Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 216 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Nhân ái, Từ bi, Bác ái khác nhau chỗ nào? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 1 of 5: Đă gửi: 23 April 2006 lúc 12:32am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


T́nh Ái

Cao Phương Kỷ

T́nh Ái là điều quan trọng bậc nhất, nguyên Lư Tuyệt Đối, cũng như trong trong vũ trụ càn khôn, và trong cơi nhân sinh, triết lư, văn học, văn minh, nghệ thuật, v.v. Ta thử tưởng tượng... hết mọi trái tim con người đều ra “chai đá”, hoặc thử xóa bỏ mọi lời nói, mọi chữ “Yêu Thương” trong đời sống xă hội, trong văn chương, nghệ thuật…, ta sẽ cảm thấy vũ trụ này trở thành “băng giá”, lạnh lùng, không thể sống nổi! Nhưng khi suy nghĩ về yếu tính của Yêu Thương, ta liền nhận thấy: ngôn ngữ của nhân loại, của các nước trên thế giới này thiếu danh từ để có thể diễn tả mọi cấp bậc, mọi sắc thái, mọi khía cạnh của T́nh Ái. Ta dùng cũng một chữ Yêu, Thương, để nói: cha mẹ Yêu Thương con cái; cặp t́nh nhân Yêu nhau; hai con chó Thương nhau! v.v. T́nh phụ-mẫu khác t́nh yêu giữa trai-gái, cũng khác t́nh yêu vợ-chồng. Hơn thế nữa, ư nghĩa của chữ T́nh Ái của nhân loại khác xa với ư nghĩa của sự yêu thương giữa loài cầm thú.

V́ ngôn ngữ nhân loại quá nghèo nàn khi cần phân biệt các sắc thái của Yêu Thương, nên danh từ này trở nên hàm hồ, hiểu lầm, lường gạt, lẫn lộn, đă gây đau khổ cho nhiều người. Chẳng hạn, khi một "chàng Sở Khanh" nhỏ nhẹ nói với một "nàng Kiều ngây thơ": Anh yêu em! Có thể nàng rất hí hửng, và tin như vậy! Nhưng khi em gặp “tai nạn”, th́ chàng đă cao bay xa chạy rồi, để mặc em một ḿnh mang bầu “tâm sự”, đau khổ! Như vậy, thử hỏi: Anh yêu em, hay Anh yêu anh? Nếu “Anh yêu em” thật, th́ phải lo t́m hạnh phúc cho em như chia sẻ, an ủi, khi em gặp khó khăn. Nhưng,“Anh yêu anh”, v́ anh đă đánh lừa được em: khi anh đă t́m thỏa măn nhục dục rồi, th́ vứt bỏ em đi như đồ phế thải! V́ ư nghĩa mập mờ, lường gạt của chữ Yêu Thương, nên các triết gia đă phân biệt ra làm hai loại T́nh Ái: một là “T́nh Ái vị kỉ” (Eros, Erotic là dâm dục=ham muốn vô độ), hai là “T́nh Ái vị tha” (Agape). T́nh Ái vị kỉ là chỉ nhằm thỏa măn khoái lạc, dục vọng của ḿnh, coi người khác là một đồ vật để lợi dụng. Trái lại, T́nh Ái vị tha là t́m hạnh phúc của người ḿnh yêu! Có khi hy sinh mạng sống, sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, miễn là người ḿnh yêu mến được an vui, như trường hợp cha mẹ ân cần, lo lắng, một cách vô vị lợi cho con cái!



Ta sẽ lần lượt bàn luận về quan niệm Nhân Ái trong Nho Giáo (Khổng-Lăo), và ư nghĩa của Từ Bi trong Phật Giáo. Sau đó, sẽ đề cập đến quan niệm Bác Ái trong Thiên Chúa Giáo. Để bổ túc cho nhau, ta sẽ t́m hiểu những đặc điểm của mỗi lư thuyết, rồi so sánh các quan điểm, cố gắng nêu lên những mối tương đồng, cũng như những khác biệt, cần san bằng để xích lại gần nhau.



NHÂN ÁI TRONG NHO GIÁO



Trong Nho Giáo (Khổng-Lăo), lư tưởng cao siêu của các vị hiền nhân quân tử, các vị thánh nhân là: Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, B́nh Thiên Hạ (đọc tắt: Tu, Tề, Trị, B́nh). Đây là một trật tự, một tiến tŕnh về Tu Đức, cần phải tuần tự bước đi từng bước một. Giai đoạn trước tiên phải làm là Tu Thân, tức sửa ḿnh, tập luyện các tính tốt, và sửa chữa các tính xấu. Nếu tự bản thân có đức hạnh, th́ mói có thể đem lại an vui hạnh phúc cho gia đ́nh, tức Tề Gia. Ḿnh không có, th́ lấy ǵ mà ban phát cho kẻ khác được! Chính bản thân bê bối, say sưa, đàng điếm, hút sách, th́ làm sao có thể dạy dỗ, nêu gương sáng cho con cái trong gia đ́nh được? Khi gia đ́nh được êm ấm, thuận ḥa, th́ dành thời giờ, tài năng góp phần xây dựng quốc gia, mở mang đất nước, tức Trị Quốc. Sau đó, hợp tác với các quốc gia trên thế giới xây dựng Ḥa B́nh cho nhân loại. Nhưng trước hết và trên hết vẫn là phải Tu Thân đă. V́ tầm quan trọng lớn lao, và cốt yếu của việc Tu Thân Tích Đức, nên người xưa có câu: “Từ vua tới dân, mọi người phải lấy việc Tu Thân (sửa ḿnh) làm gốc (Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ Tu Thân vi bản, (coi Sách Đại Học, tiết 6).



Hơn nữa, việc Tu Thân cần dầy công tập luyện mỗi ngày. Bởi vậy, phép Tu Thân đề ra năm Đức Hạnh thuờng xuyên phải thực hành hằng ngày, gọi là “Ngũ Thường”. Đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. NHÂN là ḷng yêu người. NGHĨA là ḷng ngay thẳng làm điều tốt, và tránh điều xấu. LỄ là theo đúng khuôn phép, kỷ luật. TRÍ là sự mở mang trí tuệ, là thông minh, khôn ngoan. TÍN là thật thà, tin cậy, tín nhiệm nhau.



Đối với Nho Giáo, trong năm Đức Hạnh, th́ NHÂN đứng đầu và là căn nguyên của các Đức Hạnh khác. Sau đây, ta sẽ bàn luận về: Đạo Nhân là ǵ? Đạo Nhân theo phái Tâm Học; Đạo Nhân liên hệ đến Ngũ Thường như thế nào? Mạnh Tử và Mặc Tử đối với Đạo Nhân' và Đạo Lăo đối với Đạo Nhân như thế nào?



ĐẠO NHÂN LÀ G̀?



Theo nghĩa thông dụng, nhân là người. Ở đây, chữ NHÂN trong "Đạo Nhân của Nho giáo", đồng âm nhưng dị nghĩa. Theo cách viết chữ nho “NHÂN”(        ) gồm chữ nhân (   ) là người, và chữ nhị (   ), là hai. Do đó, Yêu Thương được định nghĩa là mối t́nh trao đổi giữa hai người, hai nhân vị. T́nh Ái thật, không thể đơn phương, cô độc. Do đó, NHÂN, chính là mối tương quan giữa người với người. NHÂN làm nên bản tính của con người, v́ con người là con vật có xă hội tính, có liên hệ với người khác. Một người cư xử một cách “bất nhân”, là một kẻ cô độc, không c̣n mối giao hảo tốt đối với người chung quanh. Ăn ở “bất nhân”, biểu lộ sự tàn ác, phản bội, chối bỏ bản tính cố hữu của nhân loại. V́ thế, không c̣n là người nữa, v́ đă mất tính người! (105).



Do đó, “NHÂN” được định nghĩa là ḷng Nhân Ái (Yêu Nguời), là ḷng khoan dung, độ lượng, tha thứ. “NHÂN”, chính là “ĐỨC” của Trời-Đất tràn lan khắp vũ trụ. Vạn vật được sinh sôi nẩy nở, cỏ cây hoa lá sum sê, là do T́nh Thương vô biên của Vị Chúa Tể càn khôn ban cho. Cũng chính Đấng Thượng Đế đă phú bẩm “Đức Nhân Ái” vào bản tính của mỗi người chúng ta. (106).



Muốn thực thi ḷng Nhân Ái, th́ cần phải Trung thực, Trung thành với bản tâm, tức Lương Tâm của ḿnh: Đó là ư nghĩa của chữ “Trung” . Lại phải biết tôn trọng quyền lợi và sự công bằng đối với kẻ khác: chữ “Thứ” (107).



Đức Khổng Phu Tử đă dạy người đời: hăy lấy ḷng ḿnh làm mẩu mực kích thước để đo ḷng người. Do đó, Ngài đă đặt ra một khuôn vàng thước ngọc trong việc xử thế như sau: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều ǵ ḿnh không muốn, th́ cũng đừng làm (điều đó) cho kẻ khác). Hoặc nói một cách tích cực: Điều ǵ ḿnh muốn, th́ cũng hăy làm cho người ta. Nếu ḿnh không muốn người ta bỏ vạ, cáo gian cho ḿnh, th́ đừng bao giờ nói xấu, bội nhọ người khác. (108).



ĐẠO NHÂN gắn liền với bản tính con người, nên bất cứ ai cũng có thể luyện tập và thực hành ḷng Nhân Ái được. Đạo Nhân thuộc về nhân bản, nên càng làm sáng tỏ Đạo Nhân tiềm tàng trong con người, th́ nhân tính của ḿnh càng phát huy tốt đẹp. Đạo Nhân không phải là một ưu quyền dành cho một số người quí phái, giàu sang ra tay thi ân cho hạng tiểu nhân, nghèo khổ. Trái lại, đă là người, th́ bất cứ sang hèn, giầu nghèo, ai cũng có thể trở nên bậc Thánh Hiền được, nếu quyết tâm tu luyện Đạo Nhân.



Hơn nữa, Người có ḷng Nhân Ái, là người biết yêu thương đồng loại, và giúp đỡ tha nhân phát huy Đạo Nhân ở nơi họ. Vừa vun trồng Đạo Nhân ở nơi ḿnh, vừa hỗ trợ người khác tu luyện Đạo Nhân nơi họ, chính là cộng tác với Trời-Đất để hoàn thiện vũ trụ này càng thêm tốt đẹp! Do đó, nhờ thi hành Đạo Nhân, mà con người có thể hợp tác, phối kết với Trời: Đó là ư nghĩa của câu:” Thiên Nhân hợp nhất”, hoặc “Tam Tài” (Thiên Địa Nhân) Tuy “Trời”, hiểu theo nghĩa H́nh Nhi Thượng, là một Nguyên Lư Tuyệt Đối, là Thiên Chúa Siêu Việt, c̣n nhân loại là loài thụ tạo hữu hạn, nhưng có thể nói: ḷng Nhân Ái, hay T́nh Yêu Thương vị tha của con người, chính là nơi gặp gỡ, là điểm “hội tụ”(locus)giữa Đấng Vô Biên và loài tương đối, hữu hạn. (109).



Đạo Nhân đứng đầu các Đức tính khác trong Ngũ Thuờng: Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đều phát sinh từ Nhân. Bởi v́, NGHĨA là Nghĩa Vụ phải làm, v́ hợp với lẽ phải, hợp với Lương Tâm. Phải làm, v́ là điều chính đáng, chứ không phải v́ lợi lộc ǵ. Do đó, “Nghĩa” và “Lợi” là hai điều đối nghịch nhau. Nghĩa vụ mà mọi người phải làm một cách vô tư, vô vị lợi là ǵ? Chính là thực thi ḷng Yêu nguời một cách cụ thể. Mỗi người theo đúng nghĩa vụ riêng của ḿnh mà thực hành không thiên lệch, không thiếu sót, chính là thi hành Đạo Nhân. Như cha mẹ thi hành đúng nghĩa vụ của bậc cha mẹ: đó là yêu thương và nuôi dưỡng con cái. Con cái thi hành đúng bổn phận làm con: đó là yêu mến, thảo hiếu đối với cha mẹ. “LỄ” là ǵ? Chữ “Lễ”, nghĩa là là Lễ Phép, là cách thức tiếp nhân xử thế cho đúng với thuần phong mỹ tục. “Lễ” liên quan mật thiết với lễ nghi tôn giáo, tế tự Thần Thánh (Lễ Giáo). Nhờ chấp hành nghiêm chỉnh và một cách kính cẩn các lễ nghi phụng tự, và chân thành tuân giữ các lễ phép trong cách xă giao, mà nhân cách con người đuợc thanh cao, nhă nhặn, do đó, ḷng Nhân Ái có cơ hội phát huy, tốt đẹp.



ĐẠO NHÂN THEO PHÁI TÂM HỌC,VÀ PHÁI LƯ HỌC



Theo Lịch Sử Triết Học Trung Hoa, Đạo Nhân Ái của Đức Khổng Phu Tử được khai triển theo chiều hướng siêu h́nh và thần bí hơn, do trào lưu triết lư của phái Tâm Học của Lục Cửu Uyên (1139-1193) và Vương Thủ Nhân, tức Vương Dương Minh (1472-1528). Lư tưởng cao siêu của một vị hiền nhân quân tử luôn vẫn là: “Thiên Nhân Hợp Nhất”. Nhưng làm thế nào để phối kết với Trời? Vương Dương Minh đă căn cứ vào câu trong sách Đại Học để t́m ra điểm “hội tụ” (locus) giữa hữu hạn (người) và Đấng Vô Biên: “Đại Học chi Đạo, tại minh Minh Đức, tại Thân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện” (Sách Đại Học, tiết 1). Vương Dương Minh quảng diễn câu trên như sau: Đường lối của Sách Đại Học dạy ta phải làm “ba cương lĩnh” là: phải làm sáng Đức Sáng (minh Minh Đức), phải yêu người (Thân Dân), và dừng lại nơi tốt nhất (Chí Thiện).



a) Tại minh Minh Đức. “Đức Sáng” (Minh Đức), chính là Lương Năng, Lương Tri, Lương Tâm trong sáng, nguyên tuyền của bản thể nhân loại. Đức Sáng này khiến ta phân biệt được Thiện-Ác. Thiện th́ theo, Ác th́ tránh xa. Do đó, Minh Đức có thể sánh ví như một “viên ngọc”, nhưng đă bị mờ ám v́ bùn đất bám vào. “Bùn đất” đây là các mối t́nh vị kỷ, tư dục đă che khuất trí Lương Năng. Vậy công phu tu luyện là khử trừ các t́nh tư dục, tham lam, vị kỷ…, để cho Lương Tâm sáng chói như thuở ban sơ.



b) Tại Thân Dân. T́nh tư dục, tính vị kỷ đă ngăn cách, che khuất, khiến người ta không thể hợp nhất với người khác được. Vậy chỉ có một cách để đạt tới sự phối kết với Trời là “Thân Dân” (Yêu tha nhân). “Minh Đức” được sáng chói cũng là nhờ Đức Nhân Ái (yêu người).



c) Tại chỉ ư Chí Thiện. Sự Thiện Tuyệt Hảo là ǵ? Chính là “Minh Đức” được sáng chói, là ḷng “Nhân Ái” bao la, thương yêu mọi người. Đó là mẫu mực cao thượng nhất mà mọi người, mọi vật phải tuân theo để trở nên bậc Thiện Toàn. Nếu c̣n một chút vẩn đục nào của t́nh tư dục, của óc bon chen hẹp ḥi pha trộn vào, th́ sẽ khiến sự Thiện Tuyệt Hảo đó lu mờ đi. (110).



Các nhà Nho thích dùng câu truyện “đứa trẻ nhỏ sắp sửa rơi xuống giếng”, để làm tỷ dụ minh chứng Đức Nhân Ái vẫn tiềm tàng trong Lương Tâm, Lương Tri mỗi người. Bởi v́, bất cứ ai, bất chợt nh́n thấy một đứa bé đang lăm le chạy tới bờ giếng sâu, liền hoảng hốt lập tức chạy tới kéo nó lại! Đó là phản ứng tự nhiên bộc phát của trí Lương Năng biết phân biệt: điều “Phải”, phải làm, điều “Trái”, phải tránh. Đó cũng là do ḷng Nhân Ái, t́nh liên đới bao quát mọi loài trong trời đất. Giết hại một bào thai, hay hành hạ một con vật, một cách dă man, vô cớ, cũng đều làm ta thương xót! Nhưng điều quan trọng là ta phải hành động cấp kỳ, không do dự, tính toán, tŕ hoăn. Phải hành động ngay, một cách tự nhiên, vô vị lợi, theo tiếng Lương Tâm thúc bách. Nếu ta ngập ngừng suy tính thiệt hơn, th́ sẽ bị t́nh tư dục, vị kỷ sai khiến và làm sai lạc trí Luơng Năng. Chẳng hạn, nếu ta dừng lại, suy nghĩ xem đứa bé đó là con nhà ai, nó có phải là cháu ta, hay nó là con nhà hàng xóm, thù ghét ta, rồi lúc đó ta mới chạy lại cứu nó hay là không cứu nó. Những hành vi do óc tính toán đều là vị lợi, vị kỷ mà thôi! Cứu nó để được khen thưởng, v́ chỗ thân t́nh, hay không cứu nó để trả thù, v́ là con hàng xóm ghét ta, cả hai thái độ đó đều không thích hợp với Đạo Nhân Ái!



Theo nhà Lư Học Chu Hi (1130-1200), Ngũ Thường, tức là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, thuộc về phần “LƯ”, thuộc bản tính nhân loại. Như đă phân tích ở đoạn trên về bản tính nhân loại, Chu Hi cho rằng: phần “LƯ” bao giờ cũng Tốt, tức là ḷng thương người' nếu có điều ǵ Xấu trong con người, là do “KHÍ” mà ra. Như vậy, Chu Hi đă giải thích rơ ràng hơn Mạnh Tử về bản tính nhân loại. Khi Mạnh Tử nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, là mới nói về phần “LƯ” của bản tính đó, nhưng chưa đả động đến phần “KHÍ”, tức là phần bản tính đó bị “ô nhiễm” bởi tính hư tật xấu. Chu Hi đă nhận định về bản tính con người đầy đủ hơn Mạnh Tử.



Nói tóm lại, theo các nhà Tâm Học và Lư Học, Đạo Nhân giữ một địa vị nồng cốt trong Nho Giáo, v́ bao gồm mọi lănh vực của thực tại như luân lư, siêu h́nh, và vũ trụ quan. Chẳng hạn, Đạo Nhân đề cập đến mối t́nh vị tha giữa người với người. Đạo Nhân dạy về mối liên hệ giữa nguời và vũ trụ (môi sinh). Ngoài ra, Đạo Nhân đề cập đến sự Sống của Vũ Trụ, của Thực Tại làm nên Vũ Trụ như ta thấy. Do đó,”NHÂN” là “LƯ”, là “THÁI CỰC”, là “TÂM” của Vũ Trụ, và là CHÂN NGĂ (True Self). “NHÂN” luôn là định nghĩa của yếu tính của con người chính thật (true man).



MẠNH TỬ VÀ MẶC TỬ ĐỐI VỚI ĐẠO NHÂN



Theo Mạnh Tử (372-289, trước Chúa Cứu Thế), con người sinh ra được phú bẩm bốn điều thiện hảo sơ thủy: biết thuơng xót, biết hổ thẹn, biết khiêm nhường, biết điều phải/trái. Ḷng thương xót là đầu mối của đức Nhân; ḷng hổ thẹn là đầu mối của đức Nghĩa; ḷng khiêm nhượng là đầu mối của đức Lễ; ḷng phải/trái là đầu mối của đức Trí (Mạnh Tử IIa, 6). Trong bản tính nguyên thủy của con người, đă tiềm tàng “bốn đầu mối” (tứ đoan), và nếu khéo phát triển, vun trồng, th́ sẽ nẩy nở thành “tứ Đức” là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Do đó, Mạnh Tử đă quả quyết: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nhờ những đức tính thiên bẩm, căn bản đó mà con người được cao quí hơn loài cầm thú. Mạnh Tử cũng nói: Người có đức Nhân th́ yêu thương người khác (Mạnh Tử IVb, 28).



Mạnh Tử gán cho ḿnh trách vụ phải chống lại học thuyết của Dương Chu (Lăo Giáo), và học thuyết” KIÊM ÁI”của Mặc Tử (479-381, truớc Chúa Cứu Thế). Theo Mặc Tử, Nhân Nghĩa phải hiểu là: Yêu thương hết mọi người như nhau và bằng nhau, không phân biệt người gần, người xa (thân/sơ). Đức Nhân phát xuất do ḷng hào hiệp vị tha phải bao bọc, “kiêm nhiệm” mọi người thân sơ. V́ theo Mặc Tử, “KIÊM ÁI” là yêu bạn cũng như yêu ḿnh, yêu cha mẹ bạn cũng như cha mẹ ḿnh, không có phân biệt. Nếu mỗi người coi tha nhân như chính ḿnh, nếu mỗi nhà, mỗi nước coi nhà khác, nuớc khác như nhà ḿnh, nước ḿnh th́ làm ǵ c̣n tranh giành, thù hận? Mặc Tử cho quan niệm “Kiêm Ái” của Ông là do Thiên Ư muốn, và đă được các vị hiền nhân quân tử thực hành. Nếu đem áp dụng một cách triệt để, chủ trương Kiêm Ái sẽ tạo an vui, hạnh phúc cho dân nước. (111).



Mạnh Tử đă công kích học thuyết của Dương Chu (Lăo giáo), và lư thuyết Kiêm Ái của Mặc Tử. Mạnh Tử nói: Họ Dương vị ngă, ấy là không vua. Họ Mặc Kiêm Ái, ấy là không cha. Không cha, không vua, ấy là cầm thú. Đó là tà thuyết lừa dối dân, làm bế tắc Nhân Nghĩa (Mạnh Tử IIIb, 9).



Sự khác biệt giữa Nho gia và Mặc gia hệ tại chỗ nào? Nho gia chủ trương thuơng người có “thứ bậc”, thân sơ, c̣n Mặc gia th́ không phân chia thứ bậc hay gần xa. Theo Mạnh Tử, yêu thương người thân thiết trong gia đ́nh, họ hàng bà con “trước” người ngoài: đó là t́nh tự nhiên, không có ǵ đáng trách cả! Nên lấy cách cách đối đăi yêu thương trong gia đ́nh làm mẫu mực cho t́nh yêu thương đối với người ngoài, xa lạ. Nên nới rộng ḷng thương người thân trong gia đ́nh cho nó bao trùm cả người ngoài nữa: đó là thi hành ḷng “Trung” và “Thứ” mà Đức Khổng Tử vẫn chủ trương, tức cũng như thi hành Đạo Nhân. Săn sóc người già của ta cho tới người già của người khác. Thương yêu trẻ con của ta cho tới trẻ con hàng xóm (Mạnh Tử Ia, 7). (112)



Một điểm khác biệt nữa giữa Nho gia và Mặc gia, là câu hỏi: Tại sao ta nên thực hành Đạo Nhân Nghĩa? Mặc gia đă trả lời như sau: Ta phải thực hành Nhân Nghĩa, v́ đó là do Thiên Ư, và v́ ích lợi chính trị cho xă hội (utilitarianism). Ai không thương hết mọi người như nhau, và bằng nhau sẽ bị “Trời”, và nhà cầm quyền trừng phạt! Trái lại, Nho gia chủ trương: ta phải thi hành đạo Nhân Nghĩa, v́ là điều do bản tính tự nhiên của con người đ̣i hỏi như vậy!


(c̣n tiếp...)









Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 2 of 5: Đă gửi: 23 April 2006 lúc 12:37am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


ĐẠO HỌC (LĂO GIÁO) ĐỐI VỚI ĐẠO NHÂN



Trong khi Nho giáo chủ trương “nhập thế”, th́ Lăo giáo lại chủ trương “xuất thế”. Do đó, Lăo tử, Dương Chu, Trang tử, và các mộn đệ (đạo gia) công kích đạo Nhân, và Ngũ Luân, Ngũ Thường của Nho gia. Theo trào lưu triết học Trung Hoa, th́ các đạo gia chủ tŕ một lối sống huyền bí noi theo sự vận hành của Nguyên Lư Siêu Việt của vũ trụ, mà họ “tạm” gọi là ĐẠO. Bởi vậy, lư tưởng thần bí của một đạo gia là cố gắng sống ḥa hợp, hợp nhất với “Đạo”! V́ Đạo là Nguyên Uỷ phát sinh vạn vật, nên hợp nhất với Đạo là kết hợp với mọi người, mọi vật trong trời đất. (113).



1. “Xuất Thế”: Nếp Sống Phóng Khoáng Tự Do



Các đạo gia suy tư và chiêm niệm về Đạo của Trời Đất, và thấy Đạo lúc nào cũng giữ một mực TRUNG- H̉A, nghĩa là không thái quá, không bất cập. Đạo luôn vận hành một cách cân đối và quân b́nh. V́ muốn “hợp nhất với Đạo”, và thụ hưởng tự do cá nhân, và phóng khoáng, không bị ràng buộc vào bất cứ một thể chế luật lệ nào do xă hội đặt ra, nên các đạo gia đă tự tạo cho ḿnh một nếp sống ẩn dật, xa lánh nơi phồn hoa đô thị náo nhiệt.



Về phương diện thể xác, các đạo gia đă t́m cách bảo vệ sức khoẻ, dinh dưỡng theo thiên nhiên để được khoẻ mạnh sống lâu. Việc t́m kiếm các vị thuốc bổ, các thảo mộc, luyện các loại kim, là những phát minh đầu tiên của nền khoa học vật lư và y khoa của Trung Quốc. Về phương diên Tu Thân, các đạo gia cố gắng rập theo khuôn mẫu của sự vận hành của Nguyên Lư Đạo, lúc nào cũng Quân B́nh, Trung Ḥa. Những đức tính như: vô vi, hồn nhiên, giản dị, đơn sơ, chất phác, khiêm nhu, thanh bần, tiết dục, quả dục…, rất được các đạo gia công phu tu luyện.



VÔ VI, không có nghĩa là làm biếng, không làm ǵ hết, nhưng là làm vừa phải, đúng mức, v́ làm quá, sẽ có hại! VÔ VI, cũng có nghĩa là làm một cách tự nhiên, vui vẻ, không bị ép buộc, miễn cưỡng. Các đạo gia ca tụng đời sống của con trẻ, v́ chúng đơn sơ, hồn nhiên, chất phác, không kiểu cách giả tạo.



KHIÊM NHU, là đức tính cao quí nhất v́ hợp với đường lối Trung Ḥa, quân b́nh của Đạo. Do đó, KIÊU NGẠO là tội ác lớn nhất, v́ là thái độ cực đoan, thiếu quân b́nh, thiếu điều ḥa.



THANH BẦN, là tâm hồn trống rỗng, thảnh thơi, không bị dục vọng quấy động. V́ không ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền, nên các đạo gia hành động một cách vô vị lợi. Lăo Tử chủ trương: người ta phải biết kiềm chế dục vọng, v́ t́m cách thỏa măn ḷng ham muốn, khiến con người càng bận tâm lo âu. Ham hiểu biết nhiều, th́ ra công t́m kiếm, không bao giờ cảm thấy thỏa trí được. Do đó, càng đặt ra các luật lệ, th́ càng làm cho con người mất tự do, cuộc đời thiếu tự nhiên, và thêm phiền toái.



Để tâm trí hoàn toàn trống rỗng, thanh thản, các đạo gia đề xướng ra phép tu thân, gọi là “Tọa Vong”, và “Tâm Trai”. Tọa vong là ngồi suy niệm để tâm tâm trí quên hết mọi sự mọi vật mọi người ở trên đời và ngay ở trong tâm trí ḿnh. “Tâm trai” (chay ḷng) là để ḷng “chay tịnh”, không c̣n vương vấn ǵ cả. Do đó, tâm thần hoàn toàn trống không, thanh tịnh, không c̣n phân biệt cái “tôi” và cái “không-phải-tôi”, nghĩa là vượt lên mọi tốt-xấu, đẹp-không đẹp... Đấy chỉ là những cặp tương đối, không phải là sự thật Tuyệt Đối. Sự Thật Siêu Việt, chính là sự hợp nhất với Đạo, v́ mọi vật, mọi loài, dầu khác nhau, nhưng đều bởi Đạo mà sinh ra, và đều hợp nhất với nhau.



2. Công Kích Ngũ Thường, Đạo Nhân Của Nho Giáo



V́ chủ trương một đường lối Tu Thân đặc biệt, là hoàn toàn tự do, và “xuất thế”, nên các đạo gia đă chống lại cách tu thân của nho gia, đặt nền tảng trên Ngũ Thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín(114).



Người có cuộc sống cao siêu, hợp nhất với “ĐẠO” và “ĐỨC” của Trời Đất th́ vượt ra ngoài ṿng Tương Đối như phân biệt: Thiện-Ác, Đẹp -Xấu, v.v. Lăo Tử viết: “Nếu thiên hạ đều biết là đẹp, ấy là có xấu. Thiên hạ biết thiện là thiện, ấy là có bất thiện (ch.2). V́ vậy, Lăo Tử khinh bỉ Ngũ Thường của nho gia, và Đạo Nhân. Theo Lăo Tử, những đức tính ấy chỉ là suy đồi của “Đạo”và “Đức”. Lăo Tử viết: Mất Đạo mới có Đức. Mất Đức mới có Nhân. Mất Nhân mới có Nghĩa. Mất Nghĩa mới có Lễ. Lễ là suy đồi của Trung Tín, bước đầu của rối loạn (Ch.38). (115).



Đôi khi các đạo gia đă cắt nghĩa những lời giảng dạy của Khổng Tử theo quan điểm thần bí của họ. Chẳng hạn, Trang Tử đă tưởng tượng ra một cuộc “đối thoại giả tưởng” giữa Đức Khổng và đệ tử thân tín của Ngài là Nhan Hồi. Một hôm, Nhan Hồi thưa với Đức Khổng rằng: “ Hồi đă tiến” (về mặt tu thân). Đức Khổng hỏi lại: “Thế nghĩa là ǵ?” Hồi trả lời: “Hồi quên Nhân Nghĩa”. Đức Khổng nói tiếp: “Khá đấy, nhưng c̣n chưa đủ”. Ngày khác, Nhan Hồi lại đến gặp Đức Khổng và thưa: “Hồi đă tiến”. Đức Khổng hỏi lại: “Thế nghĩa là ǵ? Hồi thưa: “Hồi quên Lễ Nhạc”. Đức Khổng nói: “Khá đấy, nhưng c̣n chưa đủ”. Một ngày khác nữa, Nhan Hồi lại đến gặp Đức Khổng và thưa: “Hồi đă tiến”. Đức Khổng hỏi: “Thế nghĩa là ǵ? Hồi thưa: “Hồi ngồi quên”. Đức Khổng biến sắc mặt, hỏi: “Thế nào là ngồi quên?” Nhan Hồi thưa: “Chi thể bất động, tâm trí lu mờ, buông thân thể, cất thông minh. Trở nên hợp nhất với Vô Biên. Đó là “ngồi quên””. Đức Khổng nói: “Trở nên một với Vô Biên (Thái Cực, Đạo), nên không c̣n thích hay không-thích. Trở thành một với “Đại Thông” (Biến Hóa), nên chỉ thuận theo sự biến dịch, vận chuyển của vũ trụ. Nếu đă thực hiện được những điều đó, Khâu (tên tục Đức Khổng) đây, cũng xin theo gót”(116).



TOÁT LƯỢC MẤY ĐẶC ĐIỂM



1. Đối với Nho Giáo, việc Tu Thân rất quan trọng. Trong việc Tu Đức, cần tuân giữ Ngũ Thường, là năm đức hạnh luân lư tự nhiên: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.



2. Trong Ngũ Thường, th́ “NHÂN”, tức Đạo Nhân là đứng đầu, và là nguồn gốc sinh ra các đức tính khác.



3. “NHÂN”, là Nhân Ái, là Yêu Người. Đức Nhân làm nên bản tính của con người. Do đó, ăn ở “bất nhân”, là độc ác, là trái với bản tính tự nhiên của loài người. Đức Nhân làm nên mối liên hệ, tương quan giữa người với người. Do đó, lấy “ḷng ḿnh” mà đo “ḷng người”: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân(117).



4. Theo nghĩa triết lư, siêu h́nh của phái Tâm Học và Lư Học, th́ “Nhân” là “Đức” của Trời Đất tràn lan khắp vũ trụ. “Nhân” là sự Sống, là T́nh Thương, là “Lư”, là “Thái Cực” của vũ trụ. Nhờ “Nhân” mà con người có thể phối kết với Trời: “Thiên Nhân Hợp Nhất”. Theo Vương Dương Minh, nhờ “Thân Dân”, tức ḷng Nhân Ái, mà làm cho “Minh Đức”, tức Luơng Tâm được sáng chói, không bị t́nh tư dục làm mờ ám đi(118).



5. Mặc Tử chủ trương “KIÊM ÁI”, nghĩa là yêu thương hết mọi người như nhau và hoàn toàn bằng nhau, không phân biệt gần xa, thân sơ, người trong gia đ́nh, họ hàng hay người ngoài. Trái lại, theo Nho gia, đặc biệt theo Mạnh Tử, th́ t́nh yêu thương có thứ bậc, nghĩa là yêu nguời trong nhà trước yêu người ngoài. Đó là sự tự nhiên, theo bản tính con người, nên không có ǵ sai quấy, đáng trách cả.



6. Lăo Giáo hay Đạo Giáo chủ trương “xuất thế”, cá nhân hoàn toàn tự do không bị ràng buộc bởi bất cứ lề luật luân lư hay luật lệ. Do đó, các đạo gia chống lại Lễ Giáo, Ngũ Thường của Nho giáo, mà họ cho là “nhân tạo”, không do thiên nhiên. Lăo giáo thích trở về đời sống tự nhiên và thoát tục để chiêm niệm Nguyên Lư của vũ trụ, gọi là “Đạo”. Các đạo gia thích tu luyện những đức tính như: Trung Ḥa, Quân B́nh, Khiêm Nhu, Thanh Bần, Đơn Sơ, Vô Vi, Tiết Dục, v.v. (119).

(c̣n tiếp...)
Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 3 of 5: Đă gửi: 23 April 2006 lúc 12:41am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


TỪ BI TRONG PHẬT GIÁO



Chủ đích của Đức Thích Ca Mâu Ni là t́m một con đường giải thoát cho nhân loại đang trầm luân trong bể khổ, ở đời sống hiện tại. V́ thế, khi c̣n sinh thời, Ngài thường sánh ví ḿnh như một lương y, t́m cách cấp cứu một bệnh nhân đang đau đớn, quần quại rên la. Ngài không muốn suy luận xa xôi, nhưng t́m ngay phương thế thực tiễn, t́m thuốc hiệu nghiệm, để cứu bệnh nhân trong cuộc sống hiện tại. Do đó, nền tu đức của Phật giáo xây trên kinh nghiệm sống hiện tại, mang tính chất thực tiễn, không suy luận trừu tượng. Điều mà mọi người thấy trước mắt là: Đời là Khổ. Cho nên, vấn đề cấp bách là làm sao diệt được Khổ! Đức Phật thích dùng ví dụ sau đây để giải nghĩa lập trường: Khi ta thấy một người bị trúng mũi tên độc vào cạnh suờn, th́ phải t́m cách thức rút mũi tên ấy ra liền, không mất thời giờ suy luận dài ḍng, hoặc t́m giải đáp những câu hỏi xa xôi như: ai làm ra mũi tên độc? ai đă bắn mũi tên ấy? mũi tên từ đâu tới? (120).



Sau đây, ta thử t́m hiểu một cách trung thực về mấy quan điểm như: Nền Luân Lư, và phuơng pháp Tu Hành của Phật Giáo là ǵ? Nhân đức Từ Bi là ǵ? Ai là Hiện Thân của đức Từ Bi? Thế nào là Tâm-B́nh-Đẳng (Upekkha), “Bố Thí Ba-la-mật” là ǵ?



LUÂN LƯ VÀ TU ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO



Luân Lư Phật Giáo dựa trên kinh nghiệm sống hiện tại, nên mang tính chất thực tiễn, và gần với luật luân lư tự nhiên của con người. Đă là người có Lương Tâm, Luơng Tri, ai lại chẳng động ḷng thương xót trước những cảnh khổ đau, ai lại chẳng gớm ghét cảnh giết chóc, thù hận. V́ thế, “Ngũ Giới” trong Luân Lư Phật Giáo dễ được chấp nhận. Ngũ Giới được diễn giảng dưới h́nh thức tiêu cực, ngăn cấm như:





Cấm sát sinh: cấm giết hại người và vật cách vô cớ



Cấm đạo tặc: tham lam bất chính



Cấm tà dâm: chiếm đoạt t́nh yêu của kẻ khác



Cấm vọng ngữ: xuyên tạc, vu khống, dối tra



Cấm tửu: những thứ kích thích loạn tâm, loạn trí(121).



Cũng phải tránh “tam độc”, là ba thứ thuốc độc làm ung thối bản tính tốt của con người. Ba thứ độc đó là: THAM, là ḷng tham lam vô độ. SÂN, là sự thù ghét. SI, là ngu si dốt nát, đần độn. Trong thập nhị nhân duyên, tức mười hai duyên cớ nối nhau để phát sinh đau khổ, th́ “SI”, tức ngu si, ngu muội, cũng gọi là “ngộ” (sai lầm), là Vô Minh, đứng đầu phát sinh mọi cơ duyên khác. Do đó, căn bản trong phương pháp tu hành của Phật giáo là “phá ngu”, hay “giác ngộ” (ngộ= hiểu biết), nghĩa là nhờ sự suy niệm lâu giờ, lâu ngày mà hiểu biết được cái chân tính, cái bản ngă thật (Chân Ngă) của con người (122).



Muốn được giác ngộ để t́m ra chân tính của ḿnh, người phật tử cần cố công tự ḿnh tu luyện, để tự cứu lấy ḿnh, v́ không ai ban ơn giáng phúc, hay cứu vớt thay ḿnh được. Bởi đó, tôn chỉ trong việc tu thân, tu đức được các bậc thánh nhân La Hán (Arhat), thuộc phái Tiểu Thừa (Hina-yana) tuân theo là Tự Độ, Tự Giác: tự ḿnh cứu độ lấy ḿnh, tự ḿnh hiểu biết chân tính để đem lại lợi ích cho ḿnh! Ngày nay, trong các tu viện của phái Theravada (Tiểu Thừa), vẫn c̣n tập luyện theo cách tu “Tự Giác”. Các tu sĩ tuân theo kỷ luật rất khắc khe, khắc khổ, chuyên chú niệm kinh để diệt dục, mong tự thoát khỏi ṿng luân hồi nghiệp báo.



Trong cách tu hành tu đức của Phật Giáo, c̣n có phái Đại Thừa (Maha-yana) chủ trương: “Tự Giác nhi Giác Tha”: tự ḿnh cứu độ lấy ḿnh nhưng cũng phải cứu độ, giác ngộ người khác nữa! Làm ích cho ḿnh chưa đủ, c̣n phải ra tay giúp đỡ kẻ khác. Bởi vậy, các thánh nhân trong giáo phái này gọi là Bồ Tát (Bodhisattva), sau khi đă được giác ngộ rồi, nhưng chưa nhập Niết Bàn, mà c̣n ở lại để “phổ độ chúng sinh”. Các vị Bồ Tát không muốn hưởng lợi ích riêng cho ḿnh, nhưng c̣n muốn giúp ích cho đời nữa! Do đó, lư tưởng của các Bồ Tát là đạt tới sự thánh thiện toàn hảo bằng cách thực hành đức TỪ BI (Thí Xả)



Nên nhớ rằng: hai giáo phái Tiểu Thừa và Đại Thừa vẫn đồng một quan điểm với nhau về quan niệm Cứu Độ, nghĩa là: Tự Độ (Self-Salvation), tự ḿnh cứu lấy ḿnh, kể cả Đức Phật cũng không thể ban ơn ǵ cho ḿnh được! Đức Phật và các vị LaHán, Bồ Tát chỉ có thể khuyên bảo, làm gương sáng cho ḿnh bắt chước mà thôi! Nhưng phân biệt Tiểu Thừa, v́ phái này chỉ chuyên lo về việc tu thân cho chính ḿnh trong các tu viện, c̣n phái Đại Thừa, chẳng những “tự giác” cho ḿnh, c̣n lo “giác tha”, tức giảng đạo cho người khác nữa!



ĐỨC TỪ BI LÀ G̀?



Danh từ TỪ BI diễn tả hai ư niệm: một là Maitri, Maitrey (sanscrit) hay Metta (pali), nghĩa là ḷng tốt, tử tế trong cách đối đăi với tha nhân; ư niệm thứ hai là Karuna, nghĩa là ḷng thương xót, thương hại v́ nh́n thấy sự đau khổ của nhân loại. Quan niệm Từ Bi c̣n bao hàm một nghĩa thứ ba nữa là Dana, nghĩa là bố thí, “thí xả”, giúp đỡ người đau khổ. Làm phước, Bố thí là kết quả của ḷng Từ Bi mà ra(123).



Đức Từ Bi là một đức đứng đầu các đức tính khác, là nền tảng, và tinh hoa của Phật Giáo, dầu theo phái Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Do đó, muốn tŕnh bày cho thấu triệt ư niệm của Phật Giáo về “Đại Từ Bi, Năng Hỉ Xả”, th́ cần có mối Hảo Tâm (metta=maitri), tức t́nh yêu thương đối với muôn loài muôn vật, nhân loại cũng như loài cầm thú. Lại cần có ḷng thương xót, Trắc Ẩn (karuna) đối với những cảnh ngộ đau thương do luật Nhân-Quả gây ra, rồi ḷng độ luợng ra tay giúp đỡ, bố thí (dana) thật sự. Ngoài ra, người phật tử c̣n phải thực hành đức thiện cảm, biết chia vui sẻ buồn với tha nhân (mudita), không giả h́nh, không ganh ty. Đức Từ Bi là một phương cách dẫn tới cứu độ, cho nên, theo tương truyền, trước khi nhập Niết Bàn, chính Đức Phật đă căn dặn, và truyền lệnh cho các đệ tử tuân giữ và thi hành (124).



CÁC VỊ THẦN HIỆN THÂN CỦA ĐỨC TỪ BI



Như đă nhận định ở trên, trong Chuơng nói về Cứu Độ, theo lịch sử Phật Giáo, Đức Phật Thích Ca, không tự nhận ḿnh là vị thần thánh có quyền phép thi ơn giáng phúc, nhưng là vị “lương y” về tâm thần, đă t́m ra thần dược để chữa bịnh “Đau Khổ” cho nhân loại! Nhưng v́ Ngài giầu ḷng quảng đại từ bi, suốt đời muốn ra tay cứu độ chúng sinh, nên sau khi nhập diệt, các phật tử, đặc biệt trong giới b́nh dân, v́ ḷng ái mộ, đă tôn kính Ngài như một vị Thần, có quyền thế.



a. Phật ADIĐA (AMITABHA)



Phái “Tịnh Độ Tông” đă đáp ứng lại nguyện vọng của giới phật tử b́nh dân. Theo giáo phái này, cần niệm: “Nam Mô A-Di-Đà Phật” hoặc lẩm bẩm bằng môi, hoặc “lần tràng hạt” là có thể được Đức Phật, hiện thân của Đức Từ Bi, ban ơn giáng phúc cho. Những phật tử mộ đạo cũng thường chào nhau bằng câu vắn tắt như: “Mô Phật”, để tỏ ḷng hợp nhất với nhau trong sự hộ phù của Phật A-Di-ĐÀ(125).




b. Quan Thế Âm Bồ Tát



Trên bàn thờ Phật tại các chùa ở Việt Nam, ta thấy tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đứng một bên, Đại Thế Chế Bồ Tát bên kia, và Đức Phật A-Di-Đà đứng ở giữa. Quan Thế Âm Bồ Tát được biểu tượng bằng chân dung của một phụ nữ, gọi tắt là “Phật Bà Quan Âm”. Vị Bồ Tát này, hiện thân cho Đức Từ Bi, đặc biệt ra tay cứu giúp các bà hiếm muộn. Phật Bà Quan Âm được mô tả đang chèo thuyền để đưa chúng sinh qua “bờ bên kia” (dịch chữ “đáo bỉ ngạn” = Ba-La-Mật = Paramita), mong được giải thoát và được hạnh phúc(126).



BỐ THÍ BA-LA-MẬT LÀ G̀?



Như ta đă thấy trước đây, giáo lư của Phật Thích Ca chỉ nhằm vào mục tiêu duy nhất là “Diệt Khổ”, đem lại sự yên lặng, hạnh phúc cho tâm hồn được giải thoát. Ngoài ra, Ngài đều cho là phù phiếm, vô ích cả, ngay những tranh luận siêu h́nh về Chân Lư mà các nhà trí thức đương thời ưa thích nhất”(127).



a. Tâm-B́nh-Đẳng là ǵ?



Theo lịch sử của Phật Giáo, sau khi Phật đă nhập diệt rồi, giáo thuyết của Đức Phật được giải thích khác nhau, và chia thành rất nhiều tông phái. Vả lại, các tông phái được tự do diễn giảng, làm sao cho hợp với hoàn cảnh, với tŕnh độ trí thức và sự hiểu biết của các tín đồ, không cần noi theo một tín điều nào. Ngoài sự phân chia ra Tiểu Thừa và Đại Thừa, ta c̣n thấy trong Đại Thừa cũng có hai phái chính là “Quyền Đại Thừa” chủ trương vạn sự vạn vật đều do Tâm mà có, ngoài Tâm ra, không có ǵ cả. Phái này cũng gọi là Tâm Tông, hay Bắc Tông do thiền sư Đạo Sinh, và Thần Tú sáng lập (chết 706) “Thực Đại Thừa”, cũng gọi là Không Tông, hay Nam Tông do Tăng Triệu và Huệ Năng chủ truơng: “Phi Hữu Phi Không, Diệc Hữu Diệc Không” (chẳng “có”, chẳng “không”, mà cũng “có”, cũng “không”). Do dó, Tiểu Thừa chủ trương “Chấp Hữu”, nghĩa là cho vạn sự vạn vật là “thật có”. “Quyền Đại Thừa” (Bắc Tông), chủ trương “Chấp Không”, nghĩa là ngoài “Tâm” ra, vạn vật “không có” ǵ cả; nhưng “Thực Đại Thừa”, th́ lại cho rằng: vừa “có”, lại vừa “không”, nghĩa là không phân biệt “Có-Không”, Thiện-Ác: coi vạn sự vạn vật đều hoàn toàn B́nh Đẳng như nhau: đó gọi là thực hiện được “Tâm-B́nh-Đẳng” (Upekkha), cũng gọi là “Tâm-Vô-Sai-Biệt”. Trái lại, nếu phân chia có Ta có Người, có Thiện, có Ác, có Sống, có Chết, có Phiền năo, có Bồ Đề, có Luân Hồi, có Niết Bàn..., là có Tâm-Sai-Biệt.



“...Tiểu Thừa tuy nhận vạn tượng là Sai Biệt mà chưa biết đến chỗ B́nh Đẳng của Bản Thể. Quyền Đại Thừa th́ tuy phá được chỗ sai biệt của vạn tượng và biết đến chỗ B́nh Đẳng của Bản Thể, nhưng chưa rơ đến chỗ Trung Đạo của Thực Đại Thừa: Bản Thể=Hiện Tượng; Hiện Tượng=Bản Thể; Sinh tử=Niết bàn; Niết Bàn=Sinh Tử…, Phiền Năo tức Bồ Đề”. (128).



Theo đại chúng phật tử, muốn thực hành đức Từ Bi, th́ cần tuân giữ ba đức hạnh như đă kể trên là: Metta, Karuna, và Mudita. Nhưng theo phái thiền sư Không Tông (Nam Tông), th́ bậc cao siêu nhất của T́nh Thuơng là “Tâm-B́nh-Đẳng. Theo họ, các vị Bồ Tát, các bậc Đại Giác đều giữ thái độ thản nhiên, vô tư, không phân biệt Thiện/Ác, khen/chê, thương/ ghét, lợi/hại, sống/chết, hoặc là Ta/Người (khác), không phân biệt chúng sinh và “Phật” (nói chung về người đă được giác ngộ), không có “Mê” và “Ngộ”, không có phiền năo và Bồ đề (tượng trưng cho sự im lặng, an vui).



“Bởi Vô Minh, nên nhận lầm có “Nhân” có “Ngă”, mới có Thiện, có Ác,có lợi, có hại. Trái lại, nếu nhận rơ tất cả là Một, Ta là Người, th́ vấn đề Lợi/Hại, Thiện/Ác sẽ không c̣n nữa, v́ cái hại của kẻ này là cái lợi của kẻ kia, cái lợi của người kia là cái hại của người nọ..không có cái ǵ thêm cho ai, bớt cho ai, lợi cho ai, hại cho ai cả, v́ tất cả là Một, v́ tất cả là Ta”. (129).



b. Bố Thí Ba-La-Mật là ǵ?



Trước hết nên t́m hiểu ư nghĩa của các danh từ chuyên môn dùng trong Thiền Tông như: Bát Nhă, Trí Huệ Bát Nhă, Ba-La-Mật...



BÁT NHĂ, dịch âm bởi chữ PRAJNA (Sanskrit), PANNA (Pali). Bát Nhă là ǵ? Đó là một Trí Huệ, một sự hiểu biết khác với sự hiểu biết thông thường, do đó, gọi là “TRÍ HUỆ BÁT NHĂ”. Thế nào là sự hiểu biết khác thường? Đây là sự hiểu biết “sâu xa”,”vượt” không gian và thời gian,”vượt” thế giới “Nhị Nguyên”, tức phân biệt Thiện/Ác, Ta/Người, Lợi/ Hại, nghĩa là” vượt” trên mọi cặp mâu thuẫn, mọi sự biện luận khẳng định (có), phủ định (không có): v́ cả hai là Một. Đó cũng gọi là B́nh đẳng Luận, hay Nhất Nguyên Luận, Nhất như Luận. Do đó, mới có những thành ngữ như: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”, hay “Hữu tức Vô, Vô tức Hữu”. Pháp môn Không Tông này chống lại các h́nh thức lư luận biện biệt, phân chia ra Phải/Trái, Có/Không... mà họ gọi là Nhị Nguyên Luận. V́ “Trí Huệ Bát Nhă” là sự hiểu biết khác thường, “vượt khỏi bên kia bờ” của những nhận thức và suy luận Nhị Nguyên, phân chia, phân tích cái này khác cái kia…, nên mang tên đặc biệt là “Trí Huệ Bát Nhă Ba-La-Mật” (sẽ giải thích ở duới đây).



BA-LA-MẬT là ǵ? Ba-La-Mật là dịch âm của tiếng “PARAMITA” (sanskrit), Tàu dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn”, nghĩa là “đến bờ bên kia”. Theo thiền sư phái Không Tông, từ trong bể khổ, nhờ tu theo “Trí Huệ Bát Nhă Ba-La-Mật”, nghĩa là “vượt” hẳn lối Lư Luận theo LƯ Trí biện biệt, phân chia Nhị Nguyên, chúng sinh có thể sang bên kia bờ Giải Thoát của chư Phật.” Danh từ “đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia, Ba-La-mật=Paramita) cũng chỉ là một nghĩa bóng mà thôi, chứ thực ra th́ “cái bờ” ấy “không ở đâu cả, nhưng ở đâu cũng có”, tức là chỗ mà Trang Tử, ở Thiên Tiêu Diêu Du gọi là “vô hà hữu chi hương” mà nhà Phật gọi là “ưng vô sở trụ” (Tâm không vướng mắc (Trụ) vào đâu cả)”.



Phương pháp tu hành của phật Giáo có sáu điều phải thực hiện, gọi là “LỤC ĐỘ” như: Bố Thí (Dana, Charity), Tŕ Giới (Sila, Morality), Nhẫn Nhục (Kshanti, Patience), Tinh Tấn (Virya,Vigour), Thiền Định (Dhyana, Meditation), và Trí Huệ (Prajna, Wisdom). Đó là cách tu theo Bồ Tát Thừa, theo lối thường, v́ c̣n phân biệt Nội/Ngoại, Thị/Phi, Thiện/Ác, Vinh/ Nhục, nghĩa là vẫn c̣n những cặp mâu thuẫn. Theo phái Không Tông, th́ “dù có tu “Lục Độ”, cũng phải “vượt” lên khỏi “Lục độ”, v́ đối với Bát Nhă Ba-La-Mật, th́ “lục độ” cũng vẫn có “chấp trước”, nên hoàn toàn vô nghĩa và không hiệu lực ǵ đối với vấn đề Giải Thoát cả. Bởi vậy, tu “lục độ” mà muốn đừng mắc trong lục độ, bị luân hồi sinh tử, th́ phải tu “Lục Độ Ba-La-Mật”... tức là “BỐ THÍ BA-LA-MẬT”, “Tŕ Giới Ba-La-Mật”, “Nhẫn Nhục Ba-La-Mật”, “Tinh Tấn Ba-La-Mật”, “Thiền Định Ba-La-Mật”, “Trí Huệ Ba-La-Mật”.



Do đó, “BỐ THÍ BA-LA-MẬT” là không vị lợi, vị danh, nhưng là một hành động tự nhiên, không tính toán lợi hại. Bố thí mà “chẳng thấy có ḿnh là người bố thí, cũng chẳng thấy có người được ḿnh bố thí” (thọ thí). Bố thí “như hành động tự nhiên và vô niệm (niệm vô niệm=không c̣n ư niệm phân hai=Chánh niệm=Bát Nhă) của Mặt-Trời chiếu sáng vạn vật mà không hay rằng ḿnh chiếu sáng, và cũng không chiếu sáng cho riêng ai, cho kẻ thân hay người thiện… mà là chung cho tất cả mọi người và mọi vật”. (130).



Nói tóm lại, nền luân lư, đức Từ Bi của Phật Giáo có tính chất thực tiễn đem lại lợi ích cho ḿnh (tự giác) và giúp tha nhân, giúp đời bớt đau khổ (giác tha). Niệm Phật, kinh kệ, cúng bái để đem lại lợi ích thiết thực cho đời sống hiện tại như mong được lành bệnh, sinh con, được mùa, v.v. “Tụng Niệm” để t́m ra chân lư, t́m thấy chân tính, hay Phật Tính, giúp tâm thần được sảng khoái, phong phú hơn trong kiếp sống hiện tại. Nền luân lư và đức Từ Bi, được dân chúng cố gắng tuân theo, giúp cho mối tương quan giữa người với người thêm tươi thắm, đậm đà, thương mến hơn(131)!



TOÁT LƯỢC MẤY ĐẶC ĐIỂM



1. Nền Luân Lư, đức Từ Bi, theo ư định của vị sáng lập là Đức Phật Thích Ca, mang tính chất thực tiễn, hiện thực, hiện thế, cấp cứu, để cứu vớt nhân loại bớt đau khổ.



2. Sau khi Đức Phật đă nhập diệt rồi, th́ giáo lư của Ngài được chia ra rất nhiều môn phái khác nhau. Mỗi môn phái được tự do giải thích, không bị ràng buộc bởi một tín điều nào. Theo lịch sử Phật Giáo, thường chia ra phái Tiểu Thừa, chủ trương “Tự Giác”, chỉ chuyên lo việc tự độ cho bản thân ḿnh. Phái Đại Thừa chủ xướng “Tự Giác nhi Giác Tha”, cứu ḿnh và giúp đỡ người khác nữa.



3. Giáo thuyết của hai phái Tiểu Thừa và Đại Thừa có nhiều quan điểm khác biệt, nhưng cả hai đều chủ trương “TỰ ĐỘ”, nghĩa là tự ḿnh cứu lấy ḿnh, không ai có thể thay thế, hay ban ơn giáng phúc cho ḿnh được. Đức Phật chỉ làm gương cho ḿnh bắt chuớc, chứ không ban ơn ǵ cho ḿnh.



4. Bởi đó, muốn được cứu độ, th́ phải tự ḿnh noi gương Đức Phật và các vị Bồ Tát, La Hán…, thực hành những phương pháp tu hành như: Ngũ Giới, Tam Độc, và “Lục Độ”..., mục đích là giúp phật tử tự t́m ra chân tính của ḿnh, để được “Giác Ngộ”.



5. Trong Lục Độ, th́ đức Từ Bi đứng đầu và quan trọng hơn cả. V́ thế, các thiện nam tín nữ đă tôn phong Đức Phật Thích Ca như Vị Thần, hiện thân của đức Từ Bi, có quyền phép ra tay cứu vớt, và ban ơn phúc cho chúng sinh. Một Vị Bồ Tát khác cũng được tôn kính làm “Phật Bà Quan Âm”, hiện thân cho đức Từ Bi, hay cứu vớt trẻ con, và người hiếm muộn.



6. Theo cách thực hành chung của đại đa số tín đồ Phật tử, th́ việc thi hành đức Từ Bi là cứu giúp tha nhân, từ trong gia đ́nh ra ngoài xă hội để cầu phúc báo. Nhưng phái Phật học theo Nhất Nguyên Luận chủ trương “Vô Ngă”, “Vô”, vũ trụ là Một, nên chống lại cách dùng Lư Trí để biện biệt, phân chia, phân tích mà họ gọi là “Nhị Nguyên Luận”. Đặc biệt phái Đại Thừa Nam Tông (Không Tông), v́ trung thành với Nhất Nguyên Luận, nên cho rằng phải đạt được “Tâm-B́nh-Đẳng” khi thực hành đức Từ Bi, nghĩa là không phân biệt Ta/Người, Thiện/Ác, Phiền Năo/Niết Bàn, Lợi/Hại… Cách thực hành đức Từ Bi như thế, gọi là “Bố Thí Ba-La-Mật”.

(c̣n tiếp...)
Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 4 of 5: Đă gửi: 23 April 2006 lúc 12:53am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Phần này hơi khó nuốt với những ai dị ứng danh từ Thiên Chúa Giáo. Chỉ dành riêng cho các bậc với Tâm vô chấp, coi việc đúng sai không quan trọng, coi trắng đen là hai mặt đối lập của cuộc đời v́ rằng : biết ḿnh biết người Trăm trận trăm thắng


ĐỨC BÁC ÁI CỦA THIÊN CHÚA GIÁO



Thiên Chúa Giáo là ĐẠO chỉ thờ Một THIÊN CHÚA duy nhất, mọi vật mọi loài đều bởi Thiên Chúa mà có và phải qui hướng về Chúa như là Căn Nguyên. Vạn sự vạn vật tồn tại, tồn hữu là nhờ T́nh Yêu Thương Vô Hạn, và Vô Điều Kiện (uncondional Love) của Thiên Chúa ban phát ra, v́ bản thể của Thiên Chúa được định nghĩa là: “Thiên Chúa là Yêu Thương” (I Gioan 4:39). Do đó, trong Thiên Chúa Giáo, Thần Học, Triết Học, tín điều, phụng tự, luật pháp, v.v. đều lấy T́nh Yêu Thương Vô Hạn của Thiên Chúa làm nền tảng, lư do để giải thích. Chẳng hạn, v́ Yêu Thuơng mà Chúa dựng nên trời đất, vũ trụ; cũng v́ Yêu Thương vô điều kiện mà Chúa tạo dựng con người, và đă sai Thánh Tử giáng thế làm Người để thay cho nhân loại, làm lễ vật Hy Sinh, đền tội, chuộc tội cho nhân loại được Hồng Ân Cứu Độ.



Sau đây, ta sẽ lần lượt diễn giảng:



A. Nền tảng, của đức Bác Ái phát xuất từ T́nh Ái Vô Biên của Chúa, và từ Chúa KyTô là Gương Mẫu.



B. Mối liên hệ “tương tự” giữa T́nh Ái của Chúa và t́nh yêu của loài người, như thế nào? T́nh Yêu của Chúa “giống”, và “khác” t́nh yêu của ta làm sao?



C. T́nh Yêu là sự “đối đáp”, là mối tương giao giữa các “Nhân vị”, với nhau, nghĩa là giữa “Người” với “Người”'



D. Do đó, muốn có t́nh yêu thương thật sự, th́ cần mấy đặc tính như: v́ chung một lư tuởng, nên cùng nhau chia sẻ những khó khăn; tôn trọng sự tự do, b́nh đẳng, quyền lợi của nhau; thực thi đức Bác Ái bằng việc làm cụ thể như ân cần chăm sóc, tha thứ khuyết điểm và giữ ḷng chung thuỷ, trung thành với nhau...



THIÊN CHÚA LÀ CĂN NGUYÊN CỦA ĐỨC BÁC ÁI



Vạn sự vạn vật đều qui hướng về Thiên Chúa như Nguyên Uỷ và Cứu Cánh. Trong lănh vực T́nh Ái cũng vậy. Đức Bác Ái, động lực nội tại phát sinh các nhân đức khác, phải đặt nền tảng lư do tồn tại (raison d'être) nơi T́nh Thương Vô Hạn của Thiên Chúa. T́nh Ái Tuyệt Đối này, chính là Bản Tính của Thiên Chúa, đă được biểu lộ, mặc khải nơi Đấng Cứu Thế, là Chúa Giêsu Kytô. (132).



1. T́nh Ái của Thiên Chúa là Gương Mẫu



T́nh Thương vô biên, bao la của Chúa đối với nhân loại, đă là mẫu mực và là động lực khiến mỗi người phải yêu thương tha nhân đồng loại. V́ Chúa đă tạo dựng nên ta và yêu thương ta, nên ta phải yêu mến Chúa. Đó là giới răn thứ nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, tức là “Yêu người như ḿnh ta vậy”, v́ mọi người đều là con cái của Chúa sinh ra. Do đó, giá trị cao quí của con người đặt nền tảng tại sự liên hệ với Chúa, tại t́nh nghĩa tử mà Chúa đă tự ư ban “nhưng không”. Nhân loại “có”, là v́ Chúa “Có”. Kinh Thánh viết: “Con người trở thành giống như Chúa (eritis sicut Deus: Gen. 3:5), v́ con người mang trong ḿnh “h́nh ảnh”, tức sự “tương tự”của Chúa (Gen 1:27,5:1, I Gioan 3:1-3)(133).



Trong Thiên Chúa Giáo, Mầu Nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể, tức là Chúa Giêsu KyTô giáng thế làm Người: đó là Tột Đỉnh của T́nh Ái Thiên Chúa đối với nhân loại và đối với cả vũ trụ càn khôn. V́ Yêu Thương loài người vô bờ bến, vô hạn, mà Thiên Chúa đă sai Thánh Tử giáng trần để mặc khải Mầu Nhiệm T́nh Ái của Chúa cho nhân loại. Do đó, chính Đấng Cứu Thế là “Hiện Thân” của T́nh Ái Thiên Chúa. Các Lời Ngài giảng dạy, các phép lạ, các cử chỉ, hành động đối với người nghèo, bệnh nhân, trẻ em, phụ nữ, bà góa... nhất nhất đều biểu lộ T́nh Ái của Thiên Chúa đối với nhân loại! Bởi vậy, Chúa Giêsu KyTô là Gương Mẫu, là Thủ Lănh của Dân Chúa, tức Hội Thánh gồm những tín hữu hoan hỉ đón nhận Tin Mừng do Chúa Cứu Thế tuyên bố. Suốt trong lịch sử đă có hằng triệu triệu tín đồ, tu sĩ nam nữ, chỉ lấy Chúa Giêsu KyTô làm Mẫu Mực cho đời sống tận hiến để phục vụ tha nhân. T́nh Bác Ái của Chúa Cứu Thế cũng là “Khuôn Vàng Thước Ngọc” để đo mức độ về đời sống trọn lành, thánh thiện. Ai càng nên giống Chúa hơn, th́ càng tới gần sự thiện hảo hơn. Do đó, ta thấy các Thánh Anh Hùng Tử Đạo, sẵn sàng hy sinh mạng sống v́ đức Tin, bắt chước Chúa chịu chết trên Thánh Giá để đền tội cho nhân loại. Cũng có những tu sĩ nam nữ sống đời tận hiến, trinh khiết để cầu nguyện, hoặc giúp đỡ người đau khổ, nghèo khó. Khi rửa chân cho các môn đệ, để dạy họ sống hoàn toàn theo gương mẫu của Chúa, Ngài phán: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới, là chúng con phải thương yêu nhau. Thầy đă yêu chúng con thế nào, chúng con phải yêu nhau như vậy” (Gioan 13:34).



Mỗi người phải yêu thương tha nhân v́ muốn bắt chước noi gương t́nh Chúa yêu thương ta. Bởi vậy, nếu ta không biết yêu tha nhân, th́ ta cũng không thể yêu mến Chúa được. Yêu mến tha nhân đồng loại là hàng ngang! Trước hết, tự nhiên ta cảm thấy yêu mến cha mẹ, anh chị em ruột thịt, sau đó, t́nh yêu mới tỏa rộng ra bên ngoài tới bà con thân thuộc, họ hàng, xóm làng, bạn hữu, đồng hương, và xa hơn nữa là t́nh liên đới quốc tế. T́nh ái lan rộng từ một tiểu vũ trụ đến một đại vũ trụ, từ một trái tim nhỏ bé, “nở” ra một bầu nhiệt huyết bao trùm vũ trụ. Từ trong thâm tâm ta cho đến bên ngoài vũ trụ, đâu đâu cũng thấy tiềm tàng, nung nấu một t́nh thương dạt dào. Và từ thế giới con người ta vươn ra ngoài vũ trụ càn khôn, rồi từ vũ trụ càn khôn, ta vượt lên thế giới vô h́nh, lên Đấng Tuyệt Đối. Đó là chiều dọc siêu việt của T́nh Yêu! Nhưng bất cứ ở kích thước nào, ta vẫn thấy t́nh thương tiềm ẩn. Do đó, nơi trái tim nhỏ bé của con người, chính là” nơi chốn” (locus) gặp gỡ của Hữu Hạn và Vô Biên: Từ Hữu Hạn vượt lên Vô Biên, hoặc từ Vô Biên trở về Hữu Hạn. (134).



2. T́nh Ái Vĩnh Cửu



Thiên Chúa là Vĩnh Cửu và Thiên Chúa là Yêu Thương, nên T́nh Ái của Chúa là Vĩnh Cửu, từ trước vô cùng vẫn có và c̣n tồn tại đời đời kiếp kiếp về sau. Do đó, t́nh yêu tha nhân đồng loại cũng phải bền vững luôn măi muôn đời. Tại sao? V́ giới răn thứ hai, “Yêu người”, cũng giống giới răn thứ nhất “Mến Chúa”' v́ con người giống “h́nh ảnh” Chúa, nghĩa là có Chúa ngự tại nội tâm của con người, nên con người được chia phần, được tham dự vào sự Vĩnh Cửu của Chúa. Do đó, đời sống vĩnh cửu (trên thiên đàng) vẫn phải có t́nh yêu mến tha nhân, v́ (trên thiên đàng) con người luôn luôn yêu mến Chúa. Đức Tin, Đức Cậy th́ qua đi, khi ta nh́n thấy Chúa “nhăn tiền”, nhưng Đức Mến “chẳng hề qua đi” (I Cor 13:13). Bởi vậy, Đức Mến là nền tảng của các nhân đức khác, v́ nhờ Đức Mến mà con người hữu hạn có thể kết hợp, giao ḥa với Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, Vô Biên.



3. T́nh Thương Tràn Lan Khắp Vũ Trụ



Thiên Chúa là nền tảng, là lư do tồn tại của vạn sự vạn vật. T́nh Yêu Thương Vô Biên của Chúa cũng chính là sự Sống, là Năng Lực tiềm ẩn được biểu lộ ra bên ngoài vũ trụ hữu h́nh. Đâu đâu ta cũng thấy tràn đầy sự Sống và Năng Lực, làm cho nhân loại và các sinh vật, thực vật, khoáng vật biến hóa, sinh động không ngừng. Từ nơi vũ trụ hữu h́nh này, ta có thể nâng tâm trí con người lên cơi vô h́nh, và cảm nghiệm được chính Nguồn Sinh Lực Tuyệt Đối, cũng là T́nh Thương Vô Biên hằng tràn lan trên muôn vật muôn loài. Do đó, t́nh yêu thuơng của nhân loại không thu hẹp vào thế giới tương đối, hữu h́nh mà thôi, nhưng có thể “vượt” lên đến điểm Hội Tụ Tuyệt Đối là Thiên Chúa, đă được biểu lộ, mặc khải nơi Chúa Cứu Thế.



Một h́nh ảnh tượng trưng cho T́nh Ái Tuyệt Đối vượt trên các tổ chức, đoàn thể hữu h́nh, đó là “Hội Thánh Chúa”, hay “Nước Thiên Chúa”. Hội Thánh Chúa, không phải chỉ xét về phương diện bên ngoài, có sự hợp nhất về lănh đạo, về phẩm trật, về giáo luật, nhưng Hội Thánh Chúa, trong căn bản, chính thật là một Sinh Lực của T́nh Ái Tuyệt Hảo, liên kết các phần tử là con của Chúa lại thành một “Thân Thể Mầu Nhiệm” (Mystical Body) mà Chúa Cứu Thế làm Đầu, làm Thủ Lănh.



TƯƠNG QUAN GIỮA T̀NH ÁI THIÊN CHÚA VÀ NHÂN LOẠI



Xét về nội dung ư nghĩa của chữ Yêu Thương, người ta phân biệt ra ba ư nghĩa hay ba loại T́nh Ái khác nhau, không hoàn toàn “đoạn tuyệt” với nhau, không chống đối nhau, nhưng vẫn có thể liên quan đến nhau.



1. Ba Loại T́nh Ái



Theo nội dung ư nghĩa, t́nh ái có thể xếp đặt làm ba cấp, tính từ dưới lên trên :



a. T́nh Tư Dục.(Eros) Đây là t́nh yêu vị kỉ t́m thỏa măn những nhu cầu cá nhân, về dục tính (sex), về t́nh cảm, về gia đ́nh.



b. T́nh Bằng Hữu.(Philia) Thứ t́nh cảm này hướng về tha nhân, và lan rộng tới những người ngoài khuôn khổ nhỏ hẹp của gia đ́nh, như bạn bè, làng xóm, quốc gia. V́ t́nh nghĩa đồng bào, đồng hương, hay họ hàng mà đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.



c. T́nh Bác Ái.(Agape) Đây là t́nh ái vị tha, vô điều kiện (uncondional love), v́ T́nh Bác Ái bao la, vô hạn mà Thiên Chúa đă tạo thành vũ trụ, và hằng thi ân giáng phúc cho muôn vật muôn loài. V́ T́nh Bác Ái vô hạn đó mà Chúa Giêsu Kytô, vốn là Thiên Chúa, đă tự hạ, tự hiến làm lễ hy sinh để cứu độ nhân loại (coi Thư gửi Philiphê 2:6-11, Kenosis).



2. Ba Loại T́nh Ái Liên Quan Với Nhau



Tuy T́nh Chúa bao la và là nguồn gốc của mọi t́nh yêu thương vị tha, c̣n t́nh người rất hạn hẹp, nhưng ta vẫn thấy có mối liên hệ, liên tục giữa hai mối t́nh ấy. T́nh Chúa giầu ḷng vị tha, đổ tràn trên vạn sự vạn vật. T́nh người dựa trên cảm giác, trên vật dục, nhưng cũng phải vươn lên tới Chúa là T́nh Ái Tuyệt Đối. Do đó, ngay trong t́nh yêu vật dục thấp kém, ta cũng nhận thấy một h́nh ảnh hoặc một chút hương vị của T́nh Yêu Thương Tuyệt Đối. Chính T́nh Ái Siêu Việt khiến t́nh yêu thấp kém được thêm phần thanh cao. Bởi vậy, không có sự đối nghịch, hoặc “đứt đoạn” giữa T́nh Bác Ái vô biên của Chúa và t́nh yêu vị kỉ của nhân loại, nhưng vẫn có sự hỗ tương giao ḥa. Đă thật t́nh “Mến Chúa”, tất nhiên cũng phải “yêu người”, v́ cả hai giới răn liên hệ mật thiết với nhau. Nếu yêu mến Chúa một cách chân thành, th́ cũng phải noi gương bắt chước T́nh Bác Ái bao la của Chúa để tỏa rộng t́nh yêu của ḿnh đến cho mọi người chung quanh. Ngược lại, yêu người thật t́nh cũng sẽ giúp ta vươn tới thứ t́nh yêu vị tha, hy sinh, tức t́nh bác ái. Có thể sánh ví một cách “tương tự” như sự hỗ tương ảnh hưởng giữa linh hồn và thể xác, do đó, T́nh Bác Ái vô biên của Chúa và t́nh yêu hữu hạn của nhân loại đều có tuơng quan liên hệ với nhau(135).



3. H́nh Anh “Tương Tự” giữa T́nh Chúa và T́nh Người



Trong Kinh Thánh hay lễ nghi phụng tự, hoặc trong Thần Học, tu đức... ta thấy dùng những h́nh ảnh t́nh tứ, thơ mộng, phỏng theo t́nh ái giữa vợ-chồng, cha-mẹ với con cái... để diễn tả T́nh Ái Siêu Việt của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đây chỉ là những h́nh ảnh “tương tự” (analogy), chứ không phải đúng hệt như vậy.



a. T́nh Yêu Vợ-Chồng. Trong Kinh Thánh, t́nh yêu của vợ-chồng được ca tụng như một kỳ công của Đấng Tạo Hóa. Tiệc cưới được sánh ví như sự hoan lạc trên Thiên Đàng. Do đó, tính dục (sexuality) không phải là điều xấu, là tội lỗi. Thánh Phao lô Tông Đồ đă dùng h́nh ảnh t́nh ái vợ-chồng trong hôn nhân để ám chỉ t́nh ái giữa Chúa Cứu Thế và Hội Thánh, tức là các tín hữu. Bởi vậy, t́nh nhục dục vẫn có thể “thăng hoa” thành t́nh yêu gia đ́nh, rồi lan rộng ra ngoài xă hội, để vươn lên tới t́nh yêu cao vời, thần bí hiệp thông với Chúa.



b. T́nh Phụ-Mẫu với Con Cái. Ngoài t́nh nghĩa vợ-chồng, không có một tương quan t́nh ái nhân loại nào cao quí bằng t́nh yêu giữa cha mẹ và con cái. Bởi vậy, trong Phúc Âm, Chúa Cứu Thế đă dùng danh từ “Abba”, nghĩa là “Cha” để gọi Thiên Chúa, và để ám chỉ mối tương quan t́nh nghĩa giữa Thiên Chúa là Cha, và những người được Chúa yêu là con cái Chúa, như trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời...” (Mat 6:9-13).



Nói tóm lại, “Thiên Chúa là Bác Ái”, Bản Tính của Chúa và mối Tương Quan Siêu Phàm giữa Ba Ngôi Vị Thiên Chúa (Mầu Nhiệm Tam Vị Nhất Thể Thiên Chúa), là tương quan T́nh Ái Siêu Việt mà trí tuệ loài người không thể hiểu thấu, không thể diễn tả cho cân xứng được. Dầu vậy, Thần Học Thiên Chúa Giáo vẫn cho phép dùng ngôn ngữ, h́nh ảnh phàm tục để ám chỉ (một phần nào) sự “tương tự” và liên quan giữa Thiên Chúa Siêu Việt và nhân loại thuộc giới thụ tạo tương đối. Nhưng nên nhớ: thế giới hữu h́nh chỉ có thể phản ảnh, một cách lờ mờ “tương tự”, những Thực Tại Siêu Việt mà thôi!



ĐỨC BÁC ÁI VÀ QUAN NIỆM NHÂN VỊ



T́nh Bác Ái phải qui hướng về Chúa như nền tảng, căn nguyên, v́ Thiên Chúa là Một Ngôi Vị, nên T́nh Ái cũng mang đặc tính “ngôi vị”, nghĩa là t́nh thương là t́nh liên đới giữa các nhân vị (hay ngôi vị ) với nhau, giữa người với người (interpersonal). Trong kinh nghiệm giao tiếp, t́nh ái bao giờ cũng là một mối cảm t́nh đặc biệt dành cho một “người” (một nhân vị) riêng biệt, khác với mọi nguời khác(136).



Vấn đề đặt ra ở đây là: ta có thể dùng kinh nghiệm t́nh ái giữa người với người, (loài tương đối, hữu hạn) để ứng dụng vào kinh nghiệm tôn giáo thần bí giữa Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt, được không? T́nh Bác Ái Vô Biên của Chúa có tính cách “Ngôi Vị” (personal) không? Một thiểu số chống lại việc dùng danh từ nhân vị, hay ngôi vị áp dụng vào Thiên Chúa là Nguyên Lư Siêu Việt, v́ sợ sẽ hạ thấp giá trị siêu đẳng của Chúa xuống hàng phàm tục. Theo họ, Nguyên Lư đó phải là vô- nhân-vị (non-personal), v́ họ chống lại mọi h́nh thức của thuyết “thần-nhân-đồng-h́nh” (anthropomor-phism), nghĩa là dùng h́nh ảnh của con người để ám chỉ, áp dụng vào Chúa.



Theo Thần Học Thiên Chúa Giáo, như Thánh Thomas, th́ ư niệm về t́nh ái là “thần-nhân-đồng-h́nh”, v́ được rút ra từ kinh nghiệm giao tiếp giữa người với người, giữa các nhân vị. Dĩ nhiên, ta phải biết hạn chế, thanh lọc, chọn lựa các danh từ khi ứng dụng vào mối tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, nhưng vẫn được coi là hợp lư khi dùng những danh từ, h́nh ảnh tượng trưng để “ám tỷ” (sánh ví) giữa các thực tại hữu h́nh và vô h́nh. Thiên Chúa là Đấng Vô Danh, Vô H́nh, Vô Tượng, Siêu Việt trên hết mọi loài, nhưng Kinh Thánh vẫn thường dùng phương pháp “tương tự” để “sánh ví” Thiên Chúa như: Vua, Mục Tử, Cha… và để diễn tả, dầu một cách bất tương xứng, mối t́nh thắm thiết giữa Thiên Chúa và dân của Chúa. (137).



Thiên Chúa là một “Ngôi Vị” (“ Nhân Vị”) rất đặc biệt, không thể hiểu như một “nhân vị”, của một “người” thường được! Do đó, nếu ta gọi Chúa là “CHA”, th́ phải hiểu ư nghĩa của chữ đó “vượt” hơn ư nghĩa thông thường. Chữ “Cha”, hay “Mẹ”, theo nghĩa bóng, ám chỉ công ơn sinh thành, dưỡng nuôi, dạy dỗ… Do đó, trong các mối t́nh cảm của loài người th́ t́nh Cha-Mẹ đối với con cái là cao quí hơn cả, đến nỗi dân tộc như Việt Nam, Trung Hoa… đă nâng lên hàng tôn giáo, tức Đạo Hiếu. Bởi vậy, ta gọi Chúa là “CHA”, v́ Chúa c̣n hơn cha mẹ chúng ta bội phần: Chúa đă dựng nên và hằng ǵn giữ che chở ta luôn măi. Khi dùng phương pháp “tương tự” (analogia entis) để sánh ví một thực tại tương đối, hữu h́nh, với một Chân Lư Siêu Việt Tuyệt Đối vô h́nh, vô tượng, như khi nói: “Chúa là Mục Tử nhân lành yêu thương đoàn chiên”, th́ phải hiểu các danh từ “yêu thương”,” Mục Tử nhân lành”, theo nghĩa bóng, nghĩa là “vượt” trên b́nh diện của loài thụ sinh.



Trong đời sống thiêng liêng, thần bí (mysticism), trong kinh nguyện, các tín hữu luôn đối thoại với Chúa bằng một t́nh yêu thắm thiết như t́nh nghĩa “vợ-chồng”, cha mẹ-con cái, hoặc t́nh bằng hữu đậm đà. Các linh hồn không đối thoại với “hư vô”, “hư không”, nhưng trao đổi, cảm thông với một Đấng “KHÁC”, có Ngôi Vị, có Bản Vị. Ngay trong giây phút thần thông kết hiệp, “xuất thần” (ecstasy), th́ linh hồn của thần bí gia vẫn giữ một nhân vị khác biệt với Ngôi Vị Tuyệt Đối của Đấng Toàn Năng.



Bởi vậy, theo Thiên Chúa Giáo, nếu xóa bỏ quan niệm về nhân vị, ngôi vị, bản vị, th́ không c̣n tôn giáo, không c̣n đời sống thiêng liêng, không c̣n lễ nghi phụng tự, không c̣n cầu nguyện nữa! Vả lại, Thiên Chúa Giáo, hay KiTô Giáo là Đạo lấy Thiên Chúa Ngôi Vị (Personal God) và Chúa Giêsu KiTô làm tâm điểm của Đức Tin. Chúa Giêsu KiTô, chính là Thiên Chúa giáng thế làm Người. Do đó, nơi Ngôi Vị của Chúa Cứu Thế vừa có thiên tính và nhân tính: Ngài vừa là Thiên Chúa thật, vừa là Người thật! Cho nên, tất cả vũ trụ càn khôn, hết mọi người mọi vật đều qui hướng về Chúa Giêsu KiTô là Cứu Cánh như Một Nhân Vị Tuyệt Đỉnh.



T̀NH TƯƠNG GIAO GIỮA CÁC NHÂN VỊ



T́nh Bác Ái bao giờ cũng là mối tương giao, trao đổi, đối đáp, thù tạc giữa hai người (nhân vị), như tục ngữ có câu: “Có đi có lại mới toại ḷng nhau”. Người ta cũng nói: Khuyển mă chi t́nh”, trong các con vật th́ loài chó và loài ngựa “biết” quí mến chủ của nó hơn các con vật khác. Nhưng giữa loài động vật và loài người, không thể có sự cảm thông hoàn toàn được! Càng không thể có t́nh yêu thật giữa loài người với vật vô tri vô giác! Kẻ trao tặng và người nhận lănh như chiếc nhẫn cuới, hay sính lễ trầu cau... chứng tỏ sự ưng thuận kết duyên của hai người. Việc cho đi cho lại là cử chỉ biểu lộ t́nh giao hảo, nên cần sự linh động và uyển chuyển. Do đó, tặng phẩm biếu lại không cần giống hệt với quà đă cho như là để trả món nợ cho xong, nhưng cốt làm sao có thể tỏ ḷng biết ơn, và mối thịnh t́nh. Sư trao đổi, thù tạc nếu quá máy móc hoặc quá hững hờ cũng làm giảm bớt t́nh tương thân tương ái. Sau đây ta thử t́m hiểu xem những đặc tính nào sẽ giúp cho t́nh tương giao giữa hai người, giữa hai vợ-chồng, thêm bền vững, mặn mà.



1. T́m Hạnh Phúc của Người Ḿnh Yêu



Điều tối kị trong mối tương giao giữa hai người là tính ích kỉ. Nếu chỉ “vơ vét” cho ḿnh mà thôi, th́ t́nh yêu sẽ tan vỡ. Do đó, t́nh yêu thương thật phải là t́nh Bác ái Vị Tha, nghĩa là luôn coi việc “t́m hạnh phúc cho người ḿnh yêu”, là cốt yếu, dầu phải hy sinh sở thích riêng. Nếu hai người cùng có ḷng vị tha, nghĩa là người này lo t́m làm đẹp ḷng người kia, th́ t́nh yêu mới bền vững và triển nở tốt đẹp. Chính Chúa Cứu Thế đă nêu gương sáng về t́nh yêu thương hoàn toàn vị tha này, v́ Ngài đă hy sinh mạng sống, đă chết v́ người yêu, khi Ngài phán: “Không ai có t́nh yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống v́ bạn hữu ḿnh” (Gioan 15:13).



a. Chia Vui Sẻ Buồn. Hai người thật sự yêu nhau, chẳng hạn cha mẹ yêu thương con cái, th́ luôn chăm nom săn sóc hạnh phúc của người ḿnh yêu, khi vui, buồn, lúc đau yếu, hoạn nạn. T́nh yêu thật chỉ nẩy nở khi có sự hy sinh hạnh phúc riêng như sức khoẻ, th́ giờ, tiền bạc... miễn là người ḿnh yêu được sung sướng. Trái lại, nếu chỉ có thứ t́nh yêu vị kỉ, nghĩa là mỗi người chỉ lo t́m thỏa măn sở thích riêng, không đếm xỉa ǵ đến hạnh phúc của người khác, th́ dầu là hai vợ chồng cùng sống chung dưới một mái nhà, cũng có ngày phải tan ră. Nếu hai người cùng t́m hạnh phúc cho nhau, cùng lo lắng, chăm nom, săn sóc lẫn nhau, th́ t́nh tương thân tuơng ái mới có cơ hội phát triển tốt đẹp và bền lâu.



b. Cùng Hướng Về Một Mục Đích. Có văn sĩ nói: “Yêu nhau không phải ngồi nh́n nhau, nhưng là cả hai cùng nh́n về một hướng”. Bởi v́, nếu chỉ “nh́n nhau”, để soi mói, bắt bẻ, bắt lỗi, ganh tị nhau, th́ sẽ sinh ra xích mích, căi cọ. Trái lại, kinh nghiệm cho thấy, nếu hai người cùng một chí hướng, cùng đồng lao cộng khổ với nhau, cùng chia sẻ những nỗi vui buồn với nhau, như đôi vợ chồng trẻ cùng nhau chăn nuôi con cái cho nên thân nên người, th́ t́nh yêu vị tha, hy sinh đó, càng ngày càng khắng khít, bền lâu. V́ cùng theo đuổi một mục đích, hay một công việc khó khăn, một cá nhân không thể làm một ḿnh được, nên cần sự hỗ trợ, giúp đỡ của người khác. Do đó, nhờ sự chia sẻ ư kiến, sức lực để nâng đỡ nhau hoàn thành chương tŕnh dự định, mà ḷng quí mến, biết ơn nhau càng thêm đậm đà. Trong khi chân thành hợp tác để thực hiện một kế hoạch lớn lao, khó khăn, hai người thường dễ tha thứ cho nhau những khuyết điểm nhỏ nhặt, chịu đựng lẫn nhau, miễn sao công cuộc đại sự đi đến thành công. Do đó, t́nh tương thân tương ái ngày thêm bền vững, và “chung thủy”, nghĩa là trước sau như một, không thay ḷng đổi dạ, không “dang dở”. T́nh Yêu dễ nẩy nở khi có sự thông cảm giữa những người cùng đồng tâm nhất trí với nhau, và có cùng một lư tưởng. Kinh nghiệm cho thấy: khi quốc gia hữu sự, mọi tầng lớp dân chúng, không phân biệt lương-giáo, trẻ già trai gái… đoàn kết để cùng nhau chống ngoại xâm. Nhưng trong thời b́nh, v́ thiếu lư tưởng rơ rệt, các đảng phái, bè nhóm bắt đầu nổi lên xâu xé lẫn nhau. Đối với các hội đoàn đạo đức cũng vậy. V́ các đoàn viên thiếu lư tưởng, hoặc quên mất mục đích khi gia nhập đoàn thể là “làm sáng danh Chúa”, nên đâm ra ganh tị, chia rẽ, bôi xấu nhau.



2. Yêu Thương trong Tự Do, và Tôn Trọng nhau



Kinh nghiệm cho thấy: T́nh nghĩa vợ-chồng, t́nh bằng hữu không nẩy sinh trong sự g̣ ép, gượng gạo hay bằng bạo lực, v́ con người chỉ có thể yêu thương thật sự trong Tự Do, B́nh Đẳng và Tôn Trọng các nguyện vọng chính đáng của mỗi bên.



a. Yêu Thương Trong Tự Do, B́nh Đẳng. B́nh Đẳng và Tự Do thoải mái là những điều kiện giúp t́nh yêu thương phát huy tốt đẹp. Thử hỏi: Có t́nh yêu thương chân thật giữa những người cậy vào chức quyền hay tài năng, của cải giầu sang để đàn áp những kẻ cô thân, yếu thế không? Làm sao có sự thông cảm và tương giao tự do, khi một bên dùng mọi h́nh thức của bạo lực để chèn ép bên kia phải theo ḿnh? Do đó, muốn thực hành đức Bác Ái chân thật, muốn cho t́nh yêu nẩy nở, cần có t́nh thần b́nh đẳng, khiêm tốn trong mối tương giao. Nếu người này có tài năng, tiền bạc hơn nguời khác, th́ không phải để chia thành giai cấp, nhưng là để phục vụ, trợ giúp người khác với một tấm ḷng quảng đại, hồn nhiên vui vẻ. Bởi vậy, tính hống hách kiêu căng, cậy tài cậy của, áp bức kẻ khác, th́ không thể tạo dựng một t́nh yêu bền vững được. Vả lại, t́nh yêu thương chân thật, như đă định nghĩa ở trên, là mối tương giao, tương trợ, nghĩa là trao đổi lẫn nhau, người này giúp người kia, v́ cả hai cùng cần nhau. Do đó, trong t́nh Bác Ái chân thành, không nên có thái độ của kẻ bề trên “chiếu cố”, hay “bố thí” cho kẻ bề dưới, hay kẻ thiếu thốn!



Một câu hỏi khác: Loài người hèn hạ, v́ là loài thụ sinh, làm sao dám “kết nghĩa” cùng Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối Siêu Việt được? Theo Thần Học giải thích, th́ Hồng Ân khiến nhân loại được làm “nghĩa tử” của Thiên Chúa là do T́nh Yêu Thương Vô Biên mà Chúa tự ư ban nhưng không, v́ công nghiệp của Chúa Giêsu KyTô. Nhờ mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm “Người”, nghĩa là nhờ “Nhân Tính” của Chúa KyTô làm “Trung Gian” (Mediator) mà nhân loại có thể kết giao với Thiên Chúa. (138).



b. Tôn Trọng Quyền Lợi, Đặc Tính. Thần Học và Triết Lư nhấn mạnh về nhân phẩm và nhân quyền, v́ mỗi cá nhân tự bản tính đă có giá trị cao quư, v́ là “nghĩa tử” của Chúa. Vả lại, theo quan niệm về “NhânVị”, th́ mỗi người có những đặc tính, đời sống riêng, khác với mọi cá nhân khác. Do đó, những sự khác biệt giữa đàn ông với đàn bà, về thể xác và tâm lư, là sự tự nhiên, cần được tôn trọng. Những nguyện vọng, sở thích giữa hai thế hệ, trẻ với già, cha mẹ với con cái... nếu là điều chính đáng, tiến bộ, cũng cần được tôn trọng. Yêu Thương chân thật không phải là bắt người khác làm theo ư ḿnh, và phải “giống hệt” như ḿnh! Trái lại, cha mẹ yêu thương con cái, hay vợ chồng quí trọng nhau thật sự, khi một bên giúp bên kia phát triển những đức tính, tài năng, chí hướng, nguyện vọng chính đáng, nẩy nở tới chỗ hoàn hảo.



3. Đức Bác Ái và Hành Động



Theo Phúc Âm, t́nh thưong chân thật phải đi đôi với việc làm cụ thể. Chúa Cứu Thế đă nhấn mạnh vào việc thực hành đức Bác Ái, bằng những dụ ngôn như: “Người Samaritanô nhân ái” (Luca, 10:25-37, 18:18-30). Đối với Chúa, không thể chỉ có đức Bác Ái “xuông”, nghĩa là chỉ nói mà không làm ǵ cả. “Ai yêu mến Thầy th́ phải giữ lời Thầy” (Gioan 14:23-24). Khi rửa chân cho các môn đệ, tức là Chúa muốn dạy một bài học cụ thể về đức Bác Ái, Chúa phán: “Nếu các con biết các điều này và đem thực hành, th́ phúc cho các con” (Gioan 13:17). Do đó, đức Bác Ái chân thật không phải chỉ là t́nh cảm, xúc động mau qua mau hết! Nhưng là tấm ḷng vị tha, quyết chí ra tay giúp đỡ. Khi nh́n thấy cảnh thương tâm như đói khát, băo lụt, chiến tranh tàn phá… người ta có thể động ḷng thương xót, sụt sùi “rơi lệ”, nhưng khi cần bỏ tiền ra để cứu trợ th́ lại lẩn trốn: Đó là t́nh thương “giả dối, giả h́nh” mà thôi!



Cũng v́ muốn thực hành giáo huấn của Phúc Âm, mà trong Hội Thánh đă thành lập biết bao cơ quan Từ Thiện để cứu trợ nhân loại trong những cơn thiên tai hoạn nạn, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc. Theo lịch sử thế giới, chính quan niệm về t́nh Bác Ái Phúc Âm đă khiến nổi lên công cuộc giải phóng nô lệ, tôn trọng b́nh quyền của phụ nữ, và tôn trọng nhân quyền chống mọi h́nh thức độc tài áp bức con người. Đức Bác Ái Thiên Chúa Giáo cũng c̣n là động lực thúc đẩy công cuộc cách mạng về luật pháp, chính trị, xă hội, đặc biệt là phát triển kinh tế, khoa học, canh nông, y tế để chống bệnh tật, nghèo đói. Những hoạt động kể trên là cách thế thiết thực để thi hành đức Bác Ái, như Chúa đă dạy.

(c̣n tiếp...)
Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 5 of 5: Đă gửi: 23 April 2006 lúc 1:00am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


TOÁT YẾU CÁC ĐẶC ĐIỂM



Sau đây, ta thử toát lược mấy dặc điểm của Đức Bác Ái, một nhân đức cao trọng nhất trong Đạo Thiên Chúa:

1. Bản Thể của Thiên Chúa là T́nh Bác Ái Vị Tha (agape). Do đó, chính t́nh Yêu Thương Vô Biên của Chúa là Căn nguyên, mẫu mực, lư do tồn tại và nền tảng của các t́nh ái vị tha khác của nhân loại. Chúa Giêsu KyTô, là chính Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể để mặc khải T́nh Yêu Chúa cho nhân loại. V́ thế, đời sống, Lời giảng dạy, hành động của Chúa Cứu Thế là Gương Mẫu cho ta bắt chước để thực thi Bác Ái.

2. Trong Thiên Chúa Giáo, giới răn “Mến Chúa, Yêu người”, tuy phân biệt, nhưng luôn đi liền nhau. Ta phải yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực v́ Chúa đă yêu thương ta trước, và đă dựng nên, dưỡng nuôi ta. Đồng thời, ta phải yêu thương tha nhân, v́ hết mọi người đếu là con cái do Chúa sinh ra.

3. Theo Thần Học, và Kinh Thánh, mọi sự trên đời này sẽ qua đi: Đức Tin, Đức Cậy có ngày sẽ hết, nhưng Đức Mến vẫn tồn tại măi, v́ T́nh Yêu Thương của Chúa bền vững muôn đời, và linh hồn những người”công chính” được kết hiệp với Chúa đời đời, trên nơi Vĩnh Phúc.

4. Ta nghiệm thấy: T́nh Bác Ái của Chúa tràn ngập vũ trụ, v́ trời đất này có, là do T́nh Ái Vị Tha của Chúa muốn “san sẻ”, phân phát sự Tuyệt Hảo của Chúa cho loài thụ sinh. Cũng v́ Yêu Thương mà Chúa đă sai Thánh Tử là Chúa Giêsu KyTô giáng thế “làm Người”, để làm vị Trung Gian cứu độ nhân loại và vũ trụ. Bởi vậy, Chúa Cứu Thế là Thủ Lănh của vũ trụ, của Hội Thánh, của nhân loại.

5. Xét về đặc tính của t́nh yêu thương, ta có thể chia làm ba loại, ba cấp, tính từ dưới lên trên: a) t́nh tư dục, b) t́nh bằng hữu, c) t́nh bác ái vị tha. Ba cấp bậc t́nh ái đó không “đứt đoạn”, hay chống đối nhau, nhưng vẫn liên hệ, liên tục với nhau, nghĩa là con người cần cố gắng vươn lên, từ t́nh vật dục bất toàn tới t́nh yêu hoàn toàn vị tha.

6. Bởi vậy, trong Kinh Thánh, vẫn thường dùng những t́nh yêu thương cao quí của nhân loại như: t́nh nghĩa Vợ-chồng, t́nh cha mẹ yêu thương con cái… như là h́nh bóng “tuơng tự” ám chỉ, một phần nào, T́nh Bác Ái Vô Biên của Thiên Chúa đối với nhân loại hèn mọn.

7. V́ Thiên Chúa là “Ngôi Vị”, Ngôi Vị Tuyệt Đối vượt trên hết mọi cá nhân, cá thể, mọi nhân vị, nên T́nh Yêu Thương của Chúa vẫn giữ tính chất “Ngôi Vị”, nghĩa là trong t́nh yêu thần bí, khi linh hồn người công chính kết hiệp với Chúa, th́ Ngôi Vị của Đấng Toàn Năng vẫn “KHÁC” với các nhân vị khác. Tuy là loài thụ tạo, nhưng nhân loại được kết nghĩa với Thiên Chúa, là nhờ Trung Gian Nhân Tính của Chúa Cứu Thế giáng thế làm Người để cứu độ nhân loại.

8. T́nh Bác Ái vị tha là t́nh tương giao, tương thân tương ái giữa các nhân vị khác nhau, v́ thế cần mấy điều kiện để kết hợp với nhau:

a) T́m hạnh phúc của người ḿnh yêu, nghĩa là vị tha hơn là vị kỉ. Vả lại, yêu thương thật là cùng nhau hướng về một lư tưởng, một mục tiêu cần thực hiện, để chia sẻ những khó khăn, để tha thứ những khuyết điểm, để cùng nhau “chung thủy”, trung thành hoàn thành điều đă cam kết.

b) T́nh yêu chỉ có thể phát huy trong Tự Do, Binh Đẳng. Do đó, cần Tôn Trọng những quyền lợi, sở thích chính đáng của nhau, để giúp nhau phát triển nhân phẩm của một con người đến chỗ vẹn toàn.


c) Đức Bác Ái chân thành đ̣i buộc phải có hành động cụ thể. Nếu thực tâm yêu Chúa th́ phải giữ lề luật của Chúa. Nếu thật ḷng thương người th́ phải bỏ tiền bạc, th́ giờ, sức khoẻ… để giúp đỡ những người đang cơn túng cực, cần thiết.



ĐÀM ĐẠO TRAO ĐỔI [B/]


Điều đáng vui mừng cho nhân loại là: Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo đều đồng ư với nhau về một điểm quan trọng: nhân loại phải yêu thương nhau! V́ thế, xét về mặt thực hành, người ta hay nói: Đạo nào cũng tốt, v́ Đạo nào cũng đều dạy phải thương người cả! Thật vậy, trong đời sống hằng ngày, trong cách giao tiếp với tha nhân, người Phật tử chân chính bộc lộ một ḷng Từ Bi đáng ca ngợi, khâm phục, v́ chẳng những phải yêu thương nhân loại, mà c̣n phải mở rộng t́nh ái, bao bọc các loài sinh vật khác nữa! Trong đời sống xă hội, người Việt nam thường quí trọng những người có nhân nghĩa, và khinh chê hạng giàu có, thế lực, danh vọng, nhưng ăn ở “bất nhân”, “bất nghĩa”, trái với lễ giáo, với Đạo Nhân của Thánh Hiền.


Tuy nhiên, trên đây mới là quan sát các tôn giáo về b́nh diện bề ngoài, cách thực hành, ta nhận thấy các tín đồ của các tôn giáo tại Việt nam, dầu là Phật tử, hay Công giáo, hoặc Đạo Hiếu (Thờ Ông Bà), đều tin vào “Ông Trời”, “Ông Thiên”, là Đấng cầm quyền sinh tử, vận mệnh của mỗi người. Về t́nh yêu thương th́ ai cũng nhớ thuộc ḷng câu ca dao tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”. Đó là sinh hoạt tôn giáo b́nh thường, tự nhiên, theo truyền thống văn hóa Việt nam. Về phương diện này, các tôn giáo xem ra không khác nhau là mấy.


Nhưng khi đứng trên b́nh diện lư thuyết, quan niệm, triết lư hay thần học, th́ các nhà nghiên cứu về khoa “Tôn Giáo Đối Chiếu” (comparative religions) nhận thấy có nhiều sắc thái khác nhau, nhiều cách hiểu biết và giải thích khác biệt về ư niệm của một danh từ, một giới luật..giữa các tôn giáo với nhau, hoặc có khi xẩy ra trong cùng một tôn giáo, chẳng hạn như trường hợp Phật Giáo: đôi khi cách thực hành Đạo của các thiện nam tín nữ, trong đời sống hằng ngày, lại "khác" với những lư thuyết Triết Học, Phật học của các môn phái như Tiểu Thừa, khác Đại Thừa, Thiền tông Nam Tông (Không Tông) khác với Bắc Tông (Tâm Tông). (139).



Bởi vậy, ta thử đàm luận để hiểu rơ hơn những quan niệm, những sắc thái khác biệt về T́nh Ái như: Ai yêu? Yêu Ai? Yêu là một phương tiện hay cứu cánh? Tại sao yêu? Yêu thế nào? Nhưng trước hết, ta thử so sánh quan niệm Nhân Ái giữa Khổng Giáo và Lăo Giáo giống nhau và khác nhau ở điểm nào?



1. Khổng Học và Lăo Học Khác Nhau Ở Điểm Nào?

Lăo Học chủ trương trở lại đời sống giản dị, ḥa hợp với Thiên Nhiên, nên đă chống lại Khổng Học muốn duy tŕ giá trị truyền thống và uy quyền của dĩ văng. Lăo Học t́m kiếm hạnh phúc cá nhân trong sự thoát tục, thanh bần, thần bí và ḥa hợp với vũ trụ. Trái lại, Khổng Học chủ trương thiết lập một trật tự xă hội dựa vào tôn chỉ của đạo Nhân-Nghĩa, của lễ giáo, của thể chế và của luật Trung Ḥa, Trung Dung. Lăo Học thuộc về Âm, biểu tượng khía cạnh cá nhân, âm thầm, Vô Vi. C̣n Khổng Học thuộc về Dương, nghiêng về xă hội, rực rỡ và Hữu Vi. Lăo Học chủ xướng một nền luân lư cá nhân để điều khiển bản thân. Trái lại, Khổng Học giảng thuyết một nền luân lư xă hội để điều hành quốc gia.


Khổng Học hay Lăo Học đều công nhận ĐẠO hay THÁI CỰC là nơi hội tụ của Âm-Dương, nhưng để đạt tới Thái Nhất đó, th́ Khổng Học và Lăo Học đề xướng hai triết học, hai phương pháp khác nhau. (140).

Đức Khổng Phu Tử nhận thấy rằng: vũ trụ này do một Vị Thượng Đế mà người xưa gọi là THIÊN (TRỜI), tạo dựng nên: đó là nền tảng của các tín ngưỡng cổ truyền. Theo suy tư triết lư, Đức Khổng cũng nhận thấy trong vũ trụ càn khôn, phải có một Nguyên Lư duy nhất, tạm đặt tên là ĐẠO, là nguồn gốc bao trùm tất cả các nguyên lư khác. Từ Nguyên Lư duy nhất, tức ĐẠO, phát sinh ra muôn vật muôn loài. Ngoài ra, Đức Khổng cũng san định một nền Luân Lư dựa trên Nhân Bản, tức Nhân-Đạo, cũng gọi là “Đạo làm Người”, gồm có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Năm nhân đức này cần thiết để phát huy nhân bản, để trở nên các vị thánh hiền, gọi là bậc quân tử.


Trang Tử chống lại đường lối tu thân của Khổng Tử, v́ cho rằng năm điều Ngũ Thường là giả tạo, đi ngược lại nếp sống tự nhiên của con người, và v́ phân chia ra giai cấp quân tử và tiểu nhân. Do đó, Trang Tử viết: Hết thảy vạn vật đều do ĐẠO mà ra, và mỗi vật đều có cái ĐỨC của nó, nghĩa là hết thảy vạn vật, mỗi vật đều có cái tính tự nhiên của nó. Nếu biết thuận theo tính tự nhiên mà sống, th́ hạnh phúc có ngay trong lúc đó, không phải cầu cạnh đâu khác ở ngoài. Thường th́ sở dĩ bản tính con người không được tự do phát triển là do sự ràng buộc, uốn nắn của chế độ, giáo dục, luân lư giả tạo của xă hội bên ngoài. Bởi vậy, Trang Học cũng như Lăo Học hết sức phản đối nhân tạo mà đề cao cái sống gần với thiên nhiên. Ḅ ngựa bốn chân, đó là do Trời làm, c̣n khớp đầu ngựa, xỏ mũi ḅ, đó là do người làm ra. Giữ cẩn thận đừng làm mất Thiên Chân, đó là trở về cái “Chân” của ḿnh (trở về bản tính tự nhiên của ḿnh). (141).



2. Ai Yêu? Yêu Ai?

T́nh yêu chân thật là vị tha, nghĩa là coi tha nhân (người Khác) như một đối tượng tự lập, tự tại có giá trị, có nhân phẩm cao quí, đáng yêu mến, kính trọng, v́ là con cái của Một Chúa và đă được Chúa Cứu Thế cứu độ: “Nhân linh ư vạn vật”! Dầu cá nhân đó phạm lỗi, thù nghịch với ta, ta vẫn phải yêu thương, kính trọng, v́ người đó vẫn c̣n “nhân tính”.


Trong Phúc Âm, Chúa Cứu Thế dạy các môn đệ: “Các con hăy yêu kẻ thù, hăy làm ơn cho những kẻ ghét minh, hăy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa ḿnh, hăy cầu nguyện cho những kẻ vu khống ḿnh. Ai vả má con bên này, th́ đưa cả má bên kia, ai lột áo ngoài của con, th́ cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin th́ con hăy cho và ai lấy ǵ của con, đừng đ̣i lại. Các con muốn người ta làm điều ǵ cho các con, th́ hăy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, th́ c̣n công phúc ǵ nữa? Kẻ tội lỗi cũng yêu kẻ yêu ḿnh. Nếu các con làm ơn cho kẻ làm ơn cho ḿnh, th́ có công phúc ǵ? V́ kẻ tội lỗi cũng làm như vậy. Nếu các con cho vay mượn và mong được trả lại, th́ các con được công phúc ǵ? V́ kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để thu lại đủ số. Phần các con, hăy thương yêu thù nghịch ḿnh, hăy làm ơn, hăy cho vay mượn mà không trông đ̣i lại. Như thế, phần thưởng của các con sẽ rất lớn và các con sẽ là con của Đấng Cao Cả, v́ Ngài nhân từ đối với kẻ vô ơn và gian ác. Hăy nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, th́ các con sẽ khỏi bị xét đoán' đừng kết án, th́ các con khỏi bị kết án. Hăy tha thứ, th́ các con sẽ được tha thứ. Hăy cho th́ sẽ cho lại các con' người ta sẽ lấy đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, v́ các con đong đấu nào th́ sẽ đong lại bằng đấu ấy”. (Luca 6:27).

Một đoạn khác trong Phúc Âm viết: “Anh em đă biết có luật rằng: Con hăy yêu anh em ḿnh và ghét thù địch. Nhưng Thầy bảo: Anh em hăy yêu thù địch, hăy làm ơn cho kẻ ghét anh em, hăy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ và bỏ vạ cho anh em. Như thế, anh em được nên con cái Cha ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho kẻ lành và kẻ dữ, và làm mưa xuống trên kẻ công chính và kẻ gian ác. Nếu anh em yêu kẻ yêu ḿnh th́ anh em có công phúc ǵ? Những người thu thuế chẳng làm như vậy sao? Và nếu anh em chào hỏi bà con ḿnh thôi, th́ nào có ǵ hơn người khác? Kẻ ngoại giáo chẳng làm như vậy sao? Vậy anh em hăy nên toàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng Toàn Thiện”. (Mathêu 5:43-48).


Qua hai đoạn Phúc Âm trích dẫn ở trên liên quan đến vấn đề T́nh Ái, ta nhận thấy những đặc điểm nhu sau: Mỗi người, dầu là bạn hữu, thù địch, kẻ lành, người dữ, kẻ ân nhân, người làm hại... bất cứ ai cũng có một “nhân vị”, một nhân phẩm đáng yêu thương. Ngoài ra, Thiên Chúa được xưng hô là “CHA”, tức là một Đấng, một Ngôi Vị Cao Cả trên hết, đầy tràn T́nh Yêu Vô Hạn đối với loài thụ sinh, đặc biệt nhân loại được nhận làm “con cái” của Chúa. Do đó, trong t́nh Bác Ái, Chúa Yêu và người được Chúa yêu là hai Ngôi vị, nhân vị riêng biệt, khác nhau. Đức Bác Ái Vô Cùng của Chúa khiến ta được kết nghĩa với Chúa, nhưng không trộn lẫn, không xóa bỏ Ngôi Vị Tuyệt Đối, Cao Cả của Chúa. Chúa là Đấng Siêu Việt, vượt trên mọi cá nhân, và có quyền xét đoán, thưởng phạt, theo sự Công Bằng. Chúa là Gương mẫu cho nhân loại noi theo để yêu thương, tha thứ cho tha nhân. Chúa yêu thuơng kẻ gian ác, tội lỗi, v́ chủ ư là muốn cứu độ và ban hạnh phúc thật cho chính họ, và v́ Chúa biết rơ họ không hoàn toàn hư hỏng như người chung quanh nghĩ tưởng. Đối với con mắt thiển cận, vị kỉ của người đời, nhiều khi ta t́m cách “bôi nhọ” kẻ khác, chỉ bới móc những cái xấu nhỏ mọn của họ, nhưng không nh́n thấy những ǵ tốt đẹp, đáng yêu, đáng kính nơi người mà ta đă vội coi là kẻ thù.


V́ chúng ta muốn nên toàn thiện, theo gương Chúa dạy, nên ta cũng phải “vượt” lên trên những xét đoán thiên lệch, thiển cận, vị kỉ của ta. Chỉ một ḿnh Chúa mới thấu suốt tâm trí mỗi người! Nhiều khi ta kết án tha nhân là tội lỗi, gian ác, nên ta ghét bỏ v́ là thù địch của ta. Nhưng ta rất dễ lầm lạc! Biết đâu nơi những tù nhân bị kết án tử h́nh theo luật pháp, nhưng trước mặt Chúa, họ là vô tội, hoặc ít ra, họ vẫn c̣n nhân phẩm, c̣n có thể cải tà qui chính để được cứu độ. Do đó, đức Bác Ái, theo gương mẫu của Chúa, luôn đ̣i hỏi ta vượt tính ích kỉ, ti tiện, hà tiện, để tỏ ḷng quảng đại, vị tha, tha thứ, với mục đích đem lại hạnh phúc thật cho tha nhân. Tha nhân là đối tượng của t́nh yêu thương, là kích thước đo lường t́nh Bác ái của ta, như Lời Chúa: “Anh em muốn người ta làm cho ḿnh thế nào, th́ hăy làm cho người ta như vậy” (Luca 6:31). Nhà Nho cũng có câu: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều ḿnh không muốn, th́ chớ làm cho kẻ khác). Yêu thương chân thật, không phải là xóa bỏ nhân cách, nhân phẩm của kẻ khác, hoặc bắt kẻ khác phải hoàn toàn giống ḿnh, theo ư ḿnh muốn, nhưng luôn tôn trọng “nhân vị”, và những nguyện vọng chính đáng của “người khác”. T́nh yêu thương giữa vợ chồng, giữa cha mẹ với con cái, dầu mật thiết, hợp nhất đến đâu, cũng vẫn là những nhân vị khác biệt, có một bản lănh riêng.


Quan niệm về T́nh Bác Ái vừa tŕnh bày ở trên, khác với quan niệm triết lư về T́nh Ái, về Bố Thí, như sẽ bàn luận sau đây:

Trong “Phật Học Tinh Hoa”, trang 160-161, viết: “Có lẽ từ trước đến giờ chưa có một tôn giáo nào lại phủ nhận sự trường tồn của linh hồn như Phật Giáo... Theo Phật Giáo, quan niệm về một cái TA (NGĂ) trường cửu là một quan niệm sai lầm và hoàn toàn giả tưởng.”.... “Bởi nhận thấy có một cái TA đáng yêu đáng quư nên con người mới làm đủ thế thần đặng bảo vệ Nó và ǵn giữ Nó được măi măi, trường tồn. Để được bảo vệ, Nó mới tạo ra một đấng Thượng Đế để được che chở, bênh vực..cũng như một đứa con cần được Mẹ Cha bao bọc. Để được giữ ǵn măi măi, Nó mới bày ra cái thuyết Hữu-Ngă, nghĩa là có Linh hồn bất tử (Atman). Hay nói một cách khác, thuyết Thượng Đế cũng như thuyết Linh hồn bất tử đều là những lư thuyết do Bản-Ngă tạo ra để tự phỉnh, để t́m cách tự an ủi và thỏa măn khát vọng được măi măi tồn tại, mong thoát khỏi cái luật vô thường. Sở dĩ người ta mê say tôn giáo...là để t́m những thỏa măn nói trên, nghĩa là để thỏa măn cái ḷng lo sợ bị tiêu diệt của Bản-Ngă. Nhất định họ rất sợ nghe nói đến những ǵ nghịch lại với ḷng ao ước của họ”


Cũng trong cuốn “Phật Học Tinh Hoa”, khi bàn đến “Bố Thí Ba-La-Mật”, trang 227, viết: “Huống chi bậc tu Đại Thừa như Bồ Tát Thừa th́ hạnh đầu tiên là Bố Thí Ba-La-Mật, tức là pháp “bố thí bất trụ tướng”, chứ đâu phải công việc “bố thí trụ tướng” như phần đông đă làm. Sao gọi là “bất trụ tướng bố thí”? “Bố Thí” mà “không trụ tướng” là bố thí mà “chẳng thấy có ḿnh là người bố thí, cũng chẳng thấy có người được ḿnh bố thí” (thọ thí). Như vậy hành động bố thí của Bồ Tát là một hành động của người đă được Giải thoát hoàn toàn, như hành động tự nhiên và vô niệm của Mặt-Trời chiếu sáng vạn vật mà không hay rằng ḿnh chiếu sáng, và cũng không chiếu sáng cho riêng ai, cho kẻ thân hay người thiện… mà là chung cho tất cả mọi người và mọi vật. Bố thí là v́ phải bố thí, không thể không bố thí cho được. Bố thí mà vẫn “vô tâm”, “vô niệm”... đó mới thật là hành vi bố thí của các vị Bồ Tát. “Bố thí bất trụ tướng” là cái đức tự nhiên của Bồ Tát. Chúng sanh “bố thí” là để được danh hay được lợi, nếu không thuộc về vật chất cũng thuộc về tinh thần: bố thí để được phúc báo, hoặc được người người mang ân và kính phục, để tỏ ra người ban ân là kẻ đứng trên người thọ ân”.


Qua hai bản văn trích dẫn ở trên, ta nhận thấy chủ trương của môn phái đó là: không công nhận có Đấng Thượng Đế, là Đấng Tuyệt Đối, là Thiên Chúa, là Ngôi Vị Siêu Việt, “vượt trên vạn sự vạn vật, và trên hết các “nhân vị” khác. Ngoài ra, môn phái này cũng chối bỏ “Linh hồn bất tử”, tức là không có Ta, (NGĂ), tức “Vô Ngă”, không có “nhân vị” tự tại, không có Bản Ngă. Do đó, áp dụng trong việc bố thí là: không có “ai” bố thí, cũng không có “ai” nhận của bố thí cả.


Ta thấy triết lư của môn phái này đi ngược lại cách thực hành đức Từ Bi của chúng sinh là để cứu vớt một con người cụ thể, một nạn nhân "băo lụt" đang cần ta giúp đỡ. Chúng sinh cũng cầu mong phúc báo, khi làm phúc bố thí. Như ta đă bàn luận ở trên, T́nh yêu vị tha, đức Bác Ái chân thật là coi tha nhân như một đối tượng tự tại có giá trị, có nhân phẩm cao quí, nên tự nó đáng yêu, đáng kính, bất kể sang hèn, giầu nghèo, mạnh yếu..Mỗi nhân vị có giá trị nội tại của nó. Mỗi nhân vị, mỗi nguời là một cứu cánh của t́nh ái, không phải là phưong tiện. Yêu mến Thiên Chúa là kết nghĩa, kết hiệp với một Ngôi Vị Tuyệt Đối, “KHÁC” với hết thảy các nhân vị thuộc loài tương đối. Tuy yêu thương vị tha, vô điều kiện (unconditional love), nhưng vẫn phân biệt “người yêu” và “người được yêu”.


Bởi vậy, nếu phủ nhận sự tồn hữu của một Đấng Thượng Đế Siêu Việt là Chủ Tể vũ trụ càn khôn, nếu không công nhận có “người” (tha), có “ta” (ngă), nếu tất cả là “vô ngă”, “vô hồn”, th́ làm ǵ c̣n có yêu thương nữa! Làm ǵ c̣n những người, những tâm hồn để trao đổi t́nh ái cho nhau nữa! Vả lại, nếu thiếu ư niệm về nhân vị, (ngôi vi, bản vị), th́ đức Từ Bi, Bác Ái chỉ c̣n là mối t́nh thương xót, thương hại mà thôi! Bởi v́ “thương hại” không nhằm vào một nhân vị, một cá nhân riêng biệt đang đau khổ, nhưng chỉ chú trọng đến “sự đau khổ” một cách chung chung, tổng quát, như câu nói: đời là bể khổ! Sự đau khổ, sự bất hạnh nói chung, cần phải tiêu diệt, v́ chính nó là sự bất hạnh, không cần phân biệt là của ai cả, v́ không có “chủ thể”, không có “ai” đó mà đau đớn. Người chịu đau khổ v́ bị đâm chém và kẻ gây nên tội ác đều là “vô ngă”, là hư vô! Cho nên, khi khổ th́ cam tâm chịu vậy, không phàn nàn trách móc “ai”, không cần tha thứ cho “ai”, v́ có”ai” đâu để mà than thân, trách phận, để mà tha thứ ?


3. Yêu Thương là Cứu Cánh hay Phương Tiện?

Nếu không đề cập đến T́nh Yêu Sáng Tạo của Một Ngôi Vị Tuyệt Đối, lại cũng chủ trương “vô ngă”, không có bản vị, nhân vị, th́ ư niệm về Từ Bi thuộc về ngoại vi (exoteric), không thuộc về bản thể tự tại của một ngôi vị. Người ta sẽ khó trả lời những câu hỏi như: v́ lư do ǵ mà yêu? Yêu dựa trên căn bản nào? Yêu là cứu cánh (mục đích) hay phương tiện? V́ không công nhận mỗi nhân vị có một giá trị nội tại, cũng không cho mỗi nhân vị là một mục đích, cứu cánh của t́nh yêu thương, nên đức Từ Bi, hay việc Bố thí chỉ c̣n là một phương thế, một phương tiện để đạt một mục tiêu khác, chẳng hạn để diệt dục, diệt tính ích kỉ. Do đó, đức Từ Bi việc Bố thí, được dùng như một “kỹ thuật” để vượt cái “tôi” ích kỉ (ego), để giải thoát cái “tôi” eo hẹp. Làm phúc bố thí là một phương thế để chứng tỏ, hoặc để tiêu diệt ḷng ham muốn của ḿnh mà thôi! Yêu thương không c̣n là t́m hạnh phúc cho người ḿnh yêu như một mục đích cần phải nhằm tới!(142)


Trong “Phật Giáo Tinh Hoa”, trang 218-219, viết:” Bởi vậy, tu “lục độ” mà muốn đừng mắc trong lục độ, bị luân hồi sinh tử, th́ phải tu “lục độ ba-la-mật”. Lục độ là bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. “Lục độ ba-la-mật” tức là “bố thí ba-la-mật”, “tŕ giới ba-la-mật”, “nhẫn nhục ba-la-mật”, “tinh tấn ba-la-mật”, “thiền định ba-la-mật”, “trí huệ ba-la-mật” (143).


Ở đây, ta cần chú ư đến thứ tự xếp đặt các lục độ thường và lục độ ba-la-mật. Ta nhận thấy: “Bố thí” là bước đầu trên đường tu đức, là phương thế để dần dần tiến lên các đức tính cao hơn, và đến trí huệ ba-la-mật (bát nhă) là tuyệt đỉnh của việc tu luyện. Do đó, Từ Bi và bố thí chỉ là phương thế để trút bỏ được ḷng tham lam ích kỉ, v́ diệt dục để tiến đến “vô”, “vô ngă”, mới là mục đích của việc tu luyện.


Triết lư trên đây khác với quan niệm coi đức Bác Ái, tức ḷng “Mến Chúa Yêu người”, làm cứu cánh. Để thi hành đức Bác Ái, nên xây cất bệnh viện, pḥng phát thuốc, hay viện trợ thực phẩm... mục đích là giúp đỡ người anh em đang thiếu thốn khổ cực. Công cuộc cứu trợ là v́ hạnh phúc của người anh em, chứ không phải v́ tư lợi. Nếu người anh em được ấm no, lành mạnh, nhân phẩm được nâng cao, đó là điều đáng mừng! Cũng v́ hạnh phúc của con cái mà cha mẹ phải hy sinh đời sống, sức khoẻ, tiền bạc, thời giờ… miễn sao con cái được nên thân nên người! Đó là t́nh Yêu vị tha, cao đẹp! Dầu đứa con bệnh hoạn tật nguyền, xấu xí... cha mẹ vẫn yêu thương săn sóc đùm bọc. Đối với một tu sĩ “xuất gia tu hành”, nghĩa là từ giă gia đ́nh để vô các tu viện, ta cũng cần phân biệt hai ư hướng khác nhau. Một hạng tu sĩ từ bỏ của cải, ruộng đất, nhà cửa, cha mẹ, anh chị em, vợ con… v́ coi những thứ đó tự chúng không giá trị ǵ, chỉ là những “của nợ”, làm vương vấn ràng buộc khiến tâm hồn không đựợc thảnh thơi, ung dung thư thới. Bởi vậy, người tu sĩ hoan hỉ thoát tục để sống an nhàn, vui thú trong tu viện, mặc kệ cho đời lầm than khổ sở, miễn là ḿnh an thân an phận. Ư hướng tu hành như trên là ích kỉ, không phải do đức Bác Ái vị tha. Trái lại, quan niệm chân chính về việc tu tŕ là lấy t́nh “Mến Chúa Yêu người” làm nền tảng và làm chủ đích. Chỉ v́ muốn bắt chước t́nh Yêu vị tha vô hạn của Chúa, chỉ v́ muốn nên toàn thiện, chỉ v́ muốn cho mọi người nh́n nhận Chúa là Cha, nên người tu sĩ sẵn sàng hiến thân, hy sinh đời sống để hoàn toàn phụng sự Chúa, và dấn thân, đem hết tài năng nghị lực để phục vụ tha nhân, đặc biệt những người kém may mắn, số phận hẩm hiu, bệnh tật, nghèo đói, cần sự giúp đỡ hơn những người khác. (144)


4. Tại Sao Yêu?

Ư nghĩa của đức Bác Ái Thiên Chúa Giáo đặt căn bản trên đoạn sách Kinh Thánh, I Gioan 4:7-12: “Thưa quí vị, chúng ta hăy thương yêu nhau, v́ t́nh thương phát sinh bởi Thiên Chúa. V́ ai yêu thương th́ kẻ ấy sinh ra bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương th́ không nhận biết Thiên Chúa, V́ THIÊN CHÚA LÀ YÊU THƯƠNG. Thiên Chúa đă tỏ ḷng yêu thương chúng ta, bởi đă sai Con Một ḿnh xuống thế gian để chúng ta nhờ Con Một ấy mà được sống. T́nh Yêu Thương ấy thật rơ ràng ở chỗ: không phải chúng ta yêu mến Chúa trước mà là Chúa đă yêu thương chúng ta trước và đă sai Con ḿnh giáng thế hy sinh đền tội chúng ta. Thưa anh chị em thân mến, Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta như thế, th́ chúng ta có bổn phận thương yêu nhau. Chưa ai được xem thấy Thiên Chúa. Nếu chúng ta thương yêu nhau, th́ Thiên Chúa ở trong chúng ta và ḷng Chúa thương ta mới trọn vẹn. Chúng ta nhận biết chúng ta ở trong Chúa và Chúa ở trong chúng ta, bởi lẽ Chúa đă ban Thánh Thần ḿnh cho chúng ta”.

Qua đoạn Kinh Thánh trên, ta nhận thấy một chân lư tuyệt diệu nơi bản thể của Thiên Chúa: Bản Thể Thiên Chúa Là Yêu Thương! Chính v́ Chúa yêu thương nên đă sáng tạo ra vũ trụ, đă dựng nên nhân loại và cũng v́ yêu thương mà Chúa đă cứu độ nhân loại bằng cuộc Tử nạn và Phục sinh của Đấng Cứu Thế. T́nh Ái của Chúa vẫn c̣n tiếp tục hiện diện và thấm nhuần đời sống của nhân loại. Lửa Yêu Thương này chính là Chúa Thánh Thần, là Thần Khí của Thiên Chúa. Do đó, nếu Thiên Chúa đă yêu thương nhân loại, th́ chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Ta yêu thương tha nhân v́ Chúa và qua Chúa. Mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau, v́ không thể yêu Chúa mà lại ghét tha nhân là tác phẩm của Chúa được. Khi nào giảm bớt ḷng mến Chúa th́ cũng suy kém về ḷng yêu người. Chính mức độ của t́nh yêu thương khiến ta trở nên giống Chúa hơn, v́ bản tính Thiên Chúa là T́nh Yêu. Thiếu ḷng Bác Ái đối với tha nhân, th́ không thể coi là đă yêu mến Chúa một cách chân thực được. Do đó, lư do ta yêu mến tha nhân, v́ là tác phẩm, là “dưỡng tử”, là “h́nh ảnh” của Chúa. Mỗi người không phân biệt chủng tộc, giai cấp xă hội... đều có giá trị trước mặt Chúa. (145).

Trong cuốn sách “Thế Giới Quan Phật Giáo”, trang 41, viết: “Sau khi Phật niết bàn, muốn kỷ niệm công đức dạy bảo lớn lao, ở các giảng đường, tịnh xá của chư tăng, các đệ tử tạc tượng Ngài để chiêm ngưỡng. Trong khi ấy có một số ít tín đồ tăng lữ, tŕnh độ thấp kém, sau khi Đấng đức hạnh hoàn toàn đă qua đời, cảm thấy mất hẳn một nương tựa lớn, thành thử họ cứ đến trước h́nh tượng ấy để lễ bái chiêm ngưỡng, gọi là sự tử như sự sinh, xem đức Phật như lúc sống c̣n vậy. Nhân thế về sau thành ra h́nh thức cúng bái, nhất là về sau khi Phật giáo truyền qua Tàu với một dân tộc mà cả lịch sử lẫn lễ nghi phong tục tín ngưỡng đều rất phiền phức. Phật giáo nghiễm nhiên thành một tôn giáo hẳn. Có lẽ bản ư của Ngài truyền giáo xưa, vốn nghĩ để tuỳ theo căn cơ tŕnh độ của các tín đồ cho họ có thể vin theo, đặng để an tâm trên đường học đạo, nhưng về sau cứ sai lạc dần dần, khiến Phật giáo mang hẳn lấy sắc thái tôn giáo, ấy là điều sai lạc bởi hoàn cảnh, thời đại, chứ đâu bởi từ Phật giáo, mà dù nguyên thủy Phật giáo mang một ít h́nh thức tôn giáo (như lối tổ chức) cùng các giới luật nghiêm khắc của toàn thể tăng già, chỉ là phương tiện thực hành, để đi đến triết lư cao xa, nhưng lại cũng chỉ mượn môn triết lư để đi đến chỗ... chân như thực tướng, bản thể rộng lớn vô biên. Nên tuy rằng Phật giáo không phải tôn giáo, triết học mà cũng có thể là tôn giáo triết học vậy”.


Như ta đă nhận định nhiều lần, biết rơ được ư tưởng của Phật Thích Ca là điều khó khăn. V́ sinh thời, Ngài thường tránh không trả lời về nhhững câu hỏi liên quan đến siêu h́nh như sự tồn hữu của một Vị Thượng Đế, hoặc về số phận của các vị Bồ Tát sau khi chết. Do đó, sau khi Ngài đă nhập Niết Bàn, th́ có rất nhiều môn phái nổi lên, diễn giảng nhiều giáo thuyết khác nhau. V́ vậy, mới xẩy ra t́nh trạng: cách thực hành khác với lư thuyết và dùng phương pháp “Upaya”, nghĩa là “tuỳ căn cơ mà thuyết pháp”, tuỳ tŕnh độ, hoàn cảnh mà diễn giảng. Theo bản văn trên và lịch sử cho biết: Phật Thích Ca không tự nhận là một vị Thần Thánh có quyền thi ân giáng phúc ǵ, nhưng chỉ v́ ḷng mộ mến mà mà một số người đă lập ra “h́nh thức cúng bái”.


Nhưng nếu chủ trương: hoàn toàn không tin tưởng vào Một Đấng Tuyệt Đối, làm Chủ Tể vạn sự vạn vật, nếu hiểu “Vô Ngă” là cái “Ngă”, cái “tôi” tự nó không có giá trị ǵ, v́ là một hợp chất, hỗn độn do những điều ngu muội, sai lầm tạo nên cái kiếp của một con người,v́ ham sống, v́ dục vọng mà con người luẩn quẩn trong ṿng sinh tử, luân hồi nghiệp chướng, kiếp này là quả báo của kiếp trước, kiếp này làm người, kiếp sau làm súc vật... Do đó, cái cá nhân, cái “ngă” đầy tham vọng ích kỉ đó là vô giá trị cần phải tiêu diệt... Hiểu như vậy, thử hỏi: Nếu tất cả đều là “Vô”, “Vô Ngă”, th́ động lực của ḷng Từ Bi đối với tha nhân phát sinh từ đâu và dựa trên nền tảng nào?


Thực ra, cần phải phân biệt trong con người có tiềm ẩn một năng lực tinh thần phi thường có thể vượt trên cái “ngă”, cái “tôi” vị kỉ, cái “Giả Ngă”, tức cái “Ngă” không đích thực, để tiến đến cái “Ngă”, cái “Tôi” chính thực, tức là cái “Chân Ngă” cao siêu. V́ chính mối thiện tâm cốt tuỷ của con người đă bị tính vị kỉ, xấu xa, tham vọng làm hoen ố. Cho nên, giá trị đích thực của con người nằm ở cái “Chân Ngă”, tức cái nhân vị, bản ngă cao quí đă được Thiên Chúa nâng lên hàng “nghĩa tử”, và đă được Chúa Cứu Thế giải thoát. Chính cái “Chân Ngă”, phát xuất từ Đức Bác Ái, tức ḷng “Mến Chúa yêu người”, là động lực tạo nên sức mạnh tinh thần, khiến ta hy sinh xả thân v́ hạnh phúc của tha nhân. Do dó, những công việc từ thiện, do Đức Bác Ái là động lực thúc đẩy, có tác động cảm hóa ḷng người để trở nên tốt lành, và đem lại hạnh phúc thật cho tha nhân.


5. Yêu Thế Nào?

Theo lư thuyết và thực hành, ta có thể diễn tả cách thức biểu lộ T́nh Ái trong Thiên Chúa Giáo như sau:

V́ Thiên Chúa Giáo đặt căn bản của T́nh Ái trên T́nh Yêu Thương Vô Biên cũa Thiên Chúa đối với mỗi “nhân vị”, và đối với chính bản thân ḿnh, nên không lư do ǵ ta lại không yêu tha nhân như Chúa đă yêu ta trước. Bởi vậy, đặc tính của t́nh ái là sự tương thân tương ái giữa người với người, giữa các nhân vị có giá trị tự tại. Do đó, t́nh ái phải tự nhiên bộc phát, uyển chuyển đáp ứng với hoàn cảnh và nhu cầu của từng cá nhân.


Đức Bác Ái chân thật đ̣i hỏi phải phá bỏ mọi bức tường ngăn cách, kỳ thị, chia rẽ phân biệt giai cấp, đấu tranh gây hận thù. Đức Bác Ái, đặt nền tảng trên T́nh Yêu Vô Hạn, Bao La của Chúa đối với mọi người b́nh đẳng, cần được thể hiện trong thực tế bằng cách canh tân vũ trụ này nên tốt đẹp hơn để mọi người được hưởng dùng. Do đó, Đức Bác Ái khích lệ, thúc bách tham gia vào công cuộc cải cách xă hội, khai thác tài nguyên và phát triển khoa học kỹ thuật, v́ vũ trụ này là công tŕnh sáng tạo của Đấng Tạo Hóa và Ngài đă trao quyền quản trị cho loài người trông coi. Bởi vậy, các tín hữu cần hăng hái tham gia các công cuộc từ thiện, cứu trợ để xây dựng “Nước Thiên Chúa” nơi trần thế. V́ lư do đó, ta chứng kiến nhiều tổ chức cứu tế xă hội có tầm mức quốc tế đă phát xuất từ các đoàn thể Thiên Chúa Giáo như Hội Hồng Thập Tự, Hội Caritas… Đức Bác Ái chân thật phải đi đôi với việc làm cụ thể là 'làm phúc bố thí”.


Một h́nh thức khác để biểu lộ đức Bác Ái là thành lập những Cộng Đồng Tín Hữu. T́nh thân ái công đồng đă giúp liên kết các phần tử trong Hội Thánh. Ngoài các giờ phụng tự, tập họp chung để cầu nguyện như các Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, các tín hữu được khuyến khích gia nhập các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành để hoạt động tông đồ theo từng lứa tuổi, từng chức nghiệp. Theo giáo luật, mọi tín hữu phải ghi danh vào một giáo xứ, và nhiều giáo xứ liên kết thành địa phận. Những cơ cấu tổ chức có hệ thống chặt chẽ, là cách thế củng cố t́nh tương thân tương trợ, giúp nhau thực thi đức Bác Ái từ thời Giáo hội sơ khai, noi gương các Thánh Tông Đồ, cho đến ngày nay và măi về sau. (146).


Nếu không tin vào sự tồn hữu của Một Vị Thượng Đế là Đấng Tạo Hóa cầm quyền sinh tử, và thưởng công những ai làm điều thiện và phạt kẻ gian ác, nếu không tin có Thiên Chúa Ngôi Vị, th́ vũ trụ này là vô-bản-vị, nghĩa là được kết tụ lại bởi luật Karma, Nghiệp-Báo mà thôi! V́ cho mỗi người không có bản ngă, là “vô ngă”, nghĩa là mỗi cá nhân tự tạo cho ḿnh cái nghiệp (karma), nên mỗi cá nhân chỉ là một ḍng nghiệp-báo chất chứa kết tụ lại, nhưng luôn biến đổi. Việc tốt hay xấu là tự ḿnh gây cho ḿnh. Mỗi người có một “nghiệp” riêng ngăn cách với tha nhân. Dầu muốn cứu tha nhân, cũng không làm ǵ được, v́ mỗi người phải tự cứu lấy ḿnh. Cùng lắm, ta có thể giúp tha nhân một cách gián tiếp như làm gương sáng cho họ về ḷng từ bi hoặc là tránh đừng khơi dậy tính ích kỉ tham lam nơi họ.

V́ quan niệm về Nghiệp-Báo như trên, nên không cần tổ chức những cộng đồng đông đảo, để cùng tham dự lễ nghi chung, cùng cầu nguyện chung. Mỗi tín đồ lẻ tẻ đến chùa chiền cúng bái tụng niệm. Mỗi tu sĩ tự đi t́m lấy cách thức tu luyện để nhập Niết Bàn, v́ con đường giải thoát là riêng tư của mỗi người. Tuy cùng sống trong tu viện, được kỷ luật và sự giáo huấn của các thiền sư hướng dẫn, nhưng căn bản trong đời sống tu tŕ vẫn là việc tụng niệm, “tọa thiền”, một ḿnh ở một nơi vắng vẻ hiu quạnh. Do đó, công việc từ thiện không có giá trị bằng “tọa thiền”, để tạo cho tâm hồn hoàn toàn b́nh thản vô tư. “Bố thí Ba-La-Mật”, tức “Bố thí bất trụ tướng” mới có giá trị. “Bố thí bất trụ tướng” là bố thí mà chẳng thấy có ḿnh là người bố thí, cũng chẳng thấy có người được ḿnh bố thí (thọ thí). (147)

Nếu chủ trương “Vô Ngă”, tức cá nhân không phải là một bản vị có giá trị nội tại, là mục tiêu của việc từ thiện, nhưng là một ḍng “nghiệp-báo-cần-phải-được- tiêu-diệt”, th́ công cuộc làm phúc bố thí giúp người không phải là chủ đích chính yếu. Điều đáng quan tâm hơn hết, chính là Nghiệp-Báo. Nghiệp th́ có thiện nghiệp và ác nghiệp. Đối với bất cứ công việc từ thiện nào, cũng phải thẩm định xem nó gây ra thiện nghiệp hay ác nghiệp cho người làm ra (bất kể việc đó có ích lợi cho kẻ khác). Nếu việc đó gây thêm nghiệp báo cho chính ḿnh th́ đừng làm. Vả lại, theo lư thuyết về nghiệp báo th́ mỗi cá nhân vừa là tác giả vừa là quản thủ cái nghiệp của ḿnh. Hơn nữa, chính cái nghiệp của mỗi cá nhân nó trói buộc cá nhân đó không sao thoát được. Do đó, người nào tạo nghiệp cho người ấy, kẻ khác chẳng làm ǵ được, chẳng giúp đỡ ǵ được để giải gỡ cho họ. Bởi vậy, tại sao ta lo lắng về số phận của tha nhân làm ǵ?

Vả lại, ư niệm cho rằng : dục vọng“ham sống” là một sai lầm, v́ nó tạo nên nghiệp này qua nghiệp khác, kiếp này qua kiếp nọ không ngừng…, cộng thêm lư thuyết “vô ngă”, và không tin tưởng vào Một Đấng Thượng Đế…, khiến ta tự hỏi: Nhân loại lấy nguồn thần lực, động lực ở đâu để có thể khởi xướng một cuộc cách mệnh, một triết lư về cải cách xă hội, chính trị một cách quyết liệt, và mạnh mẽ? (148).

Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.7266 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO