải là ư nghĩa về nguyên lư hay pháp tắc, mà trái lại nó chỉ là những danh từ chỉ rơ một thái độ quan sát mà thôi. Ta cần phải nhớ điểm này. Song Yathatatha hay Yathabhutam là danh từ trừu tượng cấu tạo thành sơ sở của quan niệm Tathata (Chân như, như như). Tại sao? V́ nhờ cách quan sát đúng đắn mà thấy được chân tướng của vạn pháp, mà chân tướng của vạn pháp vốn như như bất động và Đức Phật thường dùng danh từ pháp tính (dhammata, dharmata) để chỉ trạng thái như như đó, c̣n về ư nghĩa của nó th́ hoặc cho là pháp tính hay Chân như đều được cả (về pháp tính, xin xem Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận). Như vậy, là từ pháp tính luận của Nguyên thủy Phật giáo được xây dựng trên cơ sở quan sát như thực và từ đó đă xuất phát toàn bộ Chân như tư tưởng của Phật giáo.

Nhưng do đó mà ở đây thành một nghi vấn là: cách quan sát chân thực của Nguyên thủy Phật giáo là cách nào? Rồi đến pháp tính là muốn chỉ cái ǵ? Đứng về phương diện như thực hoặc Chân như pháp tính mà nói th́ chẳng qua đó chỉ là một danh từ trừu tượng mà thôi chứ không có ư nghĩa nội dung riêng biệt nào cả. Phật nói thấy cái tướng chân thực của hiện tại các pháp mục đích không phải để phát kiến thực tại hoặc vật như (Ding-ansich) về mặt triết học, mà cũng không phải để phát hiện cái pháp tắc của khoa học tự nhiên, như vậy, thuyết chân thực tướng của Phật, làm thế nào để cho thế giới, tức thế gian của chúng ta có giá trị và phải thuyết minh và đánh giá thế gian này như thế nào để phát hiện con đường đi đến giải thoát Niết bàn? Nếu trong thuyết chân thực tướng không bao hàm ư nghĩa đó th́ thật không thể được. Nếu giải thích thuyết đó theo một phương thức nhất định th́ đó tức là giáo lư Tứ Diệu Đế.

Thế giới này, nói cho cùng cực chỉ là một thế giới khổ đau (Khổ) mà nguyên nhân của khổ đau là do dục vọng (Tập), diệt trừ mọi khổ đau để đạt đến một cảnh giới thường an lạc là lư tưởng của ta (Diệt), và cái phương pháp để thực hiện lư tưởng đó là đạo (Đạo). Sự thực hiện giáo điều này sẽ trở thành tiêu chuẩn của chân tri kiến của Phật giáo. Tuy Phật nói là chân trí, nhưng thật ra nó chỉ là sự phù hợp vói lư Chân như pháp tính. Do đó, cái Chân như quan cố hữu của Phật giáo Nguyên thủy tuy nói lấy chân tướng của các pháp làm mục tiêu, nhưng tóm lại th́ chỉ đứng trên cơ sở mê, ngộ, của nhân sinh quan tôn giáo để thấu suốt chân tướng của mê, ngộ mà thôi.

Phật nói: “Này các Tỷ khưu! Tứ Đế này là Chân như (Tathani), là tính không hư vọng (Avitathani), tính không biến dị (Anannathani)”. Xem câu này ta đủ rơ cái chủ ư chân như pháp tính ở trên. Lại tiến thêm một bậc nữa mà khảo sát, cái nhân sinh quan lấy mê, ngộ, làm tiêu chuẩn này vẫn coi sự thật là sự thật mà quan sát vũ trụ nhân sinh; có nắm được cái chân tướng của sự thật đó mới có thể kiến lập một cách xác thực. Về phương diện này, như đă nói ở trên, Đức Phật đă quan sát một cách rất tinh tế. Thêm vào đó, Tứ Đế được thành lập, nếu nói theo nghĩa rộng, trên nền tảng phán đoán giá trị của nhân sinh quan lấy mê, ngộ làm tiêu chuẩn, nhưng nếu nói theo nghĩa hẹp th́ chẳng qua căn cứ vào sự chung kết của sự phán đoán h́nh thức chân lư về hai loại sự thực, và lư tưởng bất đồng, nghĩa là Khổ, Tập thuyết minh nhân quả của thế giới sự thực, phán đoán cái gọi là tồn tại; Diệt, Đạo thuyết minh nhân quả của lư tưởng tối cao của nhân sinh, phán đoán ái gọi là đương vị. Cho nên đạo lư Tứ Đế, về mặt giáo điều, tuy rất đơn giản, nhưng về mặt tinh thần ít ra nó cũng bao gồm hai vấn đề to tát là: vấn đề tồn tại và vấn đề lư tưởng, mà hai vấn đề này trong lời dạy của Đức Phật gồm có nhiều điểm ám chỉ, c̣n trong lịch tŕnh phát triển của giáo lư, hai vấn đề đó là nguồn gốc phát sinh ra mọi Chân như quan.

Ở đây, do đó vấn đề được nêu ra là: Nguyên thủy Phật giáo coi Chân như pháp tính là một hay nhiều? Nếu nhận xét theo thuyết Tứ Đế th́ trên đại thể, vấn đề nên chia thành hai loại mà quan sát có lẽ xác đáng hơn. Nghĩa là Chân như tập hợp Khổ, Tập làm hiện thực giới và Chân như tập hợp Diệt, Đạo làm lư tưởng giới. Về vấn đề trên, Đức Phật đặc biệt đề xướng một thuyết rất có tiếng: đó là thuyết Duyên khởi, theo thường t́nh của chúng ta, th́ lấy ư chí căn bản làm cơ sở, rồi dần dần khai phát thành lập hiện thực giới mà quan sát mọi mối liên hệ. Song Phật th́ lại khác, Phật dùng pháp tắc Duyên khởi, đặc biệt thuyết minh pháp tính thường trụ. Duyên khởi như thực v.v... mà đề cao pháp tắc thường hàng bất biến tính, về vấn đề sau liên quan đến lư tưởng giới th́ nói thuyết Bát Chính Đạo, người ta chỉ cần thực hành tám chính hạnh là ai ai cũng có thể đạt đến giải thoát Niết bàn. Nhất là ngày xưa trong lúc ngồi quán sát các pháp trên bờ sông Ni Liên Thiền, Đức Phật đă coi cái đạo pháp mà Ngài tự giác ngộ là cái đạo Nhất Thừa của chư Phật để xác nhận cái phổ biến tính và nhất ban tính của đạo pháp đó. Sau này đến các phái Tiểu thừa, trong các loại Chân như, đặc biệt nói đến Duyên khởi chi tính Chân như cũng v́ lư do đó, và chẳng qua cũng không ngoài việc phát huy cái tinh thần trên đây của Phật.

Song, nói thật ra th́ đó cũng mới chỉ là quan sát tổng quát mà thôi. Nếu lại tiến thêm một bậc nữa mà khảo sát th́ trong cái Chân như quan của Đức Phật đă đành có thể chỉ bao hàm một ư nghĩa mà thôi, đây là điểm ta không thể bỏ qua. Những cái gọi là nhiều chẳng qua cũng cùng một pháp tác sự thực, không phải chỉ liên quan đến căn bản của mười hai nhân duyên, mà trong tất cả hiện tượng đều có một pháp tắc nhất định. Về lư tưởng giới cũng thế, không phải chỉ có Bát chính đạo khái quát, mà giữa Duyên khởi Chân như, Thánh đạo Chân như và Niết bàn cũng đều có mối quan hệ tất nhiên, cứ theo lư đó mà suy rộng ra th́ ta có thể có nhiều lư do để thành lập nhiều Chân như quan, nhưng nếu khảo sát một cách tóm tắt th́ cái gọi là pháp tắc sự thực và pháp tắc lư tưởng, nói theo tinh thần của Phật, th́ rốt cục chỉ có thể quy về một cái tâm của ta. Bởi vậy, theo đó, Chân như chỉ có thể được coi là MỘT mới đúng với tinh thần của Phật. Theo Phật, nếu truy nguyên cho ra cái pháp tắc đă cấu tạo thành thế giới hiện thực th́ đó chính là dục vọng (tức ư chí) của chúng ta, sự khẳng định của chính chúng ta tương đương với cái pháp tắc đă sáng tạo ra thế giới, c̣n về pháp tắc cấu tạo lư tưởng giới là sự biểu hiện ư chí phủ định dục vọng của chúng ta, đó là về pháp tắc tạo dựng thế giới mới.

Do đó, tuy có tiêu cực và tích cực khác nhau, nhưng chưng cự không ngoài cái pháp tắc đă được kiến thiết bởi cái ư chí đồng nhất. Từ nguồn gốc đó, về sau các phái triết học Phật giáo đă lập ra nhiều Chân như quan, có phái chủ trương nhiều, có phái chủ trương một, cũng có phái lấy Chân như làm trung tâm.

Tóm lại, nếu đem đối chiếu với những dữ kiện về Chân như của hậu thế th́ ta nhận thấy Chân như quan của Nguyên thủy Phật giáo không có một điểm nào tŕnh hiện một cách rơ rệt cả. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào những ư nghĩa tiềm tàng trong kinh văn mà suy cứu đến đến tư tưởng cứu kính để nhận xét th́ ta thấy trong đó đă chứa đựng đầy đủ những cái mà đời sau đă khai thác và phát triển về mọi phương diện. Đ́ều này, như ta đă thấy ở trên, đại khái rất rơ ràng.

Bây giờ nếu đem tất cả những điều đă tŕnh bày ở trên mà nghiên cứu một cách thấu triệt th́ ít nhất mọi người phải thừa nhận những sự thực sau đây:

a) Vạn hữu tuy là lưu chuyển, song trong cái lưu chuyển đó vẫn có cái pháp tắc thường hằng;

b) Trong lưu chuyển giới này vẫn có Niết bàn giới thường hằng bất biến;

c) Dù là lưu chuyển giới hay Niết bàn giới, nếu truy nguyên ra th́ rốt ráo cũng chỉ là cái tâm của chúng ta;

d) Sau hết, cái chân tướng kể trên chỉ được nhận ra khi nào chính trị và chính niệm đă xa ĺa sự thiên kiến và chấp kiến.

Tất cả những điều trên đây là nguồn gốc của Chân như quan của triết học sau này. Bởi thế, trước tiên chúng ta cần ghi nhận điểm này. Ở thời kỳ Nguyên thủy Phật giáo, những tư tưởng đó vẫn chưa có sự thống nhất hoặc phân hóa, và đó chính là cái lư do tại sao được gọi là Nguyên thủy vậy.

2) Chân như quan của các phái Tiểu thừa.

Người đem cái tư tưởng Chân như tiềm tàng trong Nguyên thủy Phật Giáo mà khai thác, phát triển là Đại thừa Phật giáo, v́ muốn thuyết minh cái chân tinh thần của Phật tiềm tàng trong các kinh điển nguyên thủy mà Đại thừa được phát động và thành lập, bởi vậy, Chân như là một vấn đề dĩ nhiên phải được đưa ra để nghiên cứu, nhưng nếu đứng về phương diện văn hiến mà nhận xét, th́ đến đây ta thấy vẫn c̣n một giai đoạn để làm tiêu chuẩn cho Đại thừa: đó là giáo lư của các phái Tiểu thừa.

Tiểu thừa Phật tuy kế thừa Nguyên thủy Phật Giáo, nhưng v́ trung thực thái quá về h́nh pháp cũng như về giáo lư một, nhất khái đă trở thành chủ nghĩa h́nh thức, đặc biệt về sự tổ chức giáo lư đă lấy sự cấu tạo một nền thần học cực kỳ phiền toái làm điểm đắc ư (sau nhập diệt một trăm năm chia thành Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, sau Phật nhập diệt từ hai đến ba trăm năm tất cả đă có tới mười tám bộ phái, đó là theo các sử sách c̣n truyền lại). Do đó vấn đề Chân như tư tưởng tuy không phải đề mục luận cứu của các vấn đề khác, nhưng bất cứ vấn đề nào có liên quan đến nó mà không được khảo sát qua th́ quyết không thể nào thấu triệt được nó, và Vô vi pháp là đề mục rất quan hệ với nó, nhất là vấn đề này đă được Đại chúng bộ triển khai một cách rất triệt để.

Về vạn hữu, Phật giáo chia làm hai loại: Hữu vi pháp và Vô vi pháp. Hữu vi pháp có sinh diệt chuyển biến. Vô vi pháp vắng lặng bất biết. Song Tiểu thừa Phật giáo, lúc đầu coi hai loại này đồng thời tồn tại, ngoài Hữu vi pháp không thể có Vô vi pháp biệt lập tồn tại. Chẳng hạn như Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ của Thượng tọa bộ hệ, căn cứ vào luận Câu Xá, chia vạn hữu thành bảy mươi lăm loại, trong số đó, bảy mươi hai loại thuộc Hữu vi pháp, c̣n ba loại kia (Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi, Hư không vô vi) thuộc Vô vi pháp. Như vậy, Vô vi là chân tướng của vạn hữu, và đối với tư tưởng Chân như pháp tính, nó không có quan hệ nào đặc biệt cả, c̣n đối với các hiện tượng nó chỉ chiếm một địa vị ẩn tàng mà thôi, nhưng đến Đại chúng bộ th́ quan niệm về Vô vi pháp đă dần dần được khoáng trương. Nghĩa là trong cái pháp tắc sinh sinh động, biến hóa không ngừng của Hữu vi pháp, nhưng nhiên nó vẫn có một quan hệ bất biến.

Nếu nhận xét theo Dị Bộ Tôn luận th́ Thượng tọa bộ lập thành ba Vô vi, Đại chúng bộ thành chín Vô vi, tức là: Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi, Hư không vô vi, Không vô biên xứ vô vi, Thức vô biên xứ vô vi, Vô sở hữu xứ vô vi, Phi tưởng phi phi tưởng xứ vô vi, Duyên khởi chi tính vô vi, và Thánh đạo chi tính vô vi, c̣n vấn đề lấy Tứ vô sắc làm vô vi biến Tứ vô sắc định thành cảnh giới mà nếu đứng về phương diện biến hóa mà nói, tuy là hữu vi nhưng cái nguyên lư làm cho Tứ vô sắc định được gọi là Tứ vô sắc định nếu truy cứu đến nguyên ủy th́ thật ra nó đă phát xuất từ một cái ǵ bất biến, bất động. Lại nữa, Duyên khởi chi tính và Thánh đạo chi tính cũng tức là pháp tắc Duyên khởi sự thực và pháp tắc lư tưởng giới giải thích đă nói ở trên, đồng thời tuy là tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy, song chỉ là vấn đề triển khai mà thôi. Duy có điểm đặc biệt là: Hóa địa bộ tuy thuộc về Thượng tọa bộ hệ, nhưng các lập pháp lại chịu rất nhiều ảnh hưởng của Đại chúng bộ. Nhận xét theo Tôn Luân luận cũng vậy, Hóa địa bộ cũng lập thành chín Vô vi: Trạch diệt vô vi, cho đến lại lập ra Thiện pháp Chân như, Bất thiện pháp Chân như, Vô kư pháp Chân như, Đạo chi Chân như, và Duyên khởi Chân như. Từ Tứ bất động vô vi thứ tư, sau đến Duyên khởi Chân như và Đạo chi Chân như th́ đại khái cũng giống với chín Vô vi của Đại chúng bộ. Song cái đặc sắc của Hóa Địa bộ là căn cứ vào pháp tắc nhân quả bất biến và tất nhiên mà lập nên ba Vô vi Thiện Ác và Vô kư.

Trở lên tuy theo tài liệu của Dị Bộ Tôn Luân luận, nhưng nếu nghiên cứu và so sánh tài liệu này với giáo lư của các phái Tiểu thừa, khảo sát sử liệu trọng yếu của Nam - truyền - Luận - Sự (Kathavathu) th́ ta thấy tài liệu rất dồi dào mà điểm rất thú vị là: tuy căn cứ vào Luận Sự, nhưng dựa vào Chân như quan để lập ra các loại Vô vi, th́ tóm lại, lại thuộc về Đại chúng bộ, đặc biệt là chủ trương của Án Đạt La phái (Andhaka), Bắc Đạo phái (Ultarapathaka), Đông Sơn bộ (Pubbaseliya) v.v... (lúc đó Hóa Địa bộ cũng gia nhập, như trên đă nói, Hóa Địa bộ chịu ảnh hưởng của Đại chúng bộ rất sâu).

Ở đây nếu đề cập đến tất cả th́ tóm lại, thuyết chín Vô vi của Đại chúng bộ hay Hóa Địa bộ, tuy có chủ trương phân tán, nhưng trên toàn bộ th́ từ trước chưa thấy một sự kiện nào được thêm thắt vào cả. Chảng hạn trước kia tuy có Duyên khởi Chân như, nhưng Tứ đế Chân như kết hợp cả hai, song đến đây Hóa Địa bộ lại chủ trương Tứ đế Chân như (Cattarisaccaniasamkhataniti -KA63). Nghĩa là Khổ, Tập, Diệt, Đạo biểu thị cái quan hệ toàn nhất và thường hằng bất biến. Đứng trên lập trường này ta có thể giải thích như sau: muốn đem pháp tắc thực tế và pháp tắc lư tưởng kết hợp thành một nguyên lư duy nhất. Lại nữa, trước tuy có ư niệm về Chân như quan thuộc loại này vẫn chưa thấy biểu hiện rơ ràng. Nếu nói theo Luận Sự th́ ngay trong phái Tiểu thừa cũng có chủ trương thuyết đó. Chủ trương của Bắc Đạo Phái lập luận thế này: Tất cả pháp Chân như đều là Vô vi (Sabbadhammanan tathataasamkha tati K.V.195).Thí dụ cây thông, cây trúc chính nó là vật biến hóa, nhưng cái quan niệm về cây thông, cây trúc th́ bất biến. Do ư nghĩa đó mà trong Luận Sự cho nó là một Chân như. Nói theo nghĩa hẹp của Chân như thực thể th́ có thể cho quan niệm trên gần với tưởng pháp của Đại thừa.

Như vậy, dù căn cứ vào Tôn Luân luận, hay căn cứ vào Luật Sự, các phái Tiểu thừa, nhất là các phái thuộc Đại chúng bộ, đă hấp thụ tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy liên quan đến các pháp Vô vi, khai thác các loại Chân như, hoặc đứng về mặt pháp tắc, hoặc đứng về mặt quan hệ, hoặc dựa vào điểm thực tính để phát hiện cái quy luật sinh diệt biến hóa của thế giới, hay muốn từ cái căn để của nó mà phát hiện cái thực thể bất sinh bất diệt. Dĩ nhiên trong đó thay v́ nói cái căn để của hiện tượng th́ lại nói đối với ư nghĩa Vô vi tịnh tồn của hiện tượng cũng có, và mặc dầu vậy, cái phạm vi của Vô vi sau đă dần dần được mở rộng thêm, do đó không bao lâu Vô vi chính có tuy bất động, nhưng vẫn chứa đựng ư nghĩa về nguyên lư làm cho nó biến động để rồi sau này đă trở thành tài liệu đầu tiên của triết học Chân như quan.

Song có một điều chưa được thỏa măn là một mặt lập nên các loại Chân như, mặt khác vẫn chưa thấy có một ư tưởng thâu tóm tất cả những ư tứ đó để lập thành một Chân như căn bản độc nhất vô nhị. Đứng trước cái lư tưởng Nhất Thừa Pháp của chư Phật, th́ dù theo giáo lư của Phật giáo Nguyên thủy, hay theo yêu cầu thống nhất của ḷng người, điểm này không thể không làm cho người ta bất măn. Đương nhiên, nếu nhận xét theo Tôn Luân luận, hay Luận Sự, ta thấy gần như đă dần dần tiến tới việc thành lập một Chân như thống nhất. Đại chúng bộ hầu hết lập ra bốn Vô sắc Vô vi, đến Hóa Địa bộ th́ lại tập hợp thành một Bất động Vô vi duy nhất (Thiện Pháp, Bất thiện pháp, Vô kư pháp ba Chân như. Theo Từ Ân th́ đó là Tam Thể Nhất Lư). Cũng như Đông Sơn Bộ thống nhất Duyên khởi chi tính và Thành đạo chi tính làm thành Tứ đế Vô vi. Điểm này rất rơ ràng, tuy nhiên đó mới chỉ là sự thống nhất bộ phận chứ vẫn chưa đạt đến sự thống nhất toàn bộ.

Như vậy, đến Đại chúng bộ Chân như quan tuy đă được thuyết minh rất rơ ràng, nhưng nếu đứng về phương diện H́nh nhi thượng học mà nhận xét th́ vẫn c̣n có nhiều điểm chưa được đề cập tới. Muốn đem thống nhất tất cả về mặt triết học, đó là Chân như quan của triết học Đại thừa mà kinh Lăng Già hoặc Khởi Tín Luận đă đạt đến tuyệt đỉnh đó, c̣n Chân như quan của Bát Nhă th́ thật đă được thành h́nh giữa khoảng từ Chân như quan của các bộ phái cho cho đến Chân như quan của Đại thừa Khởi Tín Luận.



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
hukhong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 November 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 2 of 2: Đă gửi: 30 May 2006 lúc 4:23am | Đă lưu IP Trích dẫn hukhong

CHÂN NHƯ QUAN CỦA BÁT NHĂ



1) Chân như quan ở thời kỳ Nguyên thủy Phật giáo.


Như đă nói ở trên, tư tưởng Chân như đă bắt nguồn từ thời Nguyên thủy Phật giáo. Tưởng không cần nói, Chân như của Đại thừa sau này, khi c̣n ở giai đoạn phôi thai, ít ra cũng c̣n hàm chứa tư tưởng Nguyên thủy Phật giáo, mà tư tưởng Chân như của Nguyên thủy Phật giáo vốn nằm trong phần giáo lư thâm áo.

Mục đích chủ yếu của Đức Phật là làm cách nào để đạt đến cảnh Niết bàn giải thoát, mà muốn đạt đến mục đích đó, theo Phật, điều tất yếu là phải hiểu thấu được cái chân tướng của mọi sự vật. Đó là điều kiện thứ nhất. Tiến thêm một bước nữa, lấy sự hiểu biết ấy làm cơ sở để xác lập cái tướng chân thật của mọi sự vật mà định đoạt thủ đoạn để thực hiện, đó là điều kiện thứ hai. Sự hiểu biết gồm đủ hai điều kiện này mới được cái tướng chân thật của thế gian mới có thể cấu tạo thành cái thế giới lư tưởng xác thật, do đó mà phần trí kiến trở thành vô cùng trọng yếu. Đứng trên cơ sở của sự quan sát đó, Đức Phật đă phủ nhận một đấng Tạo vật chủ đă sáng tạo ra vũ trụ, bài xích linh hồn cá thể; vạn hữu là một ḍng lưu chuyển không ngừng, chỉ có Niết bàn là hằng hữu, đó là giáo lư căn bản của Phật giáo. Trong kinh A Hàm thường gọi cách quan sát này là “như thực” hay “như chân”, theo nguyên văn là Yathatatha hay Yathabhutam. Tựu trung, chữ Yathabhtam là một danh từ rất rơ rệt, chỉ sự nhận thức cái chân tướng của mọi sự vật. Trong các bản dịch kinh A Hàm bằng chữ Hán, những chữ đó được dịch là “Như chân” hoặc “Chân như”, nhưng thật ra đó không phải là ư nghĩa về nguyên lư hay pháp tắc, mà trái lại nó chỉ là những danh từ chỉ rơ một thái độ quan sát mà thôi. Ta cần phải nhớ điểm này. Song Yathatatha hay Yathabhutam là danh từ trừu tượng cấu tạo thành sơ sở của quan niệm Tathata (Chân như, như như). Tại sao? V́ nhờ cách quan sát đúng đắn mà thấy được chân tướng của vạn pháp, mà chân tướng của vạn pháp vốn như như bất động và Đức Phật thường dùng danh từ pháp tính (dhammata, dharmata) để chỉ trạng thái như như đó, c̣n về ư nghĩa của nó th́ hoặc cho là pháp tính hay Chân như đều được cả (về pháp tính, xin xem Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận). Như vậy, là từ pháp tính luận của Nguyên thủy Phật giáo được xây dựng trên cơ sở quan sát như thực và từ đó đă xuất phát toàn bộ Chân như tư tưởng của Phật giáo.

Nhưng do đó mà ở đây thành một nghi vấn là: cách quan sát chân thực của Nguyên thủy Phật giáo là cách nào? Rồi đến pháp tính là muốn chỉ cái ǵ? Đứng về phương diện như thực hoặc Chân như pháp tính mà nói th́ chẳng qua đó chỉ là một danh từ trừu tượng mà thôi chứ không có ư nghĩa nội dung riêng biệt nào cả. Phật nói thấy cái tướng chân thực của hiện tại các pháp mục đích không phải để phát kiến thực tại hoặc vật như (Ding-ansich) về mặt triết học, mà cũng không phải để phát hiện cái pháp tắc của khoa học tự nhiên, như vậy, thuyết chân thực tướng của Phật, làm thế nào để cho thế giới, tức thế gian của chúng ta có giá trị và phải thuyết minh và đánh giá thế gian này như thế nào để phát hiện con đường đi đến giải thoát Niết bàn? Nếu trong thuyết chân thực tướng không bao hàm ư nghĩa đó th́ thật không thể được. Nếu giải thích thuyết đó theo một phương thức nhất định th́ đó tức là giáo lư Tứ Diệu Đế.

Thế giới này, nói cho cùng cực chỉ là một thế giới khổ đau (Khổ) mà nguyên nhân của khổ đau là do dục vọng (Tập), diệt trừ mọi khổ đau để đạt đến một cảnh giới thường an lạc là lư tưởng của ta (Diệt), và cái phương pháp để thực hiện lư tưởng đó là đạo (Đạo). Sự thực hiện giáo điều này sẽ trở thành tiêu chuẩn của chân tri kiến của Phật giáo. Tuy Phật nói là chân trí, nhưng thật ra nó chỉ là sự phù hợp vói lư Chân như pháp tính. Do đó, cái Chân như quan cố hữu của Phật giáo Nguyên thủy tuy nói lấy chân tướng của các pháp làm mục tiêu, nhưng tóm lại th́ chỉ đứng trên cơ sở mê, ngộ, của nhân sinh quan tôn giáo để thấu suốt chân tướng của mê, ngộ mà thôi.

Phật nói: “Này các Tỷ khưu! Tứ Đế này là Chân như (Tathani), là tính không hư vọng (Avitathani), tính không biến dị (Anannathani)”. Xem câu này ta đủ rơ cái chủ ư chân như pháp tính ở trên. Lại tiến thêm một bậc nữa mà khảo sát, cái nhân sinh quan lấy mê, ngộ, làm tiêu chuẩn này vẫn coi sự thật là sự thật mà quan sát vũ trụ nhân sinh; có nắm được cái chân tướng của sự thật đó mới có thể kiến lập một cách xác thực. Về phương diện này, như đă nói ở trên, Đức Phật đă quan sát một cách rất tinh tế. Thêm vào đó, Tứ Đế được thành lập, nếu nói theo nghĩa rộng, trên nền tảng phán đoán giá trị của nhân sinh quan lấy mê, ngộ làm tiêu chuẩn, nhưng nếu nói theo nghĩa hẹp th́ chẳng qua căn cứ vào sự chung kết của sự phán đoán h́nh thức chân lư về hai loại sự thực, và lư tưởng bất đồng, nghĩa là Khổ, Tập thuyết minh nhân quả của thế giới sự thực, phán đoán cái gọi là tồn tại; Diệt, Đạo thuyết minh nhân quả của lư tưởng tối cao của nhân sinh, phán đoán ái gọi là đương vị. Cho nên đạo lư Tứ Đế, về mặt giáo điều, tuy rất đơn giản, nhưng về mặt tinh thần ít ra nó cũng bao gồm hai vấn đề to tát là: vấn đề tồn tại và vấn đề lư tưởng, mà hai vấn đề này trong lời dạy của Đức Phật gồm có nhiều điểm ám chỉ, c̣n trong lịch tŕnh phát triển của giáo lư, hai vấn đề đó là nguồn gốc phát sinh ra mọi Chân như quan.

Ở đây, do đó vấn đề được nêu ra là: Nguyên thủy Phật giáo coi Chân như pháp tính là một hay nhiều? Nếu nhận xét theo thuyết Tứ Đế th́ trên đại thể, vấn đề nên chia thành hai loại mà quan sát có lẽ xác đáng hơn. Nghĩa là Chân như tập hợp Khổ, Tập làm hiện thực giới và Chân như tập hợp Diệt, Đạo làm lư tưởng giới. Về vấn đề trên, Đức Phật đặc biệt đề xướng một thuyết rất có tiếng: đó là thuyết Duyên khởi, theo thường t́nh của chúng ta, th́ lấy ư chí căn bản làm cơ sở, rồi dần dần khai phát thành lập hiện thực giới mà quan sát mọi mối liên hệ. Song Phật th́ lại khác, Phật dùng pháp tắc Duyên khởi, đặc biệt thuyết minh pháp tính thường trụ. Duyên khởi như thực v.v... mà đề cao pháp tắc thường hàng bất biến tính, về vấn đề sau liên quan đến lư tưởng giới th́ nói thuyết Bát Chính Đạo, người ta chỉ cần thực hành tám chính hạnh là ai ai cũng có thể đạt đến giải thoát Niết bàn. Nhất là ngày xưa trong lúc ngồi quán sát các pháp trên bờ sông Ni Liên Thiền, Đức Phật đă coi cái đạo pháp mà Ngài tự giác ngộ là cái đạo Nhất Thừa của chư Phật để xác nhận cái phổ biến tính và nhất ban tính của đạo pháp đó. Sau này đến các phái Tiểu thừa, trong các loại Chân như, đặc biệt nói đến Duyên khởi chi tính Chân như cũng v́ lư do đó, và chẳng qua cũng không ngoài việc phát huy cái tinh thần trên đây của Phật.

Song, nói thật ra th́ đó cũng mới chỉ là quan sát tổng quát mà thôi. Nếu lại tiến thêm một bậc nữa mà khảo sát th́ trong cái Chân như quan của Đức Phật đă đành có thể chỉ bao hàm một ư nghĩa mà thôi, đây là điểm ta không thể bỏ qua. Những cái gọi là nhiều chẳng qua cũng cùng một pháp tác sự thực, không phải chỉ liên quan đến căn bản của mười hai nhân duyên, mà trong tất cả hiện tượng đều có một pháp tắc nhất định. Về lư tưởng giới cũng thế, không phải chỉ có Bát chính đạo khái quát, mà giữa Duyên khởi Chân như, Thánh đạo Chân như và Niết bàn cũng đều có mối quan hệ tất nhiên, cứ theo lư đó mà suy rộng ra th́ ta có thể có nhiều lư do để thành lập nhiều Chân như quan, nhưng nếu khảo sát một cách tóm tắt th́ cái gọi là pháp tắc sự thực và pháp tắc lư tưởng, nói theo tinh thần của Phật, th́ rốt cục chỉ có thể quy về một cái tâm của ta. Bởi vậy, theo đó, Chân như chỉ có thể được coi là MỘT mới đúng với tinh thần của Phật. Theo Phật, nếu truy nguyên cho ra cái pháp tắc đă cấu tạo thành thế giới hiện thực th́ đó chính là dục vọng (tức ư chí) của chúng ta, sự khẳng định của chính chúng ta tương đương với cái pháp tắc đă sáng tạo ra thế giới, c̣n về pháp tắc cấu tạo lư tưởng giới là sự biểu hiện ư chí phủ định dục vọng của chúng ta, đó là về pháp tắc tạo dựng thế giới mới.

Do đó, tuy có tiêu cực và tích cực khác nhau, nhưng chưng cự không ngoài cái pháp tắc đă được kiến thiết bởi cái ư chí đồng nhất. Từ nguồn gốc đó, về sau các phái triết học Phật giáo đă lập ra nhiều Chân như quan, có phái chủ trương nhiều, có phái chủ trương một, cũng có phái lấy Chân như làm trung tâm.

Tóm lại, nếu đem đối chiếu với những dữ kiện về Chân như của hậu thế th́ ta nhận thấy Chân như quan của Nguyên thủy Phật giáo không có một điểm nào tŕnh hiện một cách rơ rệt cả. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào những ư nghĩa tiềm tàng trong kinh văn mà suy cứu đến đến tư tưởng cứu kính để nhận xét th́ ta thấy trong đó đă chứa đựng đầy đủ những cái mà đời sau đă khai thác và phát triển về mọi phương diện. Đ́ều này, như ta đă thấy ở trên, đại khái rất rơ ràng.

Bây giờ nếu đem tất cả những điều đă tŕnh bày ở trên mà nghiên cứu một cách thấu triệt th́ ít nhất mọi người phải thừa nhận những sự thực sau đây:

a) Vạn hữu tuy là lưu chuyển, song trong cái lưu chuyển đó vẫn có cái pháp tắc thường hằng;

b) Trong lưu chuyển giới này vẫn có Niết bàn giới thường hằng bất biến;

c) Dù là lưu chuyển giới hay Niết bàn giới, nếu truy nguyên ra th́ rốt ráo cũng chỉ là cái tâm của chúng ta;

d) Sau hết, cái chân tướng kể trên chỉ được nhận ra khi nào chính trị và chính niệm đă xa ĺa sự thiên kiến và chấp kiến.

Tất cả những điều trên đây là nguồn gốc của Chân như quan của triết học sau này. Bởi thế, trước tiên chúng ta cần ghi nhận điểm này. Ở thời kỳ Nguyên thủy Phật giáo, những tư tưởng đó vẫn chưa có sự thống nhất hoặc phân hóa, và đó chính là cái lư do tại sao được gọi là Nguyên thủy vậy.

2) Chân như quan của các phái Tiểu thừa.

Người đem cái tư tưởng Chân như tiềm tàng trong Nguyên thủy Phật Giáo mà khai thác, phát triển là Đại thừa Phật giáo, v́ muốn thuyết minh cái chân tinh thần của Phật tiềm tàng trong các kinh điển nguyên thủy mà Đại thừa được phát động và thành lập, bởi vậy, Chân như là một vấn đề dĩ nhiên phải được đưa ra để nghiên cứu, nhưng nếu đứng về phương diện văn hiến mà nhận xét, th́ đến đây ta thấy vẫn c̣n một giai đoạn để làm tiêu chuẩn cho Đại thừa: đó là giáo lư của các phái Tiểu thừa.

Tiểu thừa Phật tuy kế thừa Nguyên thủy Phật Giáo, nhưng v́ trung thực thái quá về h́nh pháp cũng như về giáo lư một, nhất khái đă trở thành chủ nghĩa h́nh thức, đặc biệt về sự tổ chức giáo lư đă lấy sự cấu tạo một nền thần học cực kỳ phiền toái làm điểm đắc ư (sau nhập diệt một trăm năm chia thành Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, sau Phật nhập diệt từ hai đến ba trăm năm tất cả đă có tới mười tám bộ phái, đó là theo các sử sách c̣n truyền lại). Do đó vấn đề Chân như tư tưởng tuy không phải đề mục luận cứu của các vấn đề khác, nhưng bất cứ vấn đề nào có liên quan đến nó mà không được khảo sát qua th́ quyết không thể nào thấu triệt được nó, và Vô vi pháp là đề mục rất quan hệ với nó, nhất là vấn đề này đă được Đại chúng bộ triển khai một cách rất triệt để.

Về vạn hữu, Phật giáo chia làm hai loại: Hữu vi pháp và Vô vi pháp. Hữu vi pháp có sinh diệt chuyển biến. Vô vi pháp vắng lặng bất biết. Song Tiểu thừa Phật giáo, lúc đầu coi hai loại này đồng thời tồn tại, ngoài Hữu vi pháp không thể có Vô vi pháp biệt lập tồn tại. Chẳng hạn như Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ của Thượng tọa bộ hệ, căn cứ vào luận Câu Xá, chia vạn hữu thành bảy mươi lăm loại, trong số đó, bảy mươi hai loại thuộc Hữu vi pháp, c̣n ba loại kia (Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi, Hư không vô vi) thuộc Vô vi pháp. Như vậy, Vô vi là chân tướng của vạn hữu, và đối với tư tưởng Chân như pháp tính, nó không có quan hệ nào đặc biệt cả, c̣n đối với các hiện tượng nó chỉ chiếm một địa vị ẩn tàng mà thôi, nhưng đến Đại chúng bộ th́ quan niệm về Vô vi pháp đă dần dần được khoáng trương. Nghĩa là trong cái pháp tắc sinh sinh động, biến hóa không ngừng của Hữu vi pháp, nhưng nhiên nó vẫn có một quan hệ bất biến.

Nếu nhận xét theo Dị Bộ Tôn luận th́ Thượng tọa bộ lập thành ba Vô vi, Đại chúng bộ thành chín Vô vi, tức là: Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi, Hư không vô vi, Không vô biên xứ vô vi, Thức vô biên xứ vô vi, Vô sở hữu xứ vô vi, Phi tưởng phi phi tưởng xứ vô vi, Duyên khởi chi tính vô vi, và Thánh đạo chi tính vô vi, c̣n vấn đề lấy Tứ vô sắc làm vô vi biến Tứ vô sắc định thành cảnh giới mà nếu đứng về phương diện biến hóa mà nói, tuy là hữu vi nhưng cái nguyên lư làm cho Tứ vô sắc định được gọi là Tứ vô sắc định nếu truy cứu đến nguyên ủy th́ thật ra nó đă phát xuất từ một cái ǵ bất biến, bất động. Lại nữa, Duyên khởi chi tính và Thánh đạo chi tính cũng tức là pháp tắc Duyên khởi sự thực và pháp tắc lư tưởng giới giải thích đă nói ở trên, đồng thời tuy là tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy, song chỉ là vấn đề triển khai mà thôi. Duy có điểm đặc biệt là: Hóa địa bộ tuy thuộc về Thượng tọa bộ hệ, nhưng các lập pháp lại chịu rất nhiều ảnh hưởng của Đại chúng bộ. Nhận xét theo Tôn Luân luận cũng vậy, Hóa địa bộ cũng lập thành chín Vô vi: Trạch diệt vô vi, cho đến lại lập ra Thiện pháp Chân như, Bất thiện pháp Chân như, Vô kư pháp Chân như, Đạo chi Chân như, và Duyên khởi Chân như. Từ Tứ bất động vô vi thứ tư, sau đến Duyên khởi Chân như và Đạo chi Chân như th́ đại khái cũng giống với chín Vô vi của Đại chúng bộ. Song cái đặc sắc của Hóa Địa bộ là căn cứ vào pháp tắc nhân quả bất biến và tất nhiên mà lập nên ba Vô vi Thiện Ác và Vô kư.

Trở lên tuy theo tài liệu của Dị Bộ Tôn Luân luận, nhưng nếu nghiên cứu và so sánh tài liệu này với giáo lư của các phái Tiểu thừa, khảo sát sử liệu trọng yếu của Nam - truyền - Luận - Sự (Kathavathu) th́ ta thấy tài liệu rất dồi dào mà điểm rất thú vị là: tuy căn cứ vào Luận Sự, nhưng dựa vào Chân như quan để lập ra các loại Vô vi, th́ tóm lại, lại thuộc về Đại chúng bộ, đặc biệt là chủ trương của Án Đạt La phái (Andhaka), Bắc Đạo phái (Ultarapathaka), Đông Sơn bộ (Pubbaseliya) v.v... (lúc đó Hóa Địa bộ cũng gia nhập, như trên đă nói, Hóa Địa bộ chịu ảnh hưởng của Đại chúng bộ rất sâu).

Ở đây nếu đề cập đến tất cả th́ tóm lại, thuyết chín Vô vi của Đại chúng bộ hay Hóa Địa bộ, tuy có chủ trương phân tán, nhưng trên toàn bộ th́ từ trước chưa thấy một sự kiện nào được thêm thắt vào cả. Chảng hạn trước kia tuy có Duyên khởi Chân như, nhưng Tứ đế Chân như kết hợp cả hai, song đến đây Hóa Địa bộ lại chủ trương Tứ đế Chân như (Cattarisaccaniasamkhataniti -KA63). Nghĩa là Khổ, Tập, Diệt, Đạo biểu thị cái quan hệ toàn nhất và thường hằng bất biến. Đứng trên lập trường này ta có thể giải thích như sau: muốn đem pháp tắc thực tế và pháp tắc lư tưởng kết hợp thành một nguyên lư duy nhất. Lại nữa, trước tuy có ư niệm về Chân như quan thuộc loại này vẫn chưa thấy biểu hiện rơ ràng. Nếu nói theo Luận Sự th́ ngay trong phái Tiểu thừa cũng có chủ trương thuyết đó. Chủ trương của Bắc Đạo Phái lập luận thế này: Tất cả pháp Chân như đều là Vô vi (Sabbadhammanan tathataasamkha tati K.V.195).Thí dụ cây thông, cây trúc chính nó là vật biến hóa, nhưng cái quan niệm về cây thông, cây trúc th́ bất biến. Do ư nghĩa đó mà trong Luận Sự cho nó là một Chân như. Nói theo nghĩa hẹp của Chân như thực thể th́ có thể cho quan niệm trên gần với tưởng pháp của Đại thừa.

Như vậy, dù căn cứ vào Tôn Luân luận, hay căn cứ vào Luật Sự, các phái Tiểu thừa, nhất là các phái thuộc Đại chúng bộ, đă hấp thụ tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy liên quan đến các pháp Vô vi, khai thác các loại Chân như, hoặc đứng về mặt pháp tắc, hoặc đứng về mặt quan hệ, hoặc dựa vào điểm thực tính để phát hiện cái quy luật sinh diệt biến hóa của thế giới, hay muốn từ cái căn để của nó mà phát hiện cái thực thể bất sinh bất diệt. Dĩ nhiên trong đó thay v́ nói cái căn để của hiện tượng th́ lại nói đối với ư nghĩa Vô vi tịnh tồn của hiện tượng cũng có, và mặc dầu vậy, cái phạm vi của Vô vi sau đă dần dần được mở rộng thêm, do đó không bao lâu Vô vi chính có tuy bất động, nhưng vẫn chứa đựng ư nghĩa về nguyên lư làm cho nó biến động để rồi sau này đă trở thành tài liệu đầu tiên của triết học Chân như quan.

Song có một điều chưa được thỏa măn là một mặt lập nên các loại Chân như, mặt khác vẫn chưa thấy có một ư tưởng thâu tóm tất cả những ư tứ đó để lập thành một Chân như căn bản độc nhất vô nhị. Đứng trước cái lư tưởng Nhất Thừa Pháp của chư Phật, th́ dù theo giáo lư của Phật giáo Nguyên thủy, hay theo yêu cầu thống nhất của ḷng người, điểm này không thể không làm cho người ta bất măn. Đương nhiên, nếu nhận xét theo Tôn Luân luận, hay Luận Sự, ta thấy gần như đă dần dần tiến tới việc thành lập một Chân như thống nhất. Đại chúng bộ hầu hết lập ra bốn Vô sắc Vô vi, đến Hóa Địa bộ th́ lại tập hợp thành một Bất động Vô vi duy nhất (Thiện Pháp, Bất thiện pháp, Vô kư pháp ba Chân như. Theo Từ Ân th́ đó là Tam Thể Nhất Lư). Cũng như Đông Sơn Bộ thống nhất Duyên khởi chi tính và Thành đạo chi tính làm thành Tứ đế Vô vi. Điểm này rất rơ ràng, tuy nhiên đó mới chỉ là sự thống nhất bộ phận chứ vẫn chưa đạt đến sự thống nhất toàn bộ.

Như vậy, đến Đại chúng bộ Chân như quan tuy đă được thuyết minh rất rơ ràng, nhưng nếu đứng về phương diện H́nh nhi thượng học mà nhận xét th́ vẫn c̣n có nhiều điểm chưa được đề cập tới. Muốn đem thống nhất tất cả về mặt triết học, đó là Chân như quan của triết học Đại thừa mà kinh Lăng Già hoặc Khởi Tín Luận đă đạt đến tuyệt đỉnh đó, c̣n Chân như quan của Bát Nhă th́ thật đă được thành h́nh giữa khoảng từ Chân như quan của các bộ phái cho cho đến Chân như quan của Đại thừa Khởi Tín Luận.

Quay trở về đầu Xem hukhong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi hukhong
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.2715 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO