Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 176 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: SÁU THÂN TRUNG ẤM Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 1 of 14: Đă gửi: 16 February 2006 lúc 9:03pm | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

SÁU THÂN TRUNG ẤM



Sự hiện hữu của chúng sinh đă bị điều kiện hóa bởi sự sinh, sự chết, và sự chuyển tiếp từ cái chết sang sự tái sinh. Sức khởi động không ngưng nghỉ của nghiệp lực đă làm cho đời sống vô thường. Chúng ta liên tục luân hồi xuyên qua những trạng thái khác nhau của hữu thể, và trong pháp môn p’howa th́ cách hữu dụng nhất để hiểu chúng là trong cách phân loại của sáu thân trung ấm, tức là các trạng thái trung gian.




Thân trung ấm nơi sinh (birthplace bardo) bắt đầu từ khoảnh khắc chào đời, và kết thúc khi từ trần. Nó chỉ cho kiếp sống của chúng sinh, và với kiếp người th́ đây là cơ hội tối thắng để tu tập - có khả năng để làm thanh tịnh các nghiệp xấu và thu thập công đức và sự giác ngộ nhằm giải thoát khỏi luân hồi và hướng dẫn các chúng sinh khác tới giải thoát.

Thân trung ấm nơi sinh trong cơi người thường xen lẫn bởi hai thân trung ấm khác, thân trung ấm chiêm bao (dream bardo) và thân trung ấm của thiền định (bardo of meditative concentration). Cả hai thân này dung chứa tiềm năng cho các trạng thái thâm sâu của tâm thức, mặc dù với hầu hết mọi người chúng chỉ giữ trong khoảng thời gian ngắn. Hệt như thân trung ấm nơi sinh, chúng có thể được vận dụng cho sự tiến bộ tinh thần.

Tiến tŕnh chết xảy ra trong thân trung ấm của khoảnh khắc ĺa đời (bardo of the moment of death), nó tiếp cận với hơi thở cuối cùng và sự hợp nhất vào luân xa quả tim của các năng lực nam và năng lực nữ nguyên thủy của chúng sinh đó. Thân trung ấm này có thể rất ngắn ngủi; nếu người này gặp cái chết chưa đúng thời bởi v́ tai nạn hay v́ bạo lực, hay là nó có thể được kéo dài, nếu người này chết v́ căn bệnh dằng dai. Thân trung ấm của khoảnh khắc ĺa đời là chặng chuyển tiếp chủ yếu trong chu kỳ luân hồi, bởi v́ đó là lúc pháp môn p’howa có thể thành tựu được và sự giải thoát vào cơi tịnh độ có thể đạt được dễ dàng. Tuy nhiên, để thành tựu p’howa, học nhân nên tu tập kỹ lưỡng khi c̣n trong thân trung ấm nơi sinh, bởi v́ tâm thức hỗn loạn thường gây mê mờ vào thời điểm chết.

Đối với hầu hết mọi người, thân trung ấm của chân tánh của vạn pháp (Anh ngữ: bardo of the true nature of phenomena; Tây Tạng ngữ: chos nyid; Phạn ngữ: dharmata) khởi đầu khi họ rơi vào màn tối đen, sau khi các năng lực nam và nữ hợp nhất trong quả tim. Các thiền sư vĩ đại nào có thể duy tŕ tỉnh thức trong suốt thời chuyển tiếp của cái chết sẽ không rơi vào màn tối đen này. Trong thời khoảng này, các phẩm chất của tâm được buộc vào trong tự tánh bất khả hủy diệt, vào trong tận nguồn vi tế nhất của tâm thức và sự hồn nhiên. Các phẩm chất của tâm về tánh biết - tám phương diện của ư thức - th́ hiện hữu như là quả cầu cốt yếu của ư thức. Đặc tính di động của tâm th́ hiện hữu như là các năng lực nghiệp thức cực kỳ vi tế (tức là “các gió”; Tạng Ngữ là lung), các lực này quấy động các phần tử của ư thức. Sự quấy động nhẹ này làm mê mờ ư thức, và ánh sáng trong suốt của thật tánh của vạn pháp khởi lên như một trạng thái bất nhị, bất khả diễn tả của Tánh Biết.

Tất cả chúng sinh, từ bất kỳ cảnh giới nào của đời sống, có một kinh nghiệm chớp nhoáng về tia sáng trong suốt khi họ chết, nhưng đối với hầu hết, nó qua đi trong khoảnh khắc mà không được ghi nhận. Chỉ có các đại thiền giả - những người đă chứng nhập cái nh́n cao nhất qua các pháp thiền của Đại Toàn Thiện, Đại Thủ An, Trung Quán - có khả năng để t́m giải thoát vào pháp thân, để thành đạt giác ngộ, xuyên qua việc chứng nhập ánh sáng trong suốt.

Đối với những người khác, sự giải thoát bị ngăn trở bởi một sự thúc giục về hướng “đầu thai” và một nỗi sợ bị hư vô hóa. Các phương diện vi tế của ư thức, bị quấy động thêm nữa bởi các năng lực tế vi, dẫn khởi lên các hiện tướng thanh tịnh của Tánh Biết, sự xuất hiện các vị Thánh hiền ḥa và hung dữ. Ánh sáng khởi lên, cùng với các âm thanh cuồng nộ. Và rồi các h́nh tướng xuất hiện từ ánh sáng đó, trước tiên hiện ra như các vị Thánh đầy giận dữ cùng với tiếng cười gây kinh hăi. Mỗi vị mặc trang phục riêng đặc biệt và được đi kèm bởi một đoàn hội chúng dầy đặc tới đầy khắp không gian. Rồi các vị Thánh hiền ḥa xuất hiện - trong đó có các vị bổn tôn của pháp môn p’howa là Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Phật Vô Lượng Thọ (1) - sáng rực và đầy kính ngưỡng.

Bất kỳ ai đă tu tập pháp quán tưởng, những ai đă thấy vị bổn tôn chỉ là hóa hiện tự tâm ḿnh, có thể giải thoát được vào cảnh giới Báo thân. Đối với những người khác, sự hóa hiện của các vị Thánh hiền ḥa và hung dữ sẽ chớp qua đi. Những người khác sẽ lùi xa khỏi khối sáng rực đó, và những h́nh ảnh và âm thanh của các vị bổn tôn sẽ biến dạng.

Bây giờ xuất hiện một chuỗi bốn chùm ánh sáng màu, mỗi chùm là hai độ rực rỡ, tập trung trên đầu như một chiếc dù - trước tiên là màu trắng, rồi xanh-đen, vàng, và đỏ. Sau khi chuỗi ánh sáng này hiển lộ, ánh sáng mang nhiều h́nh dạng khác nhau. Rồi một h́nh ảnh khởi lên như một sơ đồ thế giới, với các mạn đà la của tam thân (Pháp thân, Báo thân, Sắc thân - ND) và dưới các mạn đà la, là sáu cơi chúng sinh. Sơ đồ này rất trong sáng và chi tiết, và nếu có ai thấy được bản tánh của tam thân, th́ người đó giải thoát. Nếu chúng sinh nào tránh né khỏi các tia sáng chói lọi và bị thu hút về các tia mờ, nếu chúng sinh nào không thấy bản tánh của mạn đà la tam thân và bị thu hút về sáu cơi, th́ các h́nh ảnh nhạt dần, và thân trung ấm của thực tánh của vạn pháp chấm dứt.

Thân trung ấm của sự trở thành (Anh ngữ: bardo of becoming; Tạng ngữ: sidpa bardo) th́ như một giấc mơ. Nếu có ai đă tập thiền trong kiếp trước của ḿnh đủ vững vàng để nhớ tới vị thầy của ḿnh hay vị bổn tôn đă chọn, th́ sự giải thoát vào sắc thân [Phật] vẫn có thể thành tựu. Nếu chúng sinh này đă quên đi niềm tin trước đó của ḿnh, và không có thể tái thiết lập thiền định, th́ đau đớn lớn xảy ra. Thân trung ấm của sự trở thành là một nơi hoang vắng, nơi bầu trời mang mầu xám, không có mặt trời hay mặt trăng, không có nước hay lương thực, và chúng sinh trải qua đủ loại kinh nghiệm hăi hùng, như bị rượt đuổi bởi các nhóm thù nghịch hay là thú rừng, hay là rơi từ các đỉnh núi khi chúng biến thành các trận tuyết lở. Chúng sinh trải qua những kinh nghiệm này dường như chúng sinh này đă mang thân người và không có kư ức ǵ về sự hấp hối, không có kư ức ǵ về thân trung ấm của giây phút ĺa trần, cũng như về thân trung ấm của bản tánh thật của vạn pháp.

Chúng sinh vào thân trung ấm của sự trở thành trong một thân thần-thức (mental body). Năng lực của 5 phần tử (ngũ uẩn-ND) ḥa lẫn với các phương diện vi tế của ư thức và các năng lực vi tế của thân thần-thức, làm cho nó dày đặc hơn. Năm uẩn phát triển tới điểm mà các thân trung ấm có thể nh́n thấy, và được nh́n thấy bởi các thân trung ấm khác và bởi các vị trong các cảnh giới khác có khả năng thần thông. Các bộ phận cảm quan (của thân trung ấm-ND) h́nh thành, và cần có dưỡng chất, điều này được tiếp nhận trong h́nh thức mùi hương. Các thân trung ấm không bao giờ ở lâu một nơi, bởi v́, trong trạng thái không cân nặng này, các thân trung ấm tức khắc được mang tới bất cứ nơi nào mà họ mong muốn. Thoạt tiên, họ có thể cảm thấy một cảm giác có sự khoan khoái và quyền lực lớn trong trạng thái này, nhưng khi mong muốn của họ đi nơi này và nơi kia và họ bị buộc phải theo, và khi những mong muốn này bị ngăn trở, các thân trung ấm càng lúc càng dao động và bực bội. Họ tụ họp ở các cây xưa, nhà cũ, và các nơi hoang vắng, và loài người cảm nhận các thân trung ấm đó là ma.

Khi các uẩn dày đặc hơn, th́ sự mong muốn, sự ghen tị và sự giận dữ của các thân trung ấm càng tăng. Họ nh́n thấy chúng sinh nơi 6 cơi, và muốn những ǵ mà các chúng sinh đó có. Khát vọng t́m một h́nh tướng trở thành khẩn cấp, và điều này lôi cuốn họ gần thêm tới cơi phù hợp với nghiệp lực của họ. Nếu ư thức của họ mang sự căm thù và giận dữ giết chóc, th́ những cảm xúc này, được triển nở đầy đủ, dẫn tới tái sinh trong cảnh giới địa ngục. Nếu nhiều khát vọng và tham lam, khuynh hướng này khi phát triển đầy đủ sẽ dẫn tới tái sinh trong cơi quỷ thần. Sự ngu dốt và trực giác mù quáng dẫn tới tái sinh trong cảnh giới thú vật. Tính ghen tị và tính cạnh tranh, kết hợp với vài đức hạnh, dẫn tới tái sinh trong cơi bán thiên (demigod realm), trong khi sự hănh diện hay mê luyến niềm vui thiền định, cùng với đức hạnh, dẫn tới các tầng chư thiên cơi dục giới. Thiền định bị mê luyến vào sự trong sáng - viễn kiến, tiên tri và tương tự - dẫn tới tái sinh trong cảnh giới sắc tướng của chư thiên. Thiền định bị mê luyến bởi sự ổn định dẫn tới tái sinh trong cơi trời vô sắc.

Tái sinh trong cơi người là do kết quả tổng hợp của công đức, kết tập từ các việc làm từ bi, và các điều xấu, khởi lên từ ngũ độc. Hoàn cảnh tái sinh vào cơi người - hoặc là người này sẽ giàu hay nghèo, khỏe hay yếu, thông minh hay khờ khạo, tất cả các cực này và khoảng giữa chúng - tùy thuộc chính xác vào tổng hợp nghiệp thiện và nghiệp ác của người đó. Các biến đổi cũng vô tận, bởi v́ ảnh hưởng nghiệp thức th́ không ngưng nghỉ.

Mệt mỏi v́ sự xáo động của thân trung ấm của sự trở thành, thèm khát sự ổn định của một thân xác, một thân trung ấm có nghiệp tái sinh vào cơi người sẽ bị lôi kéo về cảnh giao hợp của bố mẹ tương lai. Nếu trung ấm này sẽ tái sinh làm người nam, th́ sẽ bị lôi kéo về phía người mẹ, và ghen với người cha; nếu sẽ tái sinh làm nữ, th́ bị lôi kéo ngược lại. Vào khoảnh khắc thụ thai, th́ cái tâm thức vô tướng đó, bị thúc đẩy bởi các năng lực vi tế không ngưng nghỉ, kết hợp với tinh trùng và trứng của bố mẹ. Thân trung ấm của sự trở thành giữ tiếp trong khoảng hơn 9 tháng, cho tới khi ra đời, điều cho thấy rằng bánh xe luân hồi đă xoay đủ một ṿng tṛn. Một kiếp người lại bắt đầu.

CHÚ THÍCH

(1) Bản Anh văn ghi tên ba vị là Amitabha, Avalokiteshvara và Amitayus. Hai vị đầu dịch ra Việt ngữ là A Di Đà Phật, và Quan Thế Âm Bồ tát. Nhưng chữ “Amitayus” lại có nghĩa là “Vô Lượng Thọ,” một danh hiệu khác của Phật A Di Đà. Trong khi theo kinh điển Tịnh độ th́ vị thứ ba phải là Đại Thế Chí, tức Anh ngữ phải là Mahasthamaprapta. Tuy nhiên, bản Việt dịch sẽ giữ hoàn toàn trung thực với nguyên tác Anh ngữ, và sẽ ghi các chỗ nghi vấn.

Cần phải ghi nhận thêm rằng cuốn Tử thư Tây Tạng, The Tibetan Book of the Dead - bản Anh dịch và chú giải của Francesca Fremantle và Chogyam Trungpa, ấn bản 2000 của NXB Shambhala, trang 46 - ghi rằng lúc đó “Phật A Di Đà sẽ xuất hiện trước người chết từ hướng Tây phương Cực lạc, toàn thân màu đỏ, tay cầm hoa sen và ngồi trên ngai trên lưng chim công, ôm người bạn đạo là Pandaravasini. Ngài được đi kèm theo bởi hai nam Bồ tát là Quan Thế Âm và Văn Thù và hai nữ Bồ tát là Gita và Aloka, để 6 h́nh tướng Phật xuất hiện từ không gian của ánh sáng cầu vồng.” Có lẽ, chỉ nên xem các mâu thuẫn nơi đây như là các ngón tay dị biệt đang cùng chỉ về một mặt trăng, và có khi chỉ là mang tính ẩn dụ, chứ không có ǵ sai lạc cả.

Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 2 of 14: Đă gửi: 16 February 2006 lúc 9:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

                  NHÂN DUYÊN


Trong Mădhyamaka Săstra (Trung Quán Luận) của Ngài Năgărjuna (Long Thọ) phẩm Quán về Nhân Duyên có 16 bài tụng bàn luận về Nhân Duyên . V́ đương thời có nhiều thuyết cho rằng Vạn Vật từ trời Đại Tự Tại sinh, từ trời Vĩ Nữu sinh, từ sự Ḥa Hợp sinh, từ Thời Sinh , từ Thế Tính sinh, từ Biến Hóa sinh, từ Tự Nhiên sinh, từ Vi Trần sinh v.v… V́ có những kiến chấp sai lầm bị rơi vào ṿng tà kiến , chấp : vô nhân, tà nhân, đoạn, thường v.v… và chấp : ngă, ngă sở; do đó không thể thấu hiểu chánh pháp .




Đức Phật muốn đoạn trừ tất cả những tà kiến nên đối với hàng Thanh Văn Ngài đă giảng dạy 12 Nhân Duyên . Sau đó để dẫn dắt lên bậc cao hơn Phật mới giảng dạy Pháp Đại Thừa nói rơ thật tướng của Pháp Nhân Duyên là “tất cả pháp chẵng sinh chẵng diệt, chẵng một chẵng khác, chẵng thường, chẵng đoạn v.v… rốt ráo không .

Trong kinh Bát Nhă Ba La Mật Phật bảo ông Tu Bồ Đề rằng : “Bồ Tát khi ngồi ở Đạo Tràng, quán 12 nhân duyên như hư không, không thể cùng tận…” .

Năm trăm năm sau Phật nhập diệt , vào thời Tượng Pháp , con người không hiểu thâm ư trong lời Phật dạy , chấp vào văn tự, nghe trong kinh điển Đại Thừa nói : “nghĩa rốt ráo” nhưng chẵng thấu rơ nghĩa, không biết v́ nhân duyên ǵ mà Phật nói Tánh Không, sinh tâm nghi ngờ kiến chấp : “Nếu tất cả rốt ráo không thời làm sao phân biệt có tội phước báo ứng; và như vậy sẽ không có thế đế, và đệ nhất nghĩa đế?” .

V́ để giải rơ lư duyên khởi nên ngài Long Thọ viết 16 bài tụng như sau (Do ngài Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn ra Hán văn, Như Tạng dịch ra tiếng Việt) :      

   

1.   Không sinh cũng không diệt,

Không thường cũng không đoạn

Không một cũng không khác

Không đến cũng không đi.

(Bất sinh diệt bất diệt, bất thường diệt bất đoạn

Bất nhứt diệt bất dị, bất lai diệt bất xuất)



2. Khéo nói nhân duyên ấy

Hay diệt những hí luận

Đệ nhất trong các thuyết

Con cúi đầu lễ Phật

(Năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hí luận

Ngă khể thủ lễ Phật, chư thuyết trung đệ nhất)

Hai bài tụng trên tổng thể tóm kết 8 pháp : không sinh, không diệt; không thường, không đoạn; không một , không khác; không đến, không đi .

Mặc dù Pháp có vô lượng nhưng 8 món đó đủ tổng phá hết thảy Pháp để t́m hiểu về Tánh Không.

Nói về tướng Sinh có nhiều thuyết rất khác nhau như : nhân và quả một thể; nhân và quả khác thể; hoặc là nói trong nhân trước có quả; hoặc nói trong nhân trước không có quả; hoặc cho là quả chính tự thể sinh; hoặc cho là do cái khác sinh; hoặc do tự và tha cọng sinh; hoặc cho là tự nhiên sinh không có nguyên nhân v.v… Tất cả những thuyết ấy đều phiến diện , không đúng nên tướng sinh không thể tự có do đó gọi là Không Sinh .

Đă không Sinh th́ không có cái ǵ để diệt. V́ không sinh diệt nên sáu món c̣n lại không tồn tại .

Nếu đi sâu vào nghĩa chẵng thường , chẵng đoạn th́ ta sẽ trỡ lại giống như chẵng sinh , chẵng diệt . V́ nếu các pháp có thật tức là không thể không có. Trước có mà nay không tức là Đoạn. Nếu trước sẵn có Tính tức là Thường. Do đó chẵng thường , chẵng đoạn đồng nghĩa với chẵng sinh chẵng diệt .

Bốn món c̣n lại là chẵng một chẵng khác; chẵng đến chẵng đi th́ thế nào ? Nếu nhân và quả nhất thể th́ không có tương tục. Nhất thể th́ trước sau như một, đâu phải tương tục từ nhân tới quả .

Chẵng một, chẵng khác ? Mầm nảy sinh từ hạt lúa nhưng mầm không phải là hạt lúa. Hai vật đó không phải một nhưng cũng không phải khác. Đó là thí dụ điển h́nh cho tướng trạng của các pháp .

Chẵng đến , chẵng đi ? Mầm trong hạt lúa không thấy từ đâu đến , v́ nó đă có sẵn trong hạt lúa nên nói không đến .

Không đi v́ mầm ấy sinh ra từ hạt lúa và phát triễn thành cây lúa , không có hiện tượng mầm tách rời hạt để di động đi nơi khác nên gọi là không đi . Những điều đó tượng trưng cho tướng trạng của các pháp không đến, không đi.

Trường hợp nầy trở lại hai trường hợp ban đầu là v́ các pháp không sinh nên không có ǵ để diệt mất và do đó 6 món c̣n lại tự nhiên không tồn tại nữa, trở về tánh không của đệ nhất nghĩa đế mà Ngài Long Thọ muốn nói đến.



3. Các pháp không tự sinh

Cũng không sinh từ cái khác

Không cọng sinh, không vô nhân sinh

Do đó nên hiểu rằng , các pháp vốn vô sinh

(Chư pháp bất tự sanh, diệt bất tùng tha sanh

Bất cọng bất vô nhân, thị cố tri vô sanh)



Các pháp không sinh ra từ chính nó nghĩa là phải hội đủ nhân duyên mới sinh khởi ra được. Nếu pháp tự chính nó sinh ra tức là một pháp có hai cá thể : sở sinh và năng sinh . Và các pháp nếu không cần nhân duyên mà sinh th́ như thế nó cứ tự sinh sinh măi không hợp với luật nhân quả . Ví dụ hạt lúa cứ để nơi khô ráo măi th́ tự nó không thể nảy mầm được . Muốn cho hạt lúa năy mầm phải ngâm nước một thời gian cần thiết và rồi phải gieo xuống đất một thời gian cần thiết nó mới năy mầm . Như thế nếu bảo là tự sinh mà không có các nhân duyên hợp thành tức là trái với luật nhân quả .

Không sinh ra từ cái khác ? Ví dụ hạt cam không thể sinh ra cây lúa .

Hạt lúa trộn với hạt cam và cứ thế để nơi khô ráo măi cũng không thể nẫy mầm thành cây lúa được v́ thiếu các nhân duyên sinh . Do đó không phải tự nó hoặc cọng với cái khác mà sinh ra được.

Nếu các pháp tự nhiên sinh tức là không nhân mà lại có quả . Chẵng khác nào có người v́ muốn có quít để ăn mà hằng ngày cứ ngồi chờ trên tảng đá mọc ra cây quít th́ than ôi có bao giờ có được !

Ngài Long Thọ nói các pháp vốn vô sinh nghĩa là trỡ về cái tánh không của các pháp, pháp vốn không có th́ làm ǵ có Sinh với vô sinh.



4. Như tự tánh các pháp

Không tại nơi trong duyên

Vốn dĩ không tự tánh

Tha tánh lại cũng không

(Như chư pháp tự tánh, bất tại ư duyên trung

Dĩ vô tự tánh cố, tha tánh diệt phục vô)



Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. V́ các duyên ḥa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan ră th́ các pháp mất do đó các pháp không có tự tính cá biệt . Tự tính không ở trong các duyên . Ví dụ vật chất được các nguyên tử kết hợp thành phân tử , nhiều phân tử kết hợp lại thành một vật nào đó . Đó là những chuổi dài các duyên ḥa hợp sinh ra . Nếu phá vỡ nguyên tử đi th́ vật ấy bị hoại diệt . Như thế là vật ấy không có tự tính cá biệt ǵ cả chỉ do các duyên ḥa hợp mà sinh ra . V́ không có tự tính nên tha tính hẵn là không có .

V́ tự sinh, tha sinh, cọng sinh, vô nhân sinh không có tướng sinh nên gọi là vô sinh.



5. Nhân Duyên, Thứ Đệ Duyên

Sở Duyên Duyên, Tăng Thượng Duyên

Bốn Duyên sinh các Pháp

Không c̣n Duyên thứ năm.

(Nhân duyên thứ đệ duyên, duyên duyên tăng thượng duyên

Tứ duyên sanh chư pháp, Cánh vô đệ ngủ duyên)



Nói về duyên th́ có rất nhiều nhưng tổng thể đều gôm vào 4 duyên kể trên. Do bốn duyên ḥa hợp mà sinh ra các pháp .

Nhân Duyên là chỉ cho các pháp hửu vi. Thứ Đệ Duyên là chỉ cho tâm tâm số pháp quá khứ hiện tại, trừ tâm tâm số pháp tối hậu của vị A La Hán quá khứ, hiện tại . Sở Duyên Duyên và Tăng Thượng Duyên là chỉ cho tất cả các pháp .



6. Quả là từ duyên sinh

Hay là từ phi duyên sinh

Trong duyên ấy là có quả

Hay trong duyên ấy là không có quả

(Quả vi tùng duyên sanh, vi tùng phi duyên sanh

Thị duyên vi hửu quả , thị duyên vi vô quả )



7. Nhân pháp ấy sinh quả

Pháp ấy gọi là Duyên

Nếu quả ấy chưa sinh

Sao không gọi là Phi Duyên

(Nhân thị pháp sinh quả, thị pháp danh vi duyên

Nhược thị quả vị sanh, hà bất danh phi duyên)



Ví dụ cái bánh ḿ . Khi thấy bánh ḿ ta biết do nước và bột nhồi lại rồi nướng lên mà thành bánh ḿ. Bánh ḿ là quả . Nhờ thấy quả mà biết được bột và nước là duyên của nó. Như thế khi chưa có bánh ḿ sao không gọi bột, nước là phi duyên .



8. Quả, trước có trong duyên ?

Có, không đều không thể

Nếu trước không có quả, th́ duyên ấy làm duyên cho cái ǵ ?

Nếu trước đă có quả th́ cần ǵ phải có duyên?

(Quả tiên ư duyên trung, hửu vô câu bất khả

Tiên vô vi thùy duyên, tiên hửu hà dụng duyên)



9. Nếu quả không hửu sinh

Lại cũng không vô sinh

Cũng không hửu vô sinh

Sao có thể nói là hửu duyên

(Nhược quả phi hửu sanh, diệt phục phi vô sanh

Diệt phi hửu vô sanh, hà đắc ngôn hửu duyên)



Đức Phật thường đă dạy các Pháp do nhân duyên sinh nhưng tại sao đây lại phủ nhận nhân duyên sinh ?

Đức Phật dạy Pháp do nhân duyên sinh là mục đích chỉ rơ các pháp vốn không có thực thể , không có thật ngă độc lập ngoài các duyên. Không phải do nhân duyên sinh ra cái ǵ khác nó, riêng biệt ngoài nó mà quả chỉ hiện có giả tạm trên các duyên. Do đó nói pháp do duyên sinh nhưng thật ra không sinh ra cái ǵ thật có độc lập. Nếu nhân duyên sinh ra cái ǵ đó độc lập với nó tức là hửu ngă chứ không phải duyên sinh vô ngă.

Nhưng pháp đă do duyên sinh th́ phải là vô ngă chứ không thể hửu ngă. Như thế là duyên không sinh ra cái ǵ khác nó nên gọi là không có nhân duyên sinh, theo như ngài Long Thọ đă nói .



10. Nếu khi quả chưa sanh

Ắc không thể có diệt

Pháp hoại diệt th́ c̣n có thể làm duyên cho cái ǵ được?

Do đó không có thứ đệ duyên

(Quả nhược vị sanh thời, tắc bất ưng hửu diệt

Diệt pháp hà năng duyên, cố vô thứ đệ duyên)



Các pháp hiện tại không lúc nào an trụ , nếu không an trụ thời không thể làm duyên thứ đệ. Nếu an trụ thời nó không phải là pháp hửu vi . V́ tất cả pháp hửu vi thường có tướng hoại diệt. Nếu diệt rồi thời không thể làm duyên thứ đệ.

Phật dạy hết thảy pháp hửu vi niệm niệm diệt, không có một giây phút ngừng trụ, vậy làm sao nói pháp hiện tại có một phần sắp diệt, một phần chưa sắp diệt. Trong luận A Tỳ Đạt Ma nói có pháp sắp diệt, có pháp chưa sắp diệt . Pháp sắp diệt là pháp hiện tại , sắp muốn diệt. Pháp chưa sắp diệt là chỉ tất cả pháp hiện tại khác và pháp quá khứ , vị lai, pháp vô vi, trừ pháp hiện tại sắp diệt. Đó gọi là pháp chưa sắp diệt.

Do đó nên không có thứ đệ duyên.



11. Như chư Phật đă dạy

Pháp chơn thật vi diệu

Đó là pháp không duyên

Th́ làm ǵ có sở duyên duyên

(Như chư Phật sở thuyết, Chơn thật vi diệu pháp

Ư thử vô duyên pháp, vân hà hửu duyên duyên)



Đức Phật dạy các pháp , theo Đại Thừa, rằng tất cả các pháp hoặc có sắc không sắc , có h́nh không h́nh , hửu lậu vô lậu, hử vi vô vi, khi nhập vào pháp tính thời tất cả đều không. Vô tướng, vô duyên ví như muôn sông chảy vào biển, ḥa đồng một vị, đó là thật pháp đáng tin. C̣n các pháp Đức Phật nói ra để thích ứng với căn cơ , đó là những phương tiện truyền dạy các pháp không thể xem là thật .

Do đó không có Sở Duyên Duyên.



12. Chư pháp không có tự tánh

Nên không có thật tướng

Nếu nói v́ việc nầy có

Nên việc kia có là không hiển nhiên

(Chư pháp vô tự tánh, cố vô hửu hửu tướng

Thuyết hửu thị sự cố, thị sự hửu bất nhiên)



Bài tụng nầy muốn phá chấp về Tăng Thượng Duyên.

V́ các pháp từ các duyên sinh , tự nó không có tự tính nhất định nên không có thật tướng. V́ các pháp không có thật tướng cho nên nếu nói v́ việc nầy có nên việc kia có là không đúng . Hàng phàm phu phân biệt có và không nên Đức Phật v́ giáo hóa hàng phàm phu mà phải nói các duyên để phá trừ có và không .

Khi nói về 12 nhân duyên Phật dạy do cái nầy có nên cái kia có, như có vô minh nên có hành, có hành nên có thức v.v…mục đích là để chỉ rơ lư duyên sinh của các pháp. Nói vô minh có nên hành có không có nghĩa là vô minh và hành có thật. V́ vô minh và hành đều do duyên sinh . Tất cả các giai đoạn giảng giải về duyên sinh của các pháp đều là phương tiện để cuối cùng đưa về tính không của các pháp .



13. Trong nhân duyên rộng, hẹp

T́m quả không thể được

Nếu trong nhân duyên không có

Sao có thể gọi là từ duyên sinh

(Lược quản nhân duyên trung, cầu quả bất khả đắc

Nhân duyên trung nhược vô, Vân hà tùng duyên xuất)



14. Nếu nói duyên không quả

Nhưng từ trong duyên sinh

Quả ấy sao không từ

Trong phi duyên mà ra

(Nhược vị duyên vô quả, Nhi tùng duyên trung xuất

Thị quả hà bất tùng, phi duyên trung nhi xuất)



15. Nếu quả từ duyên sanh

Nhưng duyên ấy không có tự tánh

Từ vô tự tánh sinh

Không thể được gọi là từ duyên sinh

(Nhược quả tùng duyên sanh, thị duyên vô tự tánh

Tùng vô tự tánh sanh, hà đắc tùng duyên sanh)



16. Quả không từ duyên sanh

Không từ phi duyên sinh

Quả vốn thật sự không

Duyên, phi duyên cũng đều không .

(Quả bất tùng duyên sanh, bất tùng phi duyên sanh

Dĩ quả vô hửu cố, duyên phi duyên diệt vô)



Ngài Long Thọ muốn tóm lược những lời Phật dạy trong các kinh điển. Lúc đầu đưa ra nhân duyên, 12 nhân duyên để giải thích sự tương quan sinh khởi của các pháp . Thế nhưng tóm lại tất cả pháp đều sinh diệt tương tục, không có tự tánh nên duyên, nhân duyên , phi duyên, nhân, quả,… đều không thật có.

Dẹp mọi tà kiến hí luận như Ái Luận , tâm đắm nhiễm chấp thủ các pháp. Hoặc Kiến Luận, kiến giải sai lầm, như kiến chấp tà nhân luận, vô nhân luận v.v…

Mục đích của bổn luận là đưa hành giả đến chánh quán, thật tướng, trung đạo, tiến đến giác ngộ giải thoát.   



Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 3 of 14: Đă gửi: 17 February 2006 lúc 1:21am | Đă lưu IP Trích dẫn vuithoi

Kính chào mọi người,

T́nh trạng thân trung ấm thật đáng sợ cho người nghiệp nặng. Đặc biệt những người bị đau khổ ngay trước khi chết. Dĩ nhiên nếu quá nặng th́ ngay sau khi chết liền bị nghiệp lực cuốn hút đi ngay.

Thật không dễ dàng chọn lựa chút nào nếu trong khi sống chưa từng tu tập về sự chết và khi chết không có vị thầy có đủ khả năng hướng dẫn.

Không phải thân trung ấm không muốn lựa chỗ tốt tái sinh mà do nghiệp lực "xua đuổi" và "lôi kéo".

Bước đầu của t́nh trạng bardo là âm thanh "kỳ quái" của vũ trụ. Các thầy Tây tạng đă cố gắng tạo những âm thanh tương tự để cho người ta nghe quen dần. Hiện nay có rất nhiều CD về Bardo. Tuy chưa thể diễn tả hết v́ không thể nào làm được âm thanh vũ trụ cộng với việc chúng ta không ở trong t́nh trạng chơi vơi 1 ḿnh nhưng cũng giúp phần nào cho việc làm quen với âm thanh.

Tùy theo nghiệp duyên hay nói 1 cách khác dễ hiểu là cái ǵ chúng ta sợ nhất sẽ ảnh hiện lúc này. Ai đă từng có ác mộng sẽ hiểu được cảm giác đó nhưng tệ hại hơn là không có thân xác thịt để trở lại nên lẩn tránh mà chẳng biết tránh đi đâu cho nên càng tránh sẽ dần vào đường dữ hơn.

Không phải trong t́nh trạng bardo người ta không nhận thấy các luồng ánh sáng chói ḷa mà v́ nghiệp mà khi họ thấy ánh sáng chói ḷa phát sợ bỏ chạy qua ánh sáng có cường độ nhẹ hơn hay đen để lẩn tránh.

Một điều đáng sợ nữa là khi rời khỏi thân xác, cái xác này sẽ bị rất nhiều "ma" giành giựt. Tùy theo nghiệp và bản tính của họ khi c̣n sống mà họ bảo vệ hay sợ hăi chạy trốn.

T́nh trạng thân trung ấm rất ư là phức tạp tùy theo mỗi người. Tuy nhiên tùy theo nghiệp lực và sự tu tập của họ mà mới có cơ hội thoát sanh.

Dĩ nhiên, ngay trước khi chết sự giúp đỡ bên ngoài cũng góp phần rất quan trọng đặc biệt là phép di chuyển thần thức. Sau khi mất sự hồi hướng của những người thân là quan trọng nhất. Việc hồi hướng chủ yếu là ḷng thành.

Tuy nhiên, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ tạo điều kiện cho người mất có cơ hội vào đường tốt hơn nhưng nếu người mất không chịu th́ cũng đành "bó tay".

Trong cuộc sống thường ngày hầu hết mọi người đều có những giấc mơ. Nếu ai chưa từng có cơn ác mộng nào và trong giấc mộng cũng tỉnh thức như trong cuộc sống th́ thành thật chúc mừng. Những ai đă từng có ác mộng hay trong mơ không thể tỉnh thức mà bị lôi cuốn th́ xin hăy thận trọng giữ ḿnh tu tập.

Biết bao nhiêu người sống nương tựa bên ngoài, một khi thất thế th́ ôi thôi mất cả tư cách của người b́nh thường. Mấy người vẫn giữ được khí tiết của ḿnh khi lâm cảnh bế tắc.

Ở đời c̣n vậy hà huống là chuyện sanh tử. Khi sống dù biết sẽ chết mà chưa bao giờ chịu chuẩn bị cho cái chết đường hoàng để rồi khi lâm cảnh th́ không biết đường nào mà rờ, chịu nghiệp lôi kéo vào 3 đường dữ.

Chúng ta sinh ra trong loài người là một điều may mắn. Nhưng cũng phải biết là chúng ta nghiệp dày phước mỏng mới sinh vào loài người, trừ chư vị thị hiện cứu độ. Tuy nói là nh́n cuộc sống hiện tại mà biết nghiệp quá khứ nhưng thật ra chỉ là một phần nghiệp đủ duyên trổ trong cuộc sống này mà thôi.

Việc học cần phải hành cho đến khi nào bản thân ḿnh thấy như cái thấy của người chứ không phải nhận thấy hiểu cái thấy của người là đủ. Đây là chỗ mà chư Tổ nói là "ăn bánh vẽ". Kể cả khi thấy được chỗ như chư Phật thấy cũng chưa phải là Phật. Đây cũng là ư nghĩa của một đoạn trong kinh Pháp Hoa " khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật". Như chư tổ khi "triệt ngộ" vẫn c̣n phải học "bảo nhậm".

Quư vị có ḷng truyền bá kinh điển là điều đáng mừng. Tuy nhiên, nếu chỉ dọn cho người ăn mà ḿnh không ăn th́ không thể no được. Chưa nói đến mùi vị thật của thức ăn như thế nào và c̣n có hợp với khẩu vị của họ không.

Mong rằng mọi người phổ quảng những hiểu biết của ḿnh và đồng thời chính bản thân ḿnh cũng tu tập cho đến chỗ đó. Tất cả Phật pháp đều có thể đưa người đến an lạc. Tùy duyên người nhận mà tu tập.

Kính chúc mọi người an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 4 of 14: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 4:08am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

Trong kinh Phật dạy: Bồ tát giản dị lắm, một chúng sinh biết tu, biết tỉnh giác, là Bồ tát, là hữu t́nh giác. Một chúng sanh hữu t́nh biết giác ngộ, lại c̣n phát tâm giác ngộ cho kẻ khác nữa, đó mới thật là Bồ tát, tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha đầy đủ.

Trong cuộc sống này, người nào không bị ngũ dục lôi cuốn, lại thường tập tu, biết tỉnh giác và t́m cách tỉnh giác cho người chung quanh ḿnh, đó là Bồ tát. Bồ tát giác ngộ cái ǵ? Trước hết Bồ tát thấy thân tứ đại, ngũ uẩn nầy không thiệt có, nó tạm bợ vô thường. Kế đó thế giới cũng giả tạm không thiệt, ngay cả trong thân tâm ta cũng là giả tạm. Đối với ngoại cảnh biết là vô thường, đó là điều giác ngộ thứ nhất.

Biết người nào cả ngày, cả đời say mê theo ngũ dục, người đó phải bị trầm luân khổ hoài, khổ măi, không phải khổ trong đời này mà thôi, mà phải nối tiếp không biết bao nhiêu đời về sau nữa, phải khổ cực dài dài, đời đời kiếp kiếp không cùng tận. Nguyên nhân chính của sự trầm luân sanh tử kiếp kiếp đời đời này gốc từ ḷng tham dục mà ra, đó là phần giác ngộ thứ hai.

Nếu người nào tâm tham dục không biết chán, không biết đủ, th́ tội ác càng ngày càng tăng trưởng, tham dục là gốc của tội lỗi, sẽ tuỳ theo sự giảm thiểu tham dục tội lỗi cũng theo đó mà giảm, mà hết. Như vậy, người phật tử chân chánh biết tu th́ phải ít muốn biết đủ, đó là điều giác ngộ thứ ba.

Đức phật gọi cơi Ta bà chúng ta hiện đang sống đây là cơi dục giới, do đó con người ḷng tham nặng, quá sân, người nghèo tham đă đành, người giàu bao nhiêu cũng không thấy đủ. Trong Khế kinh Phật dạy: “Tri túc chi nhơn, tuy ngoạ địa thượng vu vi an lạc; Bất tri túc chi nhơn tuy xử thiên đường diệc bất xứng ư”, nghĩa là người biết đủ dù nằm dưới đất, co tay làm gối, ăn cơm hẩm cũng cảm thấy an vui; c̣n người không biết đủ dù có ở trên cung trời cũng vẫn không vừa ư.

Cho nên người nào biết an phận, tuỳ duyên, dù trong mọi hoàn cảnh nào, lúc nào cũng được an vui. Trong kinh Di giáo Phật dạy: “Nhược dục thoát chư khổ năo, đương quận tri túc; tri túc chi pháp, tức thị phú lạc, an ổn chi sư”, nghĩa là nếu muốn thoát mọi sự khổ năo, cần phải phán xét suy nghiệm hai chữ tri túc (biết đủ), bởi v́ phương pháp tri túc đây, tức là giàu có an lạc nhất, an ổn nhất của con người.

Ngài Ấn Quang pháp sư có dạy: “Cơm rau đỡ dạ đói; Nhà cỏ che gió sương; Người đời nếu biết đủ; Phiền năo chẳng c̣n vươn”. Cho nên người nào càng ao ước cho ḿnh có được danh vọng ở đời cao chừng nào, là khổ chừng nấy, người nào biết đủ là tự tại, an lạc trong cuộc sống.

Đức Phật nói: người nào tham dục nhiều th́ phải bị khổ cả ba giai đoạn. Khi chưa có th́ tham muốn, mong cầu cho ḿnh có; khi t́m cầu đă được rồi, phài lo nghĩ cách nào để giữ ǵn, tính toán đủ thứ lăng xăng, lo sợ không giữ được bị mất; khi bị mất lại cảng khổ hơn, khổ gấp bội, buồn rầu, mất ăn, mất ngũ, có khi không c̣n muốn sống nữa, mong cầu chưa được th́ buồn khổ, mất đi lại càng khổ hơn. Ba giai đoạn đều là khổ, chỉ có người không ham cầu chi cả, là không c̣n cái ǵ làm cho ḿnh phải khổ được.

V́ vậy, muốn hết khổ phải bỏ ư tham cầu, không phải có nhiều mới hết khổ, chỉ một điều duy nhất là không tham cầu là không có khổ. Hàng Bồ tát thường cam chịu nghèo để giữ ǵn đạo đức, người phật tử hiện tại cũng thường là nghèo, v́ chưa có th́ chưa tham cầu, đă có của cải thế gian lại lo bố thí, giúp đỡ người, nghèo mà không tham cầu, không buồn phiền, là người có tinh thần giác ngộ.

Thế nên ngày nay, trong xă hội ngày càng phát triển này, con người có thể tri túc, thiểu dục được không. Con người có biết dừng lại với những tham vọng của ḿnh chăng hay lại bị rơi vào ṿng xoáy của sự phát triển nền kinh tế tri thức. Kẻ có tinh thần giác ngộ là người vẫn sống trong xă hội đó nhưng lại giác ngộ được chân lư của cuộc sống. Thân tuy c̣n tục nhưng tâm lại ĺa cơi mê, làm tất cả các công việc mà chẳng thấy ḿnh làm, ấy mới xứng đáng là Bồ tát của các Bồ tát, là thánh hiền đó vậy, bởi v́:

“Cư trần bất nhiểm là người Thánh

Lẫn tục đừng mê chứng bậc Hiền”

Đó là phần giác ngộ quan trọng nhất trong tất cả các phần giác ngộ, mà chúng ta cần tu tập để đưa Phật giáo trở thành một phương tiện nhập thế hàm chứa sự giải thoát xuất thế gian.

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 5 of 14: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 4:16am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

Ư NGHĨA VIỆC TỤNG NIỆM



          

           TỤNG là đọc tụng. Niệm là suy nghĩ, nhớ tưởng. TỤNG NIỆM là miệng đọc tụng tâm nhớ nghĩ, tâm và miệng hợp nhứt, chú định vào kinh.

           Tụng niệm có nhiều ư nghĩa:



- Tụng niệm để giữ tâm hồn được trong sạch, giao cảm với các tâm niệm tối cao.

- Tụng niệm lại là cách huân tập tâm thức rất tốt, rất dễ dàng theo Chánh đạo.

- Tụng niệm để ôn lại những lời Phật dạy, hầu lấy đó làm phương châm cho đời sống hằng ngày và gieo trồng giống Bồ-đề giải thoát vào tâm thức.

- Tụng niệm để kiềm chế thân, khẩu, và ư trong khuôn khổ thanh tịnh trang nghiêm, chính đáng, không cho nói năng, hành động, suy tưởng buông lung theo tập quán đê hèn tham dục.

- Tụng niệm để cầu an—để ngăn ngừa ḷng tội lỗi, dứt trừ nghiệp chướng lâu đời hầu tránh khỏi tai họa do tội lỗi nghiệp chướng gây nên.

- Tụng niệm để cầu siêu—để chuyển tâm niệm của người khác, khiến họ xa ĺa nghiệp nhân xấu ác, rời khỏi cảnh giới tối tăm, siêu sinh về Lạc Quốc.

- Tụng niệm để làm cho Pháp-Âm lưu chuyển trong nhân gian, cảm hóa mọi người, cải tà qui chánh.

- Tụng niệm để khuyến khích, nhắc nhở ḿnh và người trên đường làm lành, học đạo.

- Tụng niệm để hướng ḷng bi nguyện đến tất cả chúng sanh, cầu cho chúng sanh ḥa thuận vui vẻ.

- Tụng niệm để tỏ ḷng sám hối tội lỗi trước ngôi Tam-Bảo, là nơi hoàn toàn thanh tịnh.



           V́ ư nghĩa đó, người đă tin Phật nên phải phát tâm TỤNG NIỆM và tụng niệm đúng cách. Khi tụng niệm phải ǵn giữ trang nghiêm, tránh mọi sự ồn ào, tạp loạn, tránh mọi điều làm kích động tâm ư đắm lợi mê danh, tham luyến trần tục.



           Chỉ tụng niệm trước bàn thờ Tam-Bảo, trong Đạo-tràng thanh tịnh, hoặc nơi thích hợp chính đáng; không tụng niệm trước chỗ thờ quỉ thần, cúng đồ mặn, đốt vàng mă theo tục lệ mê tín dị đoan, không thích hợp với Phật Pháp.

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 6 of 14: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 4:20am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

BÁT BẤT



Bất sinh, diệc bất diệt,

Bất thường, diệc bất đoạn,

Bất nhất, diệc bất nhị,

Bất lai, diệc bất xuất,

Bất thuyết thị nhân duyên.

Thiện diệt chư hư luận.

Ngă khể thủ lễ Phật,

Chư thuyết trung đệ nhất.




Nói năng trong Chánh Pháp

Im lặng trong Chánh Pháp.

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 7 of 14: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 4:22am | Đă lưu IP Trích dẫn saodem

Nguyện công đức đă làm
Kết duyên lành giải thoát
Đoạn nghiệp chướng năo phiền
Quả Niết Bàn chứng đạt



Nguyện Chánh Pháp lưu truyền
Phổ cập khắp thế gian
Chúng sanh thường tịnh lạc
Phật Đạo chóng viên thành




Nguyện đem miệng lưỡi này
Xưng Tụng Pháp Đại Thừa
Tự nh́n lại lỗi ḿnh
Để tiến tu Đạo Nghiệp



Nguyện đem thân mạng này

Cúng dường Ngôi Tam Bảo.

Nguyện biết trước ngày giờ chết

Trở về Cơi Cực Lạc

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tiếp Độ Đạo Sư A-Di-Đà Phật



__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 8 of 14: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 4:44am | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

Mười Thứ Ma Chướng


Người Dụng Công Tu Thiền
Phải Biện Rành Mười Thứ Ma


        Người ngộ Đạo tu thiền, bởi chẳng phải là việc tầm thường, nên dễ bị các thứ ma trong ngoài năo loạn chánh định. Nếu tự ḿnh không làm chủ được, liền sinh ái trước các cảnh. Nhân cảnh tâm động, kẹt vào rọ ma. Thế th́, vốn là nhân lành, trái lại gặt quả chẳng lành. Kẻ sơ cơ đời sau nên thận trọng đề pḥng đó.

        Ở đây, nêu ra 10 điều biện ma, tự phải gẫm xét. Gặp tâm ma và thiên ma nên dùng trí tuệ quán chiếu, ma nghiệt liền tiêu. Tâm nhơ nếu sạch th́ các chướng tự bặt, cái ǵ lại sợ thiên ma? Nó làm ǵ mê hoặc được tâm người chơn chánh? Nay 10 thứ ma này sẽ thuật rơ sau đây:

(1) Ma oan nghiệt nhiều đời
(2) Ma bên ngoài đến làm mê hoặc
(3) Ma phiền năo
(4) Ma sở tri
(5) Ma tà kiến
(6) Ma vọng tưởng
(7) Ma khẩu nghiệp
(8) Ma bệnh khổ
(9) Ma ngủ
(10) Thiên ma

        Bởi mười thứ ma này vừa nêu nó hay làm nhiễu loạn kẻ mộ Đạo tu hành, nhất là người tu Thiền chơn chánh, nên các hành giả phải đề pḥng cẩn mật.

1. Ma Oan Nghiệt Nhiều Đời
           Loại ma này chính là nghiệp chướng nhiều đời của ta. Bởi từ nhiều kiếp đến nay, chúng ta bị luân hồi, quanh quẩn trong phàm vi, lầm tạo những nghiệp chẳng trung, chẳng hiếu, chẳng nhân, chẳng nghĩa. Sát, đạo, dâm, vọng, tham, sân, si, ái. Kết chặt những oan gia đời nay gặp gỡ. Trong khi chúng ta muốn học đại đạo, nó lại quấy nhiễu chẳng an, làm chướng ngăn việc tu hành khiến chẳng thành tựu được. Chúng ta phải hổ thẹn khẩn thiết cầu sám hối. Trông mong uy lực Tam Bảo gia hộ khiến những oan nghiệt nhiều đời đó tự sẽ tiêu diệt, tự nó thối tan.

        Lại, chúng ta phải phát nguyện lớn làm lợi ích tất cả chúng sanh, để mau được quả vô lậu, chứng Đạo Bồ Đề.

        Là kẻ mới học tu Thiền phải tự sám hối và mănh tỉnh lấy.

2. Ma Bên Ngoài Đến Làm Mê Hoặc
           Loại ma này c̣n gọi là người làm chướng, kẻ bất tín hay nhỏ mọn. Sang hèn chẳng đồng bực. Họ năo loạn định tâm khiến người tu chẳng được yên ổn. Nói chung là do hành giả tự thiếu quyền chước, hoặc thiếu lễ nghĩa, hoặc tự cao, hoặc ngă mạn, hoặc hay nói thẳng, hoặc hành động thô, hoặc dựa thế lực, hoặc ỷ tài hơn, hoặc nói ác, hoặc cho ḿnh giỏi, hoặc nói điều dở của người, hoặc thiếu dáng vẻ ḥa dịu, hoặc không cung kính, hoặc lượng hẹp ḥi, hoặc thiếu nhẫn nại nên người chẳng tin. Họ làm hoặc loạn việc tu hành khiến tâm động niệm, che chướng bản minh. Kẻ mộ đạo lớn, phải tự hạ ḿnh, nuôi dưỡng đạo đức, mới khỏi người ngoài làm chướng. Người trong Tông môn đời sau nên học đức khoan dung nhẫn nại cố gắng hành Đạo.

3. Ma Phiền Năo
           Ma phiền năo cũng gọi là sự chướng. Người tu hành mà chẳng trừ được sự chướng th́ rối rắm thánh đạo. Thế nào là phiền? Sao gọi là năo? Phiền là chạy theo ngoại cảnh, năo ấy là tự sanh trong tâm, người tu Thiền quyết phải dứt hẳn. Nếu chẳng dứt sớm th́ tánh định khó hiện. Như thấy sắc tâm sanh là tâm dâm phiền năo. Khi thấy giết tâm sanh là tâm ác phiền năo. Thấy của tâm sanh là tâm trộm phiền năo. Thấy vật tâm sanh là tâm tham phiền năo. Với người sanh mạn là ngă tướng phiền năo. Đối kẻ thấp kiêu ngạo là phiền năo tự đại. Gặp cảnh nghịch sanh sân là tâm khuể phiền năo. Gặp cảnh thuận vui mừng là phiền năo thích ư. Gặp oan gia sanh ghét là tâm hận phiền năo. Cùng thân thích sinh ưa là tâm tư phiền năo. Nói tóm lại: Với tất cả cái thấy bên ngoài mà trong sanh tâm thủ xả, đều là phiền năo khó nói cho cùng. Thế nên những người tham thiền phải quyết dứt sự chướng. Sự chướng nếu chẳng không, chánh định bị năo loạn. Người tu đời sau, đâu nên xem thường nó ư!

4. Ma Sở Tri
           Ma nầy tức lư chướng. Người tu thiền mà lư chướng chẳng trừ, th́ chánh định bị nhiễu loạn, không thể nào yên ổn được. V́ sao sở tri có lỗi như thế?

        Chính v́ biết ta đắc ngộ, biết ta thông Tông, biết ta minh giáo, biết ta hội lư, văn ta lỗi lạc, ta thấy sâu rông, ta giữ giới nghiêm, ta được chánh định, ta có trí tuệ, ta đă chứng không, ta được tự tại, ta không c̣n ngại, biết ta được thông, biết ta được diệu, ta đă chứng đạo, ta được thành Phật ... Tất cả cái biết đó đều là lư chướng. Lư chướng này chẳng trừ, th́ chấp pháp khó quên, chấp pháp chưa quên th́ chân tâm chẳng hiện. Người trong Tông môn, nên phải tự xét. Sớm dứt chướng này.

           Ma này thường gọi là chấp chướng. Người tu thiền định muốn khỏi rơi vào định tà, th́ phải dứt tà kiến. V́ sao tà kiến làm mất chánh định như thế?

        Bởi các cố chấp như: Chấp tánh chẳng hoại gọi là chấp có, chấp tánh vốn không gọi là chấp không. Chấp vốn bất tử gọi là chấp thường. Chấp theo hơi hám diệt gọi là chấp đoạn. Chấp không sanh ra có là kiến chấp thuộc tự nhiên. Chấp khí hóa ra h́nh là thuộc chấp tà nhân... Như thế gồm các loại cố chấp chẳng có, chẳng không, tức có, tức không và tất cả tà chấp, tà kiến, nhân duyên tự nhiên, đều chẳng rời hai đầu có không, đoạn thường, tự chướng bản lư, dần dần xa vào các ngơ tẻ.

6. Ma Vọng Tưởng
           Ma vọng tưởng này là tự chướng. Tự chướng chẳng không th́ ḍng sanh diệt tiếp nối, điên đảo tán loạn chê chướng bản tâm, do đó người tham Thiền cần phải lư tâm nhiều ở điểm này. Nay xin đưa ra một vài vọng chướng tiêu biểu để tŕnh bày như:

"Vọng tưởng ta ngộ đạo Vọng tưởng ta tu chứng Vọng tưởng ta được định Vọng tưởng ta phát Huệ Vọng tưởng ta biết nhiều Vọng tưởng ta giỏi văn Vọng tưởng ta có danh hiển đạt Vọng tưởng nhiều người cung phụng ta Vọng tưởng ta làm thầy thiên hạVọng tưởng nhiều người qui hướng taVọng tưởng ta nối tiếp Tổ đăng Vọng tưởng ta sẽ làm trụ tŕVọng tưởng ta hoá ĐạoVọng tưởng ta truyền lụcVọng tưởng nhiều người nối dơi ta Vọng tưởng ta sẽ được nhập tạngVọng tưởng ta có thần thôngVọng tưởng ta được huyền diệu Vọng tưởng ta rất kỳ đặcvà có nhiều quái lạ như: ta sẽ sống lâu, ta sẽ cải lăo hoàn đồng, ta sẽ bay cao, ta sẽ thành Phật... Các cuồng vọng như thế làm rối rắm động niệm, trái với chân thể thanh tịnh của ḿnh. V́ thế, người sơ cơ học Đạo phải biết mà dứt nó."

7. Ma Khẩu Nghiệp
           Ma này là cuồng chướng. Người tu mà chẳng kiểm điểm ngôn ngữ của ḿnh mặc ư cao đàm hùng biện, làm tổn thần lao niệm, sẽ mất Thiền định chân chánh. Nhân sao mà khẩu nghiệp có lỗi lớn như thế? Bởi hay: Đàm huyền thuyết diệu, giảng giáo nói tông. Khoe ḿnh đắc ngộ, chê người ngu mê. Luận chỗ hay dở. Nói điều phải quấy của người. Ngâm ca thi phú, nói bừa những việc không đâu. B́nh nghị những việc hưng phế xưa nay của quốc gia, xưa th́ cho người hiền mà ngu, nay th́ bảo người hung mà giỏi. Toàn những việc chẳng dính líu về ḿnh mà cứ gân cổ tranh luận. Lại vô cớ khen chê việc hơn thua của người. Phô diễn các cảnh dục lạc, khiến người sanh đắm trước. Bàn căi những chuyện bất b́nh làm cho kẻ nghe phát phẫn. Trước mắt th́ công kênh đề cao. Sau lưng th́ lại chê bai biếm nhẽ. Đó là những lời nói lợi hại làm mất chánh định của người. Người tu Thiền đời sau phải thận trọng nghiêm ngặt. Bởi loại cuồng chướng này, chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng đức mà c̣n khiến cho tâm chúng ta tán động.

        Thế nên những kẻ sơ cơ, phải ngừa pḥng khẩu nghiệp cẩn thận!

8. Ma Bệnh Khổ
           Đây là khổ chướng. Thân có nhiều bệnh tật là do nghiệp nặng. Hoặc tự ḿnh làm mất sự điều ḥa, biến sanh các thứ bệnh, làm cho người học đạo tu hành chẳng an, chẳng thọ dụng được pháp lạc thù thắng. Nay xin nêu dẫn một vài điều thiết yếu để người tu hành đề pḥng.

        Trước hết phải điều ḥa t́ vị, chỉ nên dùng những thức ăn thích hợp với cơ thể. Bớt ăn những vị quá đậm đà. Chớ ăn đồ sống và lạnh, khi đói chớ tụng đọc, khi no chớ làm việc nặng, sau khi ăn không nên ngủ liền. Về đêm chớ ăn no quá.

        Tóm lại người ưa ăn những thứ nhừ nát, hoặc thích những thứ rang nấu. Khoái ăn đồ ướp ngũ vị, dùng nhiều những thứ không hợp với thân. Lại, ngồi thiền chỗ đất thấp, ngủ nghỉ chỗ gió nhiều. Lúc ra mồ hôi mà xuống nước. Đang dang nắng mà dùng đồ lạnh mát. Tắm rửa ngoài trời trống gió, ngủ nghỉ dưới chỗ nhiều sương. Cùng các trường hợp: no quá, đói quá, mừng quá, giận quá, nóng quá, lạnh quá. Chỗ mưa nhiều, sương nhiều, trong thương ngoài cảm tất cả tại lỗi không biết điều ḥa, nên hay sinh các chứng thương nhọt, thân không làm sao an được. Kẻ tu học đời sau phải biết để pḥng bị đó.

9. Ma Hôn Trầm
           Tức là chướng ngại của ngủ nghỉ quá nhiều. Nếu người tu hành không tự rèn luyện để thời gian ngủ nghỉ quá nhiều th́ chân tâm chẳng sáng, tánh huệ lặng ch́m, sẽ rơi vào chỗ mờ tối, núi đen hang quỷ. Nguyên nhân nào mà ngủ nghỉ nhiều sanh chướng như thế.

        Đấy cũng bởi do ăn nhiều, dùng toàn chất vị đậm đà. Nói nhiều tổn hơi, thân nhọc, tỳ khốn tinh thần không minh mẫn, hơi trược hỗn loạn. Kẻ ngu si nhiều bực tức, lười nhác buông lung, chẳng nhớ việc sanh tử, chỉ thích vui giả tạm. Người dụng công tu hành phải khắc tỉnh tinh tiến, noi gương người xưa dùng đùi đâm bắp thịt, đụng đầu vào gốc cột, lạy Phật và đốt đèn, đi kinh hành chỗ hiểm, thân chịu khó mài luyện, ma ngủ mới nhẹ dần. Kẻ thiếu khổ luyện hay mặc t́nh rong rêu, chân tâm bị mờ tối, những người tu thiền, dũng mănh hàng phục chướng này

10. Thiên Ma
           Loại ma này chẳng giống các ma kể trên. Đây là người tu hành chân chánh sắp được chứng Đạo. Tâm t́nh đă thông hợp trạm nhiên chẳng động, khiến bọn thiên ma và các quỉ thần thảy đều kinh hoảng, cung điện của chúng sụp đổ, cơi đại địa chấn động. Ma chúa mất hồn, ma dân té hoảng. Các loại ma mị, phần nhiều có ngũ thông, bọn chúng kéo đến năo loạn hành nhân làm cho chẳng vào được vị thánh. Chúng biến các cảnh quái dị, và các cảnh dục làm rối loạn tâm định của hành giả. Nếu trong tâm hành giả vừa có mảy may niệm thủ xả, th́ bọn kia nắm được tiện lợi. Hành giả sẽ bị hại, tự phát điên cuồng cho rằng ḿnh thành Phật. Hiện đời không thoát khỏi vương pháp. Khi chết sa vào ngục vô gián.

        V́ thế những kẻ tham thiền, phải chánh niệm phân minh, trí huệ luôn sáng suốt, một ḷng thường chẳng động. Mặc cho bọn ma kia tác uy, tác quái, ta như chẳng thấy, chẳng nghe. Dùng chánh định hàng ma như thế, tự nhiên loài ma mị tiêu diệt. Các hành giả đời sau dè dặt biện rành đó.


Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
haclong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Italy
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 9 of 14: Đă gửi: 19 February 2006 lúc 4:00am | Đă lưu IP Trích dẫn haclong

Duy Thức


A. Nghĩa chữ Duy Thức: Duy thức là duy cái biết, do cái biết, hoặc y nơi cái biết (bỉ y thức sở biến). Muôn sự muôn vật không thể hiện hữu ngoài định lư duyên sanh, nghĩa là chúng chỉ hiện hữu giữa các mối quan hệ, lớp này lớp khác trùng trùng vô tận, một làm duyên cho tất cả, tất cả duy một, tất cả làm duyên cho một, một duy tất cả.




Do cái này có nên cái kia có,

Do cái này sinh nên cái kia sinh,

Do cái này không nên cái kia không,

Do cái này diệt nên cái kia diệt."



Như thế là duyên khởi, y tha khởi. Trong đó, nếu nói "duy" th́ cái nào cũng duy được hết, duy sắc, duy hương, duy vô minh, duy căn, duy trần v.v. Như cổ nhân có câu: "Nhất sắc nhất hương, vô phi trung đạo". Ngài Thiên Thai Trí Giả nói: "Tùy niệm nhất pháp, giai thị pháp giới" (Bất cứ đưa ra một pháp nào, pháp đó đều là pháp giới muôn pháp).



Thức là một trong hết thảy pháp, nhưng thức có năng lực đặc biệt là phân biệt biết được cái khác và tự biết được ḿnh, nó là chủ lực ở ngay trong mỗi chúng sanh. Chính cái biết này làm cho các pháp trong đồng nhất tính duyên khởi, vô danh vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung vô biên (không trong không ngoài), nổi lên thiên h́nh vạn trạng, rồi mê muội chạy theo giả tướng thiên h́nh vạn trạng đó mà đắm trước, tạo nghiệp, buộc ràng theo nó, gây nên khổ đau.



Các pháp khác không có năng lực này, chỉ có thức mới có năng lực này, cho nên chỉ nói duy thức mà không nói duy cái khác.



Lại "Duy có nghĩa là giản biệt, ngăn không có ngoại cảnh; Thức có nghĩa là liễu giải, biểu thị có nội tâm".



Nói Duy thức chính là đưa ra lời khai thị, thức tỉnh người ta hăy tự giác, hăy quán tâm ḿnh, nh́n lại cái năng lực thiên biến vạn hóa ở trong ḿnh để gạn lọc nó, trau dồi nó, sửa chữa nó phải biến hóa như thế nào để chỉ đem lại lợi lạc, chứ đừng gây đau khổ.



Đến khi đă chuyển được tâm thức thành bốn trí (bốn trí: 1. Thành sở tác trí; 2. Diệu quan sát trí; 3. B́nh đẳng tánh trí; 4. Đại viên cảnh trí), sáng suốt hoàn toàn, lư trí nhất như, sắc tâm bất nhị, không c̣n lấy sắc làm sắc, lấy tâm làm tâm, được tự tại không c̣n vướng mắc, cũng không có ǵ làm cho giao động, sợ hăi th́ bấy giờ không cần duy, không cần thức, hay cần duy ǵ cũng được vô ngại.



Lư Duy thức tiềm ẩn trong lời Phật rải rác ở các Kinh, Bồ-tát Thế Thân dùng lư đó vết thành luận, gọi là Luận Duy thức. Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang sau khi du học Ấn Độ, mang về Trung Hoa (602-644), rút ra từ những ư chính của mười vị đại Luận sư như Hộ Pháp, Đức Huệ, An Huệ v.v., giải về luận 30 bài tụng của ngài và dịch ra bộ luận Thế Thân, rồi tóm lược lại gọi là "Luận Thành Duy Thức".



B. Duy thức theo lời giải của Đại sư Thái Hư

Chữ Duy thức nguyên chữ Phạn là Vijnàpti-màtratà. Vijnàpti, Trung Hoa dịch âm là Tỳ-nhă-để, dịch nghĩa là Thức. Chữ Màtrata, Trung Hoa dịch âm là Ma-đát-lạt-đa, dịch nghĩa là Duy.

Thức là liễu biệt, nhận biết. Liễu là liễu tri, Biệt là biệt chỉnh cảnh. Tức liễu tri mỗi mỗi cảnh riêng biệt, như nhăn thức liễu tri sắc, nhĩ thức liễu tri thanh v.v.

Thức, nói một cách tổng quát là gồm đủ năm vị tức năm mặt:

1. Thức tự tướng, tức tám thức Tâm vương

2. Thức tương ưng, tức sáu vị Tâm sở.

3. Thức sở biến, tức hai phần Kiến và Tướng.


4. Thức phận vị, tức hai mươi bốn giả pháp Bất tương ưng hành, chúng chỉ là giả tướng sai biệt giữa Sắc và Tâm.



5. Thức thực tánh, tức chơn lư, chơn như thật tánh của bốn thứ trên. Như vậy Thức thật tánh là lư, c̣n bốn thứ trên. Như vậy Thức thật tánh là lư, c̣n bốn thứ trên là sự. Năm vị pháp này là bao quát hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu. Chúng đều không ĺa thức, đều là biểu hiện của thức, nên gọi là Duy thức.



Mỗi mỗi hữu t́nh từ vô thỉ vốn có tám thức, sáu vị Tâm sở, các pháp sự lư như vậy. Chúng chỉ hiện hữu được trên thức, ngoài thức ra th́ không có hiện hữu nào hết, v́ ngoài thức ra th́ ta không thể biết có ǵ cả, nếu ta tưởng tượng có một hiện tượng ǵ ở ngoài thức, th́ nó cũng là thức biến, v́ nó là tướng của thức tưởng tượng ra.



Duy có ba nghĩa:

1. Nghĩa giản tŕ: Giản là giản biệt, kén chọn bỏ đi có tánh phủ định, giá thuyên. Bỏ đi cái ǵ? Bỏ đi hai chấp ngă và pháp thật có. Trí là giữ lấy, có tính khẳng định, biểu thuyên. Giữ lấy cái ǵ? Giữ lấy thức tướng Y tha khởi và thức tánh Viên thành thật. Các pháp y tha duyên khởi là tướng của thức. Hai không (ngă không, pháp không) hiển lộ Viên thành thật tánh là tánh của Thức.



2. Nghĩa quyết định: Luận Biện Trung Biên nói: "Thử trung định hữu không, ư bỉ diệt hữu thử', nghĩa là trong thức tướng y tha duyên khởi thuộc tục sự này quyết định có thức tánh. Do hai không hiển lộ thuộc chơn lư kia, v́ chơn không ĺa tục mà có, ngược lại, trong chân lư hai không kia quyết định có tục sự y tha duyên khởi này, v́ tục không thể ĺa chơn mà có.





Như vậy "Thức" vừa có nghĩa giá và biểu. "Giá" th́ ngăn chặn loại trừ ngă và pháp thật có ở ngoài thức."Biểu" th́ biểu thị thức tướng y tha khởi và thức tánh Viên thành thật. Sự và lư, tục và chơn, hai mặt quyết định gắn liền với nhau của thức.



3. Nghĩa hiển thắng: Thắng là hơn, là thù thắng, nhằm chỉ cho thức Tâm vương hơn là cho thức Tâm sở mỗi khi nói Duy thức. Khi nói Duy thức là chú ư nói Duy thức Tâm vương.



Trong ba nghĩa trên, trong Duy thức thường dùng nghĩa thứ nhất.



C. Duy thức tam thập tụng bản chữ Hán (Đại tạng; Chánh 31:1586)

[xin xem theo sách, không đăng trong ấn bản Internet này]



D. Dịch nghĩa (theo thể kệ 5 chữ)



1. Do giả nói ngă pháp,

Có tướng ngă pháp chuyển,

Chúng nương thức biến hiện,

Thức biến hiện có ba.



2. Là Dị thục, Tư lương,

Và thức Liễu biệt cảnh,

Đầu, thức A-lai-da,

Dị thục, Nhất thiết chủng.



3. Không thể biết chấp thọ,

Xứ, liễu, tương ưng xúc,

Tác ư, thọ, tưởng, tư,

Và chỉ có xả thọ.



4. Tánh vô phú vô kư,

Xúc, thảy cũng như thế,

Hằng chuyển như ḍng nước.

A-la-hán, bỏ hết.



5. Thức biến hiện thứ hai,

Gọi là thức Mạt-na.

Nương kia chuyển, duyên kia,

Tư lương làm tánh tướng.



6. Tương ưng bốn phiền năo,

Là ngă si, ngă kiến,

Và ngă mạn, ngă ái,

Cùng tâm sở Biến hành.



7. Tánh hữu phú vô kư,

Sanh theo A-lại-da.

Chứng La-hán, Diệt định,

Xuất thế đạo, không c̣n.



8. Thức biến hiện thứ ba,

Sai biệt có sáu thứ,

Tánh tướng là biệt cảnh,

Thiện, bất thiện, vô kư.



9. Cùng tâm sở Biến hành,

Biệt cảnh, thiện, phiền năo

Tùy phiền năo, Bất định.

Đều tương ưng ba Thọ



10. Trước là Biến hành: Xúc

Tiếp là Biệt cảnh: Dục,

Thắng giải, niệm, định, tụê.

Cảnh sở duyên không đồng.



11. Thiện là tín, tàm, quư,

Không tham, không sân, si,

Siêng, an, không phóng dật,

Hành xả và không hại.



12. Phiền năo là tham, sân,

Si, mạn, nghi, ác kiến.

Tùy phiền năo là phẫn,

Hận, phú, năo, tật, xan,



13. Dối, nịnh và hại, kiêu,

Không hổ và không thẹn

Trạo cử với hôn trầm,

Không tin cùng giải đăi,



14. Phóng dật và thất niệm,

Tán loạn, không chánh tri,

Bất định là hối miên.

Tầm, tứ hai đều hai.



15. Nương dựa căn bản thức,

Năm thức theo duyên hiện

Đồng thời khởi, hoặc không,

Như sóng ṃi nương nước.



16. Ư thức thưởng hiện khởi

Trừ sanh trời Vô tướng

Và hai định vô tâm

Khi ngủ say, chết ngất.



17. Các thức ấy chuyển biến,

Phân biệt, bị phân biệt,

Do kia, đây đều không,

Nên hết thảy Duy thức.



18. Do thức Nhất thiết chủng,

Biến như vậy như vậy,

V́ năng lực triển chuyển,

Kia kia, phân biệt sanh.



19. Do tập khí các nghiệp,

Cùng tập khí hai thủ,

Thân Dị thục trước hết

Lại sanh Dị thục khác.



20. Do biến kể nọ kia,

Biến kế chủng chủng vật,

Biến kế sở chấp này,

Tự tánh toàn không có.



21. Tự tánh Y tha khởi.

Do duyên phân biệt sanh.

Viên thành thật nơi đó,

Thường xa ĺa biến kế.



22. Nên nó cùng Y tha,

Chẳng khác chẳng không khác.

Như tánh vô thường thảy,

Thấy đây, mới thấy kia.



23. Chính nương ba tánh này,

Lập ba vô tánh kia.

Nên Phật "mật ư" nói:

"Hết thảy pháp không tánh".



24. Trước là "Tướng không tánh",

Kế, "Không tự nhiên tánh".

Sau, do ĺa tánh trước,

Là tánh chấp ngă pháp.



25. Đây, thắng nghĩa các pháp,

Cũng tức là chơn như,

V́ thường như tánh nó,

Tức thực tánh Duy thức.



26. Cho đến chưa khởi thức.

Cầu trụ tánh Duy thức.

Đối hai thủ tùy miên,

C̣n chưa thể phục diệt.



27. Hiện tiền lập chút vật,

Cho là tánh Duy thức.

V́ c̣n có sở đắc,

Chưa thực trụ Duy thức.



28. Khi đối cảnh sở duyên,

Trí không sở đắc ǵ,

Bấy giờ trụ Duy thức,

Do ĺa tướng hai thủ.



29. Không đắc, chẳng nghĩ ngh́

Là trí xuất thế gian.

V́ bỏ hai thô trọng,

Chứng đắc hai chuyển y.



30. Đây, tức giới vô lậu,

Chẳng nghĩ ngh́, thiện, thưởng.

An lạc, thân giải thoát,

Đại Mâu-ni pháp thân.



Dịch theo văn xuôi

1. Do giả nói ngă nói pháp

Nên có các tướng ngă pháp chuyển biến hiện ra.

Ngă pháp ấy đều nương thức biến hiện;

Thức biến hiện ấy có ba loại.

2. Là thức Dị thục, Tư lương và Liễu biệt cảnh

Thức biến hiện đầu có ba tên là A-lại-da, Dị thục, và Nhất thiết chủng.

Không thể biết đối tượng của nó, là căn thân và chủng tử mà nó chấp thủ làm tự thể, sanh ra cảm thụ (v́ quá vi tế).

3. Không thể biết nơi chốn (xứ, khí thế giới - v́ quá rộng lớn) và năng lực nhận biết (liễu) của nó.

Nó cùng đi với Tâm sở xúc,

Tác ư, thọ, tưởng, tư.

Riêng thọ th́ chỉ là Xả thọ.

4. Tánh nó là vô phú, vô kư,

Tâm sở xúc v.v.tánh cũng như vậy

Nó hằng thường và chuyển biến như ḍng nước.

Chứng quả vị A-la-hán th́ thức A-lại-da không c̣n

5. Thức biến hiện thứ hai, gọi là Mạt-na.

Nó hiện khởi dựa vào A-lại-da và nhận lấy A-lại-da làm đối tượng chấp ngă.

Thế tánh và hành tướng của nó là tư duy, lượng định.

6. Thường khởi cùng với nó có bốn phiền năo:

Là ngă si, ngă kiến,

Ngă mạn và ngă ái.

Cùng các Tâm sở xúc, v.v.

7. Tánh nó là hữu phú, vô kư,

Nó bị ràng buộc sanh vào các cơi theo A-lại-da

Khi chứng A-la-hán, vào định diệt tận,

Khi trí xuất thế, đạo phát khởi

Thức Mạt-na không c̣n.

8. Thức biến hiện thứ ba

Sai biệt có sáu thứ.

Thể tánh và hành tướng của nó là nhận biết đối tượng.

Nó có đủ ba tánh thiện, bất thiện, vô kư.

9. Cùng đi với nnó có các Tâm sở biến hành

Biệt cảnh, thiện, phiền năo

Tùy phiền năo, bất định

Và ba thọ: khổ, lạc, xả.

10. Trước hết, tâm sở biến hành là xúc,

Rồi đến tâm sở biệt cảnh là dục,

Thắng giải, niệm, định, và tuệ

Và Cảnh sở duyên với chúng (tâm sở biệt) không đồng nhau.

11. Tâm sở thiện là tàm, quư

Không tham, không sân, không si.

Siêng năng, khinh an, không phóng dật

Hành xả và bất hại.

12. Tâm sở phiền năo là tham,

sân, si, mạn, nghi, ác kiến

Tùy phiền năo là phẫn

Hận, phú, năo, tật, xan.

13. Cuống, siểm, hại, kiêu,

Không hổ và không thẹn,

Trạo cử với hôn trầm,

Không tính và giải đăi.

14. Phóng dật và thất niệm,

Tán loạn, không chánh tri.

Tâm sở bất định là hối, miên, tầm, tứ.

Cả hai loại hối miên và tầm tứ đều có hai tánh tịnh và nhiễm.

15. Nương tựa thức căn bản thứ tám,

Năm thức hiện khởi khi có đủ duyên.

Hoặc khởi đồng thời, hoặc không đồng thời,

Như sóng nương nước.

16. Ư thức th́ thường hiện khởi,

Trừ khi sanh vào cơi trời Vô tưởng,

và hai định vô tâm (vô tưởng định và diệt tận định)

Cũng như khi ngủ say và khi chết ngất.

17. Các thức ấy chuyển biến.

Thành năng phân biệt và cảnh của sự phân biệt ấy.

Do vậy mà tất cả pháp đều không. (*)

Nên nói hết thảy pháp Duy thức.

(*) Không có tự tính - theo Madhyanta- vibhaga, Biện trung biện luận, của Vô Trước.

18. V́ chính "thức" vốn hàm chứa hết thảy chủng từ.

Biến hiện ra như thế, như thế.

V́ năng lực triển chuyển hỗ tương.

Nên có các sự phân biệt của tám thức và Tâm sở hiện hành.

19. Do tập khí các nghiệp.

Cùng với tập khí của hai thủ (năng thủ, sở thủ, hay ngă chấp thủ, danh ngôn thủ).

Thân Dị thục trước chết rồi.

Lại sanh thân Dị thục khác.

20. Do tâm so đo vọng chấp cùng khắp nọ kia.

Nên vọng chấp so đo cùng khắp các pháp (biến kế chấp)

Cái so đo chấp thủ cùng khắp đó.

Không có tự tánh của chính nó.

21. Tự tánh là Y tha khởi.

Do thức phân biệt và các duyên mà có.

Tánh Viên thành (là thật tại tối hậu) là tánh Y tha.

Khi Y tha rời khỏi hẳn tánh biến kế trước đó.



22. Nên tánh Viên với tánh Y tha.

Chẳng phải khác, chẳng phải không khác nhau.

Như tánh vô thường, vô ngă đối với các pháp vô thường vô ngă.

Nếu không thấy tánh Viên thành th́ cũng không thấy tánh Y tha.



23. Chính nương ba tánh này.

Lập ra ba vô tánh kia.

Nên Phật mật ư nói.

Hết thảy pháp không tự tánh.



24. Tánh Biến kế là tướng không có tự tánh.

Tánh Y tha là không phải tánh tự nhiên sanh.

Tánh Viên thành là tánh y tha ĺa xa tánh biến kế chấp ngă pháp trước đó.



25. Đó là nghĩa tối thắng của các pháp.

Cũng tức là Chơn như.

V́ thường như tánh nó

Cũng tức là thật tánh Duy thức.



26. Thậm chí khi thức (an trú Duy thức), tánh chưa khởi lên.

Một ḷng chuyên cầu an trú Duy thức tánh.

Đối với hai tập khí chấp thủ ngă pháp.

Vẫn chưa thể dẹp trừ.



27. Nếu giờ cho Duy thức tánh là bất cứ ǵ.

Th́ đó không phải là Duy thức tánh.

V́ c̣n có cái để thủ đắc.

Nên chưa thật an trú tánh Duy thức.



28. Khi đối cảnh sở duyên.

Trí không sở đắc ǵ.

Bây giờ thật an trú tánh Duy thức.

V́ xa ĺa tướng hai thủ.



29. Trí tuệ vô đắc th́ không thể nghĩ bàn.

Nó là trí tuệ xuất thế gian (hay thánh trí).

Do ĺa bỏ hai chướng ngại thô trọng là phiền năo và sở tri.

Liền chứng đắc hai quả (nương nơi A-lại-đa thức) là Niết-bàn và Bồ-đề



30. Hai quả chuyển y này tức tâm giới vô lậu.

Không thể nghĩ bàn, là thiện, là thường

Là an lạc, là thân giải thoát.

Là pháp thân đại tịch tịnh.



__________________
Tất cả vạn vật từ vũ trụ mà ra !!
Quay trở về đầu Xem haclong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi haclong
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 10 of 14: Đă gửi: 20 February 2006 lúc 2:04am | Đă lưu IP Trích dẫn vuithoi

Kính chào haclong,

Trích dẫn:
Duy thức là duy cái biết, do cái biết, hoặc y nơi cái biết (bỉ y thức sở biến).
....
Thức là một trong hết thảy pháp, nhưng thức có năng lực đặc biệt là phân biệt biết được cái khác và tự biết được ḿnh, nó là chủ lực ở ngay trong mỗi chúng sanh. Chính cái biết này làm cho các pháp trong đồng nhất tính duyên khởi, vô danh vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung vô biên (không trong không ngoài), nổi lên thiên h́nh vạn trạng, rồi mê muội chạy theo giả tướng thiên h́nh vạn trạng đó mà đắm trước, tạo nghiệp, buộc ràng theo nó, gây nên khổ đau.
...


Lục căn tiếp xúc lục trần sinh ra lục thức. Thức không phải là cái biết. Dĩ nhiên có cái biết nên có thức. Tuy vậy không thể lẫn lộn.

Kính chúc haclong an lạc,

vuithoi

__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
thanhtinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 37
Msg 11 of 14: Đă gửi: 22 February 2006 lúc 4:02am | Đă lưu IP Trích dẫn thanhtinh

NGẠO MẠN VÀ PHÓNG DẬT

Mù ḷa được xem là một tai họa và gánh nặng đối với con người, thế nhưng sự mù quáng (của tâm) c̣n thậm tệ hơn thế. Trong số rất nhiều h́nh thức của sự mù quáng, si mê là loại mù quáng âm ỉ, dai dẳng và thất thường nhất. Và si mê được thể hiện bằng sự ḷe loẹt, ngạo mạn và phóng túng. Phóng túng hay dễ duôi là luôn luôn lơ đễnh, và do vậy thiếu thái độ đúng đắn và ư thức. Người ngạo mạn, sống trong một cái thế giới tạm bợ của những giá trị giả tạo, đồng thời thiếu sự chú tâm, vô tàm, vô quư (không biết hổ thẹn và không ghê sợ tội lỗi).

Cũng như con thiêu thân do ḷng tham ám ảnh mà bị thiêu rụi bởi chính ngọn lửa đă hấp dẫn nó, người ngạo mạn và dễ duôi cũng vậy, do xao lăng những trách nhiệm đạo đức và tinh thần, do thái độ ích kỷ, cố chấp và nhẫn tâm, họ bất chấp những qui tắc, giá trị, và bị thiêu đốt bởi chính cái khuynh hướng vị kỷ và si mê ấy của họ.

Tính không biết xấu hổ và thông tục chỉ làm cho các lậu hoặc trầm trọng thêm mà thôi. Cũng như chuyện một số vị sư cư ngụ ở Bhaddiya đă sống một cuộc sống không biết hổ thẹn (vô tàm) và quá thông tục. Mặc dù các vị này đă nguyện sống đời thanh đạm và xuất ly để tịnh hóa thân tâm và tiết chế dục vọng, song họ lại làm những chuyện không xứng đáng. Các vị sư này mải miết trong việc theo đuổi những điều được xem là ngược lại hoàn toàn với đời phạm hạnh cả về h́nh thức lẫn nội dung. Chẳng hạn, họ tỏ ra yêu chuộng lối sống đỏm dáng và cư xử như những người thích ăn diện đúng thời trang vậy.

Chú giải Pháp Cú mô tả rằng: các vị sư phàm tục này thường đam mê trong việc tự chế ra, hoặc bảo người khác chế ra những đôi dép hay những đôi xăng-đan của họ thành những loại khác thường, với những kiểu cách được trau chuốt tỉ mỉ. Ngay cả những vật liệu họ dùng - như các loại cỏ, lá, tơ, len v.v... cũng thật đặc biệt, không hợp với nhân cách của nhà sư. Lối sống khiếm nhă của họ như vậy đă khiến cho các vị sư nghiêm túc cảm thấy lúng túng không ít. Lối sống đó không những ảnh hưởng đến sự tu tập của họ, mà c̣n ảnh hưởng đến thanh danh của đời phạm hạnh nữa.

Khi vấn đề đến tai Bậc Đạo Sư, lúc ấy đang ở tại khu rừng Jātiya, ngoại ô Bhaddiya, Ngài cho người đi gọi các vị sư này lại và rồi khiển trách họ rất nặng nề. Bậc Đạo Sư nói, "Này các Tỳ khưu, các người đă nguyện sống phạm hạnh v́ lư tưởng cao thượng, thế mà giờ đây các người lại mải mê trong những việc hoàn toàn ngược lại", và sau đó Ngài nói lên những vần kệ này:

"Việc đáng làm không làm,
Không đáng làm lại làm,
Kẻ ngạo mạn, phóng dật,
Các lậu chỉ gia tăng.
Ai nhiệt tâm hành thiền,
Thường quán thân hành niệm.
Không làm việc không đáng,
Kiên tŕ việc đáng làm.
Bậc chánh niệm, tỉnh giác,
Các lậu chắc chắn tiêu."


TỰ MĂN

Trong số những lớp hóa trang mà các lậu hoặc này khoác, có lẽ tính tự măn và tự phụ được đánh giá là có sức hấp dẫn và lừa lọc nhất. Khoác vào cái dáng toàn bích, quá tự tin vào những khả năng của ḿnh, cảm thấy thoả măn (với một vài sở đắc nào đó) khi chưa đạt đến cứu cánh tối hậu, là những thái độ đầy tự măn và hợm hĩnh của người tu.

Đức Phật không bao giờ khuyến khích những thái độ tự dối ḿnh như vậy. Ngược lại, Ngài thường thúc giục và khích lệ các vị Tỳ khưu cố gắng đạt đến trạng thái lậu tận, và ngày nào chưa đạt đến đó th́ chớ nên tự măn với những sở đắc của ḿnh.

Pháp Cú có dẫn chứng câu chuyện một số vị Tỳ khưu nổi tiếng nhờ giới hạnh và những sở đắc khác của họ, nhưng vẫn chưa đạt đến quả vị A-la-hán. Mặc dù vậy, các vị hoàn toàn tự tin rằng ḿnh có thể trở thành bậc A-la-hán bất cứ lúc nào họ muốn, đi đến gặp Đức Phật tại Tinh Xá Kỳ Viên (Jetavana), để đảnh lễ Ngài. Thấy rơ tâm trạng tự măn của họ, Bậc Đạo Sư, với ḷng bi mẫn và thiện xảo đă hỏi các vị ấy, "Này các Tỳ khưu, các con đă thành măn phận sự cao quư của đời phạm hạnh chưa (đắc A-la-hán quả)?"

Các vị ấy theo thứ lớp trả lời, một vị nói, "Bạch Đức Thế Tôn, chúng con đă đạt đến giới thanh tịnh"; số khác nói: "chúng con đă viên măn các pháp khổ hạnh"; số khác: "chúng con là những bậc đa văn"; số khác: "chúng con sống hạnh độc cư trong rừng"; số khác th́: "chúng con đă đắc các tầng thiền định"; một số đă trở thành Bậc Bất Lai (Anāgāmi), thậm chí c̣n nói, "Đối với chúng con, giờ đây, đạo quả A-la-hán không c̣n là vấn đề nan giải nữa".

Và tất cả mọi người đều đồng ḷng nói, "Đối với chúng con, việc đạt đến trạng thái Siêu Thế của bậc lậu tận hoàn toàn không khó. Thực sự, chúng con có thể đắc quả vị A-la-hán này vào bất cứ ngày nào chúng con muốn".

Nghe như vậy, Bậc Đạo Sư khẳng định rơ ràng với họ, "Này các Tỳ khưu, chỉ đơn thuần thành tựu giới thanh tịnh, v.v... hay ngay cả việc thành tựu sự an lạc do chứng đạt Anahàm sanh, một vị Tỳ khưu cũng không bao giờ nên nói rằng, cuối cùng chỉ c̣n lại chút ít khổ thế gian đối với chúng ta. Bao lâu các người chưa đạt đến cứu cánh tối hậu của việc đoạn trừ các lậu hoặc, chừng ấy các người chớ để cho ư tưởng: 'Ta đang hưởng phúc lạc' khởi lên trong tâm các người". Sau đó Bậc Đạo Sư nói lên bài kệ này:

"Không phải nghiêm tŕ giới,
Hành khổ hạnh, đa văn
Không phải chứng thiền định,
Cũng chẳng phải độc cư
Không phải do tự nghĩ:
"Ta hưởng lạc Giải Thoát
Hành xứ của bậc Thánh"
Mà sanh tâm tự măn
Cho đến khi Lậu Tận."


ĐOẠN TRỪ LẬU HOẶC

"Bỉ đẳng chư lậu tận
Diệc bất tham ẩm thực
Không, Vô tướng, Giải Thoát
Thị bỉ sở hành cảnh
Như điểu du hư không
Tung tích bất khả đắc"     

"Bậc dứt trừ lậu hoặc
Uống ăn không tham đắm
Không, Vô tướng, Giải Thoát
Là sở hành vị ấy.
Như chim bay giữa trời
Dấu chân nào đâu thấy."


Quay trở về đầu Xem thanhtinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thanhtinh
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 12 of 14: Đă gửi: 22 February 2006 lúc 8:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

                  Tu nhà


Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu ḿnh chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác th́ hăy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lư tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật". Lời vàng ngọc ấy như tiếng chuông đánh thức tâm hồn tôi phải luôn nghĩ nhớ ơn đức Tam Bảo và đàn na thí chủ.

Với tài hèn đức mọn, nghĩ rằng ḿnh chưa thể đóng góp cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh một cách xứng đáng, lớn lao như các bậc Tổ Sư tiền bối. Tuy thế "thà thắp lên một ngọn đèn leo lét c̣n hơn ngồi nguyền rủa bóng tối".

Mặc dù về nhân thừa Phật giáo, đă có rất nhiều sách của các cao Tăng, thức giả tŕnh bày, chỉ dẫn rất rơ ràng cặn kẽ. Nhưng thiết nghĩ, mỗi cuốn sẽ có một nét hay riêng của nó. Mong rằng tập sách này sẽ không thừa đối với những người thích nghiên cứu, t́m hiểu giáo lư đạo Phật.

"NẾU CƠI ĐỜI KHÔNG ĐAU KHỔ TỐI TĂM
TA KHÔNG XUẤT HIỆN Ở TRẦN GIAN "
                                                                        SAKYA MUNI
Cuộc sống nhân loại càng ngày càng trở nên phức tạp và hổn hợp. V́ măi đấu tranh cho cuộc sống, cho dục vọng tham, sân, si đă dẫn dắt con người đi sâu vào con đường của đau khổ, sa đọa. Do bởi không nhận chân được thực tướng vô thường của thế gian, rơ biết sự giả hợp nơi bản thân, sự sinh diệt của vũ trụ nên măi mê tham đắm khổ cầu chạy theo thị dục, thị hiếu của xă hội để rồi phải sa lầy vào đám bùn nhơ tham vọng. Càng đấu tranh khuấy động bao nhiêu th́ bùn lầy tội lỗi sẽ nhận ch́m con người lún xuống bấy nhiêu. Như vậy đă sa vào vũng bùn tham dục, c̣n khuấy động thêm nữa th́ hậu quả càng trầm trọng khó có thể trở lên nơi khô ráo một cách dễ dàng được.

Từ chỗ sạch sẽ đi vào con đường bùn lầy. Ví như bệnh đă bộc phát nơi thân th́ phải có phương pháp, thuốc men chữa trị... Vậy muốn ĺa khổ được vui chúng ta phải theo sự chỉ dẫn của những vị hướng đạo. Đại biểu là đức Phật. V́ ngài là người đă chứng nghiệm bằng chính bản thân và đạt đến kết quả giải thoát, xứng đáng làm mô phạm cho cả trời người noi theo học tập. Chính các đệ tử của Phật đă hành tŕ theo lời dạy và thâu hoạch được rất nhiều lợi ích trong cuộc sống. Lịch sử ra đời của đạo Phật đă chứng minh điều đó, không phải chuyện hảo huyền vô căn cứ. Mỗi người trong chúng ta ai có thực hành mới thấy được giá trị đích thực cao siêu tuyệt vời của nó. Ví như người uống nước nóng lạnh tự ḿnh biết được. Như người thưởng thức những món cao lương mỹ vị mới có thể cảm nhận cái ngon lành thơm quư của các món ấy mà thôi. Nếu chỉ nghe và biết, chưa hoặc không trực tiếp hưởng thụ th́ chẳng bao giờ được lợi ích thiết thực.

Giáo pháp đức Phật có muôn ngàn phương tiện. Thế nên tùy theo căn cơ tŕnh độ chúng sinh thích hợp mà thực hành. Điều này đ̣i hỏi con người phải có một trí tuệ sáng suốt để nhận định, chọn đúng hướng đi cho ḿnh, khỏi nhọc ḷng mà kết quả lại khả quan. Nhưng cho dù pháp môn nào đi nữa cũng không ngoài mục đích hướng dẫn chúng sinh ĺa khổ đạt vui, giũ sạch phiền năo tham sân, si đạt đến chỗ thanh tịnh giải thoát. Đức Phật dạy: "Cũng như nước trong tất cả biển duy chỉ có một hương vị, hương vị của mặn. Trong tất cả giáo pháp của Như Lai chỉ có một hương vị, hương vị của giải thoát". Đường đến thành La Mă có rất nhiều, hoặc gần hay xa, mau hay chậm, nhưng mục đích của kẻ lữ hành chỉ có một. Tuy nhiên, nếu biết nhầm đường mà không trở lại, có bệnh mà không chịu kiêng cử, uống thuốc, lỗi ấy không phải tại người hướng đạo không chỉ dẫn cặn kẽ, thầy thuốc không căn dặn rơ ràng, mà chính do ta không chịu hồi đầu đi theo con đường bằng phẳng, chẳng chịu uống thuốc, chắc chắn không bao giờ ta đến nơi đất sạch hoặc hết bệnh cho được. Chẳng phải đường khó mà do ḷng ta ngại khó, chẳng phải tại thuốc không công hiệu mà tại ta sợ đắng. Phải đi, dù cho đi chậm vẫn c̣n hơn không. Phải uống, dù cho chưa hết bệnh ngay, nhưng thuốc sẽ thấm dần vào cơ thể. Kiên tŕ nhẫn nại tiến bước th́ dù xa đến đâu, khó khăn cách mấy cũng sẽ vượt qua và tới đích. Trái lại, nếu một bước tới hai bước lùi th́ dù cho lâu đài hạnh phúc có hiển hiện trước mắt vẫn xa ta muôn trùng chẳng làm sao tới được. Thanh Sĩ có câu:

Cố đi măi đường dài hóa ngắn
C̣n nghỉ luôn lộ cận hóa xa.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: "Nhân thị tối thắng, năng sinh nhất thiết chư pháp thiện cố". Nghĩa là: con người là hơn cả, v́ con người có khả năng thể hiện hết thảy mọi sự cao đẹp. Thật vậy, nh́n hạn hẹp vào một thế giới ta đang sống, con người là một động vật như bao loài động vật khác. Cũng tham sống sợ chết, cũng đau khổ buồn vui, cũng thỏa măn dục tính... Nhưng do lư trí và khả năng sáng tạo, con người đă vượt lên trên mọi động vật khác, thay đổi và biến chuyển cuộc đời từ lạc hậu thô sơ đến tiến bộ thẩm mỹ. Xét về mặt rộng, theo kinh Phật dạy, con người là một thú trong lục đạo luân hồi. Tuy cơi Ta bà mà ta hiện sống là tạp sinh và khổ vui lẫn lộn, không như các cơi khác có sự phân định rơ rệt. Nhưng nhờ ở điểm này mà con người có ưu thắng và dễ ư thức về tính cách vô thường của thế gian để cầu tiến.

Dưới tuêï nhăn của Phật: "Trong tất cả các loài con người có đủ điều kiện hơn, như về trí khôn ngoan chẳng hạn. Nhất là hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục, không quá vui như thiên đàng và không ngu si như thú vật". (Kinh Ưu Bà Tắc). Xét về lục đạo luân hồi, ta có thể phân chia cơi Trời biểu tượng của vui và địa ngục biểu tượng của đau khổ đọa đày. Đối với cảnh giới cao đẹp, chúng sinh ở cơi Trời toàn hưởng những phước báo, thân h́nh tốt xinh, tướng hảo uy nghi, khí hậu thanh khiết, cảnh trí trang nghiêm tuyệt mỹ cuộc sống đầy đủ tiện nghi sung sướng, những thứ khổ năo lo sầu không thể xâm nhập len lơi vào thế giới ấy được. Từ nguyên nhân hoàn hăo này khiến họ trở nên giải đải, chỉ biết hưởng thụ mà không tiến tu hầu tăng trưởng thiện pháp. Khi đă hết phước báo đă gieo trồng trong quá khứ, rồi tùy theo nghiệp lực có thể sa đoạ trở xuống cảnh giới thấp hơn thậm chí c̣n rơi vào khổ cảnh. Đó là luật tiến hóa và đào thải của vũ trụ nhân quả. Ví như chiếc thuyền trên ḍng nước ngược nếu không tiến ắt phải bị lùi. Tương phản với cơi Trời là địa ngục. Những chúng sinh đọa đày nơi khổ cảnh này hoàn toàn không có một chút vui sướng, luôn luôn sống trong những lo âu sợ sệt, chịu bao cực h́nh đau khổ, chung quanh họ toàn là cảnh tượng hăi hùng diễn biến. Do quả nghiệp này, họ khó có thể phát khởi thiện tâm, gieo nhân giải thoát cho được. Duy chỉ có con người là trọng tâm giữa các sự khổ và vui, là nấc thang thăng hoa từ phàm phu đến quả vị thánh hiền, là chủ thể của vạn hữu. Do vậy con người được tôn xưng là tối linh hơn cả: "Nhân linh ư vạn vật". Con người có khả năng tự định đoạt vận mạng tương lai của ḿnh. Con người dễ đạt đến quả vị Chánh đẳng chánh giác.

Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy: "Làm dữ bởi ta mà ô nhiễm cũng bởi ta. Làm lành bởi ta mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh cũng bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ta thanh tịnh được". Vậy chính ta làm cho ta trong sạch và cũng chính ta làm cho ta ô nhiễm. Hạnh phúc hay đau khổ do chính con người tạo ra, không ai có quyền ban phước giáng họa hoặc thưởng phạt ai cả. Chỉ có nhân quả nghiệp báo là quan ṭa công lư vận hành quyết định số phận của mỗi chúng sinh mà thôi. Ví như một người được gọi là bác sĩ. Có phải do tự nhiên mà được không? Hoặc Thượng đế hay vị thần nào đó "cảm t́nh riêng" v́ lỡ nhận chút ít quà cáp biếu xén nên đă tặng cho ông danh hiệu ấy chăng? Không, chính thực tế nhân quả đă tạo thành danh phận ấy. Với một quá tŕnh lâu dài tu học chuyên cần, tốn bao công sức tài của, trong đó ư chí là sức mạnh vô biên thúc đẩy để người ta trở nên những tài năng hữu ích. Do lẽ đó mỗi con người chúng ta phải tự tạo cho ḿnh một lư tưởng để từ đó mà thăng tiến, xây dựng một tương lai huy hoàng sáng lạn.

Muốn qua sông phải nhờ thuyền, nhưng có thuyền cũng chưa đủ cần phải chèo chống nó đi. Muốn trở thành con người hoàn thiện hưởng sự an vui giải thoát, chúng ta không chỉ có phương pháp hướng dẫn sẵn sàng, mục đích rơ rệt mà điều quan trọng nhất là phải thực hành cho đúng và cho được. Cái khó là ở chỗ này. Thế nên sau khi tiếp thu và hiểu thấu lời Phật dạy, chúng ta nên từng bước từng bước chậm răi mà đi. Như người leo núi cao chẳng nên hấp tấp vội vă. Nếu không cẩn thận vô t́nh trợt chân té ngă sẽ khó ḷng đi tiếp được. Chẳng may "bất đắc kỳ tử" th́ coi như bao nhiêu công tŕnh đều dở dang hết. Hăy nhớ câu "Dục tốc bất đạt". Hoặc cây chóng lên th́ dễ bị gió thổi gẫy non. Thế nên, TU NHÀ là bước đầu căn bản cho người Phật tử tại gia làm bàn đạp tiến lên con đường giải thoát sau này. Vậy thế nào là TU NHÀ?

Nói đến chữ TU có lẽ - hầu như đa số - đều nghĩ ngay đến ông sư bà văi nào đó ở chùa, giam ḿnh trong cảnh hiu quạnh cô độc, quanh năm suốt tháng chỉ tương dưa, rau quả khổ hạnh, suốt đời áo vải nâu sồng chẳng biết ǵ đến thế sự nhân t́nh... Nói chung họ gần như là người chôn vùi cuộc sống nơi cửa Thiền, "c̣n sống mà coi như đă chết". Do vậy nhiều người rất sợ tiếng TU. Khi xưa hễ ai nói với tôi về vấn đề tu hành là tôi gạt ngang phản đối lại liền. Bởi v́ tôi rất "cữ" tiếng ấy. Điều này cũng dễ hiểu tại sao tôi lại cữ. Thú thật tôi rất sợ g̣ bó, không được tự do nhất là - xin độc giả chớ cười - không được đi xem xi nê! Lại thêm một tội mê coi đá banh, v́ ít ra tôi đă có một thời là "cầu thủ tí hon". Nếu xét cho cùng th́ chữ tu không phải tuyệt đối như thế, mà c̣n tùy theo mỗi tŕnh độ tu hành của con người. Vậy TU là ǵ?

Chữ tu nói chung là sửa đổi. Nếu đi cùng với một từ nào đó nó sẽ cho ta được nhiều nghĩa. Chẳng hạn:

- Tu tâm: là sửa đổi tâm tánh từ tà vạy thành ngay thẳng, xấu ra tốt, dữ hóa hiền, ích kỷ thành độ lượng...

- Tu thân: là sửa ḿnh cho đứng đắn, nghiêm trang, tề chỉnh. Hành động phải cẩn thận không nên vụt chạc...

- Tu bổ: sửa đổi cho được tốt đẹp, thêm thắt cho đầy đủ. Như tu bổ nhà cửa, kiều lộ, tịnh xá...

- Tu dưỡng: sửa các điều xấu và vun bồi nuôi dưỡng tăng trưởng các điều thiện.

- Tu hành: sửa đổi và thực hành theo một phương pháp nào đó để đưa con người đạt đến lư tưởng mà họ theo đuổi.

Nói tóm lại, chữ tu có nghĩa là sửa đổi và bồi bổ. Sửa những điều sai trái, sai lầm, xấu ác, bồi bổ đức tính từ bi hỷ xả, tăng trưởng các thiện pháp tới chỗ chân thiện mỹ. Người tu ví như kẻ sửa đường, chỗ nào cao th́ san xuống cho bằng, chỗ nào thấp trũng bồi đắp lên cho đầy. Thế nên ư nghĩa chữ tu này tùy theo tŕnh độ mà có cao thấp khác nhau. Từ người xấu thành tốt, từ phàm phu đến thánh hiền, từ chúng sanh lên quả vị Phật.

C̣n nhà là nơi tụ họp của một gia đ́nh nhỏ hẹp trong đó có cha mẹ, con cái cùng nương náu để che mưa đở nắng, xây dựng cuộc sống gia đ́nh ấm no hạnh phúc. Nhà là một phần tử hết sức quan trọng trong cộng đồng xă hội, là môi trường đạo đức rất tốt sản sinh ra những nhân tài sau này nối tiếp cha ông xây dựng đất nước, cường thịnh quốc gia. Một xă hội có thể ví như ṭa nhà đồ sộ, mỗi gia đ́nh là một viên ngói đan khít với nhau để che chở bảo vệ đồ vật trong nhà khỏi bị mưa nắng làm hư hoại. Nếu một tấm ngói - một gia đ́nh - bị hư bể th́ toàn bộ căn nhà cũng ảnh hưởng không ít. Do vậy, nói chung th́ một gia đ́nh hay gần hơn nữa là từng con người sẽ đóng một vai tṛ khá quan trọng trong việc xây dựng và cải hóa thế giới Ta bà thành cơi Tịnh độ hiện tiền.

Tóm lại ,TU NHÀ là nói về những điều cơ bản mà người Phật tử tu tập tại gia, trong phạm vi gia đ́nh chưa vượt khỏi hạn chế bổn phận và trách nhiệm đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái. Thế nên, hiểu rơ chữ Tu người Phật tử phải biết phận sự của ḿnh ở địa vị nào hầu làm tṛn. Đồng thời để tránh t́nh trạng có người vừa quy y Tam Bảo, hiểu chút ít giáo lư Phật về nhà lại tỏ ra lănh đạm thờ ơ với công việc gia đ́nh, chẳng thiết quan hệ với ai, nhắm mắt làm ngơ không thèm thấy nghe tin tức thế sự. Thậm chí đến việc giáo dục con cái cũng "phớt tỉnh Ăng lê" luôn. Sống chết tốt xấu mặc bay, ta cứ thản nhiên lim dim ngồi niệm Phật cầu sinh Tây phương Cực lạc. Hành động ấy ta lại vô t́nh gây thêm sự xáo trộn, bất ḥa giữa cha mẹ và con cái, sai tinh thần giáo lư Phật dạy.

Tu đâu phải tách biệt mọi quan hệ với mọi người chung quanh. Chúng ta nên nhớ câu: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Đời sống con người đâu phải lúc nào cũng b́nh thản lặng yên, đôi khi cũng có những biến cố tai họa xảy đến. Nếu thật sư hằng ngày ta chẳng thèm đếm xỉa đến ai, th́ gia đ́nh ta hữu sự lại có lẽ nào ta lại thản nhiên ngồi đón nhận những ân huệ kẻ khác ban cho, quả là tủi hổ và kỳ lắm đấy! Tu đâu phải nhắm mắt bịt tai. Nếu có chăng là đừng nh́n bậy, đừng nghe lời xàm quấy. C̣n tất cả sinh hoạt tin tức xă hội rất cần thiết cho việc mỡ mang kiến thức và là bài học quư giá để chúng ta học tập và ngăn ngừa. Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác có dạy: "Quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ". Nếu chúng ta không học rộng nghe nhiều làm sao được tăng trưởng trí huệ?

Ư nghĩa của chữ học ở đây không chỉ có cắp sách đến trường mới gọi là học. Thực ra qua kinh nghiệm bản thân, qua thực tế hiện sinh, qua những cái mắt thấy tai nghe, qua sách vở ta chọn lọc tiếp thu được những điều hay lẽ phải. Tất cả h́nh thức đó đều là học cả. Thế nên theo dơi tin tức thế gian là nâng cao kiến giải cho sự tu hành của ḿnh phù hợp với quy luật phát triển của xă hội. Riêng vấn đề giáo dục gia đ́nh người Phật tử phải có trách nhiệm cao hơn nữa. Khi chưa hiểu đạo th́ ta hướng dẫn con cái theo chiều hướng thế gian. Nay hiểu đạo phải có bổn phận hướng dẫn con trẻ sống theo tinh thần Phật dạy Thế nên, tu không phải mặc nhiên ai làm ǵ th́ làm, tốt xấu mặc kệ, ḿnh chỉ biết lo phận ḿnh là đủ. Chính ra người hiểu đạo phải tích cực cải thiện bản thân và khuyến hóa người khác tránh ác hành thiện.

I.- SỰ TU THÂN CỦA CHA MẸ
A.- ĐỐI VỚI BẢN THÂN
Cha mẹ là người thầy giáo đầu tiên, là bài học vỡ ḷng, là tấm gương sáng để con trẻ soi bóng, noi theo và học tập. Đức hạnh của cha mẹ ảnh hưởng lớn tới đời sống tương lai của con trẻ. Vai tṛ cha mẹ trong gia đ́nh ví như vị đứng đầu quốc gia. Gia đ́nh hạnh phúc hay chia rẽ, anh em có trên kính dưới nhường ḥa thuận hay không, quốc gia hưng thịnh hay suy vi, nhân dân an cư lạc nghiệp hay đói khổ loạn lạc đều do cha mẹ hay vị lănh đạo trực tiếp hoặc gián tiếp có trách nhiệm về sự tốt hay xấu ấy.

Khổng Tử nói: "Thành ư, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ". Theo quan điểm của ông cũng lấy tu thân làm gốc trong việc tề gia trị quốc b́nh thiên hạ. Đối với cha mẹ việc tu thân rất cần thiết. V́ qua đó mà con trẻ mới cảm thụ, thấm nhuần những cái hay cái đẹp toát ra từ hành động thân thiết hằng ngày. Ví như một bông hoa thơm, một nén hương trầm để trong nhà sẽ tỏa ngát hương thơm đến tất cả mọi người. Trái lại, nếu là hũ mắm mở nắp th́ thật là cơ khổ cho con cháu và mọi người khác khi bước vào nhà ấy! Thế nên, muốn xây dựng tô bồi hạnh phúc gia đ́nh, muốn làm mô phạm giáo dục con cháu, muốn trở thành người hữu ích cho xă hội, muốn làm việc quốc gia đại sự... trước hết con người phải biết tu sửa bản thân, biết cải ác tùng thiện, làm tṛn bổn phận trách nhiệm vị trí của ḿnh nhiên hậu mới có thể thực hiện được các lợi ích trên.

Là Phật tử tại gia vấn đề tu thân càng phải thể hiện một cách tiêu biểu, tích cực hơn nữa. V́ sao thế? V́ chúng ta đă tự hào hănh diện, sung sướng mang danh Phật tử tức là con Phật. Mà Phật đại biểu cho trí tuệ siêu tuyệt, t́nh thương vô lượng. Ít ra chúng ta "con nhà tông không giống lông cũng giống cánh" chứ! Suốt 49 năm ṛng ră, Phật luôn v́ lợi ích cho chúng sanh không ngừng gian khổ hành đạo, gieo rắc ánh đạo vàng khắp cơi Ta bà, hướng dẫn nhân loại lên đường giải thoát, nêu bao gương hạnh cao quư, uy đức trang nghiêm để thu phục ḷng người, cảm hóa kẻ ác, nhiếp phục ma quân. Ngày nay chúng ta hữu phước đa duyên gặp được Tam Bảo thấm nhuần đôi chút giáo lư Phật đà, thừa hưởng gia tài pháp bảo, ta phải cố gắng tu tập để khỏi phụ ḷng những vị đă khai đạo, noi theo dấu chân xưa hầu tô điểm đức hạnh, làm đẹp cuộc đời. Được vậy, mới xứng danh đệ tử của đấng: "Thiên nhân chi đạo sư, tứ sanh chi Từ phụ".

Sự tu thân của cha mẹ sẽ là nhịp cầu bắc ngang giữa lời dạy của đức Phật. V́ qua lời nói, cử chỉ, hành động hàng ngày mà con trẻ sẽ hiểu phần nào giá trị giáo lư Phật và ít nhiều nó cũng nhận ra rằng Phật pháp đă tạo nên những đức hạnh mẫu mực ấy nơi cha mẹ ḿnh. Từ những hành vi cao đẹp, những việc làm từ thiện hữu ích đó sẽ dần dần ăn sâu, ảnh hưởng trực tiếp vào tiềm thức con trẻ và là bài học thực tế nhất giáo dục chúng trở thành những đứa con hiếu hạnh, có đạo đức và là công dân tốt của xă hội tương lai. Sự tu thân của cha mẹ cần nên thực hiện các điều sau:

    1.- Tránh sát sanh

      Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy:

Ai ai cũng sợ gươm đao
Ai ai cũng sợ sự chết
Lấy ḷng ḿnh suy ḷng người
Chớ giết chớ bảo người giết.
Tất cả chúng sanh đều có tính tham sanh úy tử. V́ mạng sống là điều rất quư. Tiền bạc mất đi có thể kiếm lại được bằng sức lao động và sự cần kiệm; sức khỏe hao ṃn suy yếu có thể phục hồi bằng thuốc men, ăn uống bồi dưỡng. Thế nhưng thân người nếu mất đi muôn kiếp khó được. Chúng ta nên biết mọi nhân lành quả tốt đều từ sự sống mà nảy sanh. Do vậy, với bản tánh tự nhiên ai ai cũng ngán sợ trước những thảm cảnh giết hại dă man, những tai nạn khủng khiếp xảy đến với ḿnh. Cứ suy ḷng ḿnh ra ḷng người, những ǵ ḿnh sợ, ḿnh không muốn th́ đừng nên tạo cái khổ cho kẻ khác. Như câu Khổng Tử đă nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" là thế. Hiểu được mạng sống là quư, giết hại làm mất sự sống kẻ khác là độc ác người Phật tử phải luôn luôn tôn trọng sự sống, không v́ tham vọng hay ích lợi riêng tư mà hủy hoại sự sống.

Tránh sát sanh sẽ tạo cho chính bản thân cha mẹ được các điều như:

           a.- Nuôi dưỡng ḷng từ và dạy con đức tính từ ái.

           T́nh thương là chất nhựa gắn liền con người với con người, con người với muôn loại động vật khác. Nó làm cho nhân loại chúng sinh gần gũi, thông cảm và thương yêu nhau hơn. Để hiểu rơ điều này qua lịch sử cuộc đời đức Phật ta thấy: khi ngài từ bỏ cung điện nguy nga, vợ đẹp con xinh, một ḿnh dấn thân vào rừng sâu cảnh vắng tầm đạo, sống đơn độc không vũ khí nơi ḿnh, trong khi chung quanh ngài toàn những thú dữ, nhỏ như muỗi ṃng, rắn rít, lớn như cọp, beo, sư tử, gấu... Thế nhưng tại sao ngài vẫn ung dung trải qua bao tháng năm nơi rừng thiêng nước độc mà không hề tổn thương đến tính mạng? Đây là điều mà ít ai để ư nhưng rất quan trọng. Hay là đức Phật có phép lạ chăng? Hay ngài có vơ thuật cao cường? Hoặc phương thuốc bí truyền nào đó? Không, chẳng có một sức mạnh nào khác hơn tâm b́nh đẳng và ḷng từ bi vô lượng của Ngài. Chính những đức hạnh này là mạng lưới vô h́nh bao bọc che chở, đồng thời cảm hóa tất cả những thú dữ quy phục dưới chân Ngài.

Để thực tế chứng minh rơ ḷng từ và tâm b́nh đẳng có tác dụng thế nào, hằng ngày trong cuộc sống ta cố gắng thể hiện t́nh thương và ḥa hợp với bà con lối xóm, tận tụy giúp đở họ lúc khó khăn hoạn nạn, chúng ta sẽ cảm thấy mọi người yêu thương, quư mến ta thế nào. Đối với loài vật cũng vậy, nếu ta thương mến chúng chúng sẽ gần gũi và không sợ hăi ta.

Do đó tránh sát sanh cũng có nghĩa là nuôi dưỡng ḷng từ, thể hiện tâm b́nh đẳng với muôn loài, không nở thấy những chúng sinh bị đâm giết, quằn quại đau khổ. Từ tâm niệm ấy sẽ giúp cho ta thông cảm nỗi khổ đau của kẻ yếu và phát khởi t́nh thương chan chứa đến muôn loài. Do tôn trọng sự sống và lấy từ bi làm phương châm hành động sẽ cảm hóa được con trẻ xa ĺa tâm sát hại, nẩy nở đức tính thương người mến vật và biết quư trọng sự sống mở ḷng bao dung rộng răi đến tất cả muôn loài.

           b.- Tránh nhân quả báo ứng và thù hận.

           Có lẽ làm người ai cũng muốn sống trong sự an vui hạnh phúc, không thích kẻ nào quấy rầy hoặc dùng bạo lực để gây thương tổn đến bản thân. Đó là mong ước của mọi loài động vật. Đúng, chỉ có thế thôi: an vui hạnh phúc và không bị ai quấy rầy sát hại. Tuy nhiên với sức mạnh và sự bất công của con người nói chung, lại t́m sự an vui hạnh phúc trên những đau khổ đọa đày của kẻ khác, thỏa ḷng thích khẩu trước những cái chết thê thảm của các loài khác. Nếu đứng về phương diện b́nh đẳng giữa sự sống với nhau, th́ hành động ấy quả thật là "cá lớn nuốt cá bé" hoặc "mạnh được yếu thua". Chúng ta cứ tưởng tượng một con gà đang vùng vẫy trước sức mạnh của con người. Họ đè cánh chúng, trói chân lại, nhổ lông, rồi kề dao vào cổ cứa... í ẹ ghê quá! Máu chảy ra. Thử hỏi con gà ấy có đau khổ, oán thù kẻ cắt cổ nó không? Rồi ta hăy xét qua trường hợp này. Một gia đ́nh nọ đang sống êm ấm hạnh phúc. Bỗng một hôm có toán cướp với vũ khí trong tay xông vào nhà cướp của và bắt con gái hiếp dâm. Người cha thấy vậy quá đau ḷng nhào vô can ngăn và bị chúng dùng dao đâm chết. Trước thảm cảnh này vợ và con sẽ nghĩ ǵ? Có căm tức oán thù bọn cướp ấy không? Nếu có th́ làm ǵ được họ đây hay cũng đành cắn răng nhẫn chịu trước lưỡi dao họng súng kia? Qua hai trường hợp ấy chúng ta thấy chỉ v́ sức yếu nên con vật chịu cắt cổ trước sức mạnh của loài người, con người bất lực trước sức mạnh của tập thể uy hiếp, họng súng dọa nạt. Thế nhưng hai trường hợp ấy đâu phải kẻ cô yếu không oán hờn mong ngày báo thù? Nếu xét về nhân quả, không sớm th́ muộn kẻ gây ác sẽ gặt ác quả. Kinh Pháp cú dạy: "Người nào cầu hạnh phúc cho ḿnh mà dùng dao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác, th́ sẽ không bao giờ được hạnh phúc".

Một vấn đề nan giải là người mẹ phải đảm đương về việc ăn uống hằng ngày của gia đ́nh, làm sao tránh khỏi sát sanh? Có lẽ nhiều Phật tử băn khoăn lo nghĩ như thế. Ở đây chúng tôi mong rằng quư vị nên cố gắng bằng mọi cách giảm tối đa việc sát sanh. Nếu v́ gia đ́nh đ̣i hỏi hoặc cần ăn th́ ta có thể mua những thứ bán sẵn ở chợ đem về nấu nướng. Thế ḿnh không giết, đi mua ở chợ người ta giết sẵn ḿnh ăn cũng là tội vậy? Đúng, nhưng v́ không c̣n giải pháp nào hơn, chúng tôi đành phải đề nghị như thế. Nếu chúng ta không ăn th́ đâu có ai giết bán làm ǵ! Đă ăn th́ không trực tiếp cũng gián tiếp khuyến khích kẻ khác sát sanh. Ngoài ra, cha mẹ nên ngăn ngừa và nhắc nhở con trẻ không nên lấy việc giết hại để làm tṛ giải trí. Chẳng hạn như trường hợp sau mà tôi đă chứng kiến:

Vào buổi tối nọ, sau khi công phu chiều vừa xong, tôi nghe tiếng reo ḥ ầm ĩ của trẻ con xen lẫn giọng cười thích thú của một số người lớn bên cạnh chùa. Từ trên lầu nh́n xuống, tôi thấy một con chuột đang bị thui sống. Bọn trẻ dùng phương pháp là cột chú chuột bằng sợi kẽm ngang lưng, treo ṭn ten tḥng đầu xuống, ở phía dưới đốt lửa. Con chuột v́ nóng quá phải dăy dụa, kêu la chí chóe. Nh́n chuột vùng vẫy trong cái chết thê thảm, mọi người chung quanh vỗ tay cười reo với tṛ chơi quái ác này. Sau khi xem, tôi cảm thấy đau xót và thương hại cho lũ trẻ mới lớn đă tập tính sát sanh, vui cười trước sự đau khổ của kẻ khác. Riêng bậc phụ huynh, lẽ nào ta lại đứng xem con trẻ hành động thiếu lương tâm như thế. Đă không ngăn cản lại c̣n vui cười với chúng, vô t́nh - hay nói đúng hơn cố ư - ta cũng đồng lơa với việc làm dă man của chúng. Thử hỏi, ở địa vị cha mẹ như vậy có xứng đáng làm mô phạm hoặc đủ tư cách dạy bảo con trẻ không? Vả lại, thử đặt ta vào trường hợp con chuột đang bị thui ấy, ta sẽ cảm thấy thế nào? Hẳn chúng ta vẫn tự hào con người là loài động vật cấp cao, có đầy đủ trí khôn, giàu ḷng nhân ái và nhờ những đức tính này mà con người khác hơn loài vật. Nhưng nếu chúng ta hành động theo bản năng, thiếu suy nghĩ, trái lương tâm, thô bạo, dă man th́ có khác chi loài thú đâu?

Nên nhớ, ăn để mà sống không phải sống để mà "xực" cho đẫy đà thỏa măn khẩu vị của ḿnh. Cũng v́ cái miệng tham ăn đă đày đọa tấm thân, gây bao nghiệp chướng và chiến tranh ngày nay có ra cũng do từ sự xung đột tranh dành miếng ăn, chỗ ở. Tại sao ta muốn sống, muốn giữ ǵn bảo vệ sức khỏe lại đi cướp đoạt sự sống của loài khác tô đắp cho sự sống của ḿnh chứ? Ôi! Quả là bất công và tàn nhẫn vô cùng. V́ phục vụ cho dục vọng, con người đă bày ra đủ mọi cách ăn uống, chế biến đủ các loại cho hợp khẩu vị khiến bao loài vật phải chết thê thảm, đau khổ, rên siết. Thế nhưng "máy xay của Trời tuy chậm, nhưng xay thật kỷ" (The mills of the gods grind slowly, but they grind exceedingly fine - English Proverb). Không sớm th́ muộn quả báo sẽ đến cho những ai làm ác. Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều ấy:

Ở Thượng Hải, có nhà triệu phú họ Bành, một doanh thương cự phú ở đô thị. Ông nghiên cứu được món ăn rất hấp dẫn, mệnh danh là món "quán miết giáp" (rót nước vào chiếc mai ba ba). Ông chế ra một chiếc nồi đất, trên vung có đục một cái lỗ nhỏ vừa bằng đầu con ba ba chui lọt. Rồi cho ba ba vào một nồi nước đem đăït lên trên bếp đun. Dĩ nhiên, một lúc sau nước nóng ba ba chịu không nổi phải t́m lối thoát và nó chỉ c̣n một cách duy nhất là cho cổ chui ra khỏi lỗ vung nồi, nhưng thân h́nh th́ đâu dễ ǵ thoát khỏi. Nước càng nóng ba ba chỉ c̣n biết hả miệng ra chờ chết, thế là nhà cự phú họ Bành đàng hoàng ngồi đổ gia vị vào miệng ba ba (dầu, húng ĺu, mỡ, thịt băm nhỏ) rồi bịt kín nồi hầm nhừ thành một món ăn mà họ Bành cho là "dzách lầu" ở trên thế gian này... Họ Bành thường ăn như vậy và thường làm cả trăm con một lúc để đải khách. Thế nhưng "ác giả th́ ác báo". Một hôm nhà họ Bành xảy ra hỏa hoạn, lúc ấy họ Bành đang say sưa trong giấc mộng sau một đại tiệc toàn là món miết giáp. Khi phát hiện ra hỏa hoạn, họ Bành tỉnh giấc th́ đă muộn, lửa cháy chung quanh, luống cuống họ Bành t́m không ra ch́a khóa cửa. V́ là cự phú nên ông rất sợ bị bắt cóc và trộm cướp cho nên lúc nào cũng ở trên pḥng kiên cố trên lầu, cửa sắt bao bọc vững chắc. Lửa cháy tứ tung kéo đến gần kề. Cùng đường họ Bành thấy c̣n một lối thoát duy nhất là chiếc của sổ, ông liền chui đầu qua song sắt, nhưng khốn nỗi thân h́nh to béo với cái bụng nước lèo không thể lọt qua. Lúc ấy xe cứu hỏa tới, v́ đầy khói nên không thấy họ Bành, cứ phun nước vào mặt mũi làm ông chết ngạt, đồng thời trong pḥng lửa cháy dần dần thui sống ông trông thật thê thảm. Nh́n cảnh ấy ai cũng liên tưởng tới món miết giáp của ông. Trước kia ông hành hạ những con ba ba vô tội hết sức tàn ác, th́ bây giờ ông cũng bị chết trong trường hợp y hệt như những con ba ba nạn nhân của ông. Thật là luật nhân quả có vay có trả, lúc nào cũng cân xứng.






__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 13 of 14: Đă gửi: 22 February 2006 lúc 8:22pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

Qua câu chuyện trên ta thấy, lúc thọ hưởng và thỏa măn khẩu vị trên những đau khổ, quằn quại, rên siết của động vật khác, ta tưởng là thú lắm, sung sướng lắm, bổ béo lắm. Nhưng khi chính ta lâm vào hồn cảnh ấy ta mới thơng cảm được thế nào là nước sơi lửa đốt. Chừng đĩ ta cĩ ốn hận ngọn lửa tàn ác kia saolại dă man "thui" ḿnh khơng một chút thương tiếc như thế. Dù đă kêu gào than khĩc, nguyền rủa nĩ vẫn cứ mặc nhiên cháy, như họ Bành "rung đùi" lạnh lùng thản nhiên ngồi nh́n con ba ba thị đầu trong nồi nước sơi kia vậy. Quả là trước cơng lư mọi chúng sanh đều b́nh đẳng."Khi ác nghiệp chưa thành thục người ngu tưởng như đường mâït, nhưng khi ác nghiệp đă thành thục họ nhất định chịu khổ đắng cay" (Kinh Pháp Cú).

Sát sinh cĩ rất nhiều h́nh thức nĩi chung th́ h́nh thức nào cũng dẫn đến quả báo. Tùy theo hành động thơ bạo hay tế nhị, cố sát hay ngộ sát mà cĩ sự nặng nhẹ khác nhau. Tổ Quy Sơn dạy:

"Giả sử bá thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hườn tự thọ".
Nghĩa là dù trải trăm ngh́n kiếp, chỗ làm nghiệp chẳng mất, khi nhân duyên đầy đủ, quả báo trở lại ḿnh. Thế nên, tất cả mọi hành động nơi thân khẩu ư phải e dè thận trọng, tránh gây nhân bất thiện. Bởi v́ một khi hột giống đă gieo xuống đất khơng sớm th́ muộn, lúc nhân duyên đầy đủ nĩ liền nẩy mầm đâm chồi. Tích truyện Mục Kiền Liên sau đây sẽ chứng tỏ cho thấy việc sát sanh tạo sự oan trái, thù hận rất lâu dài:

Mục Kiền Liên là một vị đệ tử đứng vào hàng thứ hai trong Thập đại đệ tử của đức Phật, nổi tiếng về phương diện thần thơng đệ nhất.

Một lần nọ đang trên đường hĩa đạo, đi ngang qua núi Y Tư Xa Lê, Mục Kiền Liên bị bọn Lơa h́nh ngoại đạo sát hại bằng cách xơ đá từ trên núi xuống. Đá rơi loạn xạ như mưa khiến nhục thân của tơn giả dập nhừ tan nát.

Được tin này, các vị Tỳ kheo vơ cùng thắc mắc, bèn tập họp lại để cầu thỉnh đức Phật chỉ rơ nguyên do.

- Bạch đức Thế Tơn! Mục Kiền Liên là người cĩ thần thơng oanh liệt, tại sao khơng dùng sức thần để đối kháng với ngoại đạo?

Đức Phật giải thích:

- Các Tỳ kheo! Khi Mục Kiền Liên lâm nạn chẳng phải ơng ấy khơng biết dự phịng để bảo vệ cho ḿnh khỏi tai nạn nhưng thần thơng khơng vượt qua nghiệp lực, v́ thần thơng khơng phải là biện pháp cứu cánh, người tu hành chẳng thể đi ngược lại lư nhân quả. Mục Kiền Liên (trong quá khứ làm nghề chài lưới) v́ gieo nhân sát sanh nên quả nghiệp sát cần phải kết thúc đời này để được giải thốt vĩnh viễn.

Là một bậc thần thơng biến hĩa như Mục Kiền Liên cịn khơng tránh khỏi nghiệp quả do ḿnh gây tạo trong quá khứ, huống hồ chúng ta là kẻ phàm phu đầy nghiệp chướng lại khơng e dè sợ sệt tránh nghiệp sát ư! Thử nghĩ lại coi, mỗi ngày chúng ta sát hại bao nhiêu sinh mạng lồi vật? Ở đây chỉ cần đơn cử một ngày giết một con cá thơi và một năm sẽ cĩ 365 con chết, mười năm là 3.650 con; rồi hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm cho đến trọn đời, chúng ta sát hại bao nhiêu? Đương nhiên mỗi lồi sẽ căm thù một ít, hờn ốn chất chồng khiến cho oan oan tương báo, xoay chuyển trong vịng luân hồi lục đạo trả vay vay trả măi măi. Đừng tưởng lỗ nhỏ khơng làm đắm thuyền, tội nhỏ khơng phải trả báo. Là Phật tử khá nên suy xét cẩn thận điều này.

Chẳng phải bay lên khơng trung
Chẳng phải lặn xuống đáy biển
Dù t́m khắp thế gian này
Chẳng nơi nào khỏi ác nghiệp.
(Kinh Pháp Cú).
Những dẫn tích vừa qua đă cho ta hiểu sự báo ứng và ốn thù về nghiệp sát. Thế th́ theo thiển ư của tơi cĩ lẽ ai ai cũng sợ sự khổ, sợ đau đớn, sợ tai nạn, sợ cực h́nh, nhất là luân hồi sanh tử. Vậy khơng lư do ǵ ta cứ gieo thêm nhân sát sanh nữa. Muốn khơng cĩ quả ớt th́ đừng trồng cây ớt, muốn hết khổ báo đọa đày đền mạng th́ đừng nên sát sanh. Vả lại, khi nêu lên mục này, chúng tơi đă dùng h́nh thức tránh sát sanh để tŕnh bày. Cịn sau khi đọc xong đọan trên, quư Phật tử đă hiểu rơ quả báo của sự sát sanh ghê tởm như thế nào. Cĩ lẽ v́ t́nh thương và tránh báo ứng, chúng ta sẽ khơng ác tâm đang tay giết hại lồi vật cho đành.

Miệng người là huyệt mộ, bao tử là mồ chơn, thân là băi tha ma đă dung chứa biết bao sinh mạng lồi vạât phải chết oan uổng đau đớn v́ cái xác ơ uế giả tạm này. Xét cho kỷ thân thể con người được đúc kết bằng huyết nhục, bằng oan hồn, bằng đau khổ của lồi thú. Nghiệp ác chất chồng, ốn thù đầy dẫy. Vả lại thân người chỉ tồn tại một thời gian rồi cũng hư hoại, tan ră trả về với cát bụi. Một khi hơi thở ra khơng trở lại, hỏi cĩ đem theo được cái xác thúi này khơng, hay cũng chỉ làm cho người đời ghê tởm, vùi sâu dưới ba tấc đất hoặc đốt thành nắm tro tàn vơ dụng! Lúc ấy, bao nhiêu máu thịt của súc sinh tơ bồi lên thân thể ta cịn lại được ǵ? Rồi ai chịu trách nhiệm về những tội lỗi ấy? Mong rằng Phật tử nĩi riêng và nhân loại nĩi chung, ai cũng muốn an vui hạnh phúc th́ đừng nên phá hoại sự sống kẻ khác.

"Ta lấy con mắt trí tuệ mà nh́n, th́ thấy hết thảy chúng sanh đều là cha mẹï của nhau. Tại sao ta lại bắt giết mà ăn thịt!"                                                                                                                                                          (Kinh Niết Bàn)

      2.- Khơng gian tham trộm cắp

      Mạng sống con người đă là quư, mà những tài vật nuơi sống con người cũng khơng kém phần quan trọng trong đời sống nhân loại.

Người nơng dân chân lấm tay bùn vất vả với cơng việc đồng áng; anh đạp xích lơ cịng lưng dốc sức chở khách; cơng nhân quần quật suốt 8 tiếng đồng hồ nơi nhà máy; cơ bán hàng thức khuya dậy sớm với đơi gánh trên vai; người giáoviên canh thâu vẫn cịn ngồi bĩp đầu nặn ĩc soạn bài... Tất cả những việc làm cực nhọc ấy khơng ngồi mục đích v́ sự sống, v́ miếng cơm manh áo. Hơn thế nữa với sự tiến bộ khoa học ngày nay, nhu cầu vật chất cao, con người làm việc khơng chỉ để cĩ miếng ăn mà cịn mong sao cĩ thêm những phương tiện cần thiết giúp cho sự sống thoải mái và mở mang kiến thức như: nhà cửa, xe cộ,ti vi, máy hát...Thế nên, trèo non lặn suối, đi ngược về xuơi, thức khuya dậy sớm, buơn tảo bán tần, lao thân khổ trí, cực khổ vơ cùng cũng bởi đồng tiền bát gạo, bởi cuộc sống đầy đủ ấm no. Được nĩ ai cũng vui mừng sung sướng, gia đ́nh vui vẻ ấm no. Mất nĩ người ta sẽ đau khổ xĩt xa, lo rầu thương tiếc. Từ đĩ cĩ thể dẫn đến t́nh trạng gia đ́nh sa sút, đời sống khĩ khăn khiến anh em chia ĺa, vợ chồng ly cách, hạnh phúc tan vỡ.

Muốn sống con người phải cĩ thực phẩm để ăn; muốn ấm thân cần cĩ quần áo để mặc; muốn cĩ cuộc sống thoải mái, đở vất vả người ta cần cĩ những dụng cụ để xử dụng hàng ngày, nhất là tiền bạc, một phương tiện cần thiết trong mọi sinh hoạt đời sống nhân loại. Ắt hẳn ai ai cũng muốn giữ ǵn bảo vệ nĩ, khơng thích kẻ khác xâm phạm hoặc cướp đoạt. V́ dù sao nĩ cũng là thành quả của biết bao cơng sức và mồ hơi nước mắt của họ đổ ra. Nếu chẳng may ai đĩ bị lường gạt, hoặc bị trộm cướp, khơng hiểu họ cĩ buồn rầu đau khổ, xĩt xa, tiếc rẻ khơng nhỉ? Cứ suy lịng ḿnh sẽ biết lịng người, của ḿnh ḿnh biết quư trọng giữ ǵn, khơng lư nào lại tham lam trộm cắp của người để làm của riêng ḿnh được Điều này rất trái nguyên tắc, coi chừng cĩ ngày "vào khám ngồi xé lịch" th́ khốn đấy.

Là Phật tử tại gia lại thêm bổn phận, danh nghĩa cha mẹ trong gia đ́nh cần phải lập hạnh chân thật ngay thẳng để con trẻ noi gương. Trong sinh hoạt hàng ngày từ cây kim, cọng rau, quả ớt... nếu ta muốn xài phải mua, trường hợp khơng cĩ th́ hỏi xin người, chớ nên tự lấy ngang và cho vật đĩ là khơng đáng. Tục ngữ ta cĩ câu: "Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt". Nếu từ việc nhỏ nhặt ta khơng cẩn thận giữ ǵn cho đúng đắn, lâu ngày thành quen đâm ra "ngứa nghề" thấy đồ vật quư của người là sáng mắt muốn "chơm chỉa" liền. Cứ nh́n những người nghiện trầu, thuốc, rượu sẽ rơ. Lúc đầu họ chỉ dùng chơi cho đở buồn hoặc xả giao thơi. Nhưng dần dần tập nhiễm lâu ngày thành quen (ghiền). Bấy giờ khơng cĩ thuốc hút sẽ ngáp lia ngáp lịa buồn ngủ vơ cùng, cái miệng thiếu trầu nhai nhĩp nhép th́ lạt lẽo chả ra làm sao cả, bữa cơm khơng cĩ ba xị đế th́ mất ngon... Thế nên, muốn tránh hại lớn, ta phải cẫn thận từng hành động nhỏ ban đầu. Hơn nữa, chúng ta hay cĩ quan niệm những vật nhỏ bé khơng đáng bao nhiêu cĩ chi gọi là gian tham trộm cắp? Nếu lỡ thiếu hụt chút đỉnh lấy của người xài đở, cũng nên v́ t́nh đồng bào mà hoan hỷ xí xĩa cho, hơi đâu chấp nhất mần chi cho mệt người. Dạ thưa, người ta khơng chấp nhất những thứ cỏn con ấy đâu, nhưng khốn nỗi nhân quả cĩ chịu tha ta đâu. Câu chuyện sau đây sẽ cho ta rơ thế nào là vay trả, dù là vật rất nhỏ nếu khơng xin cũng phải trả:

Ngày xưa, cĩ một ơng phú gia nọ rất nhiều của. Mọi người trong xĩm đều biết danh nhà cự phú này. Ơng cĩ nuơi một con ngựa rất khơn, đặc biệt là nĩ biết nĩi tiếng người và cĩ linh tính biết trước các việc sắp xảy ra (?). Một hơm nọ nĩ bảo với ơng chủ rằng: "Tối nay sẽ cĩ một tốn cướp gồm mười tám tên đến đây, vậy ơng hăy tránh đi nơi khác". Ơng chủ khơng chịu đi và nĩi rằng:

- Nếu quả thật bọn cướp cĩ đến đây th́ tơi sẽ đem vàng bạc cho chúng là xong cần ǵ phải đi đâu cho cực.

Con ngựa bèn đáp rằng:

- Nếu ơng khơng đi nơi khác, e rằng chúng đến đây cướp của cịn giết ơng nữa th́ sao? Tốt hơn ơng hăy lấy vàng chia ra mười tám phần để đĩ rồi trốn đi nơi khác, một ḿnh tơi ở nhà định liệu.

Ơng chủ nhà nghe xong cho là phải, lấy vàng chia ra mười tám phần để sẵn và gia đ́nh kéo nhau đi trốn nơi khác. Tối hơm đĩ, mười tám tên cướp gơ cửa, con ngựa bèn trả lời:

- Ai đĩ. Cứ việc đẩy cửa vào.

Sau khi nghe xong, bọn cướp xơng vào nhà chia nhau lục sốt khắp nơi mà khơng thấy một ai, chúng mới cất tiếng hỏi th́ con ngựa trả lời:

- Chính tơi là ngựa đây, tơi biết các ơng tối nay đến đây nên tơi đă dặn chủ nhà chia sẵn mười tám phần vàng cho các ơng rồi cịn chủ nhà đă đi khỏi.

Nghe xong tất cả bọn cuớp rất ngạc nhiên và hỏi ngựa tại sao biết nĩi tiếng người và biết hơm nay chúng đến cướp nhà này. Con ngựa đáp:

- Tơi là người tu hành trong nhiều kiếp trước, trai giới rất nghiêm minh. Chỉ v́ một hơm đi hành đạo phương xa, trong lúc băng qua một cánh đồng, v́ bụng đĩi thấy nơi đám lúa cĩ một cây trổ bơng duy nhất, tơi bèn xuống ngắt lấy ăn. V́ khơng xin chủ nên kiếp này phải bị làm thân ngựa để đền trả lại cho chủ nhân đây. Sau khi nghe con ngựa kể xong, cả bọn cướp kinh hăi, suy nghĩ về việc làm bất chính của ḿnh từ trước tới nay. Nhà sư chỉ v́ khơng xin một bơng lúa mà phải bị đọa làm thân ngựa để đền trả như thế, huống chi cả đời cướp hại của người tránh sao khỏi quả báo. Từ đĩ họ sám hối ăn năn quay trở về con đường lương thiện, bỏ nghề gian tham tinh tấn tu hành về sau trở thành mưới tám vị La hán.

Cổ nhân nĩi: "Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ", nghĩa là người khơng cĩ lễ nghĩa th́ chẳng nên thân, đồ vật phi nghĩa chẳng nên lấy giữ. V́ vật phi nghĩa là của cờ bạc, của rơi rớt ngồi đường, của hối lộ mĩc ngoặc, của lường gạt dối trá người... những thứ này khơng phải mồ hơi cơng sức ḿnh tạo ra nên khĩ thể vững bền lâu dài với ḿnh được. Tục ngữ ta cĩ câu: "Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngồi sân, của phù vân để ngồi ngơ". Chúng ta cứ suy xét cho kỹ những kẻ tham lam trộm cắp lừa gạt của người đem về xây đắp gia đ́nh, thử hỏi họ cĩ bao giờ hạnh phúc dư thừa đâu? Hay lúc nào cũng phải phập phồng lo sợ ngày đêm khơng yên. Khi lấy của người th́ muốn vơ vét cho thật đầy, thật nhiều, đến lúc bị tội lại mong thật ít, thật nhẹ. Giả sử nếu cơng việc trơi chảy êm xuơi, chưa chắc ǵ những của phi nghĩa ấy tồn tại với kẻ gian lâu đâu. Rồi nĩ cũng theo ơng bà mà tiêu ma hết hoặc xui khiến gia đ́nh khơng tai kia th́ tật nọ, khơng vợ đau th́ con ốm, họa hoạn dồn dập, rốt cuộc bao nhiêu tiền phi nghĩa ấy đổ vào thuốc thang, tai nạn cũng chẳng đủ. Thế là nghèo vẫn hồn nghèo, khổ vẫn hồn khổ, chỉ thêm được một số lời: đĩ là tội lỗi và tính gian tham. Trong bài kệ Khất sĩ cĩ đoạn:

Thân này chưa biết ra chi
Của kia lại cĩ chắc ǵ mà ham
Bao nhiêu cho thỏa lịng tham
Càng thâu càng đắm càng làm càng say
Tiếc cho tháng rộng năm dài
Chung quy hoang phí về tai thần tiền
Được thua, thua được liền liền
Hả hê mới đĩ ưu phiền đâu đây.
Gian tham cĩ rất nhiều h́nh thức, là Phật tử chúng ta nên cẩn thận và xử lư kịp thời khi phát hiện. Khơng nên làm ngơ bỏ qua và cho rằng việc nhỏ khơng đáng. Chẳng hạn như: người khác trả dư tiền ḿnh cũng làm ngơ, mượn đồ của người biết họ quên giữ luơn xài, đi xe, qua đị khơng trả tiền v.v... Chính tơi khi xưa lúc cịn lên bậc Trung học, đường đi từ nhà đến trường khoảng 8 cây số phải đi bằng xe buưt. Hơm nào gần tới bến lơ xe quên lấy tiền vé, tơi cảm thấy "mở cờ" trong bụng, ngồi êm re thầm khấn cho họ chẳng nhớ địi. Khi xuống xe thấy êm xuơi rồi, tơi hư hửng chạy ngay đến hàng cà rem làm một cây ăn mừng cái đă. Tơi rất thích màn này diễn ra đều đều. Quả thật là trẻ con!

Muốn tránh gian tham, khơng cĩ phương pháp nào hơn là giữ hạnh ngay thẳng và tâm chân thật. Nĩi chung từ tâm niệm cho đến hành động phải thống nhất, khơng nên bề ngồi ra vẻ chánh trực, trong tâm lại tính tốn quá chừng. Ví dụ khi ta đi đường gặp người làm rớt bĩp tiền, ngĩ trước nh́n sau thấy cĩ người, ta làm bộ ra vẻ chân thật, lượm lên gọi người ấy trao trả cho họ. Nhưng khi đi th́ trong lịng tiếc rẻ, than thầm: Nếu đừng cĩ ai trơng thấy th́ ḿnh "trúng mánh" rồi, thật xui ghê! Hành động như vậy là mâu thuẩn với tâm ư. Trái lại khi làm việc ấy ta cảm thấy vui vẻ sung sướng v́ ḿnh vừa thực hiện việc phải, giúp người khỏi bị đau khổ v́ mất số tiền, tâm hồn khoan khối nhẹ nhàng. Cĩ thế mới xứng đáng là người Phật tử chân chánh. "Ta thà giữ đạo nghèo mà chết chứ khơng chịu vơ đạo mà sống" (Kinh Lục Độ Tập).

      3.- Khơng nên tà hạnh

      Vợ chồng là bạn t́nh trăm năm, là nghĩa vụ thiêng liêng, là mối quan hệ chặt chẽ trong việc xây dựng tổ ấm hạnh phúc gia đ́nh, gây tạo con cháu nối dơi tơng đường. Thế nên, người bạn t́nh mà ta thề non hẹn biển suốt đời chung sống đến lúc răng long đầu bạc, quả là hệ trọng vơ cùng. Do vậy chúng ta khơng thể một sớm một chiều mà định đoạt hoặc hấp tấp se duyên kết nghĩa - đừng sợ mất người yêu - thiếu sự cân nhắc, t́m hiểu kỹ càng cẫn thận. Hậu quả của nĩ thường đi đến chỗ ân hận suốt đời. T́nh yêu khổ nỗi hay dẫn đến sự mù quáng. Trước mắt họ người yêu là thần tượng tuyệt vời, đáng yêu trăm vạn lần hơn ghét.

"Trí ĩc cĩ cả ngh́n con mắt
Song quả tim chỉ cĩ một mắt thơi
Nhưng khi đă yêu
Th́ ánh sáng của cả cuộc đời sẽ tắt..."
                                              (Harley Coleride).
Đă yêu nhau, họ sẵn sàng tha thứ tất cả và h́nh như khơng muốn nghe, muốn biết lỗi lầm của nhau. Chỉ cĩ tràn đầy yêu thương và hy vọng. V́ các cơ cậu thanh niên vẫn cơng bố trước cuộc đời là: Ơi! khi yêu nhau th́ khơng nên tính tốn, t́nh yêu chân thật chẳng nên so sánh thiệt hơn tốt xấu. Dạ thưa xin nhất trí với các bạn trẻ mà hoa t́nh yêu vừa chớm nở trong lịng. Hẳn ta vẫn nghe nhiều đơi bạn khi chưa kết hơn thường ca ngợi, tán thán người t́nh của ḿnh nào là: cĩ anh như bầu trời mở rộng, thiếu em như trái đất ngừng quay, anh là mạng sống, là trái tim, là linh hồn, là cuộc đời, là là đủ thứ... Quả thật khi nên duyên cầm sắt rồi th́ trái đất quay lại mạnh hơn nữa - cĩ lẽ v́ lúc này yêu nhiều nên quay nhiều chăng! - quay đến nỗi chén bát vỡ toang, đồ đạc trong nhà bay ra ngồi đường nằm la liệt. Hoặc sau tuần trăng mật "Tuần đầu chồng nĩi vợ nghe, tuần thứ hai vợ nĩi chồng nghe và bây giờ vợ chồng cùng nĩi cho hàng xĩm cùng nghe". (During the first week I talked and she listened then during a fortnight she talked and I listened. Now the both talk and the neighbours listen). Như vậy những lời tâm sự của đơi vợ chồng trẻ đă trở thành buổi hịa tấu vơ cùng sơi nổi và đầy hào hứng đă hấp dẫn thu hút hàng xĩm đến dự phần nghe ké luơn! Đây cĩ lẽ là kết quả của những bạn yêu vội thương nhanh.

Chúng ta nên nhớ t́nh yêu phát xuất từ tâm hồn chân thật, trong sáng khác với t́nh dục thấp hèn. T́nh yêu vợ chồng nhắm đến sự hịa hợp, hiểu biết và thơng cảm lẫn nhau, nương nhau trong cuộc sống, cùng chung xây dựng hạnh phúc tương lai. Cịn t́nh dục là sự thèm muốn về ái dục, chỉ nhằm đến mục đích thỏa măn khối lạc thể xác, sau đĩ mặc kệ chẳng quan tâm đến người đă dâng hiến trọn t́nh yêu cho ḿnh. Con người sở dĩ khác con vật ở chỗ cĩ lư trí, hành động phải được chỉ đạo của lương tâm. Thế nên t́nh yêu chân thật phải từ chỗ hiểu biết lẫn nhau dẫn đến hơn nhân và mối quan hệ xác thịt. Khơng phải hành động theo bản năng thú tính: thích là làm, làm xong th́ thơi. Ở đây khơng tà hạnh cĩ nghĩa là khuyên Phật tử tại gia phải biết tiết dục, khơng nên ăn nằm trái phép chẳng phải lúc, khơng nên cĩ những cử chỉ lố lăng trêu chọc kẻ khác phái ngồi đường... Nĩi chung, khi đă trở thành vợ chồng rồi cần phải cĩ bổn phận trách nhiệm với cương vị của ḿnh, phải giữ t́nh thủy chung như nhất, chẳng nên mơ tưởng đến kẻ khác, lang chạ bừa bải để gây xáo trộn gia đ́nh, mất nhân phẩm con người, đơi khi cịn làm trị cười cho thiên hạ nữa.

Truyện "Cục đá biết la" của Thiên Phúc sẽ cho chúng ta vài phút cười tội nghiệp về hai lăo già cịn "ham của lạ":

Ngày xưa, cĩ một thơn nữ sắc đẹp mặn mà, duyên dáng và rất đổi khơn ngoan. Sắc đẹp của nàng khiến cho lăo quan huyện sĩi đầu và tên thầy đề háo sắc chết mê chết mệt. Lăo quan huyện thường hay ve văn, lui tới tỏ lời ong bướm, cịn tên thầy đề th́ hay hẹn hị tán tỉnh. Nàng chẳng ưa và rất bực ḿnh với hai lăo già dê này.

Một hơm, quan huyện lại đến nhà tán tỉnh dây dưa, nàng cho lăo một cái hẹn:

- Đúng canh ba đêm ba mươi, quan đến trước nhà em, chỗ cĩ cây ớt. Quan ngồi kế bồn ớt, nếu cĩ ai đi qua, quan cứ ngồi im đừng động đậy hay lên tiếng ǵ hết. Quan cứ ngồi đĩ chờ lát em sẽ ra tâm sự với quan tới sáng...

Lăo quan huyện ra về khấp khởi mừng trong bụng "vậy là nàng đă thương ta".

Lát sau, thầy đề mị đến. Nàng cũng hẹn:

- Tối mai đêm ba mươi, sau trống điểm canh ba chừng một lúc, thầy đến trước cửa nhà em, chỗ cây ớt ngồi đĩ chờ em. Nếu khơng thấy em ra, thầy lấy cây dùi em bỏ dưới gốc ớt gơ vào cục đá trắng trắng kế đĩ cho em nghe, em sẽ ra với thầy.

Thầy đề ra về mở cờ trong bụng "phen này th́ cá phải cắn câu".

Đêm ba mươi chưa tới canh ba, lăo quan huyện đă mị đến gốc ớt rồi chui xuống sát bồn cây ngồi lĩ cái đầu hĩi lên, lĩ cặp mắt dịm vơ nhà, rộn ràng chờ đợi giây phút sung sướng.

Sau hồi trống điểm canh ba, thầy đề mị đến, chui vào gốc ớt, thấy cĩ cái dùi thầy mừng lắm. Chờ một lát, thầy cầm dùi gơ vào cục đá trịn trịn bĩng bĩng, nghe cái "cốc". Quan huyện thấy ê đầu nhức ĩc, nhưng khơng dám la, cứ ngồi cắn răng mà chịu đựng. Khơng thấy "người yêu" ra, thầy đề tưởng ḿnh gơ nhẹ quá, bèn giơ cái dùi gơ cái "cốc" nữa, mạnh hơn lần trước. Quan huyện bị gơ muốn bể đầu nhưng đành nhăn mặt nhăn mày chịu trận, v́ nàng đă căn dặn khơng được lên tiếng. Đợi thêm một hồi thấy lâu quá, thầy đề giơ cao dùi định tán thật mạnh th́ "cục đá" đứng lên nĩi mếu máo:

- Nảy giờ tao nhịn nhiều rồi nghen, thằng chĩ nào dám gơ đầu tao?

Thầy đề hết hồn liệng dùi đâm đầu chạy tháo thân. Người nhà của cơ gái nghe động tưởng là ăn trộm bèn la lên.

Lăo quan huyện mang cái đầu hĩi vừa mới mọc hai cái sừng, nhảy cái rột dơng tuốt.

Vợ chồng là bạn t́nh trăm năm được kết nghĩa se duyên khi cịn trẻ đẹp thường nhờ cậy giúp đở lẫn nhau, trong cuộc sống với bao kỷ niệm vui buồn. Chúng ta phải hết lịng với nhau đến lúc tuổi già, khi đẹp đẽ nhớ lúc xấu. Hoa nở phải cĩ lúc héo tàn, nhan sắc cũng theo thời gian mà thay đổi. Thế nên, đừng v́ một chút địa vị, giàu sang mà vội vă phụ t́nh, chạy theo những cơ gái trẻ đẹp hơn, lăng quên người vợ cũ đă suốt đời yêu thương và tàn tạ dung nhan v́ ḿnh.

Từ vợ chồng sẽ trở thành cha mẹ đối với con cái trong gia đ́nh, người Phật tử tại gia cần phải nêu gương đứng đắn để giữ ǵn nhân phẩm và danh dự. V́ đức hạnh của cha mẹ sẽ ảnh hưởng đến tính tự trọng nơi con trẻ, là bài học gương mẫu để con noi theo học tập. Do vậy một khi ta đă chấp nhận là vợ chồng, ta khơng muốn ai xâm phạm, cướp đoạt hoặc ơ nhục danh dự gia đ́nh th́ ta cũng khơng cĩ quyền dụ dỗ hoặc phá hoại hạnh phúc kẻ khác. Hàng ngày trên quả đất chúng ta cĩ biết bao gia đ́nh rơi vào t́nh trạng "ơng ăn chả, bà ăn nem" hoặc "chồng mèo, vợ chuột" đưa đến mất niềm tin lẫn nhau, sứt mẽ t́nh cảm vợ chồng, làm hổ thẹn cho con trẻ, hạnh phúc gia đ́nh tan vỡ. Điển h́nh như câu chuyện sau:

Cĩ một Phật tử hàng ngày đến chùa tụng kinh rất vui vẻ. Thời gian sau thấy vắng và thỉnh thoảng cĩ đi th́ vẻ mặt khơng được vui lắm. Biết cĩ chuyện buồn, một hơm tơi gợi hỏi nguyên do. Người ấy với sự chân thành đă thuật lại cho tơi nghe như sau:

"Thưa Thầy, đáng lẽ con khơng nên đem chuyện gia đ́nh ra kể để làm phiền lịng Thầy phải quan tâm lo nghĩ. Nhưng v́ t́nh nghĩa thầy trị thân thiết con khơng thể dấu được. Mong Thầy hoan hỷ khi nghe qua sự việc. Nguyên ba má con trước đây rất hịa nhă vui vẻ, gia đ́nh trong ấm ngồi êm. Sau đĩ v́ bảo lịng nổi lên khiến hạnh phúc gia đ́nh tan vỡ, cha mẹ phân ly. Lư do ba con hàng ngày đi làm thường ghé quán cà phê để giải khát và điểm tâm. V́ tính t́nh vui vẻ, vả lại cũng khá bảnh trai và cĩ chút ít tiền, nên đă lọt vào cặp mắt xanh của bà chủ quán .Mặc dù đă cĩ chồng, bà này đă tỏ ra lạnh nhạt với chồng và rất thân mật với cha con. Rồi lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, t́nh cảm hai người mỗi ngày một đậm đà, hơn nữa bà này bám sát quá mức. Cuối cùng ba con đă ngă lịng và chung sống với bà ấy. Như vậy, từ khi hai người cĩ những t́nh cảm cá nhân với nhau, ba con rất lơ là với gia đ́nh, hay kiếm chuyện gây sự với má con. Đến khi đổ vỡ má con mới biết là ba con cĩ người t́nh khác. Má con nhất định làm giấy ly dị. Từ đĩ chúng con cảm thấy buồn tủi và cuộc sống trở nên vất vả khĩ khăn".

Qua câu chuyện trên, với địa vị của một người cha, người mẹ trong gia đ́nh cịn cĩ khả năng tư cách để dạy bảo con cái khơng? Người con sẽ nghĩ thế nào và cĩ mặc cảm ǵ với bạn bè hàng xĩm? Thiết nghĩ như thế cịn chưa đến nỗi ơ nhục cho lắm. Nếu như việc làm tà hạnh gian dâm ấy bị phát hiện trong lúc tư t́nh, bị nhục mạ tại chỗ th́ cịn mặt mũi nào mà nh́n ngĩ bạn bè hàng xĩm, vết nhơ tà hạnh này khi nào mới rửa cho sạch, nhân phẩm và danh dự con người chừng nào mới được phục hồi? Hay phải chịu ơm nhục suốt đời?

Đối với những người cĩ tâm tà hạnh thường hay lo sợ, bởi v́ đă làm việc bất chính th́ luơn sợ bị tiết lộ. Vả lại, chúng ta nên hiểu, con người sở dĩ sống và khỏe mạnh cường tráng là do các chất tinh huyết trong cơ thể. Các chất này là tinh hoa của bao nhiêu thứ bổ dưỡng mà ta ăn uống hàng ngày. Một phần nuơi cơ thể, một phần đưa xuống bộ phận sinh dục. Nếu khơng biết tiết chế t́nh dục, tham dâm quá độ vơ t́nh chúng ta đem của báu đổ đi. Hậu quả sẽ vơ cùng đau khổ như: thân thể tiều tụy, bệnh tật phát sinh, gối mỏi lưng đau, tuổi thọ giảm sút và tinh thần suy nhược. Chắc hẳn, đọc qua lịch sử thời phong kiến, ai cũng biết ơng vua cĩ hàng ngàn cung tần mỹ nữ, những ơng quan, những hào mơn cĩ hàng trăm tỳ thiếp. Do quyền lực và bất cơng, các vua quan mặc sức thỏa măn "con lợn lịng" của ḿnh một các bừa bải, hổn tạp, vơ luân. Hậu quả đưa đến cho kẻ đa dâm hiếu sắc ra sao? Những ơng vua hơn mê chết yểu, những chàng cơng tử bột liệt nhược, những quan quyền lầy lụa bệnh hoa liễu, những tiểu thư đài các bơ phờ thất sắc. Hởi ơi! "T́nh yêu là nguồn vui ngọt ngào nhất và là sự thống khổ dă man nhất". (Bailey)

Để bảo vêï sức khỏe, tránh xa bệnh tật, giữ ǵn nhân phẩm và hạnh phúc gia đ́nh, xứng đáng là tấm gương sáng cho con trẻ soi bĩng. Người Phật tử tại gia nên giữ hạnh đoan chánh, khơng được phá hoại hạnh phúc kẻ khác. "Nếu thế gian này mà hàng phục được những ái dục khĩ hàng phục th́ sầu khổ tự nhiên rụng tàn như giọt nước lá sen" (Kinh Pháp Cú).

      4.- Khơng nên vọng ngữ

      Miệng là cửa ngơ của suy tư, là nơi xuất phát tất cả những ư nguyện của ḿnh với tha nhân đồng thời nĩ cũng là nguồn gốc của bao tai họa và bệnh tật. "Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất". Hàng ngày chúng ta ai ai cũng cần nĩ để sử dụng trong việc giao tế, biện bác, tranh luận... Vậy trong gia đ́nh cĩ được hịa thuận hay chia rẽ, ngồi xă hội mọi người thương yêu hay thù ghét nhau cũng đều do miệng lưỡi mà ra. Do v́ lời nĩi rất quan trọng, một khi thốt ra phải suy nghĩ cân nhắc kỹ càng. "Nĩi mà khơng suy nghĩ cĩ khác nào bắn mà khơng nhắm" (Speaking without thinking is like shooting without aiming - Spanish Proverb). Hoặc câu "Nhất ngơn kư xuất, tứ mă nan truy", nghĩa là: Một lời nĩi ra bốn ngựa khĩ theo.

Từ xưa tới nay, đă biết bao nhiêu những tai họa xảy đến cũng v́ lời nĩi qua lại, hơn thua, đâm thọc khích bác lẫn nhau mà ra cả. Một lời nĩi cĩ thể cứu sống người trong cơn nguy biến, đem lại sự vững tâm cho người lúc sợ sệt, tạo đức kiên nhẫn cho người trong cơn nĩng giận, mang lại hịa b́nh ổn định cho xă hội quốc gia. Trái lại nĩ cũng làm cho cảnh máu đổ thịt rơi, nhà tan cửa nát, chia rẽ thù hiềm. "Một lời nĩi cịn sắc bén hơn cả gươm đao" (Burton). Cĩ thể nĩi nhất ngơn hưng bang, nhất ngơn táng bang.

Nĩi cĩ rất nhiều h́nh thức. Nĩi thêm bớt, thấy nĩi khơng thấy, nĩi lời trau chuốt, chuyện cĩ nĩi khơng, trước mặt nĩi phải sau lưng nĩi trái, nĩi dua nịnh, nĩi đâm thọc, nĩi chia rẽ, nĩi giọng hung ác... Tất cả lời nĩi trên đều cĩ tính cách gây chia rẽ, bất hịa tạo sự thù hiềm ghen ghét lẫn nhau, làm mất niềm tin của người khác đối với ḿnh. Hàn Thi ngoại truyện cĩ câu: "Chim mà mỏ quắp th́ lồi chim sợ, cá mà mồm ngốp th́ lồi cá sợ, người mà cái lưỡi sắc xảo th́ lồi người sợ".      Tại chùa tơi cĩ một cơ nọ khơng biết v́ lư do gia đ́nh ra sao, đến chùa xin làm cơng quả nương náu cửa thiền. Thời gian đầu, với lời nĩi trau chuốt ngon ngọt của cơ ai nấy cũng thương và cho là người đàng hồng tử tế. Nhưng cổ nhân cĩ câu: "Trường đồ tri mă lực, cửu xử thức hiền nhân", cĩ nghĩa là dường dài mới biết ngựa hay, ở lâu mới rơ ai là hiền nhân. Quả thật lâu ngày dần dần bắt đầu "lịi tẩy" cái chân tướng "đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà" của cơ ra. Nịnh bợ người trên, nĩi xấu kẻ dưới, trước mặt người khen ngợi, sau lưng th́ chê bai. Đến người này nĩi xấu người kia, đặt chuyện nĩi thêm nĩi bớt cho người khác để gây sự bất hịa. Lại thêm tính hay nghe trộm chuyện người khác để đâm thọc lẫn nhau... V́ bởi "Cái lưỡi khơng xương nhiều đường lắt léo, cái miệng khơng vành nĩ méo tứ tung" nên mọi người trong chùa dần xa lánh hết, khơng ai dám thân cận và nĩi chuyện với cơ v́ sợ "tai mang họa gởi".

Đă mất hết tín nhiệm với mọi người nên cơ cảm thấy bị bỏ rơi, bèn t́m cách xin đi nơi khác. Trước khi đi, tại chùa cĩ cuộc hội họp nội bộ, tơi bèn kể lại một câu chuyện rất lư thú với ngụ ư nhắc nhở cơ:

Một hơm con cú mèo gặp con chim gáy. Chim gáy hỏi:

- Bác sắp đi đâu đây?

Cú mèo nĩi:

- Tơi sắp sang ở bên phương Đơng.

- Tại làm sao thế?

- Ở đây mỗi lần tơi cất tiếng kêu, ai cũng ghét nên tơi đành phải đi chỗ khác sống.

Chim gáy nĩi:

- Theo ư tơi bác nên đổi tiếng đi mới được. Nếu khơng đổi tiếng th́ dù cĩ sang phương Đơng ở, người ta nghe tiếng kêu ấy cũng lại ghét bác thơi. V́ nhân t́nh ở đâu mà chả thế!

Quả đúng như câu chuyện chim cú và chim gáy kia. Sau này tơi được biết cơ ta đi đến nơi nào ở một thời gian cũng bị cơ lập và sa thải, khơng ai dám chứa nữa. Qua bài học trên ta cĩ thể kết luận: khơng phải kẻ khác ghét ta mà chính ta tạo ra phiền năo nơi người. Thế nên đừng tưởng lời nĩi khơn xảo sẽ che đậy được hành vi bất chính của ḿnh. Gian dối cuối cùng sẽ bị phơi bày trước ánh sáng sự thật.

Thế nhân thường nĩi: "Đàn ơng miệng rộng th́ sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà". Nhưng theo thiển ư tơi th́ đàn ơng cái miệng nhỏ lại một tí cũng vẫn hay hơn. V́ sang cho lắm cĩ lẽ tai ương cũng nhiều đấy. Vả lại "Chúng ta cĩ hai tai và chỉ cĩ một cái lưỡi để cho chúng ta biết nghe nhiều hơn nĩi" (We have two ears and only one tongue in order that we may hear more and speak less - Diogenes). Ơi! Nhất là đàn bà mà miệng rộng th́ lại cịn nguy nhiểm hơn nữa. Người ta thường đặt cho từ "ngồi lê đơi mách" từ đầu xĩm tới cuối hẻm, chưa thấy mặt đă thấy tiếng, hết chuyện trong nhà ngồi phố đến chuyện làng nước xĩm giềng... Chẳng may gia đ́nh nào cĩ người mắc phải chứng bệnh miệng rộng này cĩ lẽ chồng con phải xa lánh sớm mà hàng xĩm rồi cũng sẽ "bái bai" luơn.

Một khi đă nĩi láo quen rồi đến khi ta cĩ nĩi sự thật th́ cũng cĩ ít người tin theo, "một sự bất tín, vạn sự bất tin". Để bảo đảm sự tín nhiệm với mọi người, chúng ta phải cẩn thận khi nĩi, suy xét kỹ càng, đừng v́ vui miệng mà thốt ra một cách bừa băi, hoặc lấy chuyện làm quà. Hậu quả sẽ tai hại vơ cùng. Như câu chuyện "Kẻ nĩi láo" trong cuốn Stories for children của Lev Tolstoi. Tơi xin lược dịch lại sau:

Cĩ một cậu bé chăn cừu ở ngồi cánh đồng. Một hơm cậu ta bèn la lên hốt hoảng như cĩ chĩ sĩi thật:

- Giúp tơi với! Chĩ sĩi! Chĩ sĩi!

Dân trong làng tưởng thật kéo nhau đến cứu và nhận ra rằng cậu ta đang đùa giởn với họ. Cậu bé chăn cừu đă tái diễn màn này nhiều lần. Một hơm điều đĩ đă trở thành sự thật. Con chĩ sĩi xuất hiện đang tấn cơng đàn cừu. Cậu bé hốt hoảng la:

- Bớ người ta! Chĩ sĩi!

Mặc dầu kêu la cầu cứu, nhưng dân làng cho là hắn đùa giởn với họ nữa và khơng cĩ ai chú ư đến sự cầu cứu của cậu bé. Chĩ sĩi tấn cơng và giết cả bầy cừu.

Trong Đại Luật cĩ câu: "Luận kẻ ở đời, búa ở trong miệng, sở dĩ chém ḿnh , do lời nĩi ác". Nĩi khơng đúng sự thật đă là tai hại cho ḿnh dường nào, huống hồ lời nĩi hung ác nhục mạ, gây đau khổ cho người. Cĩ khi chỉ v́ lời nĩi ác khiến cho người bực tức đêm ngày, lo buồn mà phát sanh bệnh tật. Bởi v́ làm người ai cũng cĩ mặc cảm tự ti và danh dự. Nên trước mặt người ta khơng nên v́ sự khoe khoang hay giỏi hoặc cậy quyền thế chức vị để chê bai, nhục mạ kẻ khác. Tích chuyện sau đây sẽ cho ta thấy quả báo lời nĩi ác như thế nào:

Thuở xưa cĩ 500 người buơn đem một con chĩ trắng cùng qua một nước khác, giữa đường nghỉ ngơi. Chĩ nọ bèn ăn vụng thịt, người buơn tức giận chặt bốn chân chĩ quăng trong hầm mà đi. Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất dùng thiên nhăn xa thấy thân chĩ rên xiết, đĩi khát khốn khổ quằn quại sắp chết, ngài bèn bưng bát cơm bay đến chỗ chĩ dùng lịng từ bi mà bố thí cho ăn. Sau khi ăn xong chĩ rất mừng. Ngài lại v́ nĩ mà thuyết pháp cho nghe.

Quá bảy ngày cho kia thốt kiếp. Sinh vào nước Xá Vệ nhà người Bà la mơn được đặt tên là Quân Đề. Đến bảy tuổi, ngài Xá Lợi Phất độ cho xuất gia. Sau này chứng quả A La Hán, đủ phép thần thơng, tự biết ḿnh kiếp trước là chĩ đĩi nhờ ngài Xá Lợi Phất hố độ.

Các đệ tử bèn bạch hỏi đức Phật nguyên do của Quân Đề. Ngài dạy rằng:

- Về đời quá khứ thuở Phật Ca Diếp cĩ một vị Tỳ Kheo trẻ tuổi thấy vị Tỳ Kheo già thường hay tán tụng, tiếng tăm ồ ề, v́ ỷ ḿnh cĩ tiếng tốt đă chê vị Tỳ Kheo già:

- Ơng này tiếng như chĩ sủa.

Thầy Tỳ Kheo già nghe được mà nĩi rằng:

- Ngươi biết ta chăng. Ta nay đă chứng quả A La Hán rồi.

Vị Tỳ Kheo trẻ tuổi nghe nĩi hốt hoảng tự trách ḿnh dại dột, vội ra trước xin sám hối. Thầy Tỳ Kheo già cũng sẵn sàng hoan hỷ tha thứ. Song vị Tỳ Kheo trẻ tuổi khỏi tội đọa địa ngục, nhưng do lời nĩi ác nên 500 đời phải chịu thân chĩ như thế.

Quả thật "Con chim bị vướng v́ cái chân của nĩ và con người th́ v́ cái lưỡi của họ" (Birds are entangles by their feet and man by their tongues - Thomas Fuller). Là người Phật tu tại gia nên lấy những bài này mà răn dè miệng lưỡi. Phải cẩn thận chân thật lời nĩi dù hồn cảnh nào cũng khơng thay trắng đổi đen. Khơng v́ sự yêu ghét nhau mà lời nĩi trở thành tốt xấu. Đừng nên lúc yêu nhau hậu bao nhiêu, đến khi giận ghét nhau lại bạc bấy nhiêu: "Yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười".

Ngày trước tại nước Vệ, vua nước ấy yêu Di Tử Hà. Đối với phép nước Vệ ai đi trộm xe của vua th́ phải tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà đau nặng. Đêm khuya cĩ người đến gọi. Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi lo cho mẹ. Vua nghe chuyện ấy khen rằng:

- Cĩ hiếu thật! V́ hết lịng với mẹ mà quên cả tội chặt chân.

Lại một hơm Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngồi vườn. Đang ăn quả đào thấy ngon ngọt mà cịn cĩ một nữa bèn dâng vua ăn. Vua nĩi:

- Yêu ta thật! Của đang ăn thấy ngon miệng mà biết thương ta.

Về sau vua khơng cịn thương mến Di Tử Hà như trước nữa. Một hơm phạm lỗi vua giận nĩi rằng:

- Di Tử Hà trước dám tự tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với ta đă lâu ngày rồi. Nĩi xong bèn bắt đem trị tội.

Ơi! Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau như một. Thế mà trước vua khen, sau vua bắt tội là chỗ tại khi yêu ghét khác nhau mà thơi (Hàn Phi Tử).

Vậy người Phật tử khơng nên nĩi dối, nĩi lời thêu dệt, nĩi lưỡi đơi chiều, nĩi giọng hung ác, mà phải nĩi lời ngay thật, hịa nhă vui tươi, đạo đức hiền từ khiến cho mọi người thương yêu nhau. Nếu lời nĩi của ta khơng đem lại sự lợi ích nào đối với ḿnh và tha nhân tốt hơn hết là im lặng. "Nĩi là bạc, im lặng là vàng". Nhưng ta biết kết hợp lời nĩi vào mục đích thiện như khuyến khích người học đạo giải thốt, giúp họ tin hiểu giáo lư nhân quả, xa lánh điều ác th́ quả lời nĩi quư giá vơ cùng.

Miệng ta là cánh hoa sen
Một khi hé nở một phen thơm lừng
Tiếng ta là giĩ mùa Xuân
Một cơn thổi nhẹ muơn dân mát lịng.
      5.- Khơng nên uống rượu

      Thân người như chiếc xe mà trí tuệ là tài xế. Chiếc xe này cĩ an tồn trên xa lộ hay khơng đều do người tài xế cả. Nếu tài xế lơ là mê ngủ hoặc bị ma men ám ảnh th́ tai họa dễ dàng xảy đến một cách khủng khiếp cho ḿnh lẫn người.

Trong xă hội hàng ngay việc giao thiệp, buơn bán, áp phe cho đến những đám hỏi, sinh nhật, tang chế v.v... thường lấy rượu làm mĩn uống chính. Do từ chỗ tiệc tùng như thế đă đưa các thanh thiếu niên mới lớn lên tập nhiễm, bắt đầu đi vào con đường "say sưa be bét". Lúc đầu ta cịn từ chối, nhưng v́ nể bạn bè, v́ để cuộc vui trọn vẹn... Rồi một chén cĩ sao, một ly cĩ thấm là bao. "Nam vơ tửu như kỳ vơ phong" mà bồ. Cứ thế rồi mỗi ngày một ít, lâu dần thấm vào người thành quen rồi thành xị thành lít dẫn đến bợm ghiền. Lúc bấy giờ rượu sẽ thành người yêu lư tưởng nhất của đời họ. Vắng mùi nĩ cuộc đời sẽ trở nên mất hương vị, cơi lịng sẽ lạnh lẽo cơ đơn, cảm thấy khĩ chịu, nhớ thương (thèm). Nhưng cĩ nĩ nhiều quá, mải mê say đắm sẽ dẫn đến sa đọa trầm trọng, hư hoại thân thể.

Rượu nếu uống nhiều sẽ gây tác hại rất lớn đến bản thân, gia đ́nh và xă hội.

           a.- Đối với bản thân

                * Về tâm trí: Rượu trước nhất tác động đến năo bộ. Uống nhiều nồng độ trong máu sẽ tăng lên làm tê liệt các trung tâm ức chế của thần kinh hệ, khiến cho các hoạt động của tâm trí gia tăng mănh liệt, mất quân b́nh, khơng kiểm sốt được xúc cảm và hành động, tâm tính biến đổi khác thường, đầu ĩc mất sáng suốt, tính tốn rất chậm chạp dẫn đến ngu si đần độn.

                   * Về thể xác: Rượu gây tổn hại tồn bộ cơ thể con người nhiều nhất là lá gan. Đối với gan là cơ quan giải độc, uống nhiều ruợu sẽ làm cho tế bào gan mất khả năng tổng hợp protéin tiến đến làm chết (chai) tế bào gan, rồi từ từ dẫn đến bệnh xơ gan khơng phục hồi được. Xơ gan dẫn tới các chứng bệnh ghê tởm như phù thủng (xơ gan cổ trướng), mửa ra máu hoặc trở thành ung thư. Đến như viêm gan giây thần kinh, viêm năo, chứng bọc máu trong sọ, sưng lá lách v.v... cũng từ rượu mà ra.

           b.- Đối với gia đ́nh:

                   * Đối với vợ: Người nghiện rượu thường dẫn đến hậu quả tan vỡ hạnh phúc gia đ́nh. V́ trong cơn say người chồng dễ trở nên nĩng tính, thơ lỗ, cợc cằn. "Rượu vào lời ra", hay lè nhè địi hỏi vu vơ, nếu khơng thỏa nguyện sẽ đâm ra gây sự đánh đập. Hẳn ta vẫn biết, đứng gần người uống rượu sẽ cảm thấy khĩ chịu thế nào. Huống chi người vợ ăn nằm với ơng chồng nặc nồng mùi rượu th́ "ngửi" sao cho thấu! Do vậy, đơi khi bà vợ phải kinh sợ mà tránh xa. Từ lư do ấy khiến cho ơng chồng "ba xị đế" đầy nghi ngờ và dễ ghen bĩng ghen giĩ, kiếm chuyện hành hạ vợ đủ điều. Tiền bạc làm ra chỉ nghĩ đến bạn bè và nhậu nhẹt lai rai, chẳng thiết đến vợ con gia đ́nh túng thiếu, khiến cho t́nh cảm vợ chồng bị sứt mẻ đưa đến t́nh trạng chán ghét lẫn nhau.

                   * Đối với con: Người nghiện rượu sẽ di hại rất nhiều đến con cái, ảnh hưởng lớn đến tương lai của các thế hệ mai sau. V́ măng cĩ mụ mẫm th́ tre mới to lớn được. Y học ngày nay đă phát hiện ở người say nồng độ rượu trong túi tinh cao xấp xỉ nồng độ trong máu. Tinh trùng ở người nghiện rượu bị đứt đuơi hoặc méo mĩ, đi thụt lùi hoặc lắt lư xiêu vẹo. Khơng may, các lồi tinh trùng này lọt vào trứng để chuyển thành thai sẽ dẫn đến "tiên thiên bất túc". Và hậu quả sẽ như thế nào? Vơ cùng nguy hại. Đứa bé dễ bị dị h́nh, xấu xí, èo uột, suy dinh dưỡng hay đau ốm và chậm phát triển tâm thần, trí tuệ thối hĩa kém thơng minh, học hành khơng tiếp thu nhanh. Ngồi ra cha mẹ nghiện rượu cịn truyền lại cho con cháu chứng bệnh "xỉn" tối ngày nữa.

            c.- Đối với xă hội:

            Người nghiện rượu sẽ làm ảnh hưởng đến năng suất lao động, thiếu bổn phận trách nhiệm đối với cơng việc ḿnh làm, cĩ thể gây tổn hại về sinh mạng, về tài sản tập thể. Như trường hợp người lính biên phịng, kẻ bảo vệ cơ quan, nhà máy, kho tàng... Nếu quá chén sẽ nguy đến tính mạng cịn tạo điều kiện cho kẻ trộm và quân địch cĩ cơ hội phá hoại. Tài xế mà say sưa be bét, đường khơng chạy mà lại đâm vào nhà người hoặc gây tai nạn giao thơng. Ngồi ra người nghiện rượu thường gây xáo trộn mất trật tự trị an, trở ngại đến sinh hoạt chung quanh. Tạo thêm cho gia đ́nh và xă hội một gánh nặng to lớn về bệnh tật và tính di truyền xấu xa cho con cháu.

Hơn nữa, trong Kinh Chuyển Luân Ngũ Đạo cĩ dạy: "Làm người ưa uống rượu say sưa, chết đọa vào địa ngục Phất thỉ, rồi đến đọa trong lồi thú tinh tinh (đười ươi). Sau cĩ được làm người bị ngu si, dốt nát, khơng biết chi cả". Vậy người uống rượu nhiều đối với hiện tại rước bệnh vào thân, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đ́nh, gieo nhân xấu cho con cháu, trở ngại cho xă hội. Về nhân quả nếu đời sau được làm người sẽ bị ngu si đần độn Chúng ta nên nhớ câu: "Phàm làm việc ǵ phải xét đến hậu quả của nĩ". Vả lại, trên thế gian này cĩ biết bao nhiêu loại nước uống ngon lành béo bổ, vơ hại, tại sao ta lại khơng uống, đi uống thứ cay đắng độc hại như thế? Nhân cách sẽ như thế nào khi say sưa quá chén. Hăy ngắm nh́n kẻ say: mặt đỏ tai tía, dáng người đáng sợ, đi đứng loạng choạng, nĩi năng lảm nhảm khơng biết phải trái, ĩi mửa tanh hơi, gục ngă ngồi đường... bản thân đă như thế cịn gây sầu khổ cho vợ con, làm cho xĩm làng chê cười, trẻ nít chọc ghẹo, người trí lánh xa. Cĩ lần tơi được xem một tờ báo, trong đĩ cĩ vẽ một bức tranh châm biếm người say rượu rất lư thú. H́nh vẽ diễn tả bà vợ đi làm về, ghé qua nhà trẻ đĩn con và tạt qua quán rượu rước chồng. Trong khi ơng chồng say sưa như chết khơng cịn biết trời trăng ǵ cả, mặc cho bà vợ vác đi, đứa con đi theo mẹ cầm hộ bố đơi dép. Ơi! Cịn ǵ là "nam nhi chi chí", cịn ǵ xứng đáng với chức phận cha, chồng trong gia đ́nh nữa

Để hướng dẫn con người đến chỗ an vui, cuộc đời an tồn hạnh phúc, người Phật tử phải cĩ một tâm hồn sáng suốt, muốn được thế chúng ta phải lánh xa hay hơn nữa là tuyệt đối khơng uống rượu.

Tĩm lại, vừa qua chúng tơi tŕnh bày về năm điều nên tránh mà đức Phật đă dạy. Năm giới này là căn bản của hết thảy Phật tử tại gia đến xuất gia. Nĩ ví như nền mĩng của tịa nhà giải thốt. Nếu nền mĩng vững bền th́ cơng việc xây dựng mới bảo đảm. Trái lại, bao nhiêu cơng tŕnh sẽ sụp đổ hết. Ngũ giới cũng là mĩn báu trang nghiêm bản thân, tơ điểm cuộc đời, làm đẹp lịng mọi người, thiên thần nể phục, tà ma khiếp sợ, và chính là nhân lành của giải thốt.



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 14 of 14: Đă gửi: 22 February 2006 lúc 8:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

B.- TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI CON

      1.- Nuôi dưỡng và giáo dục con trẻ

        Lúa muốn tốt phải chăm vào giống mạ, tre muốn to lớn cần chú ư đến măng, muốn con trẻ trở thành người hữu dụng cho gia đ́nh, xă hội tương lai cần quan tâm từ lúc mới thụ thai. Cha mẹ ốm yếu bệnh tật ví như hạt giống lép khuyết, hạt giống đă không đầy đủ th́ mầm chồi cây lá sẽ khó tốt tươi cho được. Thế nên, viêïc đầu tiên là cha mẹ phải giữ ǵn và có sức khỏe tốt. V́ sức khỏe của cha mẹ rất cần thiết cho sự phát triển cơ thể con cái sau này. Tuy nhiên, một tấm thân to béo đồ sộ mà thiếu đức hạnh, trí tuêï th́ chẳng khác nào "cục thịt biết đi". Chưa kể đến những đứa con ngỗ nghịch, hung tàn bạo ngược th́ so với loài thú dữ như cọp beo có khác chi đâu.

Về việc thai giáo, tư tưởng của cha mẹ - nhất là người mẹ - ảnh hưởng trực tiếp đến tính t́nh, trí tuệ, đức hạnh có thể c̣n ảnh hưởng đến h́nh dáng, vẻ đẹp của con trẻ nữa. Chúng tôi có nghe thầy T.H. giáo sư tại Phật học viện Thiện Ḥa chùa Giác Ngộ giảng về Duy Thức có kể thế nầy: Tại một nước nọ có giống ngựa vằn rất quư. Nước khác v́ muốn có loại ngựa này, nhưng không sao mua được. Họ mới nảy sinh ra ư nghĩ là cho hai con ngựa (không có vằn) giao hợp với nhau và treo một tấm vải thật lớn có vẽ những đường vằn giống như loài ngựa kia. Mục đích cho nó nh́n thấy những đường rằn ri trong khi giao hợp, để tác động vào tư tưởng nó những h́nh ảnh ấy. Kết quả, sau những lần như vậy, ngựa cái đă thụ thai và đẻ ra loài ngựa vằn không khác ǵ ngựa của nước kia. Qua thí nghiệm trên cho thấy ảnh hưởng về sức mạnh tư ưởng tác động rất lớn. Thế nên, muốn con của ḿnh xinh đẹp, người mẹ trong lúc mang thai thường nên nghĩ nhớ tới h́nh ảnh đức Phật và chư vị Bồ Tát. Muốn con trẻ sau này khôn ngoan, hiền lành, đức hạnh... cha mẹ phải siêng đọc sách Thánh hiền, huân tập những tư tưởng tốt lành. ư nghĩ, lời nói và hành động phải chân thật. Nhất là phải tránh xa những ư nghĩ xấu, không nên buồn rầu sợ hăi, tham dâm, sân hận... v́ những thứ này ảnh hưởng không tốt đến tính t́nh con trẻ tương lai.

Sanh con ra, cha mẹ là người trực tiếp gần gũi nhất và là bài học vỡ ḷng cho con trẻ học tập. V́ đầu óc ngây thơ non nớt, tư tưởng trong sạch, tinh thần vô tư, ví như tờ giấy trắng, ta hăy khéo nhuộm màu đạo đức, đừng để hoen ố xấu nhiễm, sau khó tẩy xóa. Ví như đám ruộng ph́ nhiêu màu mỡ, ta hăy sớm gieo hạt giống tốt, đừng để gai góc cỏ dại mọc đầy. Hành động hàng ngày của cha mẹ sẽ quyết định phần lớn đời sống con trẻ sau này. Nếu không cẩn thận, vô t́nh cha mẹ dạy con những tính xấu mà không biết. Chẳng hạn như khi con có lỗi lầm, cha mẹ giận dữ rầy la những lời thô lỗ. Phải chăng ta đă dạy chúng giận dữ và nói lời tục? Hoặc hứa hẹn con bằng những lời viễn vông không thật, phải chăng cha mẹ đă dạy con nói dối? Hăy xem cách dạy con của mẹ thầy Mạnh Tử đáng phục dường nào:

Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn khóc, về nhà cũng bắt chước. Bà mẹ thấy thế nói:

- Chỗ này không phải chỗ con ta ở được. Rồi dọn nhà ra gần chợ.

Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước nô nghịch buôn bán điên đảo. Bà mẹ liền dọn nhà đến ở cạnh trường học.

Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy con trẻ đua nhau học tập lễ phép, cắp sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, cắp sách vở. Bấy giờ bà mẹ mới vui ḷng nói:

- Chỗ này là chỗ con ta ở được đây.

Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ:

- Người ta giết lợn làm ǵ thế hởi mẹ?

Bà mẹ nói đùa:

- Để cho con ăn đấy.

Nói xong bà nghĩ lại, hối rằng: Ta nói lỡ miệng rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, th́ chẳng là ta dạy nó nói dối hay sao? Rồi bà đi mua thịt lợn về cho con ăn thật.

Một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học bỏ về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi trông thấy liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, nói rằng:

- Con đang đi học mà bỏ học, th́ cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt đi vậy.

Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần, về sau thành một bậc đại hiền. Thế là chẳng nhờ có cái công giáo dục quư báu của bà mẹ hay sao? (Liệt Nữ truyện).

Thời này, chúng ta không thể bắt chước theo lối dời nhà để dạy con của mẹ Mạnh Tử được. Nhưng bài học ấy cho ta thấy ảnh hưởng của lối xóm hay nói đúng hơn là gia đ́nh - nhất là cha mẹ - tác động vào tư tưởng, tánh t́nh trẻ con rất lớn. V́ "gần mực th́ đen, gần đèn th́ sáng". Thế nên cách giáo dục con cái tốt nhất là cha mẹ phải biết tu thân, nêu gương sáng cho con thấy. Muốn con hiếu hạnh cha mẹ phải hiền lương. Muốn con xa lánh đường ác, cha mẹ không nên làm điều phi nghĩa. Hàng ngày ta thực hiện được năm điều răn trên và những việc làm cao đẹp ích ḿnh lợi người, tự nhiên đức độ ấy cảm hóa con cái, đôi khi cha mẹ không cần dùng đến lời nói hoặc la rầy đánh đập mà con trẻ phải phục tùng kính nể, "dĩ đức hóa nhân". Hơn nữa cha mẹ nên cố gắng dành một ít th́ giờ hướng dẫn con trẻ đến chùa tụng kinh, nghe giảng, đọc sách Thánh hiền để mở rộng kiến thức và tích chứa công đức. Đồng thời gieo vào tạng thức con trẻ những đức tính từ bi hỷ xả, những hiểu biết về cuộc đời đức Phật, những giáo lư nhân quả luân hồi, để huân tập các điều lành. Mỗi tháng cha mẹ nên tập cho con ăn chay từ bốn ngày trở lên. V́ sao? V́ ăn chay là để nuôi dưỡng ḷng từ bi và tinh thần b́nh đẳng đối với muôn loài động vật, đồng thời thể hiện hạnh phóng sinh hay nhất. Cha mẹ cần nên giảng dạy rơ sự lợi ích về ngày ăn chay hôm đó, để con trẻ hiểu được mà vui vẻ thực hành. Thỉnh thoảng cha mẹ nên cho con đi đến thăm viếng ủy lạo quà bánh (nếu có điều kiện) các nơi như viện Dưỡng lăo, viện Tế bần, viện Cô nhi.. để cho chúng chứng kiến tận mắt cảnh cô khổ, thiếu t́nh thương của những kẻ bất hạnh. Giúp chúng phát khởi ḷng từ bi, thương xót người khốn khó, dạy chúng bài học nhân quả thực tế nhất.

      2.- Tích đức hơn tích của

      Sự tu thân của cha mẹ trong gia đ́nh rất cần thiết, không những cho bản thân mà c̣n để lại âm đức cho con cháu nữa. Sự tu thân đó ví như cha mẹ đang gieo trồng một cây ăn quả ngon ngọt. Sau một thời gian, cây này được trổ hoa kết quả th́ chính cha mẹ là người hưởng trước. Sau khi qua đời, con cháu vẫn thừa hưởng cái lộc của cha mẹ để lại. Ca dao ta có câu:

Ông cha kiếp trước khéo tu

Bây giờ con cháu vơng dù nghênh ngang.

Xét ra câu này cũng nói lên được phần nào lư nhân quả. Mà thực tế, quư vị cứ nhận xét, trên đời này biết bao những bậc hiền tài, người địa vị quyền thế, kẻ gia quyến hưng thịnh vinh hiển đều là những gia đ́nh mà cha mẹ là người hiền lương, tu nhân tích đức mà ra cả. "Cao quư sanh con cao quư" (Noble fathers have noble children - Euripides).

Ở huyện Phổ Điền có nhà họ Lâm. Nhiều đời trước trong nhà có một bà lăo ưa làm việc thiện, hay bố thí làm phước, thương người nghèo khổ, giúp đỡ những người gặp nạn khó. Bà thường hay lấy bột gạo làm thành từng vắt để bố thí cho người. Hể ai đến xin, bà sẳn ḷng vui vẻ cho không hề chán.

Suốc cuộc đời bà thường làm những việc phước thiện như thế. Về sau bà qua đời, con cháu bà chín người đỗ đạt vinh hiển. Tiếp tục như thế nhiều đời, ḍng họ này trở thành một nhà thế phiệt trâm anh. Đến nỗi tại tỉnh Phúc Kiến ngày xưa có câu ca dao: "Thiếu mặt người họ Lâm th́ bảng vàng không mở".

Làm bậc cha mẹ không ai lại chẳng muốn lo tài sản để lại cho con cháu. Tuy nhiên người hiểu đạo lư th́ tạo cái kho tàng phước đức cho chúng là bảo đảm hơn hết. Chẳng sợ ai lấy cắp và không bị con cháu phá tán. V́ :"có đức mặc sức mà ăn".

Nếu cha mẹ biết lo tu thân, tích chứa âm đức và giáo dục con theo giáo lư Phật dạy, tạo vốn kiến thức nghề nghiệp cho chúng, th́ sau này tự chúng sẽ làm nên sự nghiệp cho chúng với bao nhân tốt mà cha mẹ đă gây tạo vun bón. V́ hạt giống lành đă gieo, nếu biết chăm sóc th́ sẽ sinh cây trổ quả. "Hăy truyền đạo đức cho con cái bạn, chỉ có đạo đức mới làm cho chúng sung sướng chớ không phải vàng bạc" (Recomment to your children virtue, that alone can make them happy not gold - Beethoven). Trái lại, nếu con kém tài thiếu đức, vô đạo mà cha mẹ chỉ bo bo tối ngày đem thân trâu ngựa để làm giàu cho chúng, chẳng những khổ cái thân ḿnh, c̣n tạo thêm cho chúng tính ỷ lại, lười biếng, hoang phí và phạm biết bao nhiêu tội ác nữa. Khi cha mẹ qua đời, thử hỏi những hạng con như thế có giữ ǵn nổi cơ nghiệp không? Hay cũng v́ tài sản đó mà khiến chúng trở nên bất ḥa, tranh dành, thù ghét lẫn nhau dẫn đến việc kiện cáo... Bàn về việc làm giàu để của lại cho con cháu, Sơ Quảng đời Hán có nói: "Ta tuy già lăo há lại không nghĩ đến con cháu hay sao? Hiện ta cũng đă có ít ruộng nương, cửa nhà của cha ông để lại. Con cháu ta mà chăm chỉ vào đấy th́ cũng đủ ăn, đủ mặc bằng người được rồi. Nếu bây giờ ta lại làm giàu thên cho chúng để có thừa thăi dồi dào, vô t́nh ta chỉ thêm tính lười biếng cho chúng mà thôi. Người giỏi mà sẳn có của th́ kém mất chí hay, người ngu mà sẳn nhiều của th́ càng thêm tội lỗi. Vả chăng, của cải mà chứa nhiều chỉ tổ làm cho người ta ḍm ngó, oán ghét. Ta đă không có ǵ giáo hóa được con cháu ta, th́ ta cũng không nên làm cho chúng thêm tội lỗi và để thiên hạ ai oán".

Trái lại, nếu cha mẹ làm những việc thất đức, hậu quả xấu cho con cháu cũng không lường được. Tục ngữ có câu: "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" hoặc "Ông cha ăn quả nho chua, bây giờ con cháu như vừa ghê răng" (Ezekiel). Nói đến đây có người sẽ nghĩ rằng, theo luật nhân quả, ai ăn nấy no, ai làm nấy chịu. Tại sao có sự bất công ở chỗ cha mẹ làm mà bắt con cháu phải gánh chiụ hậu quả. Điều này cũng không có ǵ là lạ cả. Bởi nó có sự liên quan nhân quả tiền kiếp với nhau.

Theo trong các kinh sách dạy. Con người khi chết ǵữa khoảng người chết và chưa tái sanh đó, trải qua bốn mươi chín ngày riêng có một cái thân gọi là trung ấm (thế tục thường gọi là linh hồn) hay thần thức. Rồi tùy theo nghiệp lực của mỗi người phải đầu sinh chậm hay mau. Nếu người nàonghiệp chướng nặng nề, gây nhiều tội ác lập tức đọa vào cảnh giới đau khổ nơi ba đường ác. C̣n ai có đủ nghiệp lành, tu nhân tích đức sẽ sinh về cảnh giới tốt đẹp an vui.

Khi ấy, thần thức lơ lửng trên không và thấy những cảnh giới mà nó ưa thích (do nghiệp lực xui khiến và dẫn dắt). Nếu người ấy gây nhân bất thiện, gặp hai thân nam nữ giao hội, tạo ra sức hấp dẫn với nó. Chính đôi vợ chồng này cũng là người nhiều tội lỗi, tự nhiên nó cảm thấy thích hợp bèn đi đến, nhập vào thai bào của người nữ để cùng với gia đ́nh này chịu chung quả xấu với nhau. Ví như con thiêu thân, tại sao nó thấy ánh đèn lại ưa thích, để rồi bay vào đó mang lại cái chết thê thảm cho nó? Nếu thực sự nó biết đây là ánh lửa, chắc chắn nó sẽ không ngu dại ǵ mà bay vào chỗ chết ấy. Đấy cũng chính bởi cái nghiệp của nó chiêu cảm ra, xui khiến nó thấy ánh đèn cho là chỗ lư tưởng đáng sống nên mới bay vào. Khi biết được đó là lửa th́ thân xác đă ra tro.

Tất cả chúng sanh trong thế giới này hay thế giới khác, một khi đă đi tái sanh đều có nhân duyên quả báo với nhau cả. Nếu không có nhân duyên, th́ sao người sanh ra đời gặp được cha mẹ giàu có sung sướng, cuộc sống đầy đủ ấm no, kẻ mới sanh ra phải chịu cảnh khổ sở cơ hàn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc? Do đó, liên hệ nhân quả nghiệp báo giữa cha mẹ với con cái rất phù hợp tương xứng. Khi người tạo nhiều nghiệp lành sẽ sinh vào nhà cha mẹ biết tu nhân tích đức để cùng nhau hưởng quả báo tốt đẹp. C̣n người tạo nhiều nghiệp ác, sanh vào gia đ́nh có cha mẹ hung dữ để cùng nhau chịu quả báo xấu xa đau khổ.

Ôi! Bậc làm cha mẹ ai cũng muốn cuộc đời ḿnh được sung sướng an nhàn, con cháu ḿnh được vinh hiển phú quư. Nhưng khốn nỗi, ở đời người ta chỉ muốn thôi chứ không biết nguyên do đạt đến sự ước muốn đó. Muốn xinh đẹp, muốn giàu sang, muốn con cháu nên danh, rồi muốn sau khi chết được sanh về cảnh giới tốt đẹp hoặc cơi Phật nữa, nhưng khuyên họ gieo nhân lành, làm phúc bố thí, ăn chay niệm Phật, th́ họ không làm. Vậy nhân tốt không gieo mà lúc nào cũng mong ước được hưởng quả tốt. Ví như người có đất không chịu trồng cây lại cứ muốn có cây ngon trái ngọt mọc lên để hưởng. Quả là điều trái ngược!

II.- SỰ TU THÂN CỦA CON

Bổn phận của kẻ làm con trong gia đ́nh cũng phải thực hành năm điều giới đă nêu trên. Tuy nhiên đối với con cái th́ trọng trách nặng nề và ơn đức sâu dầy nhất là sự tri ân và báo ân đối với cha mẹ. Hay nói khác hơn là đạo hiếu, nguồn gốc bao nết tốt và điều thiện. Hiếu là ch́a khóa thần kỳ diệu để con trẻ mở toang cánh cửa cuộc đời, là làn hương thơm làm đẹp ḷng mọi người. Hiếu thấm nhuần đến đâu đều cảm hóa và vượt qua mọi trở lực để hoàn thành nghĩa vụ cao cả của đạo làm con. "Hiếu đứng đầu trăm nết tốt, hiếu cảm đến trời th́ mưa thuận gió ḥa, hiếu cảm đến đất th́ muôn vật xanh tươi, hiếu cảm đến người th́ mọi phước lành đều tới".

1.- Tri ân

Tục ngữ có câu: "Cây có cội, nước có nguồn, người có tổ tông". Phàm tất cả sự vật trên đời đều có cội gốc trước sau thứ lớp mà sinh sinh hóa hóa. Con người cũng vậy, không phải trên trời rơi xuống hay dưới đất chun lên, mà do cha mẹ sinh thành dưỡng dục từ bé cho đến lúc lớn khôn.

     a.- Đối với mẹ: Công ơn mang nặng trong chín tháng mười ngày, đến lúc sanh nở chịu sự khổ sở như đâm thịt xé da, cấu cào thân thể. Trong lúc nhất sanh thập tử ấy, người mẹ chỉ mong sao nghe được tiếng con khóc là tiêu tan hết sự khổ. Đă sanh con ra, người mẹ lại phải hy sinh tất cả, nhường nh́n thức ngon vật béo cho con, nâng niu, chiều chuộng con, chăm sóc lúc trời nồng giá lạnh, sẵn sàng ban những ḍng sữa ngọt cho con, thức khuya dậy sớm hầu hạ dơ dáy, nằm ướt nhường khô, không kể đến thân ḿnh đói rách. Chẳng may con trẻ bị đau, mẹ luôn nơm nớp lo sợ chạy chửa thuốc thang, mong sao con khỏe mạnh ḷng mẹ mới yên. Khi có đi đâu xa, mẹ luôn thương nhớ, tưởng nghĩ đến con. Ngày lớn khôn cho con đến trường học hành. Tới tuổi thành nhân gây dựng hạnh phúc tương lai. Đôi khi v́ gia đ́nh túng thiếu, người mẹ vừa nuôi con, vừa giúp cha lo buôn bán tảo tần, vất vả ngược xuôi kiếm thêm tiền phụ giúp gia đ́nh.

Nhớ ơn chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu t́nh.
Ôi! Công lao của mẹ ṿi vọi như núi Thái, t́nh thương của mẹ lai láng như biển Thái b́nh, sự nhẫn chịu bao cay đắng phiền muộn như mặt đất, dung chứa tất cả mọi vật dù xấu xa nhơ bẩn, không bao giờ than trách, chối từ. Công lao, t́nh thương, khổ nhục của mẹ như thế. Trong khi ngôn ngữ chỉ bằng miệng giếng. Làm sao có thể lấy núi cao bể rộng, đất dầy mà thu hẹp vào miệng giếng cho được. Có lẽ chỉ khi bước vào địa vị làm mẹ, chúng ta mới thấy rơ thế nào là t́nh mẫu tử.

T́nh mẹ sao kể xiết
Ḷng mẹ ví sao cùng
Chỉ khi làm cha mẹ
Mới thấm t́nh thương con.
      b.- Đối với cha: Người đă tạo dựng ra con, hy sinh cả cuộc đời để lo lắng sự sống đầy đủ về vật chất cũng như tinh thần cho con. Ư nguyện người cha hằng mong ước con ḿnh sẽ là người tài đức mai sau, luôn luôn lấy làm sung sướng khi thấy con hơn ḿnh trên mọi phương diện và rất hạnh phúc khi thấy con được sống sung sướng trong sự yên lành. Mặc dù với công việc sinh kế đa đoan suốt ngày, không đủ thời giờ để săn sóc con từng miếng ăn giấc ngũ. Nhưng t́nh thương của người cha vô cùng sâu sắc và thầm kín. Sừng sững kiên cố như dáng núi chịu đựng bao sương gió, nắng mưa không hề than trách. Như tàng cây đại thọ tỏa rộng che mát đời con. Như ḍng nước âm thầm lăïng lẽ trôi đi, kéo theo bao nhiêu rác rưởi phiền muộn, sau khi đă đem phù sa bồi đắp cho mặt đất, tiếp thêm sức sống cho cây cỏ và hạnh phúc ấm no cho nhân loại. Rộng và xa như cánh chim đại bàng vượt gió tung bay khắp muôn nơi. Cha đă ấp ủ, nuôi dưỡng cho con tâm hồn cao thượng và ư chí lớn lao.

Tại vương quốc Ma Kiệt Đà, thuộc nước Ấn Độ thời xưa, có ông vua tên B́nh Sa Vương và người con là Hoàng tử A Xà Thế. V́ nghe lời xúi dục của Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế âm mưu sát hại vua cha để lên ngôi hoàng đế. Nhưng công việc bị bại lộ. Tuy thế vua cha sẵn sàng tha thứ và c̣n nhường ngôi lại cho con. Để trả ơn, vị hoàng tử bất hiếu liền ra lệnh hạ ngục cha và bỏ đói cho đến chết. Chỉ một ḿnh Hoàng thái hậu được phép vào thăm. Mỗi khi đi, bà dấu đồ ăn trong túi áo đem cho chồng, A Xà Thế hay được quở trách mẹ. Sau bà lại dấu trong đầu tóc, A Xà Thế cũng biết được. Cùng đường bà tắm gội sạch sẽ rồi thoa vào ḿnh một thứ đồ ăn làm bằng mật ong, đường và sữa. Vua gợt lấy món ăn này để nuôi sống. Nhưng A Xà Thế cũng bắt được và cấm hẳn mẹ không cho vào thăm vua cha nữa.

Thấy cha vẫn vui tươi, A Xà Thế nhất định giết cho khuất mắt, hạ lệnh cho người thợ cạo vào khám giết cha.

Cùng ngày ấy, vợ A Xà Thế hạ sinh một hoàng nam. Tin lành đưa đến với vua một lượt với tin vua B́nh Sa Vương chết trong ngục.

Tin chánh hậu hạ sinh hoàng nam được đọc trước, nỗi vui mừng của A Xà Thế không kể xiết. Cả người nghe nhẹ nhàng sung sướng. T́nh thương của một người cha lần đầu tiên chớm nở trong ḷng, mặn nồng và sâu sắc, thấm vô từng khớp xương ống tủy. Đứa con đầu ḷng là một nguồn yêu thương, là cơ hội để cha mẹ thưởng thức một t́nh thương mới mẻ đậm đà vô cùng trong sạch. Cảm giác đầu tiên của người cha mới được đứa con đầu ḷng dường như đưa họ vào một cảnh giới kỳ lạ. Khiến họ có cảm tưởng rằng máu huyết ḿnh đă nhỏ giọt ra để tiếp nối đời ḿnh.

Tức khắc A Xà Thế vội vă chạy đi t́m người mẹ yêu dấu và hỏi:

- Thưa mẫu hậu, khi con c̣n nhỏ, phụ vương có thương con không?

- Tại sao con hỏi vậy? Mẹ tưởng trên thế gian này không thể t́m đâu ra người cha lành như cha con. Để mẹ thuật lại con nghe. Lúc mẹ c̣n mang con trong ḷng, ngày nọ mẹ nghe thèm lạ lùng một món kỳ quái, mẹ thèm hút vài giọt máu trong bàn tay mặt của cha con, mà mẹ nào dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh xao và sau cùng phải thú nhận với cha con. Khi nghe vậy, cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ hút máu. Lúc ấy nhà chiêm tinh trong triều tiên tri rằng: con sẽ là người thù của cha con. Do đó tên con là A Xà Thế (kẻ thù chưa sanh - Ajatasattu). Mẹ có ư định giết con ngay trong ḷng nhưng cha con không cho. Khi con sanh ra, mẹ nhớ lời tiên tri, nên một lần nữa muốn giết con. Một lần nữa, cha con lại cản mẹ. Một hôm con có cái nhọt trên đầu ngón tay, nhức nhối vô cùng, khóc suốt đêm ngày không ai dỗ được. Cha con đang cùng bá quan phân xử việc triều đ́nh, nghe vậy cầm ḷng không đặng, bế con trong ḷng và không ngần ngại ngạâm ngón tay của con trong miệng, nhè nhẹ nút cho con đỡ đau. Gớm thay! Cái nhọt bể, máu mủ tuôn ra trong miệng cha con, và sợ lấy tay ra con sẽ đau, cha con nuốt luôn vào trong bụng cả mủ lẫn máu! Phải, người cha hết ḷng thương yêu con, v́ t́nh phụ tử đậm đà, nhè nhẹ nuốt hết vừa máu và mủ.

Nghe đến đó, bỗng A Xà Thế đứng phắc dậy, kêu lên như điên:

- Hăy chạy mau, thả ra lập tức người cha yêu quư của trẫm.

Than ôi! Người cha yêu quư ấy đă ra người thiên cổ. Vua xúc động rơi lụy dầm dề. Bây giờ ông mới nhận định rằng, chỉ khi bắt đầu làm cha mới biết được t́nh cha thương con như thế nào. (Trích trong Đức Phật và Phâït pháp của Narada).

Trong Kinh Bổn Sư, đức Phật dạy: "Cha mẹ đối với con ân đức cao nặng sâu dầy, ân đức sanh sản từ tâm bú mớm, ân đức tắm giặt nuôi nấng trưởng thành, ân đức cung cấp các món cần dùng, ân đức chỉ dạy cách sống ở đời. Cha mẹ luôn luôn muốn con rời khổ được vui, không bao giờ xao lăng. Nhớ con, thương con như bóng theo h́nh...".

Quả thật, cha mẹ là quê hương yêu thương muôn thuở của đời con. Do vậy, người Phật tử phải luôn luôn ghi tạc, tưởng nhớ đến sự tri ân của ḿnh đối với đấng sinh thành và t́m cách báo đền phần nào trong muôn một.

2.- Báo ân

Mặc dù cha mẹ có bổn phận lo lắng gây dựng cho con nên người, không có ư mong cầu sẽ được đền ơn trả hiếu. Nhưng bổn phận người con không thể nào quên cái trọng ân thiêng liêng cao quư ấy được. Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Phật dạy: "Ví có kẻ nào hai vai kiệu cơng cha mẹ đi chơi, suốt cả mọi nơi, trên rừng dưới biển, hai vai nặng nề, ṃn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha kể trong muôn một..." Cho đến cắt thịt, moi tim, móc ruột, chẻ xương lấy tủy... cùng nuôi cha mẹ trong lúc cần thiết cũng không đền đáp hết công ân cha mẹ.

Vậy để báo đáp ơn cha mẹ ta phải làm ǵ?

      a.- Đối với cha mẹ khi c̣n sống:

            * Cung nuôi vật thực: Suốt đời cha mẹ hy sinh tận tụy v́ con. Ngày nay ta được trưởng thành, th́ hởi ơi! Sương trắng thời gian đă phủ giăng trên đầu cha mẹ: sức khỏe hao ṃn, thân người suy yếu, dung nhan tàn tạ... chỉ c̣n nương cậy vào con cháu lúc tuổi đă xế chiều. Làm con phải hiểu rơ công ơn và tâm tư cha mẹ để lo hầu hạ săn sóc từng miếng ăn giấc ngủ, viên thuốc đến việc an ủi, vỗ về tinh thần khi đau yếu. Thời gian luôn luôn trôi qua, mạng người cũng biến đổi sinh diệt mau lẹ. Một hơi thở ra không trở lại đă ra người thiên cổ. Thế nên, cha mẹ c̣n sống ngày nào tùy theo khả năng, hoàn cảnh mà chúng ta cung cấp thức ăn vật uống. Đừng viện cớ v́ điều kiện kinh tế khó khăn chưa thể đáp đền, đợi đến khi giàu có sẽ trả hiếu sau. Thử hỏi cha mẹ chắc c̣n sống tới ngày ta được giàu có không? Tốt hơn hết, có ǵ dâng nấy, dù ít hoặc không cao lương mỹ vị. Nhưng với tấm ḷng thành kính chăm sóc của ta sẽ làm cha mẹ vui gấp trăm lần hơn là mâm to cỗ đầy mà ta không thiết tha quan tâm đến. Thầy Tử Lộ nói với đức Khổng Tử rằng:

"Đội nặng đi dường xa th́ tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ rồi mới nghỉ. Nhà nghèo cha mẹ già th́ con làm thế nào hay thế ấy, không đợi có quyền cao chức trọng mới chịu làm. Ngày trước, lúc song thân tôi c̣n, cơm thường dưa muối, đường xa trăm dặm phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan to ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân lại muốn dưa muối đội gạo để nuôi người như trước, th́ không sao được nữa! Cha mẹ tuổi già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, con muốn nuôi mà cha mẹ không c̣n sống". (Tích truyện Thầy Tử Lộ đội gạo nuôi cha mẹ).

Vấn đề gia đ́nh giàu nghèo, hoặc có món ngon vật lạ hay không, điều này chẳng đáng quan tâm lắm đối với người già. Và cha mẹ cũng thông cảm hoàn cảnh hiện thực của con cháu mà an phận thủ thường. Duy chỉ có một điều làm cho người già vui nhất là hành động và cử chỉ, cung cách đối xử hàng ngày của con cháu, với tấm ḷng thương kính cha mẹ thật sự. Chỉ cần một bửa cơm đạm bạc, một ly nước trà nóng cũng đủ làm cha mẹ vui sướng hạnh phúc rồi, thế nên việc đối xử khéo léo, tế nhị với cha mẹ lúc tuổi về già rất là cần thiết. Hăy tỏ ra hết ḷng với cha mẹ trong mọi hoàn cảnh, đừng hẹn ḥ chờ đợi lúc khác. Đến chừng đó cho dù ta có nhà cao cửa rộng, cao lương mỹ vị, hoặc xây mồ to mả đẹp cũng chẳng ích ǵ nữa.

      * Tôn kính vâng lời: Trong Kinh Đại Tập dạy: "Gặp đời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật", quả thật lời dạy cao quư phát xuất ra từ con người cao quư. Vẫn biết Phật và cha mẹ khác xa về mọi phương diện, nhưng ở đây đức Phật muốn đề cao giá trị tôn kính của người con đối với Phật và cha mẹ nên b́nh đẳng. Chúng ta tôn kính Phật v́ Ngài đă đem đến cho ta lư tưởng sống cao thượng, nhưng người đem lại cho ta sự sống là cha mẹ Cho nên phụng thờ cha mẹ tức là tôn kính cúng dường Phật vậy.

Ngày nay ta được nên người có địa vị trong xă hội hay ra sao đi nữa cũng không thể quên công ơn cha mẹ được, phải hết ḷng vâng kính tôn thờ. Không v́ cha ẹ tuổi già sức yếu hoặc lẩm cẩm, sinh tật mà ta khinh thường. Con người mỗi độ tuổi một khác, tùy theo sức khỏe mà tâm tính thay đổi. Như con nít thích đùa giỡn, thanh niên thích nhạc kích động, trung niên thích nhạc nhẹ, già lăo thích yên tĩnh. Hiểu thế, ta sẽ thông cảm và yêu thương người già hơn khi có những dị tính xảy ra như: khó khăn, hay chấp, nói nhiều, nóng nảy, giận hờn... V́ "già sanh tật, đất sanh cỏ". Đôi khi dẫn đến lú lẫn, ăn rồi nói chưa ăn... Dù có biến chứng xấu xa đến đâu đi nữa đó cũng là người sinh thành ra ta. Làm con không được quyền khinh thường mà phải biết tùy cơ mà phục vụ đáp đền.

Ngoài việc tôn kính, người con phải biết vâng lời cha mẹ dạy bảo. Dù sao cha mẹ cũng nhiều tuổi, dày kinh nghiệm việc đời hơn. Tuy nhiên, vâng lời dạy cần phải xét cho kỹ khi hành động chớ nên mù quáng tin tưởng một cách tuyệt đối. Theo Nho gia phong kiến ngày xưa th́: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu". Nghĩa là vua khiến bầy tôi chết mà không chết là bất trung, cha bảo con chết mà con không vâng lời là đứa bất hiếu. Ắt hẳn ta phải xem ông vua đó thế nào? Có xứng đáng để ta chết v́ vua không? Giả sử nếu ông vua vô đạo tàn ác, tham dâm, bất chính, hại nước hại dân... mà ta phải phục tùng đem cái chết của ḿnh mà giữ ḷng trung thành, vô t́nh nuôi dưỡng tội ác cho vua th́ hóa ra là kẻ dại khờ quá lắm. Trái lại ông vua hết ḷng v́ dân v́ nước, chẳng may Tổ quốc lâm nguy, ngoại xâm lấn chiếm gây bao tang tóc cho dân tộc, nếu ta lẫn tránh từ chối lời kêu gọi của nhà vua ṭng quân diệt giặc, không dám hy sinh v́ đại nghĩa, như thế mới gọi là bất trung. Vâng lời cha mẹ cũng thế, chúng ta phải xét kỹ càng lời dạy ấy có chính đáng hay không? Nếu nghe lời cha mẹ chết v́ việc bất chính, đôi khi hiếu đâu chưa thấy mà c̣n hại đến cha mẹ nữa.

Thế nên theo tinh thần hiếu tử, bổn phận làm con luôn vâng lời cha mẹ, không nên trái ư là điều tốt. Nhưng cũng phải tùy theo sự việc mà chấp hành. Có nghĩa là nếu cha mẹ là người vô đạo, nghề nghiệp bất chính th́ ta không nên nghe theo vội mà phải biết tùy cơ ứng biến, xoay chuyển cha mẹ về con đường thiện, phải luôn luôn có thái độ tôn kính lễ phép, nếu không hậu quả không tốt sẽ xảy ra cho cha mẹ lẫn con cháu.

Thầy Tăng Sâm bừa cỏ ruộng dưa lỡ tay làm đứt mất ít rễ. Cha là Tăng Tích giận cầm gậy đánh vào lưng. Tăng Sâm đau quá ngă gục chết giấc một lúc mới hồi tỉnh lại. Khi về nhà liền đến thưa với cha rằng:

- Lúc năy con có tội để đến nỗi cha phải đánh làm đau tay cha. Thực là con lỗi đạo.

Nói xong lùi xuống vừa gảy đàn vừa hát có ư để cha nghe tiếng, cho rằng ḿnh không c̣n đau đớn ǵ nữa. Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện, bảo học tṛ cấm cửa không cho Tăng Sâm vào.

Tăng Sâm tự nghĩ ḿnh vô tội, mượn bạn lại hỏi v́ cớ ǵ ngài giận. Đức Khổng Tử nói:

- Ngày trước ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến ǵ th́ luôn bên cạnh, lúc cha giận dữ muốn giết th́ lánh xa. Cha đánh bằng roi vọt th́ cam chịu, đánh bằng gậy gộc th́ chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng bất từ. Nay Sâm thờ cha liều ḿnh, để chiều cơn giận đến nỗi cha đánh ngất đi. Giá mà cha đánh quá tay chết mất th́ có phải vô t́nh làm cho cha mắc tội giết người không? Lúc ấy tội bất hiếu c̣n ǵ to hơn nữa! (Trích Cổ Học Tinh Hoa).

Qua câu chuyện trên ta thấy, đối với người con hiếu v́ cha mẹ hy sinh tính mạng hoặc liều ḿnh cứu cha mẹ trong khi nguy cấp là điều chánh đáng. Trái lại, hy sinh v́ cơn giận dữ đánh đập của cha mẹ, chỉ biết nhắm mắt xuôi tay chịu đựng, để thỏa măn cơn giận dữ ấy, vô t́nh chúng ta lại tạo cho cha mẹ một tội giết người. Lúc ấy chữ hiếu lại trở thành đại bất hiếu.

      * Tránh ác hành thiện: Căn cứ theo lời Phật dạy trong các kinh sách, ngoài sự cung cấp các món ngon vật lạ cho cha mẹ, săn sóc thuốc thang lúc ốm đau, an ủi lúc tuổi già sức yếu, tạo sự an vui thoải mái về nhu cầu vật chất ra, người con c̣n phải biết khuyên cha mẹ hướng về nẻo thiện, xa lánh đường ác. Cho nên ư nghĩa báo ân song thân khi c̣n sanh tiền rất là quan trọng, ở chỗ làm thế nào biến cải cuộc đời, tánh t́nh, chiều hướng của cha mẹ biết tin hiểu giáo lư nhân quả, biết quy kính Tam Bảo. Để từ đấy cha mẹ chúng ta sẽ lần lượt giải nghiệp và tự sửa lấy ḿnh. Tựï cha mẹ sám hối, cải tạo những ǵ đă sai phạm lầm lỡ trong quá khứ. Nên hiếu hạnh cao tuyệt hơn hết đối với người Phật tử là làm sao cho cha mẹ không rơi vào ba đường ác.

Trong Cảnh Sách có đoạn: "Muốn báo ơn cha mẹ, nên khuyên cha mẹ đối Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, đối với các pháp nhân quả... cha mẹ chưa t́n khuyên cha mẹ tin, cha mẹ tin rồi khiến ḷng tin tăng trưởng, cha mẹ không giữ tịnh giới khuyên giữ tịnh giới, cha mẹ có ḷng xan tham khuyên làm việc bố thí, cha mẹ không có thắng huệ khuyên cha mẹ tu huệ. Khéo an trú để điều phục. Như vậy mới gọi là chân thật báo ơn cha mẹ".

Trường hợp cha mẹ chưa hiểu đạo, làm con nên thể hiện các việc sau:

- Tạo điều kiện cho cha mẹ tin hiểu nhân quả, để khỏi phạm những việc bất chính đáng tiếc xảy ra. Hay nói khác hơn: điều ác chưa sanh, cố gắng đừng cho phát sanh.

- Hàng ngày trong thực tế, v́ sự sinh kế đôi khi cha mẹ gây tạo nghiệp bất thiện, hành động trái lương tâm hoặc làm nghề bất chánh như buôn bán đồ lậu, làm đồ tể, làm hàng giả... Chúng ta phải kiên quyết t́m cách thuyết phục, nói rơ quả báo để cha mẹ đ́nh chỉ và dứt tuyệt. Hay nói khác hơn: điều ác đă sanh phải t́m cách ngăn chận không cho phát triển.

- Cha mẹ chưa tin Tam Bảo, chưa hiểu giáo lư Phật, không rơ lợi ích về việc bố thí, cúng dường, không biết giữ ǵn cấm giới (ngũ giới). Chúng phải khéo tạo thuận duyên để cha mẹ phát khởi thiện tâm. Hay nói khác hơn: điều thiện chưa sanh phải làm cho phát sanh.

- Khi cha mẹ đă tin hiểu Tam Bảo và rơ sự lợi ích của việc giữ giới, bốn thí, phóng sanh... chúng ta cố gắng khuyến khích và tạo điều kiện để cha mẹ thực hiện. Hay nói khác hơn: điều thiện đă sanh, cố gắng làm cho tăng trưởng thêm lên.

      b.- Đối với cha mẹ lúc qua đời:

      Tất cả chúng sanh trong thế giới hiện tại đều bị chi phối bởi định luật sinh, trụ, dị, diệt chuyển biến không ngừng, thay đổi từ sát na này đến sát na khác. Cuối cùng những sinh vật có sanh tất phải có diệt. Đó là lẽ đương nhiên không ai có thể đi ngược lại định luật vô thường ấy. Do vậy sự sống của con người chỉ là một sự thay cũ đổi mới về thể chất h́nh hài. Ví như ta cất một căn nhà đă hơn 50 năm, nay bị hư mục. Nếu có tiền, ta xây lại một căn nhà nguy nga đồ sộ tốt đẹp hơn căn trước. Trái lại, nếu nghèo khổ không tiền, ta phải chịu dột ướt hoặc lâm vào cảnh màn trời chiếu đất tàn tệ hơn. Luân hồi nhân quả cũng thế. Nếu đầy đủ phước đức th́ những kiếp lai sanh con người sẽ giàu sang, thân tướng đoan chính, cuộc sống ấm no. Nếu phước mỏng nghiệp dày, tội ác chất chồng th́ phải chịu nghèo khó khổ cực.

Nên vấn đề qua đời của cha mẹ là điều kiện tất nhiên của con người trên quả đất không ai tránh khỏi. Do vậy người Phật tử với bổn phận làm con phải hiểu lẽ vô thường ấy, để khi hữu sự ta không nên kêu gào, than khóc làm cho hoang mang tinh thần người sắp mất. Cần phải b́nh tĩnh niệm Phật, hoặc tán thán những công đức của cha mẹ đă làm khi c̣n sanh tiền (nếu có), để những lời tốt lành ấy thấu vào tai người sắp mất khiến cho tâm trí cha mẹ an ổn, không có những lo sợ khi bước qua thế giới khác. V́ chập tư tưởng cuối cùng của con người trước khi chết rất là quan trọng, có thể định đoạt được một phần sự tốt hay xấu trong kiếp cận lai. Để dẫn chứng điều ấy tôi xin trích một đoạn trong Kinh Niết Bàn như sau:

"Khi Phật c̣n tại thế, trong ao Ca La có một con hến, nghe đức Phật thuyết pháp liền ḅ lên bờ ẩn vào trong đám cỏ để nghe Phật giảng. Lúc ấy, có một người chăn trâu đi ngang thấy số thính giả vây quanh đức Phật, lấy làm lạ bèn chạy đến xem. V́ muốn nghe pháp, người ấy vội vàng đạp nhằm con hến chết ngay lập tức. Do tâm niệm lành trong khi đang nghe đức Phật thuyết pháp, nó liền sanh lên cơi trời Đao Lợi. Bấy giờ, nó bèn nghĩ ḿnh vốn là thân hến, nhờ nghe đức Phật thuyết pháp mà được sanh Thiên, liền rời cung điện đến trước đức Phật kính lễ bái tạ ơn đức của Ngài".

Khi cha mẹ qua đời, ngoài những lễ nghi tang chế, ta cần phải tu phước, bố thí, tránh sát sanh và lễ siêu độ cho cha mẹ trong ṿng từ 49 đến 100 ngày. Về sự cúng lễ nên đơn giản, đừng bắt chước thế nhân bày biện cỗ bàn ăn uống, nhậu nhẹt. Có những người lúc cha mẹ c̣n sống th́ hắt hủi thậm tệ, đến lúc mất th́ lại than van kêu khóc, ra chiều thương tiếc, rồi giết gà, vịt, heo cúng tế, làm đám thật linh đinh, để người đời thấy ḿnh là con hiếu thảo lo lắng chu toàn tang lễ cha mẹ. Thật là giả dối, đúng với câu: "Khi sống không cho ăn, chết làm văn cúng ruồi" là vậy.

Vấn đề quan trọng của người Phật tử báo ân cha mẹ lúc quá văng là việc tụng kinh, bái sám, cúng dường, bố thí... hồi hướng những công đức ấy đến người mất. Không phải ở chỗ giết súc vật cho nhiều, cúng tế cho lớn, vô t́nh ta lại chồng chất thêm tội lỗi, làm cho cha mẹ phải sa đoạ vào ba đường ác. Tội nghiệp của người mất ví như kẻ mang đá nặng đi trong bùn lầy, nặng nề khốn khổ, chúng ta lại chồng chất thêm một mớ đá nữa khiến họ càng nặng nề, lún sâu dưới bùn.

Trong kinh Thí Dụ có chép, lúc ấy Phật cùng A Nan đi trên bờ sông, bỗng thấy 500 quỷ đói vừa đi vừa hát, đồng thời lại thấy 500 quỷ đói khác khóc lóc đi qua. A Nan thấy thế bạch hỏi đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, tại sao bọn kia vừa đi vừa hát, c̣n bọn này lại khóc lóc như thế?

Đức Phật trả lời:

- Bọn quỷ ca hát ấy sắp được sinh lên cơi trời là v́ trong nhà con cháu họ biết tu phước, tŕ trai, lễ bái cúng dường, bố thí, hồi hướng phước quả đến cho họ. C̣n bọn quỷ khóc lóc kia sắp bị đọa vào địa ngục, v́ trong nhà thân quyến con cháu v́ họ mà sát sanh cúng tế, không biết tu phước, bố thí nên họ phải gánh lấy quả nghiệp ác do người thân gây tạo. V́ vậy mà họ khóc lóc.

Có kẻ thắc mắc nghi ngờ không biết hành động báo hiếu bằng cách tụng kinh, cúng dường, bố thí có đem lại lợi ích cho người mất không? Quả thật đây là vấn đề khá phức tạp. Nếu nói có lấy ǵ chứng minh cho người sống? Nếu nói không th́ hóa ra lời dạy của Thánh hiền phi lư vô ích sao? Ở đây với khả năng hiểu biết hữu hạn, chúng tôi xin dựa theo một vài thí dụ thực tế mà giải thích.

Đôi bạn trẻ trai gái quen nhau. Nhân dịp đầu xuân hoặc sinh nhật, người bạn trai tặng bạn gái của ḿnh một tấm thiệp với hàng chữ chúc mừng, người bạn gái nhận tấm thiệp này một cách cảm động và coi như kỷ vật quư báu. Thật ra, tấm giấy đó chẳng có giá trị hiện kim nào, nhưng qua nó người bạn gái nhận một tấm ḷng thương yêu của người bạn trai trao cho.

Một người cha bị bệnh nặng, đứa con ở xa hay tin vội về thăm, mua quà bánh, hỏi thăm an ủi, chăm sóc và đưa cha vào bệnh viện chữa trị. Những hành động của người con như thế có gánh chịu phần nào sự đau đớn dày ṿ cơ thể nơi người cha không? Chắc chắn là không rồi. Nhưng người cha sẽ cảm thấy sung sướng khi biết con hết ḷng lo lắng chữa trị cho ḿnh.

Qua hai trường hợp nêu trên. Cô gái nhận tấm thiệp, người cha nhận món quà. Hai vật đó thật ra chẳng có giá trị là bao, nhưng qua đó cô gái cảm nhận tấm chân t́nh của người bạn trai, người cha nhận được ḷng hiếu thảo của người con. Nếu có chết chắc họ cũng lấy làm măn nguyện. Từ thí dụ ấy có thể suy ra việc cha mẹ qua đời cũng thế. Với mắt thịt xác phàm làm sao chúng ta có thể thấy biết cha mẹ đầu sanh vào cảnh giới nào. Do v́ không biết nên chúng ta phải làm hết sức ḿnh để vơi dịu sầu đau, đồng thời tạo thêm được sự lợi ích nào cho người chết là làm (nhưng không làm theo h́nh thức mê tín dị đoan). Trước mất mát lớn lao ấy chúng ta chỉ biết tụng kinh, bố thí, phóng sanh, cúng dường Tam Bảo... Chúng tôi thiết nghĩ việc làm này rất có lợi. Nếu xét về mặt thật tế, chúng ta đă làm được những điều tốt, đầy t́nh người và chắc chắn về mặt nhân quả vẫn là lợi ích cho chính ḿnh. Đối với người khuất, bổn phận làm con, đă tỏ hết ḷng thành để thực hiện điều nói trên, cầu mong cha mẹ nhờ ơn đức ấy mà sớm siêu thoát. Điều này không biết có được như ư không, nhưng hành động đó đă thể hiện t́nh cảm sâu sắc của kẻ làm con đối với cha mẹ. Ví như kẻ tù tội trong ngục sẽ rất măn nguyện khi biết người thân họ hết ḷng lo chạy tội cho ḿnh, tuy biết rằng việc ấy không thành công. Thế nên, siêu hay không là tùy theo nhân duyên nghiệp báo của cha mẹ và tấm ḷng thành của người con.

Tóm lại, thời gian trôi qua một cách mau chóng, như ngựa câu qua cửa sổ, như ngọn đèn treo trước gió... quỷ vô thường không hẹn mà đến, phút chốc đă ra người thiên cổ. Cuộc sống con người ví như chiếc thuyền đang trồi hụp trong giữa biển lớn sanh tử. Chúng ta phải cố gắng tinh tấn ra sức chèo vào bờ. Đừng để một khi mất thân này th́ muôn kiếp khó được lại. Mặc dù phương tiện vẫn phải đi từ thấp đến cao nhưng mục đích chung vẫn là ĺa khổ đạt vui, giải thoát khỏi nẻo luân hồi sanh tử.        &nb sp;    Phải luôn nghĩ đến vấn đề sanh tử là việc trọng đại, ráng lo trau dồi tâm trí, tinh tấn học đạo. Được như vậy, chúng ta mới có thể hoàn hảo phần nào việc tri ân và báo ân đối với cha mẹ. Hơn nữa con cái là di thể, là h́nh bóng của cha mẹ. Nếu bản thân được rạng danh, nhân phẩm, đức hạnh ta cao thượng mọi người tôn trọng kính nể th́ cha mẹ ta cũng sẽ được tiếng thơm muôn thuở. Như gương hiếu hạnh của đức Phật và các vị Bồ Tát xưa kia vẫn c̣n ghi đậm nét vàng son trong sách sử.

Thanh Sĩ có câu:

Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp
Độ được ḿnh c̣n vớt mẹ cha
Thuyền to một chiếc sắm ra
Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi...


__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 5.4609 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO