Tác giả |
|
tuyetson Hội viên


Đă tham gia: 08 January 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 45
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 28 May 2006 lúc 5:18am | Đă lưu IP
|
|
|
Luân Hồi
Thích Tâm Thiện
- Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất quan tâm đối với con người. Chết rồi sẽ đi đâu về đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cơi âm hay không? v.v... Đó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn nhân loại.
A. Dẫn nhập
Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất quan tâm đối với con người. Chết rồi sẽ đi đâu về đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cơi âm hay không? v.v... Đó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn nhân loại. Các nền tín ngưỡng và tôn giáo trên thế giới đều có những quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với Phật giáo, luân hồi không phải là một giáo lư đặc thù, cũng không phải là một vấn đề triết học cơ bản, nhưng nó là một sự thật hiển nhiên đối với những con người c̣n bị trầm luân trong sanh tử khổ đau. Do đó, trong các kinh điển của cả Nam tạng và Bắc tạng đề thảng hoặc đề cập đến các vấn đề luân hồi, như là một hiện tượng trôi chảy của những đời sống nối tiếp nhau. Đặc biệt là trong Bổn Sinh (Tiểu Bộ kinh) đă ghi lại các mẩu chuyện tiền thân của Đức Phật, như là một xác chứng hùng hồn về cuộc sống luân hồi của vị đại Bồ tát.
B. Nội dung
I. Định nghĩa:
Luân hồi, tiếng Phạn là samsàra, có nghĩa là sự chuyển sinh, sự chuyển tiếp, sự diễn tiến liên tục của những kiếp sống; và sự chuyển sinh liên tục đó, thường được biểu thị bằng bánh xe (cakka) và được gọi là bánh xe luân hồi (samsaracakka):
Chúng ta có thể h́nh dung bánh xe luân hồi như là một "ṿng tṛn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên ṿng tṛn ấy, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, và bánh xe ấy cứ quay măi trong ṿng trầm luân của sanh tử khổ đau cho đến khi nào con người tu tập và đạt đến sự giải thoát tối thượng. Đức Phật dạy:
"Đêm dài đối với kẻ thức
Đường dài đối với kẻ mệt
Luân hồi dài đối vớ kẻ ngu
Không biết rơ chân diệu pháp"
II. Nội dung luân hồi:
Sau khi thành thạo đạo cội bồ đề, một trong những tuyên ngôn (khải hoàn ca) đầu tiên của Đức Phật đă được cất lên giữa ḍng đời với nội dung giải thoát ṿng luân hồi - trầm luân, đă được ghi lại trong kinh tạng như sau:
Trong ḷng sống chết vô tận
Ta đi măi không dừng
Từ bào thai này sang bào thai khác
Đuổi theo người chủ ngôi nhà
(trong ṿng luân hồi)
Chủ nhà ! Ta đă nắm được ngươi rồi
Ngươi không cất nhà lại được
Cột kèo đă găy hết
Mái, rường đă sụp đổ
Tâm ĺa hết tạo tác
Tất cả đă diệt trừ xong
(giải thoát khỏi ṿng luân hồi). (Pháp cú - 153-154)
1. Luân hồi - tái sinh:
Qua bài kinh trên, chúng ta thấy rơ Đức Phật đă xác định sự thật về luân hồi một cách cụ thể qua h́nh ảnh tái sinh (từ bào thai này sang bào thai khác). Tái sinh (reincarnation) là sự trở lại một đời sống mới hoặc cao hơn, hoặc thấp hơn hoặc như cũ trong lục đạo (trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quy3, súc sinh) sau khi đă kết thúc một chu kỳ sống (life cycles), hay c̣ gọi là thọ mạng đă hết - chết.
Thông thường, khi nói đến luân hồi - tái sinh, trong phật giáo thường đề cập đến hai khái niệm cơ bản về sự sinh tử, đó là:
a. Chu kỳ sinh tử của từng sát na
b. Chu kỳ sinh tử của một đời sống
- Về chu kỳ sinh tử của từng sát na, v́ nó diễn ra quá nhanh chóng như sự sinh ra rồi mất đi của một làn chớp (điện chớp) mà thuật ngữ Phật học gọi là "niệm niệm - sinh diệt" (sư5 sinh tử diễn ra trong từng ư niệm), do đó vấn đề chỉ được bàn đến trên một b́nh diện cao hơn, như trong thiền định, hoặc các cảnh giới của tâm thức v.v...
- Về chu kỳ sinh tử của một đời sống, do tính cách giới hạn của một chu kỳ sống, nghĩa là có thể ghi nhận qua bốn giai đoạn: sanh, lăo, bệnh, tử và / hoặc sinh thành (sinh), tồn tại (trụ), biến chuyển (dị) và hoại diệt (diệt) của một chúng sinh, nên chu kỳ này trở thành chủ đề trung tâm khi nghiên cứu về luân hồi-tái sinh.
Theo quan điểm của Phật giáo, tất cả muôn loài chúng sinh phải chịu sự chi phối của định luật vô thường. Đối với con người, vô thường chính là sự biểu hiện của sinh, lăo, bệnh, tử của mỗi kiếp sống, và cứ mỗi kiếp sống như thế đều được giới hạn bởi hai d9ầu sinh và tử. Tuy nhiên, sinh và tử chỉ là sự bắt đầu và hoàn tất của một chu kỳ, Như thế, khi thân xác này hủy hoại, cái ǵ sẽ tiếp tục tái sinh - mở đầu một kiếp sống mới? Đây là then chốt để t́m hiểu về luân hồi.
Kinh trung bộ (Majjhima Nikaya - 135), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, là quyến thuộc của nghiệp; nghiệp là thai tạng mà đó con người được sinh ra".
Từ lời dạy trên, chúng ta thấy rằng nghiệp (karma) luôn luôn có mặt cùng với sự có mặt của con người. Và khi chết, th́ thân thể vật lư này tan hoại, c̣n nghiệp vẫn c̣n tiếp tục trôi lăn theo ḍng trầm luân của nó (hoặc thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp). Nhưng nghiệp không phải là linh hồn bất tử để nối kết các kiếp sống, v́ bản thân nó là vô ngă. Tuy nhiên, chính nghiệp là cơ sở, là điểm trung tâm, để qua đó, ṿng luân hồi xoay chuyển. Vậy, nghiệp là ǵ?
Nghiệp là hành động có tác ư, hay hành động được phát sinh từ tâm; và thông qua hành động của thân, miệng và ư mà nghiệp được h́nh thành. Nói đến nghiệp là nói đến thiện ác trong tương quan nhân quả; và trong mối tương quan đó, động cơ chính để kiến tạo nghiệp là tham , sân, si (ác nghiệp) và ngược lại là không tham, không sân, không si (thiện nghiệp).
Từ đây, chúng ta thấy rơ rằng, chính tâm lư của ḿnh là cơ sở để tạo nên nghiệp của mỗi người. Con người là kẻ quyết định cái nghiệp của ḿnh - cái định nghiệp do ḿnh tạo tác. Và cũng chính con người là kẻ duy nhất có thể giải thoát mọi nghiệp lực của ḿnh, đi ra khỏi ṿng luân hồi tái sinh.
2. Nghiệp và tái sinh:
Trong đạo Phật, nghiệp được tŕnh bày gồm nhiều loại, nhưng nghiệp cơ bản là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ư nghiệp. Về mặt tính chất, nghiệp được phân thành bốn loại như sau:
a. Cực trọng nghiệp (weighty karma): nghiệp loại nặng như giết cha mẹ, giết người v.v...
b. Tập quán nghiệp (habitual karma): nghiệp do thói quen h́nh thành.
c. Tích lũy nghiệp (strored up karma): nghiệp do tích tụ từ cuộc sông thường ngày.
d. Cận tử nghiệp (death-proximate karma): nghiệp lúc sắp chết.
Như đă tŕnh bày, trong suốt ṿng luân lưu của sinh tử, tử sinh, từ đời sống này sang đời sống khác, nghiệp bao giờ cũng đóng vai tṛ trung tâm của sự luân chuyển. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tái sinh (reincarnation), th́ cận tử nghiệp là điều kiệnn quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến sự tái sinh.Cận tử nghiệp, trên một góc độ nào đó, có thể nói là hệ quả được cô kết trong suốt đời sống của một kiếp người; đồng thời, nó cũng là ḍng nghiệp thức mạnh nhất,thức đẩy thần thức của con người trước, trong hoặc sau khi chết t́m kiếm một sự tái sinh.
Thông thường khi sinh tiền, con người làm lành hay làm ác, các hành động (của thân, miệng ư) đó đều được lưu vào trong Tàng thức (Alaya) như những hạt giống được gieo vào và nằm im trong ḷng đất, cho đến khi sắp chết hoăc chết, thân thể và các quan năng không c̣n hoạt động, lúc bấy giờ chỉ có tâm thức hoạt động. tuy nhiên, tâm thức lúc đó không phải là tâm thức ở trạng thái định tĩnh, tự chủ, linh hoạt v.v.., mà trái lại nó rơi vào trạng thái bất tỉnh, hôn mê, hoảng hốt, phách lạc hồn xiêu ...Và ngay lúc bấy giờ, mọi tạo tác của con người, hoặc thiện hoặc ác (c̣n gọi là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp), từ trong qua1 khứ (khi c̣n sống) sẽ tạo thành ḍng nghiệp thức gồm những ư lực cực mạnh để thôi thúc thần thức của con người đi t́m cảnh giiới tái sinh. Cần lưu ư rằng, các tập quán, thói quen, nhất là sự luyê1n ái, chấp thủ khi c̣n sống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cận tử nghiệp. Do đó, nếu sống an lạc th́ cũng chết an lạc. Sống c̣n khổ đau v́ tham, sân, si th́ đương nhiên chết cũng khổ đau như thế. V́ sống và chết chỉ xuất hiện trên một tiến tŕnh, như thức và ngủ. V́ vậy, để có sự giải thoát, ngay tại đây và bây ggiờ, cần phải luôn luôn hướng tâm đến với sự xả ly thanh tịnh, xoá bỏ mọi sự tham ưa và bám víu. Thánh nhân có dạy rằng: "Thế gian như một con thuyền, hăy đi trên nó chứ đừng mang vác...".
Từ một vài chi tiết trên, chúng ta thấy rằng sự sống và sự che61t của con người có được an lạc hay không là tùy thuộc vào ḍng tâm thức của mỗi cá thể. Sau khi thọ mạng đă hết - chết, th́ thân xác sẽ tan hoại, nhưng ḍng nghiệp thức (thần thức) sẽ tiếp tục đi vào các đời sống mới trong sáu cơi: trời, người, a tu la , địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, tùy theo nghiệp lực thiện hay bất thiện.
3. Nghiệp thức - sinh và tái sinh:
Theo kinh Trung Bộ (tập I), sự xuất hiện của con người bao giờ cũng hội đủ 3 điều kiện: a. Cha mẹ có gaio hợp; b. Người mẹ có thể thụ thai; và c. Phải có mặt nghiệp thức. Nếu không có mặt nghiệp thức th́ thai nhi không thể sống.
Về nghiệp thức (karmic consciousness), c̣n được gọi là hương ấm, hay là Kiết sinh thức (Gandhabha). Khi điều kiện hội đủ và do nghiệp chiêu cảm mà kiết sinh thức đi vào thai mẹ; lúc bấy giờ, Kiết sinh thức cảm như là "ư niệm tối sơ; của một đời sống mới. Cho đến khi chết, cũng ḍng nghiệp thức ấy thúc đẩy t́m kiếm tái sinh, nên được gọi là "nghiệp dẫn tái sinh". Thực ra, cả sự sinh và tái sinh đều được căn cứ trên ḍng vận hành của nghiệp thức. Và từ sinh cho đến tái sinh (sau khi chết), trong suốt quá tŕnh đó, đời sống của một sinh thể được h́nh thành qua cơ cấu của 12 Nhân duyên: vô minh - duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lăo, tử, sầu, bi, khổ, ưu năo... (về ư ngghĩa của 12 Nhân duyên, sẽ được giới thiện sau. Như vậy, 12 nhân duyên chính là sự hiện hữu của con người. Và trong 12 Nhân duyên, các chi phần vô minh, hành, thức và danh (sắc) là các yếu tố của nghiệp dẫn tái sinh.
4. Các quan niệm về chết và thân trung ấm:
Trong Nikàya đề cập đến sự chết cụ thể như sau: thứ nhất là chết sắc thân đoạn diệt, hai là chết do thọ mạng đă hết, và do nghiệp ở đời đă hết. Bên cạnh đó, c̣n có trường hợp chết đột ngột (bất đắc kỳ tử, chưa đến lúc mà chết). Nh́n chung, sự chết được xem như là sắc thân (cơ thể) đă đoạn diệt.
Một vấn đề khác nữa là trung ấm. Theo một số chủ thuyết của Đông sơn bộ, Chính lượng bộ thuộc Hữu bộ cho rằng, sau khi chết và trước khi tái sinh, oở giữa đó là thân trung ấm (trung gian). Thời gian của thân này là thời gia chuẩn bị tái sinh, nó kéo dài không quá 49 ngày (theo Thiết Ma Đạt Đa). Có thể do ảnh hưởng của không quá niệm này mà có tục lệ cúng thất - thất trai tuần (7 x 7 = 49 ngày).
Tuy nhiên, theo Nikàya và A Hàm th́ từ "tử tâm" cho đến "kiết sinh tâm" chỉ diễn ra trong ṿng một đến hai sát na (tích tắc), do đó không cần có thân trung ấm (trung hữu).
Thật ra, theo người viết nhận định, thân trung ấm cũng là một thân vi tế (tịnh sắc thân), một cảnh giới trong hằng hà sa thế giới; và đương nhiên nó cũng vô thường, biến dị, cũng luân hồi sinh diệt. V́ thế, không có ǵ mâu thuẫn giữa "tử tâm" và "kiết sinh tâm" trong Nikàya với quan điểm có hay không có quan điểm sắc thân trung ấm. V́ lẽ, thời gian 49 ngày cho một thân - thức đương nhiên không có ǵ vô lư khi tại trần gian có những đời sống dài nhất chỉ một vài ngày, như loài muỗi ṃng v.v...
5. Để có một sự chết trong thanh b́nh - an lạc:
Đây là vấn đề trọng yếu của con người, Như đă đề cập, sống và chết cũng như thức và ngủ, vậy thôi. Chúng ta không nên quan tâm quá đáng về cái chết, v́ ai cũng chết. Nhưng điều đáng quan tâm hơn là sống và sống như thế nào để lúc chết được b́nh an. V́ lẽ đó, đối với Phật tử cần phải sống giữ tâm linh trong sạch, đừng làm điều ǵ gây khổ đau cho chính ḿnh và cho kẻ khác, nhất là phải luôn luôn ư thức rằng cuộc đời là vô thường, "trần gian này là chiếc cầu, hăy đi qua nó chứ đừng xây nhà trên nó". Cho đến khi nào tâm được trong sạch, thanh b́nh, không c̣n luyến tiếc, không c̣n bám víu vào bất cứ điều ǵ, dầu gia tài sự nghiệp, dầu vợ đẹp con ngoan v.v..., th́ khi đó sự chết của bạn như lên thuyền sang sông, giải thoát mọi khổ đau, chết trong sự b́nh an phúc lạc. Đức Phật dạy:
"Bỏ quá khứ, hiện tại và vị lai
Đến bên kia cuộc đời
Ư giải thoát tất cả
Chớ vướng bận sinh, gia, bệnh, chết"
C. Kết luận:
T́m hiểu về luân hồi là để sống được an nhiên, tự tại. Chúng ta không cố t́m gặp luân hồi, v́ luân hồi đang trôi chảy ngay trên thân của mỗi con người, như ḍng máu luân lưu. Cái khổ đau nhất của người đời là tham muốn và nắm giữ các đối tượng "của tôi" và của "cái tôi thích, tôi yêu". Bạn có thể tập buông bỏ từ từ cái tâm lư tham muốn và nắm giữ đó, nhưng nếu một mai...khi vô thường đến, thần chết đến hỏi bạn th́ bạn hăy ngay lập tức hướng tâm đến sự từ bỏ tất cả, sự không tham luyến tất cả, sự thanh tịnh b́nh an, sự chánh niệm tỉnh giác; v́ đó là điều kiện tối cần thiết cho sự tái sinh vào một đời sống tốt đẹp hơn và cao cả hơn. Và để làm được điều đó ngay bây giờ và ở đây, bạn hăy thực tập tư duy về vô thường - vô ngă.
"Ta c̣n để lại ǵ không
Ḱa non đá lở, nọ sông cát bồi
Lang thang từ dộ luân hồi
Vô minh nẻo trước xa xôi dặm về..."
__________________ Ḥn ngọc Viễn Đông
|
Quay trở về đầu |
|
|
huyhoangtitc Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 6
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 29 May 2006 lúc 7:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Con người ta có kiếp luân hồi, muốn đầu thai chuyển kiếp th́ đi qua 1 trong 6 cây cầu đó
Bên sông có đài bánh xe chuyển kiếp, bên cạnh có cầu. Có 6 cây
1 cầu vàng có công lớn tu nhân tích đức lên thiên đàng
2 cầu bạc tu nhân tích đức đạt mức trung lên nhận chức thần (được người đời nhang khói)
3 cầu ngọc tích thiện đầu thai nhà phú quư, chốn phúc địa.
4 cầu đá công tội ngang nhau đầu thai làm thường dân
5 cầu gỗ tội nhiều hơn công đầu thai bần tiện hạ cấp, nghèo khổ, cô quả.
6 cầu tre tội ác nhiều đầu thai làm súc vật, côn trùng.
Âm dương c̣n nhiều điều bí mật, mà không phải ai cũng biết và hiểu được.
Có ai biết được các hàng quan, thần thánh không?
Các giá Quan, các qiá cô, Bà chúa khâm sai, Quan thượng thiên quyền biên quyền chép.
Có căn nhập đồng mới biết được các điều đó
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|