Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 199 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Tổ Sư Mật Tông giải thích về BỒ TÁT THỪA Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 1 of 4: Đă gửi: 20 May 2006 lúc 1:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

(Chương 7 - Đại Trí Độ Luận (Mahàprajnàparamitàsatra)

Tác giả: Nàgàrjuna (Long Thọ)
Dịch Phạn ra Hán: Cưu Ma La Thập
Dịch Hán ra Việt: Thích Thiện Siêu

 

GIẢI THÍCH: BỔ-TÁT

 

KINH:  Lại có Bồ-tát Ma-ha-tát

LUẬN:

Hỏi:  Nếu kể từ trên kể xuống th́ phải Bồ-tát trước rồi mới đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di; v́ Bồ-tát kề dưới Phật.  Nếu từ dưới kể lên th́ phải kể Ưu-bà-di, rồi mới đến Ưu -bà-tắc, Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo, Bồ-tát.  Nay cớ sao trước nói Tỳ-kheo, rồi mới đến ba chúng, sau mới nói Bồ-tát?

Đáp:  Bồ-tát tuy là dưới Phật, nhưng v́ các phiền năo chưa sạch hết nên nói đến A-la-hán trước.  Các A-la-hán trí tuệ tuy ít mà đă thành thục, các Bồ-tát trí tuệ tuy nhiều mà phiền năo chưa sạch hết nên nói A-la-hán trước.

Phật pháp có hai loại:  Một là bí mật, hai là hiển thị.  Trong hiển thị, th́ Phật, Bích-chi Phật, A-la-hán đều là phước điền; v́ đă sạch hết phiền năo không c̣n thừa.  Trong bí mật th́ nói các Bồ-tát được Vô sanh Pháp nhẫn, phiền năo đă dứt, đủ sáu thần thông, làm lợi ích chúng sanh.  V́ theo pháp hiển thị nên trước nói A-la-hán sau nói Bồ-tát.

Lại nữa, Bồ-tát dùng phương tiện lực thị hiện vào năm đường, thọ năm dục lạc, để dẫn đạo chúng sanh.  Nếu Bồ-tát ở trên A-la-hán th́ chư thiên, người đời sanh nghi ngờ, quái lạ nên nói sau.

Hỏi:  Ở sau A-la-hán th́ c̣n được cớ sao lại ở sau cả Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di?

Đáp:  Bốn chúng tuy chưa sạch hết lậu, nhưng không bao lâu sẽ hết, nên gọi chung là chúng Thanh-văn.  Nếu trong bốn chúng mà xen nói Bồ-tát vào th́ bất tiện.  Như Tỳ-kheo-ni được vô lượng luật nghi đáng nên ở sau Tỳ-kheo và trước Sa-di, nhưng v́ nghi pháp bất tiện nên Phật nói sau Sa-di.  Các Bồ-tát cũng như thế, tuy đáng ở trên ba chúng Hữu học nhưng mà v́ không tiện nói nên  nói sau.

Lại nữa, có người nói: Bồ-tát có công đức và trí tuệ siêu việt thù thắng hơn A-la-hán, Bích-chi Phật, cho nên nói riêng.

Hỏi:  Trong kinh Thanh-văn chỉ nói bốn chúng, trong đây cớ ǵ chỉ nói riêng chúng Bồ-tát?

Đáp:  Có hai đạo:  Một là Thanh-văn đạo, hai là Bồ-đề-tát-đỏa đạo.  Nếu nói bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di; nên biết đó là hạng người cầu Thanh-văn đạo.  Nếu nói riêng chúng Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết đó là hạng người cầu Phật đạo.  V́ vậy, nên trong pháp Thanh-văn, ở đầu kinh không nói Phật trú ở chỗ ấy, cùng với bấy nhiêu Bồ-tát, mà chỉ nói Phật trú ở chỗ ấy cùng với bao nhiêu Tỳ-kheo, như nói Phật ở Ba-la-nại cùng với năm Tỳ-kheo.  Phật ở tại nước Già-gia cùng với ngàn Tỳ-kheo.  Phật ở nước Xá-bà-đề cùng với năm trăm Tỳ-kheo.  Khởi đầu các kinh như vậy đều không nói cùng với bao nhiêu Bồ-tát.

Hỏi:  Bồ-tát có hai hạng:  Xuất gia và tại gia.  Bồ-tát tại gia nói chung trong chúng Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di.  Bồ-tát xuất gia nói chung trong chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.   Nay v́ sao lại nói riêng?

Đáp:   Tuy ở chung trong bốn chúng mà nên phải nói riêng, v́ sao?  V́ Bồ-tát thuộc vào bốn chúng mà bốn chúng không hẳn là Bồ-tát.  Tại sao vậy?  V́ có người cầu thành Thanh-văn, có người cầu thành Bích-chi Phật, có người cầu sanh lên trời, có người cầu sinh sống an lạc.   Bốn hạng người này không thuộc vào hàng Bồ-tát, v́ những người ấy không phát tâm nói rằng:   "Tôi nguyện sẽ làm Phật".

Lại nữa, Bồ-tát chứng được Vô sanh Pháp nhẫn, tất cả tướng danh tự tử sanh đều dứt hết, ra ngoài ba cơi, không rơi vào trong số chúng sanh, v́ sao?  V́ Thanh-văn được đạo quả A-la-hán c̣n không rơi vào trong số chúng sanh, hà huống Bồ-tát, như trong Ưu-ba-thi-nạn ở kinh Ba-la-diên có kệ:

"Chỗ đă diệt vô, tái xuất chăng?

Đă vĩnh diệt, chẳng tái xuất chăng?

Đă vào Niết-bàn, thường trú chăng?

Nguyện đấng Đại trí nói sự thật".

Phật đáp:

"Tịch diệt, tức là không thể lường,

Phá hoại nhân duyên và danh tướng,

Hết thảy ngôn ngữ đều đă qua,

Tất cả đều hết như lửa tắt".

Như A-la-hán mà hết thảy danh tự c̣n dứt huống là Bồ-tát có thể phá tất cả các pháp, biết thật tướng, được pháp thân mà không dứt được ư?  V́ thế nên trong hàng tứ chúng của Đại thừa, nói riêng Bồ-tát.

Hỏi:  Cớ sao mở đầu kinh Đại thừa, nói cả chúng Bồ-tát, chúng Thanh-văn, mà mở đầu kinh Thanh-văn chỉ nói đến chúng Tỳ-kheo, không nói đến chúng Bồ-tát?

Đáp:  V́ muốn biện thuyết hai thừa:  Phật thừa và Thanh-văn thừa.  Thanh-văn thừa nhỏ hẹp, Phật thừa rộng lớn; Thanh-văn thừa tự làm tự lợi, Phật thừa lợi ích tất cả.

Lại nữa, Thanh-văn thừa phần nhiều thuyết "chúng sanh không",  Phật thừa thuyết cả "chúng sanh không" và "pháp không".  Như vậy v.v… đủ cả các thứ phân biệt ba thừa.  V́ phân biệt thuyết về hai đạo ấy (Thanh-văn đạo và Bồ-tát đạo) nên trong kinh Đại thừa nói cả chúng Thanh-văn và chúng Bồ-tát , như bài kệ tán Đại thừa nói:

"Người được pháp Đại-thừa,

Đem an lạc khắp cả,

Lợi ích bằng thật pháp,

Khiến được đạo Vô thượng.

Người được pháp Đại-thừa,

Từ bi với tất cả,

Đem đầu, mắt bố thí,

Bỏ đi như cỏ cây.

Người được pháp Đại-thừa,

Hộ tŕ giới thanh tịnh,

Như trâu đen quư đuôi,

Không tiếc đến thân mạng.

Người được pháp Đại-thừa,

Th́ được nhẫn vô thượng,

Nếu có cắt xẻo thân,

Xem đó như cắt cỏ.

Người được pháp Đại-thừa,

Tinh tấn không nhàm mỏi,

Gắng làm không ngừng nghỉ,

Như người tát biển cả.

Người được pháp Đại-thừa,

Rộng tu vô lượng định,

Sức thần thông, Thánh đạo,

Được thanh tịnh tự tại.

Người được pháp Đại-thừa,

Phân biệt các pháp tướng,

Thật trí tuệ bất hoại,

Trong ấy đă đầy đủ.

Trí bất khả tư ngh́,

Sức bi tâm vô lượng,

Không vào trong nhị pháp,

Đặng quán hết thảy pháp.

Xe lừa, ngựa, đà, voi,

Tuy đồng, không sánh nhau.

Bồ-tát và Thanh-văn,

Lớn nhỏ cũng như thế.

Đại từ bi làm trục,

Trí tuệ làm hai bánh,

Tinh tấn làm ngựa hay,

Khớp miệng bằng giới định.

Nhẫn nhục làm áo giáp,

Tổng tŕ làm cương Ngựa,

Người đi xe Đại-thừa,

Qua khỏi được tất cả".

                                                                                                       (c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 2 of 4: Đă gửi: 20 May 2006 lúc 1:26pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

(tiếp theo)

Hỏi:  Như kinh Thanh-văn, mở đầu chỉ kể chúng Tỳ-kheo, c̣n kinh Ma-ha Diễn, mở đầu kể luôn chúng Bồ-tát.  Tại sao vậy?

Đáp:  Ma-ha Diễn rộng lớn, các thừa các đạo đều vào trong Ma-ha Diễn.  Chúng Thanh-văn nhỏ hẹp, không dung thọ được Ma-ha Diễn, ví như sông Hằng không dung thọ được biển cả, v́ nó nhỏ hẹp.  Nhưng biển cả có thể dung thọ được các ḍng sông, v́ nó rộng lớn;  Pháp Ma-ha Diễn cũng như thế, như kệ nói:

"Ma-ha Diễn như biển cả,

Tiểu thừa như nước lỗ chăn Trâu,

Nhỏ không dung được to,

Thí dụ kia cũng thế".

V́ vậy, chúng Tiểu thừa không dung thọ được Bồ-tát.

Hỏi:  Sao gọi là Bồ-đề? Sao gọi là Tát-đỏa?

Đáp:  Bồ-đề gọi là đạo chư Phật, Tát-đỏa gọi là chúng sanh, hoặc gọi là đại tâm.  Người ấy muốn được trọn cả công đức của Phật đạo, tâm kia không thể dứt, không thể phá; như núi Kim-cang, nên gọi là đại tâm, như kệ nói:

"Hết thảy các Phật pháp,

Trí tuệ và giới định,

Làm lợi ích tất cả,

Ấy gọi là Bồ-đề.

Tâm kia không lay động,

Hay nhẫn, thành việc đạo,

Không dứt cũng không phá,

Tâm ấy gọi Tát-đỏa".

Lại nữa, xưng tán hảo pháp là "tát", thể tướng của hảo pháp gọi là "đỏa".  V́ tâm Bồ-tát tự lợi lợi tha, v́ độ hết thảy chúng sanh, v́ biết thật tánh hết thảy pháp, v́ hành đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, v́ được hết thảy Hiền thánh tán thán; ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa, v́ cớ sao?  V́ trong hết thảy pháp, Phật pháp là bậc nhất.  Bồ-tát muốn đạt được pháp ấy, nên được Hiền thánh tán thán.

Lại nữa, người như thế v́ giải thoát sanh già bệnh chết cho hết thảy chúng sanh, nên cầu Phật đạo, ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

Lại nữa, ba thứ đạo đều là Bồ-đề.  Một là Phật đạo, hai là Thanh-văn đạo, ba là Bích-chi Phật đạo.  Bích-chi Phật đạo, Thanh-văn đạo tuy được Bồ-đề mà không xưng là Bồ-đề, Bồ-đề ở trong công đức thuộc Phật đạo mới là Bồ-đề, ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

Hỏi:  Ngang đâu trở lại gọi là Bồ-đề Tát-đỏa?

Đáp:  Có thệ nguyện lớn, tâm không thể lay động, tinh tiến không lùi, do ba việc ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

Lại nữa, có người nói:  "Khi bắt đầu phát tâm, nguyện rằng:  Ta sẽ làm Phật độ hết thảy chúng sanh".   Từ đó trở đi gọi là Bồ-đề Tát-đỏa, như kệ nói:

"Nếu khi mới phát tâm,

Thế nguyện sẽ làm Phật,

Đă qua khỏi thế gian,

Đáng nhận đời cúng dường".

Từ khi mới phát tâm cho đến đệ Cửu địa vô ngại, vào Kim-cang tam muội, giữa khoảng trung gian đó gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

Bồ-đề Tát-đỏa ấy có hai hạng: Thoái chuyển và bất thoái chuyển.  Như hai hạng A-la-hán thối pháp và bất thối pháp.

Bồ-tát bất thoái chuyển gọi là thật Bồ-tát, v́ có Bồ-tát thật, cho nên các Bồ-tát thoái chuyển đều gọi là Bồ-tát, ví như người chứng được bốn đạo quả gọi là thật Tăng, v́ có Tăng thật, cho nên các người chưa đắc đạo đều gọi là Tăng.

Hỏi:  Sao biết Bồ-tát  ấy là thoái chuyển và bất thoái chuyển?

Đáp:  Phẩm A-bệ-bạt-trí trong Kinh Bát-nhă Ba-la-mật, Phật tự thuyết tướng bất thoái chuyển.  Tướng như vậy là thoái chuyển, tướng như vậy là bất thoái chuyển.

Lại nữa, nếu Bồ-tát chỉ với một pháp mà khéo tu khéo niệm, ấy gọi là A-bệ-bạt-trí Bồ-tát.  Một pháp ǵ?  Đó là thường nhất tâm, nhóm các thiện pháp.  Như nói các đức Phật do thường nhất tâm nhóm các thiện pháp mà chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, có Bồ-tát chỉ được một pháp, là tướng bất thoái chuyển. Một pháp ǵ?  Đó là chánh trực tinh tiến.  Như Phật hỏi A-nan:  "A-nan!  Thầy tinh tiến chăng?"

_ Đúng vậy, bạch Thế Tôn!

_ A-Nan! Thầy tán thán tinh tiến chăng?

_ Đúng vậy, đấng Thiện tuệ!

_ A-Nan! thường hành, thường tu, thường niệm tinh tiến cho đến khiến cho người đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  Như trong đó nói rộng vậy.

Lại nữa, nếu được hai pháp, khi ấy là tướng bất thoái chuyển. Hai pháp ǵ? Thật biết hết thảy pháp là không và cũng niệm nghĩ, không bỏ tất cả chúng sanh.  Người như vậy gọi là Bồ-tát bất thoái chuyển.

Lại nữa, được ba pháp:  Một là nhất tâm nguyện muốn thành Phật đạo, như Kim-cương không thể lay động , không thể phá hoại.  Hai là đối với hết thảy chúng sanh, có tâm từ bi, khắc vào xương tủy.  Ba là được Bát-nhă tam muội thấy được chư Phật hiện tại.  Lúc ấy gọi là Bồ-tát bất thoái chuyển.

Lại nữa, trong A-tỳ-đàm, chúng đệ tử của Ca-chiên Diễn-ni tử (Katya-niputra) nói:  "Sao gọi là Bồ-tát?  Tự giác lại có thể giác tha, ấy gọi là Bồ-tát.  Chắc chắn sẽ làm Phật, ấy gọi là Bồ-tát.   Bồ-đề là trí tuệ của người lậu tận; người ấy từ trí tuệ mà sanh ra, được người trí tuệ hộ niệm, được người trí tuệ cúng dường, ấy gọi là Bồ-tát.

Lại nói:  "Phát tâm bất thoái chuyển, từ đó về sau gọi là Bồ-tát".

Lại nói:  "Nếu xa ĺa năm pháp, được năm pháp, ấy gọi là Bồ-tát".    Năm pháp là ǵ?  Ĺa ba đường ác, thường sanh vào loài trời và loài người.  Ĺa nghèo cùng hạ tiện, thường được tôn quư.  Ĺa khỏi tướng phi nam, thường được thân nam tử.  Ĺa khỏi thân h́nh tàn khuyết thô lậu, các căn đầy đủ.  Ĺa bỏ tánh hay quên, thường nhớ Túc mạng.  Được trí tuệ Túc mạng ấy, thường ĺa hết thảy các pháp ác, xa bỏ người ác, thường cầu đạo pháp, nhiếp thủ đệ tử, như vậy gọi là Bồ-tát.

Lại nữa, từ khi gieo nghiệp cho ba mươi hai tướng trở đi, ấy gọi là Bồ-tát.

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 3 of 4: Đă gửi: 22 May 2006 lúc 2:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

( tiếp theo)

 

Hỏi:  Lúc nào gieo trồng nghiệp làm nhân duyên cho ba mươi hai tướng?

Đáp:  Qua khỏi ba A-tăng-kỳ kiếp, vậy sau mới trồng nghiệp nhân duyên cho ba mươi hai tướng.

Hỏi:  Thời gian bao lâu gọi là A-tăng-kỳ vô số kiếp?

Đáp:  Cực số mà những kẻ biết toán số trong hàng nhân thiên không thể biết được, ấy gọi là một A-tăng-kỳ.   Như một với một gọi là hai, hai với hai là bốn, ba lần ba là chín, mười lần mười là trăm, mười lần trăm là ngh́n, mười lần ngh́n là vạn, ngàn lần vạn là ức, ngàn vạn ức gọi là Na-do-tha, ngàn vạn Na-do-tha là Tần-bà (Bimbara), ngàn vạn Tần-bà gọi là Ca-tha (Gata), quá Ca-tha gọi là A-tăng-kỳ.  Như vậy, trong số ba A-tăng-kỳ, nếu tu hành hết một A-tăng-kỳ, th́ tu A-tăng-kỳ thứ hai; tu hết A-tăng-kỳ thứ hai, th́ tu A-tăng-kỳ thứ ba.  Ví như phép toán số, đếm từ một đến trăm, đếm trăm xong trở lại từ một.  Như  vậy Bồ-tát qua một A-tăng-kỳ, rồi trở lại kể từ một khởi đi.  Trong A-tăng-kỳ đầu, tâm không tự biết ta sẽ thành Phật hay không thành Phật.  Trong A-tăng-kỳ hai, tâm tuy biết được ta chắc chắn thành Phật, nhưng miệng không nói ta sẽ thành Phật.  Trong A-tăng-kỳ ba, tâm tự biết rơ ràng sẽ thành Phật, miệng tự pháp ngôn không chút sợ:  "Ta trong đời sau sẽ thành Phật".

Phật Thích-ca Văn,  kể từ Phật Thích-ca Văn quá khứ đến Phật Lặc-na thi-khí (Ratnasíkhin) là A-tăng-kỳ đầu.  Trong khoảng ấy Bồ-tát vĩnh viễn xa ĺa thân mỹ nhân.  Từ Phật Lặc-na thi-khí đến Phật Nhiên-đăng (Dipsạmkara) là A-tăng-kỳ thứ hai.  Trong khoảng ấy, Bồ-tát cúng dường Phật Nhiên-đăng bảy cành Hoa sen, trải áo da nai, trải tóc lên đống bùn để lót đường cho Phật đi qua; Phật Nhiên-đăng liền thọ kư cho Bồ-tát:  "Ông tương lai sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni".

Từ Phật Nhiên-đăng đến Phật Tỳ-bà-thi, là A-tăng-kỳ thứ ba.  Nếu qua khỏi ba A-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy là lúc Bồ-tát gieo trồng nghiệp làm nhân duyên cho ba mươi hai tướng.

Hỏi:  Nghiệp cho ba mươi hai tướng có thể gieo trồng ở tại đâu?

Đáp:  Ở tại cơi Dục chứ không phải tại cơi Sắc, cơi Vô sắc. Trong năm đạo của cơi Dục, ở tại nhân đạo gieo trồng.  Trong bốn châu thiên hạ, tại châu Diêm-phù-đề gieo trồng, chứ không phải châu Câu-gia-ni, Uất-đát-la-việt, Phất-bà-đề.  Ở tại Diêm-phù-đề th́ từ thân nam tử gieo trồng chứ không phải nữ nhân.  Lúc có Phật xuất thế gieo trồng.  Phật không xuất thế không thể gieo được.  V́ duyên thân Phật mà được gieo, duyên thân khác không được gieo.

Hỏi:  Nghiệp của ba mươi hai tướng, là ở nơi thân nghiệp, khẩu nghiệp, ư nghiệp, nghiệp nào được gieo?

Đáp:   Ư nghiệp gieo, không phải thân nghiệp, khẩu nghiệp, v́ sao?  V́ ư nghiệp lanh lợi.

Hỏi:  Ư nghiệp có sáu thức, nghiệp của ba mươi hai tướng ấy, là ư thức gieo hay là ngũ thức gieo?

Đáp:   Là ư thức, không phải ngũ thức, v́ sao?  V́ ngũ thức không thể phân biệt, v́ thế nên ư thức gieo.

Hỏi:  Tướng nào gieo trước tiên?

Đáp:   Có người nói:  Tướng bàn chân bằng phẳng gieo trước tiên, v́ sao?  V́ trước phải đứng vững rồi sau mới có thể gieo các tướng khác.

Có người nói:  Gieo tướng mắt xanh biếc trước.  Được tướng mắt này là mắt đại từ xem chúng sanh.

Tuy có lời ấy nhưng không hẳn như vậy.  Nếu nhân duyên của tướng nào ḥa hiệp là bắt đầu gieo.

Hỏi:  Một ư tứ gieo hay nhiều ư tứ gieo?

Đáp:  Ba mươi hai ư tứ gieo ba mươi hai tướng.  Mỗi một ư tứ gieo mỗi một tướng. Mỗi một tướng có trăm phước đức trang nghiêm.

Hỏi:  Bao nhiêu gọi là một phước đức?

Đáp:  Có người nói: Có được nghiệp báo làm Chuyển luân Thánh vương,  ở trong bốn châu thiên hạ hưởng thọ phước lạc được tự tại, ấy gọi là một phước đức.  Đủ một trăm phước như vậy thành một tướng.

Lại có người nói:  Làm Thích-đề-hoàn-nhơn, ở trong hai cơi trời, được tự tại, ấy gọi là một phước.

Lại có người nói:  Làm vị Thiên vương Tha-hóa-tự-tại, ở trong cơi Dục được tự tại, ấy gọi là một phước.

Lại có người nói:  Trừ Bồ-tát bổ xứ, phước báo của hết thảy chúng sanh có được, ấy gọi là một phước.

Lại có người nói:  Sau khi kiếp của trời đất chấm hết, do hết thảy phước đức của hết thảy chúng sanh cộng lại, mà quả báo của Tam thiên đại thiên thế giới được thành lập, ấy gọi là một phước.

Lại có người nói:  Phước ấy không thể lường, không thể thí dụ mà biết được.  Như hết thảy chúng sanh trong Tam thiên đại thiên thế giới đều mù mắt, có một người chữa khỏi, ấy gọi là một phước.  Tất cả người đều bị trúng độc, một người trị khỏi;  tất cả người sắp chết, một người cứu thoát khỏi; tất cả người phá giới, phá chánh kiến, một người dạy cho được tịnh giới và chánh kiến. Mỗi việc như vậy đều là một phước.

Lại có người nói:  Phước ấy không thể lường, không thể thí dụ.  Bồ-tát ấy ở vào A-tăng-kỳ thứ ba th́ tâm tư duy về hạnh lớn, gieo trồng nhân duyên về ba mươi hai tướng, v́ vậy phước ấy không thể lường, chỉ có Phật mới biết được.

Hỏi:  Bồ-tát trong bao lâu th́ gieo trồng được một phước?

Đáp:  Chậm lắm là một trăm kiếp, nhanh lắm là chín mươi mốt kiếp.  Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni trong chín mươi mốt đại kiếp tu hành xong ba mươi hai tướng.   Như vậy trong kinh nói:  "Kiếp quá khứ lâu xa, có đức Phật hiệu Phất-sa (Rusya).  Bấy giờ có hai Bồ-tát, một là Thích-ca Mâu-ni và một là Di-lặc.  Phật Phất-sa muốn quán xem tâm Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni đă thuần thục chưa, tức quán thấy biết tâm Ngài chưa thuần thục mà tâm các đệ tử Ngài đều đă thuần thục.  C̣n tâm Bồ-tát Di-lặc th́ đă thuần thục mà đệ tử Ngài th́ chưa thuần thục.  Bấy giờ Phật Phất-sa nghĩ như vầy:  "Tâm của một người dễ giáo hoá được mau, tâm của nhiều người khó thể đối trị mau".  Suy nghĩ như vậy rồi, Phật Phất-sa muốn khiến Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni được mau thành Phật, nên lên trên núi Tuyết, nhập Hỏa định ở trong hang báu.  Lúc ấy Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni đang là ngoại đạo tiên nhân lên núi hái thuốc, trông thấy Phật Phất-sa đang ngồi trong hang báu, nhập Hỏa định, phóng hào quang.  Thấy vậy rồi, tâm hoan hỷ tín kính, đứng co một chân, chấp tay hướng Phật, một ḷng chiêm ngưỡng, qua bảy ngày đêm không thấy chớp mắt, liền nói một bài kệ tán Phật:

"Thiện thuợng thiên hạ, không ai bằng Phật,

Mười phương thế giới, cũng không thể sánh,

Những ǵ ở thế gian tôi thấy hết,

Tất cả không có ai sánh ngang Phật".

Qua bảy ngày đêm nh́n kỹ Thế Tôn, mắt chưa từng chớp, mà vượt qua được chín kiếp, c̣n ở trong chín mươi mốt kiếp được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Hỏi:  Nếu Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni thông minh biết nhiều, có thể làm nhiều bài kệ hay; cớ sao qua bảy ngày đêm mà chỉ có một bài kệ tán Phật?

Đáp:  Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni quí ở tâm tư ḿnh chứ không quí ở nhiều lời. Nếu c̣n lấy các kệ khác tán Phật, th́ tâm bị náo loạn, thế nên qua bảy ngày đêm chỉ lấy một bài kệ tán Phật.

Hỏi:  Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni v́ sao tâm chưa thuần thục mà tâm đệ tử lại thuần thục?  C̣n tâm Bồ-tát Di-lặc thuần thục mà tâm đệ tử lại chưa thuần thục.?

Đáp:  Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni, tâm v́ lợi ích chúng sanh nhiều mà tự v́ ḿnh ít; c̣n Bồ-tát Di-lặc tâm v́ kỷ thân nhiều mà v́ chúng sanh ít.  Từ Phật Bệ-bà-thi đến Phật Ca-diếp, trong khoảng chín mươi mốt kiếp ấy, gieo trồng nghiệp nhân duyên cho ba mươi hai tướng xong, th́ đầy đủ sáu Ba-la-mật.  Những ǵ là sáu?  Đàn Ba-la-mật, Thi-la Ba-la-mật, Sằn-đề Ba-la-mật, Tỳ-lê-gia Ba-la-mật, Thiền Ba-la-mật, Bát-nhă Ba-la-mật.

Hỏi:  Đàn Ba-la-mật được đầy đủ như thế nào?

Đáp:  Có thể bố thí tất cả, không ngăn ngại ǵ, cho đến khi đem thân mạng mà cho, tâm vẫn không tiếc.  Thí như vua Thi-tỳ (Sibi) đem thân mà thí cho chim Bồ câu.   Bản thân của Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni bấy giờ là vua Thi-tỳ.  Vua đă được "Quy mạng cứu hộ Đà-la-ni", rất tinh tấn, có tâm từ bi, xem tất cả chúng sanh như mẹ thương con.

Gặp lúc ấy không có Phật, Thích-đề-hoàn-nhơn thọ mạng gần dứt, tự nghĩ:  "Nơi nào có Phật, bậc Nhất thiết trí?", rồi đi hỏi khắp nơi mà không ai đoạn nghi được nên biết hết thảy đều không phải là Phật, liền trở lại trên trời, ngồi mà ưu sầu.  Bấy giờ có vị trời tên là Tỳ-thủ-kiết-ma giỏi biến hóa, hỏi:  "Thiên chủ v́ sao mà ưu sầu?"  Đáp:  "Ta t́m bậc Nhất thiết trí mà không gập được nên ưu sầu".  Tỳ-thủ-kiết-ma nói:  "Có vị đại Bồ-tát, bố thí, tŕ giới, thiền định, trí tuệ đầy đủ, không lâu sẽ thành Phật".  Đế-thích dùng kệ đáp:

"Bồ-tát phát đại tâm,

Như trứng cá, bông xoài,

Ba việc lúc nhân nhiều,

Lúc thành quả rất ít".

Tỳ-thủ-kiết-ma đáp:  "Vua Thi-tỳ gịng Ưu-thi-na ấy, đầy đủ tŕ giới, tinh tấn, đại từ, đại bi, thiền định, trí tuệ, không lâu sẽ thành Phật".  Thích-đề-hoàn-nhơn nói với Tỳ-thủ-kiết-ma:  "Hăy đến thử xem rồi biết có tướng Bồ-tát hay không.  Ngươi làm chim Bồ câu, ta làm chim Ó.  Ngươi giả làm bộ sợ hăi chui vào nách vua, ta đuổi theo ngươi".  Tỳ-thủ-kiết-ma nói:  "Sao lại lấy việc này xúc năo vị đại Bồ-tát ấy".  Thích-đề-hoàn-nhơn nói kệ:

"Ta chẳng phải ác tâm,

Như chân kim, nên thử,

Thử Bồ-tát như vậy,

Để biết tâm định chăng?"

Nói kệ xong, Tỳ-thủ-kiết-ma liền tự biến thân thành chim Bồ câu, mắt đỏ, chân đỏ.  Thích-đề-hoàn-nhơn tự biến thân thành chim Ó, bay theo đuổi gấp.   Bồ câu bay thẳng vào nách vua, thân run sợ, mắt nháo nhác, tiếng kêu khẩn thiết.

"Lúc ấy có nhiều người,

Cùng nói với nhau rằng,

Vua ấy đại nhân từ,

Nên bảo hộ tất cả.

Chim Bồ câu nhỏ ấy,

Bay đến như về nhà.

Như vậy tướng Bồ-tát,

Thành Phật chắc không lâu".

Lúc ấy chim Ó đậu trên cây gần đó, nói với vua Thi-tỳ rằng:  "Trả Bồ-câu lại cho tôi, v́ của tôi bắt được".  Vua nói với chim Ó:  "Ta bắt được nó chứ không phải ngươi.  Khi ta vừa phát ư Bồ-tát th́ bắt được nó.  Tất cả chúng sanh ta đều muốn độ thoát".   Chim Ó nói:  "Vua muốn độ hết thảy chúng sanh, tôi không phải ở trong số hết thảy đó ư?  Cớ sao riêng tôi không được vua thương mà nay lại cướp mất bữa ăn của tôi?"  Vua nói:  "Ngươi cần ăn thứ ǵ?  Ta có thệ nguyện hễ có chúng sanh nào đi đến với ta, ta tất cứu hộ.  Ngươi cần ăn thứ ǵ, ta sẽ cấp cho".  Chim Ó nói:  "Tôi cần thứ thịt nóng vừa mới giết".  Vua nghĩ:  "Việc này thật khó, không tự sát sanh, làm sao có được"  Sao ta lại giết một con mà đem cho một con?"   Tư duy tâm định, rồi tự thuyết kệ:

"Xác thịt của ta đây,

Hằng thuộc già, bệnh, chết,

Không lâu sẽ thối ră,

Kia cần, ta sẽ cho".

Suy nghĩ như thế rồi, vua gọi người cầm dao đến, tự xẻo thịt bắp vế cho chim Ó.  Ó nói với vua:  "Vua tuy lấy thịt nóng mà cho tôi, nhưng phải làm theo đạo lư, để cho thịt nặng nhẹ bằng với Bồ câu mới được, chớ dối!".

Vua sai mang cân đến, lấy thịt vua cân với Bồ câu. Bồ câu cứ nặng măi, thịt vua cứ nhẹ dần.  Vua sai người lóc thịt cả hai vế của ḿnh, vẫn nhẹ, không đủ,  Thứ đến hai bắp chân, hai vai, hai vú, cổ, lưng v.v… cho đến hết cả thịt ở thân ḿnh mà Bồ câu vẫn c̣n nặng, thịt vua vẫn c̣n nhẹ.  Lúc ấy cận thần, nội thích, giăng che màn sáo, không cho mọi người xem:  "Vua đă như vậy, không thể xem được nữa".  Vua Thi-tỳ nói:  "Chớ ngăn cản mọi người, cứ để họ vào xem", rồi thuyết kệ rằng:

"Trời, Người, A-tu-la,

Tất cả đến xem ta,

Đại tâm, vô thượng chí,

V́ cầu thành Phật đạo.

Nếu có cầu Phật đạo,

Hăy nhẫn đại khổ này,

Tâm không thể kiên cố,

Th́ hăy dừng ư lại".

Bấy giờ Bồ-tát, hai tay vấy máu, vịn vào cân, muốn leo lên, định tâm đem cả thân ḿnh để cân cho bằng Bồ câu.   Ó nói:  "Đại vương, việc ấy khó thành, đâu cần như thế, trả Bồ câu lại tôi!".  Vua nói:  "Bồ câu đến với ta, ta nhất định không giao lại ngươi.  Nay ta muốn đem thân này để cầu đổi lấy Phật đạo".  Vua lấy tay vịn cân, bấy giờ Bồ-tát thịt đă hết, gân đă đứt, không tự chế được, muốn leo lên mà cứ ngă xuống, tự trách tâm rằng:   "Ngươi hăy tự kiên cường lên, không được mê muội!.  Tất cả chúng sanh bị đọa vào biển lớn ưu khổ, một ḿnh ngươi lập thệ nguyện muốn cứu độ tất cả, sao lại giải đăi mê muội?   Khổ này rất ít, khổ ở địa ngục rất nhiều, đem hai việc ấy so sánh, vẫn không bằng một phần mười sáu.  Ta nay có trí tuệ, tinh tấn, tŕ giới, thiền định, c̣n lo sợ khổ này, huống những người trong địa ngục, không có trí tuệ, th́ làm sao?"  Lúc ấy Bồ-tát quyết tâm muốn leo lên cân, bảo người đỡ lên.  Tâm Bồ-tát lúc ấy tuyệt không có chút hối hận.

Chư thiên, Long vương, A-tu-la, Quỷ, Thần, nhân dân đều tán thán rằng:  "V́ chim nhỏ mà thế, việc ấy thậ䴠hy hữu".

Ngay khi ấy, đại địa chấn động sáu sách, biển lớn nổi sóng, cây khô sanh hoa, trời mưa hưong thơm và rải hoa quư, Thiên nữ ca ngợi chắc chắn được thành Phật.  Cùng khi ấy thần tiên khắp bốn phương đều đến ca ngợi:  "Ấy là Bồ-tát chơn thật, ắt sớm thành Phật!".  Ó nói với Bồ câu:  "Các thử thách như thế, không tiếc thân mạng, ấy chơn thật là Bồ-tát", liền nói kệ rằng:

"Trong đất từ bi sanh

Mầm cây Nhất thiết trí,

Bọn ta nên cúng dường,

Không nên làm ưu năo".

Tỳ-thủ-kiết-ma nói với Thích-đề-hoàn-nhơn:  "Thiên chủ có thần lực, nên làm cho thân của vua ấy b́nh phục".

Thích-đề-hoàn-nhơn nói:  "Không cần đến ta.  Vị vua ấy tự lập thệ nguyện, đại tâm hoan hỷ, không tiếc thân mạng, cảm đến tất cả để khiến phát tâm cầu Phật đạo".  Đế thích liền nói với vua:  "Ông cắt thịt đau đớn, mà tâm có buồn hận không?"  Vua nói:  "Tâm ta hoan hỷ, không có sầu muộn thối thất".  Đế thích nói:   "Ai tin được tâm ông không thối thất?"  Bấy giờ Bồ-tát phát lời thệ nguyện chắc thật rằng:  "Tôi lóc thịt, máu chảy mà không hận không buồn, nhất tâm không hối tiếc để cầu phật đạo.  Nếu đúng như vậy, thân tôi sẽ tức khắc b́nh phục như cũ".

Ngay khi nói ra lời nguyện ấy, thân liền b́nh phục như cũ.   Trời, người trông thấy đều rất hoan hỷ, tán thán việc chưa từng có:  "Đại Bồ-tát ấy chắc sẽ thành Phật, bọn ta hăy nên tận tâm cúng dường, cầu mong Ngài sớm thành Phật đạo, hăy nhớ đến chúng ta!".  Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhơn, Tỳ-thủ-kiết-ma đều trở về trời.  Đủ các tướng như thế, ấy là Đàn Ba-la-mật được đầy đủ.

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 4 of 4: Đă gửi: 24 May 2006 lúc 2:50pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

(tiếp theo)

 

Hỏi:  Thi-la Ba-la-mật được đầy đủ như thế nào?

Đáp:   Không tiếc thân mạng, hộ tŕ tịnh giới.  Như vua Tu-đà-tu-ma (Sutasoma) từ kiếp làm Ma-sa-ba-đà đại vương (Kalmàsapàda), chí đến bỏ thân mạng cũng không phạm cấm giới.

Xưa có vua Tu-đà-tu-ma tinh tấn tŕ giới, thường giữ lời chân thật.  Một sáng sớm cỡi xe, cùng các thể nữ đi vào vườn dạo chơi.  Khi ra đến cửa thành, có một Bà-la-môn đến xin, nói với vua:  "Vua là người đại phúc đức, thân tôi bần cùng, xin dũ ḷng thương cho tôi ít nhiều".  Vua nói:  "Được!  Kính lời dạy Như Lai, ta sẽ bố thí, nhưng hăy đợi ta trở về".  Nói xong, vua đi vào vườn, tắm rửa, vui chơi.

Lúc ấy, có con chim chúa có hai cánh rất lớn tên là Chân-nai (Kalmạsa-pàda), từ trên không bay đến giữa đám thể nữ, cắp vua bay đi, giống như chim Kim-sí vào giữa biển bắt Rồng.   Các thể nữ kêu gào khóc la kinh hăi cả khu vườn, cho đến trong ngoài thành đều lo sợ hoảng hốt.   Chân-nai mang vua bay giữa hư không, đến chỗ núi nó ở, để vua vào giữa chín mươi chín vị vua biắt.  Vua Tu-đà-tu-ma khóc ṛng như mưa.  Chân-nai nói:   "Này vua Đại-sát-lợi, tại sao ông khóc như trẻ con vậy?  Người có sanh th́ có chết, có hội họp th́ có chia ĺa!".  Vua Tu-đà-tu-ma đáp:  "Ta không phải sợ chết, chỉ tự hận là thất tín.   Ta từ khi sanh đến nay, không hề nói dối. Sáng nay khi ra cửa thành, có một Bà-la-môn đến theo ta xin, ta hứa khi trở về sẽ cho.  Không ngờ bị vô thường phải cô phụ ḷng người ấy, tự chuốc lấy tội dối trá,  chỉ v́ thế mà ta khóc thôi".  Chân-nai nói với vua:  "Ư ông muốn vậy, sợ dối nói lời ấy, tin lời ông, tôi cho ông trở về trong bảy ngày để bố thí cho Bà-la-môn xong th́ trở lại ngay.  Nếu quá bảy ngày mà ông không trở lại, tôi có đôi cánh to mạnh, bắt ông trở lại cũng không khó".

Vua Tu-đà-tu-ma được trở lại bản quốc, mặc ư mà bố thí.  Chỉ định thái tử lên ngôi kế vị và hội cả nhân dân lại mà sám hối từ tạ rằng:  "Trí của ta không khắp đến các loài vật, sửa trị phần nhiều không đúng pháp, xin hăy trung thành tha thứ cho.  Như thân ta ngày nay không c̣n là của ḿnh, nên phải ra đi không trở lại".  Nhân dân cả nước và các thân thích, dập đầu xin vua ở lại:  "Nguyện vua hăy ở lại, thương xót nước này; chớ v́ chuyện vua Chân-nai mà lo sợ, nên thiết lập nhà sắt, tinh binh, Chân-nai tuy là thần cũng không sợ nó".  Vua nói:  "Không thể được", rồi thuyết kệ:

"Thật ngữ là đệ nhất giới,

Thật ngữ là thang lên trời

Thật ngữ là bậc đại nhân,

Vọng ngữ là vào địa ngục,

Ta nay giữ thật ngữ,

Dù vứt bỏ thân mạng,

Tâm không chút hối hận".

Thuyết kệ xong, vua liền khởi hành, đi đến chỗ Chân-nai.  Chân-nai từ xa trông thấy, hoan hỷ nói rằng:  "Ông là người nói thật, không mất lời hứa. Mọi người đều tiếc nhân mạng, c̣n ông từ chỗ chết được thoát ra, rồi trở lại với lời hứa.  Ông thật là bậc đại nhân".  Bấy giờ vua Tu-đà-tu-ma tán thán thật ngữ rằng:  "Thật ngữ ấy là người, phi thật ngữ ấy chẳng phải là người".  Đủ các lời như vậy, tán thán thật ngữ , chê trách vọng ngữ.  Chân-nai nghe vậy, tín tâm thanh tịnh, nói với vua Tu-đà-tu-ma rằng:  "Ông khéo nói những lời như vậy, nay tôi thả ông về.  Ông được giải thoát, chín mươi chín vua kia cũng được tha theo ông luôn, tùy ư ai trở về bản quốc nấy".   Nói như vậy rồi, trăm vua đều được tha trở về.

Đủ các tướng như vậy, ấy là Thi-la Ba-la-mật đầy đủ.

Hỏi:  Sằn-đề Ba-la-mật được đầy đủ như thế nào?

Đáp:   Nếu có người đến mắng, đánh đập, cắt  xẻo từng mảnh, cướp mất mạng, tâm không khởi sân hận.  Như Tỳ-kheo Sằn-đề bị vua Ca-lê cắt tay, chân, tai, mũi mà tâm vẫn kiên cố bất động.

Hỏi:  T́-lê-gia Ba-la-mật đầy đủ như thế nào?

Đáp:   Nếu có người đại tâm siêng năng, như Bồ-tát Đại-thi (Mahatyàgavat) v́ tất cả mà đem thân này thề tát biển cả, khiến khô cạn, nhất định tâm không giải đăi, cũng như tán thán Phật Đề-sa mà suốt bảy ngày đêm đứng co một chân, mắt không chớp.

Hỏi:  Thiền Ba-la-mật đầy đủ như thế nào?

Đáp:   Như được tự tại giữa tất cả thiền định ngoại đạo.  Lại như tiên nhân Thượng-xà-lê, lúc tọa thiền không hơi thở ra vào, chim làm tổ sanh con trên búi tóc mà không lay không động, cho đến khi chim con bay đi.

Hỏi:  Bát-nhă Ba-la-mật đầy đủ như thế nào?

Đáp:  Bồ-tát đại tâm suy nghĩ phân biệt, như đại thần Cù-tân-đà Bà-la-môn, chia đại địa Diêm-phù-đề làm bảy phần.   Bao nhiêu thành lớn, bao nhiêu thành nhỏ, xóm làng, thôn dân đều chia làm bảy phần.  Bát-nhă Ba-la-mật là như thế.  Ấy gọi là sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát được đầy đủ. Khi ở nơi Phật Ca-diếp, Bồ-tát làm đệ tử, tŕ tịnh giới, hành công đức, sanh lên trời Đâu-suất.

Hỏi:  Bồ-tát sao chỉ sanh ở trời Đâu-suất mà không sanh ở các cơi cao hơn hay cơi thấp hơn?  Đă là vị có phúc đức lớn, th́ có thể tự tại sanh?

Đáp:   Có người nói:  V́ nghiệp nhân duyên thành thục nên sanh ở đó.

Lại nữa, sanh ở thấp hơn th́ kiết sử nặng nề ô trược.  Sanh ở cao hơn th́ kiết sử lanh lợi.  Sanh ở Đâu-suất th́ kiết sử không nặng nề, không lanh lợi, trí tuệ an ổn.

Lại nữa, v́ không muốn quá thời kỳ Phật xuất thế vậy.  Nếu sanh ở cơi thấp hơn th́ mạng sống ngắn, khi mệnh chung mà Phật chưa xuất thế.  Nếu sanh ở cơi cao hơn th́ mạng sống dài, tuổi thọ chưa hết lại quá thời kỳ Phật xuất thế.  Ở cơi trời Đâu-suất, tuổi thọ cùng với lúc Phật xuất thế trùng nhau.

Lại nữa, Phật thường ở Trung đạo.  Trời Đâu-suất ở giữa Lục-dục thiên và Phạm thiên, trên ba dưới ba.  Sanh ở nước chính giữa thiên hạ này, nửa đêm giáng trần, nửa đêm ra khỏi thành Ca-tỳ-la mà thựa hành Trung đạo, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, dùng trung đạo mà thuyết pháp cho người.  Nửa đêm Ngài vào Vô dư Niết-bàn, v́ thích ở trung pháp nên sanh ở trung thiên.   Như vậy, Bồ-tát sau khi sanh cơi trời Đâu-suất, dùng bốn cách quán nhân gian:  Một là quán thời, hai là quán quốc độ, ba là quán ḍng họ và bốn là quán nơi sanh ra.

Thế nào là quán Thời?  Thời có tám kỳ, Phật xuất thế nhằm trong đó:   1- Lúc loài người thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, 2- Lúc loài người thọ bảy vạn tuổi, 3- Lúc loài người thọ sáu vạn tuổi, 4- Lúc loài người thọ năm vạn tuổi, 5- Lúc loài người thọ bốn vạn tuổi, 6- Lúc loài người thọ ba vạn tuổi, 7- Lúc loài người thọ hai vạn tuổi, 8- Lúc loài người thọ một trăm tuổi.  Bồ-tát nghĩ như vầy:  "Loài người thọ một trăm tuổi là thời Phật xuất thế đă đến", ấy là quán Thời.

Thế nào là quán quốc độ?  Các đức Phật thường sanh ở trung quốc, nơi có nhiều vàng bạc vật báu, uống ăn đầy đủ, cơi đất thanh tịnh.

Thế nào là quán ḍng họ?  Phật sanh trong hai ḍng hoặc Sát-lợi hoặc Bà-la-môn.  Ḍng Sát-lợi th́ thế lực lớn, ḍng Bà-la-môn th́ trí tuệ lớn lao.  Tùy lúc được quư trọng mà Phật sanh ra trong ḍng đó.

-  Thế nào là quán chỗ sanh ra?  Những người mẹ nào có thể mang thai vị Bồ-tát có sức mạnh Na-la-diên và cũng hay giữ ḿnh tịnh giới.

Quán như vậy xong, chỉ có hoàng hậu của vua Tịnh-phạn nước Ca-tỳ-la, là ở chỗ trung quốc, là có thể mang thai Bồ-tát.   Suy nghĩ như vậy, rồi từ trên trời Đâu-suất mà xuống, không mất chánh tuệ mà nhập vào thai mẹ.

Hỏi:   Tại sao thân cuối cùng của hết thảy Bồ-tát, đều từ trên trời mà xuống, không từ trong loài người mà đến?

Đáp:  V́ là đi con đường thượng đạo.  Trong lục đạo, Thiên đạo trên hết.

Lại nữa, lúc từ trên trời xuống, th́ hiện đủ các điềm lành chưa từng có.  Nếu từ Nhân đạo mà đến, th́ Nhân đạo không có các điềm lành ấy.  Lại nữa, v́ người kính trọng trời.

Hỏi:  Mọi người đều do cấu tâm tương tục mà nhập vào thai mẹ, với hết thảy tà tuệ tương ưng; v́ sao Bồ-tát lại dùng chánh tuệ mà nhập vào thai mẹ?

Đáp:  Có người nói:  Lúc có tương tục, hết thảy chúng sanh cùng với tâm tà tuệ mà vào thai mẹ.  Bồ-tát ức niệm không quên, gọi là chánh tuệ vào thai mẹ.  Ở trung ấm th́ biết là ở trung ấm, lúc vào thai mẹ th́ biết là vào thai mẹ, lúc Ca-la-la (Kalala) th́ biết đang trú ở Ca-la-la (là lúc tinh trắng và tinh đỏ hỗn hợp trong bảy ngày đầu thọ thai), lúc Án-phù-đà (Arbuda) th́ biết đang trú ở Án-phù-đà (hai tuần lễ sau, h́nh như vỏ kén), lúc Già-na (Ghana) th́ biết đang trú ở Già-na (là tuần lễ sau, h́nh như sữa đặc), lúc Ngũ-bào (Giải thích phẩm Pesin) th́ biết đang trú ở Ngũ-bào, lúc sanh ra biết là sanh ra.  Trong những lúc đó ức niệm không quên, ấy gọi là chánh tuệ vào thai mẹ.

Lại nữa, ngướ khác khi trú ở trung ấm, nếu là nam th́ đối với người mẹ sanh tâm dục nhiễm cho rằng người nữ ấy tùng sự cùng với ḿnh, c̣n đối với người cha th́ sanh tâm sân hận.  Nếu là nữ th́ đối với cha sanh tâm dục nhiễm cho rằng nam tử ấy tùng sự cùng với ḿnh, c̣n đối với người mẹ th́ sanh tâm sân hận.  Bồ-tát không có tâm sân hận, tâm dục nhiễm như thế.  Bồ-tát trước đă biết rơ ràng đó là cha là mẹ, là cha mẹ hay nuôi lớn thân ta.  Ta nương nhờ nơi thân do cha mẹ sanh, mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  Tịnh tâm nghĩ đến cha mẹ như vậy, tương tục mà nhập thai, ấy gọi là chánh tuệ mà vào thai mẹ.

Bồ-tát khi đă đủ mười tháng, chánh tuệ ức niệm không quên.  Khi ra khỏi thai, đi bảy bước, miệng phát ra lời rằng:  "Đây là thân sau cùng của Ta".

Cho đến khi vua Tịnh-phạn đưa đến tướng sư coi rằng:  "Ông hăy xem con ta thật có đủ ba mươi hai tướng chăng?  Nếu có đủ ba mươi hai tướng th́ có thể có hai điều:  Nếu tại gia th́ sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, nếu xuất gia th́ sẽ thành Phật".  Các Tướng sư nói:  "Địa thiên Thái tử thật có đủ ba mươi hai tướng đại nhân.  Nếu tại gia th́ sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, nếu xuất gia th́ sẽ thành Phật".  Vua nói:  "Những ǵ là ba mươi hai tướng?".  Tướng sư đáp:

1-  Tướng dưới bàn chân bằng phẳng:  Dưới bàn chân hết thảy đều chấm đất, dù một cây kim cũng không thể lọt qua.

2-  Tướng hai bánh xe dưới bàn chân:  Đủ một ngàn căm xe, ṿng đai bánh xe và trục bánh xe, ba điều ấy dầy đủ, tự nhiên thành tựu, không đợi thợ người làm.  Các thợ trời như  Tỳ-thủ-kiết-ma không thể hóa làm được diệu tướng như thế.

Hỏi:   V́ sao mà không thể?

Đáp:  Tỳ-thủ-kiết-ma ấy là thợ giỏi của Trời mà trí tuệ không ẩn mật, luân tướng ấy là nghiệp báo thiện.  Thợ trời được trí tuệ ở sanh báo, luân tướng ấy do thực hành thiện căn trí tuệ mà được.  Tỳ-thủ-kiết-ma ấy trong một đời mà được trí tuệ ấy, luân tướng ấy từ trí tuệ vô lượng kiếp mà sanh.  Do đó, Tỳ-thủ-kiết-ma không thể hóa làm, huống ǵ các thợ khác.

3-  Tướng ngón tay dài:  Ngón tay thon, dài và thẳng, cao thấp đều đặn, đốt tay sâm sai.

4-  Tướng gót chân rộng và bằng.

5-  Tướng ngón tay, ngón chân có lưới lụa x̣e như của chim Nhạn:   Trương ngón ra th́ hiện, không trương ra th́ không hiện.

6-  Tướng tay chân mềm mại:  Như thứ lông Tế-kiếp-ba (Karpàsakambalam) hơn các phần khác trong thân.

7-  Tướng mu bàn chân cao và dầy:  Lấy chân đáp đất, không rộng không hẹp, sắc dưới chân như Hoa sen đỏ, dưới giữa các ngón chân và sắc hai bên bàn chân như san hô thật; móng tay như đồng đỏ trong sạch.  Trên mu bàn chân màu như chơn kim, lông trên mu bàn chân như màu Tỳ-lưu-ly xanh; chân nghiêm chỉnh đẹp đẽ như chiếc guốc trang sức đủ các thứ báu.

8-  Tướng như bắp đùi Y-nê-diên (Aineya):  Như đùi trước của nai chúa Y-nê-diên, tùy trước sau mà co duỗi.

9-  Tướng khi đứng thẳng, ngón tay rờ đến đầu gối:   Không cúi không ngước, lấy bàn tay rờ đầu gối.

10-  Tướng âm tàng như Voi báu, Ngựa báu:  Điều ḥa và khéo, đẹp.

Hỏi:   Nếu khi Bồ-tát được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các đệ tử do nhân duyên ǵ mà được thấy tướng âm tàng?

Đáp:  V́ độ chúng nhân, dứt chúng nghi mà Phật cho thấy tướng âm tàng.  Lại có người nói, Phật hóa làm ngựa báu, voi báu, chỉ cho các đệ tử mà nói rằng:  "Tướng âm tàng của ta cũng như thế".

11-  Tướng thân cao và rộng cân đối như cây Ni-câu-lô-đà:  Thân Bồ-tát lỗ rún ở chính giữa, bốn phần bằng nhau.

12-  Tướng lông xoay hướng lên trên:  Các sợi lông trên thân đều hướng lên và đẹp.

13-  Tướng mỗi lỗ chân lông có một sợi lông:  Lông không tạp loạn, màu xanh như Lưu ly, lông xoay theo phía hữu và hướng lên trên.

14-  Tướng sắc vàng kim sắc

 

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.9131 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO