Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 217 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: ĐẠO và đạo khác nhau thế nào?? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 1 of 7: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 6:40am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


ĐỊNH NGHĨA CHUNG: ĐẠO LÀ G̀?

Cao Phương Kỷ

Danh từ “ĐẠO” (chữ hoa) hay “đạo” rất thông dụng trong ngôn ngữ Việt nam, nên cần truy tầm ư nghĩa căn do của chữ đó bởi đâu mà ra! Ta thường được nghe thấy chữ đó ghép với các danh từ khác như: Đạo Thiên Chúa, Đạo Công Giáo, Đạo Phật... hoặc Thiên Đạo, Địa Đạo, Nhân Đạo..; (viết theo lối chữ thường) như: đạo vợ chồng, đạo làm con, đạo làm người, đạo xử thế…, lănh đạo, hướng đạo.., việc đạo, việc đời, việc đạo đức…

1. Định Nghĩa về Chữ “ĐẠO” và “đạo”

Theo nghĩa đen, chữ Hán-Việt “đạo”, có nghĩa là đường đi, hay đường lối cách thức, luật lệ, như: độc đạo (đường một chiều), hướng đạo, quĩ đạo... (Chú ư: chữ đạo, “đồng âm dị nghĩa”, vừa có nghĩa là "đường đi", vừa có nghĩa là “nói” như danh từ “đàm đạo”; ngoài ra, c̣n một nghĩa nữa là “trộm cướp” như “đạo tặc”, v.v.: trong Hán tự, mỗi ư nghĩa có một chữ viết khác, không giống tiếng Việt, vừa viết, vừa đọc âm là một chữ).
Theo nghĩa bóng, nghĩa trừu tượng, siêu h́nh, nhưng chưa thật là huyền bí, th́ chữ “đạo” chỉ đường hướng, chính sách, bổn phận, phận vụ, hay đặc tính, đặc điểm, đă ấn định riêng cho từng sự vật, từng con người trong vũ trụ. Chẳng hạn, theo Nho giáo, trong câu nói: “đạo làm con phải thảo kính cha mẹ” (chữ “đạo”, viết lối chữ thường, để phân biệt với chữ “ĐẠO”, chỉ Nguyên Lư Siêu Việt), th́ chữ “đạo” là đường lối cư xử, là bổn phận phải làm, lư tưởng phải theo, lề luật phải giữ cho hợp với phận sự làm con đối với cha mẹ.

Do đó, từ thế giới hữu h́nh, tương đối, gọi là"H́nh Nhi Hạ Học", người ta “vượt” lên “H́nh Nhi Thượng Học”, tức cơi huyền bí, rồi lư luận rằng: trên mọi vật, mọi loài, trên hết các “đạo” tương đối, phải có một “ĐẠO” (luôn viết chữ hoa) Phổ Biến, Tuyệt Đỉnh, bao trùm tất cả các “đạo” (viết chữ thường), và làm Mẫu Mực cho muôn loài. ĐẠO ấy rất huyền bí, vô h́nh, vô tượng, là Nguyên lư, Nguồn Gốc của vũ trụ, là Cơ Cấu, Là Đường Hướng Vận Chuyển, Biến Hóa, Điều Ḥa của muôn vật muôn loài. Ta sẽ bàn luận thêm ở dưới (149).

2. Lai lịch về Ư Niệm “ĐẠO”

Quan niệm “ĐẠO” phổ biến, tuyệt đối này được tất cả các tôn giáo, triết lư thời cổ cùng dùng, tuy mỗi môn phái giải thích khác nhau. Bởi vậy, Đức Khổng Phu Tử nói: “Sáng nghe Đạo, tối chết cũng đáng “ (triêu văn Đạo, tịch tử khả hỉ, Luận Ngữ 4:8). Phật giáo cũng dùng chữ ĐẠO để chỉ lúc được giác ngộ, đốn ngộ (sudden Enlightenment) là lúc được “kiến Đạo”(151).
Theo Lịch sử triết học Trung Hoa, ta thấy môn phái của Dương Chu, Lăo Tử, Trang Tử được gọi là “đạo gia” (taoist). Nhưng các vị danh nho như Chu Hi, Vương Dương Minh (Nho giáo) cũng gọi là “đạo gia”, v́ phong trào phục hưng Khổng học của họ mang tên “Đạo Học”
Các đạo gia của Nho Giáo như Hàn Dũ (768-824) và Lí Ngao (chết 844?) cho rằng việc truyền Chân Lư hay Đạo bắt đầu từ các Thánh Vương Nghiêu-Thuấn cho đến Khổng Tử, Mạnh Tử là chấm dứt. Sau đó, không ai hiểu đúng về Đạo, về Chân Lư Tuyệt Đối nữa! “Cái ta gọi là Đạo, không phải là cái Đạo của Lăo Tử và Phật. Vua Nghiêu lấy Đạo truyền cho Vua Thuấn. Vua Thuấn truyền cho Vua Vũ (sáng lập nhà Hạ). Vua Vũ truyền cho Vua Văn, Vũ, Chu Công (ba người sáng lập nhà Chu). Văn, Vũ, Chu Công truyền cho Khổng Tử. Khổng Tử truyền cho Mạnh Tử”… Các đạo gia như Chu Hi lập ra phái Lư Học và Vương Dương Minh lập ra phái Tâm Học, cũng là tiếp tục ngành lư tưởng của Khổng Học, nhất là khuynh hướng thần bí của Mạnh Tử(152).

Trái lại, các đạo gia của môn phái Lăo-Trang lại muốn dành phần ưu thắng cho học thuyết của ḿnh. V́ thế, Trang Tử cho rằng nho gia (Khổng Học) chỉ biết “lề lối chế độ” cụ thể, chứ không biết ǵ tới nguyên lư tiềm ẩn, c̣n đạo gia (Lăo-Trang) th́ biết"nguyên lư" chứ không biết lề lối chế độ. Nói cách khác, nho gia chỉ biết “ngành” của Đạo, chứ không biết phần "cội rễ" của Đạo; c̣n đạo gia th́ biết căn bản chứ không biết ngành.
Nói tóm lại, ư niệm về “Đạo”, là một cố gắng của các nho gia, đạo gia, thiền gia, đi t́m Một Chân lư độc nhất làm căn nguyên cho sự hiện hữu của vũ trụ mà họ tạm gọi là Đạo. Nhưng mỗi môn phái, triết thuyết chỉ bàn về một khía cạnh nào đó của Đạo mà thôi. V́ thế, nếu muốn hiểu biết ư niệm về Đạo một cách đầy đủ hơn, cần phải phối hợp các khái niệm lại để chúng bổ túc cho nhau. Mối ưu tư chung của các triết gia Đông Phương là t́m về một nguồn độc nhất của vạn sự vạn vật. Tư tưởng, triết lư chỉ đạo là “lẽ nhất quán” của vũ trụ, tức là Nhất Nguyên Luận (Monism). Do đó, có thể nói, triết lư Đông phương là những cố gắng suy tư để giải thích những quan niệm thống nhất như: “vạn vật nhất thể”, “thần nhân tương dữ”, “tam tài”… Muôn vật muôn loài chung qui chỉ có một mối mà thôi như lời phát biểu của Khổng Tử: “Thiên hạ lo ǵ nghĩ ǵ? Thiên hạ tuy có nhiều đường khác nhau, nhưng cũng về một mối, trăm điều lo nghĩ mà vẫn quay về một mối. Thiên hạ lo ǵ nghĩ ǵ? (Thiên hạ hà tư hà lự? Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự. Thiên hạ hà tư hà lự? Hệ từ hạ). (153).

PHÂN BIỆT “ĐẠO” VÀ “đạo”

Tất cả các triết gia thời cổ đều cố công đi t́m “ĐẠO”, tức Chân Lư Tuyệt Đối, như một cứu cánh cần vươn tới. Nhưng cách suy tư, diễn tả Chân lư đó rất khó khăn, và phức tạp, v́ Thực Tại đó là Siêu Việt, thuộc “H́nh Nhi Thượng”, vô h́nh, c̣n trí khôn loài thụ tạo, và ngôn từ thuộc loài tương đối. Do đó, cần phải nghiên cứu riêng từng môn phái đối với ư niệm Đạo, để giúp ta có một cái nh́n tổng quát và đầy đủ hơn về Chân Lư Tuyệt Đối đó.

1. Phân Biệt hai Ư Niệm về “ĐẠO” và “đạo”

Các nho gia phân biệt hai ư niệm: một là “ĐẠO” (viết chữ hoa, trong Việt ngữ), để chỉ chính Nguyên Lư Thuần Nhất, từ đó phát sinh và biến hóa vạn sự vạn vật trong vũ trụ; hai là, “đạo” (viết chữ thường), trong “Dịch Truyện” để chỉ những cái “lư” rất phức tạp, chi phối từng loại, từng sự vật khác nhau trong vũ trụ. Mỗi loài có cái “lư”, hay cái “đạo” riêng của nó. Chẳng hạn, “đạo làm người”, nghĩa là ǵ? Hễ ai là người th́ cũng có “đạo” ấy, tức là cái làm cho giống người, khác hẳn với các giống khác. Cho nên, “đạo làm người”, tức là các đặc tính, đặc điểm, bổn phận, nghĩa vụ, phận sự… tạo thành cấu kết nên một con người, một cá nhân cụ thể. Vậy, ư nghĩa của câu nói: “đạo làm người”, là nhắn nhủ ta hăy cư xử, hành động, tư tưởng cho thích hợp với địa vị, và bản tính của con người “linh ư vạn vật”, phải sống làm sao “cho ra cái giống người”! (Tú Xương).
Ư niệm về “đạo” này đă được Đức Khổng Tử áp dụng vào luân lư, đạo đức, tức “Chính Danh Định Phận”. Theo học thuyết này, mỗi người phải ăn ở, cư xử cho thích hợp với danh xưng của chính ḿnh. Chẳng hạn, câu nói: “đạo làm con”, phải phụng dưỡng cha mẹ. Vậy “đạo làm con” không được làm ǵ? Nếu là nguời con mà ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, th́ không c̣n xứng đáng gọi ḿnh là “con” nữa, v́ danh xưng “con”, phải kèm theo những bổn phận, nghĩa vụ của nó, danh nào, bổn phận nấy. Cũng thế, “đạo vợ-chồng”: nếu muốn xứng với danh hiệu đó, th́ vợ chồng phải chung thuỷ với nhau, yêu thương, tôn trọng nhau… Trái lại, vợ hay chồng bất trung với nhau, lỗi bổn phận, th́ không c̣n xứng đáng mang danh là vợ, là chồng nữa! (154).

Ta có thể so sánh ư niệm “đạo” với ư niệm "cộng tướng" (universal) trong triết học Tây phương hay "biến hạng" (variables) trong công thức toán học hay Luận lư học tượng trưng (symbolic logic). Một biến hạng a, b, c,… thay thế cho một “loại” hay nhiều “loại” vật cụ thể, cùng có những đặc điểm, đặc tính như nhau. Cần nói thêm: ư niệm “đạo” theo Khổng Tử nghiêng về bổn phận luân lư, c̣n ư nghĩa chữ “đạo” trong “Dịch Truyện” mang tính chất trừu tượng, siêu h́nh hơn, như sẽ bàn ở dưới đây.

2. Ư Niệm “đạo” Dùng Trong Dịch Kinh

Theo Lịch sử Triết Học Trung Hoa, Dịch Kinh vốn là sách dùng để bói toán. Sau này, các nho gia đă thêm vào một phần gọi là “Dịch Truyện”(Appendices) gồm những bài chú giải về nguồn gốc vũ trụ, siêu h́nh, và luân lư. Theo truyền thuyết, Dịch Kinh do Phục Hy hoặc Văn Vương lập ra.

Ở đây, không cần biết về bói toán như cát, hanh, lợi..., nhưng chỉ xét xem những “công thức” trong Dịch Kinh tượng trưng cho ư nghĩa ǵ. Chu Hi phân biệt hai loại: “Quẻ Đơn”, và “Quẻ Kép”. Quẻ đơn gồm có tám quẻ đơn, gọi là “bát quái”
“Quẻ Đơn” có ba gạch, mỗi gạch gọi là hào:
KIỀN ĐOÀI LY CHẤN TỐN KHẢM CẤN KHÔN
“Quẻ Kép” gồm có sáu hào do sự phối hợp đắp đổi chồng nhau của hai Quẻ đơn mà thành ra (8x8) là 64 “quẻ sáu vạch”, tức là 384 hào.

KIỀN KHÔN
Mỗi “quẻ đơn”, mỗi “quẻ kép”, mỗi “hào” được coi là những “công thức”' và mỗi “công thức” biểu tượng cho một “đạo” hoặc nhiều “đạo”. Người ta cũng giả thiết rằng: những lời bàn, lời giải của các triết gia về 64 quẻ kép và 384 hào là biểu thị cho tất cả các “đạo” ở trong vũ trụ. Chẳng hạn, quẻ KIỀN và các hào của nó biểu thị cái “đạo” của các loài, các vật “mạnh”, trong vũ trụ. Do đó, vật nào, loài nào có đủ điều kiện về “mạnh”, th́ được xếp loại vào trong “công thức” tượng trưng cho “Kiền”. Trái lại, quẻ kép và hào của “KHÔN” đều biểu thị cho “đạo” của các loài, các vật có điều kiện “thuận”. Bởi vậy, người xưa cho rằng, nếu muốn biết “đạo” của người chồng phải thế nào, th́ coi xem quẻ Kiền trong Dịch Kinh nói ǵ; trái lại, nều muốn biết “đạo” của người vợ th́ coi quẻ Khôn.(155). ( Chú ư: ư niệm “đạo” đă được Tŕnh Di và Chu Hi suy diễn để làm thành ư niệm “lư” trong thuyết “LƯ HỌC”, như sẽ bàn sau).

(c̣n tiếp...)
Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 2 of 7: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 6:47am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


ĐẠO: NGUỒN GỐC, BẢN THỂ, SINH HÓA CỦA VŨ TRỤ


Nếu trong vũ trụ này, loài nào, vật nào cũng đều có cái “đạo” của nó, th́ xét về mặt toàn thể thống nhất của , vũ trụ, ta nhận thấy cái “đạo” bao trùm của tất cả các “đạo”, chính là “ĐẠO” Đơn Nhất, Thuần Nhất, Tuyệt Đối, phát sinh và biến hóa mọi vật mọi loài. ĐẠO này làm Mẫu Mực Tối Thượng cho sự vận hành, cho “đường hướng” của toàn thể vũ trụ.


1. ĐẠO và ÂM-DƯƠNG: SINH HÓA CỦA VŨ TRỤ

Trong Hệ từ (Dịch truyện III) có câu: “Một DƯƠNG một ÂM: gọi là ĐẠO” (Nhất Dương nhất Âm vị chi Đạo). Câu này có ư nghĩa triết lư, siêu h́nh như thế nào? ĐẠO là Nguyên Lư linh diệu, huyền bí vô cùng, ta không thể hiểu được rơ chân tính, chân tướng, hay bản thể của ĐẠO ấy. Nhưng ta có thể quan sát sự biến hóa, sinh thành của vạn vật mà biết được cách thức hành động của Đạo ấy biểu lộ ra trong thiên nhiên như thế nào. Muốn sản xuất một vật ǵ th́ cần phải có “động tác”, tức năng lực phát sinh ra nó, đồng thời lại phải có “chất liệu” để tạo ra nó. Một bên là hành động, là “động”, bên kia là thụ động, là “tĩnh”. Động-Tĩnh đi liền nhau, khác nhau nhưng đối đáp, tương đối, điều ḥa với nhau, hợp tác với nhau. Yếu tố chủ động và mạnh đó là DƯƠNG, yếu tố thụ động và thuận đó là ÂM. Trên b́nh diện siêu h́nh, Âm-Dương tức là Luật Tương Đối, Điều Ḥa, TrungḤa của ĐẠO. Cho nên, Đạo của vũ trụ khởi đầu bởi sự biến hóa của hai cái Tương Đối đó. Nên chú ư: chữ Âm và Dương không có ư nghĩa tự tại, tuyệt đối, tức là một vật không nhất định luôn luôn là Âm, hay là Dương, nhưng nó thay đổi tùy sự tuơng đối, tương quan với các vật khác.

Chẳng hạn, bà hoàng hậu là “Âm” tương đối với vua là “Dương”; nhưng bà lại là “Dương” khi so sánh bà là mẹ sinh ra hoàng tử; v́ thế, biểu hiệu của bà là con chim đậu phía Nam, mùa của Dương, hạ chí. Hoàng đế là “Dương “đối với dân, nhưng là “Âm” đối với “Thái Cực” (Thái Nhất). Nếu nh́n vào h́nh của Thái Cực (ở chính giữa), ta thấy một h́nh tṛn chia làm hai phần bằng nhau, phần trắng chỉ Dương, phần đen chỉ Âm, nhưng trong phía Âm có một “chấm trắng”, và trong phần Dương có một “chấm đen”. Chấm trắng đó có nghĩa là: trong Âm đă chứa đựng “mầm mống” của Dương và chấm đen đó nghĩa là: trong Dương đă chứa sẵn “mầm mống” của Âm (coi h́nh Thái Cực và bát quái).


Nói tóm lại, những danh từ Âm, Dương, khởi đầu theo nghĩa đen để chỉ sáng-tối, nam-nữ, trống-mái, đực-cái…, nhưng về sau dùng trong “H́nh nhi thượng học” (siêu h́nh học) những chữ đó đă đổi sang ư nghĩa trừu tượng ám chỉ các lực lượng tương phản, tương đối nhau. Trong Dịch Kinh, biểu tượng cho Dương là một gạch liền (___), và Âm là gạch đứt
(_ _). Cặp Âm-Dương đó (_ _ và ___) đă phối hợp mà làm ra “bát quái”, tức tám” quẻ ba đơn”, (mỗi quẻ ba gạch), và 64 “quẻ sáu kép”, (mỗi quẻ sáu gạch), cả thảy là 384 hào (gạch), tức là những “đạo”, những thế lực vô h́nh chi phối sự vận chuyển trong vũ trụ (156).


2. LƯ THÁI CỰC Là Ǵ?

Trong Hệ từ (Dịch Kinh) cũng có câu: “Đạo Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh ra hai nghi, hai nghi sinh ra bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ (Dịch hữu Thái Cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái). Tất cả các danh từ trong câu trên đây đều có ư nghĩa siêu h́nh biểu thị Luật Điều Ḥa, Tương Đối mà ta suy diễn được trong cách thức biến hóa, sinh thành của vũ trụ. Đối chiếu với câu trên th́ ĐẠO là (LƯ) THÁI CỰC, và Âm-Dương là Lưỡng Nghi...


Bởi vậy, ĐẠO hay (LƯ) Thái Cực vô cùng huyền bí, tâm trí con người không thể hiểu được bản thể linh diệu vô biên đó, nhưng có thể quan sát cái động thể của ĐẠO (Lư Thái Cực) để biết các sự vật sinh thành, biến hóa làm sao. Nho gia chỉ chú trọng nghiên cứu cái động thể mà thôi! Ta thấy vạn vật luôn sinh hóa, biến đổi không ngừng: đó là ư nghĩa của chữ DỊCH (Dịch là biến đổi) và biến hóa theo Luật Tương Đối, tức Luật Âm-Dương. Âm-Dương theo lẽ Điều Ḥa mà sinh ra Ngũ Hành là Thuỷ, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ. Những danh từ này cũng phải hiểu theo nghĩa siêu h́nh, ám chỉ “đạo”, lực lượng vô h́nh đối đáp nhau để phát sinh vạn vật và lôi kéo vạn vật biến chuyển một cách điều ḥa, trung ḥa. Nói tóm lại, theo nho gia, mọi sự mọi loài hiện hữu đều do ĐẠO mà ra và đều có cùng một nguồn gốc là ĐẠO. Đó cũng là ư nghĩa của thuyết: “Vạn Vật Nhất Thể”.


NGŨ HÀNH: CẤU TRÚC CỦA VŨ TRỤ.

Như ta đă thấy ở trên, các nho gia đă dùng triết lư Âm-Dương điều ḥa theo Luật Tương Đối để chứng minh cho thuyết “Vạn Vật Nhất Thể”, vạn sự vạn vật đều bởi một nguồn gốc là “ĐẠO” mà ra. Các nho gia c̣n t́m phương thức để giải nghĩa cái cấu trúc của vũ trụ được xếp đặt và vận chuyển như thế nào. Đó là thuyết về “NGŨ HÀNH”' sau đó, mới cắt nghĩa sự liên đới giữa thiên đạo, nhân đạo, và địa đạo để chứng minh cho thuyết “Thần-Nhân Tương Dữ”, “Tam Tài”, “Hồng Phạm”, “Cửu Trù”, “Mục đích luận”, “Duy cơ luận”,…

1. Thuyết “Ngũ Hành” là ǵ?

Quan niệm về “Ngũ Hành”, là thiên thứ nhất trong “Cửu Trù”. Ngũ Hành gồm có: thứ nhất là Thuỷ, nh́ là Hỏa, ba là Mộc, bốn là Kim, năm là Thổ. (Tính chất của) Thuỷ là ướt và xuống. Hỏa là cháy và lên. Mộc là cong và thẳng. Kim là nhường và đổi. Thổ là gieo giống, gặt hái.

Như trên đă tŕnh bày về thuyết Âm-Dương, các triết gia đi từ những quan sát các vật cụ thể, các hiện tượng thiên nhiên như: sáng-tối, ngày-đêm, nóng-lạnh, giống đực-giống cái, nam-nữ,… để rút ra những ư niệm trừu tượng, siêu h́nh, tức là nói theo kiểu ngày xưa, từ “H́nh nhi hạ học” vượt lên “H́nh nhi thượng học”. Quan niệm về Ngũ Hành cũng vậy. Khởi đầu, Ngũ Hành chỉ những chất như nước, lửa, gỗ, kim loại, đất… cấu kết nên thế giới, vũ trụ này. Nhưng theo lư luận siêu h́nh học, Ngũ Hành ám chỉ những thế lực điều khiển sự vận chuyển, biến hóa của lịch sử nhân loại, và là nền tảng của các triết thuyết như: “Vạn vật nhất thể”, “Thần-Nhân tương dữ”, v.v.


Chữ “Hành” nghĩa là “làm”, hoạt động, nên ngũ hành, theo nghĩa đen là năm hoạt động hay năm tác nhân (agents). Người ta cũng gọi là “Ngũ Đức”, năm thế lực. Về phương diện nguyên liệu, chất liệu, Ngũ Hành là năm yếu tố cấu thành vũ trụ. Do đó, chữ “hành” lại có nghĩa là “yếu tố” (element), trong đó Hành Thổ ở giữa (Trung Cung) là căn cơ và cũng là cùng đích của muôn vật. Ngũ Hành là năm yếu tố cộng thêm yếu tố cốc (lúa) là sáu yếu tố cần thiết cho sự sống. V́ thế, vị quân vương và mọi người phải chăm lo khai thác, mở mang kinh tế, nông nghiệp và kỹ nghệ, th́ dân mới no, mới giầu, nước mới mạnh được. Về phương diện không gian, Ngũ Hành chiếm năm vị trí chính yếu là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung. Về thời gian, Ngũ Hành biểu thị năm thời đại khác nhau, năm mùa khác nhau, bốn mùa “biến thiên” bên ngoài và một mùa “hằng cửu” bên trong vừa là mùa hoàng kim khởi thuỷ, vừa là mùa Hạnh Phúc lư tưởng lúc chung cuộc.


Về phương diện siêu h́nh, Ngũ Hành gồm một Trung Điểm bên trong và “tứ tượng” bên ngoài, tức là gồm cả huyền cơ về bản thể, về nguyên lư hằng cửu, tức lư Thái Cực ở bên trong, và bốn hiện tượng, tức dịch lư biến thiên ở bên ngoài. Tứ tượng là bốn hiện tượng, trạng thái biến đổi của một bản thể bất biến. Do đó, theo nghĩa siêu h́nh huyền bí, chữ “Hành” phải hiểu là “đạo”, là” diễn biến” (processus) của một nặng lực trung tâm phát ra tứ phía đồng thời thay h́nh đổi dạng khác nhau tùy chỗ. Cách thức biến đổi đó khi th́ có tính chất chảy, uyển chuyển, lúc th́ cứng rắn, nóng nảy. Hành “Thổ” ở giữa, v́ tính chất mầu mỡ của đất để sinh sản hoa mầu, nên tượng trưng cho năng lực sáng tạo của Thiên, của Nguyên Lư Tuyệt Đối. Do đó, vạn sự vạn vật, mọi biến thiên trong vũ trụ, chung cuộc đều bởi một “ĐẠO” mà ra, để chứng minh cho thuyết “Vạn vật nhất thể”(157).


Theo lư luận siêu h́nh, “ĐẠO” đó đă biến ra “Ngũ Cung”, trong âm nhạc cổ truyền. Thiên (ĐẠO) xướng dấu nhạc, và Địa đáp lại bằng tiếng “cồng”' và tiếng cồng đó vang dội ra bốn phương, thành ra bốn cung, rồi tiếng cồng và bốn cung hợp nên Ngũ Cung, tất cả đều phát xuất từ một “Đạo” mà ra. (158).


Chú ư: Trung Hoa lấy tứ Linh (bốn con vật thiêng) là: Long, Li, Qui, Phượng, để tượng trưng cho tứ tượng.


2. Liên Đới giữa Thiên-Đạo, Nhân-Đạo, Địa-Đạo


Từ cách thức cấu trúc của vũ trụ, tức cách xếp đặt và vận chuyển của Ngũ Hành, các triết gia suy diễn ra sự liên đới giữa Thiên-Đạo, Nhân-Đạo, và Địa-Đạo, để lập ra các thuyết sau đây:

a) Thần-Nhân tương dữ (Trời và người có quan hệ với nhau). Theo thuyết này th́ đời sống con người mật thiết lên hệ với thiên nhiên và nhất là Thiên Lư, Thiên Mệnh, tức Đấng Tạo Hóa. Thuyết này cũng được hai thuyết khác hỗ trợ là Mục đích luận (teleology), và Duy cơ luận (mechanistic).

b) Mục Đích Luận. Thuyết này chủ trương vạn sự vạn vật, và mọi biến cố, hiện tượng trong vũ trụ đều đă được xếp đặt theo một mục đích, một ư hướng nào đó, do bàn tay sáng tạo và chỉ vẽ của một Đấng Thượng Trí siêu phàm nên vũ trụ mới có trật tự, ḥa hợp. Vả lại, vũ trụ này được tạo dựng với mục đích là phục vụ con người. Do đó, nếu con người–đặc biệt vị quân vương được coi là đại diện cho dân nước–không tuân giữ Thiên Mệnh, tức Mệnh Lệnh của Trời, hay xử sự trái với Thiên Lư, Thiên Đạo, th́ sẽ gây nên các tai họa trong thiên nhiên như lụt lội, băo táp, mất mùa. Đấy là những lời cảnh giác nhà vua phải sửa sang lại việc cai trị cho hợp với Thiên Mệnh.

c) Duy Cơ Luận. Thuyết này coi vũ trụ là một guồng máy, trong đó mỗi vật, mỗi loài là một bộ phận. V́ vũ trụ là một toàn thể, một khối, nên mỗi bộ phận đều liên quan đến nhau. Khi một bộ phận hư hỏng th́ cũng liên lụy, cũng gây tai hại cho các bộ phận khác nữa.

d) Hồng Phạm Cửu Trù, Nguyệt Lệnh. Trong tinh thần ḥa hợp Thiên Đạo, địa đạo, và nhân đạo, người xưa đă đặt ra những qui tắc về luân lư đạo đức, về cách cai trị dân nước cho các bậc quân vương được gọi là “thiên tử”, hầu đem lại hạnh phúc, an ḥa cho toàn dân. Những qui tắc đạo đức đó được giải thích trong chương HỒNG PHẠM rút ra từ Thư Kinh (Sử kư, phần V, quyển IV). Hồng Phạm nghĩa là “khuôn lớn”, là mẫu mực cao cả mà các vị quân vương phải noi theo trong việc cai trị dân nước. Đó là Hiến Chương nền tảng dạy các vị quân vương cách thức thay Thiên (Trời) để trị dân. Theo truyền thuyết, Vơ Vương v́ muốn biết rơ phương pháp trị dân cho hợp với Thiên Mệnh, nên đến hỏi ư kiến Cơ Tử. Cơ Tử tâu vua: v́ vua biết cách trị thuỷ, nên Trời ban cho vua Hồng Phạm Cửu Trù. Và Cơ Tử lần lượt giảng giải chín thiên Hồng Phạm cho vua Vơ, sáng lập ra nhà Hạ (khoảng 2205, trước Chúa Cứu Thế giáng trần). Hồng Phạm Cửu Trù được xếp theo Lạc Thư, như sẽ tŕnh bày ở dưới.

Hồng Phạm chia ra “CỬU TRÙ” (Nine Categories), tức là chín phạm trù ghi chép những đức tính và những việc vị quân vương phải theo để ḥa hợp với thiên nhiên diễn ra trong không gian và thời gian. Trong chín thiên, th́ thiên 5 là quan trọng nhất v́ giảng giải về đức độ của vị quân vương; 4 thiên truớc bàn về cách thế để đạt tới đức độ toàn thiện; 4 thiên sau bàn về phương pháp giữ ǵn đức độ ấy. Ta nên biết: ư niệm về Ngũ Hành được tŕnh bày trong thiên một của Hồng Phạm Cửu Trù xếp theo Lạc Thư .(159).

Ngoài Hồng Phạm, tập tài liệu ngắn, nhưng được coi là cổ nhất của triết lư Trung Hoa, c̣n có “NGUYỆT LỆNH” t́m thấy trong tác phẩm “Lă Thị Xuân Thu” vào cuối thế kỉ thứ ba trước Chúa Cứu Thế giáng trần. Về sau được đưa vào sách Lễ Kí. Đặt tên là Nguyệt Lệnh, v́ là cuốn lịch ghi những bổn phận mà vua và dân phải làm hàng tháng để giữ mối giao hảo, hoà hợp với thiên nhiên, theo thời gian và không gian.

e) HÀ ĐỒ, LẠC THƯ, T̉A MINH ĐƯỜNG là ǵ? Như ta đă thấy các triết gia dùng những vật cụ thể như các hiện tượng thiên nhiên đối đáp thay thế nhau để suy tư và rút ra những lư thuyết về siêu h́nh, về nguồn gốc, về cơ cấu của vũ trụ. Các triết gia thời xưa cũng thích dùng những con Số và gán cho chúng những ư nghĩa siêu h́nh, ma thuật (magic), kết thành những h́nh đồ dùng để cắt nghĩa về sự vận chuyển của vũ trụ như ta sẽ thấy trong Hà Đồ, Lạc Thư, nhà Minh Đường. Có thể nói: đó là h́nh ảnh, bản đồ về Thế Giới, làm biểu tượng cho vũ trụ quan của người thời xưa.

Ta không chú ư đến những truyền thuyết hoang đường, hay những con vật thiêng như con rùa, con rồng, hoặc các con Số ma thuật, v.v. Nhưng chỉ chú trọng vào ư nghĩa tượng trưng tiềm tàng ở bên trong các h́nh ảnh đó, để hiểu biết xem người xưa quan niệm thế nào về vũ trụ, và nhất là về Một Đấng Hóa Công tạo dựng và an bài vạn sự vạn vật.

HÀ ĐỒ, LẠC THƯ, là ǵ?

Hà là sông, Đồ là họa đồ, bản đồ; do đó, Hà Đồ là “Họa Đồ của con Sông”. Sông nào? Đó là sông Lạc, một sông nhánh của sông Hoàng Hà, nơi phát xuất nền văn minh cổ của Trung Quốc, có thủ đô cổ tên là Lạc Dương, đời nhà Chu (1122 B.C). Chữ Thư, nghĩa là sách, bản văn, bản chép (ngày nay, "đồ thư" nghĩa là thư viện). Cho nên Lạc Thư là bản văn của sông Lạc. Có truyền thuyết cho rằng: vua Phục Hi đi chơi dọc sông, thấy có con "long-mă"(ḿnh ngựa đầu rồng) nổi lên, trên lưng có bức đồ. Phục Hi theo đó mà vẽ ra "Hà đồ"; c̣n Vua Vũ có công trị thuỷ, nên được Trời sai một con rùa nổi lên mặt sông Lạc, mu rùa có h́nh vẽ về vũ trụ. Vũ vương theo đó làm ra "Lạc Thư”.

Theo các nhà khảo cổ th́ Hà Đồ, Lạc Thư, cùng với Cửu Đỉnh của vua Vũ mai một đi, không c̣n ai để ư tới nữa, sau khi triều đại nhà vua đă mất. Măi tới đời nhà Tống, thế kỉ 12, th́ lại thấy Hà Đồ Lạc Thư tái xuất. Nhưng các triết gia Trung Hoa cũng không ngưỡng mộ ǵ Hà Đồ Lạc Thư của nhà Tống. Dầu sao, đối với các học giả và dân chúng, họ chỉ quan tâm đến ư nghĩa về những con số dùng để biểu tượng, h́nh dung về cách xếp đặt, và cách xoay vần của vũ tru.

Bởi vậy, ta t́m thấy ư nghĩa ǵ về vũ trụ qua cách xếp đặt những con số trong HÀ ĐỒ của nhà Tống? (coi:trang 475), ta thấy các chấm tṛn trắng chỉ Dương, số lẻ, các chấm tṛn đen chỉ Âm, số chẵn. Mười số đầu xếp h́nh Thập Tự, số 5 và 10 ở chính giữa. Đó là cách xếp đặt của Nguyệt Lệnh và thiên một của Hồng Phạm, tức Ngũ Hành, những con số là biểu tượng ám chỉ Ngũ Hành, Phương hướng và các Mùa. Số 1, 2, 3, 4, 5 (ṿng trong); và 6, 7, 8, 9, 10, (ṿng ngoài). Nếu hai số của mỗi cánh trừ cho nhau như: 6-1=5; 9-4=5; 7-2=5; 8-3=5, ta đều có số 5. Cách xếp đặt, xoay vần đó chứng tỏ sư điều ḥa, cân đối của hiện tượng thiên nhiên trong trời đất! Chú ư: Hà Đồ gần với " Tiên Thiên Bát Quái" của Phục Hi, lập ra Bát Quái (quẻ ba đơn). H́nh này xếp đặt các quẻ đơn rất cân đối về Âm-Dương. C̣n Lạc Thư lại giống cách xếp đặt của "Hậu Thiên Bát Quái" của Văn vương, sáng lập nhà Chu(1185-1135 B.C). Văn vương cũng chế ra “quẻ sáu gạch”, và lập “Nhà Minh Đường”, như sẽ bàn ở dưới đây.

LẠC THƯ (coi: trang 478), ta thấy 9 con số đầu xếp h́nh vuông ma thuật (ở giữa là số 5). (Tây phương gọi là h́nh vuông Saturn (Thần Nông), tức Chronos ăn thịt các con). H́nh này chỉ diễn biến trong thời gian. Có thể lấy các số lẻ xếp thành Thập Tự hi- lạp, kết với các số chẵn xếp thành Thập Tự Thánh Andreas (Thập Tự chéo). Nếu trừ con số 5 ở giữa là con số khởi sự cho việc xoay vần, th́ mỗi đường xuyên tâm đều là số 10 (8+2; 3+7; 4+6; 9+1). Con số 10 là số hoàn toàn, là tổng số của thật tại. Trời ban cho Lạc Thư (nhờ con rùa)một h́nh bản đồ Thế giới chia Trái Đất (h́nh vuông) thành chín Miền (chín ô vuông). Theo truyền thuyết, vua Vũ đă đi chu du khắp Thế Giới để phân chia và cai trị. Nhưng sau này, các vị quân vương không cần đi xa, nhưng chỉ cần đi quanh quẩn, ṿng quanh nhà MINH ĐƯỜNG cũng có thể điều ḥa không gian, thời gian, và xếp đặt thời tiết, phương hướng. Ṭa nhà Minh Đường có mái tṛn lợp rơm, nền h́nh vuông: đó là h́nh ảnh về Thế Giới. Nhà Minh Đường có loại 5 gian, và loại 9 gian. Bởi vậy, hằng năm, các vị thiên tử diễn lại “tấn tuồng vũ trụ” như: Mùa Xuân, ngự cung Thanh Dương, phía Đông, áo măo, cờ xí xanh. Mùa Hạ, ngự cung Minh Đường, phía Nam, áo măo, cờ xí đỏ. Sau hạ chí, ngự trung cung, Thái Miếu, Thái Thất, áo măo, cờ xí vàng. Mùa Thu, ngự cung Tổng chương, phía Tây, áo măo, cờ xí trắng. Mùa Đông, ngự cung Huyền Đường, phía Bắc, áo măo, cờ xí đen(coi:trang 480)

g) Ư Nghĩa Những Con SỐ. Người thời xưa hay dùng những con số và gán cho chúng những ư nghĩa tượng trưng như: Số chẵn là Âm; số lẻ là Dương. Số 2: biểu hiệu của trái Đất và h́nh vuông. Số 3: biểu hiệu Trời và h́nh tṛn. Số 10: chỉ sự hoàn toàn. Số 5: chỉ sự phối hợp Âm-Dương, v́ là tổng số của 2 (Đất)+3 (Trời). Do đó số 5 chỉ nhiều đức tính như: Ngũ vị, Ngũ phúc, Ngũ tạng, Ngũ Hành, Ngũ Đế… Đặc biệt số 5 chỉ con người, v́ là nơi (locus) phối hợp của Trời 3, và Đất 2. Nho giáo có Ngũ đế, Phật giáo có Lục Tổ, Lăo giáo có Bát tiên. Số 9: con số huyền bí như 9x9 chỉ Dương và Trời; ngày 9 tháng 9 âm lịch là ngày lành nhất; 9 gian nhà Minh Đường; 9 Đỉnh, Cửu Đỉnh; Cửu Trù. Số 100: nghĩa là “nhiều thứ” như: Bách tử (trăm con) hoặc số 1000, chỉ nhiều lắm như: Thiên Thu (đời đời kiếp kiếp).


Nói tóm lại, những con Số, những biểu tượng, những h́nh đồ như Âm-Dương, Ngũ Hành, nhà Minh Đường, Hà Đồ, Lạc Thư… đều mang một ư nghĩa tiềm ẩn, trừu tượng, siêu h́nh biểu lộ sự cố công của con người muốn đi t́m Nguyên Lư Tuyệt Đối, tức Thiên Mệnh, theo câu của Dịch Kinh: “THỂ duy nhất, DỤNG vạn thù”, tức là chỉ có một Bản Thể làm Nguyên Lư, nhưng được biểu lộ ra bên ngoài, trong vũ trụ, bằng nhiều công dụng, nhiều cách thức(160).

(c̣n tiếp...)
Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 3 of 7: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 6:51am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


NGUỒN GỐC SỰ BIẾN HÓA CỦA VŨ TRỤ



Như trên đă tŕnh bày, Lư Thái Cực là huyền bí, thuần nhất, tuyệt đối, ta không thể biết cái "chân thể", chân tướng được. Nhưng ta có thể thấy cái “động thể”của “Đạo” (Thái Cực) đó, khi Đạo biểu lộ ra bằng hành động theo Luật Tương Đối, Điều Ḥa “Âm-Dương”, để phát sinh vạn sự vạn vật. Chính Đạo đó, th́ “bất biến”, mà lại là nguồn gốc cho mọi sự sinh động, biến hóa trong vũ trụ này!

1. Ư Nghĩa chữ “DỊCH”

V́ chủ truơng sự Biến Hóa, nên các nho gia chú ư đến khía cạnh “động thể” của Đạo, tức khía cạnh dịch lư biến thiên. Trên phương diện này, cuốn DỊCH KINH là nền tảng triết lư giải thích tất cả những hiện tượng luôn luôn xuất hiện và biến dịch trong vũ trụ này.

Những “hào”, tức những nét “gạch” trong Dịch Kinh đều có ư nghĩa tượng trưng ám chỉ sự biến hóa thành muôn h́nh vạn trạng, không ngừng trong vũ trụ. Khởi đầu là sự giao động của cặp tương đối: ÂM (gạch đứt _ _ ) và DƯƠNG (gạch liền __), rồi cứ thế đắp đổi nhau phối hợp điều ḥa mà làm ra 8 “quẻ ba đơn”, 64 “quẻ sáu kép”, tức 384 "hào".

Cách thức xếp đặt các quẻ (quái từ) cũng giúp ta thấy ư nghĩa của sự biến hóa của cặp Âm-Dương. Nên nhớ: Âm hay Dương, không có đặc tính nhất định, tự tại, tuyệt đối, nhưng ư nghĩa biến đổi tuỳ theo công dụng, tùy sự đối đáp tương đối với các vật khác. Do đó, không có sự vật nào là hoàn toàn Âm, hay hoàn toàn Dương. Bởi vậy, hễ Thái-Dương, th́ bắt đầu giảm xuống Thiểu-Dương để trở về Thái-Âm, chẳng hạn, mặt trời (ngày) lúc chính ngọ là cực điểm, th́ sau đó bắt đầu trở về chiều tối, về đêm. Khi tới nửa đêm, tức Thái -Âm th́ lại quay về ban sáng, Thiểu-Âm, rồi ban trưa, tức Thái-Dương. Cứ xoay vần, vận chuyển măi măi như thế theo ṿng tṛn. Do đó, theo triết lư của Dịch Kinh, th́ vũ trụ này tiến hóa không ngừng.

Chỉ có một luật của Đạo không hề thay đổi, đó là Luật Phản Phục (Reversal), nghĩa là Luật đó luôn luôn giữ sự Điều Ḥa, Trung Ḥa:”không thái quá, cũng chớ bất cập”. Đó cũng là Đạo “thường hằng bất biến”. Bởi vậy, nếu muốn sống hạnh phúc, và xă hội an vui, th́ con người cũng phải noi theo Luật Trung Ḥa của “Đạo”, trong việc tu thân và tiếp nhân xử thế.

2. Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái là ǵ?

Hai h́nh này cũng minh chứng cho tư tưởng “DỊCH”. Nh́n cách xếp đặt, phân chia ra hai phần Âm-Dương, và các quẻ Âm-Dương đối đáp nhau, ta sẽ thấy ư niệm về “dịch lư biến thiên” nổi bật lên. Theo truyền thuyết, h́nh Tiên Thiên Bát Quái, do Phục Hi, vị sáng chế ra Bát Quái (quẻ ba gạch), xếp đặt một cách cân đối lạ lùng. H́nh này gần với cách xếp đặt của Hà Đồ. C̣n Lạc Thư lại tương quan với Hậu Thiên Bát Quái. Cách xếp đặt của Hậu Thiên Bát Quái khác với Tiên Thiên Bát Quái. Theo truyền thuyết, Văn Vuơng nhà Chu sáng chế ra Hậu Thiên Bát Quái. Văn vương cũng lập ra “Quẻ sáu gạch”, và xây “Ṭa nhà Minh Đường”. Nh́n vào H́nh của Hậu Thiên Bát Quái, ta thấy đường vận chuyển, tức “Hành” (như Ngũ Hành) của Thái Nhất hay Thái cực ở Trung Cung (Số 5), theo lộ tŕnh này: mỗi lần Thái Nhất đặt xong vị trí cho 4 “quẻ ba đơn”, th́ lại về ngự ở Trung Cung: (1) Khảm, (2) Khôn, (3) Chấn, (4) Tốn, về qua Trung Cung (5), rồi tiến sang (6) Kiền, (7) Đoài, (8) Cấn, (9) Li, rồi trở về Trung Cung (10,5). Do đó, ta cách xếp đặt thứ tự các Quẻ như trên, đă tạo nên “h́nh vuông ma thuật” (161).

Nói tóm lại, hai Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái, với cách xếp đặt tương đối của cặp Âm-Dương và các Quẻ, cốt yếu minh chứng sự Biến Hóa của vạn sự vạn vật thuộc loài tương đối. V́ thế, truyền thuyết cho rằng: Hà Đồ biểu thị cái “Chân Thể” của Âm-Dương trong Hậu Thiên Bát Quái (Hà Đồ vi Hậu Thiên Âm-Dương chi THỂ), c̣n Lạc Thư biểu lộ cái “Công Dụng” của Âm-Dương trong Tiên Thiên Bát Quái (Lạc Thư vi Tiên Thiên Âm-Dương chi DỤNG).

TOÁT LƯỢC MẤY ĐẶC ĐIỂM

1. Chữ Đạo hay đạo thông dụng trong ngôn ngữ Việt-Hoa, theo nghĩa nguyên tự, nghĩa đen, tức là đường đi.

2. Theo nghĩa bóng, nghĩa siêu h́nh, Nho Gia phân biệt: ĐẠO (chữ hoa) chỉ Nguyên Lư Tuyệt Đối, vô h́nh vô tượng, siêu việt, nguồn gốc của vũ trụ càn khôn; ĐẠO cũng chỉ “đường hướng” của Nguyên Lư đó, bao trùm và làm mẫu mực cho vạn sự vạn vật. C̣n “đạo” (chữ thường), chỉ bổn phận, nghĩa vụ luân lư, hay đặc tính của mỗi vật mỗi loài như: “đạo” làm con, phải thảo kính cha mẹ. Ngoài ra, trong Dịch Truyện, mỗi hào, mỗi quẻ được kể là một “đạo”, một “công thức”, tượng trưng cho một vật nào đó.

3. Nguyên Lư Tuyệt Đối ĐẠO, xét về “Thể” (Chân Thể, Bản Thể) tức là “Tĩnh Thể”, th́ vượt trên hết mọi loài tương đối, nên không thể suy tư, diễn tả bằng ngôn từ được. Nhưng trí khôn có thể biết được “động thể” của Đạo, khi biểu lộ ra bên ngoài bằng hành động tương đối, điều ḥa, gọi là Âm-Dương.

4. Theo nghĩa siêu h́nh, Âm hay Dương không phải chỉ một sự vật nhất định là Âm hoặc là Dương, nhưng để chỉ Luật Tương đối, Điều ḥa trong vũ trụ luôn biến đổi: khi một vật ở vị thế “Thái-Dương”, th́ bắt đầu chuyển sang “ Thái-Âm " hoặc khi tới “Thái-Âm ”, th́ lại trở về “Thái-Dương ", cứ xoay vần như thế măi. Trong Âm đă có “mầm mống” Dương, và trong Dương đă có “mầm mống” Âm. Nhờ Luật điều ḥa Âm-Dương mà vạn sự vạn vật được nẩy nở sinh sản.

5. Nho gia chủ trương thuyết “Vạn Vật Nhất Thể”, cũng là “Nhất Nguyên Luận”, v́ cho rằng vạn sự vạn vật đều do một nguồn gốc là Đạo mà sinh ra, theo Luật Tương Đối, Điều Ḥa của Âm-Dương. Đạo cũng gọi là Thái Nhất hay Thái Cực.

6. Các triết gia thích dùng những h́nh ảnh, họa đồ, con số.. như: Hà Đồ, Lạc Thư, Ngũ Hành, Hồng Phạm Cửu Trù, Nguyệt Lệnh, nhà Minh Đường… để diễn tả cái cấu trúc, cách bố trí Điều Ḥa, Ḥa Hợp của vũ trụ, theo Luật Trung Ḥa, “đừng thái quá, chớ bất cập”.

7. Do đó, nếu muốn sống hạnh phúc, an cư lạc nghiệp, th́ con người phải bắt chước, noi theo Luật Trung Ḥa. Ḥa Hợp của ĐẠO. V́ thế mới có thuyết “Thần Nhân tương dữ”, và các thuyết như: Mục đích luận, Duy cơ luận, ...

8. Ngũ Hành, theo nghĩa siêu h́nh, để chỉ những “đạo”, những thế lực vô h́nh điều khiển sự vận chuyển xoay vần của vũ trụ, một cách điều ḥa. Nguyên Lư Tuyệt Đối, chính là ĐẠO (Thái Cực)phát sinh ra các hiện tượng, các mùa trong trời đất.

9. Hồng Phạm Cửu Trù, Nguyệt Lệnh là những luật lệ. mệnh lệnh của Trời ban cho các bậc đế vương phải tuân giữ, để thay Trời cai trị và đem lại an cư lạc nghiệp cho dân chúng. Nếu làm trái Thiên Mệnh, th́ các tai họa sẽ xẩy tới.

10. Nho giáo chủ trương triết lư “Dịch”, nghĩa là vũ trụ vạn vật luôn biến hóa. ĐẠO (THÁI CỰC) th́ “thường hằng bất biến”, mà lại là nguồn gốc của mọi “biến hóa”, sinh động trong vũ trụ. Bởi v́, khi “động thể” của Đạo biểu lộ ra bên ngoài bằng hành động, theo luật Âm-Dương điều ḥa, th́ muôn vật muôn loài được sinh hóa.

11. Nho gia chú trọng về mặt “động thể”, tức biến hóa của Đạo (Thái Nhất, Thái Cực), nên dùng những h́nh đồ hay biểu tượng như Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái, Ngũ Hành..., để diễn tả tư tuởng về biến hóa: “dịch lư biến thiên”.

   (c̣n tiếp...)

Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 4 of 7: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 6:55am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


QUAN NIỆM “ĐẠO” CỦA LĂO-TRANG

Như đă tŕnh bày ở trên, các bậc danh nho từ Khổng Tử, Mạnh Tử... đến Chu Hi, Vương Dương Minh..., đều dùng chữ “Đạo” để chỉ “Thái Cực” (Thái Nhất). Lăo Tử, Trang Tử… thuộc Lăo Giáo cũng dùng danh từ “Đạo” để chỉ Nguyên Lư thuần nhất của vũ trụ, nhưng hai ư niệm về “Đạo” có phần khác nhau.

Các đạo gia (Lăo Giáo) cho rằng nho gia chỉ biết “lề lối chế độ” cụ thể, chứ không biết ǵ tới Nguyên Lư tiềm ẩn. Vả lại, các nho gia chú trọng về phương diện “động thể” của Đạo biểu lộ ra ngoài vũ trụ, c̣n phần “chân thể”, bản thể, th́ không đề cập tới v́ cho rằng quá cao siêu, mầu nhiệm, không thể hiểu được!

Trong Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, môn phái gọi là “Danh gia” (School of Names) phân biệt: một là “H́nh nhi hạ học”, tức là nghiên cứu, học hỏi về những sự vật “dưới h́nh tượng”, nghĩa là những vật cụ thể mà giác quan có thể cảm giác, có thể tưởng tượng được, như vũ trụ hiện ta đang thấy bây giờ. Đó là thế giới tương đối ta có thể quan sát, diễn tả, suy nghĩ và “đặt tên” cho mỗi vật như: mặt trời, cái bàn, cái ghế… Đó là thế giới “Hữu Danh”. Cũng thuộc về thế giới này, kể cả những ư niệm trừu tượng như cộng tướng (Universals), và các tư tưởng mà trí khôn loài người có thể suy luận ra được. Tuy các ư niệm không có h́nh tượng, nhưng vẫn thuộc thế giới “Hữu Danh”, v́ ta vẫn có thể đặt tên cho mỗi ư niệm đó, chẳng hạn: ḷng từ bi, đức bác ái, sự tàn ác...

Trái lại, đối với chân lư thuộc “H́nh nhi thượng học”, nghĩa là “ở trên h́nh tượng”, tức là thuộc thế giới tuyệt đối, vượt lên trên khả năng của lư trí nhân loại, th́ ta không thể suy tư, không thể dùng danh từ, hay ư tưởng ǵ mà diển tả được. Không thể lấy những danh từ, tư tưởng do kinh nghiệm về thế giới hữu danh, hữu h́nh, “tương đối”, mà áp dụng cho thế giới tuyệt đối được. Đó là quan niệm “Đạo”, siêu việt, huyền bí của Lăo Tử. Sau đây, ta sẽ bàn về những điểm như: Đạo là “Vô Danh”, là “Vô”, là “ Một”, là” Thường”, Đạo và Đức là ǵ?

ĐẠO LÀ VÔ DANH

ĐẠO của Lăo-Trang là “VÔ DANH”. Đối với Lăo Tử, ĐẠO là một Nguyên Lư thuần nhất, “huyền bí trên mọi huyền bí”, nên không thể dùng một ư tưởng hay một danh từ nào mượn ở thế giới tương đối, hữu h́nh này, để diễn tả cái Tuyệt Đối, v́ thuộc thế giới khác, siêu việt. Ngay việc dùng chữ “ĐẠO” để tạm gọi Nguyên Lư đó, th́ cũng là điều gượng gạo, “bất đắc dĩ” mà thôi. Đó chỉ là kiểu “nói xuông”, không giống như khi ta dùng danh từ cái “bàn” để chỉ một đồ vật là cái bàn. Bởi vậy, mới có kiểu nói: ĐẠO là “Vô danh”, v́ nếu Đạo có tên gọi như mọi vật khác, th́ Đạo không c̣n là Đạo nữa! Tại sao? V́ Đạo thuộc “Tuyệt Đối”, vô cùng KHÁC với vạn sự vạn vật trong thế giới tương đối, hữu h́nh này. Tuy là “Vô Danh”, nhưng Đạo là nguồn gốc phát sinh mọi vật mọi loài “hữu danh”. Đạo luôn hằng cửu, không bao giờ mất. Dưới đây là nguyên bản lời phát biểu về Đạo của Lăo Tử, trong những ḍng chữ đầu của sách “Đạo Đức Kinh”:

1. Đạo khả đạo, phi thường Đạo

2. Danh khả danh, phi thường Danh

3. Vô Danh, thiên hạ chi thủy

4. Hữu danh, vạn vật chi mẫu


GIẢI NGHĨA:

1. Đạo khả đạo, phi thường Đạo: “Đạo” mà có thể dùng “lời nói” để “nói “ ra được, th́ không c̣n là Đạo Tuyệt Đối, "thường hằng bất biến", không hề thay đổi nữa! ( chú ư: ở đây, Lăo Tử “chơi chữ”: chữ Đạo thứ nhất ám chỉ Nguyên Lư Tuyệt Đối, chữ “đạo” thứ hai có nghĩa là lời nói (như đàm đạo, huấn đạo...chữ "Đạo", đồng âm dị nghĩa). Tại sao? V́ Đạo là Tuyệt Đối, nên vượt lên trên hết mọi loài thụ tạo, tức là loài tương đối. Do đó, ta không thể dùng những tên gọi thông thường của những loài thụ tạo, tương đối, để gọi Tuyệt Đối được, v́ làm như vậy là hạ giá Tuyệt Đối xuống hàng tương đối. Mặt khác, ta cũng không thể nói được “chân thể” của Đạo là ǵ. Bởi v́, nếu nói Đạo là “sống”, th́ sống tất nhiên có “chết”, theo lẽ tương đối đi theo nhau. Như vậy, Đạo cũng “chết” nữa hay sao? Nếu nói Đạo là lớn lao, th́ lớn tất nhiên có nhỏ, tương đối đi theo. Vậy Đạo lớn bao nhiêu, nhỏ bao nhiêu, rất khó mà biết được! Cho nên, Đạo Tuyệt Đối th́ không thể dùng lời nói ra được, và trí khôn hạn hẹp của loài người cũng không thể suy tưởng được!(162).

2. Danh khả danh, phi thường Danh: Tất cả những vật, những loài trong thế giới tương đối này đều có một tên gọi để chỉ vật ấy như: ngọn núi, cái bàn, cái ghế... Những danh từ đó không thể dùng để chỉ Nguyên Lư Thường Hằng Bất Biến, v́ Tuyệt Đối, vượt trên mọi loài tương đối. Như vậy, tại sao c̣n dùng danh từ “Đạo” để gọi Nguyên Lư Tuyệt Đối ? Đúng lư ra, ngay cả chữ “Đạo” cũng không được dùng. Nhưng nếu bất đắc dĩ phải dùng, th́ nên hiểu rằng: đó là việc bất xứng, và bị “cưỡng ép” mà thôi!

3. Vô Danh, thiên hạ chi thủy: v́ mọi vật, mọi loài thuộc thế giới tương đối, nên đều có tên gọi. Đạo không phải là một sự vật thuộc loài tương đối, nên Đạo là “Vô Danh”. Từ buổi nguyên sơ, khi vũ trụ c̣n là một khối hỗn mang, mờ mịt, mông lung, th́ Đạo đă có rồi. Đạo vốn hằng có trước sự xuất hiện của loài tương đối, trước mọi h́nh thể, mọi danh xưng và mọi tiếng nói. Tuy Đạo Tuyệt Đối là “Vô Danh”, nhưng lại là nguyên thuỷ sinh ra mọi loài tương đối, “hữu danh”.

4. Hữu danh, vạn vật chi mẫu: Bởi vậy, tuy Đạo Tuyệt Đối là “Vô Danh”, “Vô H́nh, Vô Tượng”, nhưng lại là “đầu”, là căn nguyên sinh ra các loài “hữu danh”, “hữu h́nh”. Khi những loài thụ tạo xuất hiện, th́ mỗi loài mỗi vật đều có h́nh, có tên gọi, theo luật tương đối, nghĩa là: nếu nói được một, tất có hai, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vận vật, h́nh h́nh sắc sắc, thiên h́nh vạn trạng... Đạo chính là “Mẹ” của muôn loài tương đối, hữu danh vậy!(163).

   (c̣n tiếp...)

Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 5 of 7: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 6:58am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


ĐẠO LÀ “VÔ”

Các đạo gia Đông phương thích dùng phương pháp suy luận "phủ định" (via negativa) như: Vô, Vô-Vô, Không-Không… để biểu lộ tính chất siêu việt, tuyệt đối, huyền bí của Nguyên Lư Tuyệt Đối, tức Thái Cực, hay Đạo.

1. Cơi Tuyệt Đối và Thế giới Tương Đối

Trước hết, có một cơi siêu việt, vô thinh, vô h́nh, vô sắc..., theo “H́nh nhi thuợng học”. Đó là một thế giới tuyệt đối, không thể dùng một danh từ nào để diễn tả, v́ vượt trên mọi ư niệm, tưởng tượng, suy tư của loài thụ tạo, thuộc thế giới tương đối, theo “H́nh nhi hạ học”, v́ có h́nh sắc, có đối đăi nhau như: sáng-tối, nóng-lạnh,… có-không, tốt-xấu, thiện-ác…, trong-ngoài, trên-dưới, tĩnh-động… Thế giới tương đối này cũng gọi là Nhị Nguyên Luận (dualism) v́ hai yếu tố đối đáp, tương quan với nhau, hễ có nóng th́ đối lại là lạnh.

Tuyệt Đối phải vượt lên trên tất cả các cặp tương đối nhị nguyên đó, tức là phải vượt ra ngoài mọi hiện tượng, mọi cảm giác ở ngoại giới, lại cũng cần loại bỏ mọi ư thức, suy tưởng, v́ những giao động ước muốn đó cũng là những hiện tượng của tinh thần trong nội giới. Không thể dùng lư trí mà so sánh hay t́m hiểu Tuyệt Đối được, nhưng chỉ có thể biết bằng cảm nghiệm riêng, bằng cách hiện thật nơi bản thân. Đó gọi là kinh nghiệm thần bí (mystic).

ĐẠO vốn Vĩnh Cửu, v́ vượt không-thời gian, lại Tuyệt Đối Siêu Việt, không thể diễn tả được, nhưng là Nguyên Thuỷ sinh ra vạn sự vạn vật, vạn hữu. V́ thế, Lăo Tử “tạm gọi” Tuyệt Đối là ĐẠO, hay “VÔ” như trong chương 40, sách Đạo-Đức-Kinh:

“ Muôn vật trong trời đất sinh ra từ cái Có, cái có sinh ra từ Không” (Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu, hữu sinh ư VÔ)”. “hữu sinh ư VÔ” hay “hữu sinh ư ĐẠO”, cũng giống nhau.

2. “VÔ” là “ĐẠO”

“ĐẠO là VÔ”, chữ VÔ ở đây, không có nghĩa là: hoàn toàn trống rỗng, là “không có ǵ hết”, là “vô thần” hay “chết là hết”… Nếu “Vô”là “không có ǵ hết” (Nothing) th́ làm sao sinh ra vạn sự vạn vật được? Bởi vậy, phải hiểu ư nghĩa chữ “VÔ” ở đây cũng giống như ư nghĩa chữ “VÔ DANH”. V́ ĐẠO là huyền bí vô cùng, siêu việt tuyệt đối, nên lư trí không thể hiểu biết hay dùng chữ nào thuộc tương đối mà đặt tên được! Do đó, để bảo toàn tính chất tuyệt đối của ĐẠO, nên các đạo gia “tạm gọi” là “VÔ”. Nói là “tạm gọi”, v́ đúng lư ra, ngay những chữ như “Đạo” và “Vô” cũng không được dùng nữa, v́ tất cả đều thuộc thế giới tương đối. Nếu nói “vô” (không) th́ lại đối đáp với “hữu” (có). Thực ra, ĐẠO vượt lên trên cả “có” lẫn “không” (thuộc loài tương đối). Như ư nghĩa câu nói: “ĐẠO ẩn mà chưa lộ h́nh, đó gọi là VÔ vậy” (Đạo ẩn nhi vị h́nh, cố vị chi Vô). Tóm lại, nếu các triết gia thích dùng cách phủ định để chỉ Chân Lư Tuyệt Đối là “VÔ”, th́ muốn nói trong thế giới thụ tạo, tuơng đối này chẳng có (vô) vật nào, chữ nào, ư tưởng nào xứng đáng để diễn tả về ĐẠO, dầu cố gắng tới đâu, cũng “không” hiểu biết được ĐẠO. Do đó, chữ “VÔ” ở đây phải hiểu là “không có vật tương đối” nào có thể sánh ví, chứ không phải là “không có Nguyên Lư Tuyệt Đối”, là “vô Thần”, như một số người lầm tưởng (164).

3. THỂ (TĨNH) và DỤNG (ĐỘNG) là ǵ?

Khi nói đến ĐẠO, các đạo gia, nhất là Lăo Tử luôn ám chỉ hai ư nghĩa hay hai phương diện của Đạo ấy: một mặt là phần “Thể" hay “Tĩnh”, và mặt khác là phần “Dụng” hay “Động”. Phần “Thể” hay “Tĩnh” thuộc H́nh Nhi Thượng, ta không thể biết được bản thể huyền bí của Đạo như thế nào. Do đó, tạm dùng chữ “Vô”, theo nghĩa câu “Vô Danh thiên địa chi thuỷ”: từ đầu hết (vô thuỷ) đến lúc trời đất xuất hiện, tạm gọi là “Vô”, v́ trong thời kỳ mông lung đó, không có ư niệm, h́nh ảnh, hay danh từ nào mà diễn tả. Nhưng khi phần “Dụng” hay “Động” của Đạo chợt phát hiện, th́ vạn sự vạn vật bắt đầu “có” mặt trong thế giới hữu h́nh, và sinh sôi nẩy nở, chia ra các thứ loại, theo nghĩa câu: “Hữu danh vạn vật chi mẫu”.

Bởi vậy, “có” với “không”, “vô” với “hữu”, để chỉ hai phương diện của Một Thực Thể Thuần Nhất, Tuyệt Đối là Đạo mà thôi! “Thiên hạ muôn vật trong trời đất sinh ra tự cái “có”, cái “có” sinh ra tự cái “Không”, “có” và “không” đều xuất phát tự cái lớn lao “Vô Cực”, cái “sâu kín khôn lường”, cái mà ta gọi là mầu nhiệm (Huyền) trên hết mọi mầu nhiệm, đó là ĐẠO. Trong Đạo Đức Kinh, chương 1 có câu: “Hai cái ấy (có-không) đều do một nơi sinh ra mà tên khác nhau, đều bảo là sâu kín mờ mịt. Sâu kín lại càng sâu kín thêm, ấy là cửa phát ra mọi biến hóa khôn lường của sự vật” (Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi Huyền, Huyền chi hựu Huyền, chúng diệu chi môn).

“Tuy chia ra “có” và “không”, “Thể” và “Dụng” để làm đối tượng cho hai môn học: Triết lư Siêu h́nh và Khoa học Thực nghiệm, nhưng hai cái cùng do một nguồn gốc “ĐẠO” mà phát sinh ra. Ta biết: Lăo Tử nhấn mạnh đến phần “Thể” của Đạo, tức “VÔ”, tức “Tĩnh”, siêu h́nh, huyền bí; c̣n Khổng Tử th́ chú trọng đến phần “Dụng”, tức “Động” của Đạo. Nhưng Tĩnh là gốc của Động, v́ thế Lăo Tử chăm lo phần gốc mà coi nhẹ cái ngọn.” (165).

4. “VÔ VI” là ǵ?

Để giải nghĩa sự quan trọng của Vô, Lăo Tử dùng nhiều cách sánh ví để minh chứng sự lợi ích của cái “không”. Trong chuơng XI, đại ư viết: Bánh xe, nhờ chỗ “trống không” ở giữa, mới xuyên qua được cái trục, nhờ thế mà xe lăn được. Chén bát “có rỗng” ở giữa mới chứa đựng được. Nhà “có trống” mới dùng làm chỗ để ở được. Do ba ví dụ trên mà suy diễn ra, mọi đồ vật như báng xe lăn, chén bát, nhà, có thể dùng được đều nhờ ở chỗ “trống không”. ĐẠO là VÔ, vô h́nh vô tượng, thế mà trời đất vạn vật đều bởi ĐẠO mà ra: “Hữu sinh ư Vô”. Cái “không” của ĐẠO có một cái “Dụng” rất lớn lao.

Đối với Lăo Tử, ĐẠO là VÔ, nghĩa là Thanh Tịnh “VÔ VI”, như “không làm” ǵ cả, nhưng kỳ thực không có ǵ mà không do cái làm của nó mà ra (Vô Vi nhi vô bất vi). ĐẠO chí Tĩnh mà cũng chí Động. Đạo “Vô Vi”, “bất tranh”, không làm, không tranh giành, vậy mà không có ǵ tranh được nó hay thắng được nó (bất tranh nhi thiện thắng). Một h́nh ảnh làm ví dụ: Cái quả lắc của đồng hồ chạy đều đặn từ phải qua trái rồi lại từ trái qua phải, không thái quá, không bất cập, không ở luôn một bên, là nhờ có trục “vô h́nh” ở giữa giữ quân b́nh. Đường vô h́nh này tượng trưng cho “ĐẠO”, tức “Trung Đạo”, tuy không thấy chuyển động ǵ cả (chí Tĩnh), không làm ǵ (Vô Vi), nhưng kỳ thực nó là động cơ của tất cả mọi biến động, v́ nó giữ sự quân b́nh, TRUNG H̉A cho hai lực lượng đối chọi nhau Âm-Dương được điều ḥa qua đi, trở lại. V́ thế gọi: “ĐẠO” “không làm ǵ”, nhưng thực ra không cái ǵ là "Nó" không làm (coi: chương 37, Đạo Đức Kinh:"Đạo thường vô vi nhi vô bất vi"). ĐẠO sáng tạo ra vạn vật và phú bẩm cho mỗi vật các đức tính tự nhiên. Do đó, tuy ĐẠO không làm, nhưng để cho mỗi vật làm theo khả năng bẩm sinh, cách hồn nhiên,(như trẻ con), không gượng ép, giả tạo, giả h́nh, nhân tạo(166).

   (c̣n tiếp...)
Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 6 of 7: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 7:02am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


ĐẠO LÀ MỘT

Tư tưởng Lăo Trang là một triết thuyết biến hoá, v́ thế đă dùng các con số để cho ta thấy rơ sự tiến triển của vũ trụ. Như các nho gia, Lăo Tử, Trang Tử đều chủ trương vũ trụ vạn vật được sinh ra bởi Một Nguồn Gốc, tức là ĐẠO. Chính cái “động thể” của ĐẠO đă phát sinh ra vũ trụ.

Trong Đạo Đức Kinh, chương 42, viết: “Đạo sinh Một, Một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Trong vạn vật, không vật nào mà không cơng Âm và bồng Dương. Nhân chỗ xung nhau mà ḥa với nhau” (Đạo sinh Nhất, Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ Âm nhi băo Dương. Xung khí dĩ vi ḥa). Câu: “Đạo sinh Nhất”, cũng giống như câu: “Hữu sinh ư Vô”. Đạo là VÔ, và từ “VÔ” phát hiện ra Hữu, tức là cái Thể Thuần Nhất của Đạo. Rồi từ Thể Thuần Nhất của Đạo phát sinh ra nhị, tức là hai khí Âm-Dương. Cũng có thể Lăo Tử đă mượn ư tưởng biến hóa trong Dịch Kinh: “Thái Cực sinh lưỡng nghi”, để diễn tả ư nghĩa câu: “Nhất sinh nhị”. Hai cái mâu thuẫn, nhưng bổ túc cho nhau, luôn tiềm ẩn ở trong mỗi vật. Xung đột, nhưng không tiêu diệt lẫn nhau được là nhờ “Nguyên Lư Thứ Ba” (vô h́nh) điều ḥa hai nguyên lư kia. Nhờ số ba đó mà vạn vật mới thành h́nh, v́ thế nói: “Tam sinh vạn vật”. (Chú ư: số 3, chỉ Trời, theo triết học Đông Phương, thuyết Tam Nguyên do Nhất Nguyên mà ra, v́ số Ba (3) đây chỉ sự “trở về” số Một, tức trở lại cái Nguyên Lư Đầu Tiên của vũ trụ, theo Luật Phản-Phục, sẽ bàn ở đoạn sau).

ĐẠO LÀ THƯỜNG

Chữ “Thường”, có nghĩa là “thường hằng bất biến”, không thay đổi, vẫn thường xẩy ra như vậy. Muôn vật muôn loài sinh sinh hóa hóa, luôn biến đổi, nhưng chính ĐẠO th́ không hề thay đổi. Trái nghĩa với “thường” là biến đổi. Do đó, “Thường” tức là vĩnh cửu. Trong các luật vĩnh cửu của Đạo thường xẩy ra, không bao giờ thay đổi, th́ có Luật Phản-Phục (reversal) là lớn lao hơn cả.

1. Luật Phản-Phục

Phản Phục là trở về, trở lại, như trong chương 40: “Trở về, là cái động của Đạo” (Phản giả Đạo chi động) và chương 16: “Tất cả đều phải trở về gốc của nó” (các phục quy kỳ căn). Luật Phản-Phục, trở lại, nghĩa là Đạo thường luôn giữ mực Trung Ḥa, Trung Đạo, Quân B́nh, không thiên vị, không thiên lệch bên nào. Hễ Dương biến đổi đến chỗ cực thịnh (Duơng Cực), th́ phải trở về Âm. Hễ Âm biến hóa đến chỗ cực thịnh (Âm Cực), th́ phải trở lại Dương, và cứ thế măi, tương tự như h́nh quả lắc con thoi của chiếc đồng hồ.

V́ Đạo luôn luôn (Thường) giữ mực Trung Ḥa, Quân B́nh cho muôn vật, nên có những thành ngữ như:" Bĩ cực, Thái lai"; "Không ai giầu ba họ, không ai khó ba đời"; "Vật cùng tắc phản, Vật cực tắc biến"...

Nói tóm lại, theo Lăo Tử, vạn vật đều chuyển động theo hai chiều ngược nhau: Ra đi, Trở về. Do đó, vạn vật bởi Đạo mà sinh ra, rồi lại trở về với Đạo. Chương 16, Lăo Tử viết: “ Vạn vật cùng đều sinh ra (Đạo sinh Nhất, Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật), ta lại thấy nó trở về gốc. Ôi! Mọi vật trùng trùng đều trở về cội rễ của nó (Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục quy kỳ căn).(167).

2. ĐẠO như Mẹ

Để diễn tả ư tưởng Đạo là nguồn gốc sinh ra vạn vật, Lăo tử dùng h́nh ảnh “Mẹ”. Chương 25, ông viết: “Có thể lấy làm “Mẹ thiên hạ”, ta không biết tên là ǵ, đặt tên chữ là Đạo, gượng ép gọi tên là Lớn Lao (Khả dĩ vi thiên hạ Mẫu, ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết Đạo, cưỡng vị chi danh viết Đại)”. Chương 52: “Trời đất có một nguồn gốc, đó là Mẹ của trời đất (Thiên hạ hữu thuỷ, dĩ vi thiên hạ Mẫu)”. Chương 20: “Riêng ta khác với người mà quư Mẹ sữa (Ngă độc dị ư nhân nhi quư tự Mẫu)”.

Chương 52, Ông viết: “Thiên hạ có nguồn gốc dùng làm Mẹ của thiên hạ. Hễ giữ được Mẹ th́ biết được con. Đă biết được con trở về với Mẹ: thân đến chết không nguy. (Thiên hạ hữu thuỷ, dĩ vi thiên hạ Mẫu. Kư đắc kỳ Mẫu, dĩ tri kỳ tử. Kư tri kỳ tử, phục thủ kỳ Mẫu: một thân bất đăi)”. Lăo Tử sánh ví Đạo như Mẹ. Đạo là Mẹ của vạn vật, nghĩa là vạn vật bởi Đạo mà ra. “Đă biết được con, trở về với Mẹ”. “Con” ở đây ám chỉ vạn vật. Do đó, sau khi nghiên cứu học hỏi về khoa học, vật lư, hóa học, v.v. một cách cùng tận rồi, th́ con người lại “trở về” với Mẹ, tức Đạo (phục thủ kỳ Mẫu).

“Cũng như văn minh vật chất mà đến mức cùng tột rồi, bèn sẽ xoay về tinh thần. Bởi vậy, mới có người bảo rằng cái học nguyên tử ngày nay của Tây Phương “trở lại” gặp gỡ với Huyền Học (Đạo Học) của Đông Phương. Vấn đề đồng nhất của Tâm và Vật, Vật chất và Tinh thần... trước những phát minh về nguyên tử lực, không c̣n phải là một vấn đề siêu h́nh nan giải nữa! Cái kiếp số con người, cũng như của vạn vật là sớm muộn phải “trở về với Đạo” (các phục quy kỳ Căn)”. (168).

Tóm lại, Lăo Tử coi Nguyên Lư Âm là tượng trưng cho Đạo, nguồn gốc tiềm ẩn của vũ trụ. Do đó, Đạo được gọi là Mẹ Nhiệm Mầu (Huyền Tẫn).

ĐẠO VÀ ĐỨC

Lăo Tử phân biệt ư nghĩa của chữ Đức: Theo nghĩa thông thường, “đức” là nhân đức như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trong luân lư Khổng-Mạnh. Trong triết lư của Lăo-Trang, “Đức” mang một ư nghĩa siêu h́nh để chỉ năng lực, quyền lực vô biên của Đạo. “Đức” là cái mà mỗi loài mỗi vật nhận được của Đạo ban cho.

Trang Tử trong thiên Thiên Địa đă giải thích rơ chữ “Đức” của Lăo Tử: “Thuở thái sơ của Trời Đất th́ đă có cái Vô. Cái Vô ấy không có tên và là nơi phát sinh ra cái Một, nhưng cái Một ấy cũng chưa có h́nh. Khi vạn vật “được cái Một ấy”, cái đó gọi là Đức” (Thái sơ hữu Vô, Vô hữu Vô Danh. Nhất chi sơ khởi, hữu Nhất nhi vị h́nh. Vật đắc (Nhất) dĩ sinh, vị chi Đức). Câu “Nhất chi sở khởi” của Trang Tử cũng giống như câu “Đạo sinh Nhất” của Lăo Tử, nghĩa là Đạo (Vô) là chỗ phát sinh ra cái Một. Đức là chỗ mà (“vật đắc dĩ sinh”) vật nhận được, tự đắc, tự ḿnh đă nhận được của Đạo, của Đấng Tạo Hóa. Do đó, “Đức” chính là những năng khiếu tự nhiên mà Đạo, hay Hóa Công phú bẩm cho con người hay cho mỗi vật. Đạo và Đức cũng là Một, tuy danh từ khác nhau. Đức là cái Đạo biểu lộ nơi mỗi người mỗi vật.

Chương 51, Lăo Tử viết: “Đạo sinh ra vạn vật, Đức nuôi dưỡng vạn vật, chủng loại tạo h́nh, hoàn cảnh liễu kết nên vạn vật” (Đạo sinh chi, Đức súc chi, vật h́nh chi, thể thành chi). Nếu giải nghĩa theo như trên, th́ Đức ám chỉ cái Động hữu h́nh của Đạo, và Đức bắt nguồn nơi Đạo, v́ Đức là Năng Lực Vô Biên của Đạo, Nguồn Gốc của vạn vật. Chính cái Đức (cái Năng Lực)của Đạo sinh ra muôn loài. Cái Đức của “Vô Vi”, của “bất ngôn chi giáo”, của “bất tranh nhi thiện thắng”, tức là cái Đức theo Đạo Trời.

Nói tóm lại, vạn vật nhờ Đạo mà có (sinh ra), và cái mà mỗi vật đang có, là cái Đức do Đạo thông ban cho. Đạo là Vô, nghĩa là “Tĩnh”, nhưng cái Đức của Đạo, tức “Động Thể” của Đạo là nguồn sống tiềm ẩn ban cho vạn vật được sinh ra lớn lên. Đạo và Đức luôn theo nhau. Lăo Tử c̣n viết: “Đạo sinh vạn vật, Đức nuôi vạn vật, cấp dưỡng, nuôi nấng, đùm bọc, bồi sức, dưỡng nuôi, che chở vạn vật (Đạo sinh chi, Đức súc chi, trường chi, dục chi, đ́nh chi, độc chi, dưỡng chi, phúc chi)”. (169).

TOÁT LƯỢC MẤY ĐẶC ĐIỂM:

1. Nho gia chú trọng về phần “Động Thể” của Đạo, c̣n Đạo gia( Lăo giáo) nhấn mạnh phần “Tĩnh Thể”, tức Chân thể, vô h́nh của Đạo.

2. Do đó, đạo gia phân biệt: Tuyệt Đối và tương đối. Đạo thuộc Tuyệt Đối, Siêu Việt, nghĩa là vượt lên trên hết mọi loài thụ tạo, tương đối, nên lư trí không thể dùng tưởng tượng, h́nh ảnh hay danh từ nào để diễn tả được. Vả lại, các triết gia Đông Phương thích dùng đường lối phủ định (via negativa) như “vô”, “vô danh”, “vô cực”, "hư vô"… để làm nổi bật tính chất Tuyệt Đối lên, nghĩa là "không có" nơi loài tương đối.

3. Bởi vậy, ư nghĩa thật của chữ “Vô Danh”, “Vô”, không phải là “không có ǵ hết”, “vô thần”, “chết là hết”, không có Nguyên Lư Tuyệt Đối…, nhưng là: không có sự vật tương đối nào trên đời này có thể diễn tả Nguyên Lư đó một cách thấu triệt được!

4. Các triết gia Đông Phương chia ra: “H́nh Nhi Hạ Học”, là nghiên cứu về loài thụ tạo, tương đối, hữu h́nh, “hữu danh” c̣n Nguyên Lư Tuyệt Đối, hay Thái Nhất, Thái Cực, v́ thuộc “H́nh Nhi Thượng Học”, nghĩa là vượt trên các loài tương đối, nên “tạm gọi” là “Vô”, “Vô Danh”, “Vô Cực”… Nói là “tạm gọi”, v́ đúng lư ra, cả việc dùng những chữ “Vô”, “Vô Danh”… cũng không xứng đáng nữa!

5. Cũng phân biệt hai phương diện: Thể (Tĩnh) và Dụng (Động) của Nguyên Lư Tuyệt Đối, tức Đạo. Thể (Tĩnh) là Bản Thể, là “Chân Thể” huyền bí, siêu việt vô cùng, không thể hiểu biết được. Nhưng khi Đạo biểu lộ ra bằng “Động Thể”, th́ muôn vật được tạo thành, xuất hiện trong vũ trụ. Lăo Tử chú trọng đặc biệt về “Tĩnh”, c̣n Khổng Tử nhấn mạnh về “Động”.

6. Do đó, các đạo gia, như Lăo Tử, Trang Tử suy nghĩ về những phẩm tính siêu việt, siêu h́nh của Đạo như: “Vô Danh”, “Vô Vi”, “Một (Thuần Nhất), “Thường (Thường Hằng Bất Biến), “Mẹ” (thiên hạ)…

7. VÔ VI, không có nghĩa là “không làm ǵ”, nhưng là làm một cách điều ḥa, không thái quá không bất cập, theo Luật Trung Ḥa, một cách hồn nhiên, đơn sơ, bộc phát, không giả tạo.

8. Đạo là Thuần Nhất, là “Một”, nhưng khi biểu lộ ra bên ngoài vũ trụ, th́ theo Luật Trung Ḥa, Quân B́nh có Âm-Dương ḥa hợp (không tiêu diệt nhau) để phát sinh vạn sự vạn vật trong vũ trụ: hết mọi loài, mọi vật đều bởi “Một” (Đạo) mà ra.

9. Mọi loài mọi vật luôn thay đổi, nhưng Đạo là “Thường Hằng Bất Biến”, nghĩa là theo Luật Trung Ḥa, Quân B́nh, không thái quá, chớ bất cập, bĩ cực, thái lai… và theo Luật Phản-Phục, tức “ra đi, trở về”, cứ thế măi, không thay đổi.

10. Đạo được sánh ví như “Mẹ”, v́ là nguồn gốc sinh ra vạn sự vạn vật, nuôi dưỡng, che chở… Mẹ sinh ra con, rồi con trở về cùng Một Mẹ.

11. Theo Lăo Tử, “ĐỨC” chỉ Quyền Lực, Năng Lực vô biên của ĐẠO. “ĐỨC” là cách ĐẠO biểu lộ Quyền Năng cho vạn sự vạn vật. Do đó, ĐỨC là năng khiếu tự nhiên mà Trời (Đạo) phú bẩm cho con người. Nói cách khác, cái mà loài thụ tạo đang có, tức là cái được lănh nhận do Trời ban cho: cái đó gọi là Đức.

   (c̣n tiếp...)
Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 7 of 7: Đă gửi: 19 April 2006 lúc 7:11am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


Ư THỨC SIÊU THOÁT TRONG PHẬT GIÁO


Những khó khăn và những ngộ nhận

Các nhà nghiên cứu về Phật Học, Phật Giáo đều nhận thấy sự khó khăn khi sưu tầm tài liệu để học hỏi, hay tu luyện, v́ nhiều lư do, như đă tŕnh bày trong các đoạn ở trên:

1. Đức Phật Tổ giữ thái độ “im lặng” không đề cập đến giáo thuyết về sự “có” hay “không có” một Đấng Thượng Đế, như dân chúng Ân Độ thời bấy giờ vẫn tin tưởng, hoặc Ngài không trả lời những câu hỏi của môn đệ về số phận của họ sau khi chết, do đó, sau này các đệ tử của Đức Phật được tự do tranh căi về các vấn đề siêu h́nh, triết lư, thần linh... tùy theo môn phái của ḿnh, ai cũng cho cách giải thích của ḿnh là gần với chủ thuyết của Đức Phật.Theo "Lịch sử Triết Học Ấn Độ” Phật Học được xếp vào môn phái chống lại “uy quyền của Vệ đà (Vedas) như Nastika, Carvaka, Bauddha, Jaina(181).

2. Kinh Điển nhà Phật quá bao la, rộng lớn, lại được hoàn toàn tự do giải thích những lời Phật dạy, theo tŕnh độ sự hiểu biết của ḿnh; vả lại, từ ngàn xưa tới nay, không có một cơ quan chính thống nào được dành quyền chú giải, nên ngay khi Đức Phật vừa nhập diệt không bao lâu, th́ các đệ tử đă chia ra nhiều môn phái khác nhau. Trong lịch sử Phật Học, hai Môn Phái chính là: Tiểu Thừa và Đại Thừa, (như đă tŕnh bày ở đoạn trên).

3.V́ sự sai biệt giữa giáo thuyết và thực hành, nên các nhà nghiên cứu đă phân biệt Phật Giáo và Phật Học, nghĩa là theo lời giảng dạy của Phật Tổ th́ chính Ngài không nhận ḿnh có quyền ban ơn giáng phước hay độ tŕ ai cả, Ngài chỉ đưa ra những tôn chỉ để ai muốn được giải thoát khỏi phiền năo, đau khổ th́ “noi gương, bắt chước” mà “Tự Độ” lấy cho ḿnh. Nhưng trong thực tế, thực hành, như “Phật Giáo ở Việt Nam”, hay ở Trung Hoa, Nhật Bản,... người ta thờ Phật như một vị thần thánh, khấn bái để xin ân… giống như bất cứ tôn giáo nào khác.Vả lại, Đức Phật và các vị Thiền Sư dùng phương pháp “Upaya”, nghĩa là “tùy thời cơ, tùy hoàn cảnh, tùy tŕnh độ hiểu biết của dân chúng mà diễn giảng, bằng nhiều cách khác nhau. Do đó, cùng một Chân lư mà giải nghĩa khác nhau.”

4.Khi Đạo Phật truyền bá sang Trung Hoa, Việt Nam th́ đă ḥa đồng với Đạo Khổng, nhất là Đạo Lăo để làm ra “tam giáo đồng nguyên”, nghĩa là các tín đồ, đặc biệt các văn nhân, nho sĩ, đạo sĩ đều dùng chung các danh từ như: Đạo, Vô, Phật Tính, Tam Tài, Vạn Vật Nhất Thể... Một khi du nhập vào các nước Trung Hoa, Việt Nam th́ cũng biến hóa theo phong tục tập quán, tín ngưỡng của dân gian các nước ấy, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam, Phật Học nguyên thủy từ Ân độ qua, đă phối hợp với Đạo thờ Trời, và Đạo Hiếu của dân Việt. Do đó, Phật Giáo ở Việt Nam mang một sắc thái riêng biệt, không giống Phật Giáo các nước Tích Lan, Thái Lan, hay Miến Điện.

Ngoài ra, một số ngộ nhận, hiểu lầm đă gây khó khăn trong việc đàm luận, thông cảm giữa Phật Giáo và các tôn giáo khác, chẳng hạn khi các thiền sư dùng các danh từ theo phương pháp phủ định như: Vô, Phật Tính, Vô ngă, Vô tâm..., th́ một số người lại hiểu theo nghĩa tích cực, “Vô”, nghĩa là không có ǵ hết. Kỳ thực, theo đương lối suy luận “phủ định (via negativa), “Vô” đây là “Vô Tuyệt Đối”, nghĩa là không có sự vật nào trong loài tương đối có thể sánh ví được, v́ ngôn ngữ loài người không thể diễn tả đầy đủ được; do đó, nếu cho rằng có thể diễn tả một cách tương xứng được, th́ Tuyệt Đối không c̣n là Tuyệt Đối nữa!

Bởi vậy, ư thức được những khó khăn, những tế nhị nhậy cảm, dễ gây xúc động, bất b́nh, nên trong đoạn này, chỉ xin giới hạn việc t́m hiểu về Ư Thức Siêu Thoát, trong môn phái Phật Học Đại Thừa, đặc biệt là các môn phái Thiền Tông.

    A. KINH NGHIỆM TÔN GIÁO

Trong đời sống tâm linh, tu đức của Phật giáo, dầu người ta không thấy nhắc đến tên “Thiên, Thiên Chủ, Thượng Đế”..., nhưng không phải v́ thế mà ta không t́m thấy những dấu tích về những yếu tố Siêu Việt, Siêu Thoát ẩn tàng trong Kinh điển và trong đời sống của giới tu hành và đạo hữu. Có thể nói, Đạo Phật là một cố gắng vĩ đại của con người đi t́m Siêu Thoát cho chính bản thân ḿnh. Thật vậy, Phật Thích Ca và các thiện nam tín nữ đă khởi sự đi t́m con đường Siêu Thoát, từ kinh nghiệm tôn giáo của bản thân và đời sống để cố gắng vươn lên cơi Siêu Thoát. Từ kinh nghiệm đau khổ của đời người, của thế giới “Vô Thường”, Đức Phật đă dạy chúng sinh phải chống lại cái “tạm thời, vô thường” để vươn lên một trạng thái nào “Khác”, “thường hằng bất biến”, có thể đem lại sự thỏa măn b́nh an cho tâm hồn: chính là Niết Bàn. Bởi vậy, có thể nói, Phật Giáo là một nỗ lực của nhân loại đi t́m sự Giải Thoát cho cuộc sống hiện tại trầm luân tạm thời, đau khổ này. Nếu cho rằng: “Niết Bàn ở đây và bây giờ”, th́ nó cũng phải “khác” cái hiện thời đầy nước mắt này! Do đó, có thể nói: những kinh nghiệm tôn giáo này đi từ “thực nghiệm” (empirical) để t́m ra những nguyên nhân sinh ra đau khổ của cái “giả ngă”, (cái ngă giả dối), để tiến lên cái “Chân Ngă Siêu Thoát”. Nói tóm lại, Đạo Phật khởi sự đi t́m Chân Lư từ kinh nghiệm sống, nhất là từ cuộc đời đau khổ, để vươn lên “Ư thức hệ” (conceptualisation); từ h́nh ảnh vượt lên ư tưởng trừu tượng; từ thực hành sống vị tha, từ bi để tới ư niệm Giải Thoát, Chân Như, Phật Tính, Đại Ngă. (182)

    B. NHỮNG DANH TỪ VÀ Ư NIỆM CÓ Ư NGHĨA SIÊU THOÁT

Trong Kinh Điển nhà Phật, có rất nhiều danh từ ám chỉ đến sự Siêu Thoát, giúp ta vươn lên khỏi cuộc đời “vô thường”, đau khổ:

a. Danh từ có ư nghĩa Siêu Thoát

Danh từ “Vô”, dịch bởi chữ “Sunyata”, diễn tả triết lư căn bản trong Phật Giáo Đại Thừa, rút ra từ Kinh Bát Nhă Balamật (Prajnaparamita Sutra). Ư nghĩa của chữ “Vô” này là phủ nhận việc coi vạn sự vạn vật là "tuyệt đối", v́ mọi sự trên thế giới này chỉ là “tương đối” và chúng không phải là sự Hiện Hữu Tối Hậu (Ultimate Existence). Không coi thế giới tương đối này là hoàn toàn hư vô, trống rỗng, nhưng từ chối thế giới “vô thường” này, nơi con người sống và chết, là Thực Tại Chung Cục.

V́ “Vô”, nghĩa là vượt lên trên mọi sự mọi loài “tương đối”, nên mới có thành ngữ “Chân Không Diệu Hữu”, nghĩa là cái “Không” chân thật, lại là cái “Có” tuyệt diệu. Do đó, chữ “Vô” dùng để chỉ “Bát Nhă” (Prajna), hoặc “Niết Bàn” (Nirvana). Và nhập “Niết Bàn”, không có nghĩa là tiêu diệt hoàn toàn linh hồn, nhưng là nh́n thấy rơ bản thể thật của con người và của vạn sự vạn vật: "Kiến tính, thành Phật". Khi dùng kiểu diễn tả “phủ định” (via negativa) th́ gọi là “Vô”, nhưng nếu nói theo cách “khẳng định” (via positiva) th́ dùng danh từ “Chân Như”, hay "Như Như" (Tathata, Suchness), tức là sự Hiện Hữu Tối Hậu, “thường hằng bất biến” (lúc nào cũng như thế), vĩnh cửu, tuyệt đối, bao quát vạn sự vạn vật. " Trung-Đạo-Luận hay B́nh-Đẳng-Luận là phương pháp để vượt thế giới hiện tượng sai biệt mà đi vào Bản Thể Tuyệt Đối và Giải Thoát"(183)

b. Kinh nghiệm thần thánh hóa

Theo Kinh Điển, th́ Phật Thích Ca không tự nhận là một vị thần có quyền ban ân giáng phước, nhưng sau này, v́ cảm phục mộ mến những giáo thuyết cao siêu của Ngài, nên người ta đă dần dần tôn phong Ngài là bậc thần thánh (deification). Một số thiện nam tín nữ cầu khẩn, tế tự, dâng lễ vật… để xin ơn, phù hộ, chữa bệnh... Hiện tượng thần thánh hóa này, ngày nay, vẫn có môn phái phản đối, v́ theo họ, không đúng như ư của Phật Tổ. Nhưng sự kiện “thần thánh hóa” Đức Phật, chính là một nỗ lực đi t́m sự Siêu Việt trong đời sống tâm linh của Phật tử, v́ cảm nghiệm thấy Đức Thích Ca Mâu Ni là một Siêu Nhân, “khác” với hết thảy chúng sinh c̣n đang ch́m đắm trong đau khổ; hơn nữa, Ngài đă thành “Phật”. Ngài đă t́m ra con đường Giải Thoát, nên Ngài phải “Khác” với các vị Bồ Tát, khác với các thiên thể như devas hay apsaras. Vả lại, Ngài có “tha lực” (other power, tariki), nghĩa là có quyền lực cứu giúp người họan nạn, như các vị thần thánh .Khuynh hướng “thần thánh hóa” Đức Phật c̣n được biểu lộ trong cách xây đắp các bức tượng thật vĩ đại như ở Vũng Tàu, Việt nam; tại đền Bayon Angkor Thom, Campuchia có tạc những đầu Phật thật lớn lao và Bodhisattva Avalokiteshvara được coi là Đức Phật cao cả nhất, là Chúa của vũ trụ. Đó là những biểu tượng nói lên ḷng khát vọng hướng về Siêu Việt, muốn Phật “khác” với chúng sinh c̣n trong ṿng Luân hồi, Nghiệp báo.

Bồ Tát Quan Âm (Bodhisattva Avalokiteshvara, Kuan Yin, Kannon) được người Trung hoa, Việt Nam sùng kính như một vị Nữ Thần giầu ḷng từ bi. Phật Adiđà (Buddha Amitabha) là một vị Thần có “Tha Lực”, có quyền cứu nhân độ thế, hoàn toàn “Khác” hẳn với các vị thần thánh, Bồ Tát khác. Chính ư niệm về sự “Khác”, về “tha lực”, khiến các nhà nghiên cứu Phật học giải thích theo ư nghĩa về kinh nghiệm siêu việt trong Phật Giáo.

Nói tóm lại, ta nhận thấy các thiện nam tín nữ đă cảm nghiệm được “quyền lực khác biệt trổi vượt” của Đức Phật AdiĐà, đặc biệt trong các môn phái thuộc Đại Thừa, tại Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Đó là dấu hiệu tốt để có thể đàm luận, đối thoại với các tôn giáo khác, về ư niệm Siêu Việt, hữu ngă, hữu vị. Ta cũng đă t́m hiểu cách diễn tả về kinh nghiệm siêu thoát bằng phương pháp phủ định, để tránh những ngộ nhận, hiểu lầm đă tạo ra những mâu thuẫn, đối kháng như: lạc quan/bi quan, vô thần/hữu thần. Nhờ có sự nhận định đúng đắn về những điểm tương đồng cũng như dị biệt, ta mới có thể trao đổi, học hỏi, tương kính, để xích lại gần nhau hơn. (184)

ĐÀM ĐẠO _________   VẠN VẬT NHẤT THỂ

Tư tưởng Đông Phuơng dựa trên nguyên lư “Nhất Nguyên Lưỡng Cực Động” (Polarisable Dynamic Monism). “Nhất Nguyên”, v́ vũ trụ này đều phát sinh bởi một nguồn gốc, gọi là Thái Nhất hay Thái Cực. Xét về động thể, khi phát hiện ra bên ngoài th́ thành Âm-Dương, luỡng cực, nhưng cũng bởi một Nguyên lư mà ra. Âm-Dương không hoàn toàn cách biệt thành “Nhị-Nguyên” (dualism), nhưng luôn luôn biến động từ cực này sang cực kia, theo luật quân b́nh phục hồi. V́ thế, Âm-Dương tuy mâu thuẫn với nhau nhưng không tiêu diệt được nhau mà lại ḥa hợp với nhau để tồn tại: “Hai mà Một, Một mà Hai”.

Do đó, tư tưởng Đông Phương thiên về lẽ “Nhất Quán”, tức là sự đồng nhất, tổng hợp của vũ trụ thành một khối duy nhất. Âm-Dương giằng co nhau v́ như có một nguyên lư “thứ ba” ở bên trên để giữ sự quân b́nh; v́ thế, nguyên lư thứ ba này gọi là “Tam Nguyên”: Tam Nguyên cũng chính là Nhất Nguyên vậy! V́ tư tưởng Nhất Nguyên này mà ta thường thấy phát biểu những thành ngữ như: “thiên địa vạn vật nhất thể”, “thần nhân tương dữ”, “thiên nhân hợp nhất”, “tam tài” (thiên-địa-nhân), “thiên tính tại nhân tâm”.

Những thành ngữ trên diễn tả sự liên đới của Tuyệt Đối với Tương Đối, của Siêu Việt Tính (Transcendence) với Nội Tại Tính (Immanence). Như ta đă thấy, chính Tâm Trí con người là nơi gặp gỡ của Tuyệt Đối. Nếu Tuyệt Đối là Chân-Thiện-Mỹ Tuyệt Đối th́ Tâm Trí con người cũng được tham dự một phần nào vào sự Tuyệt Đối cao cả đó. Chu Đôn Di và Chu Hi c̣n dùng h́nh ảnh “mặt trăng” ở trên trời và muôn ngh́n “mặt trăng” khác trong sông hồ, để cắt nghĩa sự Tuyệt Đối ngự trị trọn vẹn trong vạn vật.


Những khác biệt

Khi so sánh quan niệm về sự kết hiệp, gặp gỡ giữa Tuyệt Đối và Tương Đối, nghĩa là giữa Thượng Đế và nhân loại, ta vẫn thấy những điểm khác biệt giữa Thiên Chúa Giáo và các đạo giáo Đông phương:

Thiên Chúa Giáo luôn đề cao sự Siêu Việt của Thiên Chúa trên mọi loài tương đối, tức vạn sự vạn vật. Thần học Thiên Chúa Giáo rất chú trọng đến đặc tính “Ngôi Vị” (personal) của Đấng Tối Cao, luôn luôn “KHÁC” với mọi loài mọi vật. Nếu mất đặc tính “Ngôi Vị” này th́ niềm tin đă rơi vào một h́nh thức “phiếm thần” (pantheism), nghĩa là coi mọi người, mọi vật, cây cỏ, sông núi, v.v. đều là thần cả. Dầu công nhận có Chúa hiện diện nơi Tâm Hồn của các vị thánh nhân, hay hiện hữu để bảo toàn vạn vật, nhưng Chúa vẫn là Đấng Siêu Việt, “Khác Biệt”, không thể ḥa đồng, lẫn lộn với loài thụ sinh được! Teilhard de Chardin đă cảnh cáo khuynh hướng phiếm thần này, v́ đề cao quá mức những giá trị nhân bản, đặt con người ngang hàng với Đấng Tạo Hóa. Nhà khoa học kiêm triết gia Teilhard de Chardin, đă đề cập đến bốn ư niệm hướng đạo tư tưởng về vũ trụ quan, như sau:

“Tôi tin vũ trụ này đang biến hóa.”

Tôi tin sự biến hóa tiến về Thần Linh.”

“Tôi tin Thần Linh kết liễu, hoàn tất nơi Thiên Chúa Ngôi Vị.”

“Tôi tin Ngôi Vị Tối Cao, chính là Đấng Cứu Thế phổ quát. (Cảnh vực Thần Linh)”. (185)


Trong lịch sử triết học Đông phương, ta thấy từ đời tiền-Khổng giáo, quan niệm về một Đấng Thượng Đế, hay Thiên, nhấn mạnh đặc tính “ngôi vị”, và “siêu việt” (transcendent) hơn là đặc tính “nội tại” (immanent) hiện diện nơi tạo vật. Ca dao có câu: “Ông Trời có mắt”, nghĩa là “Ông Trời”, tuy gần gũi với con người, nhưng vẫn “Khác” với con người và c̣n có quyền xét xử con người.

Từ đời Hán, thuyết Tam Tài (Thiên-Địa-Nhân) xuất hiện, các nho gia đă nhấn mạnh đến đặc tính “nội tại” (immanent) hơn là đặc tính “siêu việt” (transcendent). Thượng Đế hay Thiên nay cũng được gọi là Thiên-Địa (Trời-Đất). Đáng lẽ nhân loại phải đội ơn Trời đă ban cho những tài năng, trí tuệ thông minh để hợp tác với Trời mà khai thác, mở mang vũ trụ, th́ nay con người lại tự coi ḿnh như ngang hàng với Trời. Do đó, đặc tính ngôi vị siêu việt của Trời dần dần lu mờ đi, trong khi ư niệm về “Đất” được đề cao hơn. (186)

Theo cách giải thích về ư niệm “tự hóa” (tự biến hóa) của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh, th́ ư tưởng về một “Ông Trời” siêu việt biến mất, chỉ c̣n những cái thuộc về “Đất” mà thôi. Với hai chữ “tự hóa”, Trang tử không thừa nhận có một “Đấng Tạo Hóa”, đứng ngoài và là Chủ tể vạn vật càn khôn, nhưng lại cho rằng: ở mỗi vật, từ vật cực nhỏ đến vật cực lớn đều có sức “tự sinh, tự hóa” ở bên trong, v́ thế, mỗi vật đều có “Đạo” ở bên trong cả. Nói một cách khác, con người, với sức “tự sinh, tự hóa”, có thể được xem như một đấng “tiểu tạo hóa”, hay “tiểu hóa công”. Do đó, trong thiên “Tề vật luận” mới nói rằng: “Trời-Đất cùng ta đồng sinh, vạn vật cùng ta đồng nhất (Thiên Địa dữ ngă tịnh sinh, vạn vật dữ ngă đồng nhất). Vạn vật đồng nhất thể (pantheism) đó là danh từ tổng quát để chỉ vũ trụ quan của Trang tử.

Các nhà đạo học như Chu Hy, Dương Minh chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo qua trung gian của Lăo giáo. Tuy không theo Phật giáo, nhưng các đạo gia đă nghiên cứu và mượn tư tưởng Phật học của phái Thiên Thai, để biện minh cho những quan niệm về nhân sinh quan và vũ trụ quan của họ.

Nói tóm lại, mặc dầu đề cao nhân bản với những khả năng, tiềm lực phong phú của con người trong lănh vực tư tưởng triết lư, và khoa học như ngày nay, nhưng nhân loại vẫn cần hướng thượng, nghĩa là duy tŕ khía cạnh “Siêu Việt” trong con người. Thiếu chiều cao siêu việt, theo triết gia Karl Jaspers, con người sẽ đâm ra hoài nghi hoặc rơi vào những dị đoan mê tín, hoặc những ảo vọng hăo huyền, ma thuật. (187)

Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.8145 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO