Tác giả |
|
kynhan Hội viên


Đă tham gia: 17 April 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 9
|
Msg 1 of 4: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 5:42am | Đă lưu IP
|
|
|
Tam giải thoát môn
I. Chân thực tại Mọi nhận thức và đánh giá một cách chân xác về bất cứ phạm trù nào, trên căn bản, điều kiện tiên quyết cần có đó là trí tuệ thực chứng, thiếu yếu tố thiết cốt này, mọi đánh giá và nhận thức sẽ trở thành lệch lạc và là đầu mối cho những hành tác bất thiện đầy mông muội.
Trên phạm trù của lư tánh tuyệt đối, mọi đánh giá về chân thực tại dù vô t́nh hay hữu ư chỉ là cách làm méo mó thực tại, nó sẽ không chỉ đưa dẫn đến những hệ quả sai lệch mà c̣n tạo ra vô số nguy hiểm liên hệ mật thiết đến nhân quả ba th́. Cũng trên phương diện này, mọi ngôn ngữ đều trở thành hư ngôn và bất lực v́ tự thân ngữ ngôn vốn giả danh, không đủ khả năng chuyên tải, biểu đạt thật tại siêu việt bởi lẽ, Thật Tướng của các pháp chính là Vô Tướng và, Thật Tánh của các pháp đích thực là Không Tánh nên, từ hệ luận này, không có ǵ đáng để chúng ta bận tâm suy nghĩ v́, Không, Vô Tác, Vô Nguyện là Tam Giải Thoát Môn mà bất cứ ai muốn đạt đến cứu cánh giải thoát cần liễu đạt, thể nghiệm. Biện chứng phi và siêu biện chứng ở đây sẽ lập tức biến thành luận lư thuần lư nguy hiểm, đẩy bước chân của những Cư sỹ bước đi bằng những bước khập khễnh, loạng choạng và cuối cùng buôn tuột v́ không đủ lực vượt lên những ngữ nghĩa đầy ngữ nghĩa đến độ vô nghĩa nếu bất cứ ai đó đă đánh mất khả năng thể chứng đạo lư Tánh Không.
II. Lộ tŕnh thể hiện Bồ tát hạnh Tuy nhiên, trên lộ tŕnh của Bồ tát hạnh th́, không hạnh nào mà chẳng hành, không nguyện nào mà chẳng tác. “Yểm ly sanh tử, cầu chứng niết bàn” (1) là tâm nguyện của những “tiêu nha bại chủng” (2) và, không nhàm chán sanh tử, chẳng thủ chứng niết bàn là tâm hạnh của những bậc thiện nhân, trí giả; bởi v́, “Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, bất trừ vọng tưởng bất cầu chân, vô minh thật tánh tức Phật tánh, huyễn hóa không thân tức pháp thân” (3) và cũng bởi v́ “ Thật tế lư địa bất thọ nhất trần, vạn thiện môn trung, bất xă nhất pháp” (4) Có thâm nhập được yếu lư này, người Cư sỹ mới hội đủ nội lực cần có để tiếp tục đi tới dù đó là đi vào địa ngục với tâm nguyện cứu độ muôn loài. Có triệt ngộ đạo lư Tánh Không th́ mới thể nghiệm thật tại siêu việt, mới thoát ly mọi buộc ràng về ngă và pháp chấp, mới đủ năng lực để tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh.
Đă từ rất lâu, trữ lượng chất xám to lớn của đại khối Cư sỹ Việt Nam vẫn chưa được lượng giá và khai dụng đúng mức trong công cuộc hoằng truyền chánh pháp, phục vụ dân tộc. Trên một phương diện nào đó, trữ lượng chất xám này bị phân tán mỏng và tồn đọng dưới những dạng thể thù đặc làm hạn chế sự phát triển cần thiết đối với sứ mệnh và lư tưởng của Bồ tát đạo. Câu hỏi được cẩn trọng đặt ra ở đây là, phải chăng khai dụng trữ lượng chất xám đúng mức trong đại khối Cư sỹ tại gia là một trong những công tác trọng yếu hàng đầu mà Đại Hội cần đặc biệt quan tâm nhằm hoạch định sách lược cụ thể?
Để đóng góp vào tiến tŕnh xây dựng, phát triển và ổn cố hàng ngũ Cư sỹ tại gia, chúng tôi xin đề nghị một số ư kiến sau:
III. Bảy đề xuất về nhiệm vụ người Cư sĩ trong phạm trù tục đế 1. Để trở thành người Cư sỹ đúng nghĩa, bản thân người ấy phải thọ tam qui và tŕ cấm giới ít nhất là năm giới căn bản của người Phật tử và tốt nhất là phát tâm thọ Bồ Tát giới đồng thời tham gia các buổi Bố Tát (5) tại những phương sở thuận tiện. Không ngừng tu luyện để tự thành tựu và thành tựu cho người, tránh xa thái độ tiêu cực, khép kín nửa vời và các khuynh hướng cực đoan một chiều v́ nó tác động xấu và làm hạng chế công tác hoằng pháp lợi sanh; đồng lúc cần làm tṛn bổn phận của một Cư sỹ đối với hàng ngũ xuất gia và là những công dân mẫu mực có phẩm giá cao; tuy nhiên, phải liễu triệt giáo pháp trong khi ứng dụng tinh tủy giáo pháp vào đời sống thực tế nhằm tránh t́nh trạng đi hỏng chân v́ đă không ít Phật tử hiểu giáo pháp “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (6) cách sai lệch và vô t́nh biến ḿnh thành nạn nhân của nghèo khổ bệnh hoạn, v́ nghèo khó bệnh hoạn không là nhân tố giúp ta đạt được sự chứng ngộ. Nếu nghèo khó là nhân tố để chứng ngộ th́ những người homeless trên các hè phố của của những trung tâm thủ đô là những người mà chúng ta cần phải thờ kính đảnh lễ như đảnh lễ những bậc thánh giả chí thượng. Chúng ta nên nhớ rằng, ở vào thời đại mà phần lớn mọi công tác đều cần đến tài vật, thiếu phương tiện thiết yếu này, tất nhiên, sự hạn chế ở một vài phương diện nào đó đối với đà phát triển chung là một sự kiện tất hữu; tuy nhiên, chúng ta nên hiểu rằng, “tri túc thiểu dục” (7) là lời dạy cao quư mà mỗi một chúng ta cần tôn trọng và ứng dụng.
2. Tinh tấn tu học giáo pháp trong mọi t́nh huống cả trong trường họp hiểm nguy nhất đối với tánh mạng, v́ chỉ có giáo pháp và sống trong chánh pháp mới giúp người Phật tử tồn tại như sự tồn tại đích thực và làm cho chánh pháp xương minh.
3. Không ngừng tài bồi đức tin đối với Tam bảo, v́ chỉ có đức tin thuần chánh mới giúp ta có đủ nội lực vượt qua mọi thách đố dù đó là thách đố lớn lao nhất xuất phát từ bất cứ đâu, ở bất kỳ thời đại nào, có như thế người Cư sỹ mới nỗ lực hơn trong vai tṛ hộ tŕ Tam bảo, bảo vệ chánh pháp.
4. Dấn thân đi vào mọi phương xứ, năng động, phương tiện quyền xảo hành hoạt nhằm mang lại sự lợi ích lâu dài cho sinh loại. Dấn thân nhưng đừng để bị vong thân, thay v́ vong thân hăy là hóa thân trong mọi h́nh thái và quốc độ. Người tiêu biểu cho giới tri thức là người đi đầu trong mọi giai từng lănh đạo, người lănh đạo đúng nghĩa là người dám nh́n thẳng vào sự thật, đối đầu với khó khăn, trực diện với khổ đau, thử thách. Can đảm nh́n thẳng vào sự thật, tạo ra những thay đổi cần thiết nhưng không bị bứng khỏi gốc rễ truyền thống. Trách nhiệm của lănh đạo là giải quyết những nan đề bằng những giải pháp khả thể được soi sáng bởi tuệ giác siêu việt, giải quyết với tiêu đích làm an lạc cho hết thảy muôn loài chứ không v́ ḷng tư kỷ vụ lợi. Tất nhiên không xoay lưng với nỗi khổ của đồng đạo, đồng bào nhất là những cao Tăng thạc đức đă tận hiến đời ḿnh cho đạo pháp và dân tộc như Đại Lăo Ḥa Thượng Thích Huyền Quang, Xử Lư Thường Vụ Viện Tăng Thống và Ḥa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo cũng như rất nhiều giáo phẩm Tăng Ni Phật tử khác đă và đang đấu tranh để Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phục hoạt và cho con người Việt Nam được hành sử quyền con người một cách công b́nh, dân chủ.
5. Chú trọng đến phẩm chất cán bộ hoằng pháp thay v́ chỉ khuếch đại số lượng. Để cụ thể hóa cách thiết thực sự kiện này, cần mở ra những khóa huấn luyện nhằm đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng tŕnh độ tri thức của người Cư sỹ trên nhiều mặt chuyên môn, đây là một nhu cầu cấp thiết vừa phát huy tác dụng nội lực vừa đáp ứng công tác Phật sự có khả năng bảo đảm tính lâu dài vừa cung ứng tính kế thừa siêu xuất, ưu thắng và thù ứng với từng thời kỳ lịch sử.
6. Đại khối cư sỹ trên dưới ḥa họp, đoàn kết một ḷng, cùng nhau chung lo việc lớn. Đặt quyền lợi dân tộc, tổ quốc, đạo pháp và sự sinh tồn của Giáo Hội lên trên cá nhân, đoàn, nhóm; tất cả đều cho và v́ đại cuộc, gác lại mọi quan kiến dị biệt, bất đồng, t́m mẫu số chung, bảo lưu những sai biệt, cho nhau và v́ nhau, tương kính, tương thuận, tương tức, tương tại để lợi ích cho đạo lẫn đời.
7. Trên mặt thực tế: a/ Thiết lập các cơ quan truyền thông, khai dụng triệt để ngành tin học hiện đại để hoằng truyền chánh pháp mà đối tượng đệ nhất quan trọng là gần 80 triệu đồng bào tại quốc nội.
b/ Nỗ lực góp phần giải trừ quốc nạn và pháp nạn, xây dựng xứ sở tự do, dân chủ và phồn vinh ( hộ quốc, hộ dân, hộ tŕ chánh pháp là trách nhiệm của giới tại gia Cư sỹ).
c/ Tiếp tay với hàng ngũ Tăng già, đào tạo Tăng tài nắm nối mạng mạch chánh pháp. Giúp đỡ kiến tạo, trùng hưng những Tự viện có chiều dài lịch sử, có nội dung tu học nồng phú, đích thực và hữu dụng.
d/ Thiết lập ngân sách, hỗ trợ mạnh mẽ các sứ giả như lai có đủ phẩm hạnh đến tận những thôn làng xa xôi hẻo lánh, nghèo khổ, thiếu phương tiện v.v... để hoằng pháp; giúp Giáo Hội quy hoạch, phân bổ họp lư nhân sự hoằng pháp tại khắp địa phương, v́ hiện nay rất nhiều nơi hẻo lánh nhất là vùng thôn quê, rừng núi v.v... đang thiếu nhân sự hoằng pháp một cách trầm trọng, trong khi tại một số thành phố lớn, số lượng Tăng Ni bị dư thừa thậm chí không biết Phật sự chi để thi thiết.
e/ Mọi Phật sự lớn nhỏ cần có tiêu thức, định hướng, kế hoạch, đề án thực tiễn, khả thể xuyên qua quá tŕnh nghiên cứu khoa học khách quan; đánh giá và cân nhắc thận trọng mọi nan đề và đề ra những giải pháp thù thắng nhằm hạn chế tối đa mọi khiếm khuyết, tổn thất làm xoi ṃn đức tin thuần khiết của người Phật tử và nhiều đối tượng khác cũng như xiển phát được nội lực ưu thắng của giáo pháp tối thượng.
f/ Rút tỉa, học hỏi kinh nghiệm quá khứ, hướng đến tương lai, kết họp có tổ chức; cơ chế, hệ thống, đoàn ngũ hóa lực lượng Cư sỹ thành một lực lượng hộ quốc, hộ pháp vững mạnh, có lư tưởng cao, tạo động lực năng động cho những xiển phát đa dạng, hiệu ứng và mang tính lịch sử.
g/ Mỡ những trung tâm giáo dục tuổi trẻ, nhà dưỡng lăo, cô kư nhi viện, nhà thương kể cả những cơ sở danh thương nghiệp v.v... nếu cần trong khả năng có thể để một mặt vừa giúp đỡ thiết thực những thành phần cần giúp, mặt khác tạo công ăn việc làm cho những đồng đạo thiếu may mắn.
h/ Thiết lập quỷ tương tế, yểm trợ hữu hiệu chư Tôn Đức, Cư sỹ xả thân v́ đạo bị lao lư, bệnh tật, nghèo khó và gia đ́nh họ nếu họ gặp phải chướng cảnh nghịch duyên, không đủ điều kiện sinh tồn và tiếp tục Phật sự trong những môi trường đầy ép bức thiếu tự do, nhân quyền và dân chủ.
i/ Giới thiệu những tài năng trợ thủ Giáo Hội đắc lực trong những lănh vực chuyên ngành và tạo cơ hội thuận tiện để những tài năng sáng tạo, vươn tới.
k/ Mở rộng phạm vi hoạt động đến những cộng đồng quốc gia Phật giáo bạn, tạo thế liên hoàn chặt chẽ nhằm hỗ trợ hữu hiệu lẫn nhau trong những Phật sự trọng yếu mang tính toàn.
IV. Bản địa của người Cư sĩ Một Cư sỹ Duy Ma Cật, Cấp Cô Độc, A Dục Vương ở thời xa xưa, một Lư Công Uẩn, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trăi, Thiều Chiểu, Lê Đ́nh Thám v.v... ở thời cận và hiện đại đă viết nên những trang sử vàng son của Phật giáo và trở thành biểu tượng của những biểu tượng rực sáng bất hủ không bị xoi ṃn bởi thời gian, đồng lúc mở ra nhiều triển vọng tươi sáng đầy tin tưởng đối với sứ mệnh mang ánh sáng chân lư của đức Phật lưu bố mọi chốn nơi.
Lấy khát vọng của người làm khát vọng của ḿnh, lấy khổ đau của người làm khổ đau của ḿnh, lấy sự tồn tại, an lạc, thành tựu của người làm sự tồn tại, an lạc, thành tựu của ḿnh là bản hoài của người Phật tử chân chính. Bằng vào bản hoài lợi tha xă kỷ ấy, người Phật tử là những công tŕnh sư có khả năng kiến trúc và đáp ứng mọi nhu cầu trong mọi hoàn cảnh thế thời, hiện thực lư tưởng tịnh độ hóa nhân gian và giải thoát con người ra khỏi mọi khổ đau bức năo.
Cao quư thay tâm nguyện và h́nh ảnh siêu phàm bạc tục của những bậc đại Cư sỹ cư trần bất nhiễm, lợi lạc quần sanh.
Cầu chúc Đại Hội thành công như nguyện, hành như lai sứ, tác như lai sự (8)
Thích Viên Lư
Chú thích: (1) Nhàm chán xa ĺa sanh tử, cầu chứng đắc quả vị niết bàn.
(2) Trong Kinh Pháp Hoa đức Phật dùng câu “tiêu nha bại chủng” để quở những người mang tâm trí thấp hẹp làm hủy hoại mầm giống Phật.
(3) Bậc đạo nhân có tâm thức an lạc nhàn tại là bậc đă học đến chổ chí cực rốt ráo không c̣n ǵ để học, với những đạo nhân như thế th́ không c̣n vọng tưởng nào để trừ bỏ, không có chân lư nào để t́m cầu, bởi v́ liễu triệt được rằng thật tánh của vô minh chính là Phật tánh và xác thân huyễn hóa không thật chính thị là pháp thân bất sanh bất diệt, ư nói người thể nhập giáo pháp bất nhị và đạt lư vô sanh, là người vượt ngoài mọi phạm trù đối đải bỡi nhị hoặc đa nguyên, là bậc cư trần lạc đạo, sống ngay giữa nhân gian đầy khổ đau tục lụy nhưng không bị tục lụy khổ đau chi phối, ngược lại ngay trong cơi đời dẫy đầy uế trược chuyển hóa vô minh sanh tử thành cứu cánh giải thoát thanh tịnh niết bàn v́ Phật, Tâm, Chúng sanh vốn cũng chỉ do Tâm. (Chứng Đạo Ca của Đại Sư Huyền Giác).
(4) Trên b́nh diện đế lư chân thật th́ không thủ chấp một măy bụi trần nhưng với phương tiện thiện xăo th́ không có một việc thiện nhỏ nào mà không tận lực thi thiết, hoạt dụng mầu nhiệm không thể nghĩ lường, tùy duyên hóa độ là công hạnh sâu dày bất khả tư ngh́ của bậc Bồ tát.
(5) Lễ tụng giới dành cho những người đă phát tâm thọ giới.
(6) Lư Bất Nhị Tánh Không: Sắc chính là Không, không chính là sắc trong Tâm Kinh Bát Nhă.
(7) Phật dạy người tu hành luôn kiềm chế, kiểm soát các giác quan và thực hành hạnh ít muốn biết đủ để tránh bệnh tham dục.
(8) Thực hành sứ mệnh hoằng hóa của đức Như Lai, làm những viêc mà đức Như Lai đă từ bi thi thiết.
|
Quay trở về đầu |
|
|
kynhan Hội viên


Đă tham gia: 17 April 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 9
|
Msg 2 of 4: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 5:44am | Đă lưu IP
|
|
|
HẠNH LẮNG NGHE
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật .
Cùng tất cả trại sinh ngày Hạnh quư mến,
Trong Lục Độ Tập Kinh, có dạy: “Thà mất nước không thà mất hạnh”. Thà mất nước, là thà mất biên cương, lănh thổ, chứ không thà mất hạnh. Mất hạnh là mất văn hoá, mất nếp sống đạo đức, mất thuần phong mỹ tục, mất nhân tính, mất đi lư tưởng sống. Mất nước là mất biên cương, mất lănh thổ, mất chủ quyền quốc gia, mà c̣n Hạnh, nghĩa là c̣n nền đạo đức của một dân tộc, c̣n nền văn hoá của một dân tộc, c̣n thuần phong mỹ tục của một dân tộc, và c̣n lư tưởng sống của một dân tộc, th́ việc mất chủ quyền về chính trị, mất biên cương, mất lănh thổ của dân tộc, sớm muộn ǵ cũng có thể phục hồi lại được, nhưng một dân tộc không mất biên cương, lănh thổ mà mất Hạnh th́ vĩnh viễn mất nước.
Cũng vậy, người phật tử chúng ta, dù mất sinh mạng, nhưng không mất lư tưởng, th́ chúng ta vẫn c̣n là một con người nguyên vẹn trong lư tưởng giác ngộ.
Muốn duy tŕ hạnh nguyện của người Phật Tử ngành nữ, chúng ta cần phải thực hành hạnh lắng nghe của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chúng ta thực hành muôn hạnh cũng không ra ngoài hạnh ấy.
Muốn duy tŕ hạnh Đại Trí và Đại Bi của Bồ tát Quán Thế Âm, chúng ta phải duy tŕ hạnh ấy bằng chính thực hành hạnh lắng nghe. Đạt được hạnh lắng nghe là chúng ta có thể thành tựu được các hạnh tinh tấn, bố thí, nhẫn nhục, thiền định, và trí tuệ ngay trong cuộc sống nầy.
Tâm chúng ta luôn luôn xáo động, thân chúng ta luôn luôn manh động, th́ làm thế nào để chúng ta có thể ngồi yên để lắng nghe người khác nói.
Hạnh lắng nghe là luôn lắng nghe người khác khen ḿnh và lắng nghe người khác chỉ trích ḿnh, bôi nhọ ḿnh mà ḿnh vẫn giữ được thái độ trầm lặng, mỉm cười và thương xót, đó mới là người thực hiện hạnh lắng nghe, hạnh ấy chỉ người lớn mới có khả năng thực hiện được.
Thực hiện hạnh lắng nghe cũng là thực hiện hạnh bố thí, để làm vơi bớt niềm đau của người, chúng ta lắng nghe người khác nói với tâm tư điềm tỉnh, không sợ hăi đó là chúng ta đă bố thí tâm không sợ hăi cho người.
Người đời có hai cái sợ, một là cái sợ bên trong và hai là cái sợ bên ngoài. Chúng ta lắng nghe người khác khen và chê ta, mà không hề có sự sợ hăi cả bên trong lẫn bên ngoài, như vậy là từ trong hạnh lắng nghe, chúng ta đă thành tựu hạnh vô uư.
Chỉ thực hành hạnh lắng nghe thôi, là chúng ta cũng thực hành được khẩu nghiệp, thân nghiệp và ư nghiệp thanh tịnh vậy. Như vậy, chúng ta đă thành tựu tŕ giới ba la mật.
Lắng nghe người khác nói hoặc nghe người khác tâm sự nỗi buồn của họ, một cách hoan hỷ, đó là ta đă thành tựu được hạnh nhẫn nhục ba la mật. Nơi nào cũng lắng nghe, lúc nào cũng lắng nghe, lắng nghe tất cả những tiếng kêu đau thương của hết thảy mọi người, mọi loài là chúng ta thành tựu được tinh tấn ba la mật.
Lắng nghe tiếng khen chê mà tâm không bị xao động, bất động trước khen chê, thị phi của cuộc đời là ta thành tựu thiền định ba la mật.
Từ sự lắng nghe dẫn ta đến trí tuệ. Ta lắng nghe để thấy rơ chơn vọng của cuộc đời, thấy rơ tác nhân, tác duyên của mọi vấn đề, thấy rơ nhân quả nghiệp báo của mọi vấn đề, như vậy là ta thành tựu trí tuệ ba la mật.
Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ thực hành hạnh lắng nghe mà thành tựu viên măn Lục độ.
Quư vị là ngành nữ, tay yếu chân mềm có nhiều lo âu và sợ hăi. Sợ hăi dông băo giữa cuộc đời, cũng như dông băo trong ḷng ḿnh nổi lên và cần có nơi nương tựa, nên hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm là hạnh mà quư vị có thể nương tựa để thực tập tạo ra chất liệu an ổn trong đời sống hàng ngày.
Nhờ thực tập hạnh lắng nghe, quư vị không những có khả năng cứu đời, mà c̣n làm nơi nương tựa cho các con và em của ḿnh, và cuộc sống của quư vị trở thành linh hoạt trong mọi t́nh huống, như Bồ Tát Quán Thế Âm linh hoạt chuyển vận bánh xe chánh pháp để độ đời.
Nơi nào có bất công, kỳ thị, th́ nơi đó có Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện. Bồ Tát Quán Thế Âm đă hoá thân thành Quan Âm Diệu Thiện để chữa lành bệnh cho cha. Bồ Tát Quán Thế Âm đă hoá thân thành Quan Âm Thị Kính bị bà mẹ chồng hiểu lầm, đă nhẫn nhục kiên tŕ, không nổi tâm thù oán, sân hận. Bồ tát Quán Thế Âm đă hiện Tiêu diện đại sĩ để nhiếp phục loài đầu trâu mặt ngựa, khiến chúng trở về với đạo đức lương thiện.
Do đó, chúng ta thực tập hạnh lắng nghe của Bồ Tát Quán Thế Âm, hy sinh v́ hiếu như Quan Âm Diệu Thiện, chấp nhận mọi ngộ nhận để đem lại lợi ích cho xứ sở như Quan Âm Thị Kính, và phải biểu hiện đại hùng lực như Tiêu diện đại sĩ để cứu nước, cứu dân, và nghe bất cứ nơi nào có tiếng gọi bị áp bức, th́ bồ tát liền xuất hiện ở đó, dưới nhiều h́nh thức để lắng nghe và cứu hộ.
Trong thời đại ngày nay của chúng ta, là thời đại quá ư là ngoại giao, ngôn ngữ được sử dụng hết sức điêu luyện và xảo trá, lại thêm nền văn minh tin học, lượng thông tin bùng vỡ, có những người đă lợi dụng văn minh tin học để loan truyền những tin tức không chuẩn xác, chỉ nhắm tới mưu lợi cho cá nhân, phe nhóm hay chủ nghĩa mà không phải v́ hạnh phúc và an lạc cho thế giới con người, nên vào thời đại của chúng ta hiện nay, việc thực tập hạnh lắng nghe để khám phá và phát hiện sự thật lại là một pháp môn hết sức cần thiết để cứu ḿnh và cứu đời. Lắng nghe là một phép lạ để khám phá sự thực của mọi tâm hồn, và mọi thông tin từ mọi phía đến với chúng ta.
Trong thời đại hiện nay, chúng ta nói nhiều th́ sẽ bị lỗi nhiều, nói ít th́ ít lỗi, không nói th́ không có ǵ để lỗi. Chỉ im lặng và thực hiện, là mỗi chúng ta cũng đều trở thành hoá thân của Bồ tát Quán Thế Âm làm cho trần gian cạn vơi đi những hư dối và tủi luỵ.
Cầu nguyện Đức Bồ tát Quán Thế Âm, gia hộ cho tất cả chúng ta thực tập hạnh Lắng Nghe một cách thành công.
|
Quay trở về đầu |
|
|
kynhan Hội viên


Đă tham gia: 17 April 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 9
|
Msg 3 of 4: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 5:46am | Đă lưu IP
|
|
|
MƯỜI HUYỀN MÔN TRẬT TỰ CỦA THẾ GIỚI TRONG TƯƠNG QUAN VÔ TẬN
Có hai h́nh ảnh quen thuộc gợi lên ư tưởng biến dịch: như ḍng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi h́nh ảnh lại gợi lên một ư nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt. Trời đất như đă thay loài người nói lên ư nghĩa của sự sống, nói bằng một thứ tiếng riêng biệt: tiếng nói thầm lặng hay tiếng nói của sự im lặng. Sức mạnh của con người không nằm trong chính nó. Ước vọng thâm thiết nhất của con người cũng không nằm trong chính nó. Mùa xuân, mùa của một sức sống xanh tươi, không động lên trên đôi mắt. Qua đôi mắt, người ta t́m thấy khát vọng của mùa xuân, v́ nơi đó phản chiếu h́nh ảnh của những bụi phấn liễi, phản chiếu h́nh ảnh của một ḍng nước lượn quanh. Những sáo ngữ mà chúng ta thường nghe và thường chấp nhận một cách gần như mặc nhiên: con người không là ǵ cả, v́ nó là tất cả. Rốt cuộc, cuộc đời của người ta giống như cái ǵ? Cũng nên nghĩ là giống như một cánh nhạn bay qua ḍng sông, bóng nhạn in vào ḷng nước. Bóng, nhạn và ḍng sông trong bước tao ngộ t́nh cờ:
Nhạn quá trường giang
ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ư
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Một thiền sư Việt Nam trước đây đă nói như vậy.
Tao ngộ t́nh cờ rồi tan ră và biến mất. cũng nên nghĩ là biến mất trong cơn nắng chiều ṃn mỏi, hay biến mất trong lớp sa mù buổi sáng.
Người gặp người không ở trong gang tấc mặt đối mặt. Gặp nhau trong những hẹn ước thiên thu của đỉnh đá trên núi này và một hạt cát trong ḷng biển xa xôi kia.
Và đây cũng là đạo lư tự nhiên: đôi mắt của chúng ta, chỉ có thể mở ra để nh́n theo một chiều hướng duy nhất. Muốn thay đổi chiều hướng th́ phải thay đổi cả tư thái và vị thế. Quả thật chúng ta muốn vượt qua những giới hạn cá biệt, để thấy rằng thân thể của ḿnh cũng bao la vô hạn như hư không; thấy cả vũ trụ như thấy quả xoài đang nằm trong tay. Nếu chưa vượt qua khỏi giới hạn cá biệt: cái ước mong này cũng chỉ là một thứ ước mong cá biệt, giới hạn cá biệt càng lúc càng khép kín; người ta bỗng cảm khái ḿnh như một hạt cát lăn lóc trong sa mâc. Những ǵ cần thấu hiểu phải được phân phối trật tự theo qui ước của thế giới cộng đồng. Chúng ta có trật tự của ngôn ngữ, trật tự của tâm hành và trật tự của thế giới. Tùy thuận theo qui ước đă định sẵn, chúng phản chiếu lẫn nhau trong thế tương giao vô tận, một động một tĩnh. Giống như ba hào của kinh Dịch: hai, được phân phối trong ba để thành tám; tám được phân phối trong hai để thành sáu mươi bốn, thành thiên h́nh vạn trạng, tất cả văn vẻ của trời đất. Tính cách phân phối các hào và các quẻ này được Hoa Nghiêm tông vận dụng triệt để, thành lập một thế giới trùng trùng vô tận: hai trong mười và mười trong mười. Hai trong muời: dị thể và đồng thể trong thập huyền. Con số đạt được là một trăm, tính theo phép phân phối và tập hợp của tóan học. Trật tư của thế giới được phối trí bằng số. Nguyên tắc kinh Dịch: Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân.
Thế là v́ muốn thấy v́ hiểu nên cần có phân tích và phối trí, nhưng cũng muốn sống bằng tất cả tâm t́nh ẩn khuất của ḿnh, nên ước ao nói bằng những lời không nói của vạn hữu. Tất ca những ước muốn đó được kết tụ lại như ngưng thần chú mục để phóng tầm mắt vào một thế giới tuyệt đối.
H M. I. ĐỔNG THỜI CỤ TÚC TƯƠNG ƯNG
Trong vô số tập quán của kiến thức, chúng ta có thể kể đến một tập quán rất phổ biến, và có ảnh hưởng quyết định. Hăy gọi đó là tập quán nhận định và xác định vấn đề.
Không nhận định th́ không có một cái nh́n sáng suốt; không xác định th́ không tránh nổi thái độ hàm hồ. Không sáng suốt và hàm hồ là những tật xấu. Người ta cố tránh khỏi những tật xấu ấy. Mọi vật h́nh như đă được an bài trong một trật tự cố định ở đấy. Mỗi sự vật khi được gọi là có đó, được coi là có một vị trí cá biệt. Muốn nhận định và xác định vị trí ấy, người ta đă phải phân tích sự có đó thành ra hai chiều. Trong chiều ngang, nó được đặt ở vị trí tĩnh. Trong chiều dọc, nó được đặt ở vị trí động. Sau khi đă qui chiếu tất cả tính cách động vào tĩnh, và tạo nên sự thúc đẩy để tĩnh biến chuyển bằng tính cáhc động, người ta đă xác định được bản tính của hiện hữu; căn cứ vào đó mà thiết lập mọi chiều hướng tác động của chúng.
Đó là nhận định sơ khởi, chuẩn bị cho giải thích nghĩa của "đồng thời cụ túc tương ưng".
Thiết lập các chiều hướng tác động của hiện hữu, với mục đích chính là v́ sự sinh tồn của riêng ta trong thế giới sinh hoạt cộng đồng; mục đích phụ là khai triển những ǵ ẩn khuất trong ḷng sự sống.
Tác động th́ diễn ra trong tính cáhc gián đoạn. Thành quả mà chúng ta chờ đơị phải được coi là cái xuấⴠhiện trong một lănh vực vĩnh cửu; nếu không, ta có thể duy tŕ h́nh ảnh của một thành quả tiên liệu và cũng không thể duy tŕ được thành quả đă đạt. Để đạt đến một viễn tượng như vậy, người ta phải nỗ lực phát hiện toàn thể tính của một sự thể. Toàn thể ấy vừa được thâu hẹp trong một giới hạn cá biệt, vừa được phóng đại thành một thế giới vô tận. Như vậy, khi thâu hẹp, thế giới vô tận thành cá biệt trong ta, và khi phóng đaị, cá biệt trở nên vô hạn. Đó là xác định ư nghĩa tương ưng; theo đó, người ta có thể phân biệt tương ưng thành tương tại và tương thị. Sau khi thực hiện xong sự phân biệt này, chúng ta đă làm xong công việc xác định tiên quyết. Về sau, nhận định và xác định không c̣n cần thiết nữa. Những cái mà ta muốn giải thích và muốn thực hiện trở thành những sự thể đương nhiên.
Thế nào là tương lai? Đó là sự phản chiếu lẫn nhau của các sự thể, trong thế giới cộng đồng. Nói một cách giản lược, đó là sự phản chiếu của cá biệt và toàn thể, giống như h́nh ảnh của một biển lớn được phản chiếu trọn vẹn trong một làn sóng và ngược lại. Theo nghĩa đó, cái lớn ở trong cái nhỏ và cái nhỏ ở trong cái lớn. Bởi v́, trong tức là phản chiếu toàn diện, do đó nói rằng cái này ở trong cái kia có nghĩa rằng cái này chính là cái kia: tương tại tức là tương thị.
Trên tương quan lập nghĩa và lập thuyết, căn cứ tương tại và tương thị, người ta có quyền nói lên trực tiếp hay gián tiếp một ư nghĩa nào đó. Thí dụ, bằng gián tiếp, người ta chỉ cần nêu lên một góc, lập tức biết ngay ba góc c̣n lại. Như vậy cá biệt ở ngay trong toàn thể, v́ phản chiếu toàn diện; và chính nó là toàn thể, cho nên chỉ cần nhắc đến một góc là đă nhắc đến ba góc c̣n lại.
Trong khi lập thuyết, người ta phải tuân theo một trật tự cố định. Nhưng ư nghĩa đạt được th́ luôn luôn vượt ngoài trật tự này. Thí dụ, khi diễn tả bằng văn tự, người ta phải tuân theo một qui ước: hoặc viết theo hàng ngang hoặc viết theo hàng dọc, và trong đó các chữ phải được sắp theo một thứ tự nào đó. Nhưng ở lănh hội, tất cả những qui ước và h́nh thức diễn tả của văn tự đều biến mất. Chúng biến mất bởi v́ cái ư nghĩa mà chúng ta đạt được nó xuất hiện trong tác dụng đồng thời của tất cả các phương tiện diễn đạt. Dù vậy, mọi sự thể vẫn giữ nguyên vị trí của nó trong trật tự cọng đồng.
Tính cách đồng thời vừa nói chính là nhân quả đồng thời, nhưng không xét theo tự thể mà chỉ xét theo tác động. Không xét theo tự thể, tức là không nói sự thể này đă sinh ra sự thể kia như thế nào. Nói tác động là nói sự phản chiếu, và là phản chiếu torng toàn diện. Trong cái chủ động, phản chiếu toàn diện cái bị tác động, và ngược lại. Sự phản chiếu ấy lập nên nhân quả đồng thời.
Từ lư luận trên, người ta nói, khi một sự thể tự biểu lộ toàn diện của nó, đồng thời biểu lộ toàn diện tất cả sự thể khác. Đến lượt mỗi sự thể trong cũng tự biểu lộ và biểu lộ tất cả. Như vậy mọi sự thể xuất hiện trong tương quan, và v́ tương quan ấy là tương tại và tương thị nên trở thành tương quan vô tận; trật tự nhân quả vẫn không rối loạn.
Bây giờ thế giới đă có đó, có trong những phản chiếu trùng trùng vô tận, rồi người ta sẽ làm ǵ ở đó? Không khởi lên được tác dụng th́ không phát hiện được tự thể và tự thể cùng tương ưng – tương tại và tương thị – trong đồng thời nhưng sai biệt; nhưng mỗi tự thể đều như một toàn thể vô tận và vô hạn. Vô số cái một cùng ở trong cái một duy nhất, có khắp trong vô số cái một. Nói rộng hơn, chúng ta có bốn trường hợp:
- Cái một ở trong cái một
- Cái một ở trong tất cả
- Tất cả ở trong tất cả
- Tất cả ở trong cái một
Thế giới vô hạn là cái một duy nhất, tức là một toàn thể. Cái một toàn thể được chứa đựng, không dư hay thiếu, trong cái một sai biệt. Đây chỉ là luận ly, thuần túy lư luận. Bởi v́ người ta cần có một thế giới vô tận và vô tận như vậy để thiết lập mọi tác dụng của ḿnh trong sự sống, và vận dụng chúng cho một cứu cánh độc nhất.
Trước một thế giới vô hạn và vô tận ấy, người ta cản thấy khỏi cần vượt qua ngoài vị trí cá biệt của ḿnh mà vẫn có thể thực hiện vô biên tác dụng. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tất cả các Pháp môn như một biển cả vô tận điều tụ hội ở một pháp trong đạo tràng". Đó là kinh nói về phương tiện vô biên của Phật. Tất cả những điều Phật nói phát ra từ Hải ấn tam muội. Cũng như tất cả mặt trời, mặt trăng, tinh tú, vân vân. Đều in bóng trong ḷng biển –hải ấn, vừa như là một – v́ có vị trí cố định – và như là tất cả – v́ khắp mọi nơi trong ḷng biển. Cũng vậy, từ Hải ấn tam muội, thân của Phật như một biển cả, trong mỗi lỗ chân lông xuất hiện vô biên thế giới.
Nói tóm lại, mỗi sự thể phản chiếu tất cả mọi sự thể, và trong tất cả đó, mỗi sự thể này cùng phản chiếu tất cả mọi sự thể. Thế gọi là cụ túc – có đủ. Chúng đồng thời phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới trùng vô tận.
H M. II. NHÂN ĐÀ LA VƠNGCẢNH GIỚI
Đây là một thí dụ, dùng để điển h́nh cho sự phản chiếu vô tận. Chúng ta hăy nói về thể tính và khả năng thí dụ trước.
Tạo ra một thí dụ, người ta chỉ cần biết thế nào là những cái tương đồng, theo cách loại suy. Sau đó, phải làm thế nào mà xóa được thí dụ một cách dễ dàng, th́ sự diễn đạt mới được thấu đáo. Như vậy, giữa cái được ám chỉ bằng thí dụ và bản thân của thí dụ cần có một khoảng trống. Tiên khởi, v́ có khoảng trống nên mới có thể bỏ qua thí dụ để nhân ra cái được thí dụ. Cũng như khi đặt một ngón tay lên môi mà nói: "giống cái này"; nói thế, khó phân biệt cái này là cái nào, là ngón tay hay môi miệng. Cũng vậy, sự thí dụ phải diễn tiến từ chỗ tạp loạn, cái này cũng giống cái kia, rồi đi đến chỗ phân biệt nghiêm xác. Giống nhau tức là đồng loại, đồng hành. Nghĩa là, trên tổng quát th́ người ta nói: "cái này cũng vậy", chúng đồng loại, v́ cũng xuất hiện trong một môi trường. Chúng đồng hành,v́ cùng vận chyển trong môi trường đó. Cùng xuất hiện và vận chuyển trong một môi trường chung, nhưng mỗi cái có một vị trí riêng biệt; v́ thế, cái này đối với cái kia chỉ giống như chứ không thực sự như vậy.
Người ta thường nói, thí dụ chỉ có giá trị rất ước lệ. Bởi v́ những cái mà người ta dùng để thí dụ phải giới hạn trong phạm vi thông tục của kinh nghiệm thường thức. Lấy cái đẽ biết để đẫn khởi cái chưa biết. Nếu cái chưa biết vĩnh viễn không xuất hiện th́ thí dụ sẽ bao hàm tính chất độc đoán.
Bằng lối suy luận chậm chạp, nhưng vững chắc, ta có thể ước lượng được mức độ diễn tả của thí dụ. Đoạn sau đây tóm tắt tŕnh bày của Hiền Thủ Quốc Sư trong Kim sư tử chương, thuyết cho Hoàng đế Vơ Tắc Thiên về các đặc điểm của Hoa Nghiêm Tông. Sau phần tóm tắt này chúng ta sẽ cố để thấy những điều muốn thấy, đối với khả tính và khả năng của thí dụ.
1. Minh duyên khởi.
"Quyết đoán: "vạn tượng bản không giả duyên phương hữu". Bản tính của vạn hữu trống rỗng như hư không, do tương quan mà trở thành hiện hữu.
Thí dụ, vàng ṛng không có bản tính cố định; do thợ nắn nót nên thành h́nh một con sư tử bằng vàng.
2. Biện sắc không.
Quyết đoán: huyễn pháp phân nhiên, chân không bất động. Các sự thể như huyễn xuất hiện đều sẵn ra đó; Chân Không bất động. Thí dụ: chỉ có vàng ṛng, tức chân không, mới có thật tánh; sư tử, tức huyễn sắc không có thật.
3. Ước tam tánh
Quyết đoán: mê chi danh tướng, ngộ chi tức chân. Do mê mà có danh tướng; là những cái hư huyễn, mặt ngoài. Khi ngộ, chính đấy là chân.
Tam tánh là ba h́nh thái hoạt động của tâm trong tương quan với bản tánh của hiện hữu: a) Biến thế: phân biệt những cá biệt giữa cái này và cái khác bằng danh và tướng; b) y tha: mọi tác dụng hiện khởi đều nương tựa vào nhau; c) viên thành thật: bản tính tồn tại chân thật của hiện hữu.
Thí dụ: a) biến kế: thấy sư tử như có một bản ngă thực hữu; b) y tha: thực hữu, nhưng lại là hữu tương tợ; nghĩa là không tự hữu; c) viên thành thật: chất vàng ṛng sau khi đă thành h́nh sư tử vẫn không có ǵ biến cải.
4. Hiển vô tướng.
Quyết đoán: tướng tức vô tướng, phi tướng tức tướng.
Thí dụ: sư tử bằng vàng; nếu nói đó là vàng th́ tất cả chúng là vàng ṛng, không thấy h́nh dáng sư tử đâu trong đó cả. Bởi v́, vàng là vàng, không phải là ǵ hết; sư tử lại càng không phải.
5. Thuyết vô sanh.
Quyết đoán: vô sanh tức chi sanh, sanh tức vô sanh
Thí dụ: khi nói"Sư tử hiện ra", th́ sự thực, đó chỉ là vàng. H́nh dáng sư tử có hiện ra, có biến mất; thể chất của nó là vàng ṛng không thêm không bớt.
6. Luận ngũ giáo.
Quyết đoán: Căn khí bất đồng, thiết giáo hữu dị. V́ căn cơ, tŕnh độ bất đồng, nên có nhiều cách nói khác nhau.
Có năm tŕnh độ: a) Thanh văn, căn cứ vào lư duyên khởi thấy rằng không có bản ngă thật hữu nhưng thấy thật sự có các yếu tố tạo nên bản ngă bất thực ấy. b) Thỉ giáo, hạng Đại thừa sơ cơ, do lư duyên khởi, hiểu rơ mọi lẽ Chân Không. c) Chung giáo: hiểu lẽ Chân Không, lại c̣n biết rằng v́ không cho nên có, tŕnh độ cao nhất của Đại thừa. d) Đốn giáo, vượt ngoài ngôn ngữ, tức là trên cả Đại thừa. e) Viên giáo, đạt tới cơi vô ngôn, nhưng từ đó có thể nói lên cái vô ngốn mà không trái ngược, v́ là chỗ cùng đích của phương tiện và thật huệ.
Thí dụ: a) Thanh văn: sư tử không có thật, nó xuất hiện do duyên khởi. b) Thỉ giáo: bản tính của sư tử là Chân Không. c) Chung giáo: Sư tử không có thật, v́ chỉ là vàng ṛng, nhưng chính từ vàng ṛng mà có sư tử. Tức là v́ không cho nên có. d) Đốn giáo: không cần đến ngôn ngữ hay suy tưởng; chỉ nh́n là biết ngay sư tử hay vàng. Bởi v́, cái đó gọi là sư tử th́ không phải; gọi là vàng cũng không phải. 2) Viên giáo: Biết rơ vàng là ǵ và sư tử là ǵ; chúng tương quan hiện khởi như thế nào; và biết cả phương tiện làm chúng thành không, thành có, tùy sở nguyện.
7. Lặc thập huyền.
Quyết đoán: duyên khởi giáo ánh, pháp giới trùng trùng.
Thí dụ:
(1) Vàng và sư tử xuất hiện một cách trọn vẹn trong cùng một lúc: đồng thời cụ túc tương ưng.
(2) Nh́n vào cặp mắt, biết đó là cặp mắt của sư tử; tức đă nhận ra toàn thân sư tử. Nói cách khác, cặp mắt sư tử bao hàm toàn thân của nó. Các bộ phận khác cũng vậy. Như thế, các bộ phận sư tử vừa thuần, v́ bao hàm toàn thân; vừa tạp, v́ riêng biệt. Đó là nghĩa: chư tạng thuần tạp cụ đức.
(3) Vàng và sư tử bao dung lẫn nhau thành ra vừa một vừa nhiều: nhất đa tương dung an lập.
(4) Mỗi chi tiết của sư tử đều là vàng, và vàng có khắp trong từng chi tiết của sư tử: chư pháp tương tức tự tại.
(5) Thấy đó là sư tử, th́ đó không phải là vàng; thấy đó là vàng, bất giờ đó không phải là sư tử: bí mật ẩn hiện câu thành.
(6) Vàng và sư tử được phân biệt bằng cách bao dung lẫn nhau trong từng chi tiết nhỏ nhặt: vi tế tương an lập.
(7) Sư tử và vàng là một. Mỗi sợi lông của sư tử đều bằng vàng, nên phản ảnh toàn thân sư tử. Trong toàn thân phản ảnh này, mỗi lông cũng phản ảnh toán thân. Như vậy, v́ tương phản thành ra vô tận. Đó là nghĩa: nhân đà la vơng cảnh giới.
(8) Sư tử biểu tượng cho vô minh; v́ khi thấy chỉ có sư tử th́ chất vàng ṛng bị che đậy mất. Nhưng cũng từ nơi sư tử đó mà chỉ ra cho thấy cái thể chất chân thật của nó là vàng ṛng; thế là làm bộc lộ Lư tánh từ ở Sự: thác sự hiển pháp sanh giải.
(9) Sư tử là phần có hiện ra và biến mất, bị phân chia bởi các giới hạn của thời gian: quá khứ của quá khứ, hiện tại của quá khứ, vị lai của quá khứ, quá khư của hiện tại, hiện tại của hiện tại, vị lai của hiện tại, quá khứ của vị lai, hiện tại của vị lai, vị lai của vị lai, và đồng thời: thập pháp cách thế dị thành.
(10) Vàng và sư tử, hoặc một hoặc nhiều, hoặc ẩn hoặc hiển, vân vân, không có bản tính cố định. Sự thành tựu cứu cánh của chúng tùy theo các tác dụng của tâm: duy tâm hồi chuyển thiện thành.
8. Quát lục tướng
Quyết đoán: pháp vô định tướng, cử nhất tứ đa.
Thí dụ, a) Toàn thân sư tử, bao gồm mọi bộ phận chi tiết: tổng tướng.
Mỗi chi tiết: b) biệt tướng, c) Tất cả cũng biểu lộ trong một trường chung: đồng tướng. D) Cùng biểu lộ thànhmột toàn thể, những bộ phận riêng biệt không tạp loạn: di tướng. E) Các bộ phận tập hợp lại tạo thành h́nh dáng của sư tử: thành tướng. F) V́ mỗi bộ phận cố thủ vị trí riêng biệt của chúng, nên mỗi cái không phải là sư tử: hoại tướng.
9. Thành bồ đề.
Vạn hạnh kư viên, bản giác lộ hiện.
Lănh hội được tương quan hiện khởi nhưng bất động giữa sư tử và vàng ṛng, tức là hiểu rơ tất cả những tương quan chân và vọng của sư tử và vàng ṛng.
10. Nhập niết bàn
- Trí thể tức như, sanh đại niết bàn
Bấy giờ thấy rỏ sư tử chưa từng có, vàng ṛng chưa từng không; chấm dứt tất cả tác dụng phân biệt của tâm trí. Vàng Như sư tử và sư tử Như vàng. Đó là vĩnh cửu bất sinh bất diệt.
Cả đoạn phụ chú dài ḍng trên đây được dùng để điển h́nh cho khả tính và khả năng của thí dụ. Chính chúng ta là thí dụ. Thí dụ bao hàm và dẫn khởi thí dụ, v́ hiện hữu do tương quan, cái Như vậy là Như vậy. V́ Như vậy, nên thí dụ được Như vậy. Nói cách khác, cái được nh́n thấy là Như vậy. Khi phản chiếu th́ cũng Như vậy. Sự phản chiếu lẫn nhau giữa những cái Như vậy và Như vậy trở nên trùng trùng vô tận.
Tính cách phản chiếu này được thí dụ bằng một tấm ảnh lưới của trời Indra (Hán âm: Nhân đà la). Mỗi mắt lưới là một hạt ngọc. Mỗi hạt ngọc ấy không rời khỏi vị trí của nó mà phản chiếu toàn diện tấm lưới. Trong mỗi tấm lưới phản chiếu này, lại có vô số mắt lưới. Trong mỗi mắt lưới đó lại cũng phản chiếu toàn diện yấm lưới. Chúng phản chiếu lẫn nhau thành vô tận, nhưng vẫn cố thủ vị trí và bản sắc cá biệt của ḿnh; do đó, không tạp loạn, hỗn độn.
HM. III. BÍ MẬT ẨN HIỂN CÂU THÀNH
Phản chiếu là tác dụng của định luật duyên khởi. Từ trên dịnh luật này, người ta suy diễn được hai khả năng thành tựu: sự thành tựu của cá thể và sự thành tựu của toàn thể. Đối với cá thể, sự thành tựu đó có nghĩa sự xuất hiện của nó trong một vị trí cố định. Người ta sẽ qui định mọi thể cách tương quan hiện hữu bằng vị trí này. Định được một vị trí là định được tất cả vị trí khác. Như vậy, khi khởi lên tác dụng trong một thế giới cộng đồng, người ta thấy ngay đă có ở đó một trật tự an bài. Bởi v́ trật tự được đặt trên nền tảng duyên khởi, do đó sự thiết lập là tác dụng của chính mỗi sự thể cá biệt. Khái niệm về lư duyên khởi vẫn là: "Không có tác giả, không thọ giả, chỉ có tác nghiệp". Không có một thế lực biên khởi, không có một tự thể quyết định thúc đẩy mọi tác dụng. Tự thể được coi như xuất hiện và tồn tại bằng tác dụng; nghĩa là, không có tự thể ờ đằng sau tác dụng. Nói rằng cá thể cố thủ lấy vị trí cố định của nó, không phải v́ vậy mà cá thể ấy tự hữu như một tự thể tuyệt đối. Tuy nhiên, đă nói là cố định trong một vị trí, thế th́ bằng cách nào mà khởi lên được tác dụng? Ở đây, chỉ có một tác dụng căn bản là sự phản chiếu. Toàn thể được phản chiếu trong cá biệt; do phản chiếu như vậy, sự thể cá biệt được coi như có vị trí cố định.
Thế nào là ư nghĩa của một lời nói? Đó là khởi điểm của Hoa nghiêm tông. No khởi lên từ cái đống hỗn mang mờ mịt của vạn hữu. Một khi lời nói đă thành h́nh, người ta muốn cho ư nghĩa của nó phải kéo lôi mớ ḅng bong của vạn hữu ra khỏi sự tạp loạn của chúng để trở thành một trật tự có qui củ. Tiên khởi, chắc chắn là người ta không thể t́m thấy trật tự này trong chính bản thân của vạn hữu. Nhưng bản thân của vạn hữu lại chính là Pháp thân của Phật. Như vậy, thay v́ lần ḍ theo lời nói phát ra từ chính ḿnh, người ta phải bắt đầu bằng cách nghe lại từ lời nói của Phật. Chính lời nói ấy nói rằng những ǵ được nói lên, đều nói theo sự phản chiếu của vạn hữu. Vạn hữu phản chiếu lẫn nhau để trở thành những biểu tượng danh ngôn như vậy. Đây là lời nói của kinh Hoa Nghiêm: "Pháp như vậy là như vậy: không có tác giả, không có thành giả. Như vậy, bậc Ứng cúng, Đẳng chánh giác cũng như vậy". Nơi khác kinh nói: "Phật không có xuất hiện thế gian, cũng không có nhập niết bàn. V́ sức mạnh của đại nguyện mà hiển hiện pháp tự tại".
Những lời ấy muốn nói ǵ? Nghe được lời của Phật là nghe tiếng nói thầm lặng của vạn hữu. Nhưng làm sao để nghe? Vậy trước hết, hiểu cách nói của Phật. Cách nói ấy được coi như tùy tiện, và tùy thuận theo cơ cảm. Cách nói phản chiếu từ cách nghe. Cách nghe phản chiếu lại cách nói. Nói và nghe ràng buộc với nhau như trong thế giới cộng đồng của tác dụng. Sự ràng buộc ấy trở nên chặt chẽ, giống như bóng tối ràng buộc lẫn nhau trong thầm kín sâu xa. Đó là bên trong. Mặt ngoài chúng vẫn hiện ra trên một trật tự có qui củ. Từ đó suy diễn ra, vạn hữu phản chiếu lẫn nhau sẽ được coi như có hai phần, điển h́nh bằng thí dụ: sự phản chiếu của bóng tối với bóng tối. Đó là phản chiếu trong một trật tự không có trật tự. Kế đến, sự phản chiếu của ánh sáng với ánh sáng. Điển h́nh thứ ba và thứ tư: phản chiếu giữa ánh sáng và bóng tối. Qui định và phân phối tính cách phản chiếu này trong thế giới cộng đồng, ta sẽ t́m thấy vị trí cố định của cá thể.
Lời nói sẽ được coi như là sự phản chiếu củ aư nghĩa; và ngược lại. Ở đây, ư nghĩa cũng được coi như là sự phản chiếu của vạn hữu; và ngược lại. Vậy trật tự của vạn hữu sẽ được phối trí một cách tùy tiện, và tùy thuận với lời nói. Chúng ta tự phối trí lấy trật tự lời nói của chính ḿnh. Người nói và người nghe là một. Bởi thế, chỉ có tác dụng của nghe và nói mà không có tác giả. Khi được nói, ta đẩy lui những lời khác vào cơi miền u tịch thầm lặng. Toàn thể được hiển hiện. Khi toàn thể hiển hiện, cá biệt tự lẫn vào căn cơ thầm kín. Căn cơ này ở nơi chính nó và ở trong cà toàn thể. Ta nói để riêng ta nghe. Tự nghe những lời tự nói. Như thế, thế giới tự tác thành thế giới, bởi v́ vạn hữu được tác thành bởi chính ta. Ta là thế giới. Nhưng thế giới không tự hủy bản sắc của nó để trở thành thế giới là ta. Ta và thế giới vừa có giới hạn phân biệt, vừa bao dung lẫn nhau bằng phản chiếu vô tận. Bấy giờ, tự thành lại có nghĩa là tương thành, cùng đồng với thành tựu.
Nếu nghe ra được những chiều hướng tác động của lời nói từ ta nói lên, ta sẽ thâư niềm tương ứng, trong đó cả thế giới loài người, loài vật, cây cỏ, cùng nói và cùng nghe. Nghe một lời và nói lên trong sự hiển hiện của âm thanh và ánh sáng, là cùng lúc nghe ra những lời thầm lặng không nói trong sự ẩn mật tương ứng.
Chúng ta đi từ trật tự lư trí phân biệt, ở đó phân biệt giới hạn nghiêm khốc của những cá biệt, rồi tiến tới căn cơ của chúng, là niềm tương ứng được mệnh danh là chân tánh hư không. Nghĩa là từ duyên khởi mà suy diễn ra Tánh Không. Bởi v́, đó là niềm tương ứng nên chúng ta phát hiện được sự phản chiếu vô tận. Sau đó là sự thành tựu của ngôn ngữ, thành tựu từ phân biệt ở trong cái không phân biệt. Nói và không nói, chúng tự thành. A宠và hiển là tính cách tự thành và tương thành của vạn hữu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
kynhan Hội viên


Đă tham gia: 17 April 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 9
|
Msg 4 of 4: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 5:48am | Đă lưu IP
|
|
|
DUY TÂM HỔI CHUYỂN THIỆN THÀNH.
H́nh ảnh của thế giới trùng trùng vô tận bao giờ cũng dẫy đầy tính chất mộng tưởng, nếu từ sinh hoạt thực tế thường nhật mà nh́n lên. Ngoài tác dụng của tâm, không thấy đâu là khả năng sáng tạo nên một thế giới mộng tưởng như vậy. Kinh nói: "Sự hư huyễn của thế gian do một tâm tạo tác ra". Đâu là chiều hướng tác dụng của tâm. Và bằng khả năng nào mà tâm tạo dựng một thế giới mộng tưởng? Và đâu là giới hạn mộng tưởng của thế giới mộng tưởng đó?
1.- Tác dụng như là căn cơ sinh thành và hủy diệt.
Chưa phải lúc chúng ta quả quyết rằng tác dụng của tâm là thiết lập và hủy diệt thế giới. Dù vậy, mọi biến động của thế giới được công nhận bằng cách qui chiếu vào tác dụng của tâm. Thế giới trước mắt chúng ta chỉ là h́nh ảnh của một trật tự được phối trí bằng tương giao ngoại tại. Sự vật này liên tiếp sự vật khác diễn thành một trật tự an bài cố định. Chúng khởi lên nơi này và biến mất chỗ khác; khởi và diệt không do thế lực tác động từ trong ḷng của chúng. H́nh như ta phải quả quyết một thế lực tuyệt đối đứng chủ tŕ tất cả hoạt động khởi và diệt của vạn hữu. Qua quyết này muốn nói rằng, vạn hữu hoạt động trong các chiều hướng khởi và diệt có nghĩa là vận chuyển qua các vị trí sai biệt trong ḷng của thế lực tuyệt đối. Những ǵ mệnh danh là hợp lư, và ta nỗ lực cho sự hợp lư đó – sự hợp lư của trật tự vận chuyển; chúng phải được qui chiếu vào thế lực tuyệt đối. Thế lực mà tuyệt đối, tức là độc nhất, chỉ có moật căn cơ duy nhất và chân lư chỉ có một, không hai.
Có một lúc, ta không nói đến vận chuyển của các sự vật mà ta bắt gặp trong thế giới tương giao ngoại tại. Nhưng ta biết rơ tính cách vận chuyển của tâm. Thực sụ, chúng ta soi thấu bản tính vận chuyển của đó. Chỉ v́ các h́nh ảnh ta thâu nhận từ thế giới tương giao ngoại tại liên tục xuất hiện và biến mất theo tác dụng của tâm; rồi căn cứ theo đó mà qui định tính cách vận chuyển của tâm. Trong tác dụng này, một tự thể tự hữu và cá biệt vẫn liên tục xuất hiện và biến mất; và do tác dụng của tâm mà liên tục tính của sự thể đó được duy tŕ. Nơi đây ta nói thế giới không ngớt biến động, bởi v́ h́nh ảnh của thế giới trong tác dụng của tâm ta không ngớt biến động. Tác dụng của tâm như là căn cơ hợp lư của tất cả ư nghĩa sinh thành và hủy diệt.
2. Tác dụng như là căn cơ của nhân quả.
Nhân quả chúng ta thấy được từ thế giới tương giao ngoại tại không bộc lộ ư nghĩa tương sinh. Một sự thể trên một vị trí tự phân tán thành hai bên hai vị trí; cái đó chỉ đáng gọi là tương thành, không thể gọi là tương sinh. Tương thành lại chỉ đáng coi là đối đăi, không thực sự là tác dụng nhân quả. Nguời ta vẫn có thể hiểu rằng tác dụng nhân quả có hai chiều là tương thành trong chiều ngang và tương sinh trong chiều dọc. Dù vậy, nếu không suy diễn từ tính cách tương sinh, th́ tương thành chẳng có ư nghĩa ǵ hết. Chúng ta đạt được tác dụng của nhân quả bằng cách khám phá ra rằng sự thể tự phân tán thành nhiều giới hạn sai biệt của thời gian. Do giới hạn sai biệt này sự vật trở thành sai biệt với chính nó về tự thể, về sự tướng và về tác dụng; nói cách khác, sai biệt toàn diện như vậy, phải khám phá ra tính cách vận chuyển của sự vật trong chiều dọc của nó mới qui định được tác dụng nhân quả. Thực sự, chiều dọc của thế giới là h́nh ảnh phản chiếu từ tác dụng vận chuyển của tâm. Ta t́m thấy hiệu lực của tác dụng nhân quả bằng tự tâm, trong tự tâm: tác dụng của tâm như là căn cơ của nhân quả.
3. Khả năng sáng tạo thế giới mộng tưởng từ hư vô.
Mặc dù căn cơ của mọi tác dụng có hiệu lực, nhưng tâm không thực hiện các tác dụng với tư cách một bản ngă tuyệt đối. Nó không có một nội dung nào hết. H́nh ảnh của nó là h́nh ảnh phản chiếu của thế giới. Trước hết là h́nh ảnh của quá khứ. H́nh ảnh của một thế giới đă biến mất được kết tụ thành nội dung của tâm làm đối tượng cho các tri kiến phân tích và phân biệt. Tiếp theo là h́nh ảnh vị lai. H́nh ảnh của một thế giới sẽ xuất hiện phản chiếu trong tác dụng của tâm tạo cho nó một nội dung trống rỗng; đó là khả tính dung nạp của tâm. Sau hết h́nh ảnh của thế giới hiện tại; đứng giữa nội dung đầy và rỗng của tâm; đó là khả tính của vận chuyển.
Nội dung cụ thể của tâm là h́nh ảnh phản chiếu của thế giới; nội dung sống thực của thế giới là thế lực tác dụng của tâm. Ta nói thế giới đó là mộng tưởng, v́ lấy tác dụng của tâm làm nội dung sống thực. Ta lại nói tác dụng của tâm khởi lên từ hư vô, v́ nội dung đó chỉ là h́nh ảnh phản chiếu của thế giới. Thêm nữa, ta nói, thế giới do tâm tạo tác tức là thế giới tự tác và tự thành. Sau hết, chúng ta nói, thế lực tác dụng của tâm là khả năng sáng tạo thế giới mộng tưởng từ hư vô.
Đâu là giới hạn thực tế và mộng tưởng của thế giới tự tác và tự thành này?
HM. X. THÁC SỰ HIỂN PHÁP SANH GIẢI.
Tất cà những phân biệt của chúng ta chỉ có tính cách tượng trưng. Trước một yêu sách tuyệt đối; chúng ta phải nỗ lực đi cho tận cùng biên tế của ngôn ngữ, của tâm hành và của thế giới. Càng lúc ta càng bị lôi cuốn vào một nơi đầy những chi tiết vụn vặt. Dù không muốn sự phân tích trở thành tạp loạn và rời rạc; tất cả những h́nh ảnh đạt được không biểu lộ cho một ư nghĩa nào hết, ngoài sự biểu lộ một ước vọng, một chủ đích đă được nêu lên từ trước. Chủ đích đó la muốn thấy và hiểu những ǵ thầm kín nhất tàng ẩn trong ta. Gọi chúng là những năng lực tiềm tàng; năng lực biến hư vô thành tựu sự hữu; thành tựu tất cả sự hữu từ hư vô. Aưởng và sự thật không c̣n một giới hạn phân biệt nào nữa. Aưởng và sự thật được phân phối có điều độ, và được sử dụng như là phương tiện xảo diện: nỗ lực để thấy và hiểu ư nghĩa cứu cánh ngay trong giới hạn thông tục của sự thật.
Từ lúc khởi đầu, những ǵ ta muốn thấy và hiểu đều mang đầy tính chất dự tưởng, và nhất định là ảo tưởng. Bởi v́ không một sự thật nào trong tri kiến thông tục của chúng ta khả dĩ minh chứng. Nói năng và suy nghĩ như đếm dấu chân của một đàn chim vừa bay ngang qua hư không. Quả thật, chúng ta đă tạo ra một h́nh ảnh của thế giới, rồi sau đó phân tích, phân loại, phân phối trật tự, với cảm tưởng rằng thế giới đó như vậy, trong giới hạn thực tê của nó. Về sau, lại kiểm chứng hiệu lực của những điều đă thực hiện được. Tất cả mọi việc xảy ra đối với ta có vẻ sự thực hiển nhiên là như vậy.
Dù vậy, ít ra chúng ta cũng hiểu từ đâu thôi thúc. Đây là sự quyến rủ của mặt biển mênh mông vô hạn: Làm thế nào để thấy trọn vẹn cái vô hạn này như thấy một trái xoài trong tay? Đây là tiếng đổ ầm trong những đêm tối: nó mang ẩn nghĩa nào của thế giới? Trên những ngàn cao, cọng cỏ non đang ra sức chống trả nạn băo: đạu là giới hạn của sức mạnh?
Thấy và hiểu là bước khởi đầu của khát vọng thầm kín trong ta. Những bước kế tiếp là thực hiện tất cả sự thấy và hiểu đó; thực hiện trong nỗ lực thiết lập trật tự của ngôn ngữ của tâm hành và của thế giới; thiết lập mối quan hệ mật thiết giữa chúng. Ta hy vọng là t́m thấy khát vọng nào đó trong những thiết lập như vậy. T́m thấy để đối trị hoặc thỏa măn. Như thế, tất cả kinh nghiệm sống thực của chúng ta chỉ là những thí dụ điển h́nh: không có sự thực và biên tế của sự thực nào ở trong đó cả. Mặt biển là thí dụ điển h́nh của vô nạn. Ngọn thác từ trên cao đổ xuống là thí dụ điển h́nh cho sự suy sụp của thế giới.
Như vậy, căn cứ trên dị thể và đồng thể, tác dụng của tâm hành lấy thực tại kinh nghiệm làm nội dung cụ thể, rồi từ đó thiết lập trật tự của ngôn ngữ. Trật tự này phản chiếu trên các tác dụng của tâm hành. Trật tự của thế giới được ghi nhận theo các tác dụng này. Đó là khả tính, khả năng của thí dụ. Ta có thí dụ, sự diễn tả của ngôn ngữ càng có thế lực. Nơi đây là chỗ thiết lập qui ước cho mọi tác dụng trong thế giới sinh hoạt cộng đồng.
Sa môn Tịnh Nguyên, trong bản giải thích Kim sư tử chươngcủa Hiền Thủ quốc sư, mở đầu viết: "Chánh pháp mà không có thí dụ th́ không tỏ rơ. Thí dụ không y theo Chánh pháp th́ không thể có. V́ vậy bậc chí nhân thấy rạng bản tánh Nhất chân không có chút nào sai khác; ngài đem con sư tử bằng vàng ra mà mô tả. Thấy phẩm chất của quần sinh không đồng đều, ngài lập chương mục của chánh pháp để hướng dẫn."
Kinh nói: "Hết thảy mọi pháp giới trong vô số thế giới như hư không, thảy đều dùng đầu của một sợi lông mà đo lường khắp. Mỗi một đầu của sợi lông ở ngay trong một niệm, hóa ra vô số thân nhiều như vi trần bất khả thuyết bất khả thuyết. . . "
Đoạn kinh này mô tả năng lực thiết lập Chánh pháp của Phật. Chánh pháp được biểu lộ ngay nơi các sự vật như trên đầu sợi lông, trong mỗi hạt bụi. Tùy theo căn tánh, sự tiếp thu của chúng sanh trở nên bất đồng.
H́nh ảnh của một thế giới như đă mô tả chỉ có thể mô tả và bằng vào dự tưởng, được gợi hứng từ khát vọng nào? Người ta phải trở lại thế giới thường nhật để t́m thấy sự thúc đẩy của nó.
Một cánh nhạn đang bay giữa bầu trời bát ngát:
Hứa đa cảnh giới hà lai khứ
Vạn lư thiên biên nhất nhạn phi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|