Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 180 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Bát nhă ba la mật đa tâm kinh Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 1 of 8: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 3:27am | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnguyet

Bát nhă ba la mật đa tâm kinh


"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhă ba la mật đa thời chiếu kiến ngă uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhăn nhĩ tỷ thiệt thân ư. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhăn giới, năi chí vô ư thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận, vô khổ tập diệc đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y bát nhă ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y bát nhă ba la cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề cố tri bát nhă ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư, cố thuyết bát nhă ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.



Bát nhă ba la mật đa tâm kinh.



"Diệu trí phương hà đạt bỉ ngạn,

Chân tâm tự năng khế giác nguyên

pháp dụ lập danh siêu đối đăi

Không chư pháp tướng thể tuyệt ngôn

Tông thú nguyên lai vô sở đắc

Lực dụng khu trừ tam trược

Thục tô phán tác kỳ giáo nghĩa

Ma ha phản chuyển bát nhă thuyền



Dịch:

Dùng diệu trí mới đạt bờ giác

Chân tâm tự năng hợp nguồn giác

Lập danh pháp dụ vượt đối đăi

Pháp tướng vốn không, thể không lời

Tông thú xưa nay không chỗ đắc

Dụng lực dẹp trừ ba chướng trược

Thục tô xác định giáo nghĩa này

Ma ha phản chuyển thuyền bát nhă".



Kinh này được phân ra thành hai phần : 1/ Giải thích tổng quát về danh đề . 2/ Giải thích riêng về văn nghĩa.



Phần giải thích về danh đề được phân làm hai : Kinh đề và nhân đề.



Bàn về đề mục của kinh, trong ba tạng kinh điển, mười hai phần giáo có bảy loại lập đề.

1/ Đơn nhân lập đề (lập đề mục riêng một người). Sao gọi là đơn nhân lập đề ? Như Phật thuyết kinh A Di Đà. Phật là người. Phật A Di Đà cũng là người, nên gọi là đơn nhân lập đề.

2/ Đơn pháp lập đề ( lập đề mục cho một pháp đơn độc).

Sao gọi là đơn pháp lập đề ? Như Phật thuyết kinh Niết Bàn, Ngài dùng tướng pháp làm đề mục, đó là đơn pháp lập đề.

3/ Đơn dụ lập đề (dùng một ví dụ đơn độc mà lập ra đề mục). Phật thuyết kinh Phạm Vơng, là ví dụ đơn độc. V́ sao ? Kinh Phạm Vơng thuyết về giới luật. Giới luật giống như tràng la vơng ( tràng lưới) ở cơi trời Đại Phạm. Tràng lưới này h́nh ṿng tṛn, được treo trước cung điện vua trời Đại Phạm; biểu hiện sự trang nghiêm. Mỗi tràng lưới có rất nhiều lỗ. Nơi mỗi lỗ có treo một hạt bảo châu. Những hạt châu này rất quư giá. Chúng hỗ tương chiếu sáng. Mỗi lỗ lưới đều tương thông lẫn nhau. Hạt châu này chiếu soi những hạt châu kia. Hạt châu kia chiếu soi những hạt châu nọ. Chúng hỗ tương soi sáng. Ánh sáng của chư vị chiếu soi ánh sáng của tôi. Ánh sáng của tôi chiếu soi ánh sáng của chư vị. Tuy nhiên, những ánh sáng này không lấn áp xung đột lẫn nhau. Không thể cho rằng ánh sáng của tôi không được chiếu đến ánh sáng của chư vị và ánh sáng của chư vị không được chiếu đến ánh sáng của tôi. Ánh quang tương chiếu, lỗ lỗ tương thông. Giới luật cũng giống như những hạt bảo châu, ánh quang hỗ tương soi chiếu. Chư vị giữ một giới th́ có một ánh quang. Chư vị giữ nhiều giới th́ có nhiều ánh hào quang. Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, mỗi mỗi giới đều phóng ra giới quang, cũng giống như tràng lưới trời Đại Phạm vậy. V́ sao bảo châu chiếu rọi trong những lỗ lưới ? Ví như, trước khi thọ giới Bồ Tát, tâm chúng ta có những chỗ lậu hoặc. Tuy thế, những lậu hoặc này có thể chuyển đổi thành bảo châu. Chư vị giữ một giới th́ có một hạt bảo châu chiếu sáng. Nếu phạm giới th́ tạo lậu hoặc (lỗ hổng).

Ánh sáng tương chiếu; lỗ lỗ tương thông cũng biểu thị cho Phật pháp. Tâm Phật, tâm Bồ Tát, tâm chúng sanh, tâm tâm tương ấn. V́ sao chư Phật chứng quả vị Phật ? V́ do tu hành giới luật mà thành tựu. Bồ Tát cũng nương nhờ giới luật mà thành Phật. Chúng sanh cũng phải tôn thủ giới luật th́ mới mong thành Phật được, biến hóa vô cùng, thật không cùng tận.

Đấy là do ví dụ mà lập đề như kinh Phạm Vơng này.

Ba loại lập đề bên trên được gọi là đơn tam (ba lập đề đơn độc).

4/ Nhân pháp lập đề. Như kinh Văn Thù Sư Lợi vấn Bát Nhă, Văn Thù là người. Bát Nhă là pháp, cũng là pháp tướng. Thế nên gọi là nhân pháp (người và pháp) lập đề.

5/ Nhân dụ lập đề (người và ví dụ). Như kinh Như Lai Sư Tử Hống, Như Lai là người, sư tử hống là dụ. Đức Như Lai thuyết pháp cũng giống như tiếng rống của sư tử, khiến muôn thú đều run sợ.

6/ Pháp dụ lập đề. Như kinh này, Bát Nhă Ba La Mật Đa là pháp, tâm là ví dụ, nên kinh này lấy pháp và dụ lập đề.

Ba loại trên thuộc về lập đề kép. Sao gọi là kép ? Kép tức là trùng phức, hợp hai loại đề thành một.

7/ Nhân pháp dụ lập đề. Có người, có pháp, có dụ, đầy đủ cả. Như kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Đại Phương Quảng là pháp, Phật là người. Hoa Nghiêm là dụ. Đây biểu thị dùng nhân vạn hạnh mà làm hoa trang nghiêm cho quả đức vô thượng. Đại Phương Quảng là thuyết về thể của pháp. Hoa Nghiêm biểu thị dụng của pháp. Đại Phương Quảng tức nói về Phật đă tu các pháp đại phương quảng, rộng lớn mới thành Phật được. Nhân hoa vạn hạnh là tu chứng được lục độ cũng như hoa nở. Quả đức vô thượng chính là hạnh đức Phật quả. Thế nên bảo rằng dùng vạn hạnh như hoa làm chủng nhân để trang nghiêm hạnh đức Phật quả vô thượng. Ở trên là nói về bảy loại lập đề.



Nay tôi sẽ dùng kệ mà giải thích đề kinh. Mỗi phần đoạn dùng tám câu kệ để giải thích. Tám câu kệ này giảng rơ về kinh bát nhă ba la mật đa. Giảng về đề mục của kinh này, y chiếu theo năm loại huyền nghĩa.



Thứ nhất là giải thích danh nghĩa.

"Diệu trí phương hà đạt bỉ ngạn, (dùng diệu trí mới đạt bờ giác)".

Sao gọi là diệu trí ? Bát Nhă là diệu trí. Đạt đến bờ bỉ ngạn (bờ giác) tức là bát nhă ba la mật đa. V́ thế, chư vị dùng trí bát nhă th́ mới đạt đến bờ giác.

"Chân tâm tự năng khế giác nguyên, (chân tâm tự khế hợp nguồn giác)".

Chân tâm này là chữ tâm, cũng là bát nhă. Chư vị có trí huệ vi diệu bát nhă. Khi có chân tâm này, th́ tự nhiên năng khế hợp với nguồn giác, cũng là tương hợp với bổn giác của chư Phật, đắc được thể của bổn giác. Khế hợp được tức là tương hợp được, cùng hiệp thành một khối.

" Pháp dụ lập danh vượt đối đăi, (lập danh pháp dụ vượt đối đăi)".

Tâm kinh bát nhă ba la mật đa lấy pháp và dụ mà lập danh đề. Bát nhă ba la mật đa là pháp. Tâm là dụ. Bát nhă là ǵ ? Bát nhă có ba loại là văn tự bát nhă, quán chiếu bát nhă, thật tướng bát nhă. Dùng văn tự bát nhă mà xuất sanh quán chiếu bát nhă. Dùng quán chiếu bát nhă mà khế hợp với thật tướng bổn giác bát nhă. Cùng tột thật tướng bát nhă chính là trí huệ, tức là trí huệ vi diệu, cũng gọi là trí huệ triệt để. Trí huệ này thật triệt liễu, là trí huệ để ḿnh trở về quê nhà, tức là trí huệ của chư Phật.

Sao nói như thế ? V́ trí huệ bát nhă chính là chân tâm. Chân tâm cũng là trí huệ. Chữ 'bát nhă' được dịch là 'chân tâm'. Kinh này nói về tâm trong tâm. Đây là tâm mà sáu trăm quyển bát nhă luôn đề cập tới. Bộ kinh này nói về tâm trong tâm. Bát nhă là tâm, cũng là tâm trong tâm. Tâm trong tâm nghĩa là tâm, nên gọi là tâm kinh. V́ chữ 'bát nhă' được dịch là 'nhất chân tâm', nên kinh đại bát nhă cũng gọi là kinh 'đại chân tâm'. Tâm này không phải là tâm giả dối, mà là diệu lư thật dụng.

Bộ tâm kinh là tâm trong tâm bát nhă, tuy chỉ có hai trăm sáu mươi chữ mà lấy chữ tâm trong kinh bát nhă làm chủ thể, nên gọi tâm trong tâm. Nay lại nói chữ tâm này, chính là tâm trong tâm, nên gọi là tâm kinh. Chân tâm biểu hiện chân tâm, nên dùng một chữ tâm. Pháp này là bát nhă ba la mật đa, cũng là pháp đạt đến bờ giác. Tâm là dụ. Kinh này lấy tâm trong một đời người làm chủ thể, nên tuyệt không và vượt ngoài đối đăi. Pháp tuyệt không đối đăi này cũng không có pháp nào đối đăi được, siêu việt, vượt ngoài cảnh giới đối đăi.



Thứ hai là hiển thể.

"Không chư pháp tướng thể tuyệt ngôn, (pháp tướng vốn không, thể không lời)".

Thể của kinh này là ǵ ? Tức là không có tướng của các pháp, cũng là các pháp không tướng. Không tướng tức không có tướng thật. Không chư pháp tướng được dùng làm thể của kinh. Tuyệt ngôn ngữ tức là không chi nói được. Thể đó là không chư pháp tướng; việc chi cũng không có, cho đến lời nói hay ho của chư vị cũng thế. Thể đă tuyệt ngôn ngữ tức là kinh xa ĺa tướng của ngôn ngữ lời nói. Xa rời tâm thường duyên theo h́nh tướng, xa ĺa tướng văn tự, xa rời tất cả tướng, tức xa rời tất cả pháp.



Thứ ba là chỉ rơ tông thú (đường hướng của tông giáo).

"Tông thú nguyên lai vô sở đắc, (tông thú vốn không chỗ đắc".

Câu thứ năm chỉ rơ đường hướng của tông giáo. Bộ kinh này theo tông chỉ ǵ ? Lấy vô sở đắc (không có chứng đắc) làm tông chỉ. Bên trên, kinh nói rằng vô trí diệc vô sở đắc (không trí cũng không có chỗ đắc). Tông thú (đường hướng của tông giáo) là ǵ ? Tức là không có chỗ đắc.

Nay dùng pháp thế gian mà giảng Phật pháp. Như con người, là danh xưng thông thường. Con người th́ gọi là người. Kinh này gọi là kinh. Gọi tên người như thế nào ? Hoặc gọi Trương Tam, Lư Tứ, đó là giải thích về danh tự. Người đó tên là Trương Tam, mà cao, thấp, trắng, mập, ốm như thế nào ? Thể tánh của người đó ra sao ? Thân thể có hoàn toàn hay không ? Có mắt, mũi, tai không ? Nói rơ ràng thể tánh của người đó tức là hiển thể.

Kế tiếp, chỉ rơ tông giáo. Chỉ rơ tông giáo như thế nào ? "Ông ấy là người rất cao, nên làm được nhiều việc khó nhọc. Ông ấy là người có học vấn, nên có thể làm bí thư. Đó là tông chỉ của ông ta ! Ông ta trước kia là người như thế nào th́ nay có thể làm những việc như thế ấy".

Đó là nói rơ tông chỉ.



Thứ tư là luận bàn về dụng.

"Lực dụng khu trừ tam trược, (dùng lực dẹp trừ ba chướng trược".

Dùng lực ǵ ? Để làm ǵ ? Dùng tâm kinh bát nhă ba la mật đa để làm chi ? Tức là dùng lực dụng của kinh này để phá trừ ba chướng. Ba chướng là ǵ ? Một là báo chướng. Hai là nghiệp chướng. Ba là phiền năo chướng.

Báo chướng có hai loại là chánh báo và y báo. Sao gọi là chánh báo, y báo ? Chánh báo tức là chúng ta đang thọ báo trong hiện tại, cũng là thân thể chính ḿnh. Y báo tức là y cứ theo cuộc sống mà thọ báo, như y phục, thức ăn, chỗ ở, v.v... Chánh báo của con người là thân thể đẹp xấu, khỏe mạnh hay bịnh tật, tướng mạo anh tuấn hay xấu xí, người người trông thấy đều hoan hỷ, ái kính hay ghét bỏ. Hoặc giả người có trí huệ, hay có thiện căn. Tuy nhiên trong mỗi hạng, cũng phân làm hai.

Thứ nhất, người có trí huệ mà không có thiện căn. V́ sao thế ? Những hạng người này đa số đều từ quỷ quái yêu ma mà sanh ra trên thế gian. Như sơn tinh ở núi lâu năm thành yêu quái, là loài si mị vơng lượng (quỷ xuất sanh từ gỗ đá). Những loại quỷ thần đầu trâu mặt ngựa này là những yêu tinh lâu năm thường ăn thịt người, hay những yêu quái đă chết lâu rồi, nay trở lại làm người. Chúng rất thông minh như những người khác. Tuy nhiên, chúng làm việc ǵ cũng đều không thông minh, luôn làm những việc sai lầm, chuyên môn không giữ luật lệ. Những việc có hại đến người khác th́ chúng đều làm. Chúng thường nói những điều làm loạn trật tự xă hội, v́ sợ thiên hạ không bị loạn. Loại người này có trí huệ mà không có thiện căn.

Lại nữa, người có thiện căn mà không có trí huệ. Có thiện căn là v́ đời trước có làm những việc lành, nhưng không nghiên cứu kinh điển, nên không có trí huệ, rất ngu si. Bàn về chánh báo, có người tướng mạo đầy đủ, thọ mạng lâu dài, được phú quư. Lại có người tướng mạo xấu xí, thọ mạng ngắn ngủi, chết lúc tuổi c̣n nhỏ. Tất cả đều do tiền nhân hậu quả, (nhân trước quả sau).

Y báo là y phục, thức ăn, nhà cửa v.v...Y báo cũng là quả báo của đời quá khứ. Đời trước trồng nhân lành th́ đời này được quả báo tốt. Đời trước trồng quả ác th́ đời này chịu quả báo xấu. Tương lai có thể c̣n chịu quả báo xấu nữa. Đó là báo chướng.

Bàn về nghiệp chướng th́ nghiệp tức là sự nghiệp, công nghiệp. Không luận người xuất gia hay tại gia, nhất định đều có sự nghiệp. Tạo ra sự nghiệp rồi th́ nhiều vấn đề khó khăn phát sanh. Khi có khó khăn th́ liền sanh phiền năo, rồi gặp bao việc không vui. Đó gọi là nghiệp chướng.

Nói về phiền năo chướng th́ chúng ta ai ai cũng có ít nhất một loại phiền năo. Phiền năo này phát sanh từ đâu ? Nó do tâm tham, tâm sân, tâm si phát khởi ra. Sao chư vị phát sanh phiền năo ? V́ có tâm tham, nên tham không được liền sanh phiền năo. V́ có tâm sân hận nóng giận, mọi sự t́nh đều không hợp với tâm ư chư vị, liền phát sanh phiền năo. V́ tâm ngu si, không sáng suốt, nên phát sanh phiền năo. V́ c̣n tâm ngă mạn, kiêu căng, nên xem thường người khác, nên phát sanh phiền năo. V́ tâm nghi, đối với tất cả sự t́nh đều phát sanh hoài nghi. Do có hoài nghi nên tạo ra phiền năo. Lại v́ c̣n tà kiến, nên kiến giải của chư vị không chánh đáng, nên phát sanh phiền năo. Nếu có chánh tri chánh kiến, tức có trí huệ chân chánh th́ đối với mọi việc, chư vị đều hiểu rơ ràng. V́ thông suốt từ đầu đến cuối nên không sanh phiền năo. V́ vậy, phiền năo do tâm tham lam, sân hận, si mê, ngă mạn, tà kiến phát khởi lên.

Bộ tâm kinh này năng phá trừ được ba chướng là báo chướng, nghiệp chướng và phiền năo chướng. Làm sao phá trừ được ? Do có trí huệ chân chánh, trí huệ vi diệu, tâm như như bất động, và chân tâm nên phá trừ được ba chướng. Chúng ta hiểu rơ giáo nghĩa tâm kinh bát nhă ba la mật đa th́ mới có trí huệ chân chánh, dẹp trừ được ba chướng.



Thứ năm là nói rơ giáo tướng.

"Thục tô phán tác kỳ giáo nghĩa, (thục tô xác định giáo nghĩa này".

Dùng thục tô mà xác định nghĩa lư tâm kinh bát nhă ba la mật đa. Thục tô là thời đức Phật thuyết pháp Bát Nhă lần thứ tư. Đức Phật thuyết pháp có năm thời tám giáo. Năm thời tám giáo này do Trí Giả đại sư tông Thiên Thai phân lập ra.

Nay tôi y chiếu hai nghĩa trí huệ quyền thật mà thuyết về năm thừa.

Thời Hoa Nghiêm : Lần đầu tiên đức Phật thuyết pháp, vừa quyền vừa thật, cộng thảy hai mươi mốt ngày. Ngài thuyết ra thật pháp, thật trí, và quyền trí. Sao gọi là thật trí và quyền trí ? Kinh Hoa nghiêm giảng về đạo lư của pháp giới, mà trong đó có sự pháp giới và lư pháp giới. Sự lư vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới. Giáo nghĩa này tuy Phật v́ Bồ Tát mà thuyết, nhưng cũng là pháp phương tiện quyền xảo cùng trí huệ chân thật của Phật pháp. Thời kinh Hoa Nghiêm là nhất quyền và nhất thật, (một quyền, một thật).

Thời A Hàm : Lần thứ hai, duy chỉ có quyền giáo pháp mà không thật pháp. Giảng về quyền giáo, dùng pháp môn phương tiện quyền xảo để dạy dỗ, giáo hóa chúng sanh. Trong thời thứ hai, chỉ có quyền pháp chứ không có thật pháp, không có thật trí.

Thời phương đẳng : Là thời thứ ba, có ba loại quyền, một loại thật. Tại sao? V́ thời này là bốn giáo đồng luận đàm. Bốn giáo là tạng, thông, biệt, viên. Dẹp phá thiên chấp tiểu giáo, tán thán đại giáo. Thiên chấp tức kiến chấp thiên lệch của chư vị không đúng. Phá tiểu, tức nói giáo lư tiểu thừa không đúng. Tán đại tức là tán thán đại thừa, phô trương viên giáo. Sao gọi là phương đẳng ? V́ đồng đàm luận bốn giáo. Đồng thời khi giảng về đạo lư bốn giáo cũng nói về ba loại quyền pháp, tức tạng, thông, biệt. Loại quyền pháp này cũng là viên giáo.

Thời Bát Nhă : Là thời thứ tư, có hai loại quyền và một loại thật. Hai loại quyền là thông giáo và biệt giáo. Một loại thật là viên giáo.

Thời Pháp Hoa, Niết Bàn : Chỉ có thật pháp mà không có quyền pháp, có thật trí, không có quyền trí, lại không có pháp phương tiện quyền xảo.

Năm thời bên trên luận bàn y cứ theo pháp quyền thật. Năm thời này thường được giảng tới giảng lui. Mỗi lần giảng kinh đều nhắc đến. Chư vị nếu thông được điểm nào th́ hiểu được điểm đó.

"Ma ha phản chuyển bát nhă thuyền, (ma ha chuyển ngược thuyền bát nhă".

Ma ha nghĩa là lớn. Chuyển ngược tức là đảo chuyển trở lại. Đảo chuyển như thế nào ? Tức đảo chuyển thuyền bát nhă. Tại sao chư vị muốn đảo chuyển thuyền bát nhă mà không đảo chuyển bát nhă ? Đảo chuyển ǵ ? Đó là đảo chuyển ngu si của ḿnh. Chuyển được tức là niết bàn. Chuyển ngược ḍng nước, phải dùng hết sức lực chứ không thể dể duôi mà đi được. Tuy nhiên, không cần phải đợi ba a tăng kỳ mà trong một đời, hai đời, ba đời v.v..., có thể đắc được trí huệ chân chánh. Nói thời gian dài quá th́ chúng ta đâm ra chán ngán, không muốn tu. Không muốn tu cũng không thể miễn cưỡng. Miễn cưỡng không phải là đạo. Thế nên đệ tử của tôi muốn đọa lạc th́ cứ đọa lạc. Chư vị không muốn chuyển ngược thuyền bát nhă, th́ thuận theo ḍng nước lớn mà trôi xuống, càng trôi xuống th́ càng xa. Nếu chư vị chuyển ngược, tức là đi trở lên ḍng nước. Nếu không muốn phản chuyển, th́ sẽ đi xuống theo ḍng hạ lưu. Xem thấy chư vị đang đi lên thượng lưu, rồi lại chạy xuống theo ḍng hạ lưu.

Bát nhă ba la mật đa là pháp. Tâm là ví dụ. Kinh là bộ kinh này. Kinh có thông danh và biệt danh. Thông danh là thống nhiếp hết mọi bộ kinh. Biệt danh là mỗi bộ kinh có danh tự riêng biệt, những bộ kinh khác không có tên giống nhau. Tâm kinh bát nhă ba la mật đa là biệt danh của bộ kinh này. Bộ tâm kinh bát nhă ba la mật đa này thuộc trong bộ Bát Nhă, biểu thị tâm trong tâm.

Sao gọi là kinh ? Kinh tức là kinh pháp thường bất chuyển, không thể thay đổi. Một chữ cũng không thể bỏ được, hay cũng không một chữ được. Đó là kinh pháp thường bất biến.

Lại "kinh" là một con đường, nghĩa là tu hành phải đi qua một con đường nhất định. Chư vị có muốn tu hành à ? Nhất định chư vị phải đi trên đường đạo này. Nếu chư vị không đi trên đường đạo này th́ sẽ bị lạc vào rừng rậm hoang vu. Chư vị phải nên đi trên đường tu hành th́ không bị lạc đường. Ngày này qua ngày nọ đều được b́nh an, sáng suốt. Sao gọi là đi lạc ? V́ chư vị xưa nay quên mất, không biết tụng niệm kinh này. Qua ba bốn tháng, không tụng niệm nên quên mất, mới đi lạc. Tụng kinh được lợi ích ǵ ? "Tụng kinh không được lợi ích ǵ cả, chỉ mất thời gian, tốn sức thôi. Tụng bộ kinh này từ đầu cho đến cuối tốn khí lực, thời gian, tinh thần. Sao lại cho là có ích lợi ?"

Này chư vị cư sĩ ! Đừng để tâm vô minh che lấp. Chư vị đừng t́m cầu lợi ích. Càng t́m cầu th́ càng không chân thật. Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng (nếu c̣n có tướng th́ đều là hư giả cả). Nếu có h́nh có tướng mà chư vị có thể thấy được th́ không phải là lợi ích chân thật. Tại sao lại không thấy được ích lợi ? Chư vị tụng kinh một lần th́ tự tánh được rửa sạch một lần. Như khi chư vị tụng kinh Kim Cang, tụng qua một lần th́ hiểu rơ ư nghĩa của kinh đôi chút. Tụng hai lần th́ hiểu thêm nữa. Tụng ba lần th́ lại càng hiểu rơ thêm. Tụng kinh khiến trí huệ tự tánh càng gia tăng. Nhưng khi trí huệ gia tăng th́ chư vị không thể thấy, chỉ tự cảm giác thôi. Thế nên, lợi ích của sự tụng kinh không thể nói hết được.

Nhưng, không nên v́ tụng kinh mà sanh ra phiền năo. Chớ nói ": Này đạo hữu ! Đạo hữu tụng kinh quá nhanh, khiến tôi theo không kịp. Hoặc đạo hữu tụng kinh quá chậm, khiến tôi phải đợi. Hoặc tiếng tụng kinh của đạo hữu không hay lắm, khiến tôi không thích nghe."

Không nên dùng công phu tu học như thế. Chúng ta biết rằng mọi người đều là những kẻ mới bắt đầu học Phật pháp. Không phải ai cũng biết tụng kinh hết, hay có người biết tụng mà không muốn tụng. Nhưng, tất cả mọi người đều phải đồng tụng kinh. Được như thế th́ ai ai cũng đều đồng huân tu tập. Lại nữa, không nên ḿnh t́m lỗi xấu người; người khác t́m lỗi xấu ḿnh. Nếu thật có lỗi xấu th́ th́ mọi người nhất định phải tự ḿnh nh́n thấy. Nếu không tự ḿnh nh́n thấy th́ lỗi xấu càng ngày càng nhiều; tu hành không thể tương ưng với đạo được. Thế nên, tụng kinh tức là hộ giúp cho tự tánh ḿnh. Hộ giúp việc ǵ ? Tức là hộ giúp khai mở trí huệ. Tụng kinh Kim Cang th́ trí huệ được khai mở. Tụng tâm kinh cũng khai được trí huệ. Thế nên, chư vị bảo tụng kinh không có lợi ích nhưng kỳ thật sự lợi ích này rất lớn. Chư vị không thể thấy được lợi ích th́ mới chân thật là lợi ích. Nếu chư vị thấy được lợi ích th́ đó chỉ thấy ngoài da thôi. Đó là ư nghĩa của sự tụng kinh.

Kinh cũng có bốn loại ư nghĩa, tức là quán, nhiếp, thường, pháp. Chữ quán, nghĩa là quán xuyến, tức là tất cả nghĩa lư đều nối thông với nhau như nối lại tất cả đường chỉ với nhau.

Nhiếp tức là nhiếp tŕ hóa độ những chúng sanh có duyên lành. Kinh năng nhiếp thủ những chúng sanh có cơ duyên, tùy theo bịnh mà cho thuốc. Sao gọi là nhiếp ? Chư vị có thấy nam châm hút sắt không ? Tuy sắt ở xa, nhưng nam châm vẫn hút được. Kinh cũng giống như nam châm hút sắt. Tất cả chúng sanh như sắt cứng, ương ngạnh cứng cơi, tánh nóng giận hẩy hừng, lỗi lầm đầy dẫy. Nhưng nhờ sức hút của kinh, tâm tánh chúng sanh từ từ nhũn nhặn, tập khí cững dần dần tiêu hết.

Chữ thường nghĩa là vĩnh viễn thường hằng bất biến. Măi không biến đổi là từ đầu đến cuối, từ xưa đến nay, đều y chiếu theo kinh mà tu hành.

Pháp là phương pháp. Dùng phương pháp này để tu hành. Đời quá khứ, hiện tại và vị lai đều dùng phương pháp này mà tu hành. V́ vậy ba đời đồng tôn kính gọi là pháp. Xưa và nay không đổi nên gọi là thường.

Lại nữa, kinh nghĩa là mực thước. Thợ mộc xưa kia dùng dây nhuộm phấn đen. Khi muốn gạch lằn ngang liền căng dây ra, rồi ấn xuống. Khi lấy dây lên tạo ra một lằn phấn đen để làm mực thước, không như hiện nay có phấn có thước kẻ đường ngay ngắn.

Tóm lại, kinh là quy củ, tiêu chuẩn, mực thước. Nay chúng ta nghiên cứu kinh Bát nhă, cũng là y theo quy tắc Bát Nhă. Chư vị nếu y theo quy tắc Bát Nhă th́ nhất định sẽ khai mở trí huệ.



Giải thích danh đề tổng quát.



Giảng về đề kinh, đại khái cũng giống như những lời giảng ở phần trên. Nay giảng trạch về người phiên dịch. Hiện tại, chúng ta hiểu rơ bộ kinh này phải nhớ ơn người phiên dịch. Nếu không có người phiên dịch, sợ rằng ngày nay chúng ta không thể đọc, nghe được tên kinh này. Nếu không được nghe, không được đọc đến tên kinh này th́ chúng ta y chiếu theo kinh nào, phương pháp nào để tu hành ? Không có phương pháp th́ làm sao chúng ta t́m được con đường tu hành. Thế nên, chúng ta phải tri ân người phiên dịch kinh. Trải qua bao thời đại, người dịch giả, v́ ḷng từ bi giáo hóa chúng sanh nên phát tâm phiên dịch kinh điển và lưu truyền lại cho đến hôm nay. Thế nên, công đức của người phiên dịch kinh điển không thể nghĩ bàn, thật to lớn. Người phiên dịch kinh này là ai ? Chính là do tam tạng pháp sư Đường Huyền Trang vâng chiếu dịch kinh. Đường tức là Đường triều. Tam tạng là kinh tạng, luật tạng, và luận tạng. Tạng kinh có rất nhiều bộ kinh. Tạng luật giảng về giới luật. Tạng luận giảng về đạo lư kinh điển.

Pháp Sư là lấy pháp làm thầy, đem pháp bố thí cho người. Dùng tam tạng kinh điển của Phật pháp làm thầy ḿnh, và đem pháp giáo hóa chúng sanh, nên gọi là tam tạng Pháp Sư. Mỗi vị pháp sư hiện nay tôn tam tạng kinh điển làm thầy và đem pháp ra giáo hóa chúng sanh. Đầy đủ hai nghĩa này th́ chư vị mới có thể gọi họ là vị pháp sư tôn kính pháp làm thầy và dùng pháp để giáo hóa chúng sanh.

Huyền Trang là tên của một vị pháp sư. Căn cơ của Ngài rất thâm hậu, áo diệu. Cảnh giới của Ngài thật không thể nghĩ bàn. Bàn về Phật giáo đời cận đại, Ngài là một vị pháp sư rất cao thâm, vĩ đại. V́ sao ? Ngài qua Ấn Độ thỉnh kinh. Khi ấy, chưa có phương tiện giao thông như máy bay, xe lửa, tàu bè, chỉ dùng ngựa thôi. Thế nên, Ngài cỡi ngựa từ Tân Cương qua trung tâm Á Tế Á, vượt dăy Hy Mă Lạp Sơn đến Ấn Độ. Cuộc hành tŕnh của Ngài xa viễn, gian khổ. Chưa ai làm được như Ngài. Trước khi qua Ấn Độ thỉnh kinh, mỗi ngày Ngài thực tập đi bộ từ sáng đến tối. Vùng gần nhà không có núi, Ngài sắp ghế bàn lại với nhau, rồi nhảy qua bàn qua ghế, thực tập cách leo núi, trèo non. V́ vậy trên đường từ trung tâm Á Tế Á đến Ấn Độ, tuy có rất nhiều núi non hiểm trở cheo leo, nhưng nhờ khi ở nhà Ngài đă từng thực tập chuẩn bị rồi nên Ngài đi như bay, bao nguy hiểm đều vượt khỏi. Cuối cùng, Ngài đạt mục đích là đến được Ấn Độ. Ngài lưu lại Ấn Độ mười bốn năm ṛng ră, rồi sau đó thỉnh kinh trở về nước để phiên dịch.

Phụng chiếu dịch; phụng là thừa phụng; chiếu là chiếu thư; dịch tức là phiên dịch. Từ tiếng Phạm của Ấn Độ, phiên dịch thành tiếng Hoa. Nay có nhiều vị cư sĩ thông đạt Anh văn, Phạm văn, Đức văn v.v... Nếu có thể phiên dịch ra nhiều ngôn ngữ ở tây phương th́ công đức thật vô lượng. Ảnh hưởng này không phải một đời mà kéo dài đời này qua đời nọ. Người tây phương sẽ rất tri ân. V́ vậy, tôi hy vọng mỗi vị Phật đừng để người sau thất vọng, mà hăy mau học tiếng Tàu, rồi phiên dịch kinh điển ra tiếng Anh, ngơ hầu cống hiến phục vụ cho người tây phương. Hăy tranh thủ mà làm. Ngày nay thế giới thật là hư hoại. Chỉ có Phật pháp mới năng văn hồi cứu độ kiếp ác này. Nếu mọi người đều không hiểu Phật pháp th́ e sợ rằng thế giới sẽ đến thời kỳ diệt vong. Đạo Gia Tô nói về ngày tận thế. Ngày tận thế cũng không xa lắm đâu ! Nếu kinh điển Phật giáo được phiên dịch qua tiếng Anh, khiến người người đều thông hiểu Phật pháp, biết rơ rằng không nên lười biếng, cố gắng tiến bước phát tâm tu đạo. Nếu được như thế th́ ngày tận thế càng lúc càng xa vời, và không biết con người sẽ sống đến bao nhiêu đại kiếp nữa, hoặc giả không có luôn ngày tận thế. Tại sao ? V́ Phật pháp thường chuyển đại pháp luân, nên khiến mặt trời luôn trụ măi, không tan mất đi. V́ vậy, không có ngày tận thế. Mọi việc trên thế gian đều sống động cả. Chúng không chết cứng, ù lỳ. Ngày tận thế thật chẳng phải là ngày tận thế. Nếu đến ngày tận thế, cũng không chính là ngày tận thế. Việc quan trọng là nếu mọi người đều học Phật pháp th́ chắc sẽ không có ngày tận thế. Nếu không ai chịu học Phật pháp th́ ngày tận thế đă đến. Lư này rất sống động chứ không cứng nhắc. Giống như lúc trước có tin rằng trong tháng tư năm nay thành phố Cựu Kim Sơn sẽ có động đất, cả thành phố đều sẽ bị ch́m xuống biển. Tin đồn này không phải mới phát sanh trong năm nay mà năm trước cũng đă có rồi. Nhiều kẻ giàu có, sợ chết ch́m nên đă bỏ đi đến sống nơi khác. Năm rồi tôi có nói rằng chư vị chỉ nên cố gắng học Phật pháp th́ thành phố Cựu Kim Sơn sẽ không bị động đất. Năm nay tôi lại nói rằng chư vị nên thành tâm tụng chú đại bi, học Phật pháp. Tôi bảo đảm với chư vị là thành phố Cựu Kim Sơn sẽ không bị động đất. Những lời này tôi cũng đă từng nói với chư vị rồi. Tại sao cho đến nay Cựu Kim Sơn cũng chưa có động đất ? Có phải là do sự cảm ứng không ? Chư vị thành tâm tụng chú Lăng Nghiêm, học Phật pháp nên thiên long bát bộ đều ủng hộ đạo tràng. V́ vậy, không phát sanh động đất. Việc này cũng giống như ngày tận thế. Ngày tận thế chuyển thành ngày không tận thế. Hà huống có sự động đất ở vùng Cựu Kim Sơn ? Muốn động đất cũng không có động đất, như chúng ta muốn dời nhà nhưng không t́m được nơi thích hợp nên không thể đời đi được. Không thể t́m được nơi tương xứng nên vùng Cựu Kim Sơn sẽ không bị động đất.





Biệt giải văn nghĩa.



Quán Tự Tại Bồ Tát.

"Hồi quang phản chiếu quán tự tại

Giác chư hữu t́nh tức tát đỏa

Như như bất động tâm quân thái

Liễu liễu thường minh chủ nhân ông

Lục chủng thần thong hồn gian sự

Bát phương phong vũ cảnh vô hống

Quyện chi tắc thối tạng ư mật

Phóng chi tắc di lục giáp trung



Dịch:

Hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại

Giác chư hữu t́nh tức Tát Đỏa

Như như bất động tâm quân thái

Rơ rơ thường biết, chủ nhân ông

Sáu loại thần thông hồn gian sự

Mưa gió tám phương không sợ hăi

Quyện cuộn tṛn giữ nơi bí mật

Phóng xả liền đầy khắp thế gian".

Quán Tự Tại Bồ Tát. Quán tức là quán tưởng. Tự Tại là trong mọi thời đều an lạc, không buồn, không bị trở ngại. Không trở ngại tức là Quán Tự Tại. Chư vị nếu bị trở ngại th́ không tự tại.

"Hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại".

Chư vị hồi quang phản chiếu th́ quán tự tại. Bằng ngược lại th́ không thể quán tự tại. Sao gọi là hồi quang phản chiếu ? Hồi quang phản chiếu tức là trong mọi việc đều phải tự hỏi chính ḿnh. Ví như người khác đối xử không tốt, th́ ḿnh phải tự hỏi lấy rằng tại sao như thế. Ḿnh phải tự suy nghĩ. A ! Nguyên nhân v́ ḿnh không tốt. Đó gọi là hồi quang phản chiếu. Nếu có người đối xử không tốt mà không kể ḿnh đúng hay sai, liền đùng đùng đánh đối phương lỗ đầu chảy máu. Thật là tự ḿnh không có lư trí. Chư vị hồi quang phản chiếu th́ có lư trí. V́ thế, hồi quang phản chiếu là quán tự tại. Hăy tự hồi quang phản chiếu xem coi ḿnh có được tự tại hay không ? Tự tại tức là tự chính ḿnh. Tại tức là hiện tại ngay nơi đây. Tôi sẽ giải thích cho chư vị từng chữ một. Sao gọi là ngay tại đây ? Nói cách khác, chư vị có khởi vọng tưởng hay không ? Nếu khởi vọng tưởng th́ không được tự tại. Không có vọng tưởng th́ được tự tại. Ngay tại nơi đây, chư vị hăy nh́n xem, thật rất đơn giản ! Chư vị hồi quang phản chiếu tức là tự xem coi ḿnh có vọng tưởng hay không. Có vọng tưởng tức không tự tại. Không vọng tưởng tức được tự tại. Chư vị thấy có vi diệu lắm không !

"Giác chư hữu t́nh tức Tát Đỏa".

Sao gọi là Bồ Tát ? Bồ Tát nghĩa là giác ngộ cho loài hữu t́nh. Giác nghĩa là người tâm trí được thông suốt minh mẫn; tâm không rối loạn. Thêm chữ 'thủ (tay)' bên cạnh chữ 'giác' th́ thành chữ 'giảo (rối)'. Như thế không giác ngộ cho loài hữu t́nh được, chỉ khiến cho họ càng thêm ngu si. Giác ngộ cho loài hữu t́nh nghĩa là khiến cho tất cả loài hữu t́nh đều được trí huệ minh mẫn thông suốt. Loài hữu t́nh là ai ? Hữu t́nh tức là chúng sanh. Chư vị chớ hiểu lầm chữ nghĩa. Giảng về loài hữu t́nh đây đại khái nói đến loài có t́nh ái ! Giác ngộ loài hữu t́nh nghĩa là khiến cho t́nh ái của chúng đều dứt sạch. Luyến ái hết tận th́ là Tát Đỏa. Đó là Bồ Tát. Do đó tâm được an nhiên, như như bất động.

"Như như bất động tâm quân thái, (như như bất động tâm thư thái)".

Như như bất động tức là không pháp nào mà không như như. Tất cả pháp đều là như pháp. Mọi phiền năo, chướng ngại đều không có. Như như bất động cũng là định lực. Tâm quân thái nghĩa là tâm luôn luôn thư thái an nhiên. Kinh Pháp Hoa nói :"Kỳ tâm thái nhiên (tâm thư thái an nhiên này)".

Thái nhiên tức là tâm an lạc b́nh thản.

"Liễu liễu thường minh chủ nhân ông, (rơ rơ thường biết, chủ nhân ông)". Chư vị phải có trí huệ bát nhă liễu liễu thường minh (rơ rơ thường biết), chớ nên để tâm bất liễu (không rơ), bất minh (không biết), hay bất minh (không biết) bất liễu (không rơ). Do đó, phải liễu (rơ) lại thêm liễu (rơ), minh lại thêm minh (biết). Liễu liễu minh minh (rơ rơ, biết biết). Minh minh liễu liễu (biết biết rơ rơ). Phải thông suốt tất cả. Không hồ đồ (mê mờ), không ngu si. Rơ biết việc không đúng mà cứ làm. Có phải đă ngu si lại tăng thêm một lớp ngu si nữa không ? Đấy chỉ v́ không biết rơ ông chủ của ḿnh. Có người nói: "Ông chủ tức là ḿnh làm chủ được. Ḿnh chính là ông chủ. Ḿnh có thể bảo người khác, mà không thể bị người khác sai bảo. Bất cứ công việc ǵ ḿnh cũng không làm, chỉ cần bảo người khác làm cho ḿnh".

Có phải như thế không ? Xin đáp rằng không phải như thế.

Tâm quân thái (an nhiên thư thái). Ông chủ tức không nói lời nhảm nhí, không làm việc xằng bậy. Đó là chư vị tự làm chủ được. Làm chủ được tức tự ḿnh có trí huệ chân chánh. Ông chủ có trí huệ chân chánh không c̣n có những suy nghĩ tà tri tà kiến. Nếu c̣n làm những việc tà quấy th́ vẫn c̣n ngu si.

"Lục chủng thần thông hồn an sự, (sáu thần thông chỉ thông thường)".

Nếu chư vị thường tự làm chủ th́ sẽ đắc được sáu thần thông. Sáu thần thông là thiên nhăn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm tâm, thần túc thông, túc mệnh thông, lậu tận thông. Sao chư vị không có sáu thần thông ? V́ chư vị không tự làm chủ được. Gặp cảnh giới liền chấp trước, nên bị cảnh chuyển. Thấy việc lạ kỳ, tâm tư thay đổi, tức chư vị bị cảnh chuyển mà chưa chuyển được cảnh. Nếu chư vị có thể chuyển được cảnh th́ bất cứ cảnh giới nào đến, không thể bị giao động. Đừng nói lúc tỉnh giác mà khi mộng mị cũng không bị cảnh giới chuyển. Đó mới thực là chủ nhân ông.

Nếu làm chủ được th́ có trí huệ chân chánh. Khi ấy sáu thần thông là chuyện b́nh thường. Không phải là việc khó có mà rất phổ thông, b́nh thường.

"Bát phương phong vũ cảnh vô hống, (gió mưa tám hướng không khinh sợ)".

Gió mưa tám hướng tức là "tám gió thổi không động, ngồi vững trên hoa sen vàng tím".

Tô Đông Pha làm kệ :

" Ngưỡng thủ thiên trung thiên.

Mao quang chiếu đại thiên.

Bát phong xuy bất động.

Đoan tọa tử kim liên"

Dịch :

"Kính đấng trời giữa trời.

Lông mao chiếu đại thiên

Tám gió thổi không động

Ngồi vững sen vàng tím".

Thiền sư Phật Ấn liền đề bốn chữ :" Phóng thí ! Phóng thí ! (đánh rắm, đánh rắm)".

Tô Đông Pha vừa thấy bốn chữ này liền giận dữ, không nhịn được. Khi ấy ông ta không những đánh rắm mà c̣n phóng hỏa nữa (lửa nổi lên trong ḷng), thậm chí muốn thiêu đốt luôn ngài Phật Ấn. Thế nên, từ Giang Nam, ông lập tức đến Giang Bắc để t́m ngài Phật Ấn. Vừa gặp, ông liền hỏi :"Ông Thầy kia ! Sao dám mắng chửi người ? Tôi nói những lời ngộ đạo mà sao Thầy lại nói rằng tôi 'đánh rắm' ?"

Ngài Phật Ấn bảo : " Tôi có chửi mắng ai đâu ? Ông nói rằng tám gió thổi cũng không động mà tôi chỉ viết hai câu 'đánh rắm' th́ ông lại từ Giang Nam chạy đến Giang Bắc. Sao ông nói tám gió thổi không động ? Chỉ cần có hai câu của tôi thôi mà khiến ông phải đến nơi này".

Tô Đông Pha suy nghĩ một hồi. "Đúng rồi ! Tám gió ǵ cũng không động ḿnh. Chỉ có bốn chữ mà khiến phải nổi nóng mà đến đây. Thật không đúng".

Do đó ông đảnh lễ sám hối.

Sao gọi là tám gió. Tức là xưng, kỵ, khổ, lạc, lợi, suy, đắc, thất. Xưng nghĩa là xưng tán. "A ! Đạo hữu thật là Phật tử chân chính, lại hiểu rơ Phật pháp, có trí huệ, cũng rất thông minh, biện tài vô ngại !"

Đó là xưng tán chư vị

Kỵ nghĩa là kỵ phúng. "Sao đạo hữu lại học Phật pháp. Hiện tại là thời đại khoa học. Học những lời cổ xưa cả mười tám đời, thật không có ư nghĩa ǵ hết. Hăy suy nghĩ kỹ. Thời đại khoa học sao lại học Phật pháp, nhân nhân quả quả, vô nhân vô ngă. Trong thời đại khoa học, ḿnh là ḿnh và người lại là người."

Đó là lời kỵ phúng (chê bai).

Khổ đau cũng là một loại gió.

Lạc tức là an lạc, sung sướng. Ăn ngon, mặc đẹp, ở sang trọng, ngày ngày đều sung sướng an lạc. Việc ǵ cũng mong tốt đẹp hết. Đó là một loại gió.

Lợi tức là lợi ích. "Tôi tu hành rất khổ cực. Tôi cũng không khởi vọng tưởng, lại có người cúng dường cả chục ngàn đồng để giúp tôi xây chùa, nên tâm tôi rất vui vẻ".

Suy là suy bại. Có người muốn phá hoại, nói :" Ḥa Thượng kia không tốt. Việc ǵ thầy cũng làm. Chớ nên tin tưởng thầy đó. Tốt nhất là hăy tin tôi."

Đắc nghĩa là được. Thất tức là mất. Chúng đều là gió cả. Gió mưa tám hướng mà không khinh sợ th́ tám gió thổi đến cũng không động.

"Quyện chi tắc thối tạng ư mật, (cuộn lại giữ ǵn trong bí mật)".

Bộ kinh này phải nên để nơi thanh tịnh, không nên để nơi bất kính. Chư vị phải tôn kính bộ kinh này.

"Phóng chi tắc di lục giáp trung, (mở ra chấn động khắp thế gian)".

Một khi mở kinh ra th́ trí huệ Bát Nhă phóng quang đầy khắp sáu phương (tức đông tây nam bắc và trên dưới). Chư vị có thấy pháp môn Bát Nhă vi diệu lắm không ?



"Hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời, (lúc hành thâm bát nhă ba la mật đa).



Hành đạo tu thân mạc ngoại tầm

Tự tánh Bát Nhă thâm mật nhân

Bạch lăng xung tiêu hắc ba chỉ

Niết bàn bỉ ngạn nhậm vận đăng

Thời hề thời hề vật thác quá

Thận chi thận thủ thiên chân

Yểu yểu minh minh thông hưu tức

Hoảng hoảng hốt hốt kiến bổn tôn



Dịch:

Hành đạo tu thân chớ t́m ngoài

Tự tánh Bát nhă nhân thâm mật

Bọt trắng tiêu, sóng đen dừng

An nhiên bước lên bờ Niết Bàn

Thời qua thời chớ đánh mất dịp

Thận trọng thận trọng giữ thiên chân

Mờ mờ ảo ảo thông tin tức

Vội vội vàng vàng thấy bổn tôn."



Hành tức là tu hành. Thâm là đối ngược với thô thiển mà gọi là thâm. Bát nhă là trí huệ. Ba la mật đa là đạt đến bờ giác. Thời là thời gian.

Đoạn này nói về Bồ Tát Quán Tự Tại tu hành thâm nhập bát nhă, chớ không phải tu bát nhă thô thiển. Sao gọi là thâm bát nhă ? Đó là diệu trí huệ. Sao gọi là bát nhă thô thiển ? Đó là giáo pháp tiểu thừa, bốn diệu đế, mười hai nhân duyên. Nhờ diệu trí huệ chân chánh mới đạt đến bờ giải thoát. Nếu chư vị không có trí huệ chân chánh th́ không thể đạt đến bờ giác được. AI năng đạt đến bờ giác ? Là Bồ Tát Quán Tự Tại. Nơi đây Phật Thích Ca Mâu Ni đề cử ra Bồ Tát Quán Tự Tại, là vị Bồ Tát tu hành pháp Bát Nhă thậm thâm và đă đạt đến bờ giải thoát. Thế nên nói rằng hành thâm bát nhă ba la mật đa thời.

Người nhị thừa chỉ tu bát nhă thô thiển mà không tu pháp bát nhă thậm thâm. Sao gọi là bát nhă thô thiển ? Tức là năng phân tích, gở tháo pháp không. Tích tức là phân tích. Phân tích vi tế. Phân tích nhũng ǵ ? Phân tích sắc pháp, tâm pháp. Sao gọi là sắc pháp ? Sắc pháp là có h́nh có tướng, có thể nh́n thấy được. Sao gọi là tâm pháp ? Tâm pháp là không thể nh́n thấy được. Hữu h́nh tức là có sắc pháp. Vô h́nh tức là tâm pháp. Hữu h́nh là ǵ ? Tất cả vật có tướng trạng đều gọi là hữu h́nh. Tâm pháp th́ vô h́nh vô tướng, chỉ có trí giác. Có trí giác và vô h́nh vô tướng gọi là tâm pháp. Có h́nh tướng nhưng lại vô tri giác là sắc pháp. Sắc trong năm uẩn tức là sắc pháp, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là tâm pháp. Thọ tưởng hành thức th́ vô h́nh tướng. Lúc Bồ Tát Quán Tự Tại hành thâm bát nhă ba la mật đa, th́ thấy rơ năm uẩn đều không. Ngài nhận thấy chúng đều không. Ngài bảo : "Sắc không khác không, không không khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Thọ tưởng hành thức giống như sắc pháp, cũng là không".

Nay giảng về không v́ Bát Nhă đàm luận về không. Tánh không có rất nhiều loại. Nay chỉ giản lược nói về năm loại.

Thứ nhất là ngoan hư không. Ngoan tức là ngoan b́ (ngu hèn). Gọi là hư không v́ nó vô tri vô thức, không có sự tồn tại của tánh tri giác. Tất cả mọi người đều biết là hư không (trống rỗng). Mọi người đều chấp trước hư không. Mắt thấy hư không nhưng không có tánh tri giác, nên gọi là ngoan hư không. Phàm phu chấp trước cũng là ngoan hư không. Sao gọi là hư không ? Tức là không có chi hết, nhưng có thật là chân không, không ? Không phải, đó là ngoan (ngu ngơ) hư không. Đây là hư không mà phàm phu thường chấp trước.

Thứ hai là đoạn diệt không. Đó là ǵ ? Là không mà ngoại đạo chấp trước vào. Ngoại đạo không biết ư nghĩa của không. Họ cho rằng người chết rồi là hết, đoạn diệt luôn, cũng là không. Thế nên, họ chấp vào đoạn diệt không.

Thứ ba là pháp không quán. Người nhị thừa tu tích pháp không quán. Tích cũng là phân tích sắc tức là sắc, tâm tức là tâm. Họ không biết tất cả đều là không. Thế nên không thể đắc và chứng được diệu lư chân không, chỉ tạm trú tại hóa thành thôi, không đồng với địa vị của Bồ Tát. Hóa thành là nơi không vọng, chỉ là trạm dừng chân. Họ tu loại tích pháp không quán, nên gọi là bát nhă thô thiển. Bát nhă thô thiển tức là bát nhă không thâm sâu. Họ tu hành pháp bát nhă này th́ chấm dứt phần đoạn sanh tử, nhưng biến dịch sanh tử vẫn c̣n. Sao gọi là phần đoạn sanh tử ? Ai ai cũng có thân thể. Chư vị có một phần. Tôi có một phần. Từ sanh đến chết có một đoạn. Một phần một đoạn gọi là phần đoạn sanh tử. Phần đoạn cũng gọi là h́nh đoạn của mỗi người. Chư vị cao năm thước. Họ cao sáu thước. Lại có người cao bảy thước. Mỗi người đều có một phần đoạn. Thánh nhân chứng sơ quả, nhị quả, tam quả, và tứ quả A La Hán chặt đứt được phần đoạn sanh tử mà vẫn c̣n biến dịch sanh tử.

Sao gọi là biến dịch sanh tử ? Biến tức là biến hóa. Dịch tức là dung dịch, cũng là biến hóa, giao dịch, mậu dịch. Biến dịch sanh tử là gốc của phần đoạn sanh tử. V́ sao gọi là thế ? Biến dịch sanh tử cũng là bao loại vọng tưởng. Những vọng tưởng này luôn lưu xuất, vọng niệm trước diệt, vọng niệm sau sanh, vọng niệm sau diệt, vọng niệm kế lại sanh. Sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, nên gọi là biến dịch sanh tử. một niệm diệt tức là mất. Một niệm sanh tức là đă sanh, cũng là vọng niệm của chúng ta. Tứ quả A La Hán chưa đoạn diệt hẳn hết, nên chỉ có Bồ Tát đại thừa mới năng đoạn tận hết. Biến dịch sanh tử cũng là cội gốc sanh tử của chúng ta. Sao chúng ta có sanh tử ? V́ chúng ta có vọng tưởng. Những vọng tưởng này phát sanh từ đâu ? Vọng tưởng vốn do vô minh phát sanh. V́ có vô minh nên mới phát sanh bao loại vọng tưởng.

Thứ tư là thể pháp không quán

Duyên Giác tu thể pháp không quán

Thứ năm là diệu hữu không quán

Bồ Tát tu diệu hữu không quán

Chân không diệu hũu.

Lúc Bồ Tát Quán Thế Âm hành thâm bát nhă ba la, Ngài soi thấy năm uẩn đều không. Đó là đắc được công năng tu hành bát nhă ba la mật đa. Nay y chiếu theo kệ của tôi mà giảng giải.

"Hành đạo tu thân mạc ngoại tầm, (hành đạo tu thân chớ t́m ngoài)".

Chư vị muốn tu đạo, tu thân, th́ chớ t́m bên ngoài. Không nên hướng ngoại t́m cầu, mà hăy t́m lại tự tánh của ḿnh.

"Tự tánh bát nhă thâm mật nhân, (tự tánh bát nhă nhân thâm mật)".

Trong tự tánh bát nhă có hạt giống thâm mật.

"Bạch lăng xung tiêu hắc ba chỉ, (sóng bạc tiêu lặn biển đen dừng)".

Lúc tu đạo, sóng bạc tức là trí huệ, như nước chảy tạo thành sóng màu sắc trắng. Sóng biển đen tức là phiền năo. Khi sóng đen ngừng th́ trí huệ tăng, pháp thậm thâm cũng cao siêu. Hành bát nhă ba la mật đa, lưu xuất pháp thậm thâm không ? V́ pháp này rất cao siêu, nh́n xem không thể thấy, nên gọi là bát nhă thậm thâm. Sóng đen dừng tức là phiền năo dừng.

"Niết bàn bỉ ngạn nhậm vận đăng, (bờ Niết Bàn, từ từ leo lên)".

Một khi đă có trí huệ th́ tự nhiên biết cách để đạt đến bờ niết Bàn, không bỏ phí sức lực nào.

"Thời hề thời vật thác quá, (thời qua thời chớ để trôi qua)".

Chúng ta tu đạo, thời gian rất quư báu, đừng để chúng trôi qua vô ích. Thế nên, thời qua thời chớ để trôi đi. Thời gian nào ? Tức là lúc hành thâm bát nhă ba la mật. Chư vị chớ nên để thời gian trôi qua vô ích.

"Thận chi thận thủ thiên chân, (thận trọng, thận trọng giữ thân chân)".

Chư vị phải cẩn thận, đừng để thời gian trôi mất, ngày đêm luống qua vô ích. Hiện tại phải tu hành đắc được pháp bát nhă thậm thâm, chân lư cao thượng.

"Yểu yểu minh minh thông hưu tức, (mờ mờ ảo ảo thông tin tức)".

Mờ mờ ảo ảo, nói nghe nhưng thực không nghe, nói thấy nhưng thực không thấy.

"Hoảng hoảng hốt hốt kiến bổn tôn, (vội vội vàng vàng thấy bổn tôn)".

Hiện nay, chư vị phải được tin tức mờ mờ ảo ảo, vội vội vàng vàng thấy bổn chân. Lại như không có h́nh tướng mà nói thấy h́nh tướng. Thấy bổn tôn tức là thấy rơ tự tánh của chính ḿnh.



Soi thấy năm uẩn đều không.



"Tam quang phổ chiếu thấu tam tài

Nhất quy hợp xứ phục nhất lai

Kiến sắc tức không thọ nạp thị

Vọng tưởng quyện lưu hành nghiệp bài

Thức năi liễu biệt ngũ âm cụ

Cảnh hoa thủy nguyệt tuyệt trần ai

Không nhi bất không minh đại dụng

Kiến do vị kiến lạc khoái tai."

Dịch :

"Ba quang phổ chiếu thấu ba tài

Nhất quy hợp xứ lại nhất lai

Thấy sắc tức không thọ nạp thế

Vọng tưởng chuyển lưu, tan hạnh nghiệp

Thức vẫn phân biệt đủ năm âm

Gương hoa trăng nước tuyệt trần ai

Không mà chẳng không rơ đại dụng

Thấy như chưa thấy vui vô vàn".



"Tam quang phổ chiếu thấu tam tài, (ba quang phổ chiếu thấu ba tài)".

Ba quang là mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Phổ chiếu tức là phổ biến chiếu sáng. Ba tài là trời, đất, người. Ba quang là văn tự bát nhă quang, quán chiếu bát nhă quang, thật tướng bát nhă quang. Thật tướng bát nhă quang tức là thậm thâm bát nhă quang. Soi thấy năm uẩn đều không. Dùng ba quang chiếu thấu ba tài, tức chiếu khắp trời, đất, người.

"Nhất quy hợp xứ lại nhất lai".

Nhất quy hợp xứ tức tự tánh của ḿnh. 'Nhất' là nói tự tánh. 'Hợp xứ' cũng là chỗ của tự tánh. Xưa nay muôn pháp đều quy về một. Một quy về hợp xứ. Ngài Thần Quang có nói bài kệ :

"Muôn pháp quy về một

Một quy về hợp nhất

Thần Quang vốn chẳng sớm biết Đạt Ma

Vếch tai núi quỳ nghe Ngài dạy chín năm

Chỉ cầu thoát khỏi Diêm La".

V́ sao thế ? Tâm chúng ta cũng chính là tánh. Một khi quay về liền hợp xứ. Hợp tức là tương hợp. Tương hợp với ǵ ? Cùng tương hợp với Phật tánh. Chư vị cùng Phật tánh tương hợp, rồi trở về cội gốc, lại xuất sanh diệu dụng. Diệu dụng này chính giúp thành tựu Phật quả, gọi là trở về nhất lai, cũng là ông Phật của chư vị.

"Thấy sắc tức không thọ nạp thế".

Thấy sắc tức không, nghĩa là thấy được sắc mà sắc vốn là không. Sao nói sắc vốn không ? Phàm phu chúng ta đều chấp trước sắc này. Chấp vào sắc ǵ ? Tổng thể của sắc. Sắc pháp tuy có nhiều loại, mà tổng thể của sắc chính là thân thể chúng ta, gọi là sắc thân. Sao sắc thân lại là không? "Thật sự thân này có mà !"

Chư vị biết mặc đồ, ăn uống, ngủ nghỉ, sao chẳng biết không ? Nếu chư vị hiểu rơ sắc thân này được h́nh thành như thế nào th́ chư vị sẽ hiểu rơ tánh không của nó. V́ vậy nên giảng về chân không tích pháp, cũng là pháp phân tích. Thân này là tổng tướng của sắc. Đất nước gió lửa là biệt tướng (tướng riêng) của sắc. Thân thể của chúng ta do đất nước gió lửa hợp thành. Xương cốt thịt thà chính là đất. Nước mắt, nước mũi, máu, tiểu tiện, mồ hôi, là nước. Thân thể được ấm áp là nhờ có lửa. Vận động hô hấp nhờ thân thể có gió. Bốn đại ḥa hợp th́ thân thể c̣n. Chúng phân tán th́ thân thể mất. Đất trở về đất đá. Nước trở về nước. Gió trở về gió. Lửa trở về lửa. Mỗi đại đều trở về cội gốc, nên không thật có. V́ thế, mọi người chấp trước vào thân thể, tự cho là có, thật là sai lầm. Sao thân thể không phải là ḿnh ? Thân thể không phải là ḿnh. Ḿnh là ǵ ? Có thể giữ ǵn thân thể, có thể thấy, nghe, ngửi, biết, nhận thức bằng tri giác. Tri giác này cũng là ḿnh. Thân thể là ǵ ? "Thân thể chính là ḿnh, ḿnh là thân thể".

Không thể cho rằng thân thể chính là ḿnh được, v́ thân thể chỉ giống như nhà ở. Chư vị không thể cho rằng nhà ḿnh ở chính là ḿnh. Chư vị gọi nhà ở chính là ḿnh th́ sợ rằng người ngoài cười cho. Nhưng nói thân thể chính là ḿnh th́ không ai cười cả. Sao không ai cười chư vị ? V́ ai cũng cho rằng thân thể chính là ḿnh, tức là chấp nhà ở chính là ḿnh. Thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, biết đều là Phật tánh. Phật tánh cũng chính là tự tánh của chư vị. Thân thể bất quá chỉ do nhân duyên ḥa hợp. Nhân duyên ly biệt th́ thân thể phân tán. Thế nên, chư vị đừng cho rằng thân thể chính là ḿnh. Ḿnh ở trong nhà, những việc bên ngoài không thể biết. Thế nên đừng chấp trước nhà ở chính là ḿnh.

Bàn về sắc, chư vị hăy phân tích rơ, nó cũng là không. Do từ không mà biến thành sắc pháp. Đất nước gió lửa hợp thành thân thể mà có người lại nói rằng thượng đế tạo ra người. Dùng ǵ để tạo ra ? Cũng dùng đất nước gió lửa mà tạo thành. Chúng ta cũng có thể dùng một chút đất, nước, gió, lửa để tạo ra thân người. Ai ai cũng đều tạo ra người khác được. Con người do nhân duyên ḥa hợp tạo thành. Nhân duyên biệt ly th́ thân thể phân tán. Thế nên đừng gọi thân thể là ḿnh. Sắc tức là không. Chư vị nếu hiểu rơ sắc tức là không th́ không chấp trước thân thể là ḿnh. Tất cả vật dụng thuộc về ḿnh, ḿnh đều bảo tồn, phụ trợ. Đó là làm nô lệ cho thân ḿnh. Tâm của chư vị chính là tánh tri giác. Chư vị phải hiểu rơ thân thể là sắc pháp, là giả hợp, đừng nên chấp trước. Nếu không chấp trước thân thể tức là phá được sắc uẩn. Khi phá được sắc uẩn rồi th́ nó biến thành không.

Thọ nạp như thế. Thọ uẩn cũng giống như sắc uẩn, là không thật có.

"Vọng tưởng quyện lưu hạnh nghiệp an bài, (vọng tưởng chuyển lưu, nghiệp an bài)".

Vọng tưởng là tưởng uẩn. Quyện lưu tức là hành uẩn. Hành nghiệp an bài là hành uẩn được an bài cùng hành nghiệp.

"Thức năi liễu biệt ngũ âm cụ, (thức cũng liễu biệt đủ năm ấm)".

Liễu biệt là thức uẩn. Phân biệt đầy đủ năm ấm. Năm ấm là sắc thọ tưởng hành thức.

"Cảnh hoa thủy nguyệt liễu trần ai, (hoa gương trăng nước tuyệt bụi trần)".

Năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giống như hoa hiện trong gương, như trăng hiện trên mặt nước. Tuyệt bụi trần tức là không c̣n một vết ô nhiễm bụi trần. Nói lên ư nghĩa là năm uẩn đều không.

"Không nhi bất không minh đại dụng, (không mà chẳng không rơ đại dụng)".

Chư vị phải hiểu rơ năm uẩn đều không. Lúc không hiểu rơ năm uẩn là không th́ có nhiều phiền năo, vọng tưởng. Hiểu rơ được th́ chuyển thức thành trí. Khi ấy đắc đại diệu dụng phi thường. Hiểu rơ diệu dụng này tức thấy mà như chưa thấy th́ an lạc sung sướng.

"Kiến do vị kiến lạc khoái tai, (thấy như chưa thấy, vui vô vàn)".

Nơi chân không xuất sanh ra diệu hữu, cùng đại dụng. Khi ấy chư vị thấy rơ mà cũng đồng như chưa thấy. Không bị cảnh giới chuyển. Có thế, chư vị mới đắc được an lạc chân chánh. V́ vậy nói rằng vui vẻ vô vàn.



Độ nhất thiết khổ ách, (vượt tất cả khổ ách).



"Độ qua khổ ải xuất luân hồi

Vũ tễ thanh tinh nguyệt chánh huy

Khôn nguyên đạo thể nhân trung thánh

Bất hoại kim khu thế thượng hy

Thoát sanh hà thuận thiên niên lạc

Chứng diệt khởi thị vạn kiếp kỳ

Nhị tử vĩnh vong ngũ trụ tận

Tiêu diêu pháp giới nhậm đông tây

Dịch :

Vượt qua cửa khổ thoát luân hồi

Mưa tạnh trời trong trăng sáng hiện

Càn nguyên thể đạo thánh giữa người

Vàng chẳng hoại diệt thế gian hiếm

Thoát sanh tử cần chi thuốc tiên

Chứng diệt đợi chi muôn kỳ kiếp

Hai chết mất hẳn năm trụ tận

Dạo chơi pháp giới khắp đông tây".



Vượt qua tất cả khổ ách. Độ tức là độ thoát. Tất cả là bao quát hết mọi khổ ách. Khổ thật khó thọ nhận, mà lại gia tăng thêm cái ách nữa th́ thật rất khó lănh thọ.

Độ, sao gọi là độ ? Độ thoát, sao gọi là độ thoát ? Tức là xa khổ đau đắc được an lạc, nên gọi là độ thoát, cũng là giải thoát. Tại sao không gọi là giải thoát tất cả khổ ách, mà là độ thoát tất cả khổ ách ? V́ tiếp theo câu trên "Soi thấy năm uẩn đều không", mà nói. Ư nói là độ cho những người tu hành. Chư vị tuy thấy năm uẩn đều không nhưng phải tu hành. Tu hành mới độ thoát được tất cả khổ ách. Nếu chư vị không tu hành mà chỉ đơn giản thấy năm uẩn là không th́ có dụng ích chi ? Soi thấy chúng đều không th́ mới biết rơ tánh không, hay giác ngộ chúng là không, nhưng phải nên tu hành. V́ vậy, tuy đốn ngộ lư mà sự th́ phải tiệm tu (tu dần dần). Hiểu rơ lư rồi th́ phải tu hành mới độ thoát được tất cả khổ ách. Nếu chỉ biết chúng là không mà chẳng chịu tu hành th́ cái không đó chả có ích lợi ǵ. V́ thế, chư vị phải nên tu hành, thật tiển tu hành. Độ cũng là cung hành thật tiển, thật thật tại tại tu hành, thật thật tại tại mà làm. Không nên dùng khẩu đầu thiền, nói khai ngộ, đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đă khai ngộ. Vậy khai ngộ ǵ, đắc được ǵ ? Chứng đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề như thế nào ? Nói th́ rất dễ mà hành th́ rất khó. Nói là pháp, mà hành là đạo. Thế nên, chư vị nói được th́ phải hành được. Hiểu rơ chúng là không th́ phải tu. Dùng cái không mà tu cái có. Dùng chân không mà tu diệu hữu.

Độ thoát tất cả khổ ách. Tất cả khổ ách là không phải một việc khổ mà nói bao quát hết mọi khổ ách. Khổ tựu chung có ba loại khổ, tám khổ, vô lượng khổ. Ba loại khổ là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Lại gọi ba thọ tức thọ khổ, thọ lạc, thọ không khổ không lạc, cũng là khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Sao gọi là thọ ? Thọ nghĩa là tiếp thọ. Tiếp thọ khổ, lạc, và không khổ không lạc. Khổ khổ tức là khổ thọ. Hoại khổ tức là lạc thọ. Đừng cho rằng hưởng lạc mà không có khổ trong đó. Trong an lạc có hoại. Hoại rồi th́ có hoại khổ. Không khổ không lạc gọi là hành khổ.

Tám khổ là ǵ ? Tức là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương mà xa ĺa khổ, oán ghét mà gần nhau khổ, cầu mà không được khổ, năm ấm hẩy hừng khổ. Ai mà không được cha mẹ sanh ra ? Có sanh tức có khổ v́ sanh. Ai không già yếu. Có người nói rằng trẻ thơ chưa già mà chết. Tuy chưa già nhưng vốn chưa có tri giác. Trẻ em chưa già nhưng vẫn có khổ v́ bịnh, khổ v́ chết, cũng gọi là khổ v́ già. Sao bảo trẻ em khổ v́ già ? Ngày em bé chết chính là ngày em đă già. Nếu không già th́ sao lại chết. Chư vị bảo trẻ em cũng biến thành già sao ? V́ em chết nên cũng gọi là già. V́ thọ mạng của em không được dài lâu. Thời gian từ sanh đến chết rất ngắn ngủi. Khi chết cũng là đă già rồi. Nếu không già th́ sao lại chết ? Thế nên, không thể thoát khỏi khổ v́ già.

Bệnh khổ. Có ai dám nói rằng bệnh không khổ không ? Bệnh thật rất thống khổ. Chư vị cũng hiểu rơ rồi. Sanh ra lại khổ v́ bệnh. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng bị quả báo gậy đập, ăn lúa ngựa. Tại sao vậy? V́ trong một đời tiền kiếp, Ngài làm một đứa trẻ. Lúc ấy trong vùng Ngài ở, dân chúng bị đói khát, không có ǵ để ăn. Chợt có một con cá voi bị mắc cạn. Ngài dùng côn đánh vào đầu khiến cá chết. Sau đó dân làng áp ra róc thịt cá voi mà ăn. Do đó, sau khi thành Phật rồi, Ngài thường thường cảm giác nhức đầu tựa như bị cây đập lên đầu, nên gọi là quả báo gập đập. Lại nữa, trong một đời tiềp kiếp, Ngài có nói một câu sai lầm rằng đối với người tu đạo, phải tu hành khổ hạnh chân chánh bằng cách ăn lúa ngựa. Sau khi Ngài thành Phật, trong một kỳ an cư kiết hạ, quốc vương không cúng dường ǵ hết, chỉ cho Ngài và tăng chúng tỳ kheo lúa ngựa thường ăn. Đó là do Ngài tạo nghiệp lúc c̣n tu hành ở nhân địa, nên hiện đời phải cảm thọ quả báo.

Chết, ai ai cũng đều không thích chết. V́ sao ? V́ quan hệ đến khổ đau. Lại có khổ v́ thương nhau mà xa ĺa, ghét nhau mà thường gặp, cầu mà không được như ư, năm ấm luôn thay đổi hẩy hừng. Những loại khổ này đều gọi là khổ. Nay chúng ta tu hành nên phải dẹp trừ ba khổ, tám khổ, vô lượng khổ, nên gọi là độ thoát tất cả khổ ách.

"Độ qua khổ ải xuất luân hồi, (vượt qua biển khổ xuất luân hồi)".

Mọi khổ đều nằm trong biển khổ. Nếu chư vị vượt qua hết tất cả khổ ách th́ chắc chắn sẽ thoát khỏi sáu nẻo luân hồi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, người, trời.

"Vũ tễ thanh tịnh nguyệt chánh huy, (mưa tạnh trời trong trăng sáng hiện)".

Khi ấy mưa tạnh tức là không c̣n hạt mưa nào hết. Bầu trời trong sáng. Trăng sáng hiển hiện. Mặt trăng trong không trung chiếu sáng. Năm ấm đều không. Không c̣n năm ấm giống như không c̣n mây, mưa. Bầu trời trong sáng, thanh tịnh. Trăng treo lơ lững, muôn dặm không áng mây. Cảnh giới này khiến chư vị phát sanh trí huệ chân chánh, chiếu sáng khắp cả, nhờ đó mà độ thoát qua hết tất cả khổ ách.

"Càn nguyên đạo thể nhân trung thánh, (Càn nguyên đạo thể thánh giữa người)".

Khi chứng sơ quả A La Hán, thân thể chư vị tràn ngập khí dương. Càn là số dương trong kinh dịch, nên gọi là càn nguyên. Đạo thể là thể chất của việc tu đạo. Trung nhân thánh là thánh nhân trong loài người.

"Bất hoại kim khu thế thượng hy, (vàng chẳng hoại diệt thế gian hiếm)".

Khi chứng sơ quả Tu Đà Hoàn, chư vị cắt đứt được tám mươi tám phần kiến hoặc. Thân thể chư vị bất hoại như vàng ṛng, trên thế gian rất hiếm có.

"Thoát sanh hà thuận thiên niên dược, (thoát sanh tử cần chi thuốc tiên)".

Xưa, vua Thái Thủy (221-207 BC) đến đảo Bồng Lai t́m thuốc trẻ măi không già, giải thoát sanh tử. Chư vị không cần thiết phải đi t́m thuốc trẻ măi không già, chỉ nên độ thoát hết tất cả khổ ách. Khi đó muốn sống th́ sống, muốn chết th́ chết. Chết sống do tự chính ḿnh. Vua Diêm La không thể cai quản được, giống như tổ Bồ Đề Đạt Ma.

"Chứng diệt khải thị vạn kiếp kỳ, (chứng diệt đợi chi muôn kỳ kiếp)".

Pháp bốn diệu đế : Khổ, tập, diệt đạo. Khi chứng đắc diệt đế th́ thành đạo, đắc vô dư Niết Bàn, không đợi trải qua tám muôn bốn ngàn kiếp, mà mau chứng đắc vô dư Niết Bàn.

"Nhị tử vĩnh vong ngũ trụ tận, (hai chết mất hẳn năm trụ diệt)".

Chư vị chứng đến độ thoát tất cả khổ ách, vượt khỏi ṿng luân hồi, đắc được thân kim cang bất hoại. Khi ấy nhị tử măi không mất. Sao gọi là nhị tử ? Có phải là chết hai lần không ? Không phải là chết hai lần mà là hai lần chết. Một lần là phần đoạn sanh tử. Một lần là biến dịch sanh tử. Gọi là hai lần chết. Khi chứng quả A La Hán th́ cắt đứt phần đoạn sanh tử. Khi chứng quả vị Bồ Tát mới cắt đứt biến dịch sanh tử. Nay, Bồ Tát Quán Thế Âm đă cắt đứt được biến dịch sanh tử. Chữ vong (mất), đây không phải là tử vong (chết mất). Trong sách đại học nói :" Nhi kim vong hỷ (như nay mất rồi)".

Chữ 'vong' đọc là không. Chúng ta có thể đọc là vong, hay không cũng được, không cần giảng giải. Hai loại chết này đều không.

"Ngũ trụ tận (tận hết năm trụ)". Nghĩa là năm trụ phiền năo. Chúng là ǵ ? Thứ nhất, kiến trụ phiền năo, là trụ ái kiến. Thứ hai, trụ ái dục. Thứ ba, trụ sắc ái. Thứ tư, trụ vô sắc ái. Thứ năm, trụ vô minh ái. V́ năm trụ ái này mà chúng ta sanh chấp trước, biến thành năm loại phiền năo. Bồ Tát Quán Thế Âm dẹp trừ hết năm loại phiền năo này.

"Tiêu diêu pháp giới nhậm đông tây, (dạo chơi pháp giới khắp đông tây)".

Tiêu diêu có nghĩa là tự tại. Tự tại cũng là tiêu diêu. Tiêu diêu cũng là tự do. Tự do, nghĩa là an lạc, sung suớng. Sao an lạc sung sướng ? V́ có thể tùy tiện đi nơi này nơi nọ. "Nhậm đông tây", nghĩa là nếu chư vị muốn qua cơi tây phương cực lạc th́ tùy ư mà đi. Muốn qua cơi đông phương Tịnh Lưu Ly Phật th́ cũng có thể đi. Muốn đến cơi Ta Bà th́ không thành vấn đề, cũng không cần hộ chiếu do ṭa lănh sự sứ quán cấp. Không có những thủ tục rườm rà. Nếu muốn đi th́ cứ đi, nên gọi là tiêu diêu pháp giới. Pháp giới không phải chỉ trong ṿng, đông tây, nam, bắc, mà cả trên dưới, mười phương. Chư vị muốn đi đến đâu th́ đều được hoan nghinh khi đến những nơi đó. Không phải nói là muốn đi đến nơi kia, nơi kia không hoan nghinh tiếp đón chư vị, không cho nhập cảnh. Muốn đến nơi nào cũng được hết. Tiêu diêu pháp giới nhậm đông tây. Chư vị thấy cảnh giới này có an lạc lắm không, tự do lắm không ! Tiêu diêu, tự do, đó là tánh pháp giới chân chánh b́nh đẳng. Khi hai lần chết và năm trụ đều tận diệt th́ đắc được tự do. Đó là tự do chân thật, an lạc chân thật, b́nh đẳng chân thật, và tiêu diêu chân thật.




Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 2 of 8: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 3:44am | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnguyet

Xá Lợi Tử.



"Xá Lợi Tử thị kiên cố vi

Dịch tác Thu Lộ mẫu nghĩa h́nh

Giới định viên minh châu quang hiện

Hạnh giải tương ưng thể linh lung

Đại trí chi hà nhân ngu biểu

Thiện ban kỷ tại nương phúc sanh

Nhân giai cụ thử chân thật huệ

Thủ chư tào khê bảo lâm phong

Dịch :

Xá Lợi Tử nghĩa là kiên cố

Dịch là Thu Lộ h́nh giống mẹ

Giới định sáng tṛn chân ảnh hiện

Hạnh giải tương ưng thể sáng trong

Bậc đại trí sao giống kẻ ngu

Biện tài giỏi nhờ thai sanh trợ

Người người đầy đủ chân trí huệ

Giữ phong cách Bảo Lâm Tào Khê".



"Xá Lợi Tử thị kiên cố vi"

Xá Lợi Tử cũng là Xá Lợi Phất. "Xá Lợi" là tiếng Phạm. "Tử" cũng là tiếng Phạm. "Xá Lợi Tử" nghĩa là "Kiên Cố". V́ sao ? Đó chỉ cho trí huệ kiên cố. Thế nên Xá Lợi Tử nghĩa là kiên cố.

"Dịch tác thu lộ mẫu nghĩa h́nh, (dịch là Thu Lộ h́nh giống mẹ)".

"Xá Lợi" phiên dịch ra tiếng Tàu gọi là "thu lộ". Thu lộ là một loài chim biển. Chim này bay rất cao và rất xa, đôi mắt lanh lẹ trong sáng như hai ống ḍm. Lúc cá bơi qua bơi lại trên biển, nó đang trên hư không liền bay xà xuống mau như hỏa tiển, để bắt lấy cá mà ăn. "Xá Lợi" cũng là tên của loài chim thu lộ. Ở Ấn Độ, con cái thường lấy tên cha, mà cũng đôi khi lấy tên mẹ, hay dùng cả tên cha lẫn mẹ. Xá Lợi Tử là chỉ lấy tên mẹ thôi. Mẹ của ngài Xá Lợi Tử tên là Xá Lợi. "Tử" tức là con của bà Xá Lợi, cũng y chiếu theo h́nh thái của bà mà tạo ra tên đó.

"Giới định viên minh châu quang hiện, (giới định sáng tṛn chân ảnh hiện) ".

Ngài Xá Lợi Tử trong tiền kiếp, sanh sanh thế thế đều tu giới, định, huệ. Giới, định, huệ của Ngài đều viên măn tṛn đầy, viên minh (tṛn sáng) như hạt châu phóng ánh sáng, nên nói là hạt châu hiển hiện.

"Hạnh giải tương ưng thể linh lung".

Ngài vừa tu hành vừa học giáo điển, nên trí huệ rất quảng đại. Thể linh lung nghĩa là thân thể của Ngài trong sáng như pha lê.

"Đại trí chi hà nhân ngu biểu, (bậc đại trí sao giống kẻ ngu)".

Sao gọi là đại trí huệ ? Ngược với ngu si. V́ Ngài khác biệt hẳn với những người ngu. Người ngu si làm những việc điên điên đảo đảo. Dù nói lời tốt đến đâu nhưng khi hành lại làm những việc hư hoại. Tạo những việc hư hoại gọi là người ngu. Người có trí huệ không si mê, không phải biết mà vẫn cố phạm, không điên điên đảo đảo, nên gọi là đại trí huệ.

"Thiện biện kỷ tại nương phục sanh, (biện tài giỏi nhờ thai sanh trợ)".

Chắc chư vị nhớ rơ những lần tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, có đề cập đến mẹ của ngài Xá Lợi Phất, không thể biện luận thắng cậu Ngài. Sau này, lúc mang thai ngài Xá Lợi Phất, mẹ lại cùng cậu Ngài biện luận. Khi ấy, cậu Ngài không thể thắng, bắt bẻ được mẹ Ngài. Do đó, cậu Ngài ra ngoài học luận nghị ngoại đạo. Khi trở về, ngài Xá Lợi Phất đă theo Phật xuất gia. V́ lúc c̣n ở trong bào thai, Ngài đă trợ giúp mẹ Ngài biện luận thắng cậu Ngài, nên gọi là thuyết thiện biện tài từ trong bào thai.

"Nhân giai cụ thử chân trí huệ, (người người đầy đủ chân trí huệ)".

Trí huệ này không phải chỉ ngài Xá Lợi Phất có thôi mà ai ai cũng đều có hết cả. Tuy có nhưng không biết dùng, nên quên mất. Nếu mọi người biết dùng trí huệ này th́ đều đạt được lợi ích cả.

"Thủ chư Tào Khê Bảo Lâm phong, (giữ phong cách Bảo Lâm Tào Khê)".

Trí huệ chân thật này ở đâu ? Tại Tào Khê ? Tào Khê ở nơi nào ? Tại chùa Nam Hoa, Mă Bá, Quảng Đông, Trung Quốc. Xa không ? Ḿnh có thể tới được không ? Chùa Nam Hoa tại núi Bảo Lâm là đạo tràng của ngài Lục Tổ, rất xa nơi này, tôi không thể đến. Được ! Nay không cần phải đi, chư vị mỗi người cũng đều có sẵn phong cách Tào Khê Bảo Lâm, không cần phải chạy đâu t́m cầu. Tự chính chư vị có sẵn trí huệ này. Chính bổn thể của chư vị là phong cách Tào Khê Bảo Lâm, nên chẳng cần phải ra ngoài t́m cầu. Trí huệ này cũng chính là chư vị. Sao lại t́m cầu bên ngoài ? Chư vị phải xả bỏ tâm vọng tưởng điên đảo, tự ḿnh dụng công tham thiền đả tọa th́ sẽ đắc được trí huệ này. Đó cũng là Tào Khê Bảo Lâm phong. Lúc ngồi tham thiền đả tọa cũng là lúc ngồi tại núi Bảo Lâm.



Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc, (sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc).



"Sắc bất dị không hữu nhược vô

Không bất dị sắc thể dụng thù

Sắc tức thị không chân nguyên triệt

Không tức thị sắc vọng lưu khô

Sơn hà đại địa duy thức hiện

Mộng huyễn phao ảnh như thị hồ

Thận vật ngoại cầu tŕ trung đạo

Phóng hạ nhiễm duyên tức lai như

Dịch :

Sắc chẳng khác không có lại không

Không chẳng khác sắc cùng thể dụng

Sắc tức là không thấu nguồn chân

Không tức là sắc nguồn vọng cạn

Núi sông non nước hiện duy thức

Bọt ảnh huyễn mộng như thế đấy

Chớ cầu ngoài, nên giữ trung đạo

Xả bỏ nhiễm duyên tức Lai Như".



"Sắc bất dị không hữu nhược vô, (sắc chẳng khác không có lại không)".

Sao gọi là sắc ? Tức là h́nh tướng. Sao gọi là không ? Tức là vô h́nh tướng. Sao lại gọi sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc ? Đây nói về đạo lư cùng tột, liễu nghĩa triệt để. Tất cả núi non, sông biển, đất đá, nhà cửa, pḥng xá, v.v... đều là sắc. Sắc trụ ở nơi đâu ? Sắc trụ tại hư không. Không trụ tại nơi đâu ? Không cũng trụ tại nơi sắc. Sắc và không có thể bảo là không hai. Sắc không khác không, lại không phải là hai. Không chẳng khác sắc. Hư không cùng sắc không có hai. Không bao gồm sắc. Sắc cũng bao gồm không. Bên ngoài th́ thấy có hai, nhưng thật tế vốn là một. Ví dụ, nơi đây vốn trống rỗng, mà chư vị lại đem cái bàn để ra đây, tức là có. Trước khi đem bàn ra, nơi đây vốn là hư không. Khi đem bàn ra th́ c̣n có hư không nữa không ? Cũng là có. Không gian cũng vẫn c̣n, bất quá bị cái bàn chiếm một khoảng thôi. Lại nói hư không này có sắc hay không ? Không này vốn cũng có sắc. Sắc tức là không. Chúng ta phân tích h́nh sắc măi th́ cuối cùng sẽ biến thành không. Tại sao thế ? Thân thể chúng ta dựa nơi sắc pháp. Do ǵ tạo thành ? Do bốn đại tạo thành. Sắc thân do bốn đại đất, nước, gió, lửa, hợp thành, cũng là sắc. Phân tích kỷ th́ khi chúng ta chết đi, bốn đại này sẽ trở về cội gốc. Đất trở về với đất; nước trở về với nước; gió trở về với gió; lửa trở về với lửa. Sắc thân tan biến mất. Sắc tức là không. Tuy nay có sắc tướng mà tương lai th́ không có, nên nói là sắc chẳng khác không, thực có thực không. Tuy có nhưng lại đồng với không.

"Không chẳng khác sắc thể dụng thù, (không chẳng khác sắc cùng thể dụng)".

Không chẳng khác sắc, nhưng có thể có dụng. Không là thể không. Sắc là dụng của không. Thể và dụng tuy hai nhưng vốn là một.

"Sắc tức là không chân nguyên triệt, (sắc tức là không thấu nguồn chân)".

Chư vị phải biết sắc thật chất vốn từ không. Cội gốc này nếu chư vị đạt đến được th́ sẽ hiểu rơ triệt để.

"Không tức thị sắc vọng lưu khô, (Không tức là sắc nguồn vọng cạn)".

Chư vị phải hiểu rơ không tức là sắc. Không có vọng tưởng th́ nguồn vọng khô cạn. Lại sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Đấy, có thể nói là chư vị tu đạo th́ mới đắc được cảnh giới đó. Sắc này cũng là sắc đẹp. Sắc đẹp đại biểu cho sắc đẹp nam nữ. Chư vị chân chánh tu đạo đắc được cảnh giới an lạc th́ cùng cảnh giới này như một, nên sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Khi tu đạo đắc được an lạc này th́ so với vấn đề khoái lạc nam nữ gấp trăm ngàn lần, không thể so sánh được. V́ vậy, không chẳng khác sắc.

Sắc tức là không. Trên h́nh sắc, chư vị phải hiểu rơ lư không, đừng trụ vào, chẳng có ǵ để chấp trước, không nắm giữ, không xả bỏ, cũng không thọ, chính là không. Không chẳng khác sắc; không tức là sắc. Trên lư không đắc được an lạc chân chánh. Khi đó, những tư tưởng hay vọng tưởng của chư vị đều không c̣n. V́ sao ? Đạt đến cảnh giới an lạc này th́ càng an lạc thêm, v́ đă xả bỏ tâm vọng tưởng.

"Sơn hà đại địa duy thức hiện, (sông núi nước non hiện duy thức)".

'Sơn hà đại địa' tức đất đá núi sông, là sắc pháp. Sắc pháp này xuất hiện từ đâu ? Từ tâm thức phân biệt của chúng ta xuất hiện ra. Nếu chúng ta năng chuyển hóa tâm thức phân biệt th́ núi sông đất đai cũng không c̣n.

"Mộng huyễn phao ảnh như thị hồ, (bọt ảnh huyễn mộng như thế đấy)".

Tất cả tướng đẹp đều là mộng cả. Ai ai cũng biết mộng mị, đều nằm mộng, nhưng hỏi nằm mộng như thế nào, thấy mộng ra sao ? Chỉ tự trả lời cho chính ḿnh thôi. Có mà không phải thật, không chính xác nhất định. Hoặc nói :" Ban ngày nghĩ tưởng như thế nào th́ đến tối mơ như thế ấy."

Hoặc nói :"Trước kia tôi đă thấy những cảnh giới này, nên gọi đó là mộng".

Lại có khi không nghĩ đến việc đó, nhưng đến tối th́ mơ thấy, vậy giảng giải làm sao ? Có lúc không thấy qua cảnh giới mà lại nằm mơ thấy, th́ giải thích thế nào ? Giải thích không được. Có phải tỉnh từ trong giấc mộng không ? Cũng rất mơ hồ. Thậm chí nằm mộng rồi mà quên, không nhớ ǵ cả. Chư vị hăy suy nghĩ xem, khoảng mười tiếng sau khi mơ mộng, chúng ta đều quên hết những ǵ xảy ra trong mộng, huống chi những sự việc trong đời quá khứ, lại nói không tin có đời trước. Tất cả việc đời quá khứ chúng ta đều quên cả. Chỉ sau mười giờ là chúng ta hoàn toàn quên hết những ǵ xảy ra trong mộng, nói chi tất cả sự việc trong đời quá khứ.

Một người đang lúc mộng mị, giả như có người bảo :" Đạo hữu nay phát tài, làm quan lớn, có nhiều vợ con, nhiều tài sản, nhưng chúng đều không thật, chỉ là mộng thôi."

Nhưng người đang mộng mị đó, không tin tưởng cho rằng lời kia là thật. "A ! Cái ǵ ! Hiện tại tôi đang phát tài, làm quan lớn, vợ con nhiều, tài sản to tát, sao lại nói là mộng ? "

Họ không tin tưởng chính họ đang mơ mộng. Đợi khi thức giấc, không ai bảo cho mà chính tự họ biết rằng họ vừa trải qua cơn mộng mị, thấy ḿnh phát tài làm quan lớn, vợ con nhiều, tài sản giàu có. Chúng vốn không thật; không nói cũng tự biết v́ đă tỉnh giấc mộng.

Chư vị phải biết rằng chúng ta hiện đang mơ mộng ! Tôi bảo :"Chư vị đang nằm mộng, nếu không tin, đợi khi tu đạo đắc quả th́ mới biết rơ. A ! Xưa kia, bất cứ những việc ǵ mà tôi làm đều là ảo mộng hết, v́ ḿnh vốn chưa tự làm chủ chính ḿnh. Bây giờ mới biết là những việc xưa kia ḿnh làm xác thật chỉ nằm mơ thôi.

'Huyễn', sao gọi là huyễn ? Huyễn tức là xuất phát từ huyễn hóa. Nhà ảo thuật từ không mà tự hóa thành có, tự có mà hóa thành không, biến hóa không lường, khiến trẻ con cho pháp huyễn thuật là thật, mà người lớn khi nh́n xem th́ biết đó là không vọng, giả tạo chế ra. Đó là huyễn.

'Phao' tức là bọt nước, không lâu bền, không thường hằng. Ảnh tức là bóng ảnh. Bóng ảnh là thật hay giả ? Chư vị nói nó giả, nhưng nó thật có tồn tại. Chư vị nh́n thấy, nói nó là thật, nhưng lại không thể nắm bắt lấy. Vậy, chư vị nói nó là thật hay giả ? Những bóng ảnh này phát sanh từ đâu ? Nghiêng về phía dương th́ không có bóng. Ngă về phía âm th́ có bóng. Chư vị đi nơi đâu th́ nó đi theo đến đó. Bóng ví như ma. Nó luôn đi theo chư vị măi. Thế nên, người nhút nhát sợ ma, thấy bóng ma liền sợ hăi, chạy lánh xa, nhưng ma đó chính là bóng dáng của người thật. Nhưng bóng ảnh này, khi sống th́ hiện bóng, khi chết không c̣n thân thể th́ bóng biến thành ma. nếu không có bóng th́ biến thành thần, nhưng thần và ma không hai, mà là một. Nếu khí dương sung túc th́ lúc đi không có bóng ngă theo. Khí âm nếu đầy đủ th́ khi đi liền có bóng chạy theo. Thế nên, chúng ta thường nghiêng về bên có khí lực mạnh. Nếu chư vị tạo công đức nhiều th́ được sanh lên trời. Nếu chư vị tạo tội ác nhiều th́ phải bị đọa xuống địa ngục. V́ vậy bảo rằng bọt nước, bóng ảnh huyễn mộng như thế.

"Thận vật ngoại cầu tŕ trung đạo, (chớ t́m cầu ngoài, tŕ trung đạo)".

Chư vị chẳng nên hướng ngoại t́m cầu. Tự trong thân tâm đă có đầy đủ.

" Phóng hạ nhiễm duyên tức lai như, (xả bỏ duyên nhiễm tức Lai Như)".

Sao gọi là duyên nhiễm ? Nhiễm tức là nhiễm ô. Duyên tức là nhân duyên. Chư vị phải nên phóng xả. Sao gọi là duyên nhiễm ? Duyên tức là tâm tham, sân, si, giết hại, uống rượu, dùng nha phiến. Chư vị phải xa rời duyên nhiễm th́ đồng vào nhà Như Lai. Lai Như tức là từ nay cho đến ngày thành Phật không xa. Khi thành Phật th́ gọi là Như Lai. Chúng ta chưa thành Phật nên gọi là Lai Như. Lai th́ năng Như. Không lai th́ không như. Lai đến nơi nào ? Lai đến nơi thành Phật. Những duyên nhiễm này phải nên xả bỏ hết th́ mới là Lai Như. Như nghĩa là mọi việc đều hợp lư, không có việc ǵ chướng ngại. Nếu mọi việc c̣n chướng ngại th́ không gọi là Lai Như.

Không này chính là chân không. Sắc cũng là diệu hữu. Diệu hữu phi hữu cũng là chân không. Chân không này xuất sanh từ đâu ? Xuất sanh từ nhất như, cũng từ sắc pháp phát khởi ra. Nơi nào cũng có sắc pháp. Từ hư không cũng hiện ra sắc pháp, nên nói sắc không khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, cũng là thuyết chân không mà chẳng phải không, diệu hữu mà chẳng phải hữu. Tại nơi chẳng không chẳng có, chư vị nên hiểu kỹ. Đấy là chân chánh hiểu rơ Phật pháp. Giống như bên trên bàn về mộng. Chư vị mộng đến mộng lui mà không biết. Mộng rồi tỉnh, tỉnh rồi mộng cũng thế. V́ vậy chúng ta sanh ra như thế nào, chết đi ra sao, vẫn không biết. Trong cái không biết mà hiểu rơ đó là giác ngộ. Do đó, bảo rằng sắc tức là cội nguồn của chân không. Hiểu rơ chân lư không tức là sắc th́ ḍng vọng tưởng khô cạn. Vọng tưởng đoạn hết, không c̣n nữa. V́ thế, chúng ta phải hiểu rơ đạo lư không và sắc, và cũng phải lănh hội đạo lư phi không, phi sắc. Ngài Lục Tổ nói :" Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy, cái ǵ là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh ?"

Không nghĩ thiện là không phải không, không nghĩ ác, cũng là không phải sắc. Nơi chẳng phải sắc, chẳng phải không đó, chư vị hăy nghiên cứu kỹ, đó chính là giác ngộ được cảnh giới vừa là không mà vừa là sắc. Do đó, chư vị phải hiểu rơ sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Trong chân không có chân sắc; trong chân sắc có chân không, tức là tại sắc pháp cũng có bổn thể của chân không, và tại pháp không cũng là sắc. Như núi là sắc pháp. Chư vị san bằng th́ thành không. Trước lúc san bằng núi th́ có không chăng ? Cũng tại chỗ đó. Khi có không rồi th́ sắc c̣n hay mất ? Sắc cũng c̣n nơi đó. Hăy xem coi chỗ nào là không ? Sắc cũng tại nơi đó. Không cùng sắc là một như băng với nước. Sao không biến thành sắc ? Như trời lạnh th́ nước biến thành đá. Sao sắc biến thành không ? Trời nóng khiến nước đá tan thành không. Lại có thể nói rằng trong không trung, nhiều hạt bụi hợp lại thành một sắc tướng, nhân duyên tán th́ biến thành không. Thế nên, không cũng là sắc, sắc cũng là không. Bảo rằng hạt bụi đó không thể chuyển hóa, cũng là một ví dụ, lại không bảo hạt bụi là nước đá được. Sợ chư vị chưa hiểu rơ nên lấy ví dụ nước đá và nước lỏng. Chư vị đừng hiểu lầm là hạt bụi và không biến thành nước và nước đá. Chư vị hăy suy nghĩ, giống như đầu đặt lên đầu, lại biến thành chấp trước. Gốc vốn không chấp trước. Tôi không có phương cách khiến chư vị hiểu rơ đạo lư sắc không chẳng khác. Từ từ th́ chư vị sẽ tham ngộ đạo lư này hoặc sẽ minh bạch rơ ràng.



"Thọ tưởng hành thức diệt phục như thị. Xá Lợi tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, (thọ tưởng hành thức cũng là như thế. Xá Lợi Tử, các pháp đều không tướng, không sanh, không diệt, không cấu không tịnh, không tăng, không giảm).



"Thọ tưởng hành thức như không sắc

Tái hồ Xá Lợi nhữ đế thính

Thị chư pháp không tướng vô tánh

Bất sanh bất diệt tịch nhiên thông

Bất cấu bất tịnh ly nhiễm ô

Bất tăng bất giảm ngộ huyễn trung

Thâm nhiên tịch cực siêu tạo hóa

Đốn giác ngă pháp bổn viên dung.

dịch:

Thọ tưởng hành thức như không sắc

Lại nữa Xá Lợi nên lắng nghe kỹ

Các pháp đều không tướng vô tánh

Không sanh không diệt, thông tịch nhiên

Không nhơ không sạch xa nhiễm ô

Không tăng không giảm ngộ trong huyền

Thâm sâu cực tĩnh vượt tạo hóa

Đốn giác ngă pháp vốn viên dung."

Bên trên giảng sắc không khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Sắc này có nhiều loại sắc pháp, nhưng tổng quát không ngoài ba loại, tức là khả đối khả kiến sắc, khả đối bất khả kiến sắc, bất khả bất đối kiến sắc.

Sao gọi là khả đối khả kiến sắc ? Khả đối tức là có thể đối mặt. Khả kiến tức là có thể thấy. Khả đối bất khả kiến sắc là có thể đối đăi, nhưng không thể nh́n thấy. Lại bất khả đối bất khả kiến sắc là chư vị có đối đăi cũng không có đối đăi, thấy cũng không thể thấy sắc. Loại sắc này xuất phát từ đâu ? Do phân biệt từ cảnh giới sáu trần như h́nh sắc, âm thanh, hương vị, xúc chạm, pháp.

Sao gọi là khả đối khả kiến sắc ? Thí như nhân, ngă, tha, chúng sanh, núi non, sông hồ, đất đai... vạn tượng bao la, đều có h́nh sắc, có sắc tướng, có h́nh chất nên có thể thấy. Do đó đều gọi là khả kiến khả đối sắc (có thể thấy, sắc có thể đối đăi), tức chung quy nơi sắc pháp.

Lại nữa, chung quy nơi sắc pháp mà khả đối bất khả kiến (sắc có thể đối đăi mà không thể thấy). Đối là có thể đối đăi, nhưng chư vị không thể nh́n thấy, chỉ có thể nghe thôi. Tại sao ? Nay nói về âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm. Đối với thanh trần, tức âm thanh mà chư vị có thể nghe. A ! Âm thanh hoặc hay hoặc dở, chư vị có thể đối trước với nó mà sanh tâm thức phân biệt, nhưng không thể thấy được âm thanh. Hăy nói, âm thanh là sắc ǵ, là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng ? Nó không có h́nh sắc. Âm thanh này h́nh dáng ra sao, h́nh tṛn, h́nh tam giác, h́nh dài ? Chư vị không thể biết, không thể thấy. Không thể thấy được thể tướng của thanh trần, nên gọi là khả đối bất khả kiến sắc (có thể đối trước, nhưng không thể thấy). Âm thanh này chung quy nơi sắc trần. Nơi năm ấm, sắc thọ tưởng hành thức, chung quy về sắc.

Mũi ngữi mùi hương, đó là hương trần. Chư vị có thể bám chấp vào. Tuy ngữi biết là hương mà không thể thấy được tướng mạo. Hương là ǵ ? Tức là hương vị, hay hương trần. Ngữi th́ cảm giác được, nhưng không thể thấy. Vậy nó có hay không ? Tuy không thấy, nhưng nó thực có v́ dùng mũi ngữi thấy được.

Vị, tức là mùi vị ngon bổ. Chúng là ǵ ? Chư vị có thấy được không ? Cũng không thể thấy được nhưng dùng lưỡi nếm th́ cảm giác được. Đầu lưỡi biết mùi vị ngon dở, đắng, cay, mặn, ngọt, chua. Năm mùi vị này có h́nh sắc không ? Chúng ra như thế nào ? Chư vị không thể thấy được.

Xúc, thân thể nhờ mặc y phục nên được ấm áp, trơn trụi. Khi rờ vào da th́ tự nhiên cảm giác được an lạc thích thú. Xúc trần này như thế nào ? Không thể thấy được, nên gọi là có thể cảm nhận mà không thể thấy được sắc trần. Nơi năm trần sắc thanh hương vị xúc pháp, hoặc đă có trải qua hay chưa trải qua, nơi ư thức đă từng gieo ảnh tử. Ví như khi thấy h́nh sắc th́ ư thức liền biết. A ! Tôi thấy màu đỏ, lại thấy màu vàng, màu xanh lá cây. Những màu sắc này, khi vừa thấy qua nhưng ảnh tử (h́nh ảnh) vẫn c̣n nằm trong ư thức. Ảnh tử này, chư vị nói có hay không ? Nhớ lại những cảnh trong thời quá khứ, vậy ảnh tử có thật không ? Những cảnh giới này gọi là ảnh tử (h́nh ảnh) của năm trần. Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần cũng là như thế. Tuy đă xảy ra trong đời quá khứ nhưng trong ư thức vẫn c̣n lưu lại ảnh tử (h́nh ảnh). Đó là pháp trần, cũng là sắc không thể nhận diện, không thể thấy được. Không thể nhận diện, nghĩa là chư vị đă gặp trong thời quá khứ, nay không c̣n nữa, lại không thể thấy. Vậy chư vị nói nó không có à ? Giống như khi khắc xong bản gỗ th́ nó c̣n tồn tại măi măi, nhưng chư vị không có cách ǵ để thấy, để nghe, để t́m kiếm tướng mạo chân chánh được cả. V́ vậy, gọi là ảnh tử (h́nh ảnh) của năm trần lạc vào ư thức thứ sáu, nên nói là sắc không thể đối nhận, không thể thấy. Sắc là như thế, c̣n thọ tưởng hành thức cũng giống vậy.

Tưởng không khác không, không chẳng khác tưởng, tưởng tức là không, không tức là tưởng. Thọ không khác không, không chẳng khác thọ, thọ tức là không, không tức là thọ. Hành chẳng khác không, không chẳng khác hành, hành tức là không, không tức là hành. Thức chẳng khác không, không chẳng khác thức, thức tức là không, không tức là thức. V́ vậy bảo rằng 'diệc phục như thị (cũng đều như thế)', tức là cũng giống như sắc và không. Do đó, thọ tưởng hành thức cũng đồng dạng.

"Thọ tưởng hành thức như không sắc".

Thọ tưởng hành thức đă được giảng qua nhiều lần rồi. Chúng là ǵ, từ đâu đến, rồi đi về đâu ? Chúng ta phải biết bản thể của thọ tưởng hành thức, hiểu rơ tác dụng của chúng, rồi mới hàng phục chúng. Nay tôi sẽ dùng đạo lư thô thiển đơn sơ để giảng về chúng.

Sao gọi là sắc ? Đó là sắc thân của chúng ta. Chung quy là sắc pháp, nên gọi là sắc thân. Tuy sắc thân này có h́nh tướng, nhưng nếu nghiên cứu thấu đáo th́ bản thể của nó vẫn là không. Tại sao nói như thế ? tôi đă giảng qua nhiều lần ở phần trước rồi. Thân thể này do bốn đại, đất nước gió lửa hợp thành một công ty hữu hạn. Đất là duyên cứng rắn. Nước là duyên ẩm ướt. Gió là duyên diêu động. Lửa là duyên nóng. Do bốn đại này hợp duyên lại thành thân thể, có h́nh sắc. Khi nhân duyên bốn đại này phân khai, ly tán th́ đại nào trở về đại đó, nhưng chung cuộc đều là không. Do thế, bảo rằng sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Sắc chẳng khác không, tức là chân không. Không chẳng khác sắc tức là diệu hữu. Chân không cũng là diệu hữu, diệu hữu cũng là chân không. Không thể bỏ chân không, hướng ngoại t́m cầu diệu hữu, cũng không thể bỏ diệu hữu mà xuất hiện chân không. Đó là từ khi trời đất chưa khai mở, trước khi được cha mẹ sanh ra, là bản lai diện mục mà ḿnh đồng với chư Phật không khác.

Do bốn đại ḥa hợp mà thành sắc thân, có h́nh sắc có thể thấy, hưởng thọ sung sướng. Có ba loại thọ cũng là ba loại khổ. Chúng là ǵ ? Tức là khổ thọ, lạc thọ, và không khổ, không lạc thọ. Chư vị có sợ khổ không ? Càng sợ khổ chừng nào th́ càng có nhiều khổ chừng đó. Sao tôi bảo chớ nên sợ khổ. Khổ ít hay nhiều ? Chư vị đừng có sợ khổ. Tuy khổ không nhiều nhưng khổ vốn không có thật. Nếu sợ khổ bao nhiêu th́ bị cảm khổ bấy nhiêu, khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.Chúng ta phải cảm giác ḿnh là người khổ nhất trần gian. Tất cả sự việc đều cảm thấy khổ.

Tôi có một đệ tử. Hắn cảm giác mọi việc đều khổ; nói năng cũng khổ; muốn ăn này nọ cũng khổ; nhưng làm việc sinh sống th́ không khổ, vui vẻ làm việc. Tuy nhiên, trên gian rất ít công việc an nhàn. Công việc an nhàn cũng là quả khổ. Thọ lạc tức thọ vui thú, hưởng thọ. Thích có xe hơi, nhưng sau khi mua xe rồi th́ lại muốn mua máy bay. Có máy bay rồi th́ muốn mua thêm tàu để chạy ra biển du ngoạn. Có tàu rồi lại muốn ngồi trên phi thuyền hỏa tốc để du hành lên cung trăng. Chư vị nói thử coi, những vọng tưởng này có bao giờ ngừng đâu. Tuy hưởng thọ, hưởng thú vui, nhưng càng đầy đủ chừng nào th́ tâm lại càng muốn nhiều thêm. Đến được cung trăng, nhưng kết quả không hợp thủy thổ, liền sanh bệnh. Trên cung trăng không có bác sĩ. Chết tại cung trăng rồi biến thành quỷ ở cung trăng. Chư vị hăy nói xem, đó là an vui hay khổ đau. Đấy là hưởng lạc mà cũng là nhân của khổ.

Không khổ không lạc. Chư vị nói :"Tôi không muốn khổ cũng không muốn quá an lạc, chỉ muốn sống một đời b́nh thường thôi."

Không sai ! Một đời làm ăn buôn bán, không có lời, không được lợi tức mà cũng không thua lỗ. Vốn có năm mươi ngàn, làm bao năm rồi vẫn c̣n năm mươi ngàn. Đó gọi là không khổ không an lạc, nhưng rất mất mát. Chư vị đến thế gian này, mê mờ mà đến, lại mê mờ mà đi. Tài sản sở hữu không biết xử lư cho đúng. Chư vị cũng không biết an bài trương mục của ḿnh, mê mờ đến, mê mờ đi, không có ư nghĩa ǵ cả. Muốn hưởng thọ th́ không thể không khởi vọng tưởng. "Tôi phải kiếm cách ǵ để mua xe hơi, mua nhà sang trọng, mua tàu thủy, mua máy bay ?"

Nghĩ đến nghĩ lui, khởi những vọng tưởng này, khiến tóc đều bạc hết. Khi leo lên giường th́ suy nghĩ trăm ngàn kế. Sáng sớm thức dậy, chưa kịp trở ḿnh mà đă tính toán bao việc. Đấy là những giấc mộng thực đẹp !

Hành tức là thực hành. Thực hành ǵ ? Thực hành theo những vọng tưởng của chư vị. Thân thể của chư vị tức là sắc uẩn. Có sắc uẩn này nên có tư tưởng hưởng thọ. Muốn hưởng thọ cũng là khởi vọng tưởng. Muốn hưởng thọ th́ phải làm để đạt đến mục đích; làm rồi mới sinh ra ít nhiều trí huệ. Thức là một loại thông minh nhỏ, chỉ bằng một cọng tóc trên đầu thôi. Trí huệ nhỏ trụ nơi lầu trí huệ nhỏ, làm những việc tiểu trí huệ. Trí huệ nhỏ này tại lầu nho nhỏ có thể phát triển được không ? Không thể được. Tại lầu nhỏ, công ty nhỏ, không thể làm sự nghiệp lớn được. Thế nên, chư vị phải có trí huệ th́ mới giúp đỡ chính ḿnh thực hành những kế hoạch đă vạch sẵn. Thực hành được th́ sẽ đạt được như ư, rồi sau đó hưởng thọ, khiến thân thể sung sướng đầy đủ. Sau khi thân thể hưởng thọ như ư muốn, chỉ trong năm phút th́ huyết quản liền đứt mà chết v́ hưởng thọ quá độ. Hưởng thọ này không bền lâu. Đây thuộc về năm uẩn. Năm uẩn này ḥa hợp thành một công ty. Công ty này mở rồi đóng, đóng rồi mở, không ngừng nghĩ. Chư vị cảm giác ước muốn một điều, là ǵ ? Tức là v́ đời nay không kiếm ra nhiều tiền, chỉ mong đời sau kiếm được chút ít. Ví như đánh cờ bạc, bỏ tiền vào ngăn, nghĩ rằng kéo ra sẽ được nhiều tiền, nhưng khi bỏ vào th́ tiền lọt vào lỗ khác, thuộc về người. Vốn tính đánh bạc cầu thắng mà ngược lại mất tiền, bị thua lỗ. Thân thể chúng ta cũng như thế, nay lại muốn đánh bạc. Tại sao vậy ? V́ chư vị không chịu nh́n thấu suốt, không biết rằng trời đất thế gian có nhiều sự vi diệu, cảnh giới không thể nghĩ bàn. Chư vị không nên bước bên phải bên trái giống như khi xưa nữa, càng sa xuống th́ càng lún sâu. Vậy, chư vị phải làm ǵ ? Chư vị phải dẹp trừ tâm tham th́ sẽ không c̣n thua lỗ nữa. Lại nữa, chư vị nên giữ bổn phận của ḿnh và tu hành, đó gọi là phản bổn hoàn nguyên (xoay về cội gốc), th́ mới có thể trở về nhà được.

Bên trên, giảng về ba loại sắc, tức là sắc có thể đối có thể thấy, sắc có thể đối không thể thấy, sắc không thể đối không thể thấy. Đó là mười một loại sắc pháp. Tại sao thế ? năm căn, mắt tai mũi lưỡi thân ư, lại thêm sáu trần sắc, thanh hương vị xúc pháp. Năm căn đối với sáu trần sanh ra mười một loại sắc pháp. Mười một loại này cũng được phân tách từ ba loại sắc ở bên trên, tức là sắc có thể đối có thể thấy, sắc có thể đối không thể thấy, sắc không thể đối không thể thấy.

Có thể đối có thể thấy, tôi đă giảng ở phần trên rồi, tức là tất cả vật có h́nh tướng, hiển lộ h́nh sắc trước mắt chư vị. Có thể đối không thể thấy tức là bốn loại âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm. Âm thanh có thể nghe nhưng không thể thấy. Hương vị xúc cũng như thế, chỉ có cảm giác mà không thể thấy. Không thể đối không thể thấy tức là pháp trần, cũng chung quy nơi sắc pháp. Sắc pháp này không thể thấy được, cũng không thể cảm giác được, nhưng trong ư niệm lại biết đến. Sao gọi là sắc pháp ? V́ nó là ảnh tử của năm trần lưu lại trong tâm thức. Loại ảnh trần này cũng thuộc về sắc pháp. Đó là một loại sắc trong ư thức. Bên trên đă nói sắc tức là không. Thọ tưởng hành thức cũng đều không, cũng lại đồng dạng với sắc trần. Sắc trần từ đâu đến ? Sắc trần đối với sáu căn sanh ra sáu thức, nên biến thành sắc trần.

"Tái hồ Xá Lợi nhữ đế thính, (lại này Xá Lợi, nên nghe kỹ)".

Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất rằng hăy nên chú ư lắng nghe cho kỹ.

"Thị chư pháp không tướng vô tánh, (các pháp vốn không tướng vô tánh)".

Tánh của sáu căn, thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, tri vốn là không. Sắc do tánh mà hiển. Sắc cũng là không. Chẳng thể bỏ rời sắc mà giữ được không. Bàn về sắc và kiến tánh, chư vị bảo rằng sắc có trước hay kiến tánh có trước ? Nếu nói sắc có trước th́ chưa thấy ǵ mà sao lại hiển xuất ra sắc? Nếu nói đầu tiên có kiến tánh, th́ khi không có sắc có thể đối th́ kiến tánh (thấy tánh) chỗ nào ? Không có sắc mà chư vị kiến tánh (thấy tánh) th́ không ích lợi ǵ. Thế nên phải thấy tánh vốn là không. Sắc cũng là không. Chư vị chớ khởi ra loại biến kế chấp tánh. Chấp trước có tức là có, không tức là không. Không và có vốn không hai. Chấp thấy có tức nhất định là có, th́ không thể liễu giải (hiểu rơ) đạo lư không hai của có và không. V́ vậy, nếu hướng ngoại truy cầu, th́ đem đầu đặt lên đầu, chấp trước khởi vọng. V́ thế, Phật thuyết "Tâm Kinh" tức là thuyết về đạo lư không hai của có và không. Diệu pháp không hai của có và không. Thọ tưởng hành thức cũng đồng với không và sắc. Chư pháp vốn không tướng vô tánh.

Tất cả năm uẩn pháp, sắc, thọ tưởng hành thức đều là tổng hợp các pháp, tức là mười một loại sắc pháp, tám tâm pháp, năm mươi mốt tâm sở pháp, hai mươi bốn bất tương ưng pháp, sáu vô vi pháp, thành một trăm pháp. Mười một sắc pháp tức là mười một loại sắc trần vừa giảng ở trên, cũng là năm căn đối với sáu trần. Năm căn là năm loại sắc pháp. Sáu trần là sáu loại sắc pháp. Cộng thành mười một loại sắc pháp. Tám tâm pháp tức là nhăn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức, mạt na hức, cùng a lại da thức, cộng thành tám tâm pháp. Năm mươi mốt tâm sở pháp nghĩa là thọ và tưởng phân tích tường tận ra thành năm mươi mốt loại tâm sở pháp. Hành tức là hai mươi bốn bất tương ưng pháp. Thức cũng là tám thức đă nói ở trên. Lại thêm sáu vô vi pháp, tổng cộng thành một trăm pháp.

Một trăm pháp này do hai vị bồ tát Thiên Thân, Vô Trước tóm gọn sáu trăm sáu mươi pháp của bồ tát Di Lặc phân thành một trăm pháp. Bồ tát Di Lặc lấy thời số một đời thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni mà biên thành sáu trăm sáu mươi loại pháp. V́ sáu trăm sáu mươi pháp quá nhiều, nên sau này, bồ tát Thiên Thân và Vô Trước nghiên cứu tóm thâu lại thành một trăm pháp. Do đó nói rằng các pháp vốn không tướng, vô tánh, tức bảo rằng năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức đều là không, chẳng có tự tánh.

"Bất sanh bất diệt tịch nhiên thông, (không sanh không diệt thông tịch nhiên)".

Bồ tát Long Thọ có thuyết những bài kệ tụng nói về pháp sanh diệt thật rất tường tận. Ngài nói :

"Kỷ sanh vô hữu tánh

Vi sanh kỷ vô sanh

Ly kỷ sanh vi sanh

Sanh thời tức vô sanh."

Dịch :

"Đă sanh mà không sanh

Chưa sanh đă không sanh

Rời đă sanh chưa sanh

Lúc sanh tức vô sanh".

"Đă sanh mà chưa sanh", tức là đă sanh rồi mà vẫn như chưa sanh. Sao nói thế ? Đă sanh rồi sau lại có sanh ? Ví như cây đă mọc mầm rồi th́ không c̣n mọc thêm nữa.

"Chưa sanh đă vô sanh". Sao là chưa sanh ? Chưa sanh là chưa có sanh. Chưa có sanh lại có sanh không ?

"Ly đă sanh chưa sanh" tức là xa rời đă sanh và chưa sanh.

"Lúc sanh tức vô sanh", nghĩa là ngay khi sanh tức là không có sanh. Giống như đạo lư tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai cũng không thể được.

Đây là bồ tát Long Thọ phát minh ra lư không sanh không diệt. Lư luận này thật rất thâm sâu triệt để. Do v́ Phật thuyết tám loại tướng, tức không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không một cũng không khác, không đến cũng không đi. Bồ tát Long Thọ dùng bốn câu kệ tụng để h́nh dung vô sanh và sanh giống như nhau. Sao lại giảng về diệt ? Cũng có thể nói :

"Đă diệt, không có diệt

Chưa diệt đă không diệt

Rời đă diệt chưa diệt

Lúc diệt tức vô diệt".

Những loại lư luận này tôi tin chắc rằng mọi người đều chẳng hiểu ǵ cả. Do đó tôi không giảng thẳng về chúng. Hiện tại, bất quá chỉ giảng về lư không sanh không diệt. Lư không sanh không diệt thông tịch nhiên, tịch nhiên thông đạt vô ngại.

"Bất cấu bất tịnh ly ô nhiễm, (không dơ không sạch xa ô nhiễm)".

Tự tánh vốn không dơ không sạch, nhưng khi sanh ra, con người lại có dơ có sạch. Dơ sạch này cũng là không dơ không sạch. Chỉ v́ chúng ta có tánh chấp biến kế, chấp trước đây là dơ, đây là không dơ, đây là sạch, đây là không sạch. V́ có tâm chấp trước như thế nên biến thành có dơ và có sạch.

Sao nói đó là một loại tâm chấp trước ? Ví như tay của chúng ta, đôi khi bị ô nhiễm bởi phân người hay phân heo. Lúc ấy, cảm giác rất dơ bẩn, nhưng dùng nước tẩy rửa th́ tay trở lại sạch sẽ. Nhưng khi quần áo bị dính phân th́ tuy tẩy rửa nhưng vẫn c̣n cảm giác nhơ bẩn. Do đó, chúng ta muốn liệng nó đi. Đối với bàn tay, sau khi rửa sạch th́ không c̣n chấp trước nữa, v́ không thể dùng đao cắt đứt bỏ đi, nên tâm nghĩ rằng tay đă được rửa sạch. Đối với quần áo, dầu được giặt rửa rồi nhưng vẫn không thích, không muốn dùng lại nữa, v́ do tâm không thích. Tâm không chấp trước vào quần áo. Đó là không nhơ không sạch. Nếu chư vị không có tâm chấp trước th́ cho dầu bọ nhơ nhuốc nhưng không hề hấn ǵ cả. Nhơ nhuốc và sạch sẽ đều cùng một dạng. Không dơ không sạch là cội gốc của tự tánh. Đối với mọi sự việc dơ hay sạch, đều phải lănh hội lư không dơ không sạch. Không v́ dơ sạch mà làm chuyển động tâm ḿnh. Đó mới hợp với tự tánh của chúng ta. Chư vị phải có tŕnh độ nhận thức như thế, th́ đức hạnh của ḿnh mới hợp với đạo lư trời đất, hợp với ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Tại sao kim quang của đức Phật như ngàn muôn ức mặt trời ? V́ ngài hội được lư không dơ không sạch. Ngài đạt được đạo lư của trời và người. Ngài ḥa hợp thành một thể với bốn mùa, xuân hạ thu đông. Ngài lại ḥa hợp với những việc điềm xấu của quỷ thần. Tại sao chư vị không thể được như thế ? V́ chư vị c̣n có tâm chấp trước, tánh chấp biến kế. Chư vị phải phản bổn hoàn nguyên, xa rời ô nhiễm.

"Bất tăng bất giảm ngộ huyền trung. (Không tăng không giảm, ngộ trong huyền)". Chư vị phải giác ngộ được tự tánh vốn không tăng không diệt, th́ mới liễu ngộ được lư trung đạo tối vi diệu. Tôi vừa giảng về bồ tát Long Thọ thuyết về lư không sanh, lại thêm Phật thuyết thời pháp môn phương đẳng có tám loại tướng, tức là không sanh không diệt, không đoạn không thường, không một không khác, không đến không đi. Có người không chấp đoạn nhưng lại chấp thường. Đoạn tức là đoạn diệt. Thường tức là tồn tại. Đoạn kiến, thường kiến là lư luận của ngoại đạo. Pháp Phật thuyết là không đoạn không thường. Vậy, đối với chúng ta, khi chết rồi c̣n hay là mất ? Nếu nói thường c̣n th́ sao chúng ta lại không gặp lại được những người xưa ? V́ đời người vô thường không măi tồn tại. Chư vị cũng không nên bảo không thường hằng. Hiện tại chúng ta ăn cơm cũng giống như người xưa vậy. Đó là không đoạn. Thế nên Phật thuyết pháp không thường không đoạn. Không nên chấp trước đoạn kiến, hay thường kiến, mà phải ḥa nơi trung đạo, nên gọi là ngộ trung huyền.

Không đến không đi tức là đức Như Lai không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Chớ bảo rằng chúng ta cũng như đức Như Lai 'bất lai bất khứ (không đến không đi)'.

Bảo rằng đến tức là chúng ta từ đâu đến ? Chư vị không hề biết. Bảo rằng đi tức là chúng ta sẽ đi về đâu ? Chư vị cũng không biết. Không đến không đi tức là không từ đâu đến và không đi về đâu.

Lại bàn về không một không khác. Không một tức là không đồng một dạng. Không khác tức là không có hai, chẳng có tướng sai biệt. Không một tức là không có tướng đồng với tướng. Luận về thân thể chúng ta, nó không chỉ do một vật hợp thành, mà do nhiều bộ phận khác biệt họp thành, nên gọi là chẳng phải một. Bàn đến lư không khác, lại luận về thân thể, chỉ có một thân, không có thêm thân khác. Những loại lư luận này thật rất khó hiểu. Mỗi lần giảng chút ít, rồi từ từ mới có thể liễu giải.

Không tăng không giảm, nghĩa là tự tánh chúng ta không tăng không giảm. Như câu :

"Vô t́nh tạng nguyệt tăng trung giảm, (ánh trăng vô t́nh tăng trong giảm)".

Hữu vị Phật pháp khổ hậu điềm, (nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc)".

Tạng nguyệt (ánh trăng) tức vô t́nh, không có t́nh thức. Tuy nói nó có tăng mà cũng có diệt. Ánh trăng vô t́nh. Chư vị bảo mặt trăng đừng lặn mất, lưu lại nơi đây một thời gian. Không thể được ! Dầu chư vị có làm ǵ đi nữa cũng không thể giữ mặt trăng đứng lại một chỗ. Trừ phi chư vị giữ được mặt trời cố định một chỗ, tức bảo rằng mặt trời không động. Điều này thật không thể được ! Ngày nay khoa học có tiến bộ bao nhiêu đi nữa vẫn không có cách khiến mặt trời bất động. Ánh mặt trời cũng thuộc về loài vô t́nh. Tăng trong giảm, như năm nay tôi sáu mươi tuổi. Năm kế sẽ sáu mươi mốt tuổi. Thọ mạng tăng thêm một tuổi, nhưng lại thêm một năm gần cái chết. Ví như bảo rằng tôi sống đến một trăm tuổi mới chết, mà nay đang sống đến sáu mươi mốt tuổi, tức là phải giảm đến ba mươi chín năm nữa. Nhưng đó cũng chính là tăng tuổi thọ. V́ vậy bảo rằng trong tăng lại có giảm. Ngược lại, trong giảm lại có tăng. Chư vị phải hiểu rơ lư này chân thật, nó vốn không tăng cũng không giảm.

"Hữu vị Phật pháp khổ hậu điềm, (nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc)."

Hương vị Phật pháp rất ngọt ngào. Đối với Phật pháp, chư vị học được một chút th́ hiểu rơ một chút. Hôm qua tôi đă giảng về lư khai ngộ. Khai ngộ có tiểu ngộ, trung ngộ và đại ngộ. Tiểu ngộ là ít hay nhiều mà sao lại gọi là tiểu ? Giống như hư không rất rộng lớn, khi đă khai ngộ từ trong ruộng tám thức, chư vị cũng vẫn không hay biết. Trung ngộ nghĩa là chư vị cảm giác là ḿnh hiểu rơ được chút ít đạo lư, như lư không tăng không giảm, lư không sanh không diệt xưa nay. Hiểu rơ những đạo lư này được rồi th́ gọi là trung ngộ. Đại ngộ tức là dứt tận sanh tử, việc ǵ đến hay đi cũng đều biết hết. Sau gọi là tăng ? Sau gọi là giảm ? Biết rơ lư không tăng không giảm, hoàn toàn liễu giải được lư không sanh không diệt gọi là đại ngộ.

"Nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc". Chư vị nhất định phải nhẫn chịu một chút khổ. Không phải học liên tiếp bốn năm ngày rồi cho đó là học Phật pháp đầy đủ rồi. Chư vị nhất định phải có tâm nhẫn nhục, không luận khốn khổ, gian nan ǵ cũng đều phải học. Ngày ngày tôi phải đến trường dạy tiếng Tàu cho học sinh. Đến lúc giảng kinh, tôi cũng phải giảng, trừ phi có những trường hợp đặc biệt. Tuyệt đối tôi không bao giờ làm biếng. Cần phải tu hành chân thật th́ mới nếm được mùi vị Phật pháp, nên đầu tiên phải chịu khổ đau nhọc nhằn. Do đó, chớ có sợ khổ. Càng khổ nhiều chừng nào càng tốt chừng ấy. Phải phấn chấn tinh thần, lập định chí hướng, dũng mănh tinh tấn tiến bước. Đừng sợ khổ nhọc, gian nan.

"Đạm nhiên tịnh cực siêu tạo hóa." Đạm nhiên tức là thanh tịnh. Cực tịnh nghĩa là tịch tĩnh đến cùng tột. Siêu tạo hóa, nghĩa là siêu xuất công năng tạo hóa của trời đất.

"Đốn giác ngă pháp bổn viên dung, (liền giác ngă pháp vốn viên dung)".

Chư vị nếu hiểu rơ đạo lư này th́ tức khắc biết được ḿnh và pháp vốn là một, không có phân biệt, không hai không khác, gốc vốn là viên dung không ngại.

Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 3 of 8: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 3:50am | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnguyet



Xá Lợi Tử.



"Xá Lợi Tử thị kiên cố vi

Dịch tác Thu Lộ mẫu nghĩa h́nh

Giới định viên minh châu quang hiện

Hạnh giải tương ưng thể linh lung

Đại trí chi hà nhân ngu biểu

Thiện ban kỷ tại nương phúc sanh

Nhân giai cụ thử chân thật huệ

Thủ chư tào khê bảo lâm phong

Dịch :

Xá Lợi Tử nghĩa là kiên cố

Dịch là Thu Lộ h́nh giống mẹ

Giới định sáng tṛn chân ảnh hiện

Hạnh giải tương ưng thể sáng trong

Bậc đại trí sao giống kẻ ngu

Biện tài giỏi nhờ thai sanh trợ

Người người đầy đủ chân trí huệ

Giữ phong cách Bảo Lâm Tào Khê".



"Xá Lợi Tử thị kiên cố vi"

Xá Lợi Tử cũng là Xá Lợi Phất. "Xá Lợi" là tiếng Phạm. "Tử" cũng là tiếng Phạm. "Xá Lợi Tử" nghĩa là "Kiên Cố". V́ sao ? Đó chỉ cho trí huệ kiên cố. Thế nên Xá Lợi Tử nghĩa là kiên cố.

"Dịch tác thu lộ mẫu nghĩa h́nh, (dịch là Thu Lộ h́nh giống mẹ)".

"Xá Lợi" phiên dịch ra tiếng Tàu gọi là "thu lộ". Thu lộ là một loài chim biển. Chim này bay rất cao và rất xa, đôi mắt lanh lẹ trong sáng như hai ống ḍm. Lúc cá bơi qua bơi lại trên biển, nó đang trên hư không liền bay xà xuống mau như hỏa tiển, để bắt lấy cá mà ăn. "Xá Lợi" cũng là tên của loài chim thu lộ. Ở Ấn Độ, con cái thường lấy tên cha, mà cũng đôi khi lấy tên mẹ, hay dùng cả tên cha lẫn mẹ. Xá Lợi Tử là chỉ lấy tên mẹ thôi. Mẹ của ngài Xá Lợi Tử tên là Xá Lợi. "Tử" tức là con của bà Xá Lợi, cũng y chiếu theo h́nh thái của bà mà tạo ra tên đó.

"Giới định viên minh châu quang hiện, (giới định sáng tṛn chân ảnh hiện) ".

Ngài Xá Lợi Tử trong tiền kiếp, sanh sanh thế thế đều tu giới, định, huệ. Giới, định, huệ của Ngài đều viên măn tṛn đầy, viên minh (tṛn sáng) như hạt châu phóng ánh sáng, nên nói là hạt châu hiển hiện.

"Hạnh giải tương ưng thể linh lung".

Ngài vừa tu hành vừa học giáo điển, nên trí huệ rất quảng đại. Thể linh lung nghĩa là thân thể của Ngài trong sáng như pha lê.

"Đại trí chi hà nhân ngu biểu, (bậc đại trí sao giống kẻ ngu)".

Sao gọi là đại trí huệ ? Ngược với ngu si. V́ Ngài khác biệt hẳn với những người ngu. Người ngu si làm những việc điên điên đảo đảo. Dù nói lời tốt đến đâu nhưng khi hành lại làm những việc hư hoại. Tạo những việc hư hoại gọi là người ngu. Người có trí huệ không si mê, không phải biết mà vẫn cố phạm, không điên điên đảo đảo, nên gọi là đại trí huệ.

"Thiện biện kỷ tại nương phục sanh, (biện tài giỏi nhờ thai sanh trợ)".

Chắc chư vị nhớ rơ những lần tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, có đề cập đến mẹ của ngài Xá Lợi Phất, không thể biện luận thắng cậu Ngài. Sau này, lúc mang thai ngài Xá Lợi Phất, mẹ lại cùng cậu Ngài biện luận. Khi ấy, cậu Ngài không thể thắng, bắt bẻ được mẹ Ngài. Do đó, cậu Ngài ra ngoài học luận nghị ngoại đạo. Khi trở về, ngài Xá Lợi Phất đă theo Phật xuất gia. V́ lúc c̣n ở trong bào thai, Ngài đă trợ giúp mẹ Ngài biện luận thắng cậu Ngài, nên gọi là thuyết thiện biện tài từ trong bào thai.

"Nhân giai cụ thử chân trí huệ, (người người đầy đủ chân trí huệ)".

Trí huệ này không phải chỉ ngài Xá Lợi Phất có thôi mà ai ai cũng đều có hết cả. Tuy có nhưng không biết dùng, nên quên mất. Nếu mọi người biết dùng trí huệ này th́ đều đạt được lợi ích cả.

"Thủ chư Tào Khê Bảo Lâm phong, (giữ phong cách Bảo Lâm Tào Khê)".

Trí huệ chân thật này ở đâu ? Tại Tào Khê ? Tào Khê ở nơi nào ? Tại chùa Nam Hoa, Mă Bá, Quảng Đông, Trung Quốc. Xa không ? Ḿnh có thể tới được không ? Chùa Nam Hoa tại núi Bảo Lâm là đạo tràng của ngài Lục Tổ, rất xa nơi này, tôi không thể đến. Được ! Nay không cần phải đi, chư vị mỗi người cũng đều có sẵn phong cách Tào Khê Bảo Lâm, không cần phải chạy đâu t́m cầu. Tự chính chư vị có sẵn trí huệ này. Chính bổn thể của chư vị là phong cách Tào Khê Bảo Lâm, nên chẳng cần phải ra ngoài t́m cầu. Trí huệ này cũng chính là chư vị. Sao lại t́m cầu bên ngoài ? Chư vị phải xả bỏ tâm vọng tưởng điên đảo, tự ḿnh dụng công tham thiền đả tọa th́ sẽ đắc được trí huệ này. Đó cũng là Tào Khê Bảo Lâm phong. Lúc ngồi tham thiền đả tọa cũng là lúc ngồi tại núi Bảo Lâm.



Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc, (sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc).



"Sắc bất dị không hữu nhược vô

Không bất dị sắc thể dụng thù

Sắc tức thị không chân nguyên triệt

Không tức thị sắc vọng lưu khô

Sơn hà đại địa duy thức hiện

Mộng huyễn phao ảnh như thị hồ

Thận vật ngoại cầu tŕ trung đạo

Phóng hạ nhiễm duyên tức lai như

Dịch :

Sắc chẳng khác không có lại không

Không chẳng khác sắc cùng thể dụng

Sắc tức là không thấu nguồn chân

Không tức là sắc nguồn vọng cạn

Núi sông non nước hiện duy thức

Bọt ảnh huyễn mộng như thế đấy

Chớ cầu ngoài, nên giữ trung đạo

Xả bỏ nhiễm duyên tức Lai Như".



"Sắc bất dị không hữu nhược vô, (sắc chẳng khác không có lại không)".

Sao gọi là sắc ? Tức là h́nh tướng. Sao gọi là không ? Tức là vô h́nh tướng. Sao lại gọi sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc ? Đây nói về đạo lư cùng tột, liễu nghĩa triệt để. Tất cả núi non, sông biển, đất đá, nhà cửa, pḥng xá, v.v... đều là sắc. Sắc trụ ở nơi đâu ? Sắc trụ tại hư không. Không trụ tại nơi đâu ? Không cũng trụ tại nơi sắc. Sắc và không có thể bảo là không hai. Sắc không khác không, lại không phải là hai. Không chẳng khác sắc. Hư không cùng sắc không có hai. Không bao gồm sắc. Sắc cũng bao gồm không. Bên ngoài th́ thấy có hai, nhưng thật tế vốn là một. Ví dụ, nơi đây vốn trống rỗng, mà chư vị lại đem cái bàn để ra đây, tức là có. Trước khi đem bàn ra, nơi đây vốn là hư không. Khi đem bàn ra th́ c̣n có hư không nữa không ? Cũng là có. Không gian cũng vẫn c̣n, bất quá bị cái bàn chiếm một khoảng thôi. Lại nói hư không này có sắc hay không ? Không này vốn cũng có sắc. Sắc tức là không. Chúng ta phân tích h́nh sắc măi th́ cuối cùng sẽ biến thành không. Tại sao thế ? Thân thể chúng ta dựa nơi sắc pháp. Do ǵ tạo thành ? Do bốn đại tạo thành. Sắc thân do bốn đại đất, nước, gió, lửa, hợp thành, cũng là sắc. Phân tích kỷ th́ khi chúng ta chết đi, bốn đại này sẽ trở về cội gốc. Đất trở về với đất; nước trở về với nước; gió trở về với gió; lửa trở về với lửa. Sắc thân tan biến mất. Sắc tức là không. Tuy nay có sắc tướng mà tương lai th́ không có, nên nói là sắc chẳng khác không, thực có thực không. Tuy có nhưng lại đồng với không.

"Không chẳng khác sắc thể dụng thù, (không chẳng khác sắc cùng thể dụng)".

Không chẳng khác sắc, nhưng có thể có dụng. Không là thể không. Sắc là dụng của không. Thể và dụng tuy hai nhưng vốn là một.

"Sắc tức là không chân nguyên triệt, (sắc tức là không thấu nguồn chân)".

Chư vị phải biết sắc thật chất vốn từ không. Cội gốc này nếu chư vị đạt đến được th́ sẽ hiểu rơ triệt để.

"Không tức thị sắc vọng lưu khô, (Không tức là sắc nguồn vọng cạn)".

Chư vị phải hiểu rơ không tức là sắc. Không có vọng tưởng th́ nguồn vọng khô cạn. Lại sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Đấy, có thể nói là chư vị tu đạo th́ mới đắc được cảnh giới đó. Sắc này cũng là sắc đẹp. Sắc đẹp đại biểu cho sắc đẹp nam nữ. Chư vị chân chánh tu đạo đắc được cảnh giới an lạc th́ cùng cảnh giới này như một, nên sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Khi tu đạo đắc được an lạc này th́ so với vấn đề khoái lạc nam nữ gấp trăm ngàn lần, không thể so sánh được. V́ vậy, không chẳng khác sắc.

Sắc tức là không. Trên h́nh sắc, chư vị phải hiểu rơ lư không, đừng trụ vào, chẳng có ǵ để chấp trước, không nắm giữ, không xả bỏ, cũng không thọ, chính là không. Không chẳng khác sắc; không tức là sắc. Trên lư không đắc được an lạc chân chánh. Khi đó, những tư tưởng hay vọng tưởng của chư vị đều không c̣n. V́ sao ? Đạt đến cảnh giới an lạc này th́ càng an lạc thêm, v́ đă xả bỏ tâm vọng tưởng.

"Sơn hà đại địa duy thức hiện, (sông núi nước non hiện duy thức)".

'Sơn hà đại địa' tức đất đá núi sông, là sắc pháp. Sắc pháp này xuất hiện từ đâu ? Từ tâm thức phân biệt của chúng ta xuất hiện ra. Nếu chúng ta năng chuyển hóa tâm thức phân biệt th́ núi sông đất đai cũng không c̣n.

"Mộng huyễn phao ảnh như thị hồ, (bọt ảnh huyễn mộng như thế đấy)".

Tất cả tướng đẹp đều là mộng cả. Ai ai cũng biết mộng mị, đều nằm mộng, nhưng hỏi nằm mộng như thế nào, thấy mộng ra sao ? Chỉ tự trả lời cho chính ḿnh thôi. Có mà không phải thật, không chính xác nhất định. Hoặc nói :" Ban ngày nghĩ tưởng như thế nào th́ đến tối mơ như thế ấy."

Hoặc nói :"Trước kia tôi đă thấy những cảnh giới này, nên gọi đó là mộng".

Lại có khi không nghĩ đến việc đó, nhưng đến tối th́ mơ thấy, vậy giảng giải làm sao ? Có lúc không thấy qua cảnh giới mà lại nằm mơ thấy, th́ giải thích thế nào ? Giải thích không được. Có phải tỉnh từ trong giấc mộng không ? Cũng rất mơ hồ. Thậm chí nằm mộng rồi mà quên, không nhớ ǵ cả. Chư vị hăy suy nghĩ xem, khoảng mười tiếng sau khi mơ mộng, chúng ta đều quên hết những ǵ xảy ra trong mộng, huống chi những sự việc trong đời quá khứ, lại nói không tin có đời trước. Tất cả việc đời quá khứ chúng ta đều quên cả. Chỉ sau mười giờ là chúng ta hoàn toàn quên hết những ǵ xảy ra trong mộng, nói chi tất cả sự việc trong đời quá khứ.

Một người đang lúc mộng mị, giả như có người bảo :" Đạo hữu nay phát tài, làm quan lớn, có nhiều vợ con, nhiều tài sản, nhưng chúng đều không thật, chỉ là mộng thôi."

Nhưng người đang mộng mị đó, không tin tưởng cho rằng lời kia là thật. "A ! Cái ǵ ! Hiện tại tôi đang phát tài, làm quan lớn, vợ con nhiều, tài sản to tát, sao lại nói là mộng ? "

Họ không tin tưởng chính họ đang mơ mộng. Đợi khi thức giấc, không ai bảo cho mà chính tự họ biết rằng họ vừa trải qua cơn mộng mị, thấy ḿnh phát tài làm quan lớn, vợ con nhiều, tài sản giàu có. Chúng vốn không thật; không nói cũng tự biết v́ đă tỉnh giấc mộng.

Chư vị phải biết rằng chúng ta hiện đang mơ mộng ! Tôi bảo :"Chư vị đang nằm mộng, nếu không tin, đợi khi tu đạo đắc quả th́ mới biết rơ. A ! Xưa kia, bất cứ những việc ǵ mà tôi làm đều là ảo mộng hết, v́ ḿnh vốn chưa tự làm chủ chính ḿnh. Bây giờ mới biết là những việc xưa kia ḿnh làm xác thật chỉ nằm mơ thôi.

'Huyễn', sao gọi là huyễn ? Huyễn tức là xuất phát từ huyễn hóa. Nhà ảo thuật từ không mà tự hóa thành có, tự có mà hóa thành không, biến hóa không lường, khiến trẻ con cho pháp huyễn thuật là thật, mà người lớn khi nh́n xem th́ biết đó là không vọng, giả tạo chế ra. Đó là huyễn.

'Phao' tức là bọt nước, không lâu bền, không thường hằng. Ảnh tức là bóng ảnh. Bóng ảnh là thật hay giả ? Chư vị nói nó giả, nhưng nó thật có tồn tại. Chư vị nh́n thấy, nói nó là thật, nhưng lại không thể nắm bắt lấy. Vậy, chư vị nói nó là thật hay giả ? Những bóng ảnh này phát sanh từ đâu ? Nghiêng về phía dương th́ không có bóng. Ngă về phía âm th́ có bóng. Chư vị đi nơi đâu th́ nó đi theo đến đó. Bóng ví như ma. Nó luôn đi theo chư vị măi. Thế nên, người nhút nhát sợ ma, thấy bóng ma liền sợ hăi, chạy lánh xa, nhưng ma đó chính là bóng dáng của người thật. Nhưng bóng ảnh này, khi sống th́ hiện bóng, khi chết không c̣n thân thể th́ bóng biến thành ma. nếu không có bóng th́ biến thành thần, nhưng thần và ma không hai, mà là một. Nếu khí dương sung túc th́ lúc đi không có bóng ngă theo. Khí âm nếu đầy đủ th́ khi đi liền có bóng chạy theo. Thế nên, chúng ta thường nghiêng về bên có khí lực mạnh. Nếu chư vị tạo công đức nhiều th́ được sanh lên trời. Nếu chư vị tạo tội ác nhiều th́ phải bị đọa xuống địa ngục. V́ vậy bảo rằng bọt nước, bóng ảnh huyễn mộng như thế.

"Thận vật ngoại cầu tŕ trung đạo, (chớ t́m cầu ngoài, tŕ trung đạo)".

Chư vị chẳng nên hướng ngoại t́m cầu. Tự trong thân tâm đă có đầy đủ.

" Phóng hạ nhiễm duyên tức lai như, (xả bỏ duyên nhiễm tức Lai Như)".

Sao gọi là duyên nhiễm ? Nhiễm tức là nhiễm ô. Duyên tức là nhân duyên. Chư vị phải nên phóng xả. Sao gọi là duyên nhiễm ? Duyên tức là tâm tham, sân, si, giết hại, uống rượu, dùng nha phiến. Chư vị phải xa rời duyên nhiễm th́ đồng vào nhà Như Lai. Lai Như tức là từ nay cho đến ngày thành Phật không xa. Khi thành Phật th́ gọi là Như Lai. Chúng ta chưa thành Phật nên gọi là Lai Như. Lai th́ năng Như. Không lai th́ không như. Lai đến nơi nào ? Lai đến nơi thành Phật. Những duyên nhiễm này phải nên xả bỏ hết th́ mới là Lai Như. Như nghĩa là mọi việc đều hợp lư, không có việc ǵ chướng ngại. Nếu mọi việc c̣n chướng ngại th́ không gọi là Lai Như.

Không này chính là chân không. Sắc cũng là diệu hữu. Diệu hữu phi hữu cũng là chân không. Chân không này xuất sanh từ đâu ? Xuất sanh từ nhất như, cũng từ sắc pháp phát khởi ra. Nơi nào cũng có sắc pháp. Từ hư không cũng hiện ra sắc pháp, nên nói sắc không khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, cũng là thuyết chân không mà chẳng phải không, diệu hữu mà chẳng phải hữu. Tại nơi chẳng không chẳng có, chư vị nên hiểu kỹ. Đấy là chân chánh hiểu rơ Phật pháp. Giống như bên trên bàn về mộng. Chư vị mộng đến mộng lui mà không biết. Mộng rồi tỉnh, tỉnh rồi mộng cũng thế. V́ vậy chúng ta sanh ra như thế nào, chết đi ra sao, vẫn không biết. Trong cái không biết mà hiểu rơ đó là giác ngộ. Do đó, bảo rằng sắc tức là cội nguồn của chân không. Hiểu rơ chân lư không tức là sắc th́ ḍng vọng tưởng khô cạn. Vọng tưởng đoạn hết, không c̣n nữa. V́ thế, chúng ta phải hiểu rơ đạo lư không và sắc, và cũng phải lănh hội đạo lư phi không, phi sắc. Ngài Lục Tổ nói :" Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy, cái ǵ là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh ?"

Không nghĩ thiện là không phải không, không nghĩ ác, cũng là không phải sắc. Nơi chẳng phải sắc, chẳng phải không đó, chư vị hăy nghiên cứu kỹ, đó chính là giác ngộ được cảnh giới vừa là không mà vừa là sắc. Do đó, chư vị phải hiểu rơ sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Trong chân không có chân sắc; trong chân sắc có chân không, tức là tại sắc pháp cũng có bổn thể của chân không, và tại pháp không cũng là sắc. Như núi là sắc pháp. Chư vị san bằng th́ thành không. Trước lúc san bằng núi th́ có không chăng ? Cũng tại chỗ đó. Khi có không rồi th́ sắc c̣n hay mất ? Sắc cũng c̣n nơi đó. Hăy xem coi chỗ nào là không ? Sắc cũng tại nơi đó. Không cùng sắc là một như băng với nước. Sao không biến thành sắc ? Như trời lạnh th́ nước biến thành đá. Sao sắc biến thành không ? Trời nóng khiến nước đá tan thành không. Lại có thể nói rằng trong không trung, nhiều hạt bụi hợp lại thành một sắc tướng, nhân duyên tán th́ biến thành không. Thế nên, không cũng là sắc, sắc cũng là không. Bảo rằng hạt bụi đó không thể chuyển hóa, cũng là một ví dụ, lại không bảo hạt bụi là nước đá được. Sợ chư vị chưa hiểu rơ nên lấy ví dụ nước đá và nước lỏng. Chư vị đừng hiểu lầm là hạt bụi và không biến thành nước và nước đá. Chư vị hăy suy nghĩ, giống như đầu đặt lên đầu, lại biến thành chấp trước. Gốc vốn không chấp trước. Tôi không có phương cách khiến chư vị hiểu rơ đạo lư sắc không chẳng khác. Từ từ th́ chư vị sẽ tham ngộ đạo lư này hoặc sẽ minh bạch rơ ràng.



Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 4 of 8: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 3:51am | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnguyet

"Thọ tưởng hành thức diệt phục như thị. Xá Lợi tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, (thọ tưởng hành thức cũng là như thế. Xá Lợi Tử, các pháp đều không tướng, không sanh, không diệt, không cấu không tịnh, không tăng, không giảm).



"Thọ tưởng hành thức như không sắc

Tái hồ Xá Lợi nhữ đế thính

Thị chư pháp không tướng vô tánh

Bất sanh bất diệt tịch nhiên thông

Bất cấu bất tịnh ly nhiễm ô

Bất tăng bất giảm ngộ huyễn trung

Thâm nhiên tịch cực siêu tạo hóa

Đốn giác ngă pháp bổn viên dung.

dịch:

Thọ tưởng hành thức như không sắc

Lại nữa Xá Lợi nên lắng nghe kỹ

Các pháp đều không tướng vô tánh

Không sanh không diệt, thông tịch nhiên

Không nhơ không sạch xa nhiễm ô

Không tăng không giảm ngộ trong huyền

Thâm sâu cực tĩnh vượt tạo hóa

Đốn giác ngă pháp vốn viên dung."

Bên trên giảng sắc không khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Sắc này có nhiều loại sắc pháp, nhưng tổng quát không ngoài ba loại, tức là khả đối khả kiến sắc, khả đối bất khả kiến sắc, bất khả bất đối kiến sắc.

Sao gọi là khả đối khả kiến sắc ? Khả đối tức là có thể đối mặt. Khả kiến tức là có thể thấy. Khả đối bất khả kiến sắc là có thể đối đăi, nhưng không thể nh́n thấy. Lại bất khả đối bất khả kiến sắc là chư vị có đối đăi cũng không có đối đăi, thấy cũng không thể thấy sắc. Loại sắc này xuất phát từ đâu ? Do phân biệt từ cảnh giới sáu trần như h́nh sắc, âm thanh, hương vị, xúc chạm, pháp.

Sao gọi là khả đối khả kiến sắc ? Thí như nhân, ngă, tha, chúng sanh, núi non, sông hồ, đất đai... vạn tượng bao la, đều có h́nh sắc, có sắc tướng, có h́nh chất nên có thể thấy. Do đó đều gọi là khả kiến khả đối sắc (có thể thấy, sắc có thể đối đăi), tức chung quy nơi sắc pháp.

Lại nữa, chung quy nơi sắc pháp mà khả đối bất khả kiến (sắc có thể đối đăi mà không thể thấy). Đối là có thể đối đăi, nhưng chư vị không thể nh́n thấy, chỉ có thể nghe thôi. Tại sao ? Nay nói về âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm. Đối với thanh trần, tức âm thanh mà chư vị có thể nghe. A ! Âm thanh hoặc hay hoặc dở, chư vị có thể đối trước với nó mà sanh tâm thức phân biệt, nhưng không thể thấy được âm thanh. Hăy nói, âm thanh là sắc ǵ, là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng ? Nó không có h́nh sắc. Âm thanh này h́nh dáng ra sao, h́nh tṛn, h́nh tam giác, h́nh dài ? Chư vị không thể biết, không thể thấy. Không thể thấy được thể tướng của thanh trần, nên gọi là khả đối bất khả kiến sắc (có thể đối trước, nhưng không thể thấy). Âm thanh này chung quy nơi sắc trần. Nơi năm ấm, sắc thọ tưởng hành thức, chung quy về sắc.

Mũi ngữi mùi hương, đó là hương trần. Chư vị có thể bám chấp vào. Tuy ngữi biết là hương mà không thể thấy được tướng mạo. Hương là ǵ ? Tức là hương vị, hay hương trần. Ngữi th́ cảm giác được, nhưng không thể thấy. Vậy nó có hay không ? Tuy không thấy, nhưng nó thực có v́ dùng mũi ngữi thấy được.

Vị, tức là mùi vị ngon bổ. Chúng là ǵ ? Chư vị có thấy được không ? Cũng không thể thấy được nhưng dùng lưỡi nếm th́ cảm giác được. Đầu lưỡi biết mùi vị ngon dở, đắng, cay, mặn, ngọt, chua. Năm mùi vị này có h́nh sắc không ? Chúng ra như thế nào ? Chư vị không thể thấy được.

Xúc, thân thể nhờ mặc y phục nên được ấm áp, trơn trụi. Khi rờ vào da th́ tự nhiên cảm giác được an lạc thích thú. Xúc trần này như thế nào ? Không thể thấy được, nên gọi là có thể cảm nhận mà không thể thấy được sắc trần. Nơi năm trần sắc thanh hương vị xúc pháp, hoặc đă có trải qua hay chưa trải qua, nơi ư thức đă từng gieo ảnh tử. Ví như khi thấy h́nh sắc th́ ư thức liền biết. A ! Tôi thấy màu đỏ, lại thấy màu vàng, màu xanh lá cây. Những màu sắc này, khi vừa thấy qua nhưng ảnh tử (h́nh ảnh) vẫn c̣n nằm trong ư thức. Ảnh tử này, chư vị nói có hay không ? Nhớ lại những cảnh trong thời quá khứ, vậy ảnh tử có thật không ? Những cảnh giới này gọi là ảnh tử (h́nh ảnh) của năm trần. Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần cũng là như thế. Tuy đă xảy ra trong đời quá khứ nhưng trong ư thức vẫn c̣n lưu lại ảnh tử (h́nh ảnh). Đó là pháp trần, cũng là sắc không thể nhận diện, không thể thấy được. Không thể nhận diện, nghĩa là chư vị đă gặp trong thời quá khứ, nay không c̣n nữa, lại không thể thấy. Vậy chư vị nói nó không có à ? Giống như khi khắc xong bản gỗ th́ nó c̣n tồn tại măi măi, nhưng chư vị không có cách ǵ để thấy, để nghe, để t́m kiếm tướng mạo chân chánh được cả. V́ vậy, gọi là ảnh tử (h́nh ảnh) của năm trần lạc vào ư thức thứ sáu, nên nói là sắc không thể đối nhận, không thể thấy. Sắc là như thế, c̣n thọ tưởng hành thức cũng giống vậy.

Tưởng không khác không, không chẳng khác tưởng, tưởng tức là không, không tức là tưởng. Thọ không khác không, không chẳng khác thọ, thọ tức là không, không tức là thọ. Hành chẳng khác không, không chẳng khác hành, hành tức là không, không tức là hành. Thức chẳng khác không, không chẳng khác thức, thức tức là không, không tức là thức. V́ vậy bảo rằng 'diệc phục như thị (cũng đều như thế)', tức là cũng giống như sắc và không. Do đó, thọ tưởng hành thức cũng đồng dạng.

"Thọ tưởng hành thức như không sắc".

Thọ tưởng hành thức đă được giảng qua nhiều lần rồi. Chúng là ǵ, từ đâu đến, rồi đi về đâu ? Chúng ta phải biết bản thể của thọ tưởng hành thức, hiểu rơ tác dụng của chúng, rồi mới hàng phục chúng. Nay tôi sẽ dùng đạo lư thô thiển đơn sơ để giảng về chúng.

Sao gọi là sắc ? Đó là sắc thân của chúng ta. Chung quy là sắc pháp, nên gọi là sắc thân. Tuy sắc thân này có h́nh tướng, nhưng nếu nghiên cứu thấu đáo th́ bản thể của nó vẫn là không. Tại sao nói như thế ? tôi đă giảng qua nhiều lần ở phần trước rồi. Thân thể này do bốn đại, đất nước gió lửa hợp thành một công ty hữu hạn. Đất là duyên cứng rắn. Nước là duyên ẩm ướt. Gió là duyên diêu động. Lửa là duyên nóng. Do bốn đại này hợp duyên lại thành thân thể, có h́nh sắc. Khi nhân duyên bốn đại này phân khai, ly tán th́ đại nào trở về đại đó, nhưng chung cuộc đều là không. Do thế, bảo rằng sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Sắc chẳng khác không, tức là chân không. Không chẳng khác sắc tức là diệu hữu. Chân không cũng là diệu hữu, diệu hữu cũng là chân không. Không thể bỏ chân không, hướng ngoại t́m cầu diệu hữu, cũng không thể bỏ diệu hữu mà xuất hiện chân không. Đó là từ khi trời đất chưa khai mở, trước khi được cha mẹ sanh ra, là bản lai diện mục mà ḿnh đồng với chư Phật không khác.

Do bốn đại ḥa hợp mà thành sắc thân, có h́nh sắc có thể thấy, hưởng thọ sung sướng. Có ba loại thọ cũng là ba loại khổ. Chúng là ǵ ? Tức là khổ thọ, lạc thọ, và không khổ, không lạc thọ. Chư vị có sợ khổ không ? Càng sợ khổ chừng nào th́ càng có nhiều khổ chừng đó. Sao tôi bảo chớ nên sợ khổ. Khổ ít hay nhiều ? Chư vị đừng có sợ khổ. Tuy khổ không nhiều nhưng khổ vốn không có thật. Nếu sợ khổ bao nhiêu th́ bị cảm khổ bấy nhiêu, khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.Chúng ta phải cảm giác ḿnh là người khổ nhất trần gian. Tất cả sự việc đều cảm thấy khổ.

Tôi có một đệ tử. Hắn cảm giác mọi việc đều khổ; nói năng cũng khổ; muốn ăn này nọ cũng khổ; nhưng làm việc sinh sống th́ không khổ, vui vẻ làm việc. Tuy nhiên, trên gian rất ít công việc an nhàn. Công việc an nhàn cũng là quả khổ. Thọ lạc tức thọ vui thú, hưởng thọ. Thích có xe hơi, nhưng sau khi mua xe rồi th́ lại muốn mua máy bay. Có máy bay rồi th́ muốn mua thêm tàu để chạy ra biển du ngoạn. Có tàu rồi lại muốn ngồi trên phi thuyền hỏa tốc để du hành lên cung trăng. Chư vị nói thử coi, những vọng tưởng này có bao giờ ngừng đâu. Tuy hưởng thọ, hưởng thú vui, nhưng càng đầy đủ chừng nào th́ tâm lại càng muốn nhiều thêm. Đến được cung trăng, nhưng kết quả không hợp thủy thổ, liền sanh bệnh. Trên cung trăng không có bác sĩ. Chết tại cung trăng rồi biến thành quỷ ở cung trăng. Chư vị hăy nói xem, đó là an vui hay khổ đau. Đấy là hưởng lạc mà cũng là nhân của khổ.

Không khổ không lạc. Chư vị nói :"Tôi không muốn khổ cũng không muốn quá an lạc, chỉ muốn sống một đời b́nh thường thôi."

Không sai ! Một đời làm ăn buôn bán, không có lời, không được lợi tức mà cũng không thua lỗ. Vốn có năm mươi ngàn, làm bao năm rồi vẫn c̣n năm mươi ngàn. Đó gọi là không khổ không an lạc, nhưng rất mất mát. Chư vị đến thế gian này, mê mờ mà đến, lại mê mờ mà đi. Tài sản sở hữu không biết xử lư cho đúng. Chư vị cũng không biết an bài trương mục của ḿnh, mê mờ đến, mê mờ đi, không có ư nghĩa ǵ cả. Muốn hưởng thọ th́ không thể không khởi vọng tưởng. "Tôi phải kiếm cách ǵ để mua xe hơi, mua nhà sang trọng, mua tàu thủy, mua máy bay ?"

Nghĩ đến nghĩ lui, khởi những vọng tưởng này, khiến tóc đều bạc hết. Khi leo lên giường th́ suy nghĩ trăm ngàn kế. Sáng sớm thức dậy, chưa kịp trở ḿnh mà đă tính toán bao việc. Đấy là những giấc mộng thực đẹp !

Hành tức là thực hành. Thực hành ǵ ? Thực hành theo những vọng tưởng của chư vị. Thân thể của chư vị tức là sắc uẩn. Có sắc uẩn này nên có tư tưởng hưởng thọ. Muốn hưởng thọ cũng là khởi vọng tưởng. Muốn hưởng thọ th́ phải làm để đạt đến mục đích; làm rồi mới sinh ra ít nhiều trí huệ. Thức là một loại thông minh nhỏ, chỉ bằng một cọng tóc trên đầu thôi. Trí huệ nhỏ trụ nơi lầu trí huệ nhỏ, làm những việc tiểu trí huệ. Trí huệ nhỏ này tại lầu nho nhỏ có thể phát triển được không ? Không thể được. Tại lầu nhỏ, công ty nhỏ, không thể làm sự nghiệp lớn được. Thế nên, chư vị phải có trí huệ th́ mới giúp đỡ chính ḿnh thực hành những kế hoạch đă vạch sẵn. Thực hành được th́ sẽ đạt được như ư, rồi sau đó hưởng thọ, khiến thân thể sung sướng đầy đủ. Sau khi thân thể hưởng thọ như ư muốn, chỉ trong năm phút th́ huyết quản liền đứt mà chết v́ hưởng thọ quá độ. Hưởng thọ này không bền lâu. Đây thuộc về năm uẩn. Năm uẩn này ḥa hợp thành một công ty. Công ty này mở rồi đóng, đóng rồi mở, không ngừng nghĩ. Chư vị cảm giác ước muốn một điều, là ǵ ? Tức là v́ đời nay không kiếm ra nhiều tiền, chỉ mong đời sau kiếm được chút ít. Ví như đánh cờ bạc, bỏ tiền vào ngăn, nghĩ rằng kéo ra sẽ được nhiều tiền, nhưng khi bỏ vào th́ tiền lọt vào lỗ khác, thuộc về người. Vốn tính đánh bạc cầu thắng mà ngược lại mất tiền, bị thua lỗ. Thân thể chúng ta cũng như thế, nay lại muốn đánh bạc. Tại sao vậy ? V́ chư vị không chịu nh́n thấu suốt, không biết rằng trời đất thế gian có nhiều sự vi diệu, cảnh giới không thể nghĩ bàn. Chư vị không nên bước bên phải bên trái giống như khi xưa nữa, càng sa xuống th́ càng lún sâu. Vậy, chư vị phải làm ǵ ? Chư vị phải dẹp trừ tâm tham th́ sẽ không c̣n thua lỗ nữa. Lại nữa, chư vị nên giữ bổn phận của ḿnh và tu hành, đó gọi là phản bổn hoàn nguyên (xoay về cội gốc), th́ mới có thể trở về nhà được.

Bên trên, giảng về ba loại sắc, tức là sắc có thể đối có thể thấy, sắc có thể đối không thể thấy, sắc không thể đối không thể thấy. Đó là mười một loại sắc pháp. Tại sao thế ? năm căn, mắt tai mũi lưỡi thân ư, lại thêm sáu trần sắc, thanh hương vị xúc pháp. Năm căn đối với sáu trần sanh ra mười một loại sắc pháp. Mười một loại này cũng được phân tách từ ba loại sắc ở bên trên, tức là sắc có thể đối có thể thấy, sắc có thể đối không thể thấy, sắc không thể đối không thể thấy.

Có thể đối có thể thấy, tôi đă giảng ở phần trên rồi, tức là tất cả vật có h́nh tướng, hiển lộ h́nh sắc trước mắt chư vị. Có thể đối không thể thấy tức là bốn loại âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm. Âm thanh có thể nghe nhưng không thể thấy. Hương vị xúc cũng như thế, chỉ có cảm giác mà không thể thấy. Không thể đối không thể thấy tức là pháp trần, cũng chung quy nơi sắc pháp. Sắc pháp này không thể thấy được, cũng không thể cảm giác được, nhưng trong ư niệm lại biết đến. Sao gọi là sắc pháp ? V́ nó là ảnh tử của năm trần lưu lại trong tâm thức. Loại ảnh trần này cũng thuộc về sắc pháp. Đó là một loại sắc trong ư thức. Bên trên đă nói sắc tức là không. Thọ tưởng hành thức cũng đều không, cũng lại đồng dạng với sắc trần. Sắc trần từ đâu đến ? Sắc trần đối với sáu căn sanh ra sáu thức, nên biến thành sắc trần.

"Tái hồ Xá Lợi nhữ đế thính, (lại này Xá Lợi, nên nghe kỹ)".

Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất rằng hăy nên chú ư lắng nghe cho kỹ.

"Thị chư pháp không tướng vô tánh, (các pháp vốn không tướng vô tánh)".

Tánh của sáu căn, thấy, nghe, ngữi, nếm, giác, tri vốn là không. Sắc do tánh mà hiển. Sắc cũng là không. Chẳng thể bỏ rời sắc mà giữ được không. Bàn về sắc và kiến tánh, chư vị bảo rằng sắc có trước hay kiến tánh có trước ? Nếu nói sắc có trước th́ chưa thấy ǵ mà sao lại hiển xuất ra sắc? Nếu nói đầu tiên có kiến tánh, th́ khi không có sắc có thể đối th́ kiến tánh (thấy tánh) chỗ nào ? Không có sắc mà chư vị kiến tánh (thấy tánh) th́ không ích lợi ǵ. Thế nên phải thấy tánh vốn là không. Sắc cũng là không. Chư vị chớ khởi ra loại biến kế chấp tánh. Chấp trước có tức là có, không tức là không. Không và có vốn không hai. Chấp thấy có tức nhất định là có, th́ không thể liễu giải (hiểu rơ) đạo lư không hai của có và không. V́ vậy, nếu hướng ngoại truy cầu, th́ đem đầu đặt lên đầu, chấp trước khởi vọng. V́ thế, Phật thuyết "Tâm Kinh" tức là thuyết về đạo lư không hai của có và không. Diệu pháp không hai của có và không. Thọ tưởng hành thức cũng đồng với không và sắc. Chư pháp vốn không tướng vô tánh.

Tất cả năm uẩn pháp, sắc, thọ tưởng hành thức đều là tổng hợp các pháp, tức là mười một loại sắc pháp, tám tâm pháp, năm mươi mốt tâm sở pháp, hai mươi bốn bất tương ưng pháp, sáu vô vi pháp, thành một trăm pháp. Mười một sắc pháp tức là mười một loại sắc trần vừa giảng ở trên, cũng là năm căn đối với sáu trần. Năm căn là năm loại sắc pháp. Sáu trần là sáu loại sắc pháp. Cộng thành mười một loại sắc pháp. Tám tâm pháp tức là nhăn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức, mạt na hức, cùng a lại da thức, cộng thành tám tâm pháp. Năm mươi mốt tâm sở pháp nghĩa là thọ và tưởng phân tích tường tận ra thành năm mươi mốt loại tâm sở pháp. Hành tức là hai mươi bốn bất tương ưng pháp. Thức cũng là tám thức đă nói ở trên. Lại thêm sáu vô vi pháp, tổng cộng thành một trăm pháp.

Một trăm pháp này do hai vị bồ tát Thiên Thân, Vô Trước tóm gọn sáu trăm sáu mươi pháp của bồ tát Di Lặc phân thành một trăm pháp. Bồ tát Di Lặc lấy thời số một đời thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni mà biên thành sáu trăm sáu mươi loại pháp. V́ sáu trăm sáu mươi pháp quá nhiều, nên sau này, bồ tát Thiên Thân và Vô Trước nghiên cứu tóm thâu lại thành một trăm pháp. Do đó nói rằng các pháp vốn không tướng, vô tánh, tức bảo rằng năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức đều là không, chẳng có tự tánh.

"Bất sanh bất diệt tịch nhiên thông, (không sanh không diệt thông tịch nhiên)".

Bồ tát Long Thọ có thuyết những bài kệ tụng nói về pháp sanh diệt thật rất tường tận. Ngài nói :

"Kỷ sanh vô hữu tánh

Vi sanh kỷ vô sanh

Ly kỷ sanh vi sanh

Sanh thời tức vô sanh."

Dịch :

"Đă sanh mà không sanh

Chưa sanh đă không sanh

Rời đă sanh chưa sanh

Lúc sanh tức vô sanh".

"Đă sanh mà chưa sanh", tức là đă sanh rồi mà vẫn như chưa sanh. Sao nói thế ? Đă sanh rồi sau lại có sanh ? Ví như cây đă mọc mầm rồi th́ không c̣n mọc thêm nữa.

"Chưa sanh đă vô sanh". Sao là chưa sanh ? Chưa sanh là chưa có sanh. Chưa có sanh lại có sanh không ?

"Ly đă sanh chưa sanh" tức là xa rời đă sanh và chưa sanh.

"Lúc sanh tức vô sanh", nghĩa là ngay khi sanh tức là không có sanh. Giống như đạo lư tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai cũng không thể được.

Đây là bồ tát Long Thọ phát minh ra lư không sanh không diệt. Lư luận này thật rất thâm sâu triệt để. Do v́ Phật thuyết tám loại tướng, tức không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn, không một cũng không khác, không đến cũng không đi. Bồ tát Long Thọ dùng bốn câu kệ tụng để h́nh dung vô sanh và sanh giống như nhau. Sao lại giảng về diệt ? Cũng có thể nói :

"Đă diệt, không có diệt

Chưa diệt đă không diệt

Rời đă diệt chưa diệt

Lúc diệt tức vô diệt".

Những loại lư luận này tôi tin chắc rằng mọi người đều chẳng hiểu ǵ cả. Do đó tôi không giảng thẳng về chúng. Hiện tại, bất quá chỉ giảng về lư không sanh không diệt. Lư không sanh không diệt thông tịch nhiên, tịch nhiên thông đạt vô ngại.

"Bất cấu bất tịnh ly ô nhiễm, (không dơ không sạch xa ô nhiễm)".

Tự tánh vốn không dơ không sạch, nhưng khi sanh ra, con người lại có dơ có sạch. Dơ sạch này cũng là không dơ không sạch. Chỉ v́ chúng ta có tánh chấp biến kế, chấp trước đây là dơ, đây là không dơ, đây là sạch, đây là không sạch. V́ có tâm chấp trước như thế nên biến thành có dơ và có sạch.

Sao nói đó là một loại tâm chấp trước ? Ví như tay của chúng ta, đôi khi bị ô nhiễm bởi phân người hay phân heo. Lúc ấy, cảm giác rất dơ bẩn, nhưng dùng nước tẩy rửa th́ tay trở lại sạch sẽ. Nhưng khi quần áo bị dính phân th́ tuy tẩy rửa nhưng vẫn c̣n cảm giác nhơ bẩn. Do đó, chúng ta muốn liệng nó đi. Đối với bàn tay, sau khi rửa sạch th́ không c̣n chấp trước nữa, v́ không thể dùng đao cắt đứt bỏ đi, nên tâm nghĩ rằng tay đă được rửa sạch. Đối với quần áo, dầu được giặt rửa rồi nhưng vẫn không thích, không muốn dùng lại nữa, v́ do tâm không thích. Tâm không chấp trước vào quần áo. Đó là không nhơ không sạch. Nếu chư vị không có tâm chấp trước th́ cho dầu bọ nhơ nhuốc nhưng không hề hấn ǵ cả. Nhơ nhuốc và sạch sẽ đều cùng một dạng. Không dơ không sạch là cội gốc của tự tánh. Đối với mọi sự việc dơ hay sạch, đều phải lănh hội lư không dơ không sạch. Không v́ dơ sạch mà làm chuyển động tâm ḿnh. Đó mới hợp với tự tánh của chúng ta. Chư vị phải có tŕnh độ nhận thức như thế, th́ đức hạnh của ḿnh mới hợp với đạo lư trời đất, hợp với ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Tại sao kim quang của đức Phật như ngàn muôn ức mặt trời ? V́ ngài hội được lư không dơ không sạch. Ngài đạt được đạo lư của trời và người. Ngài ḥa hợp thành một thể với bốn mùa, xuân hạ thu đông. Ngài lại ḥa hợp với những việc điềm xấu của quỷ thần. Tại sao chư vị không thể được như thế ? V́ chư vị c̣n có tâm chấp trước, tánh chấp biến kế. Chư vị phải phản bổn hoàn nguyên, xa rời ô nhiễm.

"Bất tăng bất giảm ngộ huyền trung. (Không tăng không giảm, ngộ trong huyền)". Chư vị phải giác ngộ được tự tánh vốn không tăng không diệt, th́ mới liễu ngộ được lư trung đạo tối vi diệu. Tôi vừa giảng về bồ tát Long Thọ thuyết về lư không sanh, lại thêm Phật thuyết thời pháp môn phương đẳng có tám loại tướng, tức là không sanh không diệt, không đoạn không thường, không một không khác, không đến không đi. Có người không chấp đoạn nhưng lại chấp thường. Đoạn tức là đoạn diệt. Thường tức là tồn tại. Đoạn kiến, thường kiến là lư luận của ngoại đạo. Pháp Phật thuyết là không đoạn không thường. Vậy, đối với chúng ta, khi chết rồi c̣n hay là mất ? Nếu nói thường c̣n th́ sao chúng ta lại không gặp lại được những người xưa ? V́ đời người vô thường không măi tồn tại. Chư vị cũng không nên bảo không thường hằng. Hiện tại chúng ta ăn cơm cũng giống như người xưa vậy. Đó là không đoạn. Thế nên Phật thuyết pháp không thường không đoạn. Không nên chấp trước đoạn kiến, hay thường kiến, mà phải ḥa nơi trung đạo, nên gọi là ngộ trung huyền.

Không đến không đi tức là đức Như Lai không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Chớ bảo rằng chúng ta cũng như đức Như Lai 'bất lai bất khứ (không đến không đi)'.

Bảo rằng đến tức là chúng ta từ đâu đến ? Chư vị không hề biết. Bảo rằng đi tức là chúng ta sẽ đi về đâu ? Chư vị cũng không biết. Không đến không đi tức là không từ đâu đến và không đi về đâu.

Lại bàn về không một không khác. Không một tức là không đồng một dạng. Không khác tức là không có hai, chẳng có tướng sai biệt. Không một tức là không có tướng đồng với tướng. Luận về thân thể chúng ta, nó không chỉ do một vật hợp thành, mà do nhiều bộ phận khác biệt họp thành, nên gọi là chẳng phải một. Bàn đến lư không khác, lại luận về thân thể, chỉ có một thân, không có thêm thân khác. Những loại lư luận này thật rất khó hiểu. Mỗi lần giảng chút ít, rồi từ từ mới có thể liễu giải.

Không tăng không giảm, nghĩa là tự tánh chúng ta không tăng không giảm. Như câu :

"Vô t́nh tạng nguyệt tăng trung giảm, (ánh trăng vô t́nh tăng trong giảm)".

Hữu vị Phật pháp khổ hậu điềm, (nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc)".

Tạng nguyệt (ánh trăng) tức vô t́nh, không có t́nh thức. Tuy nói nó có tăng mà cũng có diệt. Ánh trăng vô t́nh. Chư vị bảo mặt trăng đừng lặn mất, lưu lại nơi đây một thời gian. Không thể được ! Dầu chư vị có làm ǵ đi nữa cũng không thể giữ mặt trăng đứng lại một chỗ. Trừ phi chư vị giữ được mặt trời cố định một chỗ, tức bảo rằng mặt trời không động. Điều này thật không thể được ! Ngày nay khoa học có tiến bộ bao nhiêu đi nữa vẫn không có cách khiến mặt trời bất động. Ánh mặt trời cũng thuộc về loài vô t́nh. Tăng trong giảm, như năm nay tôi sáu mươi tuổi. Năm kế sẽ sáu mươi mốt tuổi. Thọ mạng tăng thêm một tuổi, nhưng lại thêm một năm gần cái chết. Ví như bảo rằng tôi sống đến một trăm tuổi mới chết, mà nay đang sống đến sáu mươi mốt tuổi, tức là phải giảm đến ba mươi chín năm nữa. Nhưng đó cũng chính là tăng tuổi thọ. V́ vậy bảo rằng trong tăng lại có giảm. Ngược lại, trong giảm lại có tăng. Chư vị phải hiểu rơ lư này chân thật, nó vốn không tăng cũng không giảm.

"Hữu vị Phật pháp khổ hậu điềm, (nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc)."

Hương vị Phật pháp rất ngọt ngào. Đối với Phật pháp, chư vị học được một chút th́ hiểu rơ một chút. Hôm qua tôi đă giảng về lư khai ngộ. Khai ngộ có tiểu ngộ, trung ngộ và đại ngộ. Tiểu ngộ là ít hay nhiều mà sao lại gọi là tiểu ? Giống như hư không rất rộng lớn, khi đă khai ngộ từ trong ruộng tám thức, chư vị cũng vẫn không hay biết. Trung ngộ nghĩa là chư vị cảm giác là ḿnh hiểu rơ được chút ít đạo lư, như lư không tăng không giảm, lư không sanh không diệt xưa nay. Hiểu rơ những đạo lư này được rồi th́ gọi là trung ngộ. Đại ngộ tức là dứt tận sanh tử, việc ǵ đến hay đi cũng đều biết hết. Sau gọi là tăng ? Sau gọi là giảm ? Biết rơ lư không tăng không giảm, hoàn toàn liễu giải được lư không sanh không diệt gọi là đại ngộ.

"Nếm vị Phật pháp sau khổ nhọc". Chư vị nhất định phải nhẫn chịu một chút khổ. Không phải học liên tiếp bốn năm ngày rồi cho đó là học Phật pháp đầy đủ rồi. Chư vị nhất định phải có tâm nhẫn nhục, không luận khốn khổ, gian nan ǵ cũng đều phải học. Ngày ngày tôi phải đến trường dạy tiếng Tàu cho học sinh. Đến lúc giảng kinh, tôi cũng phải giảng, trừ phi có những trường hợp đặc biệt. Tuyệt đối tôi không bao giờ làm biếng. Cần phải tu hành chân thật th́ mới nếm được mùi vị Phật pháp, nên đầu tiên phải chịu khổ đau nhọc nhằn. Do đó, chớ có sợ khổ. Càng khổ nhiều chừng nào càng tốt chừng ấy. Phải phấn chấn tinh thần, lập định chí hướng, dũng mănh tinh tấn tiến bước. Đừng sợ khổ nhọc, gian nan.

"Đạm nhiên tịnh cực siêu tạo hóa." Đạm nhiên tức là thanh tịnh. Cực tịnh nghĩa là tịch tĩnh đến cùng tột. Siêu tạo hóa, nghĩa là siêu xuất công năng tạo hóa của trời đất.

"Đốn giác ngă pháp bổn viên dung, (liền giác ngă pháp vốn viên dung)".

Chư vị nếu hiểu rơ đạo lư này th́ tức khắc biết được ḿnh và pháp vốn là một, không có phân biệt, không hai không khác, gốc vốn là viên dung không ngại.

Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 5 of 8: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 3:53am | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnguyet

"Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhăn nhĩ tỷ thiệt thân thanh hương vị xúc pháp, vô nhăn giới, năi chí vô ư thức giới, (cho đến trong không chẳng có sắc, chẳng có thọ tưởng hành thức, chẳng có mắt tay mũi lưỡi thân ư, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng có nhăn giới, cho đến chẳng có ư thức giới)".



"Thị cố không trung vô sắc tướng

Thọ tưởng hành thức diệc vong trược

Lục căn trần tịnh lục thức

Tam tâm chỉ thấu tam quan

Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển

Hoàng kiểm tiểu nhi khiêu khiêu toản

Nhược vấn cá trung hà chỉ thú

Tiền tam tam tiếp hậu tam tam

Dịch :

Do đó trong không chẳng có sắc

Thọ tưởng hành thức cũng không trược

Sáu căn sáu trần cùng sáu thức

Ba tâm ba chỉ thấu ba cửa

Trâu trắng xe lớn, chuyển từ từ

Bé mặt vàng đập đến đập lui

Nếu hỏi đường hướng như thế nào

Trước ba ba tiếp, sau ba ba".



Trong không chẳng có sắc. Đó là bàn tiếp về đoạn văn ở trên. Bên trên, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. V́ chân không chẳng có sắc thọ tưởng hành thức. Bổn thể của thọ tưởng hành thức vốn là không. Sáu căn, mắt tai mũi lươi thân ư cũng không có. Sáu trần, sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng có luôn. Sáu thức, thức của mắt tai mũi lưỡi thân ư đều là không. Tâm kinh này đàm luận về lư không tức chân không bát nhă. Chân không bát nhă chính là diệu hữu. Diệu hữu phi hữu tức là chân không. Do đó bảo rằng chân không không ngăn ngại diệu hữu, diệu hữu không ngăn ngại chân không, chân không là diệu hữu, diệu hữu cũng là chân không. V́ thế, bên trên kinh cũng nói rằng sắc không khác không, không chẳng khác sắc.

Pháp năm uẩn chính là pháp tổng quát. Sắc pháp của năm uẩn cũng là không. Sáu căn, sáu trần, sáu thức, c̣n lại chính là pháp biệt tướng. Tổng tướng đă là không, th́ biệt tướng đương nhiên cũng không có. V́ vậy, Ngài thuyết rằng không mắt tai mũi lưỡi thân ư, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không có giới hạn của mắt cho đến không có giới hạn của ư thức.

Sáu căn, sáu trần, sáu thức, hợp lại thành mười tám giới. Sáu căn cộng với sáu trần gọi là mười hai xứ. Sáu căn cũng là sáu nhập. Mười tám giới cũng là không. Sao thuyết ra pháp đó ? Đối với phàm phu th́ có pháp này, c̣n đối với thánh nhân th́ là không. Do đó, nói kệ :

"Thị cố không trung vô sắc tướng, (do đó trong không chẳng có sắc)".

V́ bên trên đă nói rơ lư này, tức trong không, không có sắc.

"Thọ tưởng hành thức diệc vong trược. (Thọ tưởng hành thức cũng không trược)".

Thọ tưởng hành thức cũng không ô trược.

"Lục căn lục trần tịnh lục thức, (sáu căn sáu trần cùng sáu thức)".

Sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ư. Sáu trần là đối xứng với sáu căn mà có như sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp. Căn tăng trưởng xuất sanh. Trần y theo đó mà bị ô nhiễm. Do sáu căn đối với sáu trần khởi phân biệt nên sanh ra sáu thức; thức của mắt tai mũi lưỡi thân ư. Tất cả hợp thành mười tám giới.

"Tam tâm tam chỉ thấu tam quan, (ba tâm ba chỉ thấu ba cửa)."

Ba tâm tức là tâm quá khứ, hiện tại, vị lai. Tâm quá khứ đă ngừng. Tâm hiện tại cũng dừng. Tâm vị lai lại dừng. Ba tâm không thể có. Tâm quá khứ không thể được. Tâm hiện tại không thể được. Tâm vị lai cũng không thể được. Ba tâm không thể được. Không thể khởi tâm quá khứ. Tâm hiện tại không thể sanh. Tâm vị lai cũng chưa có. Khi ấy, tâm không nghĩ thiện, không nghĩ ác. Ba tâm của chư vị cũng không có. Sao gọi nghĩ thiện, nghĩ ác ? Tức là khi chư vị dụng công tu hành, đạt đến cảnh giới dùng thiền duyệt làm món ăn, pháp hỷ đều đầy đủ. Khi ấy, đang ngồi tĩnh tọa, chư vị khai mở sơ quan (cửa đầu), trung quan (cửa giữa), thượng quan (cửa trên). Sơ quan cũng gọi là cửa Mao Cung. Trung quan gọi là cửa Lai Tích. Thượng quan gọi là cửa Ngọc Chẩm, hay là cửa sanh tử. Cửa đầu và gữa dễ dàng phá vỡ, vượt qua, nhưng đến cửa thứ ba th́ rất khó khăn. Vượt qua được cửa thứ ba, chư vị lại phải hướng về phía trước mà tiếp tục tu hành. Khi đó, chư vị đạt đến cảnh giới ǵ ?

"Bạch ngưu đại xa lân lân chuyển, (trâu trắng, xe lớn, chuyển từ từ)".

Trong kinh Pháp Hoa có nói đến xe lớn, trâu trắng, tức là Phật thừa, chỉ có Phật thừa mà không có thừa nào khác. Lại nữa, muốn thành Phật th́ phải đi trên con đường này, th́ mới ngồi trên cổ xe lớn trâu trắng. Chưa thành Phật được th́ không thể ngồi trên xe này. Tức bảo rằng chúng ta dụng công đắc lực để chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sanh.

Sao gọi là cổ xe lớn trâu trắng, mà không nói xe lớn trâu đen, hay xe lớn trâu vàng, hoặc xe lớn trâu nhiều màu ? Con trâu này màu trắng, giống như tự tánh của chúng ta không ô nhiễm. Chư vị từ từ hành pháp đại thừa. Xe trâu trắng đi trên đường đại thừa, phát ra âm thanh lân lân. Khi đó, người tu hành đạt được cảm giác. Cảm giác ǵ ?

"Hoàng kiểm tiểu nhi khiếu khiếu toản, (bé mặt vàng đáp tới đáp lui)".

Cảm giác như say sưa, ngủ mơ, mộng mị, tức là không biết ǵ là chân, ǵ là giả, là hư là thật, bốn chi (hay tay hai chân) rất mềm diu. Tay không có sức lực; chân cũng không có sức lực, giống như bùn non, không muốn làm ǵ hết. Khi ngồi thiền, hay không ngồi thiền, thân thể đột nhiên rung động nhanh chóng. Khi ấy tâm chúng ta đập. Kỳ thật không phải là tâm đập mà là lá lách đập. Sao lá lách đập ? Lá lách đập giúp chúng ta tiêu hóa dễ dàng. Chư vị chạy mau chút ít th́ lá lách làm việc nhiều chút ít. Hoàng kiểm tiểu nhi là ai ? Tức là ư niệm của chư vị, nghĩa là mắt tai mũi lưỡi thân ư. Ư tại lá lách. Lá lách màu vàng, nên gọi là đứa bé mặt vàng.

"Khiếu khiếu toản", tức là đập tới đập lui. Thế nên, người thường ngồi thiền, lắm khi ngồi đến lúc không biết ǵ hết. "Tim tôi đập như thế nào, có bị bịnh ǵ không ?"

Tâm khởi lo sợ như thế. Chớ lo sợ. Đó chỉ là quá tŕnh tu hành mà chúng ta phải vượt qua. Khi xe lớn trâu trắng chuyển pháp luân th́ ư niệm cũng khởi dậy, tim đập mạnh rất nguy hiểm. Lúc đó tâm phát sanh sợ hăi. Tim đập mạnh như thỏ nhảy tới nhảy lui.

"Nhược vấn cá trung hà chỉ thú, (nếu hỏi đường hướng nơi đó thế nào)".

Nếu chư vị hỏi lư lẽ, tông chỉ này như thế nào, th́ có thể đáp rằng :

"Tiền tam tam tiếp hậu tam tam, (trước ba ba tiếp, sau ba ba)".

Trước và sau có ba chỗ. Khi ấy, gặp được đường sanh tử. Trước kia, đường sanh đường tử khác nhau. Đường sanh th́ đi theo đường sanh. Đường tử th́ đi theo đường tử. Hiện tại th́ sau ? Đường sanh đường tử nhập làm một. Sanh cũng là tử. Tử cũng là sanh. Tựa như sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Sanh tử cũng thế, không phải là hai, cũng lại không sanh không tử.

Chư vị phải dụng công tu hành. Nếu không dụng công tu hành th́ tiến một bước, nhưng lại lùi bốn bước. Nếu vậy th́ không có công dụng ǵ hết. Thế nên, trừ phi không tu th́ thôi, c̣n nếu đă tu th́ ngày ngày phải tinh tấn tiến bước. Nếu thối một bước th́ công phu trước đă mất hết rồi. Nếu muốn tu đạo th́ phải bắt đầu trở lại. V́ thế, tu đạo phải luôn tiến bước, chớ nên thối lui.



"Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận, (không có vô minh, cũng không có tận hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có tận hết già chết)".



"Vô vô minh tận bổn tánh không

Vọng hành liễu biệt danh sắc tùng

Lục nhập trược thọ ái thủ hữu

Lai sanh lăo tử tận tương đồng

Vạn lư t́nh không tuyệt vân ảnh

Măn đầm trừng thủy hiển nguyệt minh

Như nhân kiết ẩm tri lănh noăn

Thuyết thực trợ trường tổng phạp công.

Dịch :

Không vô minh tận không bổn tánh

Hành vọng hiểu rơ từ danh sắc

Sáu nhập trược thọ ái thủ hữu

Từ sanh già chết tận tương đồng

Muôn dặm t́nh không tuyệt ánh mây

Nước trong ao sạch trăng hiện rơ

Như khi ăn uống biết lạnh nóng

Nói ăn chẳng ăn thật phí công."

"Không có vô minh, cũng không tận hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết". Đây là thuyết về lư mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên này là tu theo thừa Duyên Giác. Có mười hai loại duyên làm trợ duyên, tức trợ giúp con người sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh. Các ngài Duyên Giác do tu pháp mười hai nhân duyên mà hiểu rơ bao đạo lư nhân sanh, khai ngộ, chứng được quả Bích Chi Phật. Đó gọi là trung thừa. Thanh Văn là tiểu thừa. Bích Chi Phật là trung thừa. Bồ Tát là đại thừa.

Sao gọi là vô minh ? Vô minh nghĩa là không minh bạch; thế gian gọi là mù mờ, tức là không hiểu rơ đạo lư, mù mù mờ mờ. V́ không minh bạch nên mới có hành vi mê mê mờ mờ, cũng chính là vọng hành (làm sai trái), nghĩa là việc không nên làm mà lại làm. Khi đă làm sai th́ nhận thức hư vọng, dẫn đến mê mờ v́ danh lợi sắc tướng, lại biến thành nhập mù mờ, xúc mù mờ, thọ xúc mù mờ, hưởng thọ mù mờ, ái mù mờ, mong cầu chấp giữ mù mờ, rồi muốn đạt được mù mờ, dẫn đến có sanh, lại có già, chết. Những nhân duyên này do v́ mê mờ trong buổi ban đầu, nên kết quả mới bị mê mờ. Mê mờ mờ sống qua một đời. Đời sau lại mê mê mờ mờ. Thế nên mười hai nhân duyên cũng là mười hai nhân duyên mê mờ mà phàm phu không thể minh bạch hiểu rơ.

"Vô vô minh tận bổn tánh không, (không tận vô minh, không bổn tánh)".

Mười hai nhân duyên này, lúc ban đầu là mê mờ. Bao loại tham dục của con người, hoặc tham ăn, hoặc tham sắc v.v... chúng phát sanh từ đâu? Đều phát sanh từ vô minh. Trong mười hai nhân duyên, bàn về thọ sanh như thế nào, chết như thế nào ?

V́ vô minh nên có bao loại hành vi chủng tánh nam nữ. Hành vi bản tánh này do tâm mê loạn phát khởi. Có hành vi bản tánh đó rồi th́ sanh ra ư thức ngu mê. Thức này chính là thân trung ấm. Sau khi có hành vi bản tánh nam nữ rồi th́ kết một lằn ánh sáng. Thân trung ấm tuy xa muôn ngàn vạn dặm nhưng v́ có nhân duyên làm quyến thuộc với cha mẹ nó, nên khi thấy lằn ánh sáng đó liền nhập vào thai mẹ. Sau khi thần thức đầu thai th́ lại có danh sắc. Danh tức là bốn uẩn, thọ tưởng hành thức. Sắc uẩn cũng gọi là sắc. Thọ tưởng hành thức khi c̣n trong thai mẹ chỉ có bốn loại danh thức, nhưng chưa thành thục. Đợi cho đến khi có danh sắc rồi th́ mới có sáu nhập. Sáu nhập cũng do sáu căn sanh ra sáu tánh như thấy nghe, ngũi, nếm, giác, biết. Có sáu nhập rồi th́ đứa bé liền có xúc giác, nên nói sáu nhập duyên xúc. Có xúc giác th́ lại có lănh thọ. Có lănh thọ nên sanh ra tâm luyến ái. Có tâm luyến ái nên sau này muốn mong cầu, giữ ǵn. V́ vậy cảm thọ duyên chấp thủ. Luyến ái, mong cầu chấp thủ rồi lại muốn có được. V́ muốn có được nên mới có sanh. Có sanh nên mới có mười hai nhân duyên. Nếu không có vô minh th́ không có hành. Vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt, thức diệt th́ danh sắc diệt, danh sắc diệt th́ sáu nhập diệt, sáu nhập diệt th́ xúc diệt, xúc diệt th́ thọ diệt, thọ diệt th́ ái diệt, ái diệt th́ thủ diệt, thủ diệt th́ hữu diệt, hữu diệt th́ sanh già bệnh chết diệt. Đó là diệt được mười hai nhân duyên. Thế nên, bảo rằng vô minh mà tận hết th́ bổn tánh không. Bổn tánh không rồi th́ không c̣n vô minh nữa.

"Vọng hành liễu biệt danh sắc tùng, (hiểu rơ hành vọng từ danh sắc)".

Hành tức là vọng hành. Thức là liễu biệt. Sau khi có thức rồi th́ có danh sắc.

"Lục nhập xúc thọ ái thủ hữu, (sáu nhập xúc thọ ái thủ hữu)".

Kế tiếp danh sắc là sáu nhập. Sau sáu nhập là xúc, đến thọ, đến ái, đến thủ, đến hữu.

"Lai sanh lăo tử tận tương đồng, (đến sanh già chết tận tương đồng)".

Có hữu th́ có sanh. Có sanh th́ có già chết. Do đó, bảo rằng sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, cho đến sanh già chết đều tương đồng tận hết.

"Vạn lư t́nh không tuyệt vân ảnh, (trời trong muôn dặm tuyệt áng mây)".

Mười hai nhân duyên nối tiếp, liên hệ chằng chịt với nhau, nhưng tất cả vốn không, giống như trời trong muôn dặm, chẳng có một áng mây hồng.

"Măn đầm trừng thủy hiển nguyệt minh, (nước trong trăng hiện rơ khắp hồ)".

Ví như hồ nước trong th́ ánh trăng rằm hiện rơ.

"Như nhân kiết ẩm tri lănh noăn, (như lúc uống ăn biết lạnh nóng)".

Chư vị nếu liễu ngộ (hiểu rơ) pháp mười hai nhân duyên, tức là có công phu tu hành, th́ khi ấy giống như lúc ăn cơm uống nước, tự biết là lạnh hay nóng.

"Thuyết thực trợ trường tổng phập công, (nói ăn mà chẳng ăn, phí công)".

Nếu chư vị không thật sự tu hành, tham ngộ mười hai nhân duyên, mà chỉ nói mười hai nhân duyên này là không-không-không. Bảo rằng chúng là không, mà không thể hội được ư nghĩa không của chúng, không chân chánh chứng đắc được lư không này, cũng giống như người chỉ nói ăn mà thực sự không ăn. Kinh Lăng Nghiêm nói :

"Thí như thuyết thực chung bất năng bảo, (thí như nói ăn mà cuối cùng không no được".

Dầu cho chư vị có nói bao ngày đi nữa, nhưng vẫn không no được.

Trợ trường là nói về chuyện những người ngu si đời Tống. Đương thời có nhiều người rất ngu si. Họ ngu đến nỗi nào ?

"Tống nhân măn miêu chi bất trường, nhi yết chi giả. (Có người nước Tống gieo mạ mà không thấy mạ mọc, nên bứng rễ mạ)".

Có người nước Tống, tự tay gieo mạ, nhưng chẳng thấy mạ mọc lên, suy nghĩ :"Mạ của ḿnh sao mọc chậm quá !", nên "bứng rễ mạ lên".

Ông ta giúp mạ mọc lên mau chóng bằng cách kéo rễ mạ lên cả hai tấc. Ông ta nói :"Một ngày mà mạ mọc cả hai tấc !"

Ông ta làm như thế thật ngu mê, ám muội, lại khổ nhọc v́ lo lắng. Ông ta thở hổn hển trở về và bảo người nhà :" Hôm nay tôi bị cảm bịnh".

V́ sao ? V́ ông ta làm việc quá nhiều, tức là giúp mạ mọc dài ra. Người con tưởng cha ḿnh có bản lănh cao siêu, thần thông quảng đại, nên niệm chú, khiến cho mạ mọc cao lên. Do đó, người con chạy mau ra đồng xem coi sự t́nh. Lúc ấy, nh́n kỹ th́ tất cả lúa mạ đă bị chết khô.

Đó là nói về người tu đạo, đừng nghĩ rằng tôi khai ngộ, tôi khai ngộ, tôi khai ngộ. V́ sao tôi chưa khai ngộ ? Làm thế nào tôi mới khai ngộ được ? Đi tới đi lui cũng chưa khai ngộ. Leo lên trèo xuống cũng chưa khai ngộ. Ngồi thiền cả một giờ vẫn chưa khai ngộ. Làm sao mới được khai ngộ ? Nếu chư vị có tâm này th́ vĩnh viễn không thể khai ngộ. Tại sao ? Chư vị muốn khai ngộ tức che lấp mất tâm khai ngộ đó, tựa như ông người nước Tống muốn giúp mạ lên cao. V́ vậy bảo rằng nói ăn mà không ăn, giúp mạ lên cao, rất phí công sức, không thể dụng được. Chư vị phải b́nh tâm tịnh khí tu hành, chân thật từng bước mà đi, đừng hỏi rằng ngày mai tôi có được khai ngộ hay không, khi nào tôi mới khai ngộ ?

Chư vị chớ giữ những tâm này, chúng chỉ là vọng tưởng. Chư vị nếu có vọng tưởng th́ đă dẫm mất tâm khai ngộ rồi. Khai ngộ sợ vọng tưởng. Tại sao tâm chư vị lại run sợ ? Chính là sợ vọng tưởng, cũng là sợ khai ngộ. Chư vị muốn khai ngộ th́ tim đánh b́nh bịch. Tim đập liên tục, tức là vô h́nh chung nghiệp chướng sợ hăi :"Nếu nó khai ngộ th́ ḿnh phải làm ǵ ?" Nghiệp chướng không thể làm ǵ được.



"Vô khổ tập diệt đạo, (không có khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế)".



"Chư khổ bức bách các tương công

Tụ tập chiêu cảm tự bất đồng

Duy diệt khả chứng cứu cánh lạc

Thị đạo ưng tu ngộ pháp không

Tam chuyển tứ đế pháp luân vận

Thất giác bát chánh ư niệm cần

Nhất đản quán thông thành thánh quả

Thiên chân hữu dư năi hóa thành

Dịch :

Bao khổ bức bách cùng công kích

Tụ tập chiêu cảm tự không đồng

Tánh diệt khả chứng tột an lạc

Là đạo nên tu ngộ pháp không

Chuyển ba lần xe pháp tứ đế

Bảy giác tám chánh ư nệm cần

Một lần quán thông thành chánh quả

Lệch chân hữu dư vẫn hoá thành".

Câu :"Không khổ tập diệt đạo", là pháp tu hành của Thanh Văn, tức là pháp Tứ Đế. Sao gọi là Thanh Văn ? Thanh Văn tức nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo, nên gọi là Thanh Văn. Đây là những vị được Phật giáo hóa đầu tiên nhất, v́ là những vị có cơ duyên tiểu thừa. Khi Phật vừa mới thành đạo, Ngài thuyết kinh Hoa Nghiêm, nhưng những người tiểu thừa tuy có mắt mà không thấy được, có tai mà không nghe được. Tại sao có mắt mà không thấy được ? V́ pháp này rất vi diệu, cao siêu, quảng đại. V́ quá vi diệu nên người nhị thừa không thể hiểu rơ diệu pháp này. Do đó, bảo rằng thật không thể nghĩ bàn. Khi ấy Phật Thích Ca Mâu Ni hiện thân Phật Tỳ Lô Giá Na cao ngàn thước. Người nhị thừa như những đứa bé nhỏ, v́ thân Phật quá cao nên họ không thể thấy được. Do đó "Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu", nghĩa là ngẫng đầu lên nh́n không thấy tới đâu, khoan xống nhưng quá cứng, nh́n thấy hiện đằng trước nhưng đột nhiên lại thấy chạy đằng sau. Ánh sáng từ đằng sau chiếu đến mà họ lại chạy đuổi theo đằng trước. Ánh sáng chiếu bên trái, lại chạy qua bên phải. Giống như hào quang của Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng qua bên trái, ngài A Nan chạy qua bên phải xem. Phật phóng hào quang qua bên phải th́ ngài A Nan lại chạy qua bên trái mà xem. Nh́n thấy ánh sáng đằng trước, nhưng đột nhiên lại hiện ra đằng sau. V́ pháp này thật không thể nghĩ bàn, người nhị thừa không có cách ǵ để chiếu cố (chấp nhận), hay hiểu rơ. Do đó, có tai mà không nghe được pháp viên đốn, v́ quá thâm sâu, nên không thể minh bạch. Đức Phật ẩn pháp đại thừa mà thị hiện pháp tiểu thừa, nên chỉ hiện thân lăo tỳ kheo một thước sáu tấc để thuyết pháp Tứ Diệu Đế. Pháp Tứ Diệu Đế là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Phật ba lần chuyển pháp luân Tứ Đế. Lần thứ nhất là thị chuyển. Lần thứ hai là khuyến chuyển. Lần thứ ba là chứng chuyển. Chuyển tức là vận chuyển, như bánh xe luân hồi trong sáu đường, chuyển đến chuyển lui, nên gọi là ba lần chuyển pháp Tứ Diệu Đế. Ba chuyển, lần thứ nhất là thị chuyển, tức Phật nói đây là khổ, tánh bức bách, đây là tập, tánh chiêu cảm, đây là diệt, tánh có thể chứng, đây là đạo, tánh có thể tu.

Lần thứ hai là khuyến chuyển, đây là khổ, các con nên biết, đây là tập, các con nên đoạn, đây là diệt, các con nên chứng, đây là đạo, các con nên tu.

Lần thứ ba là chứng chuyển, đây là khổ, các con nên biết, ta đă biết, không cần phải biết thêm nữa. Các con phải biết, c̣n Ta đă từng biết qua rồi. Ta không cần đem đầu mà đặt lên đầu nữa. Đây là tập, các con nên đoạn; Ta đă đoạn rồi, không cần phải đoạn thêm nữa. Ta bảo các con nên đoạn, c̣n Ta đă đoạn hết rồi, không cần phải đoạn thêm nữa. Đây là diệt, các con nên tu chứng; Ta đă chứng rồi, không cần phải chứng nữa; Ta đă chứng được diệt, và pháp Niết Bàn an lạc rồi, không cần phải chứng thêm nữa, chỉ đợi các con chứng lấy. Đây là đạo, các con nên tu; Ta đă tu rồi, không cần tu nữa. Đấy là chứng chuyển, chứng minh tự đức Phật đă chứng đạt, nên Ngài bảo chúng ta phải y theo đó mà tu hành. Nếu tự chính Ngài chưa chứng đắc th́ không thể bảo chúng ta tu hành.

Tứ Diệu Đế. Thứ nhất là khổ đế. Chư vị hăy nói xem khổ có thật hay là giả ? Đế nghĩa là chân thật; khổ là chân thật. Như một đệ tử của tôi nói :

"Nầy các khách trần ! Các ngươi hăy mau đi khỏi ! Nếu các ngươi không đi, Ta thật rất khổ."

Khách trần nếu không đi khỏi th́ ḿnh phải chịu khổ. Khách trần nếu đi khỏi th́ khổ giảm thiểu dần dần.

Khổ có ba loại khổ, tức khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Lại có tám khổ, tức sanh già bệnh chết khổ (bốn loại khổ này từ thân phát xuất). Bên ngoài cũng có bốn loại khổ tức là khổ v́ thương nhau mà xa ĺa, khổ v́ gần những người ḿnh oán ghét, khổ v́ cầu không được, khổ v́ năm ấm tăng giảm hừng thạnh. Ảnh hưởng cảnh bên ngoài lại có vô số khổ đau.

"Chư khổ bức bách các tương công".

Khổ đế thật rất nhiều, chúng luôn công kích, gây chiến tranh, nên khiến cho con người bị bức bách không thể nhẫn chịu được, cơ hồ khí lực đều bị khổ chặt đứt đoạn. Khách trần đến, cái ǵ cũng đến, bảy tầng tám lớp. Sáu trần bên ngoài cùng sáu thức bên trong đồng đến tấn công chư vị. Mỗi việc khổ đều khiến chư vị quá khổ rồi, mà khổ lại chồng chất lên khổ. Ba loại khổ cũng đến bức bách, vô số khổ cũng đến bức bách. Tất cả khổ đều đến bức bách con người, nên gọi là "chư khổ bức bách các tương công, (bao khổ bức bách đồng công kích)".

Tập đế là tập họp tất cả phiền năo. Phiền năo so với khách trần c̣n lợi hại hơn nhiều. Khách trần chỉ là h́nh thức khiến chúng ta thọ khổ bên ngoài thôi, nhưng chúng có thể khiến cho phiền năo công kích chúng ta từ bên trong. Tại sao có phiền năo ? Phiền năo vốn là ông chủ của chúng ta, hiện nay đang diêu động. Bị ǵ mà diêu động ? Phiền năo bị khách trần làm náo động. Lại v́ không biết ông chủ của ḿnh, nên phát khởi bực tức nóng giận, tức là phiền năo. Chư vị hăy nói xem phiền năo có lợi hại hơn khách trần không ? Chư vị có thể nói : "Này khách trần ! Các ngươi hăy đi khỏi mau lên ! Nếu các ngươi không đi, Ta thật quá khổ !"

Chư vị có thể đuổi chúng ra ngoài. Ông chủ phiền năo này, chư vị muốn đuổi hắn đi chỗ nào, đến chỗ nào ? Đuổi măi mà hắn không đi v́ hắn vẫn c̣n ở trong nhà của chư vị. Thế nên bảo rằng hắn thật là lợi hại.

Tôi không muốn giảng về phiền năo. Tại sao ? V́ nếu tôi giảng th́ chư vị sẽ thấy phiền năo sao quá nhiều. Lúc không giảng, chư vị không biết phiền năo có ít hay nhiều, lại v́ không biết nên phiền năo tùy tiện phát khởi, không biết không rơ để cho chúng đi qua. Nếu tôi giảng rơ, th́ chư vị nói :"Đấy là phiền năo à !"

Chính là chúng. Phiền năo này chồng chất lên phiền năo khác. V́ vậy, tuy giảng giải và thuyết pháp đă lâu mà tôi ít giảng về phiền năo. Tôi đă từng nghe chư vị giảng về phiền năo rồi. Có phải chư vị bảo là có tám muôn bốn ngàn phiền năo không ? Không sai ! Tôi cũng đă giảng qua tám muôn bốn ngàn phiền năo rồi. Tám muôn bốn ngàn phiền năo thật quá nhiều, mà tôi chưa giảng từng danh tự của mỗi phiền năo. Nay, tôi sẽ kể rơ danh tự của phiền năo cho chư vị nghe. Chư vị nghe danh tự, tên của chúng rồi th́ sẽ dễ dàng sanh phiền năo. Sanh phiền năo dễ dàng hơn trước khi nghe về phiền năo, nên tôi không muốn giảng, sợ chư vị phát khởi phiền năo dễ dàng.

Nhưng nay đă đến lúc phải giảng, cơ duyên thành thục rồi. Hôm nay tôi sẽ giảng từng chi tiết về tên của phiền năo. Phiền năo có ít hay nhiều ? Có hai mươi loại phiền năo. Hai mươi loại phiền năo này gọi là tùy phiền năo. Tùy tức là cân tùy (đi theo). Đi theo ai ? Chúng đi theo tôi và chư vị. Tôi và chư vị đi đâu th́ chúng đi theo đó. Lại nữa, có sáu phiền năo. Chúng là ǵ ? Tức là sáu phiền năo căn bản. Hai mươi tùy phiền năo cũng là tiểu phiền năo, trung phiền năo, và đại phiền năo. Tiểu phiền năo có nhiều hay ít ? Có mười loại. Trung phiền năo có hai. Đại phiền năo có tám. Đối với hai mươi loại phiền năo này, chư vị hăy nói xem chúng là nhiều hay ít ? Chư vị muốn nhiều th́ tôi cho nhiều. Chư vị muốn có một loại th́ tôi cho một lại, muốn mười loại th́ tôi cho mười loại, muốn mười lăm th́ tôi cho mười lăm, muốn hai mươi th́ tôi cho hai mươi.

Sao gọi là tiểu phiền năo ? Tôi vốn muốn miêu tả h́nh dung phiền năo cho chư vị xem, nhưng v́ tốn rất nhiều thời gian nên tôi chỉ nói đơn giản thôi.

Thứ nhất là phẫn. Phẫn tức là phẫn nộ bất b́nh. Chư vị hăy nói xem đó có phải là phiền năo không ? Phẫn nộ bất b́nh tức là tâm chư vị hỗn độn, tâm ác nỗi lên cực điểm. Chư vị có thích hay không thích ? Nếu thích th́ cứ giữ lấy, c̣n tôi th́ không thích. Giả như tôi đem phiền năo cấp cho người khác. Vậy, có ai dám nhận lấy không ? Không ai dám tiếp nhận. Từ từ rồi tôi sẽ cho người.

Thứ hai là hận. "Tôi hận chư vị. Hận đáo để, thấu trời". Nhưng sao lại gọi là hận ? Hận tức là ngược lại với luyến ái. Sao chư vị lại hận người khác ? V́ thương họ, nhưng không thành nên trở lại oán hận. Tôi có cô đệ tử. Trước khi xuất gia, cô ta có bạn trai. Nghe cô ta đi tu nên anh chàng trở nên oán hận cô này. V́ vậy, anh ta gọi điện thoại đến chùa nói với cô ấy:" Tôi rất oán hận cô."

Thứ ba là lợi hại, tức là không những oán hận mà c̣n năo hại nữa. Năo tức là khổ năo, hay cũng là phiền năo, hoặc năo oán. Tất cả đều không tự tại. Sao gọi là năo ? Năo tức là óc năo, hay đầu năo. Chư vị bị phiền năo th́ đầu cũng bị nhức, đôi mắt cũng nóng rực lên. Khi ấy có biết đầu lớn hay nhỏ ? Càng bị phiền toái chừng nào th́ đầu to và nặng chừng ấy. Đau đến cực điểm th́ bị đứt màng năo, rồi sẽ chết. Có ai thích loại phiền năo này không ? Nếu có ai muốn th́ tôi nay sẽ bố thí cho.

Thứ tư là phục, nghĩa là phục tàng (che giấu), cái tàng. "Thiên phục địa tàng (trời che đất chứa)". Phục tàng (che giấu) c̣n lợi hại hơn phiền năo, phẫn hận nữa. Phẫn hận phát xuất ra ngoài, c̣n che giấu th́ không nói không ai biết, chỉ tự giấu kín thôi, nên gọi là che giấu. Che giấu tổn hại chính ḿnh rất nhiều, khiến sanh bệnh loét bao tử. Người Mỹ bị bệnh này rất ít, nhưng người Tàu th́ rất nhiều, cho đến người xuất gia lại càng nhiều hơn nữa. Tại sao ? V́ họ thường che giấu, giữ kín trong bụng, không để cho người khác biết rằng họ có phiền năo mà lại che giấu, không dám để lộ ra ngoài. Do đó bên trong sanh bệnh loét bao tử. Nếu ai bị bệnh này th́ chư vị biết chắc rằng người đó có che giấu phiền năo chi trong bụng. Đây là cách giảng pháp rất chính xác. Tôi nói rơ, cặn kẻ cho chư vị nghe về loại phiền năo này rồi đó !

Thứ năm là cuống (nói dối). Kế bên chữ ngôn là chữ cuồng (vọng). Phục tàng (che dấu) khiến người khác không biết. Vă lại, không có người hỏi, và là việc không quan trọng, nên chỉ cố giữ kín. Cuống tức là vọng ngữ (nói láo). Vốn có phiền năo, nhưng khi người khác hỏi :"V́ sao anh sanh phiền năo ?"

Đáp :"Không ! Tôi đâu có sanh phiền năo ! Ai sanh phiền năo vậy ?"

Họ hỏi lại người đó. Tự họ bị vô minh phiền năo đốt cháy rực cả trời đất, mà khi chư vị hỏi th́ họ nói láo và bảo rằng không có phiền năo. V́ vậy tôi không muốn giảng cho chư vị nghe v́ sợ đến lúc đó th́ sẽ nói láo. Nếu tôi không giảng, lại không biết phương pháp, th́ làm sao chư vị tránh khỏi lỗi nói láo ! Đầu tiên th́ che giấu, đến cuối cùng th́ lại nói láo.

Thứ sáu là siểm mị (nịnh bợ). Sao gọi là nịnh bợ ? Người thường hay nịnh bợ tức là trong tâm rơ ràng không thích người kia, nhưng khi gặp họ th́ liền nói lời khen tán tụng, ngọt ngào. Hiện tại gọi là "vuốt đuôi ngựa". Giống như kẻ nghèo hèn, thấy người giàu có liền chào đón :"A ! Trương tiên sinh, xin hỏi thăm Ngài đi đâu vậy ?"

Đó là lời nịnh hót tổng quát.

Thứ bảy là kiêu ngạo. "Chư vị giàu sang th́ mặc chư vị. Việc của tôi th́ tôi lo. Việc của chư vị th́ chư vị tự lo. Trên thế giới này, tôi là đệ nhất. Thân thể tôi lớn tựa như núi Tu Di. Tại sao tôi phải khách sáo với chư vị ? "

Ở trên là nịnh hót, c̣n ở đây th́ không nịnh hót người khác. "Chư vị hăy lo vuốt đuôi kẻ khác đi, c̣n tôi th́ xem thường họ."

Do đó biến thành kiêu ngạo.

Thứ tám là hại, nghĩa là tổn hại. "Chư vị có tiền có thế lực. Một nhát đao của tôi là chư vị ĺa đời, xem coi chư vị dùng tiền và thế lực như thế nào?"

Đó là hăm hại người khác, mà không phải kiêu căng ngạo mạn, chỉ là nghĩ tưởng, tức là trong tâm muốn hăm hại người khác.

Thứ chín là đố kỵ. "V́ đời trước tôi không bố thí nên không có. Chư vị ai ai cũng có hết, nhưng không biết ăn cắp từ chỗ nào ?"

Như tôi đă giảng ở trên là rất nhiều người có tâm đố kỵ. Chư vị đố kỵ, ganh ghét họ. Họ đố kỵ ganh ghét chư vị. Nhưng chư vị không biết rằng đố kỵ phát sanh từ đâu. V́ không biết nó phát sanh từ đâu nên tôi nói là chư vị ăn cắp nó. V́ không biết nó từ đâu đến nên giống như là ăn cắp vậy. Chư vị không biết nó, nên nay tôi sẽ chỉ cho.

Thứ mười là san tham (keo kiệt). Gọi keo kiệt là v́ xả bỏ không được, không dám bố thí. Có một đồng xu nào th́ giữ ǵn nắm chặt trong bàn tay. Bóp chặt măi cho đến khi nó biến thành nước luôn. "A ! Tiền tôi mất rồi ! Tôi không thể dùng được nữa, v́ nó biến thành nước rồi !"

Trên đây là mười tiểu phiền năo.

Hai trung phiền năo là ǵ ? Đó là vô tàm và vô úy, nghĩa là không biết tàm úy (hổ thẹn). Chữ tàm có chữ tâm một bên, và kế bên là chữ trảm tức trảm đầu (chém đầu). Chém đoạn phiền năo, cũng là nói về chữ sát (giết). Đối với phiền năo này, chính tâm ḿnh sai quấy mà không nhận là ḿnh sai. Như bảo rằng chư vị đă giết người th́ chính là phạm pháp. Tự chư vị biết ḿnh đang giết hại chúng sanh, mà lại không biết sám hối sửa đổi.

Chữ tàm nghĩa là chư vị lư ra phải chém đứt phiền năo, mà lại không làm, nên gọi là vô tàm. Tâm giết hại c̣n nằm ẩn bên trong, không biết tự sửa đổi, nên gọi là vô tàm (không hổ thẹn). Sao gọi là hổ thẹn ? Nghĩa là không thể đối mặt nh́n người khác. Chư vị làm việc không quang minh chính đại, nên không dám nh́n mặt người khác. Nhưng chư vị lại không nhận rơ việc đó là không đúng. "Có quan hệ ǵ đâu ?"

Tạo việc sai trái rồi tự ḿnh làm luật sư biện hộ cho ḿnh, bảo rằng tôi có lư do này lư do nọ, chân thật đúng đắn. Đó là vô tàm (không hổ thẹn).

Quư. Sao gọi là quư ? Bên phải của chữ quư là chữ quỷ, tức quỷ thần; nghĩa là tâm chư vị không quang minh chánh đại. V́ không quang minh mà chư vị cho là đúng, nên gọi là quư. Quư tức là quư cứu, tựa như tâm chư vị có thiếu sót chi, không thể đối mặt với người, nhưng khi ấy lại không dám nói là ḿnh không thể đối mặt với người, nói :"Tôi có làm ǵ sai trái đâu !"

Vô tàm, vô quư (không hổ thẹn), là hai phiền năo của trung phiền năo.

Lại có tám loại tùy phiền năo lớn. Thứ nhất là bất tín. Chư vị không nghĩ rằng bất tín không phải là phiền năo à ! Chư vị có giảng ǵ đi nữa, họ cũng không tin là không đúng. Càng nói càng không tin. Tổng quát, dầu chư vị có nói ǵ đi nữa, họ cũng vẫn không tin. Chư vị bảo rằng trên trời mưa hoa rơi khắp đất, dưới đất hoa sen vàng phóng vụt lên. Dầu đang nghe nhưng họ vẫn giả bộ như không nghe. Chư vị giảng giải có lư lẽ, họ không tin. Chư vị giảng giải không có lư lẽ, họ lại càng không nghe thêm. Chư vị giảng một việc nhiều lần, nhưng họ không tin. Chư vị giảng việc đó ít lần, họ cũng không tin. Giảng nhiều họ không tin. Không giảng họ cũng không tin. Giảng về lư không, họ không tin. Giảng về lư chẳng có không, họ cũng không tin. Nói chung, tông chỉ, đường hướng của họ là không tin ǵ hết.

Tùy phiền năo lớn thứ hai là giăi đăi, tức là làm biếng. Đâu có ai nghĩ rằng làm biếng là tùy phiền năo lớn. Sao gọi là giăi đăi ? Giăi đăi, làm biếng nghĩa là không chuyên cần học Phật pháp. Cho dầu làm việc ǵ cũng giăi đăi. Thậm chí ăn cơm cũng làm biếng nữa. Ăn một muỗng rồi đợi đến năm phút sau mới ăn muỗng thứ hai. Khi ngủ cũng làm biếng, mộng mị. Khi nào họ mới không làm biếng ? Chỉ khi đánh cờ bạc th́ họ mới có tinh thần.

Có người, đối với Phật pháp rất giăi đăi, tu hành cũng rất giăi đăi. Không những tự làm biếng mà lại ảnh hưởng đến những người khác nữa. Không những ảnh hưởng xấu mà họ cũng lại không muốn người khác làm việc nữa. Như tôi có một đệ tử, ngủ măi cho đến tám giờ sáng. Tại sao ? V́ người ngủ bên cạnh pḥng thức dậy sớm, nên hắn chạy qua pḥng đó ngủ tiếp. Đó là một loại làm biếng. Loại làm biếng này phát sanh ra một loại phiền năo. Hắn biết chư vị đều tu hành, nên nói :"Tôi không muốn tu hành. Tôi muốn chư vị không tu hành như tôi. Chư vị nỗ lực hai ngày, nhưng đến ngày thứ ba nên làm biếng đi !"

Hắn đă làm biếng rồi mà lại gây ảnh hưởng đến những người khác nữa.

Tùy phiền năo lớn thứ ba là phóng dật. Sao gọi là phóng dật ? Phóng tức là phóng khai (mở toang). Dật tức là tản mác. Phóng dật tản mác cũng là không thủ quy củ, luật lệ. Không những không giữ quy củ mà lại c̣n hy vọng người người đều không giữ quy luật. Chính họ thích uống rượu, cũng muốn mọi người đều đến biển rượu để uống. Họ thích việc ǵ liền rủ kéo người khác đi theo. Họ muốn nhảy đầm, liền kéo mọi người đi theo. Họ thích đi xem chiếu bóng, liền kéo mọi người mà họ quen biết đi xem. Họ thích xuống địa ngục, liền kéo mọi người xuống địa ngục. Họ thích làm ngạ quỷ, nói :"Làm ngạ quỷ hay lắm. Chư vị hăy mau đi theo tôi !", nên dẫn tất cả thân bằng quyến thuộc đi vào đường ngạ quỷ. Họ muốn loài loài vật, nói :" Tôi làm người hay làm chó cũng được, nhưng làm chó lại hay hơn. Chư vị thấy mấy con chó, chúng đâu cần phải làm việc, mà lại có người hằng ngày cấp cho đồ ăn, được người che chở bảo hộ. Vậy có vui lắm không !"

Không những muốn làm chó mà lại khiến thân bằng quyến thuộc nhập vào ḍng chó nữa.

Thứ tư là hôn trầm. Mọi người phải nên tránh đi. Nghe giảng kinh, ngồi tọa thiền, họ đều nhập định cả, nhưng kỳ thực là hôn trầm, nói :"Tôi nghe giảng kinh rất rơ ràng. Đầu tôi chỉ nghiêng xuống, muốn làm bạn với đôi chân thôi".

Đó là hôn trầm. Hôn trầm cũng là khi chư vị làm bất cứ việc ǵ mà tinh thần không thể khởi lên được, nên muốn ngủ. Nói rằng ngủ, nhưng không giống ngủ. Bảo rằng không ngủ, lại không tỉnh táo. Nghe giảng "Như thị ngă văn (tôi nghe như vầy)", nói :"Tôi đâu có nghe ǵ đâu !".

Đó gọi là hôn trầm.

Thứ năm là trạo cử. Trạo nghĩa là nghiêng qua một bên. Cử là khởi cử dậy. Như đang nghe kinh, đầu chư vị lại động đậy. Đây không phải như ngài A Nan, v́ muốn xem hào quang của Phật Thích Ca, nên nghiêng đầu qua phải trái để xem. Nếu tự ḿnh động đậy cũng không biết ai bảo ḿnh động đậy, th́ đó gọi là trạo cử. Nếu tâm luôn bị phiền năo th́ phát sanh trạo cử. Một khi phiền năo phát sanh, th́ tâm không an, không biết chi là hay là dở, nghe giảng kinh mà không để ư đến, ngồi thiền mà cảm giác như thân đang ngồi trên bàn châm, thống khổ, đau nhức. Tâm bất an lạc cũng gọi là trạo cử. Chư vị hăy xem, nếu tôi không giảng th́ chư vị không biết những tật xấu này, nhưng nó chính là phiền năo lớn trong tám thứ tùy phiền năo. Chư vị hăy nói xem trạo cử là ǵ ? Chư vị bảo trạo không phải là trạo sao? Cử không phải là cử sao ? Nếu chư vị trạo mà không trạo, đó là cử. Không cử, chính là trạo.

Thứ sáu là thất niệm. Thất nghĩa là mất. Thất niệm tức là quên mất chánh niệm. Hoặc giả chư vị nói rằng thất niệm chính là không c̣n vọng tưởng, vậy rất tốt. Tại sao có phiền năo ? Chỉ v́ quên mất chánh niệm. Tựa như chư vị muốn niệm Phật, nhưng khi niệm đến câu thứ ba "Nam mô A Di Đà Phật", th́ tuy niệm mà quên mất chánh niệm. Chư vị muốn tụng chú Lăng Nghiêm, niệm câu "Diệu trạm tổng tŕ bất động Tôn, thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu ... A ! Lại đến câu ǵ ?"

Giống như tụng kinh, niệm chú, tụng niệm đến lúc mọi người đều dừng lại hết, không biết niệm đến chỗ nào. Đây không phải hiển thị là chư vị nhập định, như vậy là ǵ ? Đó là quên mất chánh niệm. Niệm kinh, niệm chú, dần dần quên mất chánh niệm, lại không phải là chư vị đều không niệm, mà niệm không ra tiếng, mọi người đều nhập vào tam muội (định), không âm thanh. Đấy là chư vị quên mất chánh niệm.

Thứ sáu là không có chánh tri kiến (bất chánh tri). Không có chánh tri tức là tà tri tà kiến. Không có chánh tri chánh kiến, việc đúng bảo là sai, việc sai bảo là đúng, trắng bảo là đen, đen bảo là trắng, việc tốt bảo là hư hoại, việc hư hoại bảo là việc tốt. Như tôi có vài đệ tử thường nói :"Ăn nhiều là hành khổ hạnh".

Thế nên, họ ăn nhiều thục mạng, mà lại bảo đó là hành khổ hạnh. Họ giống như những người mà tôi đă giảng ở bên trên. Họ bảo :" Tôi không màng, không quản chư vị. Khổ hạnh của chư vị là khổ hạnh. Muốn làm ǵ th́ cứ làm".

Hôm nay tôi nói cho chư vị biết đó đều là tà tri tà kiến.

Thứ tám là tán loạn. Tán loạn tức là không có định lực, cũng là lo ra, để tâm chạy ra ngoài, như dùng kiếng để rọi người. Chiếu kiếng bên phải bên trái, soi này soi nọ, chiếu người này người nọ, mà không tự chiếu chính ḿnh. Đó là không có định lực, nên gọi là tán loạn. Thiền định trị tâm tán loạn.

Bên trên đă giảng hai mươi loại tùy phiền năo, lớn có tám loại, trung có hai loại, nhỏ có mười loại, cộng thành hai mươi.

Đối với sáu phiền năo căn bản, tôi tin rằng chư vị rất quen thuộc, có thể nói chúng là những người bạn rất thân thiết với chư vị. Thứ nhất là tham. Tôi tham lam, chư vị tham lam. Tham tuy là giống nhau, nhưng cũng bảo là khác nhau. Tại sao khác nhau ? Chư vị tham nhiều, c̣n tôi tham ít. Chư vị tham ít, c̣n tôi th́ tham nhiều. Mỗi người đều có cái tham của chính ḿnh. Tham lam hại chúng ta rất nhiều. Tại sao ? Chư vị vẫn chưa biết rơ sự tổn hại của tham lam. Tại sao cho đến hôm nay, chư vị vẫn chưa thành Phật ? Có phải v́ c̣n ngu si, không có đủ trí huệ phải không ? Tham lam không bao giờ biết đủ. Cái ǵ cũng không sợ nhiều như tiền bạc, vật chất, h́nh trạng, phiền năo, càng có chừng nào th́ càng tốt chừng đó. Như cách dụng binh của Hàn Tín đời Hán, ông bảo rằng càng dùng binh lính nhiều chừng nào th́ tốt chừng đó. Đó là biểu hiện cho sự tham lam.

Thứ hai là sân hận, giận tức. Sân hận tức là vô minh, cũng là sự giận nổ lên như pháo bông. Pháo bông c̣n nhỏ lắm. Hiện tại có bom nguyên tử và bom khinh khí đều đă được phát minh ra, v́ do oai lực của tâm vô minh, sân hận. Sân hận cũng là loại nóng giận, tức tối.

Thứ ba là si mê. Tại sao chúng ta thường làm việc sai lầm ? Chỉ v́ ngu si mà khiến cho chúng ta làm những việc không đáng làm, học những ǵ không đáng học. Ví như ngày nay có một số thanh niên thường thích hút thuốc phiện, vốn không nên hút mà lại hút. Càng hút càng ghiền, không biết ǵ hết, lại hút thêm. Tại sao ? V́ do ngu si. Họ nghĩ rằng hút thuốc phiện th́ nhất định sẽ phát hiện ra việc kỳ lạ, như Kha Luân Bố phát hiện ra Tân thế giới. Chư vị hăy nói xem, đó có ngu lắm không ? Ngu si khiến cho họ điên đảo.

Thứ tư là ngă mạn hay kiêu mạn, là một loại phiền năo.

Thứ năm là nghi hoặc, tức sanh tâm không tin. Việc ǵ cũng hoài nghi hết. Nghi thần nghi quỷ, nghi đúng, nghi sai, nghi ḿnh nghi người. Đối với chính ḿnh cũng hoài nghi. Đối với người khác cũng hoài nghi. Đạo lư chân thật chính xâc hay không chân thật chính, đều hoài nghi hết.

Thứ sáu là tà kiến tức tri kiến không chánh đáng, chỉ giữ tà tri tà kiến.

Hôm nay tôi giảng về phiền năo. Tôi hy vọng mọi người đều dứt tận, đừng nhận chúng làm thân thuộc hay bạn hữu. Phải nên dẹp trừ chúng, Chớ để chúng tạo thêm nghiệp tội. Chư vị giúp đỡ phiền năo, phiền năo giúp chư vị tạo nghiệp tội. Chư vị chuốc lấy nghiệp tội vào thân mà phiền năo "ta bà ha" không quản chư vị. Chúng không quản là chư vị thọ nghiệp tội hay không thọ nghiệp tội, thọ quả báo hay không thọ quả báo. Khi thọ quả báo, phiền năo chạy mất. Khi chư vị đọa xuống địa ngục, phiền năo cũng không đi theo.

"Tụ tập chiêu cảm tự bất đồng, (tụ hội chiêu cảm tự không đồng)".

Căn bản phiền năo có sáu loại. Tùy phiền năo có hai mươi loại. Chúng thuộc về Tập Đế của Tứ Đế. Tập đế tức là tập hợp, chiêu cảm phiền năo. Phiền năo khiến chư vị không thể đạt đến trí huệ chân chánh. Nếu muốn đắc được trí huệ chân chánh, trước tiên chư vị phải hàng phục được phiền năo. Trước khi hàng phục phiền năo, chư vị phải nhận rơ chúng là phiền năo, nếu không th́ chư vị hàng phục cái ǵ ? Ví như muốn giết kẻ cướp, th́ phải biết hang ổ của chúng ở đâu. Phải nhận ra mặt mũi của chúng. Nếu không thể nhận diện được th́ th́ khi đối diện với chúng, chư vị lại kết bạn với chúng. Tại sao ? V́ chư vị không nhận rơ là chúng ăn cắp tài vật, châu báu của ḿnh. Phiền năo cũng như thế. Chư vị phải nhận ra chúng th́ sau này mới không bị chúng chuyển. Phải nên hàng phục chúng.

Diệt đế. Diệt đế nghĩa là như như bất động.

"Tánh diệt khả chứng cứu cánh lạc, (tánh diệt khả chứng tột an lạc)".

Nếu chứng được diệt đế tức là chứng đạt chân đế an lạc, gọi là bốn đức của niết bàn, nghĩa là thường lạc ngă tịnh. Đạt đến thường lạc ngă tịnh th́ cũng là chứng được quả diệt đế. Nhưng chứng đến quả vị này chỉ là quả vị tiểu thừa của A La Hán, mới đoạn được phần đoạn sanh tử thôi, chưa đoạn hết biến dịch sanh tử, và chỉ chứng được một phần chân lư, mà không phải là diệu quả rốt ráo đại thừa.

Phần đoạn sanh tử là ǵ ? Phần tức là tôi có một phần, chư vị có một phần, mỗi người đều có một phần. Đoạn tức là tôi và chư vị, mỗi người có riêng một đoạn thân, như thân cao một thước sáu, thước bảy, thước tám v.v...Thế nên, thân của mỗi người cao thấp khác nhau. Từ sanh đến chết gọi là đoạn lạc; từ hôm nay đến ngày mai cũng gọi là đoạn lạc (từng đoạn). Tất cả phàm phu đều có đầy đủ phần đoạn sanh tử này. Người tiểu thừa đă cắt đứt phần đoạn sanh tử nên chứng quả an lạc tịch diệt. Khi chứng đắc quả tịch diệt th́ phá được kiến hoặc và tư hoặc. Sao gọi là kiến ? Do chư vị đối trước cảnh giới mà sanh tâm tham lam luyến ái, bị cảnh giới làm mê hoặc. Sao gọi là tư hoặc ? Không hiểu đạo lư nên khởi tâm phân biệt. Đối với đạo lư mà không minh bạch nên sanh tâm phân biệt. Càng phân biệt chừng nào th́ càng đi xa chừng đó. Càng đi xa chừng nào th́ phân biệt thêm nhiều chừng đó, nên gọi là đi lạc đường.

Chứng đắc quả an lạc tịch diệt th́ cắt đoạn được kiến hoặc và tư hoặc, nhưng chưa đoạn hết vô minh, mà chỉ mới hàng phục được thôi. Không những chư A La Hán chưa đoạn được vô minh mà cho đến bồ tát Đẳng Giác vẫn c̣n một phần sanh tướng vô minh chưa phá hẳn. Thế nên chứng đạt quả vị vô thượng tịch diệt, mà vô minh vẫn c̣n. Tuy cắt đứt phần đoạn sanh tử mà biến dịch sanh tử vẫn c̣n tồn tại.

Sao gọi là biến dịch sanh tử ? Biến dịch là tâm niệm sanh khởi của chúng ta. Niệm sau theo niệm trước. Niệm niệm không ngừng. Niệm niệm lưu chuyển. Một niệm sanh khởi tức một lần sanh. Một niệm diệt tức một lần chết. Đó gọi là biến dịch sanh tử. Biến dịch sanh tử này, niệm niệm không dừng, có phải gọi là sanh tử không ? V́ cảnh giới này chưa đạt đến thiền định chân chánh. Định chân chánh nghĩa là một niệm lự cũng không c̣n. Cảnh giới sơ thiền, tim không c̣n đập. Cảnh giới nhị thiền không c̣n hô hấp. Cảnh giới tam thiền, niệm lự đ́nh chỉ. Cảnh giới tứ thiền, dứt niệm, không c̣n niệm lự, nhưng cảnh giới tứ thiền này cũng chưa phải là chứng quả, bất quá chỉ là quá tŕnh tu đạo thôi, và không phải là tầng bậc cao siêu. Phổ thông, người tu đạo đa số có thể đạt đến cảnh giới này.

Đạo đế. Diệt tức là phải chứng đắc. Đạo là phải nên tu hành. Bàn về vấn đề đạo, đầu tiên chúng ta hăy giải thích chữ đạo trước. Chữ đạo dùng chữ tẩu (đi), tức là chư vị phải đi, phải hành. Nói đến đạo là phải tu hành. Nếu không tu hành th́ có lợi ích chi. Phải bước đi mà tu hành. Thế nên, đạo là hành. Không hành th́ không phải là đạo. Nếu không tu hành th́ chư vị là chư vị, đạo là đạo, không thể hợp nhất. Chư vị phải y pháp mà tu hành, đạo chính là chư vị, chư vị cũng chính là đạo. đạo cùng chư vị vốn không thể tách rời. Chư vị muốn tu đạo không ? Phải nên thật hành, tức là y chiếu theo phương pháp mà thật hành. Cho đến đức hạnh, đức là phải làm, không làm th́ sao có đức ? Không thể từ sáng đến chiều chỉ nói "tạo đức, tạo đức, tạo đức", trên môi mép mà thật tế lại không làm. Miệng nói tạo đức mà thân lại tạo nghiệp, th́ không có đức ǵ hết. V́ thế, bảo "Treo đầu heo, bán thịt chó".

Chư vị bảo tạo đức th́ phải nên làm. Có muốn tu đạo không ? Nếu muốn th́ phải y theo phương pháp mà tu hành.

Ở trên chữ "tẩu" lại có chữ "thủ", cộng thành chữ đạo. Thủ nghĩa là đầu. Tu hành là việc quan trọng nhất trên thế gian. Chư vị muốn chấm dứt sanh tử không ? Nếu muốn th́ phải tu đạo. Lại nữa, tuy không muốn cắt đứt sanh tử, mà lại nói rằng không thèm tu hành. Cắt đứt sanh tử rồi th́ không c̣n sợ sanh tử nữa. Người sống đều sợ chết. Cắt đứt sanh tử là không muốn có sanh tử, lại không sợ sanh tử. Nếu muốn chấm dứt sanh tử th́ đầu tiên phải tu hành. Thế nên có chữ "thủ" ở bên trên chữ "tẩu". Nếu không tu hành th́ không thể chấm dứt sanh tử được.

Đối với chữ "thủ (đầu)", chúng ta hăy phân tích thêm. Trên chữ đầu có hai điểm, nhưng nay tạm để qua một bên, không giảng ngay, mà chỉ giảng về chữ "tự". Tự tức là tự kỷ, nghĩa là phải tự chính ḿnh tu đạo, không thể bảo người khác tu giùm ḿnh. Không thể chỉ nói tu hành mà cắt đứt được sanh tử. Chư vị phải thật sự tạo đức, tự tu, tự lo lắng những việc quan trọng của ḿnh. Trên chữ "tự" có một đường ngang, để dùng chi ? Mọi người trên thế gian đều chỉ có một lần sanh ra. Bắt đầu từ đâu ? Bắt đầu từ một. Có một th́ sau này mới có hai. Có hai rồi lại có ba, có bốn, có năm, cho đến vô số trăm ngàn, muôn vạn v.v..., đều từ một mà phát xuất ra. V́ vậy, một là vô số, vô số là một. Nếu không có một th́ không có vô số. Nếu không có vô số th́ không có một. Tôi giảng như vầy th́ cho dầu ai đi nữa cũng không có thể phản đối được. Tại sao ? V́ tôi biết rằng con số trong toán học bắt đầu bằng số một.

Một là vô số, vô số là nhiều. Hiện tại, chúng ta không phải một cũng không phải nhiều, không phải nhiều cũng không phải một. Tại sao biến đổi như thế ? Thật ra cũng không có biến đổi thành số một. Số một này cũng tượng trưng cho một ṿng tṛn, tiếng Anh là số không. Số không bao hàm xum la vạn tượng. Chân không và diệu hữu đều nằm trong số không. Số không này phát xuất từ đâu ? Nó là biến tướng của số một hay chữ nhất. Chữ nhất này vẽ cong thành một ṿng tṛn, uốn thẳng lại thành chữ nhất. Số không hay ṿng tṛn là bổn thể của chữ nhất, lại là bổn thể của tất cả vạn vật trên thế gian, cũng là tạng đại quang minh, tánh Như Lai tạng, và Phật tánh. Phật tánh cũng là chữ nhất và chữ o. Chữ o cũng đại biểu cho tất cả sanh sanh hóa hóa ở trên thế gian, tức chân không diệu hữu, diệu hữu và chân không. Chữ o này không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm cuối. Nếu phá chữ không này th́ nó liền biến thành chữ nhất (gạch ngang). Gạch ngang (chữ nhất) là ǵ ? Tức là vô minh. Có một gạch ngang tức là có một phần vô minh. Khi không có gạch ngang th́ đó là một ṿng tṛn. Khi ṿng tṛn đó không phá được th́ đó là tánh tạng Như Lai. Chữ nhất (gạch ngang) là bắt nguồn của sự vô minh, nên bảo rằng một là nhiều, nhiều là một. Một điểm phiền năo xuất sanh vô số phiền năo. Vô số phiền năo xuất sanh từ một điểm phiền năo. Tại sao chư vị lại tạo bao việc vụng dại ? Chỉ v́ một điểm vô minh. Tạo bao việc vụng dại tức là tạo bao nghiệp tội, mà phiền năo cũng từ đó phát sanh ra. V́ thế, chư vị nếu muốn tu đạo th́ phải uốn nắn chữ nhất (gạch ngang) thành chữ o, tức ṿng tṛn, phản bổn hoàn nguyên (xoay về cội gốc). Lúc đó, chư vị có thể xoay về tạng tánh Như Lai, đạt đến chân không diệu hữu.

Một chữ nhất có hai điểm. Hai điểm này là một âm và một dương. Kinh Dịch giảng một âm một dương chính là đạo. Thiếu âm thiếu dương gọi là bịnh. Thuần âm là quỷ. Thuần dương là thần, nên gọi thiếu âm, thiếu dương là bịnh.

Lại phân tích rơ hai điểm đó. Từ vô minh phát sanh ra kiến hoặc và tư hoặc, nên gọi hai điểm đó là kiến hoặc và tư hoặc. Có kiến hoặc và tư hoặc rồi th́ phát sanh ra vô lượng vô số hoặc. Bao phiền năo đều từ chữ nhất này khởi lên. Nếu muốn xoay về cội gốc th́ phải uốn nắn chữ nhất này thành chữ o. Làm thế nào ? Không khó, chư vị chỉ việc dụng công tu hành hằng ngày, tham thiền đả tọa, th́ mới uốn nắn chữ nhất thành chữ o, cũng biến thành tánh tạng đại quang minh. Chư vị bảo rằng không thể tin tưởng được những cảnh giới đó, chỉ v́ tâm c̣n ám muội. Chư vị phải nên tin tưởng, th́ mới hoàn phục được tánh tạng đại quang minh đó. V́ không tin pháp này nên mỗi ngày từ sáng đến tối không thể xa rời phiền năo được. Vô minh phiền năo nếu không thể xa rời, th́ chư vị sẽ biến thành lóng tre đen, (là thuật ngữ của thiền tông). Một cây tre có nhiều lóng tre đen. Chư vị phải tin tưởng pháp này th́ mới khôi phục lại trí huệ vốn có sẵn, xoay về lại cội gốc, đạt đến tánh tạng đại quang minh, cũng là đại viên cảnh trí, b́nh đẳng tánh trí, diệu quán sắc trí, thành sở hữu trí.

Tôi chỉ giảng một ít điểm trong muôn phần của chữ đạo. Nếu giảng tường tận vi tế th́ sợ mất rất nhiều thời gian, v́ chữ "đạo" này rất vi diệu, nên giảng hoài giảng măi vẫn không hết. Đại sư Trí Giả giảng chữ "Diệu" trong kinh Pháp Hoa cả chín tuần. Giảng về chữ đạo, nếu nói tường tận rơ ràng th́ không phải chỉ là chín mươi ngày mà cho đến chín mươi năm sợ vẫn chưa hết. Đời tôi ngắn ngủi nên chỉ giảng một vài điểm thôi.

Lại giảng thêm về chữ "đạo" này chút ít. Chúng ta vừa bàn ở trên về một âm một dương. Một âm một dương là chữ "nhân (người)". Tức bảo rằng đạo không phải ở trên trời hay ở dưới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, mà là nơi con người. Mỗi người đều có thể tu đạo, không phải từ bên ngoài vào. Ai ai cũng có thể thành đạo được hết. Tu thành đạo này tức là thành Phật. Hiện tại chư vị chưa tu thành đạo, vậy đạo này có mất không ? Không có mất. Trong ḿnh ai ai cũng có đầy đủ đạo này hết.

Hai điểm chính là từ trên trời, có thể nói là mặt trời và mặt trăng. Một điểm là mặt trời; một điểm là mặt trăng.





Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 6 of 8: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 3:55am | Đă lưu IP Trích dẫn ngocnguyet

"Thị đạo ưng tu ngộ pháp không, (là đạo nên tu ngộ pháp không)".

Chư vị phải dùng mắt trí huệ để tu đạo. Người ngu si không thể tu đạo này. Có trí huệ th́ mới tu được đạo này. Xoay về cội gốc tức là uốn chữ nhất (gạch ngang), thành chữ o (ṿng tṛn). Chữ o này chính là tạng tánh Như Lai, là tạng đại quang minh, là Phật tánh của chúng ta. Nếu có thể khôi phục lại Phật tánh tức là hiện đời thành Phật, không cần đợi trải qua ba a tăng kỳ kiếp mà tu phước huệ, trăm kiếp tu tướng hảo. Không cần đợi thời gian lâu xa như thế, mà tức khắc liền thành Phật. V́ sao chư vị vẫn chưa thành Phật ? V́ chư vị chưa biết "đạo" này, chưa tu đạo này, và không có ai dạy cho ḿnh đạo này. Do đó, cho đến hôm nay, chư vị vẫn sanh rồi chết, chết rồi sanh, trong sáu cơi luân hồi, bị lưu chuyển tới chuyển lui. Chư vị chạy măi trong sáu đường luân hồi th́ chữ o (ṿng tṛn) liền biến mất. Lưu chuyển tới, lưu chuyển lui trong sáu đường luân hồi, đột nhiên sanh lên trời, đột nhiên sanh xuống đất, đột nhiên vào địa ngục, đột nhiên làm thú vật, chợt tại thiên đường, chợt xuống địa ngục, chợt vào A Tu La, chợt làm người. Bị lưu chuyển như thế, không thể thoát ra khỏi ṿng luân hồi. Nếu thoát khỏi ṿng luân hồi th́ phá được chữ nhất này, xoay về cội gốc, đạt đến tạng quang minh Như Lai, chính là quê hương nhà cửa, đất đai của ḿnh. Ai ai cũng tu đạo được. Có tu đạo th́ mới ngộ nhân không pháp không, nhân pháp đều không, không c̣n chấp trước, nên bảo rằng khổ tập diệt đạo đều không.

"Tam chuyển tứ đế pháp luân vận, (ba lần chuyển xe pháp tứ đế)".

Ba lần chuyển bánh xe pháp tứ đế, bên trên tôi đă giảng rơ rồi. Chuyển vận bánh luân tức là xoay qua chuyển lại pháp môn tứ đế.

"Thất giác bát chánh ư niệm cần, (bảy phần giác, tám chánh đạo, ư niệm cần tu)".

Bảy giác tức là bảy phần giác chi, cũng gọi là bảy phần bồ đề. Tám chánh tức là tám chánh đạo. Bao trùm hết bảy giác chi, tám chánh đạo, năm căn, năm lực, bốn như ư túc, bốn chánh cần, hợp lại thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

Bảy phần bồ đề là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, niệm, định giác phần. Tu hành y chiếu theo bảy phương pháp. Sao gọi là trạch pháp giác phần ? Trạch tức là tuyển trạch. Pháp tức là phương pháp. Giác là minh bạch, hiểu rơ, cũng là giác ngộ. Đối với pháp tu hành, chư vị phải nên chọn lựa, tuyển trạch, tức là phải có trạch pháp nhăn (con mắt chọn lựa pháp), th́ chư vị mới biết ǵ là pháp, ǵ là không phải pháp, ǵ là pháp thiện, ǵ là pháp ác, biết pháp trắng pháp đen, phải có sức chọn lựa tuyển trạch như thế. Không nên lấy đúng làm sai, lấy đen làm trắng, lấy lành làm ác. Nếu làm như thế th́ không phải là trạch pháp giác phần. Sau khi chọn lựa, tuyển trạch xong, th́ phải y theo pháp mà tu hành. Y pháp tu hành tức phải tinh tấn, nên giác phần thứ hai là tinh tấn. Chư vị phải chánh tinh tấn, chớ nên tà tinh tấn. Chánh tinh tấn tức là hoặc ngồi thiền, tŕ chú, học giáo điển, tŕ giới luật, tu nhẫn nhục, tất cả pháp đó đều phải tinh tấn. Nếu không tinh tấn như hôm nay ngồi thiền, ngày mai không ngồi, hôm nay tŕ giới ngày mai không tŕ giới, hôm nay tu hạnh nhẫn nhục ngày mai lại không tu, đó không phải là tinh tấn giác phần. Có tinh tấn giác phần tức là ngày đêm sáng tối sáu thời đều hằng tinh tấn. Sáng ba thời, tối ba thời đều tinh tấn không nghỉ ngơi.

Sau khi tinh tấn được rồi th́ có thiền duyệt (vui trong thiền định). Thiền duyệt tức là hỷ giác phần. Ví như, khi ngồi thiền, công phu ngồi đến một giờ th́ tự cảm giác an lạc, tự tại, vừa ư vô cùng; hút thuốc á phiện chỉ vui thích trong chốc lát, c̣n khi ấy làm bất cứ việc ǵ chư vị đều cảm giác an lạc vui thích hết cả. Đạt đến an lạc này, gọi là hỷ giác phần. Lại nữa, khi ngồi thiền, đạt đến cảnh giới khinh an th́ tâm rất là an lạc. Nhưng cảnh giới này có lúc th́ sanh khởi giống như trên, có lúc th́ dễ dàng sanh tẩu hỏa nhập ma. Tại sao tẩu hỏa nhập ma ? Khi sanh tâm chấp trước, tức truy cầu nắm giữ cảnh giới vừa thấy, th́ ma vương liền nhập vào tâm. Nếu chư vị không chấp trước, th́ ma vương không có cách nào để nhập vào. Chư vị nếu chấp vào cảnh giới nào th́ ma liền hiện ra cảnh giới đó. Làm thế nào để giải ? Lúc đó phải dùng trừ giác phần. Trừ tức là thẩm tra, dọ xét các ác giác quán. Phải tẩy trừ các ác giác quán, c̣n chánh giác quán th́ phải bảo tồn.

Khi chư vị trừ bỏ chấp trước th́ là xả giác phần. Xả này tức là xả bỏ vọng tưởng chấp trước. Nếu không thể xả bỏ vọng tưởng chấp trước th́ không đắc được tam muội và đạt đến bảy phần bồ đề. Sau khi xả được vọng tưởng chấp trước th́ bảo tồn được niệm tinh tấn, mà đă bàn ở bên trên. Chớ để quên mất, niệm này đeo đuổi niệm kia (niệm huyền tại huyền), niệm niệm không quên, tu tinh tấn. Tu tinh tấn th́ sau này đắc được định giác phần, tức thuộc bảy bồ đề phần hay bảy giác phần.

Tám chánh đạo. Thứ nhất là chánh kiến. Kiến tức là ư kiến. Nơi ư niệm có một kiến (thấy). Kiến này phải nên chân chánh, nghĩa là kiến giải phải chánh xác. Nếu không có chánh kiến th́ dễ dàng lạc vào đường tà. Nếu kiến giải chân chánh th́ đi được trên đường thẳng. Tại sao gọi là chánh kiến, tà kiến ? Nếu bảo rằng phải nên học Phật pháp. Phật pháp là chân chánh, phải nên học. Đó là chánh kiến. Nếu như học đánh cờ bạc, chơi bời, làm biếng, hại người, đó gọi là tà kiến. V́ vậy chánh kiến rất quan trọng.

Nếu có chánh kiến rồi th́ có chánh tư duy. Có kiến giải rồi th́ phải có suy nghĩ; suy nghĩ việc này việc nọ là đúng hay không đúng. Học Phật pháp là một công việc tối thượng nhất trên thế gian. Không sai trái tức là chánh tư duy. Tà tư duy nghĩa là khi học Phật pháp cho rằng không có lợi ích chi. Họ nghĩ :"Trong thời đại khoa học, Phật pháp giảng đến giảng lui chỉ khuyên người làm việc thiện, làm người tốt thôi. Hiện nay ai là người tốt ? Không có ai là người tốt hết, chỉ toàn là người xấu không thôi. Tôi thấy ông A kia, chuyên tạo việc xấu, mà lại có tiền, có rượu để uống, cái ǵ cũng có."

Suy nghĩ rằng học Phật pháp không có ích chi như thế, tức là tà kiến, đi trên đường tà. Nếu có chánh tư duy th́ không lạc vào đường tà.

Có chánh tư duy th́ kế tiếp là có chánh ngữ. Chánh ngữ tức là lời nói nào cũng đều chính xác, không nói lời say sưa, cáu tiết, không dẫn người lạc vào đường tà. Nói lời chân chánh, chánh xác, khiến ai ai cũng đều vui thích lắng nghe, vui thích làm theo.

Có chánh ngữ rồi th́ có chánh nghiệp, tức tự t́m, hành nghề chân chánh. Ai ai cũng biết rơ nghề nghiệp chân chánh là ǵ, chớ nên làm những nghề nghiệp phạm pháp.

Thứ năm là chánh mạng. Có chánh nghiệp th́ sanh mạng chân chánh.

Thứ sáu là chánh tinh tấn. Tạo chánh nghiệp th́ phải nên tinh tấn. Chớ nên tinh tấn tạo những nghiệp bất chánh.

Thứ bảy là chánh niệm. Thứ tám là chánh định. Đó là tám chánh đạo.

Bốn như ư túc tức là dục như ư túc, tinh tấn như ư túc, niệm như ư túc, tư duy như ư túc. Bốn niệm xứ tức là thân, thọ, tâm, pháp. Quán thân bất tịnh. Quán thọ là khổ. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngă. Bốn chánh cần là điều lành chưa sanh khiến cho sanh khởi, điều lành đă sanh khiến cho tăng trưởng. Đó là giảng về phương diện điều lành. Những điều ác chưa khiến cho không sanh khởi. Những điều ác đă sanh khởi khiến cho chúng đoạn diệt. Đó là nói về phương diện điều ác.

Năm căn là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Năm căn này phát sinh ra năm lực. Tín có tín lực. Tấn có tấn lực. Niệm có niệm lực. Định có định lực. Huệ có huệ lực. Cộng năm căn năm lực lại thành mười. Bốn niệm xứ, bốn như ư túc, bảy phần bồ đề, tám chánh đạo cộng chung là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

"Nhất đản quán thông thành thánh quả, (một lần quán thông thành thánh quả)".

Chư vị tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, th́ một ngày nào đó sẽ đột nhiên quán thông, minh bạch, hiểu rơ. Lúc ấy, chư vị chứng được quả thánh.

"Thiên chân hữu dư năi hoá thành, (lệch chân hữu dư năi hóa thành)".

Chư vị chớ nghiêng trụ tại niết bàn hữu dư, thiên chân hữu dư niết bàn chính là hóa thành, nghĩa là thành này do biến hóa mà có, không phải là thật. Đạt đến thiên chân hữu dư niết bàn, tức là không phải niết bàn cứu cánh, nên phải c̣n tu thêm nữa.



"Vô trí diệc vô đắc, (không trí cũng không đắc)".



"Tạng giáo bồ tát sự lục độ

Viên tu diệu giác lư đốn minh

Vô trí phá chấp không chư tướng

Bất đắc phi chứng liễu pháp dung

Ư nhất mao đoan hiện bảo sát

Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân

Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín

Vị tất tri âm hữu cơ nhân

Dịch :

Tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ

Tṛn tu diệu giác lư rơ ràng

Vô trí phá chấp không các tướng

Không đắc không chứng rơ pháp dung

Nơi một đầu lông hiện bảo ṭa

Ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân

Lời nói ra người liền tin ngay

Nào hay tri âm có mấy ai".

Không trí cũng không đắc. Trí là trí huệ. Đắc là chứng đắc quả vị. Đạt đến cảnh giới đó, trí huệ cũng không cần, quả vị chứng đắc cũng không có, hy vọng điều ǵ cũng không có. Chúng ta học Phật pháp, đều muốn đạt được trí huệ; có trí huệ rồi th́ chứng đắc được quả vị Phật. Nay trí bát nhă cũng không có, muốn đắc được Phật quả cũng không thể đắc. Đấy là lạc vào không à ? Không phải vậy. Chẳng đạt được trí huệ, chẳng chứng đắc được tức là trí huệ không chấp trước. Không có chấp trước rằng ḿnh có chỗ chứng đắc.

"Tạng giáo Bồ Tát sự lục độ, (tạng giáo Bồ Tát hành sáu độ)".

Tạng giáo Bồ Tát tức là ba tạng kinh điển giáo huấn Bồ Tát. Pháp tu hành của Bồ Tát là pháp môn có trí huệ, có chứng đắc. Hành sáu pháp ba la mật tức có chấp trước. Chấp chúng sanh có thể độ được, tức là có trí huệ. Chấp trước Phật đạo có thể thành được, tức là có chứng đắc.

Sao gọi là làm sáu độ ? Sáu độ tức là hành bố thí th́ cứu độ tham lam. Phải hành bố thí th́ mới không c̣n tham lam. Một lần bố thí th́ là một lần dẹp bỏ tham lam. Tŕ giới th́ độ hủy phạm. Chư vị tŕ giới th́ tâm được thanh tịnh, như ánh sánh tinh khiết trong sạch của hạt minh châu. Tŕ giới th́ không có ô nhiễm. Ô nhiễm th́ dơ bẩn, không tinh khiết, không trong sạch. Không tŕ giới giống như tờ giấy trắng bị lấm mực đen, càng lấm chừng nào th́ càng đen chừng đó. Chư vị tŕ giới tức phải như tờ giấy, xưa nay vốn đă trắng sạch.

Nhẫn nhục độ sân hận. Chư vị tu nhẫn nhục th́ không có nóng giận. Nếu có nóng giận th́ không có nhẫn nhục. Chư vị tu nhẫn nhục th́ sân hận sẽ không c̣n.

Tinh tấn độ giải đăi, làm biếng. Phải nên tinh tấn hằng ngày, luôn luôn tinh tấn, dũng mănh tinh tấn. tinh tấn th́ không có giải đăi làm biếng.

Thiền định độ tán loạn. Ngồi thiền hồi lâu th́ có công phu tức là định trụ. Có định lực rồi th́ không có tán loạn.

Bát nhă độ ngu si. Bát nhă khiến dẹp trừ ngu si.

Đấy là sáu độ, cũng là sáu sự tướng có thể thấy, có h́nh tướng nên biểu hiện được. Ví như bố thí th́ không c̣n tham lam. A ! Vẫn c̣n chấp trước là nhờ bố thí mà không c̣n tham lam. V́ vậy, bảo rằng sáu độ tức là tạng giáo chư Bồ Tát phải nên tu.

"Viên tu diệu giác lư đốn minh, (tṛn tu diệu giác lư rơ ràng)".

Viên giáo Bồ Tát tu hành sáo độ. Viên giáo Bồ Tát tức là Diệu Giác Bồ Tát. Biệt giáo Bồ Tát cũng tu hành sáu độ. Sáu độ chỉ có lư, không có sự tướng, không có chấp trước. Gọi lư đốn minh (lư lẽ chỉ rơ minh bạch), nghĩa là tức khắc minh bạch, hiểu rơ đạo lư bố thí mà chưa từng bố thí, hành sáu độ mà chưa từng hành, vốn không chấp trước vào sự của sáu độ. Không chấp trước vào chi hết, nên gọi là không trí cũng không đắc.

Lư sáu độ có nhiều loại. Tu theo viên giáo không tạo sáu độ, làm bất cứ việc ǵ cũng không chấp trước, tạo việc ǵ ra cũng như không tạo. Tuy nhiên, chưa tạo việc th́ không thể nói đă tạo việc. Nói thí mà chưa thí. "Tôi chưa bố thí mà cũng như đă bố thí".

Không thể nói như thế được. Chỉ có bố thí rồi th́ mới nói rằng chưa có bố thí, mà không thể bảo rằng chưa bố thí cũng là đă bố thí.

"Vô trí phá chấp không chư tướng, (vô trí phá chấp không các tướng)".

Vô trí phá chấp tức là phá chấp trước về những phần c̣n lại của bát nhă. Không chư tướng tức là tất cả tướng đều là không. Mọi tướng đều là không, nên bảo rằng vô trí cũng vô đắc.

"Bất đắc phi chứng liễu pháp dung, (không đắc không chứng rơ pháp dung)".

Bất đắc tức là không có chi để chứng đắc, cũng là không chấp trước vào chứng đắc quả vị Phật. Trên, không Phật đạo có thể thành. Dưới, không chúng sanh có thể độ. Chẳng phải nói rằng không chúng sanh có thể độ, nhưng là độ mà chưa từng thấy có độ. Tuy diệt độ hết tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được diệt độ hết. Chẳng phải là không chúng sanh đă được độ, mà là không có chấp trước. Không nên chấp trước vào trí huệ và chứng đắc. Không này cũng chính là đại viên cảnh trí, mà trong đó không có chấp trước nào hết, nên liễu đạt pháp dung.

"Ư nhất mao đoan hiện bảo sát, (nơi một đầu lông hiện bảo ṭa)".

Chứng đắc được cảnh giới này rồi th́ chỉ vừa ngồi xuống liền xuất hiện một ṭa bảo vương. Trong tiểu hiển đại.

"Tọa vi trần biểu chuyển pháp luân, (ngồi trên hạt bụi chuyển pháp luân)".

Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân. Đó là đạo lư trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.

"Thử ngôn thuyết xuất tiên thành tín, (lời nói ra người liền tin tưởng)".

Lời này vừa nói ra th́ ít nhiều người đều tin tưởng.

"Vi tất tri âm hữu cơ nhân, (nào hay tri âm có mấy ai)".

Một vài người tin tưởng rồi th́ không biết có bao nhiêu người tri âm (nhớ tưởng), lại cũng không có bao nhiêu người hiểu rơ đạo lư.

Hư Vân lăo ḥa thượng bảo :

"Tẩu biến thiên nhai tầm tri kỷ

Vị tri nhược cá thị tri âm".

Dịch :

"Lên tận cơi trời t́m tri kỷ

Vẫn chưa biết được kẻ tri âm".

Thiên nhai tức là cơi trời. Tri kỷ tức là bạn thân của ḿnh. Lên tận cơi trời t́m tri kỷ, mà không biết ai là người tri âm. Sao gọi là tri âm ? Tức là hiểu được ư phát xuất từ lời nói của ḿnh. Không có tri âm, tức là ḿnh có nói ra lời ǵ nhưng không có ai hiểu hết. Có người hiểu lời ḿnh tức là có người tri âm.

Chư vị bảo :" Pháp sư ! Ngài giảng con đều hiểu cả. Ngài là người bạn tri âm của con. Ngài thuyết mà con không hiểu rơ, nên không phải là người tri âm. Ngài thuyết, con không hiểu và lại hiểu, con tri âm và lại không tri âm".

Tri âm và không tri âm xuất phát từ đâu ? Tôi thuyết một bài kệ, ai y chiếu theo đó mà tu hành th́ người đó là tri âm. Ai không y chiếu theo đó mà tu hành th́ không phải là tri âm. Tin lời tôi nói đạo lư tức là tri âm, c̣n ngược lại th́ không phải là tri âm. Đạo lư ǵ ? Nơi một cọng lông, ngồi xuống liền hiện bảo sát. Ngồi trên hạt bụi, chuyển đại pháp luân. Ngồi trên một cọng lông, xuất hiện các cơi Phật. Bảo vương sát tức là cơi nước mà Phật thường giáo hóa chúng sanh. Ngồi trên hạt bụi mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Cảnh giới này là trong tiểu mà hiển đại. Chư vị nếu hiểu rơ cảnh giới này th́ là tri âm. Chư vị không hiểu rơ nhưng lại muốn tu hành. Đợi khi chư vị ngồi trên hạt bụi mà chuyển pháp luân th́ liền hiểu rơ.



"Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y bát nhă ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, (lại không có chứng đắc. Bậc bồ đề tát đỏa, y theo bát nhă ba la mật đa nên tâm không quái ngại)".



"Vô tu vô chứng vô sở đắc

Hữu tướng hữu vi hữu tận thời

Bồ đề tát đỏa ngộ kỳ lư

Y cứ bát nhă bỉ ngạn tề

Tâm vô quái ngại nan báo chướng

Duy cụ chân không nê âm tư

Kỳ ngũ lai hiền cầu chư kỷ

Đầu thượng an đầu tối ngu si

Dịch :

Không tu không chứng không chỗ đắc

Có tướng có làm có thời hạn

Bồ đề tát đỏa ngộ lư này

Y cứ bát nhă đến bờ giác

Tâm không quái ngại, rời báo chướng

Chỉ có chân không tuyệt ngôn ngữ

Nhắc kẻ hiền sĩ cầu tri kỷ

Đầu đặt trên đầu thật ngu si".



Đoạn văn trên giảng về không trí huệ cũng không chứng đắc. Không trí tức là không có trí huệ của tạng giáo Bồ Tát hành lục độ. Không đắc tức là không chứng đắc niết bàn hữu dư của người nhị thừa.

Lại không có chỗ chứng đắc. Không chỗ chứng đắc là tông chỉ của bộ kinh này. Tông chỉ của tâm kinh bát nhă ba la mật đa là ǵ ? Tức là phá trừ chấp trước, khiến tâm chư vị không chấp trước vào chỗ chứng đắc. Tuy chứng mà không chứng, không chứng mà chứng. Sao gọi chứng mà không chứng ? Chư vị chứng đắc quả vị thánh mà không chấp trước ḿnh chứng quả, v́ thế mới có thể chứng đắc cứu cánh niết bàn chân chánh. Thế nên không chỗ chứng đắc là tông chỉ của kinh này.

Bồ đề tát đỏa y chiếu theo bát nhă ba la mật đa nên tâm không quái ngại. Bồ đề tát đỏa tức là Bồ Tát. Ngài y chiếu theo bát nhă ba la mật đa, tức là pháp trí huệ thâm sâu mà tu hành. Tu hành đắc được ǵ ? Đắc được tâm không quái ngại. Tâm chúng ta không thể đạt đến chỗ tự tại, v́ c̣n có chỗ quái ngại. Không c̣n quái ngại th́ đạt được tự tại. Không quái ngại này trừ được báo chướng, cũng là dùng không chỗ chứng đắc mà phá trừ ba chướng. V́ vậy phá trừ ba chướng là lực dụng của bài kinh này. Ba chướng tức là báo chướng, nghiệp chướng, phiền năo chướng. Nếu tâm c̣n có chỗ quái ngại th́ không thể phá trừ báo chướng. Không quái ngại nghĩa là ǵ ? Tức là đạt đến nhân không, pháp không. Chứng đến cảnh giới người và pháp đều là không.

"Vô tu vô chứng vô sở đắc, (không tu không chứng không chỗ chứng đắc)".

Không tu là ǵ ? Nghĩa là đă tu hành xong rồi. Không có chỗ chứng đắc, tại sao ? V́ đă chứng đắc, đă từng hành rồi, sau này không c̣n phải thọ nhận nữa. Những việc nên làm đă làm xong. Việc lớn đă hoàn thành nên gọi là không chứng đắc. Không tu không chứng đắc có phải là có chỗ chứng đắc không ? Cũng là không chỗ chứng đắc. Nếu c̣n một chỗ chứng đắc nào th́ vẫn c̣n chấp trước.

"Hữu tướng hữu vi hữu tận thời, (có tướng có làm có thời hạn)".

Nếu chư vị chấp trên h́nh tướng, hoặc chỉ nh́n trên pháp hữu vi, đều là thời gian có cùng tận, măi không thể vô tận. Chư vị phải nghĩ về cái vô tận, nên không tu, không chứng không chỗ đắc. Chư vị làm việc ǵ cũng không có chỗ chứng đắc, khi ấy chính là không có chỗ quái ngại.

"Bồ Đề Tát Đỏa ngộ kỳ lư, (Bồ Đề Tát Đỏa ngộ lư này)".

Sao gọi là Bồ Đề Tát Đỏa ? Người Tàu gọi là Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ Đề Tát Đỏa. Đó là phiên dịch từ chữ Phạ ra chữ Tàu. Bồ Đề tức là giác. Tát Đỏa tức là loài hữu t́nh. Sao gọi là giác hữu t́nh ? Tức là giác ngộ cho các loài hữu t́nh.

Sao gọi là hữu t́nh ? Những loài có khí huyết gọi là hũu t́nh. Loài hữu t́nh này không chỉ đơn giản nói về loài người thôi, mà bao quát chung cho tất cả loài vật có sanh mạng. Giác ngộ hữu t́nh tức là giác ngộ tất cả loài hữu t́nh, khiến cho mọi loài hữu t́nh đều được giác ngộ, tức chính họ tự giác ngộ. Ví như ḿnh đang tụng chú Lăng Nghiêm, cũng muốn người khác biết tụng chú Lăng Nghiêm như ḿnh. Không phải chỉ tự ḿnh biết tụng là đủ rồi, v́ đó biểu thị ḿnh và người không đồng, không nên làm như thế. Ḿnh có đạt được lợi ích ǵ th́ cũng đều vui vẻ khiến cho người khác đạt được lợi ích đồng như ḿnh. "Tôi nghe được vài điểm hay trong kinh. Tôi hiểu đạo lư làm người, lư lẽ học Phật pháp. Tôi cũng khuyên bạn bè, bà con quyến thuộc đến nghe kinh thuyết pháp. Mọi người đồng đạt lợi ích như nhau. "

Giác ngộ hữu t́nh lại c̣n một nghĩa là trong loài hữu t́nh có bậc giác ngộ. Bồ Tát xuất phát là từ đâu ? Cội gốc của Bồ Tát là từ chúng sanh hữu t́nh, nhưng đă giác ngộ. Ngài là bậc giác ngộ từ trong loài hữu t́nh. V́ Ngài từ nơi chúng sanh mà đạt đến giác ngộ, nên nay Ngài phải giác ngộ lại tất cả chúng sanh. Đó là ư nghĩa của chữ Bồ Tát. Bồ Tát lại có tạng giáo Bồ Tát, thông giáo Bồ Tát, biệt giáo Bồ Tát, viên giáo Bồ Tát. Đầy đủ bốn giáo tạng, thông, biệt, viên, chính là Bồ Tát. Tâm lượng chư vị nhỏ th́ là tạng giáo Bồ Tát. Tâm lượng lớn chút ít là thông giáo Bồ Tát. Tâm lượng lớn thêm chút nữa là biệt Bồ Tát. Chư bồ tát Phổ Hiền, Văn Thù, Địa Tạng, Quán Thế Âm đều là viên giáo Bồ Tát. So với viên giáo Bồ Tát, chư vị nếu hơi khác chút ít th́ là biệt giáo Bồ Tát.

Lại có thập địa Bồ Tát. Bồ Tát địa thứ nhất, Bồ Tát địa thứ hai, Bồ Tát địa thứ ba, cho đến Bồ Tát địa thứ mười. Có rất nhiều loại Bồ Tát, thiên sai vạn biệt, giống như chúng ta, mỗi người đều có bằng cấp khác nhau. Tổng quát, Bồ Tát giác ngộ là luôn thuyết đạo lư không chỗ chứng đắc. Các Ngài hiểu rơ tâm không bị bao loại pháp làm quái ngại (chướng ngại).

"Y cứ bát nhă bỉ ngạn tề, (y cứ bát nhă đến bờ giác)".

Tâm không có quái ngại th́ xa rời được báo chướng. Thân thể chúng ta chính là báo chướng. Tại sao chúng ta có thân thể ? V́ chúng ta có chỗ bị quái ngại. Không quái ngại th́ khổ và vui đều như nhau, cũng không khổ không vui. Sống chết như nhau. Không sống, cũng không chết. Sống tức là chết. Chết tức là sống. Sống chết đều không động. Khổ vui như một. Thuận nghịch như nhau. Nơi cảnh thuận cũng như thế. Nơi cảnh nghịch cũng như thế. Chết sống như nhau, thuận nghịch như nhau, khổ vui như nhau, nói chung là không có một việc chi mà có thể làm cho tâm lay động được. Sao tâm không lay động ? V́ không có quái ngại. Không có việc ǵ quái th́ cũng không có việc ǵ làm trở ngại. Có quái tức có ngại. Quái tức là mang đeo trên vai. Ngại là chướng ngại, có chỗ chướng ngại. Không quái ngại cũng là chấm dứt sống chết. V́ vậy bảo rằng sống chết tức niết bàn, phiền năo tức bồ đề. Khi người nhị thừa chưa hiểu rơ đạo lư này, chư vị phải bảo họ rằng phiền năo tức bồ đề, sống chết tức niết bàn, v́ họ đă quên mất nên bỏ chạy xa, bảo rằng xưa nay tôi chưa từng nghe pháp :"Phiền năo tức bồ đề, sanh tử tức niết bàn", tôi không tin đâu. Muốn giác ngộ sanh tử tức niết bàn, phiền năo tức bồ đề th́ chư vị phải nên xoay đầu trở lại. Tại sao chúng ta không hiểu bồ đề là ǵ ? V́ chúng ta bội giác hiệp trần (phản bội lại tánh giác và hiệp với trần lao). Phải nên bội trần mà hiệp giác.

Khi tâm không c̣n quái ngại th́ sanh tử, khổ vui, thuận nghịch, tất cả cảnh giới đều không thể động được tâm. Lúc ấy rời xa báo chướng.

Tại sao chúng ta không thể xa rời thân thể được ? Chỉ v́ cho thân này là quan trọng. Tại sao từ sáng đến tối, ai ai cũng chạy đuổi theo danh theo lợi ? Chỉ v́ lo cho thân ḿnh. T́m cách làm nô lệ tài giỏi, làm thân trâu ngựa cho thân này, không dám đối trị thân ḿnh. Nhưng thân này không làm khách đối với chư vị chút nào hết. Tại sao ? Như vua Ba Tư Nặc, khi c̣n trẻ th́ khí huyết dồi dào, nhưng đến lúc già tóc bạc mặt nhăn, chẳng bao lâu rồi chết. Chỉ v́ c̣n quái ngại. Nếu không c̣n quái ngại th́ chư vị không c̣n chấp trước vào nghiệp báo của thân. Có thân th́ có báo chướng, nếu chư vị không c̣n quái ngại th́ không c̣n chấp ngă. Vô ngă tức không có báo chướng. Thế nên, bảo rằng tâm không quái ngại tức xa rời báo chướng.

"Duy cụ chân không nê ngôn lự, (chỉ có chân không tuyệt ngôn ngữ)".

Tự tánh hay Phật tánh của chư vị đầy đủ thật tướng chân không. Chư vị phải tự đạt đến bản thể chân như của tự tánh mà không thể diễn tả bằng lời được. V́ vậy bảo rằng không nê ngôn lự nghĩa là không có ư tưởng nào mà có thể nghĩ tưởng được.

"Kư ngữ lai hiền cầu chư kỷ, (nhắc kỷ hiền sĩ cầu tri kỷ)".

Tôi có một lời muốn nhắc nhở những vị hiền nhân, những vị tu hành trong tương lai là nếu chư vị muốn tâm không quái ngại, đạt đến nơi không chứng đắc, th́ phải tự cầu tri kỷ, không nên hướng ngoại t́m cầu, hướng ngoại truy cầu. Đạo lư không tu không chứng, không chỗ chứng đắc tức là lư t́m cầu chư kỷ, nghĩa là phải hồi quang phản chiếu, xoay lại t́m cầu chính ḿnh.



"Đầu thượng an đầu tối ngu si, (đầu đạt trên đầu thật ngu si)".

Nếu chư vị hướng ngoại truy cầu đạo lư th́ thật là ngu si, cũng giống như lấy đầu đặt lên đầu. Có ngu si lắm không ? Thật rất ngu si. Đừng lấy đầu mà để lên đầu, phải nên hồi quang phản chiếu, xoay thân chuyển đầu trở lại. Nếu không chuyển được thân th́ không thể đạt đến đâu cả.

"Vô quái ngại cố. Vô hữu khủng bố. Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn, (tâm không quái ngại, không có khủng bố, xa rời điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh niết bàn)".

"Vô quái ngại danh chân phóng hạ

Tái vô khủng bố nghiệp chướng trừ

Viễn ly điên đảo sanh tướng phá

Vọng tưởng thô tế sa hoặc như

Tam chướng tiêu dung viên tam đức

Lục căn hỗ dụng chứng lục thông

Hội thử diệu tưởng thân thọ dụng

Trí giả dịch ngộ mê nan đồ

Dịch :

Không quái ngại chính là xả bỏ

Lại không sợ hăi nghiệp chướng trừ

Xa rời điên đảo phá sanh tướng

Vọng tưởng thô tế như cát bụi

Ba chướng tiêu dung tṛn ba đức

Sáu căn hỗ dụng chứng sáu thông

Biết rơ diệu tưởng thân thọ dụng

Người trí ngộ kẻ mê gặp hiểm".



Nếu tâm không quái ngại th́ không có khủng bố sợ hăi. Không sợ hăi th́ xa rời điên đảo mộng tưởng. Hết mọi mộng tưởng th́ điên đảo không c̣n. Nếu không sợ hăi th́ phá trừ được nghiệp chướng. Không c̣n mộng tưởng điên đảo th́ phá trừ được phiền năo chướng. Nhưng không quái ngại thật rất khó đạt đến. Có người bảo rằng tôi không lo nghĩ ǵ cho ḿnh cả mà chỉ lo nghĩ về cha mẹ thôi. Không sai ! Đó là đạo hiếu thảo. Tuy là đạo hiếu nhưng vẫn c̣n quái ngại. Hoặc giả bảo rằng tôi không nghĩ ǵ về ḿnh cả mà chỉ lo nghĩ cho vợ con thôi. Đó là tâm từ bi. Tuy là tâm từ bi, nhưng vẫn c̣n quái ngại. Hoặc giả nói là tôi có người bạn thân thiết lâu năm mà chưa gặp lại; tôi luôn nhớ nghĩ, t́m kiếm, nhưng không thể gặp được, đó là quái ngại. Nói chung, nếu chư vị xả bỏ không được tức là quái ngại. Xả bỏ được tức là không quái ngại. V́ vậy bảo rằng tên thật của không quái ngại là xả bỏ.

Giảng đến đây, tôi nhớ một ḥa thượng ở Tô Châu, Trung Quốc, tên là Đại Tu. Hoà thượng này thường tham thiền từ sáng đến tối. Sau này, việc ǵ Ngài cũng xả bỏ hết. Ngài viết câu phú đối liễn :

"Vô đại vô tiểu vô nội ngoại

Tự tu tự liễu tự an bài

Dịch :

Không lớn không nhỏ không trong ngoài

Tự tu tự rơ tự an bài".



Nghĩa là không có chi lớn nhỏ, trong ngoài. Ngài đă tự tu tự liễu ngộ và tự an bài tất cả sự t́nh. Ngài an bài sự việc ǵ ? Thật kỳ quái ! Nơi Ngài ở là một hang đá, chỉ đủ cho một người ngồi thiền, lại dùng tảng đá lớn làm cửa hang. Trên cửa đá đó làm một then chốt để đóng để mở. Sau đó, Ngài ngồi thiền trong hang động đó và đóng cửa đá lại để tu hành. Tu hành đạt đạo xong, Ngài nhập niết bàn. Chư vị thấy có đơn giản lắm không. Ngài chân thật xả bỏ mọi duyên. Đó là không quái ngại.

Chúng sanh chúng ta thật rất điên đảo, sanh khởi tướng vô minh mà không thể phá trừ được. Nếu không có điên đảo th́ chư vị không có thô hoặc, tế hoặc, trần sa hoặc, và làm việc ǵ cũng hợp với chân lư. Khi đó, ba chướng tức nghiệp chướng, báo chướng, phiền năo chướng đều tiêu trừ, và ba đức như đức giải thoát, đức bát nhă, đức pháp thân đều tṛn đầy, viên măn. Chư vị có thể dùng sáu căn hỗ dụng với nhau. Mỗi căn có diệu dụng của sáu căn. Khi đó chư vị có thể đắc được sáu thần thông. Sáu căn tức là mắt tai mũi lưỡi thân ư. Mỗi căn đều có diệu dụng của tất cả căn. Chứng được sáu thần thông tức là thiên nhăn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, túc mạng thông, tha tâm thông, lậu tận thông. Chư vị đă hiểu rơ đạo lư vi diệu này rồi th́ phải nên thọ dụng chân chánh. Nếu hiểu rơ th́ biết được đạo lư giác ngộ, c̣n ngược lại th́ sẽ bị lạc vào đường tà hiểm nạn trùng trùng.



"Cứu cánh niết bàn. Tam thế chư Phật, y bát nhă ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, (cứu cánh niết bàn, ba đời chư Phật y theo bát nhă ba la mật đa nên đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề)".



"Đức vô bất bị chư chướng trược

Cứu cánh viên tịch hiệu niết bàn

Quá khứ vị lai cập hiện tại

Tam thế chư Phật bổn đồng nguyên

Y thử bát nhă ba la mật

Chí chánh đẳng giác vô thượng tiên

Hành nhân đản năng cần tinh tấn

Hà sầu bất hoạch pháp tánh điền

Dịch :

Đức chẳng bị bao chướng ô trược

Cứu cánh viên tịch gọi niết bàn

Quá khứ vị lai và hiện tại

Ba đời chư Phật vốn đồng nhau

Y theo bát nhă ba la mật

Đạt chánh đẳng giác vô thượng tiên

Người tu nên siêng cần tinh tấn

Lo ǵ không đến ruộng pháp tánh".



V́ chư vị phá trừ được báo chướng, nghiệp chướng, phiền năo chướng, nên xa rời được mộng tưởng điên đảo. Nhờ nghĩa lư cùng tột của Tâm Kinh mà chúng ta mới biết rằng chúng sanh chúng ta sống trong chín cơi cũng như đang sống trong mộng. Trong mộng, chư Bồ Tát nguyện trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh; cầu Phật đạo, thành Phật đạo, độ chúng sanh đều là mộng cả. Chư Duyên giác mộng ǵ ? Tức là mộng tự thân ḿnh làm việc thiện, ở trong thâm sơn cùng cốc tự tu tự liễu ngộ đạo. Tự ḿnh làm việc thiện mà không thể làm hết mọi việc thiện ở thế gian, đó cũng là mộng. Chư Thanh Văn mộng chấp vào không, mộng nhập hữu dư niết bàn. Chư thiên mộng sống sung sướng, an lạc. Ở trên thiên cung họ cảm giác rất sung sướng, rất tự tại, cho là thọ diệu lạc thù thắng. Con người mộng trong danh lợi, cầu danh cầu lợi, thăng quan phát tài, suốt đời điên đảo, lấy khổ làm vui, ngày ngày chạy đuổi theo mộng danh lợi. A Tu La mộng chiến tranh, giống như trong hiện tại, đảng này đảng nọ tranh giành quyền hành, đấu tranh lẫn nhau.

Loài địa ngục trong mộng thọ khổ. Loài ngạ quỷ trong mộng bị đói khát. Loài súc sanh trong mộng bị ngu si. Mỗi cơi trong chín pháp giới đều có mộng riêng. Duy chỉ có Phật là đạt đến niết bàn cứu cánh, không c̣n mộng nữa. Niết nghĩa là không sanh, bàn nghĩa là không diệt. V́ thế, người không hiểu Phật pháp nói niết bàn là chết mất. Cái chết này khác với sự chết của phàm phu. Cái chết này là do tự ư ḿnh chết, ḿnh biết rơ sẽ chết. Sao gọi là tự nguyện chết ? Nhân v́ phạm hạnh đă lập, hạnh thanh tịnh đă có, việc nên làm đă làm xong, không c̣n thọ thân sau nữa, tức theo ư nguyện mà nhập vào cảnh giới niết bàn không sanh không diệt, và dự biết thời lúc nhập niết bàn. "A ! Tôi tự dự biết thời lúc nhập niết bàn".

Tại sao hiểu rơ sự chết ? Khi sắp nhập niết bàn hiểu biết rơ ràng, thân không bịnh khổ, tâm không tham luyến, ư không điên đảo. Thân không bịnh khổ. Tâm không tham tiền tài, sắc đẹp, danh lợi, thức ăn, ngủ nghỉ. Ư không điên đảo tức là ư nghĩ trước lúc nhập niết bàn không điên đảo, thần trí thanh tịnh rơ ràng. Người tu hành trước lúc nhập niết bàn tự biết giờ khắc, ngày tháng ḿnh sẽ nhập niết bàn, nói chuyện với mọi người rành mạch rơ ràng. Đó gọi là minh bạch, hiểu rơ. Lại nữa, không nên nói niết bàn là chết, v́ niết bàn là không sanh không diệt. Tại sao có chết ? V́ có sanh. Nhưng khi nhập niết bàn th́ không c̣n sanh c̣n chết nữa.

"Đức vô bất bị chư chướng trược, (đức chẳng bị bao chướng ô trược)".

Đức hạnh viên măn, tṛn đầy, tất cả chướng ngại đều không c̣n.

"Cứu cánh viên tịch hiệu niết bàn, (cứu cánh viên tịch gọi niết bàn)".

Tất cả chướng ngại không c̣n nên gọi là viên tịch, cũng là niết bàn. Niết bàn là chữ Phạn, dịch qua tiếng Tàu là viên tịch. Viên tịch tức là đạo không ǵ mà không tṛn đầy, đức không ǵ mà không tịch. Đạo đă viên măn. Đức đă đạt đến nơi tịch tĩnh. Sao nói đức không ǵ mà không tịch ? Đức đă đạt đến tột điểm nghĩa là đạt đến điểm cùng tột của đức tánh thường lạc ngă tịnh, đức và tướng khế hợp nhau. Thế nên đắc được nơi an lạc tịch tĩnh.

"Quá khứ vị lai cập hiện tại, (quá khứ vị lai cùng hiện tại)

Tam thế chư Phật bổn đồng nguyên, (ba đời chư Phật vốn đồng nhau)".

Ba đời chư Phật cũng là chư Phật trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Không những chư Bồ Tát y chiếu theo pháp môn niết bàn cứu cánh tu hành mà chư Phật trong ba đời cũng đều y theo đó mà tu hành.

"Y thử bát nhă ba la mật, (y theo bát nhă ba la mật)

Chí chánh giác đẳng vô thượng tiên, (đạt chánh đẳng giác tiên vô thượng)".

Ba đời chư Phật đều y chiếu theo trí huệ vi diệu của bát nhă mà đắc được a nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nghĩa là đắc đến quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vô thượng có nghĩa là không ǵ cao siêu sánh bằng được. Là ai ? Tức là Phật. Chánh đẳng là Bồ Tát. Chánh giác là nhị thừa. Chánh giác cùng phàm phu không đồng. Phàm phu không giác ngộ. Phàm phu luôn tạo việc sai lầm, mà không tự biết ḿnh làm việc sai lầm, lại cũng không biết hối cải, nên gọi là bất giác. Chánh giác là người nhị thừa đă đạt đến. Thanh Văn Duyên Giác v́ đă đạt được giác ngộ nên không đồng với phàm phu, nhưng không thể thành chánh đẳng được, không giống như Bồ Tát hành lục độ vạn hạnh, tự ḿnh giác ngộ rồi lại dạy người giác ngộ theo: tự độ, độ người, tự lợi lợi người. Người nhị thừa chỉ tự liễu ngộ, không lo cho người khác, nên không phải là chánh đẳng. Bồ Tát đạt đến quả vị chánh đẳng, nhưng chưa đạt được quả vị vô thượng. Đạt được quả vị chánh đẳng tức là gần quả vị Phật, gọi là Bồ Tát đẳng giác. Bồ Tát tuy đạt được quả vị chánh đẳng nhưng chưa đạt đến quả vị vô thượng. Chỉ có Phật mới đạt đến thôi, nên gọi Phật là đấng vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, hay vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ba đời chư Phật đều y chiếu theo trí huệ bát nhă này mà đạt đến bờ giác. Do đó, bảo rằng đạt đến chánh đẳng giác vô thượng tiên, cũng tức là Phật. Phật cũng được xưng là vị tiên đại giác kim.

"Hành nhân đản năng cần tinh tấn, (người tu nên siêng cần tinh tấn)".

Người tu hành phải nên hướng về trước mà tinh tấn dũng mănh, chớ thối lui quay lại. Chớ phơi nắng một ngày, rồi để lạnh mười ngày. Phải nên tu đạo năm này qua tháng nọ, ngày này qua ngày nọ, giờ này qua phút nọ. Thời thời khắc khắc tinh tấn tu hành. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm năm, trong mọi thời gian đều tu hành tinh tấn. Không nên hôm nay tu, ngày mai thối, hay bước lên một bước nhưng lại lùi năm bước.

"Hà sầu bất hoạch pháp tánh điền, (lo ǵ không đến ruộng pháp tánh)".

Chư vị phải nên tinh tấn th́ mới đạt đến ruộng pháp tánh. Pháp tánh ví như thửa ruộng. Nơi thửa ruộng này, chư vị gieo giống th́ sẽ thu hoạch được, chỉ yếu là chư vị phải cần mẫn chăm sóc lúa mạ th́ sẽ thu hoạch được. Thửa ruộng pháp tánh tức là chính tự pháp thân mà chư vị đang tu hành đây. Khi tự tánh viên măn th́ sẽ thành Phật, cũng giống như từ trong ruộng pháp tánh sanh xuất ra lúa thóc.

Có một vị tu hành rất tinh tấn. Tu măi cho đến khuya chẳng ngủ, nhưng đợi đến sáng th́ đi ngủ. Đó không phải là tu đạo, không thể gọi là tinh tấn được. "A ! Chư vị ngủ mà tôi th́ chưa ngủ". Nhưng đến sáng hôm sau người ta thức, c̣n chư vị th́ đi ngủ. Đó không gọi là tinh tấn. Tối không ngủ mà sáng lại ngủ th́ không đúng.



"Cố tri bát nhă ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư, (v́ thế nên biết bát nhă ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, luôn trừ tất cả khổ, chân thật không hư".



"Thị đại thần chú năng cùng trắc

Thị đại minh chú chiếu tam thiên

Thị vô thượng chú trần giác quả

Vô đẳng đẳng chú chí cực đỉnh

Trừ nhất thiết khổ luân hồi hưu

Chân thật bất hư các hướng tiền

Dĩ thượng hiển thuyết thâm bát nhă

Lược giải đông tây tổ sư thiền

Dịch :

Là đại thần chú khó đo lường

Đại minh chú chiếu ba ngàn cơi

Là chú vô thượng đạt quả giác

Chú không ǵ sánh tột cùng cực

Trừ tất cả khổ, ngưng luân hồi

Chân thật không hư đồng hướng trước

Trên nói rơ bát nhă thậm thâm

Lược giải đông tây tổ sư thiền".

"Thị đại thần chú nan cùng trắc, (là đại thần chú khó đ lường)".

Trên đă bàn về lư bát nhă ba la mật đa là trí huệ vi diệu đạt đến bờ giác, là pháp đại thần chú. Sao gọi là đại (lớn) ?

Lớn tức là so với nhỏ mà nói. Lớn này là cái lớn mà không ngoài cái lớn, lại không thể lớn hơn nữa. Nếu ngoài cái lớn này c̣n có cái lớn hơn nữa th́ chính nó là nhỏ. V́ lớn mà không ngoài cái lớn, nên không có ǵ so sánh lớn bằng được. Sao gọi là thần chú ? Thần tức là không thể nghĩ bàn. Chữ thần này gần giống với chữ tư và chữ diệu; diệu nghĩa là bất động; thần là động; diệu là ngay nơi bất động mà quan sát thấy rơ hết tất cả sự việc, nên không cần dùng động. Thần không động là không phải thần, nên phải động. Thần tức là thần thông. Thông tức là thông quá khứ. Thông này cũng nghĩa là động. Không dùng động mà có thể biết, đó là diệu. Chư Phật tại những cơi nước khác giáo hóa chúng sanh, thành đạo, nhập niết bàn, ḿnh đều biết hết, giống như khi phóng phi thuyền lên mặt trăng, liền biết mặt trăng ra thế nào, đất như thế nào, cấu tạo ra sao ? Đó là bàn về một điểm nhỏ của thần. "Diệu", không cần đến nơi đó mà vẫn biết mặt trăng ra sao, lại không dùng toán số mà tính, không dùng lư khoa học mà luận bàn nhưng vẫn biết, lại không động đạo tràng mà biết tất cả. Thần phải cần động đạo tràng, phải đến nơi kía mới biết rơ.

Sao gọi là chú ? Chú là lời bí mật không thể nghĩ lường. Chú có bốn ư nghĩa.

Thứ nhất là tất cả chú đều có tên của quỷ thần vương như Tỳ Xá Giá, Cưu Bàn Trà. Chư vị tụng niệm tên của các vua quỷ thần th́ các quỷ nhỏ thần nhỏ cũng hiểu rơ. Tại sao ? "A ! Làm sao chư vị biết quỷ vương, thần vương của chúng tôi ?"

Các quỷ nhỏ thần nhỏ không dám không thủ quy củ.

Thứ hai là chú như mật lệnh trong quân đội. mật lệnh trong quân đội là khẩu lịnh. Trong quân đội, mỗi ngày khẩu lịnh khác biệt, không đồng, chỉ những người có chức vụ mới biết khẩu lịnh thôi, người ngoài không thể biết được. Ví như khẩu lịnh hôm nay là "thắng lợi". Trong quân đội đều biết khẩu lịnh đó là "thắng lợi". Nếu tôi không biết chư vị, nhưng khi gặp nhau th́ hỏi khẩu lịnh. Chư vị bảo "thắng lợi". Như thế là đúng, chính là người trong quân đội của ḿnh. Nếu tôi hỏi chư vị khẩu lịnh mà chư vị đáp "kiết tường", th́ là sai rồi, nên phải nổ súng. Tại sao vậy ? V́ chư vị không phải là người thuộc quân tôi. Chú cũng như khẩu lịnh. Chúng ta tụng chú th́ quỷ thần đều đến nghe. Khẩu lịnh của chúng ta cũng như thế, tất cả quỷ thần đều hiểu rơ và đều thủ quy củ, nếu không th́ chúng cùng chư vị chiến đấu lẫn nhau.

Thứ ba là lời mật ngữ, người ngoài không thể biết được, chỉ có ḿnh biết thôi. Ví như có người nghèo hèn, v́ tham tiền của nên chạy ra nước ngoài. Người ngoại quốc không biết ông ta cớ sao mà bỏ nước đi. Khi được hỏi, ông ta đáp :" Tôi là vua của nước kia. V́ quân nhân đảo chánh. Quốc gia rối loạn, nên tôi chạy đến nước này tị nạn".

Vua nước đó tuy không biết là thật hay giả, nhưng cũng cho là thật, nên gả công chúa cho hắn. Sau khi gă nghèo hèn kia kết hôn cùng với cô công chúa, liền làm dạng như ḿnh chính là một ông vua. Từ sáng đến tối khởi tâm nóng giận, càng ngày càng hung dữ thêm. Sau này, có người nhận ra hắn là kẻ nghèo hèn, nên đến nói với công chúa :" Khi hắn phát cáu, nóng giận, công chúa hăy nói như vầy ' Ông vốn là kẻ nghèo hèn, nhưng khi đi qua xứ khác, sao nỗi sân quá vậy ?".

Sau khi biết là có người nhận ra lai lịch của ḿnh, nên không dám khởi tâm nóng giận nữa. Chú này cũng như thế. Chư vị tụng niệm chú, quỷ thần biết chư vị nhận ra lai lịch, việc làm của chúng là ǵ, nên khi đối mặt với chư vị, không dám không thủ quy củ.

Thứ tư, chú là tâm ấn, mật ngữ của chư Phật, chỉ Phật và chư Phật biết thôi, c̣n chúng sanh th́ không thể hiểu. V́ vậy không thể phiên dịch chú được. Lại nữa, dùng một âm thanh diễn thuyết chú, chúng sanh tùy loại mà tôn thủ. Loại chúng sanh nào th́ nghe hiểu loại chú đó. Ví như hiện nay, tuy chúng ta không hiểu lời chú nhưng quỷ thần vương, A Tu La, súc sanh, yêu ma quỷ quái đều hiểu rơ. Do đó, một khi đọc chú, chúng đều hiểu cả. Xưa kia có ông vua cần tiên đà bà. Tiên đà bà là tiếng Phạn. Nó có bốn tên khác nhau, tức là muối, nước, ngựa, đại tiểu tiện. Thế nên, khi vua bảo rằng ta cần tiên đà bà th́ những quan đại thần không biết là muối, nước, ngựa, hay đại tiểu tiện. Nhưng có một vị thông minh trí huệ, khi nghe vua nói tiên đà bà liền biết nhà vua cần ǵ. Khi ăn cơm, cần tiên đà bà, đương nhiên là không phải đại tiểu tiện mà là cần muối. Khi nhà vua chuẩn bị ra đường th́ gọi "tiên đà bà". Người kia hiểu rơ là nhà vua cần ngựa. Khi vua khát mà gọi tiên đà bà th́ chắc chắn là nhà vua cần nước. Khi thấy nhà vua không khát nước, không ăn cơm, không ra đường, th́ biết là nhà vua muốn đi đại tiểu tiện. Thế nên, khi đọc chú ra, quỷ thần có trí huệ liền biết ngay, c̣n quỷ thần khác th́ không biết đến.

"Nan cùng trắc. (Khó đo lường)".

Nan tức là khó khăn, không dễ dàng. Cùng nghĩa là cùng tận. Trắc nghĩa là thôi trắc (đo lường). Biểu thị cho đại thần chú này không thể suy tưởng, biết đến được, v́ là cảnh giới không thể nghĩ lường. Lên một bậc, tôi sẽ giảng cho chư vị nghe về chữ thần và chữ diệu. Thần là chung quy vào cái động không thể nghĩ bàn. Diệu là chung quy nơi tịnh không thể nghĩ bàn. Động tịnh đều không thể nghĩ bàn. Trong động không thể nghĩ bàn là thần. Trong tịnh không thể nghĩ bàn là diệu. Thế nên, thần cũng là diệu, mà diệu cũng chính là thần. Không phải thần tức không phải diệu. Không phải diệu tức không phải thần. Thần diệu khó đo lường. V́ vậy, hiện tại, tôi không có cách nào để giảng tường tận rơ ràng, v́ cái đó quá thần quá diệu.

"Thị đại minh chú chiếu tam thiên, (là đại minh chú chiếu ba ngàn cơi)".

Tâm kinh bát nhă ba la mật này cũng chính là đại minh chú. Đại minh tức là tạng tánh Như Lai sáng suốt chói ngời. Tạng đại quang minh, đại minh chú chiếu soi phá trừ tất cả vô minh hắc ám. Nói về hướng nội, chư vị phải tụng tâm kinh, để phá trừ tất cả vô minh hắc ám, phiền năo từ đời vô thủy cho đến ngày nay. Tự chiếu soi phá trừ vô minh phiền năo của ḿnh. Nói về hướng ngoại, tức là chiếu soi khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới. Khi chư vị niệm đại minh chú này th́ sẽ phóng ánh sáng. Ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nên bảo rằng đại minh chú chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Ba ngàn đại thiên thế giới tức là thế giới bên ngoài. Tự chúng ta phá trừ tự tánh phiền năo, th́ chính là phá trừ thế giới phiền năo bên trong. Trong là ngoài, ngoài mà là trong. Trong ngoài đều chiếu sáng. Ánh sáng trí huệ trong ngoài của chư vị đều hiện tiền. Ánh sáng này chính là bản thể trí huệ của chư vị. Trí huệ sẵn có của chư vị chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

"Thị vô thượng chú trần giác quả, (là chú vô thượng đạt quả giác)".

Vô thượng tức là không có ǵ cao bằng. Quả vị Phật cao thượng nên gọi là vô thượng. Chư vị tụng tâm kinh bát nhă ba la mật đa chính là bước từng bước từ địa vị phàm phu mà tiến lên quả vị Phật, đạt đến quả vị giác ngộ vô thượng, nên gọi là trần giác quả. Trần tức là đă đạt đến. Đạt đến nơi giác quả.

"Vô đẳng đẳng chú chí cực đỉnh, (chú không ǵ sánh tột cùng cực)".

Vô đẳng tức là không c̣n ǵ so sáng bằng được. Đó chính là quả vị Phật tối thượng, quả vị giác ngộ cao tột. Thế nên đạt đến tột đỉnh, tức là đỉnh núi cao nhất.

"Trừ nhất thiết khổ luân hồi hưu, (trừ tất cả khổ, ngưng luân hồi)".

Việc quan trọng nhất là phải trừ được tất cả khổ. Nếu không thể trừ được tất cả khổ th́ tụng kinh có ích chi. Tất cả khổ ách đều có thể trừ hết cả. Khổ có ba khổ : khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Tám khổ : sanh già bệnh chết khổ, khổ v́ thương nhau mà xa ĺa, khổ v́ gần gũi người ḿnh oán ghét, khổ v́ cầu mà không được toại nguyện, khổ v́ năm ấm thường thay đổi hừng thịnh (khổ này rất khó dẹp trừ). Nếu dẹp trừ hết tất cả khổ th́ ḍng luân hồi liền chấm dứt. Nếu không thoát ra khỏi ḍng luân hồi th́ không thể nghỉ ngơi, nghĩa là cắt đứt được sanh tử th́ xuất ra khỏi ḍng luân hồi. Muốn dẹp trừ khổ th́ phải làm ǵ ? Phải chặt đứt khổ v́ kiến ái, ái dục, sắc ái, vô sắc ái, vô minh sắc ái, cùng năm trụ và hai tử phải vĩnh viễn mất. Năm trụ gồm có : ái trụ tức là phiền năo kiến ái trụ; dục ái trụ tức là phiền năo dục ái; sắc ái trụ tức là phiền năo sắc ái; vô sắc ái trụ là phiền năo vô sắc ái; vô minh ái trụ là phiền năo vô minh ái. Sao gọi là trụ ? Trụ nghĩa là kiên lao, cứng chắc, kiên cố bất động.

Hai tử vĩnh vong. Có vài người chưa từng nghe giảng kinh thuyết pháp, bảo hai tử túc là hai lần chết. Không phải thế ! Con người có hai loại sanh tử : phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử. Sao gọi là phần đoạn sanh tử ? Tức là chư vị có một phần, tôi có một phần, nên gọi là phần. Chư vị có một đoạn thân phần. Tôi có một đoạn thân phần. Từ ngày sanh đến ngày chết có một đoạn thời gian. Từ dưới chân lên đến đầu có một phần đoạn. Đó gọi là phần đoạn sanh tử. Tứ quả A La Hán chặt đứt được phần đoạn sanh tử; c̣n biến dịch sanh tử th́ chưa xong.

Bồ Tát có thể cắt đứt biến dịch sanh tử. Danh xưng của Bồ Tát rất thần thánh. Bồ Tát là danh xưng ngắn gọn, nói cho đủ tức là Bồ Đề Tát Đỏa. Có người tuy không phải là Bồ Đề Tát Đỏa mà lại cho ḿnh chính là Bồ Đề Tát Đỏa. Có người chính ḿnh là Bồ Đề Tát Đỏa mà lại không thừa nhận ḿnh là Bồ Đề Tát Đỏa. Chư vị xem, kỳ lạ lắm không ? Vậy là thế nào ? Không phải mà bảo là phải. Phải mà bảo là không phải. Không phải tức là không phải. Phải cũng không thể nói được. Là Bồ Đề Tát Đỏa mà chư vị không cần nói ḿnh là Bồ Đề Tát Đỏa mới chính thực là Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề Tát Đỏa không phải do chính ḿnh tự quảng cáo trên báo chí :" Chư vị có biết tôi chính là Bồ Đề Tát Đỏa không ?"

Không phải như thế. Vậy, làm sao mới phải ? Là Bồ Đề Tát Đỏa phải tồn giữ tâm Bồ Tát, hành hạnh Bồ Tát, làm việc Bồ Tát, không thể nói ḿnh là Bồ Tát trên đầu môi chót lưỡi. Trên đầu môi chót lưỡi nói ḿnh là Bồ Tát tức là quỷ của ma chướng, quỷ của nghiệp chướng. Tại sao ? Giống như vài Quan Đế Công của tà thần ngoại đạo. "A ! Ta là Quan Đế Công. Quan Đế Công đă đến !".

Kỳ thật nó chính là tiểu quỷ. Thậm chí cũng không phải là tiểu quỷ nữa, mà chính là súc sanh tà tri tà kiến biến hóa thành. Trong kinh Pháp Hoa có nói về một loại mèo tinh. Mèo tinh này giả biến thành thần. Chân chánh là Bồ Đề Tát Đỏa th́ không tự bảo ḿnh là Bồ Đề Tát Đỏa. Ví như Tổng thống đến nơi nào th́ không cần tự ḿnh giải thích ḿnh chính là tổng thống. " Chư vị có nhận ra hay không ?"

Không cần giảng giải cho mọi người biết. Thế nên, chư vị là Bồ Đề Tát Đỏa người khác cũng biết. Chư vị không phải là Bồ Đề Tát Đỏa, người khác cũng biết. Nếu chư vị là Bồ Đề Tát Đỏa, vậy có bằng chứng ǵ ? Tôi nói cho chư vị biết nếu là Bồ Đề Tát Đỏa th́ cắt đứt được hai loại chết, tức phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử. Sao gọi là biến dịch sanh tử ? Niệm này sanh rồi niệm kia diệt, không dừng nghỉ. Nếu thường tại định th́ không lúc nào lại không trụ trong định, đă chấm dứt được sanh tử. Cắt đứt được phần đoạn sanh tử, biến dịch sanh tử th́ mới chân thật là Bồ Đề Tát Đỏa. Nếu chư vị không nhận rơ được th́ ngay nơi đó chính là sự vi diệu. Chân chánh Bồ Đề Tát Đỏa chư vị phải nên nhận ra. Khi ấy chính chư vị cũng là Bồ Đề Tát Đỏa.

"Chân thật bất hư các hướng tiền, (chân thật không hư hướng trước)".

Phần đoạn sanh tử đă hết, biến dịch sanh tử đă hết, năm trụ đă đạt đến cùng tột, đây mới thực là chân chánh trừ tất cả khổ trong ḍng sanh tử, được rảnh rỗi, nghĩ ngơi. Đó thực là Bồ Đề Tát Đỏa, không phải giả. Chư vị muốn làm Bồ Đề Tát Đỏa không ? Nếu muốn th́ phải tiến bước tu hành, dơng mănh tinh tấn hướng về phía trước, đừng học theo các tỳ kheo, sa di, cư sĩ làm biếng, cả ngày từ sáng đến tối đều ngủ gà ngủ gật, đôi mắt mở không nỗi.

"Dĩ thượng hiển thuyết thâm bát nhă, (trên nói rơ bát nhă thậm tha)".

Phần trên nói rơ về lư lẽ cao thâm của tâm kinh bát nhă ba la mật đa này. Phần văn kinh bên dưới th́ thuộc về mật thuyết (lời nói bí mật).

"Lược giải đông tây tổ sư thiền".

Những câu kệ bên trên tôi đă nói là để giải thích về phương pháp tọa thiền của chư tổ sư ở đông phương lẫn tây phương. Phương pháp tọa thiền là ǵ ? Câu kệ đầu tiên ở bên trên có nói :"Hồi quang phản chiếu quán tự tại".

Giác ngộ cho loài hữu t́nh tức là Bồ Đề Tát Đỏa. Chư vị phải nên hồi quang phản chiếu (đem ánh sáng trí huệ phản chiếu lại tự tâm ḿnh). Ai ai cũng có đầy đủ đức tướng Như Lai, nhưng v́ vọng tưởng chấp mà không thể chứng đắc được quả vị Phật. Nếu muốn đắc được đức tướng trí huệ của Như Lai, chư vị phải nên xoay lại ánh sáng tự tâm ḿnh và đừng nên chấp trước. Phải tụng đọc câu kệ này cho thành thục, cùng tham thiền đả tọa. Lời dạy của chư tổ sư ở tây phương hay đông phương đều như thế. Tây phương tức là Ấn Độ. Đông phương tức là Tàu. Hiện tại tây phương không phải là Ấn Độ cũng không phải là Tàu. Vậy là nước nào ? Đông tức là đông phương. Tây tức là tây phương. Phương hướng vẫn không biến đổi, nhưng hoàn cảnh lại đổi thay. Tại tây phương phải cần xuất hiện tổ sư. Hiện tại, chư tổ sư bên đông phương có rất nhiều vị đi qua tây phương hoằng pháp ví như nước chảy. Ai muốn làm tổ sư th́ chớ nên ngủ nhiều th́ mới có thể làm được.

Ngày nay, đông cũng không phải là đông, tây cũng chẳng phải là tây, nên không thể gọi là đông hay tây. Nam bắc cũng như thế. Tại sao ? Chúng ta có mối quan hệ khắng khít với mặt trăng. Thế nên chúng ta không biết phải đi theo bên nào. Đông tây nam bắc đều không thể lập. Ngày nay, chúng ta là một nguyên hợp, trung tâm. Tuy là trung tâm mà không phải là trung tâm, lại biến thành lớn mà không ngoài cái lớn, nhỏ mà không nằm trong cái nhỏ. Tuy có lớn nhỏ nhưng không có trong ngoài. Bên trên tôi có nói :"Không lớn không nhỏ, không trong ngoài. Tự tu tự liễu tự an bài".

Đạt đến cảnh giới này, chư vị thấy có vi diệu lắm không ! Khi ấy một điểm phiền năo hay buồn bực ǵ cũng không c̣n. Nhưng cùng tột của cảnh giới đó không lớn không nhỏ, không trong không ngoài là ǵ ? Chư vị phải tự hiểu rơ. Tôi không cần nói nhưng chắc chư vị sẽ hiểu rơ. Nếu chư vị không muốn biết, dẫu tôi có nói ra đi nữa th́ chư vị cũng không thể biết được.



"Cố thuyết bát nhă ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết : yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha, (nên thuyết ra chú bát nhă ba la mật đa. Tức thuyết chú rằng : yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha)".



"Chú năi mật phân phỉ tư lượng

Như vương chiếu chỉ kiểm đồng đạo

Diệc dĩ quân trung bí mật lịnh

Vấn đáp bất phù tiện chấp hành

Đại thừa diệu lư ly phân biệt

Phàm phu tri kiến vọng duyên chân

Nhân chỉ vọng nguyệt chỉ phi nguyệt

Tạ chú minh tâm chú tức tâm

Dịch :

Chú là mật, không thể suy luận

Như chiếu chỉ vua cùng tôn kính

Là lịnh bí mật trong quân đội

Vấn đáp hợp liền phải chấp hành

Diệu lư đại thừa rời phân biệt

Tri kiến phàm phu vọng thay chân

Ngón tay chỉ trăng chẳng phải trăng

Nhờ chú sáng tâm, chú tức tâm".

Ấn Độ, câu chú không thể dịch ra thành nghĩa nhưng phiên dịch chữ chứ không phiên dịch âm. V́ vậy không thể giảng hay suy tưởng nghĩ bàn được.

"Chú năi mật phân phỉ tư lượng, (chú là mật không thể suy luận)".

Chú thuộc về mật giáo. Trong mật giáo không thể giảng giải chú được. Không thể dùng tư tưởng mà suy luận được, v́ nơi đó, đường ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành nơi tịch diệt.

"Như vương chiếu chỉ kiểm đồng tôn, (như chiếu chỉ vua cùng tôn kính)".

Chú cũng giống như chiếu chỉ của nhà vua, mà ở trên đă giảng qua về bốn loại ư nghĩa của tiên đà bà. Kiểm đồng tôn tức là một khi chiếu chỉ nhà vua ban ra th́ quan dân đều phải tuân phục.

"Diệc thị quân trung bí mật lịnh, (lại là mật lịnh trong quân đội)".

Chú giống như lịnh bí mật trong quân đội. Như trên đă bàn qua, trong quân đội, mỗi ngày đều có khẩu lịnh như "thắng lợi". Nếu khi gặp người lính ḿnh không quen biết, mà hắn hỏi khẩu lịnh là ǵ. Chư vị bảo :"thắng lợi", đó là thuộc quân đội của ḿnh, không cần giải thích. Nếu khi hắn hỏi khẩu lịnh mà chư vị nói :" Kiết tường", vậy là sai rồi, nên hắn sẽ nổ súng bắn chư vị. Trong quân đội, v́ quân lính rất nhiều nên mỗi ngày phải có mật lịnh để cho người ngoài không thể lọt vào quân đội được. Nghĩa của chú cũng như thế.

"Vấn đáp bất phù tiện chấp hành, (vấn đáp không hợp phải chấp hành)".

Nếu chư vị vấn đáp mà không hợp với khẩu lịnh th́ họ phải thi hành nhiệm vụ.

"Đại thừa diệu lư ly phân biệt, (diệu lư đại thừa rời phân biệt)".

Bát nhă thuộc pháp đại thừa. Đây là pháp đại thừa diệu lư không thể nghĩ bàn, không thể phân biệt, quét sạch tất cả pháp, xa rời tất cả tướng. Bát nhă tùy thuyết tùy liễu ngộ.

"Phàm phu tri kiến vọng duyên chân, (phàm phu tri kiến vọng thay chân)".

Phàm phu chứa bao vọng tưởng, tri kiến, kiến giải phan duyên, lầm nhận tất cả pháp chân thật, nhận kẻ trộm làm con, chấp trước mọi vật có h́nh có tướng có bóng ảnh.

"Nhân chỉ vọng nguyệt chỉ phi nguyệt, (ngón tay chỉ trăng chẳng phải trăng)".

Kinh điển chỉ dẫn con đường tu hành cho ḿnh, như dùng ngón tay chỉ mặt trăng, bảo rằng mặt trăng ở nơi kia, nhưng có người không y theo ngón tay để nh́n mặt trăng mà chỉ nh́n vào ngón tay, cố chấp cho ngón tay là mặt trăng. Chư vị chớ nhận lầm ngón tay là mặt trăng. Kinh điển chỉ dẫn cách tu hành, chứ kinh điển không phải là đạo. Đạo là chính tự chư vị phải tu tŕ, không nên cho kinh điển là đạo.

"Tạ chú minh tâm chú tức tâm, (nương chú sáng tâm, chú tức tâm)".

Nương nhờ oai lực của chú để làm sáng tâm v́ lời chú không thể nghĩ bàn. Chư vị lại phải nên xa rời tâm phân biệt, tâm phan duyên, tất cả tâm vọng tưởng. Tuy không hiểu nghĩa khi tŕ chú, nhưng ngay nơi không hiểu đó mới thật là hiểu. Thế nên, nhờ oai lực của chú để làm sáng tâm và thấy tánh. Chú cũng là tâm. Khi đă minh tâm kiến tánh, chư vị sẽ hiểu rơ ư nghĩa của chú.



Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 7 of 8: Đă gửi: 12 March 2006 lúc 8:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang


HT.Tuyên Hoá
phải Thực Tập Bát Nhă Ba La Mật Đa

"Bồ-tát Quán Tự Tại, khi thực hành pháp thâm sâu Bát Nhă Ba La mật Đa, soi thấy năm uẩn là không, vượt hết mọi khổ ách."

Bốn câu trên chính là tinh yếu của Tâm Kinh. Nay lược giảng như sau:

Quán Tự Tại nghĩa là hồi quang phản chiếu, tự quán sát ḿnh tự tại hay không tự tại? Nói khác là có ở đây hay là không ở đây? Nếu như tự tại, có ở đây, tức tâm không chạy đi đâu để rong ruổi, không đuổi theo các thứ duyên. Nếu như không tự tại, không ở đây, tức tâm tán loạn, vọng tưởng rối bời, nếu quá đáng có thể đưa tới t́nh trạng khủng hoảng thần kinh, tâm lúc nào cũng t́m cơ hội, mong mọi người đến cúng dường. Nếu có những vọng tưởng như vậy quư vị sẽ không tự tại.
C̣n như "Bồ-tát" th́ mọi hành vi đều hướng tới lợi ích của chúng sanh, coi đó là mục tiêu duy nhất, tuyệt đối chẳng v́ lợi ích của chính ḿnh. Ư hướng của kẻ phàm phu chúng ta th́ ngược hẳn lại, tất cả đều nghĩ tới lợi ích của chính ta, mà không phải v́ lợi ích cho người. Bất cứ làm một công chuyện ǵ, trước tiên phải tính thử xem có lợi cho ḿnh hay không và khi thấy có lợi mới hành động. Đó chính là sự biểu hiện của ḷng ích kỷ tự lợi. Bởi đâu mà thế giới chẳng được ḥa b́nh? Chính v́ nguyên do đó. Quư vị tranh th́ tôi đoạt lại, không có sự tương nhượng lẫn nhau, từ đó mới có chiến tranh, gây nên những cảnh nước mất nhà tan.

Vị Bồ-tát này "thực hành pháp thâm sâu Bát Nhă Ba La Mật Đa", từ thời vô thủy đến nay, đời đời kiếp kiếp đều thực tập pháp thâm sâu này, không có lúc nào gián đoạn. Tu pháp Bát Nhă thâm sâu, tức là:

1. Không có tâm kiêu ngạo, bởi kiêu ngạo là ngu si.

2. Không có tâm tự măn, bởi tự măn là ngu si.

3. Thường có tâm hổ thẹn (tàm quư); không có tâm hổ thẹn, tức là ngu si.

4. Không sanh tâm đuổi theo các duyên (tâm phan duyên), bởi nếu để tâm rong ruổi theo duyên, tức là ngu si.

5. Không sanh tâm sân hận, bởi có sân hận là ngu si.

6. Không sanh tâm điên đảo, bởi tâm điên đảo là tâm ngu si.

Chúng ta là những người tu hành phải coi sáu loại tâm đó như là những tiêu chuẩn, hầu có thể xét đoán những hành động của chúng ta có đúng với pháp hay không? Nếu đúng th́ hành động của ta là trí huệ, nếu sai th́ là ngu si. Cũng có thể nói rằng siêng năng tu giới định huệ, dập tắt tham sân si tức là trí huệ; không tu giới định huệ, không diệt tham sân si là ngu si. Trí huệ và ngu si khác nhau là ở những điểm đó.

Phải thực hành pháp Bát Nhă thâm sâu, mới có thể soi thấu năm mươi loại cảnh giới ấm ma trong năm uẩn. Trong sắc uẩn có mười loại ấm ma, trong thọ uẩn có mười loại, trong tưởng uẩn có mười loại, trong tưởng uẩn có mười loại, trong hành uẩn có mười loại, trong thức uẩn cũng có mười loại, cộng tất cả có năm mươi loại ấm ma. Tách ra từng phần th́ c̣n có vô số vô lượng, nếu người tu không cẩn thận sẽ dễ dàng đi vào cảnh giới ma. Nói chung, hễ có tà tri tà kiến là thuộc về họ của ma, nếu là chánh tri chánh kiến th́ thuộc về họ của Phật.

Khi thực hành pháp thâm sâu Bát Nhă Ba La Mật Đa th́ sẽ nhận ra được minh bạch cảnh giới ma, không c̣n bị ma lay chuyển. Tới lúc đó, ngoài khả năng soi thấu năm uẩn là không mà ta c̣n vượt được hết mọi khổ ách. Năm uẩn là không, có nghĩa là Chân Không. Có câu nói:

Chân Không vô nhân ngă

Đại Đạo vô h́nh tướng.

Dịch là:

Chân không, không người không ta

Đạo lớn, không h́nh không tướng.

"Hết mọi khổ ách" tức là nói các khổ trong ba thứ tai, tám thứ nạn (tam tai bát nạn).

Nếu như theo đúng pháp trong bốn câu Kinh nói trên để tu tập, tu cho đến rốt ráo th́ hành giả đă đạt tới tŕnh độ chế ngự được bát phong. Thế nào là bát phong? Đó là tám món gồm khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, phỉ báng và vinh dự. Những thứ này coi như tám ngọn gió có thể làm lay chuyển và quay cuồng những ai không đủ định lực. Nay giảng sơ qua như sau:

Khen: Khen hay xưng tán. Nếu có người xưng tán ḿnh một câu, ḿnh nhận được một cảm giác rất ngọt ngào, c̣n hơn là mật nữa và ḿnh thấy thoải mái.

Chê: Chê là chê bai. Như có người chê bai ḿnh, ḿnh không thích, trong ḷng không thoải mái.

Khổ: Đây là khổ năo. Gặp chuyện ǵ phiền hà ḿnh cảm thấy khổ sở. Khi gặp phiền năo, ḿnh hăy thử xem ta chịu được không?

Vui: Vui hay khoái lạc. Gặp điều vui sướng không nên lấy làm đắc ư. Mọi điều khoái lạc đến th́ chúng ta hăy coi đó là một sự khảo nghiệm, để thử xem tâm ư của ḿnh ra sao.

Lợi: Đây là lợi ích. Được lợi ích ḿnh cảm thấy vui, bị thiệt hại ḿnh cảm thấy buồn, đó là sự biểu hiện của sự yếu kém định lực.

Suy: Suy nghĩa là suy bại. Gặp bất cứ sự gian nan đến đâu, chúng ta không nao núng, có thất bại cũng không động tâm.

Phỉ báng; Ví dụ có người nói xấu ḿnh, ḿnh không quan ngại! Ḿnh coi chuyện đó như không có ǵ, tự nhiên sóng gió sẽ hết.

Vinh dự: Như có người xưng tán ḿnh, vinh danh ḿnh, ḿnh cũng không nên cảm động. Chỉ nên coi các thứ công danh như phù vân.

Tám loại gió này chính là một pháp môn dùng để khảo nghiệm tâm của người tu. Gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh tâm đều không động. Nếu động tức là tu tŕ chưa đúng, định lực yếu kém; nếu không động th́ người tu đă có công phu. Tuy nhiên, không nên tự măn, như đại khái tự khoe rằng: "Bát phong th́ cũng chẳng lay động ta, định lực của ta kiên cố ví như kim cương ". Thái độ này là sai rồi.

Thuở xưa, vào đời nhà Tống có vị cư sĩ là Tô Đông Pha, đă từng nghiên cứu ít nhiều về Phật Pháp. nhưng công phu thiền định th́ c̣n yếu kém. Tuy nhiên, ông cho rằng định lực của ông cũng đă khá. Có một hôm, nhân nguồn cảm hứng dạt dào, ông làm bốn câu kệ sau:

Khể thủ thiên trung thiên

Hào quang chiếu đại thiên

Bát phong xuy bất động

Đoan tọa tử kim liên.

Tạm dịch:

Khấu đầu lạy chư thiên

Hào quang chiếu đại thiên

Tám gió lay chẳng động

Sen vàng ngồi ngay ngắn.



Lúc đó ông tự nghĩ rằng ḿnh đă khai ngộ, nên muốn có sự ấn chứng của Thiền sư Phật Ấn. Ông sai người qua sông mang bài kệ tới chùa Kim Sơn.

Thiền sư xem qua liền đề bốn chữ: "Đánh giắm! Đánh giắm!", ngay trên tờ giấy có bài kệ, rồi đưa cho thị giả mang về. Tô Đông Pha xem xong, lửa vô minh bốc cao lên ngùn ngụt. Ông giận dữ: "Sao lại có chuyện này? Đây là bài khai ngộ! Bảo là đánh giắm là nghĩa ǵ?" Nói rồi, ông đi qua sông kiếm Thiền sư Phật Ấn để chất vấn.

Chẳng dè khi đến cổng chùa, Thiền sư Phật Ấn đă đứng chờ sẵn, thấy ông đi tới th́ cười lớn: "Ồ! Xin chào mừng Đại Học Sĩ họ Tô, bát phong không lay chuyển, nhưng lại bị cái giắm đẩy qua sông tới đây! Xin chào mừng!" ( Hai ông chính là bạn thân, thường vui đùa với nhau). Tô Đông Pha đương lúc cơn giận tràn hông, sắp sửa bùng ra, nghe Thiền sư nói mấy câu, xét lại thấy có lư, bèn nh́n nhận công phu ḿnh c̣n non nớt, nên hướng tới Thiền sư lễ tạ. Kể từ đó ông bỏ thói "khẩu đầu thiền".

Thiền là thực hành, chẳng phải nói suông. Chỉ nói mà không làm được, điều đó vô nghĩa.


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 8 of 8: Đă gửi: 14 March 2006 lúc 9:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

L̉NG BI MẪN


Nếu một người có ḷng bi mẫn, người ấy là vị Phật;

Không có ḷng bi mẫn, người ấy là Thần Chết.



Với ḷng bi mẫn, cội gốc của Pháp được vun trồng,

Không có ḷng bi mẫn, cội gốc của Pháp bị mục nát.



Người có ḷng bi mẫn tốt lành ngay khi họ giận dữ,

Người không có ḷng bi mẫn giết hại ngay khi họ mỉm cười.



Đối với người có ḷng bi mẫn, ngay cả kẻ thù cũng trở thành bằng hữu,

Không có ḷng bi mẫn, ngay cả bằng hữu cũng trở thành kẻ thù.



Với ḷng bi mẫn, ta có mọi Pháp,

Không có ḷng bi mẫn, ta chẳng sở hữu Pháp nào.



Với ḷng bi mẫn, ta là Phật tử chân thực,

Không có ḷng bi mẫn, ta tệ hơn kẻ trần tục.



Ngay cả khi thiền định về tánh Không, ta cần có ḷng bi mẫn như cốt tuỷ của nó.

Một hành giả Giáo Pháp phải có một bản tánh tràn trề bi mẫn.



Ḷng đại bi giống như một viên ngọc như ư.

Ḷng đại bi hoàn thành những hy vọng của bản thân và chúng sinh.



V́ thế, tất cả các bạn, những người từ bỏ và các gia chủ,

Hăy nuôi dưỡng ḷng bi mẫn và các bạn sẽ thành tựu Phật Quả.

Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.8086 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO