Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 243 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Nghiệp Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tieudongtu
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 April 2006
Nơi cư ngụ: Spain
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 25
Msg 1 of 2: Đă gửi: 21 May 2006 lúc 5:04am | Đă lưu IP Trích dẫn tieudongtu

Nghiệp

Phạn ngữ Karman, vẫn được dịch là Nghiệp, có nghĩa là việc làm. Đó là một danh từ xuất phát từ ngữ căn kr, có nghĩa là làm, tạo tác, hành động, hoạt động... Việc làm ở đây là một hoạt động có mục tiêu như một học sinh học chăm chỉ nên thi đậu. Thi đậu là mục tiêu, phương tiện để đạt đến mục tiêu ấy là hoạt động chăm chỉ học hành. Nhờ học sinh ấy làm công việc học hành chăm chỉ nên mới đạt được mục tiêu ḿnh mong muốn là thi đậu.
Chúng ta có thể nói rằng đây là một việc làm có tính chất nhân quả, như nhờ học sinh đó "làm việc" chăm chỉ như thế, nên học sinh ấy đem lại một kết quả cho chính ḿnh là thi đậu, mà ngoài ra lại c̣n có thêm các kết quả phụ thuộc khác như bố mẹ vui mừng, mọi người khen ngợi. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu rằng ư nghĩa của karman chỉ giới hạn trong tiến tŕnh "việc làm" mà thôi, nghĩa là karman bắt đầu từ một ư muốn có mục tiêu khởi lên, rồi ư muốn ấy thúc đẩy cơ thể chúng ta "làm việc" nhằm đạt đến mục tiêu, cho đến bao giờ ư muốn ấy cho rằng làm việc như thế là đủ để đạt đến mục tiêu mà nó mong mỏi rồi, th́ nó ngưng không thúc đẩy cơ thể chúng ta làm việc nữa, lúc đó coi như nghiệp hay karman thành tựu, dù sau đó mục tiêu có thành hay không thành, có kết quả hay không có kết quả, ư muốn ấy có được thỏa măn hay không thỏa măn, cũng không thành vấn đề nữa. Thế nên hễ cứ có ư muốn và bị ư muốn ấy thúc đẩy "làm việc" xong xuôi là coi như chính Nghiệp đó rồi, chứ không phải đợi chờ đến kết quả được thỏa măn th́ mới được gọi là nghiệp.
Nghiệp là hoạt động có chủ ư của hữu t́nh giới
V́ Nghiệp hay karman là một việc làm bị thúc đẩy bởi một ư muốn có mục tiêu như thế, nên Nghiệp hay karman chỉ là các việc làm của hữu t́nh giới chứ không phải các việc làm của vô t́nh giới. Như nước chẩy, nhưng tự chính nước không hề ư thức là ḿnh chẩy ; nước làm ṃn đá, song không hề ư thức là ḿnh làm ṃn đá ; nước không hề có ư muốn chẩy, không hề có ư muốn làm ṃn đá ; nước không có chủ ư là ḿnh phải làm ṃn đá, không lấy đó làm mục tiêu của ḿnh. Nhân quả của vô t́nh giới chỉ là một tác dụng vô tư vô t́nh, tự nhiên không chủ ư. Trong khi việc làm của karman là một việc làm có ư thức, có ư muốn, có chủ ư, có mục tiêu, có suy xét nhận định, rồi phán quyết là phải làm thế nào, rồi sau đó mới ra tay hành động. Hoạt động của thiên nhiên vô t́nh đều không có được các ư nghĩa này, nên không phải là ư nghĩa của karman.
Và v́ việc làm theo nghĩa của karman là một việc làm có mục tiêu, có chủ ư, có suy xét đâu đó rồi mới làm, thế nên dù là hữu t́nh đi chăng nữa, song các hoạt động vô t́nh không chủ ư như đi đường dẫm chết kiến, các hoạt động theo bản năng sinh tồn hay sinh lư như ăn uống, đi tiêu đi tiểu, ngủ nghỉ, các hành động tự nhiên của cơ thể như đi đứng nằm ngồi, các hoạt động của các giác quan như nh́n nghe ngửi nếm v.v... đều không phải là ư nghĩa của karman.
Nghiệp chính yếu là hoạt động gieo nhân thuộc cơi con người
Chính v́ thế, đại đa số các hành động của các cơi (thú, gati) hay các loài khác ngoài loài người, v́ chỉ là các hoạt động quả báo, nói rơ hơn là các sinh hoạt trả quả, nghĩa là các hoạt động của họ chỉ là các sinh hoạt đáp ứng tương xứng lại với Nghiệp nhân mà thôi. Như hữu t́nh của cơi trời th́ hát ca, hưởng thụ ngũ dục sung măn đầy đủ như ư ; hữu t́nh thuộc địa ngục, ngạ quỷ th́ khổ sở đớn đau kêu rên không tận ; hữu t́nh thuộc súc sinh th́ chỉ sinh hoạt bằng bản năng không biết phân biệt phải trái tốt xấu hay dở đúng sai ; hữu t́nh thuộc cơi Thiền và Định th́ yên tĩnh b́nh lặng trải rộng an lạc... Các hoạt động hưởng thụ của các cơi trời, khổ sở của ba cơi ác, an lạc của các cơi Thiền Định, đều chỉ là những hành động tự nhiên phải có của quả báo mà thôi, như người làm ác (tức gieo nhân) nên bị tù khổ sai (tức quả báo), khi vào tù th́ các sinh hoạt, hoạt động trong tù như phải lao động cực nhọc khổ sở, đi lại tù túng, không tự do v.v... chỉ là các hoạt động trả quả. Các hoạt động trả quả như thế không được coi là Nghiệp.
Nghiệp hay karman phải là các việc làm hay hoạt động "gieo nhân" chứ không phải các hoạt động hay sinh hoạt trả quả. Thế nên thông thường Nghiệp hay karman hay được thực hiện trong cơi con người (nhân thú), v́ cơi con người không phải chỉ là một trong các cơi quả báo (thú) mà thôi, mà nó c̣n là một cơi có đủ yếu tố và tính chất để gieo nhân nữa. Tại sao vậy ?
Nghiệp là hành vi thiện ác do nơi tâm.
V́ các cơi trời và các cơi thiền định là các cơi quả báo thuần thiện, địa ngục ngạ quỷ súc sinh là các cơi quả báo thuần ác, trong khi cơi con người lại gồm cả báo thiện và báo ác, như người th́ vừa giầu vừa thông minh, người th́ vừa nghèo khổ tật nguyền vừa ngu dốt, các cảnh sung sướng và đau khổ ở chung cùng chỗ với nhau, thế nên người giầu dễ có cơ hội làm nghiệp thiện là bố thí cho người nghèo, người nghèo dễ có cơ hội sinh ḷng tham làm nghiệp ác cướp đoạt của người giầu v.v... Mà theo nguyên tắc của Nghiệp, th́ do tôi làm ác nên tôi mới bị quả như thế nầy, do tôi làm thiện nên tôi mới được hưởng quả như thế kia. Do có thiện ác cho nên mới có quả. Thiện ác ở đây là dựa vào đâu mà thẩm định được ? V́ các việc làm theo nghĩa karman luôn luôn phải được phát động từ một tâm suy tính có chủ ư, thế nên các việc làm này có tính chất ra sao là tùy theo tâm suy tính kia mà ra vậy. Tâm suy tính này (trong Phật Pháp gọi , cetanà), lại có tính chất thế nào đó là do các suy tính kia hướng theo một lối hoạt động nào đó của tâm. Các hướng hoạt động trong tâm này (trong Phật Pháp gọi là Hành, samskàra) gồm có ba loại là thiện, ácvô kư, tức không thiện không ác. Nếu suy tính theo hướng thiện, như suy tính muốn bố thí chẳng hạn, th́ tâm suy tính ấy sẽ là thiện, và việc làm do tâm suy tính ấy phát động sẽ theo đó mà là thiện. Ngược lại, nếu suy tính theo hướng ác, th́ việc làm sẽ theo đó thành ác. Và chỉ có các việc làm theo hai hướng thiện ác mới có ư nghĩa của karman.
Thế nên dù là có mục tiêu hay chủ ư có suy tính đi nữa, song các việc làm có tính cách giải trí như đi hóng mát, chơi thể thao, coi kịch nghệ v.v... các việc làm nuôi thân không thiện không ác như ca sĩ hát ca, kịch sĩ đóng kịch, thợ mộc đóng bàn v.v..., các việc làm theo bổn phận không thiện không ác như học sinh học bài v.v..., các việc làm này v́ không có tính chất thiện hay ác, thế nên không có ư nghĩa của karman.
Có một số các việc làm được chúng ta đánh giá sẵn là thiện hay ác rồi, như giết người là việc làm ác, bố thí là việc làm thiện. Song thiện ác theo nghĩa karman được quyết định theo hướng thiện ác của tâm suy tính, chứ không chỉ nh́n theo việc làm mà quyết định. Như một người thấy người thân bị bệnh khổ hành hạ đau đớn mà không cách ǵ qua khỏi, nên phải cho thuốc cho chết đi để khỏi bị đau đớn nữa, th́ v́ tâm suy tính "giết" người thân ấy là tâm thiện chứ không phải tâm ác, thế nên việc làm "giết" ấy không c̣n là ác nữa, mà trong nhiều trường hợp c̣n là thiện nữa. Ngược lại bố thí với tâm ác, như cho với một âm mưu hại người nhận hay cho với một tâm lừa dối, th́ việc làm bố thí đó sẽ không c̣n là thiện nữa, mà lại thành ác.
Thế nên các việc làm thiện ác mà thế gian định sẵn hay chấp nhận chung với nhau như giết, trộm, tà dâm, nói láo, là ác ; không giết, không trộm, không tà dâm, không nói láo, là thiện. Các việc làm ấy cũng vẫn phải được xét theo tâm suy tính trước khi làm các việc ấy là tâm thiện hay ác, rồi mới đánh giá các việc làm ấy là thiện hay ác đúng theo nghĩa của karman được.
Do đó các việc làm thiện ác theo phong tục tập quán của mỗi miền, như tập tục nơi này th́ chồng mà hai vợ là ác, đối với nơi khác th́ nhiều vợ là thiện v.v..., các việc làm thiện ác theo truyền thống văn hóa khác nhau, như có truyền thống văn hoá chồng chết là vợ phải chết theo mới là thiện, các truyền thống khác cho đó là ác v.v... ; cũng như các truyền thống thiện, ác của tôn giáo, như có tôn giáo sáng ra phải lậy mười phương mới là thiện, có tôn giáo tiếp xúc với giai cấp khác là ác, có tôn giáo giết trừ kẻ ngoại đạo là thiện, có tôn giáo phải cạo bỏ hết râu tóc mới là thiện, có tôn giáo không bao giờ cắt tóc hay móng tay mới là thiện v.v... Tất cả các việc làm thiện ác trên đều không phải là tiêu chuẩn thiện ác theo nghĩa của karman. Thiện ác của karman là do nơi Tâm suy tính, (tức , cetanà) quyết định.
Tại sao lại như vậy ? Bởi v́ tâm suy tính này là chủ động trong mọi việc làm thiện ác. Như thấy một người rớt xuống sông, tôi ném ngay một sợi giây xuống để kéo người ấy lên. Hành động hay việc làm ném giây xuống kéo lên này của tôi không phải là vô t́nh hay tự nhiên. Nếu tâm tôi không có chủ ư cứu người ấy, không suy tính mau lẹ là phải cứu làm sao, th́ việc làm ném giây cứu người kia sẽ không bao giờ được thực hiện. C̣n một khi ư tôi đă dứt khoát là phải cúu người ấy, th́ tâm tôi lập tức suy tính ngay là phải làm sao, và suy tính rồi là phải hành động tức thời. Hành động hay việc làm cứu người ấy hoàn toàn do tâm suy tính điều động và làm chủ.
Tư hay là ư nghiệp. Thân nghiệp, ngữ nghiệp hay là biểu nghiệp.
Theo Phật Pháp, việc làm hay hành động cứu người kia của  tôi lúc ấy, hay karman của tôi lúc ấy, gồm hai thành phần : một là tâm suy tính thiện có chủ ư cứu người của tôi, hai là thân tôi chạy đi, tay tôi lấy dây ném xuống và kéo lên, có thể thêm nữa là miệng tôi hô hoán các người khác lại kéo giúp. Tóm lại karman hay việc làm bao giờ cũng gồm hai phần là tâmthân. Việc làm thuộc tâm là các suy tính có tính chất hoặc thiện hoặc ác (trong Phật Pháp gọi là Tư, tức là ư nghiệp, manas-karman) ; việc làm thuộc thân là các hành động của thân nói chung như tay chân, nh́n ngó, lắng nghe... (trong Phật Pháp gọi là thân nghiệp, kàyakarman) và các hành động nói năng của miệng (trong Phật Pháp gọi là ngữ nghiệp, vàkkarman). Song tâm bao giờ cũng đóng vai tṛ chính. Đại thừa Phật giáo, cũng như Nam sơn luật tông sau này, coi karman chính là tâm suy tính (), thân hay khẩu chỉ là công cụ hay phương tiện được tâm suy tính sử dụng nhằm thỏa măn mục tiêu mà tâm mong muốn mà thôi.
Nghĩa là khi tôi bố thí cho ai, th́ cái việc làm bố thí hay karman bố thí ấy chính là một hoạt động của tâm suy tính muốn bố thí, chứ không phải là một hoạt động của tay tôi. Tay tôi chỉ là một phương tiện hay công cụ do tâm bố thí của tôi sử dụng lấy để hoạt động theo ư nó. Tâm bố thí của tôi vốn vô h́nh, nhưng khi nó sử dụng đến thân và tay của tôi, th́ nó hiển hiện ra rơ ràng qua hành động cuả tay tôi đưa của thí ra cho. Hành động bố thí của tay tôi thực ra chỉ là hành động của tâm tôi mà  giờ đây chính tôi và mọi người đều thấy rơ ra được. Hành động của tâm hay karman khi hiển lộ ra và được tất cả mọi người nhận biết rơ qua thân và khẩu như thế được gọi là biểu nghiệp. Biểu (vijnapti) là lộ rơ ra bên ngoài cho mọi người thấy biết.
Tuy karman thật sự chỉ là hành động của tâm suy tính (), song nếu chỉ suy tính ở bên trong mà thôi, chứ không chịu biểu lộ ra bên ngoài qua phương tiện thân và khẩu, th́ karman không bao giờ thật sự thành tựu. Song chắc chắn đă là karman th́ là phải biểu lộ ra qua hai mặt thân hoặc khẩu.
Tại sao vậy ? Bởi v́ mọi hoạt động suy tính của tâm () đều do duyên theo thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh mà khởi. Như thân tôi ngồi trong pḥng khách, nước để dưới bếp, em tôi cũng ở dưới bếp. Khi tôi cảm thấy khát nước và muốn uống nước, th́ tức thời tâm muốn uống nước của tôi sẽ dựa theo hoàn cảnh của thân tôi và khung cảnh xung quanh mà suy tính ngay rằng là thân tôi phải đứng lên và đi thẳng xuống dưới bếp th́ mới uống được nước và sẽ được thỏa cơn khát. Đó là tâm suy tính của tôi dùng đến thân mà hoạt động. Ngoài ra khi tôi suy tính rằng em tôi đang ở dưới bếp, th́ tôi có thể dùng đến phương tiện "miệng" là la với xuống bếp bảo em tôi có lên th́ mang lên cho tôi một ly nước. Đó là tâm suy tính của tôi dùng đến"miệng" mà hoạt động. Chắc chắn một khi đă muốn uống nước th́ tâm tôi sẽ phải suy tính cách nào đó để nó được thỏa măn, và các phương tiện để làm nó thỏa măn th́ không có ǵ ngoài thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh. Thế nên chắc chắn thân khẩu sẽ được sử dụng đến để liên hệ với hoàn cảnh xung quanh mà thành ra một việc làm của tâm suy tính được biểu lộ ra qua hai mặt thân khẩu trên bối cảnh là hoàn cảnh xung quanh.
Tóm lại, chỉ cho đến lúc chết, c̣n th́ tâm tôi không bao giờ thoát ra được khỏi thân này và thế giới xung quanh, thế nên chắc chắn hễ đă có chủ ư, đă có suy tính (, hay karman, hay ư nghiệp) muốn làm ǵ đó rồi, th́ thế nào nó cũng sẽ phát động thân và khẩu làm việc (tức biểu nghiệp của thân và khẩu), chiếu theo hoàn cảnh xung quanh mà hoạt động xoay sở để mà được như ư.
Vô biểu hay là Nghiệp nhân, chủng tử
Và ngay khi hai nghiệp thân khẩu vừa làm việc xong xuôi, hay ngay khi karman hay Tư hay ư nghiệp vừa biểu lộ ra qua thân và khẩu xong xuôi, th́ không phải là karman chấm dứt, mà tức th́ karman thành tựu. Nói theo nguyên tắc của Phật Pháp là : ư nghiệp thúc đẩy thân nghiệp khẩu nghiệp hoạt động, hoạt động cuả thân nghiệpkhẩu nghiệp vừa chấm dứt là Nghiệp thành tựu. Chúng ta thấy ngay là có một sự lộn xộn nào đó về danh từ Nghiệp hay karman này, tại sao Nghiệp làm xong rồi, đă không chấm dứt mà lại thành Nghiệp ! Nếu chúng ta thế vào các chữ Nghiệp ấy bằng các danh từ khác chuyên môn hơn, th́ nguyên tắc ấy sẽ không có ǵ là mâu thuẫn nữa : biểu nghiệp của thân khẩu vừa chấm dứtvô biểu thành tựu.
Vô biểu này là ǵ vậy ? Vô biểu (avijnapti) có nghĩa là không biểu lộ ra bên ngoài để cho chính ḿnh và mọi người thấy biết hay nhận ra, nghĩa là karman hay Nghiệp trong giai đoạn này không biểu lộ ra bên ngoài cho mọi người nhận biết như trong giai đoạn biểu nghiệp của thân khẩu nữa. Tóm lại tiến tŕnh của Nghiệp hay karman diễn tiến như sau :
1/ Nghiệp khởi động lên với một chủ ư muốn đạt được mục tiêu nào đó, nên suy tính toán, t́m cách hoạt động để đạt mục tiêu. Đây là giai đoạn ư nghiệp hay là . Trong giai đoạn này, Nghiệp chỉ hoạt động bên trong tâm chứ chưa biểu lộ ra ngoài cho mọi người thấy biết, nên tuy không ai nhận biết ra Nghiệp, song tâm tôi nhận biết được Nghiệp.
2/ Suy tư tính toán dứt khoát xong, Nghiệp phát động hai phương tiện thân và khẩu hoạt động để đạt đến mục tiêu một cách cụ thể. Đây là giai đoạn biểu nghiệp của thân và khẩu hoạt động. Trong giai đoạn này Nghiệp từ trong tâm biểu lộ ra bên ngoài qua hai mặt thân khẩu cho chính tôi và mọi người đều thấy biết được Nghiệp.
3/ Biểu nghiệp thân và khẩu vừa chấm dứt, Nghiệp ẩn ch́m đi thành vô biểu. Trong giai đoạn này, chính tâm tôi và mọi người xung quanh đều không c̣n nhận biết ra sự hoạt động của Nghiệp nữa.
Điểm đặc biệt nhất của karman hay Nghiệp là Nghiệp không hề chấm dứt sau khi đă biểu lộ ra ngoài qua hai nghiệp thân và khẩu, và được gọi là vô biểu. Ví như tôi có chủ ư ăn cắp chiếc đồng hồ của người bạn, tức giai đoạn nghiệp ăn cắp c̣n ở nơi tâm ư, gọi là ư nghiệp. Nên dùng tay lấy đi, tức giai đoạn nghiệp ăn cắp biểu lộ ra cho thấy rơ qua thân, gọi là thân biểu nghiệp. Lấy vừa xong th́ vô biểu thành tựu, tức giai đoạn Nghiệp ăn cắp vẫn tiếp tục hoạt động mà chính tôi và mọi người xung quanh đều không ai hay biết hay nhận ra được.
Song vô biểu như thế là để làm ǵ ? Vô biểu đó chính là nhân chủng liên tục hoạt động cho đến khi tác thành quả báo mới thôi. Nếu Nghiệp hay karman chấm dứt ngay khi biểu nghiệp thân khẩu chấm dứt, th́ lấy ǵ làm nhân để thành quả báo sau này nữa ? Nếu Nghiệp ăn cắp chấm dứt ngay khi tay tôi lấy xong chiếc đồng hồ, th́ coi như tôi không c̣n ăn cắp nữa. Giây phút ăn cắp đă qua rồi, mọi việc làm ăn cắp đă chấm dứt, không c̣n ǵ nữa là ăn cắp hết, th́ coi như tôi không dính ǵ đến chuyện ăn cắp ấy, vậy quả báo ở đâu ra đây ? Nếu mà có quả báo, th́ bắt buộc phải có nhân, và nhân ấy phải liên tục có mặt cho đến bao giờ thành quả mới thôi. Đạo Phật chấp nhận có quả báo, thế nên nhân ấy chính là Nghiệp vô biểu, tức là Nghiệp sau khi biểu lộ ra qua thân và khẩu th́ ẩn ch́m đi mà thành nhân.
Quả báo hay dị thục
Quả báo ở đây có nghĩa là thế nào ? Phải chăng do tôi ăn cắp chiếc đồng hồ xong xuôi, nên Nghiệp ăn cắp ấy thành nhân vô biểu, liên tục kéo dài đến một tháng sau th́ tôi bị khám phá ra, và phải chịu quả báo là nhục nhă và mất tín nhiệm đối với mọi người ?
Quả báo của Nghiệp không phải chỉ giản dị như vậy. Mà đă nói là Nghiệp hay karman th́ quả báo phải là một đời sống kiếp sau đó tiếp theo đời sống hiện tại này. Nếu mọi quả báo đều thành ngay trong đời sống hiện tại này, th́ sẽ có các khó khăn phi lư như sau :
Quả đều thành ngay trong hiện kiếp, th́ sẽ không có tái sinh để trả quả nữa, và như thế sẽ không có luân hồi nữa. Và không ai cần phải tu Đạo, v́ chắc chắn tất cả đều sẽ có được Niết Bàn vô sinh khi kiếp này chấm dứt.
Lại vốn dĩ con người tạo rất nhiều nghiệp nhân trong đời sống hiện tại, th́ làm sao có đủ th́ giờ để thành hết bằng đó quả được ?
Lại một người mà gieo hai nghiệp nhân trái ngược hẳn nhau, một nhân có quả là trường thọ, một nhân có quả là yểu mạng, vậy hai nhân đó làm sao có thể cùng thành quả được trong cùng một đời sống này ?
Lại đời sống hiện tại này vốn là quả của một nghiệp nhân quá khứ, nay các nghiệp nhân trong hiện tại cũng thành quả ngay nơi đời sống này th́ sẽ làm biến loạn cái quả hiện tại, và làm nguyên tắc nhân quả không sao thực thi được nữa. Như quả báo của tôi trong hiện tại là cả một đời nghèo, nay tôi tạo nghiệp bố thí thành nhân giàu có, nhân ấy sẽ thành quả giầu sang ngay trong đời này, như vậy cái quả báo cả đời này nghèo của tôi sẽ không được thực hiện nữa, và ngược lại cái quả báo hiện tại là tôi nghèo cũng ngăn chận không cho quả báo giầu có được thực hiện, cả hai hỗ tương phá nhau, th́ c̣n lư lẽ nhân quả ǵ nữa !
Lại nếu trước khi tôi lâm chung, tôi cho bố  thí hết gia sản giầu có của tôi rồi mới tắt thở qua đời, vậy cái nhân bố thí hết của cải của tôi làm sao thành quả đây, v́ đời sống hiện tại của tôi không c̣n nữa ?
Do đó mà kết quả của Nghiệp hay karman phải là một đời sống kiếp sau. Thế nên ư nghĩa quả báo không phải chỉ là một liên hệ nhân quả theo nguyên tắc luận lư kiểu toán học hay lối luân lư đạo đức thế gian, nghĩa là một kẻ làm ác nên ngày kia bị bắt bỏ tù. Mà trái lại, Nghiệp luôn luôn có riêng một kết quả  báo đáp tương xứng lại với chính nó, quả ấy là quả riêng của nó, Nghiệp sinh ra một quả riêng của ḿnh (dẫn sinh tự quả). Nghĩa là cho dù có nhiều kẻ làm ác suốt đời mà không thấy bị trừng phạt ǵ hết, trái lại vẫn sung sướng hưởng thụ cho đến khi chết, th́ điều ấy không có ǵ nghịch lư đối với Nghiệp. V́ theo nguyên tắc của Nghiệp, đời sống hiện tại này chính là quả báo của Nghiệp nhân đời trước ; c̣n các Nghiệp nhân ác mà hắn hiện tại gieo rắc, th́ chúng có riêng cả một hoạt động chuyển biến phát triển để thành quả riêng cuả chúng là một đời sống đầy đau khổ trong kiếp sau, chứ không cần phải mượn vào cái đời sống hiện tại mà vốn chỉ là quả báo đă rồi của một Nghiệp nhân đời trước. Như chúng ta gieo một hạt cam ngay vào chỗ gốc rễ của cây ổi, th́ hạt cam ấy vẫn phát triển thành một đời sống cây cam của riêng nó khác hẳn với đời sống cây ổi, chứ nó không cần phải mượn vào gốc rễ thân cành của cây ổi để lại kết thành trái cam ! Do đó mỗi Nghiệp nhân sẽ có y báo và chính báo riêng của nó, tức một đời sống riêng của nó, tương xứng với chính nó. Và v́ hữu t́nh không thể có hai đời sống, tức hai quả báo cùng một lúc, thế nên, các nghiệp nhân mà chúng ta tạo nên, sẽ chờ đợi quả báo của đời sống hiện tại này chấm dứt, th́ nó sẽ biến chuyển thành quả đời sau, do đó mà thành tái sinh luân hồi.
Nghiệp như thế là một công tŕnh sinh quả trong một thời gian khác. Nghiệp được gieo trong đời này, nhưng kết quả là một đời sau khác. Nghiệp khi được gieo th́ chỉ là do Tư và biểu nghiệp của Tư qua thân khẩu mà thành vô biểu tiềm ẩn không hiện, rồi cứ thế ngấm ngầm biến chuyển sao cho quả được thành. Khi thành quả th́ gồm cả một thân tâm và cả một thế giới hay một đời sống trong một thế giới. Thế nên quả báo của Nghiệp mới được gọi theo danh từ chuyên môn là dị thục (vipàka). Tiếp đầu ngữ "vi" của phạn ngữ có nghĩa là sai khác, hán ngữ là dị ; chữ pàka có nghĩa là nấu chín, chỉ cho quả khi chín mùi, hán ngữ là thục. Ư nói quả (thục, pàka) cuả Nghiệp luôn luôn khác (dị, vi) với nhân nghiệp theo ba phương diện như sau :
1/ Một là nhân biến khác đi rồi quả mới chín, chứ không trực tiếp thành quả ngay (biến dị nhi thục).
2/ Hai là quả chín vào lúc khác với nhân chứ không thành quả ngay trong thời hiện tại với nhân (dị thời nhi thục).
3/ Ba là nhân là các hoạt động để sinh quả, thế nên nhân phải là Nghiệp thiện hay ác, trong khi thành quả th́ các hoạt động tự nhiên của quả chỉ là để hưởng hay chịu quả, chứ không phải là các phải là các hoạt động để sinh quả, thế nên quả không phải là Nghiệp thiện hay ác, do đó nhân và quả là hai loại Nghiệp khác nhau (dị loại nhi thục).
Tóm lại Nghiệp hay karman như thế là cả một sự nghiệp tạo dựng thế gian, thành lập hữu t́nh đủ loại, một sự nghiệp mà các tôn giáo hữu thần đều đặt vào trong tay của Thượng Đế hay Thần Linh tối cao của họ, th́ ở đây, trong Phật giáo, sự nghiệp ấy chính là karman, như trong Câu Xá Luận nói :"Thế gian muôn vàn sai biệt, đều do nơi Nghiệp sinh ra" (karmajgam lokavaicitryam). Thế nên karman được chính thức dịch là Nghiệp.
Các nhân tố thành lập Nghiệp : khí thế gian, hữu t́nh thế giân và vô minh, phiền năo
Nghiệp như thế có phải do môt cái Tôi (àtman), một chủ thể hay một tác giả (kartr) nào đó tự làm ra hay không ? Kinh Pháp Cú (Dhammapada) ghi :
attanà'va katam pàpam attanà samkilissati
attanà akatam pàpam attanà'va visujjhati
suddhi asuddhi paccattam nănno annam visodhaye
Có nghĩa là: Do tự ḿnh tạo tội, do tự ḿnh ô nhiễm ; do tự ḿnh không tạo tội, do tự ḿnh thanh tịnh ; tịnh hay bất tịnh do chính tự nơi ḿnh, không ai thanh tịnh cho người khác được.
Bài kệ trên cho chúng ta một cảm tưởng như cái Tôi của ḿnh là chủ thể tạo ra tất cả mọi Nghiệp, tội ác cũng như thanh tịnh. Song theo sự giải thích của giáo lư Đại thừa th́ do đức Phật tùy thuận theo tâm suy lư chấp ngă của chúng sinh mà phương tiện sử dụng cái lối nói chấp Tôi, cái cách nói quy kỷ "tự ḿnh" ấy của chúng sinh, để thuyết pháp cho họ dễ hiểu. Chứ thật sự ra Tôi không hề có và không hề có ai là "tác giả" hay "người làm", như Buddhaghosa nói trong Visuddhimagga :
Dukkham eva hi, na koci dukkhiqto
kàrako na, kiriyà va vijjati ;
maggam atthi, gamako na vijjati
Nghĩa là : Dĩ nhiên là có khổ, song không có ai là người khổ ; không có ai là người làm, song việc làm th́ có đó; có tịch diệt mà không có người tịch diệt ; có con đường mà không t́m đâu ra người đi.
Như vậy, không có ai tạo Nghiệp hết, mà như chúng ta đă nói ở trên, Nghiệp chính là Tư, là tâm suy tính có chủ ư muốn đạt đến một mục tiêu nào đó. Tâm ấy không có Ngă, mà cũng không phải chính nó là Ngă, bởi v́ chính nó cũng không tự có mà do nhiều nhân tố tạo nên.
Như chúng ta đă nói ở trên, khi tâm suy tính là tâm dựa vào các dữ kiện như thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh mà suy tính, tâm muốn đạt đến một mục tiêu cụ thể dĩ nhiên phải sử dụng đến thân khẩu mà hoạt động đối xử với hoàn cảnh xung quanh. Do đó thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh là các điều kiện phải có cho Nghiệp có phương tiện và có chỗ mà hoạt động. Chỗ như thế Phật Pháp gọi chung là "vô  t́nh thế gian" (loka) hay chính xác hơn nữa là "khí thế gian" (bhàjanaloka), tức là nơi ở hay "chứa đựng" hữu t́nh.
Phương tiện thân khẩu sở dĩ được sử dụng đến là do tâm suy tính thôi thúc hoạt động, sự thôi thúc này là lực hoạt động của phiền năo (klesa) tham sân si. Phiền năo này cũng không hề là Ngă hay có Ngă, mà chỉ do tâm vô minh (avidya) không thấy rơ chân lư Vô Ngă, lại vọng tưởng cho rằng là có Ngă, thế nên phân biệt thành ta với người mà thành ra đồng loại chung sống hoạt động với nhau, gọi là "hữu t́nh thế gian" (sattvaloka), trong khi hữu t́nh chung sống đụng chạm với nhau th́ từ tâm phân biệt ngă chấp này so đo tính toán và tham sân si khởi động lên, rồi đối với nhau mà hoạt động thành Nghiệp thiện và ác. Do đó vô minh cũng như phiền năo là những nhân tố chính yếu để khơi động Nghiệp vậy.
Tóm lại Nghiệp phát sinh là nhờ hoàn cảnh môi trường xung quanh cộng với vô minh chấp ngă và phiền năo tham sân bên trong mà khởi lên Tư lự suy tư tính toán, rồi thúc đẩy thân khẩu hoạt động mà thành biểu nghiệp thiện ác, biểu nghiệp này vừa chấm dứt th́ thành nhân vô biểu thiện ác tiếp tục hoạt động phát triển dần dà mà thành quả là một đời sống khổ sướng sau này.
Nghiệp là nhân của luân hồi mà cũng là nền tảng của Đạo
Chính v́ Nghiệp không phải là một tự Ngă, mà phải do nhiều yếu tố nhân duyên khác mới thành lập được, thế nên cường độ thiện ác nặng nhẹ của Nghiệp đều tùy thuộc vào các nhân duyên ấy và do đó mà quả báo của Nghiệp cũng theo đó mà thành sai khác. Thí dụ hai người cùng làm một biểu nghiệp bố thí cho cùng một người nghèo, song một người thí với tâm thương xót, một người thí với tâm bực bội, mà thành ra hai Nghiệp nhân bố thí có phẩm chất thiện sai khác nhau. Người thí với tâm thương xót có phẩm chất thiện hoàn toàn hơn nên khi thành quả cũng được nhiều sung sướng viên măn hơn là người thí với tâm bực bội. Lại hai người cùng bố thí, mà một người thí cho kẻ đói, một người thí cho một tỳ kheo khất thực, th́ do duyên có sai khác như thế mà Nghiệp thí của hai người ấy không đưa lại một kết quả như nhau. Người thí cho kẻ đói có thể có được quả báo giầu có với sức khỏe và tuổi thọ sung măn ; người thí cho vị tỳ kheo có thể có được quả báo giầu có với một đầu óc thông minh sáng suốt và suốt đời an tĩnh...
Nhân duyên tác thành Nghiệp của chúng sinh chính yếu là thế gian, tức ba cơi luân hồi là bối cảnh của Nghiệp; tâm suy tính có chủ ư mong muốn làm ǵ đó (tức Tư), như tâm muốn bố thí v.v..., là chính nhân của Nghiệp; đối tượng của tâm suy tính này, như kẻ nghèo đói hay vị tỳ kheo, là duyên của Nghiệp. Do các nhân duyên ấy mà ra tay bố thí, th́ thành Nghiệp nhân bố thí. Song có điều là chúng sinh có xoay sở tạo bao nhiêu loại Nghiệp theo bao nhiêu cách đi nữa, th́ cũng chỉ là một nguyên tắc nhân quả mà thôi. Nghiệp chỉ là nhân, thế nên có Nghiệp là phải có quả, mà có quả tức có tái sinh, có tái sinh tức c̣n luân hồi, c̣n luân hồi tức c̣n khổ sinh tử. Tóm lại, Nghiệp là tất cả nguồn gốc của luân hồi khổ ! Do đó con đường thoát khổ trong Phật giáo nói chung là chấm dứt Nghiệp, tiêu diệt đi cái nhân tái sinh không c̣n sót chút ǵ nữa, gọi là tịch diệt Niết Bàn.
Lư do Nghiệp của hữu t́nh luôn luôn là luân hồi dù họ có loay hoay xoay sở làm sao đi nữa, là bởi v́ các nhân duyên của Nghiệp hữu t́nh đều có tính chất luân hồi. Tính chất này nằm ở chính nơi tâm suy tính tạo tác () của hữu t́nh, bởi v́ đây là một tâm vọng tưởng chấp ngă, và thiện ác của nó chỉ thuộc về t́nh cảm phân biệt ta người của tham sân si mà thôi. Hoàn cảnh xung quanh và đối tượng họ nhằm suy tính tạo nghiệp, tức khí thế gian và hữu t́nh thế gian, cũng đều là kết quả của các Nghiệp nhân thiện ác thuộc ngă chấp và tham sân si đời trước, thế nên chúng cũng hoàn toàn thuộc về tính chất vô minh tham sân ấy ! Do không có nhân duyên nào ngoài đó, nên mọi tạo tác của chúng sinh chỉ là Nghiệp nhân đưa đến phiền năo luân hồi mà thôi.
Song đó chỉ là do nơi tính chất phiền năo của tự thân các nhân duyên, chứ không phải là lỗi nơi nguyên tắc của nhân duyên. Như tôi ăn phải chất độc nên đau bụng, th́ đó là lỗi nơi chất độc, chứ không phải lỗi do ăn. Nhất là đối với Đại thừa Phật giáo, nguyên tắc nhân duyên của Nghiệp là căn bản chung vừa cho luân hồi khổ mà vừa cho cả con đường Đạo nữa . Như nếu tôi ăn vừa phải và ăn đủ chất bổ, th́ thân tôi sẽ khỏe mạnh không bệnh. Vậy th́ thân thể ốm đau hay khỏe mạnh đều do cùng một nguyên tắc ăn mà ra. Cũng thế, chúng sinh đau khổ luân hồi hay được giải thoát thành Phật đều cùng một nguyên tắc nhân duyên của Nghiệp mà ra. Chẳng hạn nếu như thế giới mà tôi sinh vào là Tịnh Độ của Phật, hữu t́nh mà tôi tiếp xúc gặp gỡ như là đồng loại toàn là đại A La Hán cùng với bất thối Bồ Tát, tâm nguyện suy tính hoạt động của tôi là tâm Bồ Đề cứu độ chúng sinh. Với các nhân duyên phối hợp như thế, thời các hoạt động biểu nghiệp thân khẩu của tôi chắc chắn sẽ luôn luôn là Nghiệp Đạo, nhân vô biểu của tôi sẽ luôn tương ưng với Đạo, và quả báo của tôi sẽ chỉ là Đạo quả mà thôi. Thế th́ cho dù là nhân quả, song hoàn toàn là nhân quả của Đạo.
Thế nên, Đại thừa Phật Pháp nhấn mạnh hoàn toàn vào mặt tạo dựng nhân duyên và hoạt động theo nhân duyên của Nghiệp Đạo, như phải sinh về cơi Phật, phải tạo công đức in kinh ấn tống, lập chùa đúc tượng, bố thí nhẫn nhục v.v... phải dùng ba nghiệp tán thán lễ lậy cúng dường niệm tướng chư Phật. Nếu trong các nhân duyên của Nghiệp, th́ Tư, tức tâm suy tính có chủ ư với mục tiêu nào đó, là chủ lực nhân chính yếu, thời trong Phật giáo Đại thừa Tư ấy được phát khởi thành những đại Nguyện rộng lớn vô biên, đến mức độ dường như một vị Bồ Tát sẽ tái sinh măi măi để cứu độ chúng sinh bất tận... Với Đại thừa, tất cả các việc làm trên đều là nhân duyên để phát triển Nghiệp Đạo ; và Nghiệp giờ đây, với các nhân duyên như thế, sẽ trở thành nhân của Đạo, tức là cơ sở hay là nền móng của Đạo vậy. Trong khi với Thanh Văn thừa, nhân duyên chỉ có nghĩa là nhân duyên của tái sinh đau khổ mà vô minh và Nghiệp chính là "thủ phạm", và diệt trừ các nhân duyên ấy đi chính là giải thoát Niết Bàn. Ư nghĩa này hoàn toàn rành mạch rơ ràng trong tiến tŕnh mười hai nhân duyên đưa đến luân hồi của hữu t́nh.
Tóm lại, khảo sát Nghiệp đến giai đoạn này sẽ trở thành khảo sát về nhân duyên. Và v́ nhân duyên vô vàn phức tạp, thế nên cần thiết phải là một đề tài riêng rẽ. Điều cần lưu ư ở đây là nguyên tắc của Nghiệp không phải chỉ áp dụng cho việc thành lập nhân của thế gian luân hồi, mà c̣n áp dụng chung cho cả việc thành lập nhân tu Đạo nữa. Có điều con đường Giải Thoát của Thanh Văn thừa dường như muốn chấm dứt cái nguyên tắc Nghiệp ấy để chứng nhập Niết Bàn, trong khi Đại thừa lại vẫn sử dụng đến Nghiệp để thành lập nhân Đạo. V́ nếu Phật đă là quả th́ bắt buộc phải có nhân, và Nghiệp chính là cách thức để gieo nhân, thế nên Đại thừa vẫn dùng đến Nghiệp để gieo nhân thành Phật. Nhưng nếu vậy th́ Phật thuộc về nhân quả, mà Niết Bàn của Thanh Văn có nghĩa là giải thoát cứu cánh là do chấm dứt mọi nhân quả, tức chấm dứt mọi luân hồi. Và v́ Thanh Văn lấy Niết Bàn là cứu cánh, thế nên không cần phải thành Phật, cũng như v́ Phật vẫn thuộc vào ṿng nhân quả, thế nên không phải là Pháp cứu cánh. Theo Phật với Thanh Văn thật ra chỉ là để theo Pháp mà thôi. Phật là Phật, ḿnh là ḿnh, chỉ có Pháp vốn là chân lư chung của cả Phật và ḿnh mới là quan trọng, chỉ có các phương pháp tu tập đưa đến sự chứng nhận ra chân lư ấy mới là quan trọng. C̣n Phật có tâm nguyện ǵ đó khác ḿnh không quan trọng, ḿnh không việc ǵ phải bắt chước Phật. Nếu Phật có cả một quốc độ thanh tịnh của Ngài đi nữa cũng mặc, Ngài có bao nhiêu thần thông, năng lực, công đức để điều phục người trời đi nữa cũng mặc, v́ tất cả đều thuộc pháp Nghiệp nhân quả vô thường, chỉ có Niết Bàn mới chân thật và vĩnh cửu, v́ nơi đó chấm dứt và tiêu diệt không c̣n chút Nghiệp nào c̣n sót lại nữa để tái sinh...
Song, làm sao để đưa đến chỗ chấm dứt Nghiệp nhân luân hồi, làm sao để đưa đến chỗ chứng nhập được Pháp cứu cánh Niết Bàn ? Chả lẽ cứ ngồi yên một chỗ đừng làm ǵ hết, th́ đó là tiêu diệt Nghiệp hay sao ? Hay không lẽ Nghiệp tự động diệt ? Hay cứ chờ đó rồi sẽ có vị thần nào đó ban cho ḿnh Niết Bàn ? Thanh Văn thừa thường nhấn mạnh là ḿnh phải tự tu lấy, tự tiêu diệt lấy các Nghiệp nhân ấy. Cái hoạt động "tự" ấy theo Đại thừa, nguyên tắc của nó chính là Nghiệp mà thôi. Như vậy muốn chấm dứt Nghiệp th́ vẫn phải dùng đến Nghiệp vậy !
Do đó, nguyên tắc của Nghiệp là nền tảng của tất cả mọi pháp, dù là thế gian hay là xuất thế gian. Thế nên, vấn đề Nghiệp kế tiếp sẽ được tiếp tục khảo sát qua ba chiều hướng như sau : một là Nghiệp là nhân của tất cả vô lượng vô biên thế giới và đời sống hữu t́nh ; hai là Nghiệp là nhân để diệt trừ chính Nghiệp mà đă tạo thành vô lượng vô biên thế giới hữu t́nh ; ba là Nghiệp là nhân để chuyển hóa vô lượng vô biên thế giới hữu t́nh trở thành thanh tịnh để ḥa nhập vào vô lượng vô biên thế giới thanh tịnh của vô lượng vô biên chư Phật. Và một lần nữa, chúng ta lại càng cảm nhận ra được tầm vóc bao la vô biên của Nghiệp để cảm thông với Thế Thân Bồ Tát qua câu nói của Ngài để mở đầu phẩm Nghiệp trong Câu Xá Luận:"Thế gian muôn vàn sai biệt, đều do nơi Nghiệp sinh ra !".

 

 



__________________
Tuệ giác phá tan ṿng hắc ám
Chân tâm phá vỡ lưới vô minh
Biết ra vốn thiệt ta là phật
Giác phật, mê ma cũng là ḿnh
Quay trở về đầu Xem tieudongtu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tieudongtu
 
tieudongtu
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 April 2006
Nơi cư ngụ: Spain
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 25
Msg 2 of 2: Đă gửi: 21 May 2006 lúc 5:18am | Đă lưu IP Trích dẫn tieudongtu

ĐƠN GIẢN

Một chén trà thơm trong nắng mai, một  mái nhà đơn sơ giản dị, với những ǵ thật đơn giản nhẹ nhàng… là những ǵ ta có thể quan niệm về một lối sống đơn giản và an nhàn. Điều này rất dễ nhận ra. Nhưng giữa một xă hội xô bồ, đầy những tiện nghi vật chất quyến rũ, làm sao ta có thể t́m thấy được một lối sống có thể gọi là an nhàn và đơn giản. Đó là vấn đề.

Đánh giá một bức tranh với mặt hồ là một tấm gương  tuyệt mỹ v́ có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng, mà bảo là một cảnh trí thanh b́nh êm ă th́ không phải là khó. Nhưng với một bức tranh có những ngọn núi đá trần trụi lởm chởm, bầu trời th́ đen kịt và giận dữ, mưa trút xuống dữ dội làm nên những ḍng thác hung hăn đổ ào ào nổi bọt trắng xóa. Trong đó t́m cho ra một sự b́nh an của con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của ḿnh trong cơn giông tố th́ cần phải có một con mắt tinh đời. Và khi chiêm nghiệm, định giá hai bức tranh kia, người thưởng thức nghệ thuật mới nhận ra một điều được thể hiện thầm kín vô ngôn trong đó: Sự b́nh yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không có khó khăn cực nhọc. B́nh yên là ngay trong phong ba băo táp ta vẫn t́m thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó chính là ư nghĩa thực của sự b́nh yên. Cũng vậy, sự đơn giản thực sự chỉ có được khi phát xuất từ một tâm trạng an nhàn và vô sự, hay đúng hơn là sự đơn giản từ nội tâm.

Chúng ta đă tự ḿnh vẽ nên bức tranh hoảng loạn của thời đại và đau khổ, buồn vui trong đó, với những trận cuồng phong, những ḍng thác lũ của dục vọng. Nói khác đi, chính dục vọng đă âm thầm thúc đẩy con người đi đến xây dựng một thế giới mà trong đó nó phải chịu đựng tất cả. Dục vọng là ǵ? Dục vọng là những tham vọng thèm khát về tài sản, địa vị, quyền thế, về tiện nghi vật chất, về tham vọng được yêu thương chiều chuộng, và thậm chí c̣n ưa muốn với tới những ǵ trường tồn vĩnh cửu bất di bất dịch, một cái ǵ làm thỏa măn tư dục lâu dài. Tất cả những thứ này đă làm xáo động tâm tư và đời sống của chúng ta. Dục vọng luôn luôn phải có một nội dung là biểu tượng và cảm giác hướng tới đối tượng của chính nó. Biểu tượng có thể là một bức tranh, một h́nh ảnh, một người, một lời nói… Tóm lại là toàn thể những đối tượng thuộc về lục trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tất cả những thứ này có thể mang lại một khoái cảm, một cảm giác nào đó và chúng ta nảy sinh một cảm giác yêu ghét (xúc th́ sinh ái). Nếu cảm giác có thể dễ chịu, nhẹ nhàng, th́ ta muốn được nó, có nó và nắm giữ đối tượng ấy và tiếp tục truy cầu những ǵ thỏa măn với những t́nh cảm của ḿnh. Tâm tư luôn biến động thay đổi, muốn t́m cầu cái mới để tiếp tục thỏa măn và v́ vậy, nó bắt đầu thấy đầy ứ, chán chường mệt mỏi với những h́nh thức tiếp thọ cũ mà t́m kiếm một cái ǵ đó mới lạ hơn nhằm thay thế và khỏa lấp sự chán chường ấy. Cứ như vậy tâm cứ rong ruỗi theo những đối tượng của dục vọng. Hiển nhiên khi bị lệ thuộc bởi những đối tượng của ḷng tham vọng th́ nỗi sợ hăi bất như ư luôn quấy động tâm tư. Bởi 'thân người th́ hữu hạn mà ước muốn lại vô cùng' nên ước muốn là mầm móng của những nỗi bất an.

Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng

Mắt theo h́nh sắc, mũi theo hương

Lênh đênh làm kiếp phong trần măi

Ngày hết quê xa vạn dặm đường [1]

Tất cả những sự kiếm t́m, theo đuổi của tham vọng trên đều xoay quanh một trung tâm điểm duy nhất là bản ngă hẹp ḥi. Chán chường mệt mỏi với một đối tượng nào đó ta lại t́m cách lấp đầy bản thân bằng một tham vọng khác. Cứ như thế, với ảo tưởng muốn đem lại sự b́nh an hạnh phúc cho cái 'tôi', ta lại dễ đánh mất ḿnh trong sự truy cầu ấy. Và cuối cùng c̣n lại sau hậu trường là một sự trống rỗng khủng khiếp của tâm hồn, trở thành kẻ vong thân trong thế giới nội tại. Thiền sư Suzuki, trong Thiền và Tâm phân học, nói: "Ở đâu chủ nghĩa cá nhân được nhấn mạnh, ở đó cảm giác hỗ tương câu thúc hay căng thẳng ngự trị. Ở đây không có tự do, không có tự nhiên, mà có một không khí hay cấm chế sâu xa, nặng nề đàn áp và đè nén, ức chế người ta và kết quả là đủ thứ hỗn loạn tâm lư"[2]. Như khi ta nói đến cái 'triết lư quần áo' của thế giới biểu hiện thời hiện đại, mọi người ăn mặc v́ tất cả mọi người. Hay nói đúng hơn là muốn thể hiện ḿnh trước con mắt phê b́nh và chỉ trích của mọi người theo quy cách của thời đại. Sự kiện đó chỉ là sự thể hiện ḿnh thành cái ǵ khác hơn là ḿnh. Điều ấy thú vị, nhưng khi nó đi quá xa, ta đă mất đi cái đặc tính của ḿnh mà trở thành xa lạ.

Quả vậy với phương cách này, càng ngày ta càng trở nên xa lạ với chính ḿnh, 'ngày hết quê xa vạn dặm đường', xa với thực tế sự liên hệ giữa ḿnh với người khác, với nhiên giới trong tiến tŕnh khổ đau cũng như hạnh phúc. Ta quên rằng sự truy cầu cho chỉ riêng cá nhân theo tư dục bản năng chỉ đưa tới khổ đau. Con người hiện đại vong bản đến mức chỉ c̣n thấy ḿnh tồn tại để hưởng thụ và rồi chán chường tuyệt vọng trong một cuộc sống vô nghĩa lư như một nhà xă hội học, ông Erich Fromm, đă nói về con người hiện đại: " Tôi không cần biết bản thân ḿnh là ai v́ luôn luôn tôi bận hưởng thụ" Và "Nó sẽ trở thành những con quỷ, nó sẽ tiêu diệt thế giới của bản thân nó, v́ không thể chịu đựng hơn nữa sự buồn chán của một cuộc sống vô nghĩa."[3] Sự đơn giản chỉ có thể xảy ra trong nội tâm. Và sự đơn giản ấy chỉ có thể có được khi nào ta hiểu được những trở ngại, những cố chấp, sợ hăi mà chúng ta đang vướng kẹt. Tất cả chúng ta nói chung, đang 'thích' vướng mắc, thích bị ràng buộc trong nhân thế, trong những vật sở hữu càng nhiều càng tốt, thích là kẻ tù tội lao lung. Trong tâm tư chúng ta đang là kẻ bị trói buộc, dẫn dắt bởi những tham vọng, những thèm khát, những ham muốn và dao động bởi những tâm lư tương tự. Sự đơn giản b́nh an chỉ có được khi những tác động ấy được chấm dứt, hay là được tự do. Sự  phát hiện bên ngoài chỉ là dấu hiệu của trạng huống bên trong tâm thức, và muốn hiểu được trạng huống bên trong tất nhiên phải đi bằng con đường ngoại giới. Như soi gương, h́nh ảnh trong gương chỉ là những biểu hiện của sự kiện thật bên ngoài. Muốn thấy được ḿnh th́ phải nh́n trong ảnh tượng ấy, nhưng để sửa đổi lại không thể thọc tay qua tấm gương được. Chính sự quan sát thâm sâu thế giới ngoại tại như sự hiện thể của nội tâm ḿnh, chúng ta thấy rằng cần thiết phải có một lối sống ít ham muốn, biết vừa đủ, hay là đơn giản để đem lại b́nh an cho ḿnh, và cho thế giới bên ngoài. Ai dắm chắc rằng điều xảy ra đối với người kia hôm nay không liên hệ tới ḿnh và ngày kia sẽ không xảy ra đối với ḿnh.

Kinh Bát Đại Nhân Giác nói: "Càng lắm ham muốn lại càng nhiều khổ đau, rằng bao nhiêu cực nhọc trong cơi sinh tử đều do ham muốn mà có. Trong khi đó, người ít ham muốn th́ không bị hoàn cảnh sai sử, lại cảm thấy thân và tâm ḿnh được nhẹ nhàng và thư thái."[4] Trong tâm c̣n có một đối tượng nào để t́m cầu, dù là danh tiếng lương thiện, ly dục, th́ sự đơn giản hay tri túc chưa thể nói tới một cách trọn vẹn. Sự đơn giản thực sự phải là tinh thần vô nguyện, không mong cầu, tức là không đặt bất cứ một đối tượng nào để chạy theo nó. C̣n chạy có nghĩa là tâm vẫn chưa được an trú. Ḷng khao khát có nhiều hơn nữa, sự theo đuổi những biểu tượng, những tiếng, những lời, những h́nh ảnh, với những cảm giác do chúng tạo ra, tất cả những điều này phải được nhận diện và chuyển hóa, có thế tâm trí mới mong trở nên sáng tạo, nơi trạng thái sáng tạo này, sự mới lạ luôn luôn xuất hiện. Sự sáng tạo ấy là sự thức tỉnh của tâm trí để đón nhận những ǵ mới mẻ xảy ra trong thế giới chuyển biến vô thường.

Trong tiến tŕnh thức tỉnh ấy, ta thấy tham dục chẳng có ư nghĩa nào đối với một người thực sự đi t́m lẽ sống. Cố nhiên ta không thể bỏ qua những nhu cầu sinh hoạt, nhưng không nên để cho những nhu cầu ấy trở thành trung tâm điểm của ḷng tham dục. Một người có tâm hồn giản dị, không mong cầu là người thực sự luôn an trú trong trạng thái tĩnh lặng và sáng suốt cùng hiện hữu. Người này thực sự là một kẻ có đầy đủ bản lĩnh để sống b́nh an trong cơn cuồng phong nộ thủy của thế giới ngoại tại. Nhưng con đường nào đưa tới b́nh an? B́nh an chính là con đường (peace is the way). Chính v́ vậy, sống an b́nh trong mỗi phút giây là đang thực hiện con đường b́nh an. Nguyễn Công Trứ nói: "Tri túc tiện túc đăi túc hà thời túc, tri nhàn tiện nhàn đăi nhàn hà thời nhàn". Tâm ta mong cầu không bao giờ biết dừng lại, chờ cho đủ th́ đến bao giờ mới đủ. Biết đủ, an nhiên chấp nhận những ǵ ḿnh có để sinh hoạt th́ tự khắc mọi cái đều trở nên không c̣n thiếu thốn. Biết sống an nhàn trong đời sống này, đừng so sánh nó với ai, đừng đợi đến khi nào đó mới hưởng nhàn, th́ lập tức sự an nhàn có mặt. C̣n mong đợi tức là c̣n khắc khoải hoài vọng, tức là c̣n thấy thiếu thốn, bấy giờ đă đánh mất đời sống qúy báu của ḿnh trong hiện tại. Cố nhiên có những ham muốn lại mang ư nghĩa của những nhu yếu đích thực có lợi cho sự an lạc của thân tâm trước hết cho chính bản thân ḿnh và sau đó là nền tảng để thực hiện niềm vui cho tha nhân. Đó là sự thực tập Từ Bi, ước muốn đem hiến dâng niềm vui và giúp người bớt khổ.

Sống nhàn, sống an tịnh là vậy, nên ta bắt gặp một thái độ sống đơn giản mà giải thoát tuyệt vời của các vị thiền sư trong tinh thần phá chấp. Cái tinh thần mà mọi cơ trí, t́nh thức đều bị quét sạch hết. Có người c̣n gọi trạng thái tinh thần ấy là "Nghèo". Các thiền sư nghĩ đến cái nghèo thiết thực và thơ mộng hơn; các ngài gợi thẳng đến việc của thế gian, đến những ǵ rất gần gũi. Thiền sư Vô Môn (1183-1260) cảm tác:

Hoa xuân muôn đóa bóng trăng thu

Hạ có gió vàng đông tuyết rơi

Tuyết nguyệt phong ba ḷng chẳng chấp

Mỗi mùa mỗi thú mặc t́nh chơi.[5]

Bài thơ không ngụ ư tác giả chỉ ăn không ngồi rồi, không làm ǵ khác, hoặc không có ǵ để làm khác hơn là thưởng thức hoa đào nở trong nắng sớm, hoặc ngắm vầng trăng đ́u hiu; không, có thể tác giả đang say sưa làm việc, đang giảng giải, đang tụng kinh, đang quét chùa, dăy cỏ như thường lệ, nhưng ḷng tràn ngập một niềm thanh tịnh khinh an… Tâm họ là tâm "không", thân họ là thân "nghèo". V́ nghèo nên họ thưởng thức được hoa xuân, biết ngắm trăng thu. Nếu của cải của thế gian chứa chất đầy con tim th́ c̣n chỗ nào cho những lạc thú thần tiên ấy? Các thiền sư quen cái giàu phi thế tục của sự giàu có muôn vật trong đời, nào đèn trăng quạt gió, nào kho vô tận, thật quá đủ lắm rồi. Đó là tinh thần tự do thực sự, mà phải 'Nghèo' kia mới được tự do, như nhà văn Dante đă nói "ai không thể sống nghèo không thể có tự do", ấy mới thực là chí lư.

Các ư thức hệ tôn giáo, đảng phái, có thể đưa tới những đấu tranh là bởi cố thủ cái kiến chấp của ḿnh. Chất chứa kiến thức như vậy cũng là một sự ham muốn. Tâm trí chứa đầy những kiến thức về những sự kiện, về những ǵ người khác đă nói, có thể dễ dàng ảnh hưởng bởi một ư thức hệ nào đó, và cuối cùng tạo nên những thành kiến. Khi nhận thức một sự vật, đầu óc rối rít những tri kiến như vậy, khiến ta không có khả năng sống giản dị và tự ḿnh trực nghiệm. Sự việc được nhận thức qua một mớ định kiến đă trở nên méo mó và sai lạc. Càng chất chứa càng tạo thành cố chấp. Kiến thức đối với thiền cũng ví như của cải, là tích trữ tài sản, nó phải cần buông bỏ. Đó là thực hiện tinh thần nghèo và khiêm hạ. Có thể biết rất nhiều, nhưng làm như không biết ǵ cả, đó mới thực là cái biết rộng lớn, nói như biện chứng của kinh Kim Cang. Quả thực biết mà c̣n thấy ḿnh đă biết th́ rất dễ thỏa măn và kiêu ngạo. Thái độ đó sẽ không học hỏi ǵ hơn từ con người và thế giới tự nhiên. Chén trà đă đầy th́ không c̣n rót thêm vào được nữa.

Trong những điều kiện thực tế nội tại của thân năm uẩn, nếu nh́n cho kỹ, quan sát cho thấu đáo, th́ mới thấy rằng c̣n đôi mắt sáng là niềm vui, thân thể khỏe mạnh, cử động tự do linh hoạt là một phép lạ v.v… V́ cố chạy theo những đối tượng h́nh sắc bên ngoài mà đôi khi ta đă bỏ quên những điều kiện hạnh phúc an vui trong tầm tay. Bầu trời xanh trong, mặt đất thầm lặng, với bao nhiêu cảnh tượng tuyệt vời sẽ không bao giờ hà tiện với chúng ta. Cái cốt yếu là biết đúng lúc đặt gánh nặng của những âu lo toan tính để sống lại với chính ḿnh, với thiên nhiên mà thôi. Trong đời sống xă hội hiện đại, nền văn minh vật chất đă bộc lộ những mặt tiêu cực của nó. Con người th́ nhân tính bị tước đoạt trong những guồng máy của sản xuất và tiêu thụ. Tâm tính cũng như khối óc họ mệt mỏi. Đời sống trở nên hời hợt và vô vị. May mắn là con người đă bắt đầu nh́n ra và quay trở về với lối sống đơn giản, đời sống thiền tập, chống lại lối sống tiện nghi vật chất và máy móc, không để cho lối sống hưởng thụ khống chế. Được làm người chính là nhu yếu căn bản mà con người đă từng kiếm t́m và cũng đă vô t́nh bít lấp. Sống đơn giản không có nghĩa là khước từ toàn bộ những tiện nghi cần thiết cho sự sống và tiến bộ. Nhưng hai chữ tiến bộ cần phải hiểu nó trong toàn diện tinh thần và vật chất. Nếu đời sống tâm linh bị đánh mất th́ sự sống cũng lạc hướng và tiêu hoại. Phải can đảm lắm, sâu sắc lắm mới ăn nói, hành động và suy nghĩ cách 'đơn giản' giữa thời đại xa hoa này. Chúng ta không mong cầu một cuộc sống b́nh lặng như bức tranh tuyệt mỹ kia mà chính trong sóng gió làm sao để giữ được một phong thái, một thế đứng vững vàng trong thế cuộc. Đó là ư nghĩa của nếp sống biết buông bỏ, một lối sống đơn giản tự chủ trong tâm hồn

 



__________________
Tuệ giác phá tan ṿng hắc ám
Chân tâm phá vỡ lưới vô minh
Biết ra vốn thiệt ta là phật
Giác phật, mê ma cũng là ḿnh
Quay trở về đầu Xem tieudongtu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tieudongtu
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.6797 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO