Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 165 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Bản chất và con đường Giác Ngộ (Đă bị đóng Đă bị đóng) Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 1 of 80: Đă gửi: 29 January 2006 lúc 5:04am | Đă lưu IP  

BẢN CHẤT
CỦA BỒ-ĐỀ, GIÁC NGỘ, NIẾT-BÀN
VÀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT


Phiền năo đau khổ hay tự tại an vui là ở ngay tại ḷng ta không ở đâu xa cả. Khéo tu là đừng chạy theo 6 trần th́ sẽ được an vui hay bồ-đề niết-bàn. Vụng tu là buông lung phóng dật, để bị lôi cuốn vào lục dục thất t́nh, chạy theo 6 trần th́ phiền năo khổ dau theo sau tức th́.

Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát khỏi khổ đau phiền năo, khỏi ba thứ độc tham, sân, si, giải thoát khỏi ngă chấp... để chấm dứt sinh tử luân hồi. Bồ-đề, niết-bàn được coi như là mục tiêu tối hậu của việc tu tập đạo giải thoát. Chúng ta thử t́m hiểu bản chất, cội gốc của bồ-đề, giải thoát và niết-bàn qua các lời dạy của chư Phật, chư Tổ. V́ đă nói đến bồ-đề, niết-bàn tất phải nói đến sinh tử và luân hồi v́ đây là một cặp đối đăi. Biết được nguyên nhân của phiền năo tất sẽ biết được cửa giải thoát; và đức Phật cũng đă vẽ ra con đường giới định tuệ, dựa trên sự tu tập tám Chánh đạo để giúp chúng ta chặt đứt vô minh, nguyên nhân của đau khổ phiền năo và sinh tử luân hồi. Do đó t́m hiểu bản chất của bồ-đề và niết-bàn cũng đồng nghĩa với sự t́m hiểu nguyên nhân của sinh tử luân hồi vậy. C̣n giác ngộ là thấy rơ cái ngục tù đă giam giữ ḿnh và người giữ ngục chính là vô minh. Khi kẻ giữ ngục đă bỏ đi (=giác ngộ) th́ nhà tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.

Ngài A-nan hỏi đức Phật trong kinh Lăng Nghiêm: "cái ǵ là cội gốc của sinh tử luân hồi (STLH) và cái ǵ là cội gốc của bồ-đề và niết-bàn (BĐNB)? "Chư Phật mười phương đều trả lời A-nan: cội gốc của STLH là 6 căn của ông và cội gốc của BĐNB cũng chính là 6 căn của ông. Tại sao vậy?

Tại v́, nếu khi 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà không biết pḥng vệ, lại phóng tâm ra để chạy theo 6 trần th́ phiền năo khổ đau sẽ theo đó mà kéo tới, đụng đâu th́ dính mắc đó, và chính sự dính mắc là nguyên nhân của sinh tử luân hồi. Thế nào là dính mắc? Lấy vài ví dụ trong cuộc sống hằng ngày với sự dính mắc của mắt, tai, mũi, lưỡi... khi tiếp xúc với 6 trần và sự thực hành tám Chánh Đạo để đối trị v́ chúng ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài là nhờ 6 cánh cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi...

SỰ DÍNH MẮC CỦA MẮT VỚI SẮC TRẦN

Tại sao đức Phật nói "mắt là biển lớn mà người phải vượt qua." V́ mắt nh́n th́ ham muốn liền khởi, tâm liền dao động: ưa-ghét, lấy-bỏ liền hiện ra dưới đủ mọi h́nh thức. Để đối trị với "các tật của mắt," đức Phật dạy chánh kiến (= thấy đúng với bản chất của sự vật): người phát triển chánh kiến là người biết nh́n mọi sự vật, hiện tượng "như - nó - là" (as it is) nghĩa là nh́n mọi sự việc, hiện tượng dưới ánh sáng của vô thường, vô ngă, không tham đắm, không xua đuổi. Được như vậy, tâm chúng ta sẽ ở trạng thái b́nh thuờng, không bị khuấy động, đó là ư nghĩa của "giữ tâm ư trong sạch" mà ta thường nói. Nghĩa rốt ráo của chánh kiến v́ vậy, là không phân biệt. Tâm phân biệt phát xuất từ ham muốn và si mê. Thật vậy, tâm phân biệt sai sử ta thấy cái này đẹp, cái kia xấu, người này hay kẻ kia dở v..v.. Đúng ra ta phải nh́n thấy cái ngọt của mật ong không tốt hơn cũng không xấu hơn cái đắng của trái khổ qua, con chim bồ câu không đẹp hơn hay xấu hơn con chim se sẻ, hoa hồng thơm không tốt hơn cũng không xấu hơn thùng rác bẩn v. v.. Trong thế gian luôn có sự bất đồng, ta không thể đ̣i hỏi sự tương đồng; ngược lại ta phải học hỏi từ những bất đồng đó, có những điểm tương đồng bên trong mọi sự vật: đó là tính vô thường, tính "không thực có" (vô ngă) của chúng. Tương tự như vậy đối với con người và những bất đồng về văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm, tư tưởng, t́nh cảm... của họ. Ngoài ra, ngay trong ta cũng có những cặp bất đồng: an lạc và phiền năo; tĩnh lặng và dao động, hạnh phúc và đau khổ v.v.. Chúng ta phải thấy đúng (chánh kiến) là cả hai phần tử trong mỗi cặp dều có cùng một bản chất là vô thường, vô ngă và không đem lại hạnh phúc lâu dài. Sự thật nó là "như vậy" thôi - quan sát cho kỹ tâm ta, ta sẽ rất bối rối khi tự đặt cho ḿnh câu hỏi "cái cảm giác hạnh phúc hay đau khổ ấy có phải là "tôi" hay " của tôi" không ?" Như vậy, bằng thực hành, chúng ta đă áp dụng một chi phần của tám Chánh Đạo, đó là, chánh kiến để điều chỉnh cái thấy lệch lạc theo thói quen của ḿnh.

Chánh kiến giúp ta hiểu biết được sự tương đồng bên trong mọi người, mọi sự vật, hiện tượng, từ đó chúng ta sẽ biết cách cư xử và đối diện với những bất đồng bên ngoài một cách khôn ngoan, không c̣n ham thuận lợi, ghét trở ngại; ưa hạnh phúc, ghét khổ đau; ưa những người giống ḿnh, ghét những người khác ḿnh v..v.. nữa. Nói cách khác nó giúp ta dần dần có được một cái tâm cân bằng, ta sẽ được an lạc và có khả năng đem an lạc cho mọi người quanh ta. Nói cách khác, khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần- ví dụ mắt tiếp xúc với sắc - mà biết dừng lại, không khởi tâm phân biệt để cho 6 trần dẫn dắt, biết quay về với chân tâm, th́ đó là bồ-đề niết-bàn.

Tóm lại: tiếp xúc mà không dính mắc = bồ-đề và niết-bàn. Tiếp xúc mà dính mắc = Sinh tử luân hồi

SỰ DÍNH MẮC CỦA LỖ TAI VỚI ÂM THANH

Tại sao "tai cũng là biển lớn phải vượt qua?" - v́ những lời khen tiếng chê, lời qua tiếng lại cũng làm tâm dao động, dính mắc.

Nếu ta chỉ biết nghe những âm thanh mà ta ưa thích th́ đó là ta chưa hiểu biết hết cái kỳ diệu của âm thanh: nếu chỉ thích nghe những lời ngợi khen mà rất ghét nghe những lời chê bai th́ lỗ tai chỉ làm việc một nửa, v́ tất cả mọi âm thanh đều là vui, tất cả mọi âm thanh đều là pháp; những lời nói dữ là thử thách sự kiên định của tâm, là pháp rèn tâm, là pháp điều phục tâm xao động. Như thế, những lời nói dữ chính bản chất nó không dữ mà ta chấp nó dữ v́ ta c̣n vướ?g mắc vào âm thanh, cho nên ta không nhận thấy thật tánh của ngôn ngữ. Quán sát âm thanh đơn thuần là âm thanh th́ hiểu được Đạo: những lời khen tự nó không xấu nhưng chấp vào th́ nó trở thành độc dược. Khen hay chê đều không thể biến ta thành người khác; khi ta điềm nhiên trước những âm thanh của một người chê bai ta, chưởi mắng ta là ta đă độ được tâm ḿnh, độ được người ấy, mà chính cũng là người ấy đă độ ta. Biết bao nhiêu chuyện đau ḷng đă xảy ra trong lịch sử nhân loại về những ông vua chỉ v́ nghe lời của nịnh thần mà đă giết lầm tôi trung,con thảo v..v.. cho nên "tai cũng chính là một biển lớn mà ta phải vượt qua"

Chuyện kể hồi Phật c̣n tại thế, cũng có những người không ưa thích đức Phật v́ đố ky?hay hiềm nghi v.v.. Ví dụ như có một hôm một người Bà-la-môn đến "chưởi" Ngài đủ thứ, đức Phật không hề trả lời hay cải chính thanh minh v.v.. ngài chỉ mĩm cười, cái cười từ bi và hỷ xả vốn có của Ngài. Người Bà-la-môn sau khi chưởi "đă cơn" mới hỏi Ngài: sao tôi chưởi ông nảy giờ mà ông không giận ? cũng không chưởi lại?

Đức Phật từ tốn đáp: khi Bạn đem cho ai cái ǵ mà người ấy không nhận th́ bạn phải làm sao?

- Th́ tôi đem trở về !

- Cũng thế, nảy giờ bạn đem những lời nhục mạ đến cho tôi nhưng tôi không nhận, xin bạn hăy đem về.

Đức Phật như vậy là ngài không dính, ngài an nhiên tự tại. Những lời nói ấy không làm ngài nổi giận hay cau có, oán hờn người Bà-la-môn, ngài giữ được tâm bất động trước 6 trần (ở đây là thanh trần = tiếng nói, âm thanh)

C̣n chúng ta th́ sao? Ai nói động tới là xụ mặt xuống liền, ai chưởi ḿnh th́ ḿnh đánh họ v.v.. như vậy là để cho 6 trần lôi cuốn, sai sử, vậy là "dính " cứng ngắt rồi, làm sao mà ung dung tự tại được!!!

Do đó, phiền năo đau khổ hay tự tại an vui là ở ngay tại ḷng ta không ở đâu xa cả. Khéo tu là đừng chạy theo 6 trần th́ sẽ được an vui hay bồ-đề niết-bàn; vụng tu là buông lung phóng dật, để bị lôi cuốn vào lục dục thất t́nh, chạy theo 6 trần th́ phiền năo khổ dau theo sau tức th́. Ví dụ người khéo tu th́ nghe chưởi cũng cười nghe khen cũng cười; người vụng tu nghe khen th́ tươi cười hớn hở, nghe chưởi th́ liền nổI sân hay oán giận v..v.. Vậy cho nên an hay bất an là do ḿnh. Phật cũng không thể cứu độ cho chúng ta mà chỉ bày phương pháp để dẹp bỏ khổ đau phiền năo mà thôi, có áp dụng phương pháp hay không là chuyện của chúng ta!

SỰ DÍNH MẮC CỦA MŨI VÀ LƯỠI

Có thể thấy rơ qua 2 câu của bài "sám nguyện" mà ta đă đọc từ hồi rất xa xưa:

"Mũi ưa ngửi mùi hương bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện điêu ngoa"

Nói cách khác, cái tội của mũi là ham chạy theo những mùi hương làm say đắm ḷng người, làm tối tăm trí óc, rồi làm ra những chuyện bất thiện v́ lúc đó, không kiểm soát được ḿnh, không c̣n biết ḿnh đang làm ǵ. Bởi vậy, tu cái mũi là biết "thở chánh niệm." Thở chánh niệm là "thở vào tôi biết là tôi đang thở vào, thở ra tôi biết là tôi đang thở ra" mà không chú ư đến cái ǵ khác ngoài hơi thở. Thật là đơn giản nhưng thật sự rất khó làm. Thật vậy, ai đă từng thực tập đếm hơi thở đều thấy rơ; v́ nếu thiếu sự chú tâm, tỉnh thức th́ sẽ đếm nhầm ngay, đó là chưa nói có thể "suy nghĩ bao la vũ trụ" quên cả việc đếm hơi thở !!! Năng lượng chánh niệm do hơi thở tạo ra sẽ giúp ta an trú trong hiện tại, không t́m về quá khứ, không mơ tưởng tương lai - nguyên nhân của khổ đau, phiền năo - Được như vậy, ta sẽ không chạy theo những "mùi hương bất tịnh" nữa. Khi đă có sự kiểm soát hơi thở vững vàng, dần dần ta sẽ điều hoà được những ưa - ghét, lấy - bỏ của 2 lỗ mũi; lúc đó mùi hôi không làm ta khó chịu, ghét bỏ, giận dữ và mùi thơm cũng không c̣n khả năng lôi cuốn, chiếm giữ và sai sử tâm ta nữa, cảm giác an lạc sẽ đến với những người biết điều hoà hơi thở nghĩa là biết thở chánh niệm.

C̣n cái lỗi của Lưỡi là ở trong hai việc ăn và nói. Tham ăn cũng dẫn đến tai hại: dễ bị mua chuộc khi được cho ăn ngon, đưa vào miệng những chất độc mà không biết v..v.. làm hại dạ dày và các cơ quan khác của thân. V́ vậy, tu cái lưỡi là khi ăn ta phải nghĩ là "ăn để sống," thức ăn có tác dụng như thuốc hay, có thể nuôi sống thân mạng ḿnh. Trước khi ăn, ta khởi lên một niệm biết ơn những người đă trực tiếp và gián tiếp lo cho ta bửa ăn này. Khi ăn, ta ngăn ngừa những tật xấu như tham ăn bằng cách nhai thức ăn thật kỹ, không gắp lia lịa dù trong chén đang c̣n thức ăn, không ăn quá no, không vừa ăn vừa lo lắng, suy nghĩ, giận hờn, phiền muộn v..v.. như thế th́ thức ăn mới được tiêu hoá dễ dàng, cái lưỡi mới khỏi mang tội với toàn thân.

"Nói" cũng là "nghề" của lưỡi. Lời nói có thể cứu sống một mạng người cũng có thể giết chết một hay nhiều người, lời nói cũng có thể làm sụp đổ một ngai vàng, có thể mang lại ḥa b́nh cho nhân loại, cũng có thể gây ra chiến tranh v..v.. từ xưa đến nay, từ Âu Tây sang Đông Phương thật không thiếu ǵ những ví dụ. Những điều này nói lên sự quan trọng của lời nói, trong Tám Chánh Đạo th́ đây là chi phần chánh ngữ. Chánh ngữ là không nói những ǵ sai với sự thật, những lời chia rẻ, những lời căm thù, độc ác mà chỉ nói những lời chân thật và có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hoà giải. Tu cái lưỡi là phải hết sức thận trọng về lời nói của ḿnh, phải "uốn lưỡi bảy lần trước khi nói." Đừng nói trong khi đang giận dữ, v́ "giận th́ mất khôn," cái lưỡi có thể sẽ "phun" ra những nọc độc bắn vào người khác và sau khi nguôi giận ta sẽ hối hận cả đời v..v..

Chuyện kể đức Thế Tôn sau khi thành đạo trở về thăm gia đ́nh, ngài đă cho La-hầu-la (Rahula) một bài pháp đặc biệt như sau: Này La-hầu-la! Đừng v́ bất cứ một lư do nào mà phải nói những lời không chân thật, cho dù nó có đem lợi đến cho ḿnh hay bất cứ một ai. Sự trung thành của ḿnh đối với sự thật là một điều tối quan trọng; nó giữ cho những liên hệ của ḿnh với thế giới chung quanh được dễ dàng và đỡ phức tạp hơn. Thành thật trong lời nói sẽ dẫn đến sự thành thật với chính ḿnh. Trong thân và tâm ta, có biết bao nhiêu chuyện mà ta hằng trốn tránh: những đau đớn bực dọc mà ta không bao giờ muốn nhắc đến, như vậy là ta đă không thành thật với chính ḿnh. Chân thật trong lời nói là căn bản cho sự chân thật trong tâm tưởng. Có thành thật với chính ḿnh ta mới có thể cởi mở tâm ḿnh ra, và nhờ đó mới có thể nhận diện và đối trị với mọi trạng thái bệnh hoạn của tâm hồn.

Đối với Lục Tổ Huệ Năng th́ phiền năo và bồ-đề không khác, trong phẩm thứ 2 của kinh Pháp Bảo Đàn (Phẩm Bát-nhă) Ngài Huệ năng nói: "Này thiện tri thức! Phàm phu tức Phật, phiền năo tức Bồ-đề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước chấp cảnh tức phiền năo, niệm sau ĺa cảnh tức Bồ-đề."

Thoạt mới nghe, tưởng như Lục Tổ nói khác với kinh Lăng-nghiêm nhưng kỳ thực không hề khác, ngài c̣n nói tiếp: Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm, dụng khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh nơi bản tâm khiến 6 thức ra 6 cửa đối trong 6 trần không nhiễm, không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt, tức là tự tại giải thoát, gọi là vô niệm hạnh. Này thiện tri thức! Người ngộ được pháp vô niệm th́ muôn pháp đều không; người ngộ được vô niệm th́ thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm th́ đến địa vị Phật" Như vậy Lục Tổ cũng dạy một điều "dính mắc là sinh tử luân hồi mà không dính mắc là Bồ-đề niết bàn" vậy.

Theo Kinh A-hàm, h́nh ảnh sự dính mắc của 6 căn vào 6 trần là h́nh ảnh một chú khỉ bị mắc bẫy: miệng cạp trái cây bị dính cứng ngắt không nhả ra được, dùng thêm 2 tay đẩy ra cũng bị dính, dùng 2 chân gỡ:

dính luôn, rồi cuối cùng dùng cái đuôi phụ vào cũng bị dính nốt ! Thế là chú khỉ như bị treo lên, không c̣n tự do chạy nhảy leo trèo nữa, chỉ chờ người đến bắt! Tương tự, người bị dính mắc theo 6 trần cũng y như chú khỉ này, măi trôi lăn trong cái bẩy sinh tử luân hồi không thể giải thoát đưọc.

Tóm lại, con đường dẫn đến Giác Ngộ Giải thoát là con đuờng thu thúc 6 căn (mắt, tai mũi, lưỡi v.v. . .) để khi tiếp xúc với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị. . . ), không trôi theo 6 trần, không dính mắc vào 6 trần, luôn luôn tự tại trước ngoại cảnh. Đó chính là con đường chiến thắng chính ḿnh, chiến thắng 10 "con ma" bên trong ḿnh; 10 con ma mà thái tử Tất-đạt-đa trước khi trở thành đức Phật Thích-ca đă phải chiến thắng, đó là: nhục dục, nản chí, đói khát, ái dục, dă dượi & hôn trầm, sợ hăi, hoài nghi & ngoan cố, chiếm đoạt, tự phụ & khinh thường người khác.

Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 2 of 80: Đă gửi: 29 January 2006 lúc 5:07am | Đă lưu IP  

Nếu chúng ta chấp nhận ư kiến "Tất cả chúng sanh đều b́nh đẳng và tất cả đều có thể đạt đến Phật quả" th́ ḷng kiêu ngạo của chúng ta sẽ dần dần biến mất. Sẽ không có tâm khinh thường đối với những người khác; cũng không phủ nhận chân giá trị của những điều không vừa ư ḿnh.

Hôm nay tôi muốn giới thiệu với quư vị một ư tưởng Phật giáo "mới" hay một món quà đặc biệt của kinh Pháp Hoa. Những ǵ tôi muốn nói ở đây thật sự là niềm tin truyền thống cổ điển của Phật giáo đă có cách đây hơn 2000 năm. Tuy nhiên, điều này luôn luôn mới mẻ và tươi tắn bất cứ khi nào chúng ta đề cập đến, nhất là trong giai đoạn xă hội hiện đại. Bồ-tát Thường Bất Khinh (Sadaparibhuta) đă từng nói rằng: "Tôi không bao giờ dám khinh quư Ngài, v́ tương lai quư Ngài sẽ thành Phật" (Kinh Pháp Hoa, phẩm thứ 20). Lời nói này biểu lộ một ư nghĩa thâm sâu về chân lư của cuộc đời, nghĩa là nhấn mạnh thái độ đối xử của chúng ta với tất cả mọi người.

Như chúng ta đă biết, mỗi người trên thế gian này th́ khác nhau, có người thông minh, người ngu si, người yếu đuối, khỏe mạnh, người năng động, người thụ động, người được nâng cao, kẻ bị chà đạp . . . Từ những h́nh thái đó, chúng ta sanh ra những tư tưởng phân biệt đúng sai, khinh trọng, những hành vi tốt, xấu . . . Nhưng tất cả những sự sai khác này th́ không bao giờ cố định măi măi. Chúng ta không nên hiểu sự khác biệt đó là những phẩm chất đặc trưng tốt hay xấu hoặc sự khác biệt căn bản trong tính cách của từng cá nhân. Theo Phật giáo, sự khác biệt hiện tại giữa trí và ngu, mạnh và yếu, giàu và nghèo, dữ và hiền là những bước trung gian trong tiến tŕnh của cuộc sống. Chúng không phải là mục đích cuối cùng. Khi chúng ta chưa đạt được trạng thái tâm giác ngộ hoàn toàn, chúng ta c̣n bị chúng chi phối trong tiến tŕnh nhân quả, gặt hái các hậu quả của nghiệp quá khứ và đồng thời chúng ta lại tiếp tục gieo trồng chủng tử cho tương lai.

Những ai không tự nỗ lực hướng đến ánh sáng, cuối cùng sẽ bị thoái hóa. Ngược lại những ai nỗ lực chính ḿnh hành thiện th́ sẽ t́m thấy được con đường hướng thượng.

Con người có khả năng và tiềm lực mạnh mẽ để phát triển và thăng hoa thiện nghiệp cũng như t́m cầu sự hoàn hảo tối thượng. Tất nhiên cuối cùng sau khi trải qua nhiều kiếp tái sanh và tu tập, chúng ta sẽ đạt đến trạng thái toàn giác. Giống như Bồ-tát Thường Bất Khinh nói: "Mỗi chúng sanh là một vị Phật sẽ thành." Trong Phật giáo không có tội lỗi vĩnh cửu, không có tai họa măi măi và không có sự thoái hóa cố định (nghĩa là "hồi đầu thị ngạn," quay đầu sẽ thấy bến), chúng ta có thể từ tham sân si để trở thành thức tỉnh và giác ngộ. Chúng ta có thể chuyển hóa từ các phiền năo để trở nên trong sáng và thanh tịnh để hiện tại và tương lai luôn luôn trong trạng thái tốt đẹp và an lạc măi măi. Chúng ta nên áp dụng ư tưởng này cho ḿnh và cho nhận thức của ḿnh đối với người khác. Quan điểm sống tích cực và lạc quan này khiến cho chúng ta có đầy đủ niềm tin và năng lực để vượt qua tất cả những khó khăn phía trước mà không nản ḷng.

"Chúng sanh đều b́nh đẳng và tất cả chúng ta đều có thể đạt đến Phật quả" có được ḷng tự tin này có thể giúp chúng ta tránh sự coi thường người khác. Thế nào là coi thường? Coi thường người khác có thể bao gồm việc hạ phẩm giá của những người khác bằng sự khinh thường, xúc phạm danh dự người khác bằng sự kiêu ngạo của ḿnh; lăng mạ người khác bằng những người khác bằng hành vi xấc xược của ḿnh. Trong khi đó thái độ khư khư chấp thủ về ngă hơn thua luôn giữ hoài, c̣n chủng tử Phật tánh là cái có sẵn trong mỗi chúng ta th́ đối với chúng ta lại quá mơ hồ. Chúng ta có thể bị lôi cuốn vào trong sự vô minh và vụng về, khiến mọi người ghét bỏ chúng ta. Thông thường chúng ta tự dối ḿnh và có khuynh hướng bắt nạt kẻ khác. Việc đắm ch́m trong kiêu ngạo là sự bóp méo chân ngă do bởi những quan điểm sai lạc về chấp ngă đưa đến. Bất hạnh thay, sự rắc rối phức tạp về "tự ngă" (tự cao tự đại) đă ăn sâu vào trong tim óc của chúng ta trong suốt ḍng sanh tử. Bản ngă này đă lôi kéo chúng ta trong ṿng sanh tử luân hồi vô tận. Chính ngă tham trói buộc chúng ta ở trong sanh tử tương tục và làm cho thế giới này tràn ngập những khổ đau.

Thái độ khinh người ngấm ngầm đối với người khác dường như có thể xem là không nghiêm trọng, nhưng đôi khi nó phát triển thành tính tự cao tự đại và cường điệu. Nó khiến chúng ta dường như ra vẻ bậc đạo sư, bậc siêu phàm, người mà có thể sai khiến người khác phải tuân lệnh ḿnh, hoặc khiến họ phải sẵn sàng hy sinh … đều nhằm mục đích để làm thỏa măn tự ngă của chính ḿnh.

Đôi khi chúng ta mất đi ḷng tự trọng. Chúng ta đánh giá cao người khác nhưng thật sự trong tâm chúng ta không chấp nhận người khác giỏi hơn ḿnh. Ảnh hưởng của thái độ không thật này làm khơi dậy sự căng thẳng, giận dữ, ganh tỵ, mưu đồ và hung ác ở trong cả chính chúng ta lẫn những người khác, từ đó khiến cho toàn bộ thế giới trở thành kẻ thù của chúng ta. Sự mâu thuẫn trong tự ngă này đă cắm rễ vững chắc từ lâu trong nội tạng của chính ḿnh từ vô thủy.

Một số các nhà lănh đạo tôn giáo, chính trị, tư tưởng đă rơi vào khuyết điểm nghiêm trọng này và đi đến việc tự coi tôn giáo hoặc triết lư của chính ḿnh là duy nhất tiêu biểu cho chân lư. Cách duy nhất được coi là đúng đắn và xứng đáng để tồn tại này là hăy tin vào họ, theo họ, tuân theo sự chỉ dẫn, và rồi hành động theo ư kiến của họ. Những ai không tin những vị lănh đạo tối cao này và không làm theo họ sẽ bị coi là như thể đă phạm tội ác cực kỳ nặng, không luận là hiện tại có làm thiện bao nhiêu đi nữa; v́ như thể người đó đă phạm tội bội giáo và hẳn phải bị giết. Sự đề cao tự ngă với tâm nhỏ hẹp này sẽ nuôi dưỡng trạng thái nội tại đó măi bằng cách t́m mọi thủ đoạn để đè bẹp những đối thủ của chính ḿnh. Điều này sẽ hủy hoại cả chính ḿnh lẫn người khác, cho nên cần phải được thay đổi.

Nếu chúng ta chấp nhận ư kiến "Tất cả chúng sanh đều b́nh đẳng và tất cả đều có thể đạt đến Phật quả" th́ ḷng kiêu ngạo của chúng ta sẽ dần dần biến mất. Sẽ không có tâm khinh thường đối với những người khác; cũng không phủ nhận chân giá trị của những điều không vừa ư ḿnh. Người Phật tử chân chánh phải có tâm rộng răi, khoan dung, kính trọng và đối xử tốt với mọi người. Một Phật tử chân chánh sẽ không xem những tôn giáo khác hoặc những giáo lư tư tưởng khác như là vô nghĩa và vô giá trị. Ngay cả nếu chúng không được hoàn hảo lắm, có lỗi lầm, có lầm lạc nhưng chúng vẫn có thể mang đến vài điều tốt tương tự như chân lư, hoặc có thể hoạt động rất có phẩm chất như tôn giáo của ta. Bất kể người đó có đối lập với Phật giáo hay không, có đức tin dị giáo, hoặc là không tin vào bất cứ cái ǵ, những khuyết điểm của những người như vậy sẽ không coi là quan trọng. Điều này không nên kết luận rằng người ấy là xấu hoàn toàn. Một người như thế có thể có nhân cách cao thượng, hành vi thiện và thói quen tốt để phục vụ tốt cho những nhu cầu xă hội. Ngay cả những người ấy xấu thật sự, th́ người ấy cũng không hoàn toàn không có tư tưởng hay hành vi tốt đáng ca ngợi.

Niềm tin rằng "Tất cả chúng sanh cuối cùng và chắc chắn sẽ đạt được Phật quả" sẽ khiến cho tâm chúng ta tự nhiên trở nên thanh thản và sẽ cởi mở hơn khi tiếp xúc với những người khác. Chúng ta sẽ hiểu rằng tương lai chúng ta được quyết định bởi những hành vi hiện tại của chính ḿnh. Hành vi thiện hoặc ác sẽ đưa chúng ta tiến lên hoặc đi xuống, khổ đau hay hạnh phúc... Nếu chúng ta làm ác, chúng ta sẽ mang lại khổ đau cho chính ḿnh và những người khác. Niềm tin trong Phật giáo giúp chúng ta sự tự tin để đi vào con đường chân chánh, hướng thượng và bước vào trạng thái tâm hoàn hảo hơn. Đức Phật dạy chúng ta không nên sân hận mà nên thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ư; nên thiết lập ư tưởng đạo đức cao thượng, Bồ-đề tâm kiên cố và tu tập để trau dồi chính ḿnh. Ngài dạy chúng ta nên tạo nghiệp lành v́ lợi ích của những người khác và thực hành hạnh nhẫn nhục. Ngài cũng khuyến khích chúng ta nên cảm thông với những người ác, không nên coi thường những người lỗi lầm mà ngược lại giúp họ sửa đổi những sai trái đó. Rồi dần dần dùng những từ trường tốt của ḿnh để cảm ứng và chuyển tâm họ trở nên hoàn thiện đạo đức hơn.

Việc đánh giá tính cách chân thật và vẻ đẹp tuyệt đối của lư tưởng "Tất cả chúng sanh cuối cùng và chắc chắn sẽ đạt được Phật quả" này có thể giúp chúng ta hiểu được tại sao Đức Phật khuyên chúng ta "không nên coi thường những người ngu dốt" và "không được coi khinh những người đă xúc phạm chúng ta." Tất cả mọi người có thể đạt đến Phật quả. Những người nhút nhác và ngu muội có thể học tập và ngày càng trở nên thông thái và đức hạnh hơn. Những người phạm giới có thể sám hối và dần dần hoàn thiện hành vi đạo đức khéo léo hơn. Với những ư tưởng như vậy trong tâm chúng ta có thể sẽ trở nên có t́nh thân hữu với những người khác và không hề muốn lợi dụng họ. Chúng ta nên gieo trồng những điều tốt mà trong đó không có những mầm mống của những xung đột, mâu thuẫn (chiến tranh giữa ḿnh và người) và hăy coi ḿnh b́nh đẳng như người, không bao giờ xem ḿnh hơn họ.

Vận dụng từ những ư tưởng này chúng ta có thể tăng trưởng tâm từ bi đối với những người khác và tăng cường quyết tâm để giúp tất cả chúng sanh. Chúng ta có thể trau dồi trí tuệ vô ngă ("anatta" theo lời dạy của Đức Phật là không có một chủ thể ngă nào có thật) và giúp chúng ta thành tựu quả vị Phật bằng cách tu tập các ba-la-mật của Bồ-tát . Nếu chúng ta phát triển lư tưởng này và khéo tu tập, th́ chúng ta sẽ trở nên có hiểu biết hơn, có ḷng tin tưởng hơn để sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau và để cùng đạt được hạnh phúc và an lạc lớn
Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 3 of 80: Đă gửi: 29 January 2006 lúc 5:10am | Đă lưu IP  

             GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT

Muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, th́ làm sao đi đến nơi đến chốn một cách an lành được.

Trên thế gian này, đạo Phật đă có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử, khởi thủy từ Á châu truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại Mỹ châu và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện nay, dân chúng ở các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin tưởng nơi các tôn giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi việc qua đức tin nơi thượng đế mà thôi. Cùng với sự phát triển của khoa học, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc ngày càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần, do nhiều áp lực, nhiều khó khăn, dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa học ngày càng đáp ứng tối đa các nhu cầu, những tiện nghi vật chất của con người. Trong khi đó, các tôn giáo hiện diện tại đây từ trước, không đáp ứng được những nhu cầu tinh thần, những vấn đề tâm linh của con người.

Cho nên, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc đă và đang hướng về t́m hiểu giáo lư của đạo Phật và thực hành những lời dạy của Đức Phật trong đời sống hằng ngày. Từ đó, họ t́m được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong đời sống đầy dẫy những bất trắc và phiền năo khổ đau. Họ phát tâm tu tập một cách tích cực, dưới nhiều h́nh thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ viết sách, dịch kinh Phật Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu biết, để được giác ngộ và giải thoát. Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng trí tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà thôi.

Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai vậy." Nghĩa là nếu chúng ta đến với Như Lai, tức là đến với Đức Phật chỉ bằng niềm tin, chỉ biết tin tưởng Đức Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền năng, có thể ban phước như lời cầu nguyện của chúng ta, có thể ban cho chúng ta và gia đ́nh một cuộc sống b́nh an, như ư, mà không chịu học hiểu giáo lư, t́m hiểu những lời dạy của Đức Phật, để áp dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta phỉ báng Đức Phật. Tại sao vậy?

Bởi v́, nếu cầu nguyện, khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện, không công hiệu, không hữu hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ư hoặc không có được đáp ứng ǵ cả, chúng ta sẽ nghĩ là Đức Phật không linh thiêng, niềm tin không c̣n, dễ theo ngoại đạo.

Chắc chắn ai ai cũng biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo trên thế gian này đều không có b́nh an một cách tuyệt đối, theo cái nh́n tầm thường của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị người khác nhục mạ, vu cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết chết thê thảm như một tội phạm h́nh sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được như ư, như lời cầu nguyện, khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào? Cuộc đời của Đức Phật cũng gặp những chuyện như vậy, cũng trải qua các giai đoạn của cuộc sống như mọi người khác trên thế gian: sanh, già, bệnh, chết.

Như vậy, Đức Phật cứu khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng h́nh thức ban phước theo lời cầu nguyện, van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai thờ phượng chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời kinh, niệm vài câu A-di-đà Phật, hay đọc vài bài chú chăng? Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

"Hăy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp."

Nghĩa là tất cả chúng ta hăy t́m hiểu giáo lư của Đạo Phật một cách tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hăy đem ngọn đuốc trí tuệ của ḿnh mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Đức Phật Thích-ca đă trải qua những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ-đề, trên thế gian này. Sau đó, Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn, nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền năo và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.

V́ tâm đại từ đại bi, thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Đức Phật đem Chánh Pháp, là những điều Ngài đă giác ngộ được, giảng dạy trong nửa thế kỷ, ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết con đường, biết phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên tŕ, đều được giải thoát khỏi ṿng sanh tử luân hồi.

-- Toàn bộ Chánh Pháp của Đạo Phật nhằm mục đích chỉ rơ cái khổ của cuộc đời, nguyên nhân gây ra đau khổ, tiếp theo chỉ rơ cảnh giới niết bàn tịch diệt và con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó.

-- Trong kinh sách gọi đó là "Tứ Diệu Đế," gồm có: khổ, tập, diệt, đạo.

-- Đó chính là cách Đức Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh vậy.

Do đó, chúng ta hăy t́m hiểu: Tứ Diệu Đế là ǵ? Đức Phật đă giác ngộ điều ǵ và giải thoát như thế nào?

1) Điều trước tiên Đức Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta ai ai cũng đều công nhận cuộc đời "khổ nhiều vui ít." Những niềm vui trong cuộc sống thực là hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền năo, đau khổ, bất trắc, bất như ư, bất toại nguyện th́ quá nhiều. Ngoài cái khổ v́ thiếu ăn, thiếu mặc của những người nghèo đói do thiếu phước báo, cái khổ đến với mọi người trên khắp thế gian, không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lăo ấu, địa vị, học thức, giàu nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa hay thường dân, đời này hay đời trước. Cái khổ chung của tất cả mọi người trên thế gian đó là những ǵ?

Đó chính là chúng ta khổ v́: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ v́ sanh ra trong cuộc đời dẫy đầy những chuyện bất như ư, khó khăn, đấu tranh, sóng gió và gian nan, v́ tuổi già sức yếu, đi đứng khó khăn, v́ bệnh hoạn đau đớn triền miên, v́ cái chết đến bất ngờ, không như ư. Chúng ta muốn được luôn luôn b́nh an, trẻ măi không già, khỏe măi không đau, sống măi không chết, nhưng nào có ai được như vậy đâu?

Chẳng những chúng ta khổ v́ sanh, già, bệnh, chết, chúng ta c̣n khổ v́ xa ĺa người thân thương, v́ gặp những người không ưa, những kẻ oán thù, v́ cầu nguyện, van xin nhiều quá, mà chẳng được ǵ, v́ ngũ ấm xí thạnh, nghĩa là cái thân xác ngày một to béo nặng nề một cách khổ sở, và quan trọng hơn, chúng ta khổ v́ cái vọng tâm điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, thay đổi từng giây từng phút, không lúc nào ngừng nghỉ, ví như con vượn chuyền cây, như con ngựa chạy rong, như con trâu giẫm đạp lúa mạ của người.

-- Cái tâm ư điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào ṿng sanh tử luân hồi.

-- Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ư này chính là trọng tâm của đạo Phật.

Trong kinh A-hàm, Đức Phật có dạy:

-- "Cuộc đời là biển khổ.
-- Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn."

Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khổ đau, chúng sanh ch́m đắm trong biển khổ, khiến cho nước mắt trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với nước bốn biển lớn. Con người măi mê đấu tranh, giành giựt, hận thù, bon chen, hơn thua trong cuộc sống, do ḷng tham lam, sân hận, si mê, mà quên đi những khổ đau, cho đến khi nhắm mắt ĺa đời, cũng chưa giác ngộ được. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào ṿng sanh tử luân hồi.

2) Đạo Phật nhận định cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu cực, bi quan, yếm thế, chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh, để t́m phương cách giải thoát, không c̣n ch́m đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc chẩn bệnh, định bệnh để t́m ra nguyên nhân gây bệnh và t́m cách chữa trị. Cho nên, ngay sau đó, Đức Phật chỉ rơ nguyên nhân gây ra khổ đau.

Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:

-- "Con người v́ vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngă và chấp pháp.
-- Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền năo và khổ đau của cuộc đời."

Khi nào hiểu được một cách rơ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau, chúng ta sẽ t́m được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại.

Thế nào là "chấp ngă"? Chấp ngă có hai phần: vật chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy chục kư lô này là "ḿnh." Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường là chính "ḿnh." Nếu có người hỏi: chúng ta là ai? Chúng ta liền chỉ vào thân ḿnh và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác thân tứ đại giả tạm này đâu phải là "ḿnh." Cái xác thân tứ đại bao gồm những chất: đất, nước, gió, lửa, tụ hội với nhau trong một thời gian, từ khi cha mẹ sinh ra, cho đến khi chúng ta thở ra, mà không muốn hít vào nữa, th́ ô hô tử vong! Thời gian đó ít năm, nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Người đời thường gọi đó là: số mạng, định mạng, hay số mệnh, định mệnh. Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt, xương trở về với đất. Cái ǵ là "ḿnh" đây? C̣n lại chỉ là cái xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan ră, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi.

Thậm chí, ngay khi c̣n sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, th́ chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe th́ khỏe, muốn đau yếu th́ đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ư muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "ḿnh," chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, th́ quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không biết đó thôi.

Chúng ta đă hiểu cái thân xác tứ đại không phải là ḿnh, vậy c̣n cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường có phải là ḿnh chăng? Thực ra, cái tâm đó cũng không phải là "ḿnh." Tại sao vậy? Bởi v́, có lúc chúng ta suy nghĩ rất hiền lành, thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí cúng dường, muốn trở thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc, chúng ta tính toán, suy lường, muốn hơn người khác cho thỏa ḷng ganh tị, đố kyﬠmuốn thấy người khác suy sụp, gặp nạn cho thỏa ḷng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử hỏi chúng ta là người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay là hai?

Dù là khởi tâm thiện, hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc tâm thiện khởi lên, muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không được, thí dụ chúng ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đă bó tay, chúng ta sẽ đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy nan, khốn đốn, mà họ vẫn cứ b́nh an, chúng ta sẽ đau khổ. Đàng nào chúng ta cũng đau khổ cả! Ḷng tự ái cao là một dạng của tâm chấp ngă. Do tâm tham ái, chấp ngă một cách mù quáng, chúng ta đă, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào ṿng sanh tử luân hồi.

Thế nào là "chấp pháp"? Chấp pháp cũng có hai phần: vật chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có h́nh tướng như cái nhà này, cái xe này là của ḿnh. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ, mọi việc, ḿnh làm, ḿnh nói, ḿnh nghĩ, cái ǵ của ḿnh cũng là đúng, là nhất.

Về phương diện vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ măi măi ở bên ḿnh, cho là những của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp luôn luôn thuộc về ḿnh. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của cải vật chất có bị mất mát hư hao, th́ chúng ta sẽ đau khổ!

Về phương diện tinh thần, chúng ta thường chấp chặt ư kiến của ḿnh là đúng, việc ḿnh làm là đúng, ai có ư kiến khác, ai làm khác là không đúng, là sai. Chúng ta thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ giống như ḿnh, nên khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó chấp nhận được. Chúng ta không thấy những lỗi lầm, sai trái của ḿnh, cho nên đau khổ, bực bội, v́ chỉ thấy lỗi lầm của người.

Thí dụ trong gia đ́nh, nếu người cha không nhận thấy lỗi của ḿnh, chỉ biết la mắng con cái v́ chúng không theo ư muốn của ḿnh, bất chấp ư kiến của chúng, th́ người cha đó chắc chắn sẽ phiền năo đau khổ và làm cho mọi người trong gia đ́nh cũng phiền năo đau khổ theo. Chúng ta nên biết hai thế hệ khác nhau th́ ư kiến, sự suy nghĩ, cảm giác đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng chấp chặt các quan niệm xa xưa, cổ lổ, lạc hậu, không c̣n hợp thời nữa. Cứ chấp chặt như vậy chỉ đưa đến phiền năo và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy. Chuyện quốc gia xă hội, cho đến chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ vậy thôi. Khi bất cứ chuyện ǵ xảy ra, người nào, bên nào cũng có một phần lỗi, không nhiều th́ ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào toàn vẹn. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm.

Trong cuộc sống gia đ́nh cũng như ngoài xă hội, điều quan trọng là chúng ta phải biết quên ḿnh v́ người, th́ mới có an lạc và hạnh phúc. C̣n nếu tâm ư quá ích kỷ, chỉ biết có ḿnh, gia đ́nh ḿnh, đoàn thể ḿnh, tôn giáo ḿnh, cái ǵ cũng v́ ḿnh hết trơn, th́ chỉ có phiền năo và khổ đau mà thôi. Muốn có một gia đ́nh hạnh phúc, người cha phải biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho cả gia đ́nh, người mẹ cũng phải biết hy sinh những vui thích cá nhân, ḥa hợp với nhịp sống chung của gia đ́nh, con cái phải biết nhớ ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, phải biết nghe lời dạy dỗ, phải biết báo hiếu.

Trong một quốc gia có hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, ḱnh chống nhau kịch liệt, phe nào cũng muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho ḿnh là đúng nhứt, là yêu nước nhứt, th́ quốc gia đó khó có thể tiến bộ được, dân chúng không thể sống trong an lạc và hạnh phúc được. Tại sao vậy? Bởi v́ phe cầm quyền làm được bất cứ việc ǵ, cũng bị phe chống đối phá hoại, ngăn trở, phỉ báng, xuyên tạc. Chúng ta thường bị cảm giác đánh lừa, không chịu nh́n nhận sự thật, chỉ v́ sự thật không theo như ư của ḿnh, của gia đ́nh ḿnh, của phe nhóm ḿnh, của tôn giáo ḿnh.

Trên thế gian này, người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng phát lương ít; ngược lại, công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lănh lương nhiều. Thế là đấu tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người ta thường nhớ rất kỹ đă làm ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại không muốn nhớ bất cứ ai đă làm ơn, giúp đỡ ḿnh. Trên thế gian này, trâu cột ghét trâu ăn, được làm vua thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra to, chuyện có nói không, chuyện không nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát, được chim bẻ ná, được cá quăng nôm, khen ḿnh khinh người, là những "chuyện như thị," tức là những sự thực đương nhiên, không cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được. Hiểu được như thế và đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau khổ nhiều lắm!

Chúng ta thường mơ ước, cầu nguyện cho cuộc đời được b́nh an, không sóng gió. Nhưng làm sao có thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như mặt biển cả, sóng gió triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi sóng lặng gió yên, cơn sóng này qua đi, th́ cơn sóng khác lại đến. Việc này chưa xong, th́ việc khác lại xảy đến. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp dụng Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi việc, với tâm thiền định, b́nh tĩnh, thản nhiên, chấp nhận, th́ chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp pháp một cách mù quáng, chúng ta đă, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào ṿng sanh tử luân hồi.

3) Sau khi chỉ rơ nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Đức Phật chỉ bày cảnh giới niết bàn, thường hằng, tịch diệt, b́nh yên, thanh tịnh, an lạc và hạnh phúc cho những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày.

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:

Chư hành vô thường.
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ.
Tịch diệt vi lạc.

Nghĩa là mọi sự mọi việc trên đời đều vô thường, không có ǵ tồn tại vĩnh viễn, gọi là pháp sanh diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ diệt đi, không có ǵ là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi, chuyện buồn có đến rồi cũng qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi việc. Chuyện vui hay buồn đều làm tâm của chúng ta loạn động và bất an. Tâm của chúng ta dù khởi niệm từ bi, hay khởi niệm sân hận, rồi cũng lặng đi, tất cả đều là các tâm niệm sanh diệt. Chỉ có khi nào các tâm niệm sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng mất rồi, không c̣n nữa, chúng ta sẽ được sống trong cảnh giới an lạc hạnh phúc, cảnh giới tịch diệt vi diệu.

- Trong Kinh A-di-đà, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "nhất tâm bất loạn.

- Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người có tâm "bất tùy phân biệt," của người không c̣n tranh chấp thị phi, phải quấy, hơn thua, đúng sai.

- Trong Kinh Tịnh Danh, hay Kinh Duy-ma-cật, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "pháp môn bất nhị," của người không c̣n kẹt trong ṿng đối đăi nhị biên, không c̣n thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.

- Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "thân kim cang bất hoại," của người không c̣n kẹt v́ các h́nh tướng giả tạm bên ngoài, của người đạt được "thực tướng."

- Trong Bát-nhă Tâm Kinh, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm," hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhă và chiếu kiến ngũ uẩn giai không."

- Trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Đức Phật có dạy: "Sanh diệt kư diệt, tịch diệt hiện tiền." Nghĩa là khi nào tâm sanh diệt tiêu mất, không c̣n nữa, th́ cảnh giới tịch diệt, tức là cảnh giới niết bàn hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào mây đen tan mất, th́ trăng sáng hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào phiền năo và khổ đau hết, th́ an lạc và hạnh phúc hiện tiền. Nói một cách khác: "vọng tâm tiêu hết, chân tâm hiện tiền." Thực là đơn giản, dễ hiểu như vậy.

Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, th́ người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.

Cảnh giới này không thể nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để diễn tả trọn vẹn được, ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó, th́ tự người đó biết, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh giới này c̣n gọi là "đạo."

Sách có câu: "đạo bất khả ngôn thuyết." Nghĩa là không thể dùng ngôn ngữ của thế gian này để diễn tả, để chỉ bày, để nói về "đạo." Sách cũng có câu: "ngữ ngôn đạo đoạn." Nghĩa là khi nói lên bằng ngôn ngữ thế gian th́ đă mất "đạo" rồi.

4) Đến đây, Đức Phật chỉ dạy những phương pháp, những pháp môn để đạt được "đạo," tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch diệt đó. Vấn đề hiện giờ là: làm sao để các tâm niệm sanh diệt đó không c̣n khởi lên nữa, hoặc các tâm niệm sanh diệt đó có khởi lên, làm sao cho nó lắng xuống, tiêu mất? Nói cách khác: Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ư này chính là trọng tâm của đạo Phật.

Toàn bộ giáo pháp của đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ như ư túc, tứ chính cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ-đề phần và bát chánh đạo. Chánh Pháp gồm 37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí tuệ, bằng sự quán chiếu, nhận thức được chân lư chứ không phải chỉ bằng niềm tin đơn giản mà thôi.

- "Tứ Niệm Xứ" là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân bất tịnh, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ nhớp, những thứ bất tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói ǵ cũng chấp chặt, th́ tức nhiên là khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng tâm ư con người đổi thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác, chớ có chấp chặt làm chi cho khổ! Quán pháp vô ngă, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự mọi việc trên thế gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ những quan niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời đại nào đó mà thôi, không có thực thể cố định, không đúng với mọi thời gian, không đúng với mọi không gian.

- "Tứ chính cần" là bốn việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ thực hành một cách chân chính. Đối với việc bất thiện đă sinh, phải trừ dứt hẳn, đối với việc bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện chưa sinh, làm cho sinh ra, đối với việc thiện đă sinh, làm cho tăng trưởng.

- "Tứ như ư túc" là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa chúng ta đến chỗ như ư muốn, thành tựu viên măn. Đó là: dục, cần, tâm, quán. Nghĩa là: chúng ta phải có ḷng thiết tha mong muốn, t́m cầu sự giải thoát, chúng ta phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo lư, chúng ta phải khắc chế tâm niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết cách quán chiếu để giác ngộ chân lư, thấu hiểu lẽ thực.

- "Ngũ căn" là năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Đó là: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc nơi Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết mệt mỏi, luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự b́nh thản, tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để suy xét mọi sự mọi việc, không tin tưởng bừa băi, không mê tín dị đoan.

- "Ngũ lực" là năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được. Nghĩa là do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi Chánh Pháp, do tấn lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san bằng những trở ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn ghi nhớ những thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập trung tư tưởng, và do tuệ lực chúng ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.

- "Thất bồ-đề phần," c̣n gọi là "thất giác chi," là bảy phần hiểu biết, bảy điều dẫn đến chỗ giác ngộ. Đó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, niệm, định, xả. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực hư, chơn giả của tất cả các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả các nghiệp bất thiện, thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ là tâm luôn luôn vui vẻ với mọi người, với mọi việc trên thế gian, không phân biệt ǵ cả, để tất cả chúng sanh đều hỷ kiến. Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ các phiền năo, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài ṿng tục lụy của thế gian. Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng sanh, v́ tâm từ bi hỷ xả mà hành tŕ giới luật, làm các việc phước thiện. Định là tâm luôn luôn b́nh thản, không tán loạn, an nhiên, tự tại. Xả là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất cả những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ.

- "Bát chánh đạo" là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính của đạo Phật: giác ngộ và giải thoát. Đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

1) Chánh kiến là sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lư nhân quả, lư nhân duyên, lư duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như thực."

Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy: "Hăy đến với đạo Phật để thấy đúng như thực, chứ không phải chỉ đến để mà tin!"

Thấy "đúng như thực" nghĩa là sao? Nghĩa là:

- Mọi sự việc đều có nguyên nhân. Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên, chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không phải tự nhiên mà có. Khi được b́nh an, sung sướng, chúng ta hiểu là đang hưởng phước. Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là đang đền trả quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả của nhân, do chúng ta gieo trước đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời nào ban phước giáng họa bừa băi cả. Đó là lư nhân quả.

- Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng b́a mà h́nh thành. Đến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lư nhân duyên.

- Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi th́ mới có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự th́ sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lư duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.

2) Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi ḿnh hại người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.

Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy:

- "Không nên tin ngay tất cả những ǵ người xưa nói, tất cả những ǵ người có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những ǵ người bề trên nói, tất cả những ǵ có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.

- Chỉ nên tin những ǵ có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lư, đúng với lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi người."

Bởi vậy, Đức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu." Nghĩa là chúng ta hăy nghe giảng, hăy đọc sách, hăy nghiên tầm, hăy học hỏi, rồi suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chín chắn, thấu đáo, trước khi thực hành, tu tập theo.

3) Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không lợi ḿnh hại người, không thêu dệt, gây hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực, không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được ḷng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.

4) Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi ḿnh hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với ḿnh, chúng ta cũng không có hành động trả đũa, v́ làm như vậy chúng ta đâu có khác ǵ hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, th́ chúng ta đừng làm y như vậy đối với người. Trong Kinh A-hàm, Đức Phật có dạy:

"Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Đồng Phật văng tây phương."

Nghĩa là giữ ǵn ba nghiệp thân khẩu ư chân chánh, thanh tịnh, th́ chúng ta theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.

5) Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ư nghĩa, lợi ḿnh lợi người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào xă hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.

6) Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mỏi, buông lung hay thối tâm. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:

"Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ư.
Thị chư Phật giáo."

Trong kinh sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng mănh, vượt ngoài ư chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế Chí.

7) Chánh niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự đấu tranh, căi vă.

Chư Tổ có dạy:

"Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức."

Nghĩa là con người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong tâm, con người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhă nhặn, hiền ḥa. Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rơ ràng ḿnh đang làm ǵ, đang nói ǵ, đang nghĩ ǵ, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận biết ngay mỗi khi vọng niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và sống theo lời Phật dạy, luôn luôn sống với Chân Tâm Phật Tánh, tức là với Bản Tâm Thanh Tịnh.

8) Chánh định là sự b́nh tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để dẹp trừ ḷng sân hận, mở rộng t́nh thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ ḷng tham ái, do quán lư nhân duyên để dẹp trừ ḷng si mê, ngă chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.

Người có chánh định do giữ ǵn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhă, đưa đến giác ngộ và giải thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ." Ngoài ra, chúng ta cũng đă biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn đến khổ đau, bởi v́ vẫn c̣n kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai thái cực. Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị," giúp chúng ta làm lặng tắt những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không c̣n phiền năo và khổ đau, để được an lạc và hạnh phúc, để được về cơi tây phương cực lạc, để được giác ngộ và giải thoát.

Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, th́ cũng không ích lợi ǵ hiện đời cả. Chư Tổ có dạy:

"Tu mà không học là tu mù.
Học mà không tu là đăy sách."

Nghĩa là muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, th́ làm sao đi đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đă tu mù, không nghiên tầm giáo lư, kinh điển đại thừa, mà c̣n dẫn dắt người khác tu tập, th́ quả là đại họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng thực sư tử nhục. Trái lại, Chánh Pháp để áp dụng, thực hành chứ không phải để nói suông, để thảo luận, để tranh căi. Người chỉ lo học hiểu để thỏa măn kiến thức, mà không lo tu tập, không áp dụng vào đời sống hằng ngày, th́ cũng chỉ có thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví như cái đăy, cái túi đựng sách có giới hạn vậy thôi. Những người đó cũng như những người đếm tiền trong ngân hàng, những người đếm ḅ cho chủ, trọn không có tiền và cũng không có ḅ.

Có câu chuyện giáo lư tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi v́ đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có ǵ khác, không phân biệt được ǵ cả. Người bạn khuyên hăy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lư bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có người đi đụng phải anh. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đă tắt từ lâu rồi!

Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi ṿng trầm luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhă của tất cả mọi người chúng ta vậy.





__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 4 of 80: Đă gửi: 29 January 2006 lúc 5:12am | Đă lưu IP  

NIẾT-BÀN VÀ SỰ CHẤM DỨT LUÂN HỒI

Ở bậc giác ngộ, các tiếp xúc chỉ c̣n là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các phản ứng t́nh cảm và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ vào sự chánh niệm và sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của chúng là . . . Tham ái bị phá vỡ. Chấp thủ không c̣n chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ biệt vĩnh viễn, không nuối tiếc!

Như được ghi chép trong kinh điển Phật giáo, điều kiện để con người và các loài hữu t́nh khác tồn tại là tham ái hay chấp thủ về sự sống (bhava-ta?à). Niết-bàn trái lại là sự chấm dứt các tham ái và chấp thủ đó. Một trong các đặc tính của niết-bàn là chấm dứt toàn bộ ḍng tiếp nối của tái sanh (saịsàra) hay tái hiện hữu (bhavacakka). Nếu đau khổ (dukkha) được tạo nên hay được định nghĩa bằng sự sanh (jàti), già (jarà), chết (mara?ị ), sầu (soka), bi (parideva), khổ (dukkha), ưu (domanassa) và năo (upàyàsa),1 th́ sự chấm dứt của toàn bộ khối đau khổ (anto dukkhassa)2 là niết-bàn. Nói cách khác, niết-bàn là sự diệt tận ḍng chảy của tái hiện hữu (bhavanirodho nibbànaị ),3 hay sự chấm dứt của chuỗi vận hành sanh và tử (jàtimara?ssa antaị ). Theo học thuyết nghiệp và tái sanh, một chúng sanh được sanh ra là do các trói buộc của vô minh (avijjà), tham ái (ta?à) và chấp thủ (upàdàna). Sự chứng đạt niết-bàn trái lại bao gồm sự diệt trừ trọn vẹn các trói buộc này bằng cách phát triển tuyệt đối tuệ giác (vijjà) và trí tuệ (pagagà). Đó là tiến tŕnh chấm dứt luân hồi. Đức Phật và các vị A-la-hán khác đă diễn tả một cách sinh động kinh nghiệm về sự chấm dứt luân hồi bằng các câu Cảm Hứng Ngữ (Udàna): "sanh đă tận, đời sống thánh đă hoàn thành, điều cần làm đă làm, không c̣n phải tái sanh nữa."4

Khái niệm ṿng sanh tử ở đây nên được hiểu dưới góc độ ở tương lai hơn là ở hiện tại. Nghĩa là, đức Phật, đức Như Lai, bậc A-la-hán, bậc giác ngộ, những người đă chứng đạt niết-bàn không thể thoát ḿnh khỏi trạng thái già, bệnh và cuối cùng phải chết. Tiến tŕnh của cái chết được bắt đầu ngay khi con người được sanh ra trong đời, và như là quy luật duyên khởi tương thuộc không thể tránh khỏi, con người không thể vượt qua nó được. Bậc giác ngộ khác chúng ta ở chỗ các ngài không c̣n phải đối đầu với sự sanh, già, bệnh và chết ở tương lai và rồi ở những kiếp sống sau tương lai đó nữa. Nói khác, nếu khát vọng cho sự sống (bhava-ta?à) là một yếu tố của tái sanh th́ sự diệt trừ tận gốc khát vọng đó sẽ giải thoát ta khỏi sự tái hiện hữu trong tương lai. Cần ghi nhận rằng khi biết rơ cái chết là không thể tránh khỏi, mà con người cứ tiếp tục tái sanh như kết quả của khát vọng hiện hữu (bhava-ta?hà), đức Phật và các bậc A-la-hán không phải mất thời giờ lo lắng về cái chết, cũng không cần phải nỗ lực một cách vô ích để xa lánh cái chết. Hơn bao giờ hết, đức Phật đă chỉ ra cho chúng ta con đường vượt thoát khỏi đau khổ bằng cách hành tŕ chánh niệm và tỉnh giác trong từng phút giây của sự sống, tại đây và bây giờ.

Theo Phật giáo, luân hồi có mặt như là hệ quả của luật nghiệp báo. T́nh trạng của đời sống hiện tại của con người tùy thuộc vào hành vi có chủ ư (cetanà) trong cả quá khứ và nhất là hiện tại. Năng lực của hành vi có chủ ư sẽ phân định t́nh trạng của con người trong hiện tại và tương lai. V́ thế, "các chúng sanh là những kẻ phải thừa tự tài sản hành vi của ḿnh."5 Ṿng tái hiện hữu (bhavacakka) được mô tả trong chuỗi duyên khởi (Paỉiccasamuppàda), bao gồm 12 mắc xích bắt đầu từ sự thiếu trí tuệ (avijjà) hành (sa?hàra), thức (vigagàza), tâm-vật-lư (nàma-ràpa), sáu giác quan (salàyatana), tiếp xúc (phassa), cảm thọ (vedanà), tham ái (ta?à), chấp thủ (upàdàna), tái hiện hữu (bhava), sanh (jàti), già và chết (jarà-mara?).6 Cội nguồn của chuỗi vận hành này chỉ có thể bắt đầu bằng tính tương thuộc duyên khởi đa chiều và đa dạng, trong đó, thức phân biệt (vigagàza) là một. Trong đạo Phật, thức phân biệt (vigagàza) tạo nên trạng thái hiện hữu (bhava) trong đời sau, mặc dù đạo Phật không thừa nhận một tác nhân thực thể trong đầu thai, theo nghĩa một chủ thể thường hằng bất biến. Thức như loại thực phẩm (vigagàzahàro, thức thực) được trích dẫn như là nguyên nhân trực tiếp của sự tái hiện hữu mới trong luân hồi ở tương lai.7 Chính ư thức tồn tại này (saịvattanika vigagàza) đă chịu trách nhiệm cho sự tái hiện hữu.8 Hơn nữa, trong tiến tŕnh của tái hiện hữu (bhava), thức (vigagàza) không chỉ hoạt động đơn độc. Nó được sự hỗ trợ song hành của các năng lực vô minh (avijjà), sự chủ ư (kamma/cetanà), tham ái (ta?à) và chấp thủ (upàdàna). Như vậy luân hồi được điều kiện hóa bởi năm yếu tố sau đây, vô minh (avijjà), thức (vigagàza), sự chủ ư (kamma), tham ái (tazhà) và chấp thủ (upàdàna) trong đó các yếu tố 2-4 là quan trọng hơn hết, như đoạn kinh dưới đây mô tả: "nghiệp (kamma) là mảnh đất (khettaị ); thức (vigagàza là hạt giống (b́jaị) và tham ái (tadhà) là độ ẩm (sineho). Do bị vô minh (moha) chi phối, tham ái trói buộc, thức được h́nh thành trong thế giới thấp kém (h́nàya dhàtuyà)."9 Ở đây, nghiệp, thức và tham ái là bộ ba yếu tố chịu tránh nghiệm của tái sanh. Hành vi (kamma) đă tạo tác trở thành năng lực của con người, được thức phân biệt duy tŕ, mang theo và chuyển hóa (vigagàza).10 Để chứng đạt niết-bàn chúng ta không nên vận hành thức trong quỹ đạo của tái hiện hữu (vigagàzaị bhave na tiỉỉdhe).11 Như vậy nhờ vào sự diệt trừ sạch (nirodha) bộ ba yếu tố này, sanh, già và bệnh chết không có mặt trong hiện hữu ở tương lai. Đây là điều được đức Phật tŕnh bày trong đoạn kinh dưới đây:

Chính bản thân ta chịu sanh, già, bệnh, chết, sầu khổ và phiền năo, khi nhận chân được sự nguy hiểm của chúng, ta đă t́m kiếm cái không bị sanh (ajàta), không bị già, (ajara) không bị bệnh (abyàdhiị ), không bị chết (amata), không bị sầu khổ (asokaị), không bị phiền năo (asankiliỉỉdhaị ), sự an tịnh tối thượng vượt thoát khỏi mọi trói buộc -- ta đă chứng đạt niết-bàn. Tuệ nhăn và tuệ tri sau đây đă xuất hiện trong ta; sự giai thoát của tâm trở thành bất động. Đây là đời sống cuối cùng. Ta không c̣n phải tái sanh nữa.12

Nói tóm lại, đối với bậc giác ngộ, người đă chứng đạt niết-bàn chuỗi duyên khởi 12 mắc xích (paỉiccasamuppàda) đă bị chặt đứt từng khúc. Ở đây, vô minh (avijjà) tên trọng năo mặc dù không phải là nguyên nhân đầu tiên đă được chuyển hóa thành trí tuệ hay tuệ giác (vijjà/pagagà), 11 mắc xích c̣n lại đă trở nên bất lực và không thể liên kết với nhau được nữa, như một đầu tàu xe lửa đă tách khỏi đường rây, các toa c̣n lại không sao chạy được. Ở bậc giác ngộ bây giờ các tiếp xúc (phassa) chỉ c̣n là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các phản ứng cảm xúc và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ vào sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của chúng (yonisa manasikàra, như lư tác ư) và sự chánh niệm (sati). Các cảm giác (vedanà) theo sau đó cũng được chuyển hóa. Tham ái (tadhà) bị phá vỡ. Chấp thủ (upàdàna) không c̣n chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ biệt vĩnh viễn không nuối tiếc!



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 5 of 80: Đă gửi: 29 January 2006 lúc 5:15am | Đă lưu IP  

QUẢ VỊ GIÁC NGỘ DƯỚI CỘI BỒ-ĐỀ

Nhân loại đă bước qua thiên niên kỷ thứ ba của Tây lịch. Nhưng từ đó đến nay, quả vị giác ngộ của Phật vẫn luôn luôn là thách thức lớn nhất đối với nhân loại – không phải v́ quả vị ấy huyền bí, siêu h́nh hay không thực tế, mà v́ mảnh đất thực tiễn của tâm ấy ít ai thử bước vào, thử nếm, thử trải. Do đó sự giác ngộ của Phật măi mầu nhiệm trong ta.

I. TỔNG LUẬN

Giác ngộ và giải thoát là cứu cánh của Phật giáo. Không có giác ngộ th́ toàn bộ lâu đài kinh điển Phật giáo chỉ được xây dựng trên những khái niệm trừu tượng của ư thức rỗng suông.

Nhan nhăn trong các kinh luận Phật giáo nói đến thí dụ: Nước biển chỉ có một vị, đó là vị mặn; Đạo Phật cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Vâng ! Không có giác ngộ giải thoát th́ không có đạo Phật. V́ vậy, giây phút giác ngộ của Phật là giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Ngài. Danh từ Phật không có nghĩa nào khác ngoài ư nghĩa "Người giác ngộ." 1 Trong kinh điển Đại thừa cho rằng Phật thành đạo ở ṭa kim cang bằng cỏ cát tường dưới cội Bồ-đề chỉ là tướng Ứng thân thành Phật; c̣n Báo thân Phật th́ thành đạo ở Ma-hê-thủ-la Trí Xứ thuộc Sắc Cứu Cánh thiên. Phẩm Như Lai Thọ Lượng trong Kinh Pháp Hoa nói: "Ta thành Phật đến nay lâu không thể kể được, tuổi thọ của ta dài đến vô lượng vô biên kiếp số. Ta vốn thường c̣n chẳng mất." Tư tưởng Bản địa thùy tích này của Bổn môn Kinh Pháp Hoa vốn xóa sạch khái niệm chấp trước về thời gian và không gian trong cách học giải của hàng phàm phu chúng ta. Nhưng dù chỉ là sự thị hiện, thuyết Bát tướng thành đạo 2 vẫn được tŕnh bày một cách khúc chiết, rơ ràng, mô tả một cách thứ lớp quá tŕnh giác ngộ của Phật dưới cội Bồ-đề.

Như vậy giác ngộ là ǵ? Sự bừng sáng của tâm thức hay là tiến tŕnh biện chứng của tâm linh ? Giác ngộ có phải là điểm rốt cùng của một chuỗi nhân quả trùng điệp, như cách tŕnh bày pháp Thập nhị nhân duyên: … dứt Ái th́ dứt Thủ, dứt Thủ là dứt Hữu, dứt Hữu là dứt Sanh, dứt Sanh là dứt Lăo tử, dứt Lăo tử th́ dứt Vô minh … ? Giác ngộ có phải là tiến tŕnh tư duy Tứ diệu đế Khổ Tập Diệt Đạo? Hăy nghe Đức Phật đáp cho một tín đồ ngoại đạo:

"Ta đă gội sạch hết ô trược (asava). Ta đă giải thoát tâm (ceto vimutti) và trí (panna vimutti); tại đây, trong thế giới hữu h́nh, ta đă tự ḿnh tỏ rơ, đến đích, và làm chủ chánh pháp; ta đă ngộ nhập trong pháp, đă giải hết ngờ vực, đă gạt bỏ hết điên đảo, đă trọn đầy tín lực, ta ứng dụng vào thế gian, đă làm những ǵ phải làm, đă chặt đứt mối dây trói buộc vào ṿng tái sanh, ta đă ngộ các pháp như thực vậy."3

Đoạn văn trên đă tŕnh bày tương đối đầy đủ nội dung giác ngộ của Phật. Nhưng cũng chính v́ cách hiểu có vẻ "giáo môn" này dễ làm cho ta hiểu lầm nội dung của sự giác ngộ. Cách mô tả này dễ làm cho trí thức hiếu biện của ta nắm lấy và đặt thành đề tài suy tư, và như thế chúng ta chẳng c̣n nắm bắt được ǵ khi ta tưởng ta đă hiểu tất cả. Thực ra, Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên cho đến Bát chánh đạo đều không phải nội dung của giác ngộ. Chân lư bùng vỡ trong tâm Phật không phải là kết quả của một sự tư duy bằng lư trí. Nếu không nhảy ngay vào mảnh đất cụ thể của cuộc sống, thể nghiệm đời sống tâm linh bằng chính trực giác, th́ chúng ta măi đắm ch́m trong ṿng lư luận mà thôi !

Trong Kinh Pháp Cú, bản Hán dịch, câu 153-154, ta được đọc một bài kệ rất dơng dạc chuyển tải nội dung giác ngộ của Phật. Giác ngộ không ǵ hơn là t́m ra người chủ ngôi nhà (ốc xá giả), tức những hành động tạo tác của tâm thức, tâm tư duy, tư tưởng. Tóm lại giác ngộ là chỉ ra được bản mặt của Hành uẩn (sankhara), kẻ chủ lực của Vô minh. Các học giả ngày nay thường xem bài kệ này là khúc Khải hoàn ca, khúc Thánh hùng ca tối thắng:

"Trong ṿng sống chết vô biên
Đến đi qua lại không giềng mối ra
Đuổi theo người chủ ngôi nhà
Bào thai tăm tối vào ra măi hoài
Chủ nhà ta biết ngươi rồi !
Từ đây người chẳng c̣n nơi làm nhà
Cột kèo găy đổ rời ra
Mái sườn ră nát trính đà mục hư
Tâm ĺa hết mọi hành tư
Bao nhiêu trong ấy bây chừ sạch trơn" 4


Giác ngộ là một cái ǵ tối hậu, tuyệt trù, chỉ có người giác ngộ mới hiểu hết chiều sâu của nó. Có lẽ Thiền tông Trung Quốc ra đời là nhằm hướng hành giả tự ḿnh thể nghiệm chính điều này. Nếu không v́ mục đích tối hậu ấy, Thiền tông Trung Quốc chỉ là những giai thoại phi lư của những đầu óc thực dụng mà thôi.

Tuy nhiên, kinh điển Phật giáo là những kinh nghiệm mà Phật đă giảng nói nhằm dắt dẫn chúng ta đến ṭa lâu đài giác ngộ. Đêm giác ngộ dưới cội Bồ-đề đă được các kinh tŕnh bày rất thứ lớp. Nếu không được luận giải, thứ lớp ấy sẽ được hiểu một cách máy móc, đầy tính tư biện và dễ phương hại đến sự thực tập của các hành giả trong quá tŕnh Thiền quán. V́ thế, người viết xin tŕnh bày tư duy của ḿnh qua những kinh luận đă được đọc trong Đại Tạng Kinh.

II. THỨ LỚP CỦA QUẢ VỊ GIÁC NGỘ DƯỚI CỘI BỒ-ĐỀ

Sau 6 năm khổ hạnh, nhận bát sữa của mục nữ Sujata cúng dường, đến tắm bên ḍng sông Nairan?anà, rồi ngồi nhập định dưới cội cây Pipàla giữa khu rừng Uruvelà thơ mộng, các kinh điển đă mô tả h́nh ảnh Đức Thế Tôn đơn sơ mà đầy ư vị, giúp ta dễ cảm nhận h́nh ảnh của Ngài bằng xương bằng thịt hơn là một mớ tư tưởng trừu tượng siêu h́nh của tâm thức Ấn Độ.

Trong Thích Ca Phổ quyển 4 (Đại Chánh Tạng tập 50, trang 34, hạ) ghi:

"Lúc bấy giờ Bồ-tát vận dụng Từ tâm, vào ngày mùng 7 tháng 2, khi đêm xuống, hàng phục các ma rồi, phóng đại quang minh, Ngài liền nhập định tư duy chân đế. Trong các pháp Thiền định tự tại, Ngài biết rơ hết tất cả các pháp đă tạo trong quá khứ, từ pháp này sanh ra pháp khác, phụ mẫu quyến thuộc, bần phú quư tiện, thọ mạng dài ngắn, danh tánh văn tự …, tất cả đều biết rơ ràng. Ngài liền đối với chúng sanh khởi đại từ tâm mà tự nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh không có người cứu độ, luân hồi trong Ngũ thú không biết đâu bờ bến xuất ly, hết thảy đều hư ngụy, không có ǵ chân thật, rồi ở trong đó hoành sanh khổ lạc. Tư duy như vậy đến tận nửa đêm. Kinh Thụy Ứng Bản Khởi nói rằng: Đầu đêm hôm ấy đắc Nhất thuật-xà. 5 Tự biết túc mạng từ vô số kiếp đến nay xoay vần thọ thân không thể đếm hết. Đến canh hai đắc Nhị thuật-xà, biết rơ hết mọi ư niệm trong tâm chúng sanh, pháp thiện, pháp ác, tai ương phước báo, sanh từ nơi đâu, chết đi về đâu … Đến cuối đêm đắc Tam thuật-xà, các lậu đă tận, trói mở tự biết, sạch hết các tập khí đă tạo tác từ xa xưa…"

Tóm lại, trong đêm hôm ấy, Đức Phật chứng được Tam minh:

1. Túc mạng trí chứng minh (Phạn: Pùrva- nivàsànusmr?i-jn?#224;na-s?#224;ksàt-kriya-vidyà), c̣n gọi Túc trụ tùy niệm trí chứng minh, Túc trụ trí chứng minh, Túc trụ trí minh, Túc mạng minh, Túc mạng trí.

2. Sanh tử trí chứng minh (Phạn: Cyuty-upapatti-jn?#224;na-sàks?#224;t-kriya-vidyà), c̣n gọi Tử sanh trí chứng minh, Thiên nhăn minh, Thiên nhăn trí.

3. Lậu tận trí chứng minh (Phạn: Àsrava-ks?ya-jn?#224;na- sàks?#224;t-kriya-vidyà), c̣n gọi Lậu tận trí minh, Lậu tận minh, Lậu tận trí.

Trên đây là những danh từ quá nhiều nghĩa, quá hàm súc mà Việt ngữ chúng ta không thể nào t́m ra từ ngữ tương ưng. Minh là sự thấy biết, sự bừng sáng như ánh mặt trời. Dưới ánh mặt trời trí tuệ, không có một bóng đêm vô minh nào không bị xua tan. Đức Phật thấy biết những ǵ trong lần bừng sáng thứ nhất này? Kinh Tạp A Hàm quyển 31 (Đại Chánh Tạng tập 2, trang 223, trung) ghi:

"… biết rơ tất cả việc trong quá khứ, từ một đời đến trăm ngàn vạn ức đời, cho đến kiếp số thành hoại, tất cả túc mạng của ḿnh và chúng sanh, tên tuổi là ǵ, đời sống như thế nào, tánh t́nh ra sao, ăn uống thế nào, vui khổ thế nào, sống lâu bao nhiêu, trụ lại bao nhiêu, ở đâu, sanh ra, chết đi ở cơi này và sanh về cơi khác, chết ở cơi khác sanh ở cơi này, có các hành động như thế, nhân như thế, tín tâm như thế, nói chung tất cả túc mạng đều biết rơ ràng. Đó gọi là Túc mạng trí chứng minh."

Như vậy, sau 49 ngày nhập định, đến đầu đêm mồng 8 tháng 2, Đức Phật thấy biết rơ quá khứ của ḿnh và chúng sanh. Quá khứ ở đây được tŕnh bày như một thực tại sinh động chứ không phải là một sự hiểu biết trừu tượng. Đức Phật thấy biết quá khứ như chính Ngài đang sống trong đó, nh́n ngắm quá khứ như tự thấy thân ḿnh cũng vui buồn, đau khổ hoặc hạnh phúc trong ấy. Tôi thiển nghĩ cái minh của Đức Phật ở đây mà giống như chúng ta đang coi lại một cuốn phim của quá khứ th́ cái đó không thể gọi là giác ngộ. Đức Phật không chiêm nghiệm đời sống bằng thứ tư duy h́nh ảnh. Ngài thấy được quá khứ sau khi đă hàng phục các ma. Tướng Hàng ma là một trong Bát tướng thành đạo từ Đâu-suất giáng thần đến Ta-la song thọ thị hiện Niết-bàn. Quá tŕnh thời gian dài như vậy mà việc hàng ma chỉ xảy ra trong một thời gian rất ngắn, nhưng vẫn được lập thành 1 tướng trong 8 tướng, hẳn phải có một vị trí quan trọng như thế nào trong quá tŕnh thị hiện của Phật. Rơ ràng, cái thấy ở đây là sự bừng hiện của tâm quang chứ không phải lần lượt lê thê diễn ra trước mắt Ngài như một cuốn phim. Các nhà Đại thừa rất sáng tạo khi gom hết bao nhiêu h́nh ảnh kể trên vào đầu một sợi lông xíu và trong một sát-na. Cảnh giới ấy ta có thể gọi là Bất tư ngh́?

Sao gọi là Sanh tử trí chứng minh ?

"… biết rơ như thật các chúng sanh khi sống khi chết, các sắc đẹp xấu, cao thấp, sanh vào ác thú, tùy nghiệp thọ sanh … Các chúng sanh ấy là do ác nghiệp của thân thành tựu, do ác hạnh của ư thành tựu, do hủy báng Thánh nhân, tà kiến mà thọ tà pháp, thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục ác thú. Các hạnh thiện thân, khẩu, ư của các chúng sanh ấy không hủy báng Thánh nhân, thành tựu chánh kiến, thân hoại mạng chung sanh trong cơi lành trời người. Đó gọi là Sanh tử trí chứng minh." (Kinh Tạp A Hàm quyển 31, Đại Chánh Tạng tập 2, trang 223, trung).

Đọc qua đoạn văn trên, ta thấy dường như cái minh thứ hai này chẳng khác ǵ cái minh thứ nhất. Nghĩa là vẫn thấy biết hết tướng trạng chúng sanh trong các cơi, nhưng cái thấy ở đây là cái thấy bằng Thiên nhăn, đặc biệt là do cái ǵ thọ sanh ác nghiệp, do cái ǵ mà hưởng quả lành. Tức biết rơ nguyên nhân cũng như kết quả của các hành nghiệp sẽ thọ hưởng trong vị lai. Một cái th́ thấy biết quá khứ, một cái th́ hiểu rơ vị lai, thắng dụng mỗi cái khác nhau, nhưng sở đắc gần như tương đồng. Túc trụ tùy niệm trí chứng minh th́ tùy theo niệm mà biết được túc mạng. Như nghĩ về 100 kiếp trước th́ thấy 100 kiếp trước, nghĩ về loài nào th́ thấy loài ấy, cái thấy c̣n bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian. C̣n Sanh tử trí chứng minh th́ thấy ngay ba đời trong một niệm. Cho nên Luận Đại Tỳ-bà-sa nói: "Đệ tứ thông (chỉ Túc mạng minh) năng trừ Thường kiến; Đệ ngũ thông (chỉ Thiên nhăn minh) năng trừ Đoạn kiến." Thường và Đoạn ở đây không phải là cái chấp thô của Tiểu thừa. Những tập khí vi tế từ vô lượng sanh tử trong một phút giây giác ngộ liền đoạn sạch. Nhưng cả hai Minh này đều chưa phải là Trung đạo Đệ nhất nghĩa. Bao nhiêu công quả tu hành của Phật không phải chỉ để được hai thứ này, dù đó là quả vị cao tột. Các nhà Thiên Thai đă tŕnh bày quá tŕnh đoạn Hoặc chứng Chơn của Bồ-tát theo thứ lớp, diệt trừ hai hoặc Kiến Tư, diệt trừ Trần sa hoặc và Vô minh hoặc bằng sự tư duy Thiền định, nên đă giả thi thiết hai pháp Minh này để hành giả có cơ sở tiệm đoạn. Cái mà gọi là trí tuệ lậu tận phải đợi đến lúc sao Mai vừa mọc:

"… biết rơ như thật Khổ, Khổ tập, Khổ diệt và con đường diệt Khổ. Biết rơ như thật tri kiến, Dục hữu lậu tâm giải thoát, Hữu hữu lậu tâm giải thoát, Vô minh lậu tâm giải thoát, giải thoát tri kiến, sự sanh đă tận, phạm hạnh đă lập, những việc cần làm đă làm, tự tri không c̣n thọ thân sau nữa. Đó gọi là Lậu tận trí chứng minh." (Kinh Tạp A-hàm quyển 31, Đại Chánh Tạng tập 2, trang 223, trung).

Khi sao Mai vừa mọc, ánh sáng từ sao Mai tỏa chiếu đến giọt sương ở rừng Uruvelà như không có thời gian, không gian ở đây cũng chỉ là một. Huệ tâm vừa bừng chiếu trong Đức Thế Tôn cũng như nút ấn của cổ máy huyền vi vừa được ấn vào, ánh sáng ngập tràn thiên địa, thụ cùng tứ tế, hoành biến thập phương. Trong giây phút đáng nhớ ấy, Đức Thế Tôn đă vẫy tay chào sanh tử với nụ cười tuyệt vời của một trang giác ngộ. Thế giới này là thế giới của tự tri, ngôn ngữ không có chỗ đứng, lư trí bị thiêu hủy toàn triệt, nhị nguyên bị xóa sạch khoảng cách, an trụ tự tại ở Trung đạo. Phật đă chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, Minh Hạnh Cụ Túc viên măn.

III. LUẬN VỀ TAM MINH VÀ LỤC THÔNG

Chúng ta thường nghe nói về Lục thông (Phạn: S?d?abhijn?#224;h) như quả vị chứng đắc cao tột của A-la-hán, tức chỉ cho sáu thứ năng lực tự do vô ngại và siêu vượt khả năng của thế gian. Lục thông gồm:

1. Thần cảnh thông (C̣n gọi Thần cảnh trí chứng thông, Thân thông, Thân như ư thông, Thần túc thông): Chỉ cho năng lực tùy theo ḷng muốn mà hiện thân vô ngại.

2. Thiên nhĩ thông (C̣n gọi Thiên nhĩ trí chứng thông): Có thể nghe được mọi ngôn ngữ buồn vui khổ lạc của chúng sanh trong Lục đạo và mọi âm thanh của thế gian.

3. Tha tâm thông (C̣n gọi Tha tâm trí chứng thông): Biết rơ mọi suy nghĩ trong tâm của chúng sanh trong Lục đạo.

4. Túc mạng thông (C̣n gọi Túc trụ tùy niệm trí chứng thông ): Có thể biết rơ sở tác và túc mạng của tự thân và chúng sanh trong Lục đạo trăm ngàn vạn đời.

5. Thiên nhăn thông (C̣n gọi Tử sanh trí chứng thông): Thấy biết tất cả các tướng sanh tử khổ lạc của chúng sanh trong Lục đạo và thấy các loại h́nh sắc của thế gian không hề chướng ngại.

6. Lậu tận thông (C̣n gọi Lậu tận trí chứng thông): Đoạn hết hai hoặc Kiến và Tư trong Tam giới, không thọ sanh tử trong ba cơi, được thần thông vô lậu.

Lục thông là sở đắc của các bậc A-la-hán, Bích-chi Phật. Trong 6 thông, 3 thứ thần thông sau có tên gọi giống với 3 Minh. Vậy sở đắc của A-la-hán bằng Phật ? V́ sao trong Lục thông chỉ lập Tam minh ?

Theo Luận Đại Trí Độ quyển 2, hiểu biết túc mạng trong quá khứ gọi là Thông; biết rơ nhân duyên hành nghiệp của quá khứ gọi là Minh. Biết rơ chết ở chỗ này sanh ở chỗ khác, đó gọi là Thông; biết rơ mọi hành nghiệp, nhân duyên, thời gian, pháp hội … không quên mất, đó gọi là Minh. Đoạn hết kiết sử mà không biết nó có sanh lại hay không, đó gọi là Thông; nếu biết các lậu đă tận, lại không thể sanh khởi trở lại, đó là Minh. Tam minh là chỗ chứng đắc của bậc Đại A-la-hán và Đại Bích-chi Phật.

Các bậc Đại A-la-hán và Đại Bích-chi Phật đă chứng đắc Tam minh như là một quả vị cao tột, nhưng không thể gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vẫn c̣n một khoảng cách dù khoảng cách ấy có thể thu lại chỉ trong một niệm. Một niệm mà không xảy ra như sự hy hữu của hoa Linh Thoại th́ măi măi Phật vẫn là bậc tối thắng trong các vị A-la-hán. Giống như một ly nước đă đầy, chỉ cần một giọt nữa nhỏ vào là ly nước sẽ tràn. Cái giọt huệ lung linh đó sẽ làm tràn ngập Tam thiên Đại thiên thế giới với bao kiết sử từ vô lượng kiếp ră tan như bóng bọt. Túc mạng trí của các bậc A-la-hán, Bích-chi Phật, dù biết rơ tự thân và tha nhân nhưng không thể biết cùng khắp. A-la-hán biết một đời hay hai đời, ba đời, mười đời cho đến trăm ngàn vạn kiếp, tám vạn kiếp quá khứ, nhưng cũng không phải là Biến Tri, nên Luận Đại Trí Độ gọi đó là Bất măn (chưa đầy). Thiên nhăn minh biết rơ đời vị lai cũng như vậy. C̣n Phật th́ giác biết hết tất cả các kiết sử sở đoạn trong một niệm Sanh, Trụ và Diệt, tức các kiết sử phân minh, khi trụ như vậy, khi diệt như vậy, Khổ pháp nhẫn và Khổ pháp trí nhẫn như vậy … các kiết sử, các pháp hữu vi, vô vi …, "các Thanh văn và Bích-chi Phật không thể thấy biết; c̣n Phật th́ chỉ trong một chớp mắt mà có thể biết nhân duyên của chúng sanh trong quá khứ, vị lai hiện tại cũng như thế, do đó mà gọi Phật là bậc Minh Hạnh Cụ Túc" (Đại Chánh Tạng quyển 25, trang 71, hạ).

Trong 6 thứ thần thông của quả vị Thanh văn, đă có đến 3 cái sau được gọi là Minh, dù "không đầy" như Phật. Chúng ta rất dễ lầm lẫn nếu không được các kinh luận giải thích tỉ mỉ. Ba thứ thần thông trước (Thần cảnh, Thiên nhĩ và Tha tâm) sao không gọi là Minh ? Nó kém hơn ba thứ thần thông sau như thế nào ?

Theo Luận Đại Tỳ-bà-sa quyển 102, Thần cảnh trí chứng thông chỉ là sự vận hành khéo léo; Thiên nhĩ trí chứng thông chỉ thủ đắc về thanh; Tha tâm trí chứng thông chỉ thủ đắc tự tướng. Cả ba loại này không có thắng dụng nên không gọi là Minh. Theo Tập Dị Môn Túc Luận quyển 3, Thông ở đây nghĩa là có diệu trí đối với các thần cảnh, các âm thanh và các tha tâm. Như thật biết có tham sân si th́ ĺa tham sân si. Các kiết sử từ vô lượng kiếp được đoạn trừ một khi hành giả thấy biết chúng một cách như thật. Quá tŕnh thực hành Tứ diệu đế giúp hành giả đoạn Hoặc chứng Chơn một cách rốt ráo. Về mặt Nhận thức luận, ta thấy vẫn c̣n có cái ǵ đó như một thứ đối trị, một lần giũ hết sạch nhưng chưa tận hưởng được sự tự do vô ngại của người rồi việc. Hẳn ta không có quyền đem kiến giải Thiền Đông Độ để làm phép so sánh ở đây. Các kinh luận tŕnh bày sự chứng ngộ Lục thông là việc yểm ly đối với sanh tử phiền năo. Dù tinh thần tự do tự tại của các Thiền sư có tuyệt diệu đến đâu đi nữa vẫn không thể đem so sánh với quả vị giác ngộ của Phật.

Túc trụ tùy niệm trí chứng thông thấy biết việc quá khứ, sanh tâm yểm ly sâu sắc. Tử sanh trí chứng thông thấy biết việc vị lai, sanh tâm yểm ly sâu sắc. Lậu tận trí chứng thông đă yểm ly rồi c̣n hân lạc Niết-bàn, do đó có thể tùy thuận xả ly sanh tử, cho đến có thể thú hướng Niết-bàn cứu cánh. Đây là chỗ hơn hẳn so với 3 thứ thần thông trước. Các tài liệu gần đây do không phân biệt chỗ thắng dụng hơn kém của 6 thứ thần thông này, nên thường tŕnh bày Lục thông theo một thứ tự khác: Thiên nhăn, Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc mạng, Thần túc rồi đến Lậu tận. Có thuyết lại xếp Thần túc, Thiên nhăn, Thiên nhĩ rồi đến Tha tâm, Túc mạng và Lậu tận. Trong Kinh Vu-lan-bồn, ta biết ngài Mục-kiền-liên đă chứng Lục thông, nên ta vẫn thường thắc mắc v́ sao Lục thông hiển đạt như thế mà Mục-liên vẫn không làm chủ được ḿnh khi đứng trước nỗi xót xa thấy mẹ khổ đau trong địa ngục. Khi được Phật chỉ dạy phải nhờ thần lực của mười phương tăng chú nguyện vào bữa cơm ngày Tự tứ th́ mới cứu mẹ thoát khỏi khổ đau. Thần lực ở đây chính là Định lực. Dù thần thông hiển đạt mà chưa thực hành thâm hậu Tam giải thoát môn, c̣n chút Vô minh hoặc dính mắc ở đoạn thường th́ chưa phải quả vị rốt ráo. Đây cũng là điểm khác biệt giữa Thông và Minh.

A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa Luận quyển 102 (Đại Chánh Tạng tập 27, trang 529, hạ) ghi:

"Đệ tứ thông năng trừ Thường kiến; Đệ ngũ thông năng trừ Đoạn kiến; Đệ lục thông đă ĺa Nhị biên, an trụ Trung đạo, do đó mà có lực dụng thù thắng hơn so với ba thông trước. Lại nữa, Đệ tứ thông năng dẫn Không giải thoát môn; Đệ ngũ thông năng dẫn Vô nguyện giải thoát môn; Đệ lục thông năng dẫn Vô tướng giải thoát môn (…). Do những nhân duyên ấy mà trong Lục thông riêng lập Tam minh."

Như vậy hàng Nhị thừa Thanh văn Duyên giác ngoài Lục thông vẫn có thể chứng được Tam minh, dù Tam minh ấy không viên măn như Phật. A-la-hán là quả vị cao tột của Thanh văn, có thể nhập vào Hữu dư và Vô dư y Niết-bàn. Phật th́ thường hằng trong Tánh tịnh Niết-bàn, nhờ vậy không cần khởi niệm mà vẫn tự tri cùng khắp. Thân Phật là Pháp thân, Pháp thân ấy châu biến hàm dung, nhậm vận tự tại. Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận quyển 6 (Đại Chánh Tạng tập 28, trang 920, thượng) ghi: "Thanh văn Duyên giác tùy theo chỗ muốn mà khởi từ tiền thân cho đến thân rốt sau. Chỉ có Như Lai là tùy ư tự tại, hoặc trước hoặc sau, tùy theo chỗ thấy nghe mà ghi nhớ hết thảy."

Riêng đối với Tam minh mà Đức Phật chứng đắc dưới cội Bồ-đề sau 49 ngày nhập định vẫn có sự hơn kém khác nhau. Ta vẫn thường nghe đầu đêm chứng cái này, nửa đêm chứng cái kia … Rơ ràng trong tâm thức ta vẫn thấy cái sau phải hơn cái trước. Thực tế, sự giác ngộ của Phật là sự bùng vỡ của tâm thức chứ không phải một quá tŕnh tư duy biện chứng các pháp. Đức Phật khi nhập định có thể đi từ Định này sang Định khác, từ Hữu sắc đến Vô sắc … Các kinh điển Nikàya đă tŕnh bày tŕnh tự này theo hai hướng Lưu chuyển và Hoàn diệt, nhất là trước khi Ngài nhập Niết-bàn. Tŕnh bày như vậy là tŕnh bày theo thứ tự, do kiến giải pháp chấp của chúng ta thủ đắc Tứ thiền Bát định như những cảnh giới có biên tế, nên sự diễn đạt này giúp chúng ta dễ hiểu hơn cảnh giới tam-muội siêu tuyệt của Phật. Như nói Túc trụ tùy niệm trí chứng minh thông đạt, hiểu rơ quá khứ (tiền tế); Tử sanh trí chứng minh thông đạt, hiểu rơ vị lai (hậu tế); c̣n Lậu tận trí chứng minh th́ thông đạt và liễu giải tánh Niết-bàn. Hiểu quá khứ và vị lai để làm ǵ khi không thường trực trong Niết-bàn tự tánh ? Cho nên chính yếu là cái Minh thứ ba này. Ba thứ này chỉ xảy ra trong một niệm, c̣n nếu nó xảy ra trong những thời gian khác nhau th́ sự hơn kém chắc chắn phải có. Vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau. Ở đây, chúng ta vẫn c̣n kẹt trong khái niệm pháp số. Nếu chứng được Lậu tận minh th́ hai Minh trước có c̣n dùng nữa không ? Hay sẽ biến mất, nhập làm một với cái Minh thứ ba ? Cái Minh thứ ba vẫn có đầy đủ thắng dụng, có thể thay thế cả hai Minh trước, thế th́ lập hai Minh trước để làm ǵ ? Trong Luận Đại Tỳ-bà-sa đă giải thích rất rơ điểm này. Quá khứ và vị lai cũng đều nằm trong nhất niệm, cho nên dù thông đạt tiền tế hay hậu tế đều gọi là Minh. Luận về quá khứ th́ nói Túc trụ tùy niệm, luận về vị lai th́ nói Tử sanh trí chứng. Khi hiểu được điểm này th́ chúng ta dễ dàng làm quen với những phương tiện thi thiết trong kinh điển Đại thừa mà không bị kẹt ở nhị biên. Đại Chánh Tạng tập 27, trang 529, hạ ghi: "Hai cái Minh trước có một ít phần Minh tướng nên giả gọi là Minh. Nghĩa là đối lại với phiền năo, không xen tạp phiền năo, thuận với Thắng nghĩa minh, có thể đưa đến Vô lậu nên gọi là Minh. V́ thế Tôn giả Diệu Âm nói: Trong Tam minh chỉ có Lậu tận trí mới là Thắng nghĩa minh, hai loại kia có thể đưa đến Thắng nghĩa minh nên giả gọi là Minh (A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa Luận quyển 102).

Chúng ta đă khảo sát Lục thông và Tam minh của hàng Nhị thừa Thanh văn Duyên giác và của Phật theo thứ lớp. Tuy không khúc chiết và kỹ lưỡng như trong kinh luận, nhưng cũng phần nào giúp ta phân biệt được sự đồng dị giữa hai vấn đề. Trong Luận Câu-xá của ngài Thế Thân, vấn đề chứng đắc của Phật được đề cập rất rơ ràng, nhưng do sự chia chẻ có tính thiên nặng về hành tướng, khó khái quát trong phạm vi bài viết này, nên người viết tạm gát lại. Trong phần sau, nếu cần thiết chúng tôi sẽ đề cập đến hành tướng của Lục thông và Tam minh qua tư tưởng của Luận Câu-xá.

Có một điều tưởng cũng cần lưu ư, rằng những luận chứng trong bài này hầu hết được trích dẫn từ các kinh luận của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ chứ không phải từ những kinh điển của hệ Phát triển. Điều này cho thấy thuyết Lục thông và Tam minh đă hoàn bị từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ. Và hẳn nhiên đến kinh điển Phát triển, những cái mốc về thời gian và không gian sẽ được tŕnh bày một cách sáng tạo hơn giúp cho ta dễ cảm nhận sự chứng đắc của Phật như một cái ǵ đó duy nhất và toàn diện. Đó cũng là lư do để người viết tŕnh bày tiếp phần sau.

IV. VÔ MINH VÀ GIÁC NGỘ

Trong các kinh điển thuộc hệ thống A-hàm như Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, Kinh Tu Hành Bản Khởi v.v…, khi vừa thành đạo, Đức Thế Tôn toan nhập Niết-bàn, v́ Ngài cho rằng những điều Ngài vừa chứng được thâm diệu, khó hiểu quá, chỉ có Phật mới hiểu được những ǵ trong tâm một vị Phật khác, c̣n chúng sanh căn tánh ám độn, dầu Phật có chuyển pháp luân chắc chắn chúng cũng không thể nào hiểu được, rồi c̣n đâm ra phỉ báng, dấn sâu vào ác đạo và chịu khổ đau.

Theo các nhà Phật học Pàli và văn học A-hàm, những ǵ chánh thống do Đức Phật dạy đều tóm lược trong Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo, Vô ngă và Niết-bàn. Chúng ta có bao giờ dám nghĩ rằng giáo lư Nguyên thủy e quá đơn giản không ? Làm sao chỉ bằng những khái niệm mang tính giáo điều như thế có thể hứa hẹn xây dựng ngôi nhà Phật giáo lớn lao như hôm nay với đầy đủ Tiểu thừa, Đại thừa, kể cả 10 hay 13 tông phái của Trung Quốc, Nhật Bản ? Phật giáo hiện nay đă hoằng hóa khắp thế giới, lẽ hiển nhiên là nhờ sự đóng góp lớn lao của Đại thừa Phật giáo. Ngoại trừ các vị Thánh đệ tử của Phật - những người trực tiếp rút tỉa được tinh hoa của giáo lư Phật bằng chính nguồn tâm lực vận chuyển trong họ. C̣n chúng ta, chúng ta phải phóng nhăn quang đến tận cùng chỗ áo diệu của lời nói nếu muốn hiểu giáo lư của Ngài rốt ráo hơn.

Biện giải như vậy để thấy rằng chúng ta đă dễ dàng chấp nhận quả vị tu chứng của Phật một cách máy móc, phiến diện. Trong Luận Đại Thừa Khởi Tín của Mă Minh, Ngài tŕnh bày Vô minh là "một niệm bất giác" khởi lên. Chỉ v́ một niệm bất giác khởi lên mà chúng sanh phải bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi triền miên số kiếp. Ở đây chúng ta cần thấy rằng, nếu Vô minh chỉ là một niệm bất giác th́ sự giác ngộ chính là một dấu chấm hết đối với vô minh. Dấu chấm hết đó cũng phải xảy ra trong một niệm. Không có chuyện gần chứng, chứng sơ sơ, chứng từ từ, bởi v́ không có vô minh từ từ. Đây có lẽ là vấn đề then chốt của thuyết Đốn ngộ trong Đại thừa giáo, đặc biệt là Thiền tông.

Ngay cả vấn đề thần thông mà Phật và các Thánh đệ tử của Ngài chứng được, không phải chứng được cái này trước, cái kia sau. Thắng dụng th́ có khác nhau, nhưng không có thứ lớp sâu cạn, tùy theo chỗ muốn mà thần thông hiển hiện. Phật th́ cùng một lúc có thể vận dụng Lục thông một cách tự tại, c̣n hàng Thanh văn tùy niệm mà thành. Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận quyển 6 có đoạn viết: "Như ở Dục giới khởi thần thông, nhưng ở Sắc giới th́ khác. Người tu hành nghe nói Sắc giới thiên mà không thấy, v́ muốn thấy nên mới khởi Thiên nhăn. Thiên nhăn thấy nhưng không thể đến được nên mới khởi thần túc. Thần túc đến được nhưng không thể nghe nói được nên khởi Thiên nhĩ. Thiên nhĩ tuy nghe nhưng không biết tâm của chúng sanh ở đó trụ như thế nào nên khởi Tha tâm trí. Biết được Tha tâm nhưng không tự biết nó từ trước do đâu mà đến nên khởi Túc mạng trí. Như vậy thần thông không có sự chứng đắc theo thứ lớp, cũng không có sự chứng đắc siêu việt (không theo thứ lớp), không có sự chứng đắc theo chiều thuận hay chiều nghịch. Nên biết thần thông là thuộc về Giải thoát đạo chứ không phải thuộc về Vô ngại đạo" (Đại Chánh Tạng tập 28, trang 921, thượng).

Đoạn văn trên đă khơi mở cho chúng ta thấy rất rơ phần vị của Lục hành quán. 6 Theo Luận Câu-xá quyển 23, phiền năo được đoạn trừ ở Vô gián đạo (c̣n gọi Vô ngại đạo), duyên với các pháp hữu lậu ở Hạ địa, quán 1 trong 3 hành tướng Thô, Khổ và Chướng gọi là Vô gián đạo; c̣n Giải thoát đạo th́ duyên với các pháp hữu lậu ở Thượng địa, quán 1 trong 3 hành tướng Tĩnh, Diệu, Ly. Vô gián đạo lấy việc đoạn Hoặc (phiền năo) làm mục đích; c̣n Giải thoát đạo lấy việc chứng đắc chân lư làm mục đích. Khi đă đến Giải thoát đạo, việc chứng đắc Lục thông không c̣n là việc … bỏ cái này mới được cái kia nữa, tùy theo chỗ muốn mà khởi thần thông thôi.

Kinh điển Nguyên thủy tŕnh bày 12 nhân duyên như một ṿng luân hồi từ nhân quá khứ đưa đến quả hiện tại, hiện tại trở thành nhân đưa đến quả vị lai. Nếu không chặt đứt một mắc xích nào trong ṿng nhân quả này th́ vẫn măi c̣n vô minh. Điều này hoàn toàn chính xác: dứt Thủ th́ dứt Hữu, dứt Hữu th́ dứt Sanh, dứt Sanh th́ dứt Lăo tử, dứt Lăo tử th́ dứt Vô minh. Đức Phật chỉ ra như vậy là để hàng Nhị thừa thấy được cái mắc xích dằng dai của ṿng nhân duyên, chứ thực ra ta vẫn có thể nói một các dứt khoát rằng: dứt Ái là dứt Vô minh – hay nói ngược lại – giây phút giác ngộ là giây phút đặt một dấu chấm hết với Vô minh. Giác ngộ và Vô minh chỉ ở trong một niệm tâm, cho nên không phải giác ngộ choáng chỗ của Vô minh, đẩy Vô minh đi một chỗ khác, v́ đâu thể có vô minh khi đă Giác ngộ ? Cho nên Bát Nhă Tâm Kinh nói "Vô vô minh diệt, vô vô minh tận …" là vậy !

Tam minh của Phật chứng đắc cũng như thế ! Nói Tam minh là nói theo sự giải thoát tương ưng với mỗi phần vị của Vô minh, giả thi thiết chứ thật ra Tam minh chỉ là Nhất minh mà thôi. A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận quyển 3 (Đại Chánh Tạng tập 26, trang 375, hạ) ghi: "Vô học túc trụ tùy niệm trí tác chứng minh thuộc về Tâm giải thoát; Vô học tử sanh trí tác chứng minh thuộc về Huệ giải thoát; Vô học lậu tận trí tác chứng minh thuộc về Vô vi giải thoát. Tâm giải thoát tương ưng với Vô tham; Huệ giải thoát tương ưng với Vô si; Vô vi giải thoát nghĩa là Trạch diệt."

Tam minh được nói ở đây có thêm hai chữ Vô học phía trước. Chính v́ Vô học nên không có thứ lớp. Luận Câu-xá cũng cho rằng trong Lục thông th́ Vô học vị nhiếp Đệ ngũ, Đệ nhị 7 và Đệ lục thông làm tự tánh. Ba món này riêng gọi là Minh và theo thứ lớp đối trị Vô minh trong ba đời. 8 Nói Minh tức chính nó là Vô học. Luận này c̣n nói rơ về Thể của Tam minh bằng Tam chủng thị đạo, 9 nói rơ Lực và Dụng của ba món này trong tam giới cửu địa rất chi tiết (Xin xem Luận Câu-xá quyển 27, Đại Chánh Tạng tập 29).

Tóm lại, nếu hiểu rơ Thể và Dụng của Tam minh th́ ta thấy sự giác ngộ của Phật dưới cội Bồ-đề là duy nhất và toàn diện. Cũng nhờ vậy mà Đức Phật được tôn xưng là Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc. Nếu hiểu Tam minh theo thứ lớp th́ Phật chỉ đơn thuần chứng được cực quả Thanh văn là A-la-hán thôi. Chúng ta cứ miệt mài nghiên cứu giáo lư của Phật mà không khám phá bản thể của sự tự giác, cái mà các kinh thường nói rằng Ngài hoát nhiên đại ngộ khi vào Đại định, Tam-muội. Những ǵ Ngài dạy chẳng qua chỉ là phần giả thi thiết nhằm chỉ cho môn đệ thấy và thành những ǵ Ngài đă thấy. Kết quả thuần trí ấy dù được tŕnh bày dưới bất kỳ h́nh thức nào cũng không diễn tả được tinh thần nội chứng của Phật. Tinh thần này được các nhà văn học Phật giáo tận dụng cả một kho từ ngữ để diễn đạt, như nói Trí, Huệ (Bát-nhă), Chứng, Ngộ, Giác, ga

Như thật … , rốt cuộc vẫn không có từ ngữ nào giúp ta hiểu được bản chất của cái gọi là Bồ-đề, cho nên nếu không tự chứng biết được, cảnh giới giác ngộ của Phật vẫn măi măi là Bất tư ngh́.

V. KẾT LUẬN

Đức Phật đă thành đạo từ vô lượng kiếp, nhưng nói theo Thùy tích ở thành Già-da, dưới cội Bồ-đề th́ Phật thành đạo đến nay đă trên 2.500 năm. Nhân loại đă bước qua thiên niên kỷ thứ ba của Tây lịch, nhưng từ đó đến nay, quả vị giác ngộ của Phật vẫn luôn luôn là thách thức lớn nhất đối với nhân loại – không phải v́ quả vị ấy huyền bí, siêu h́nh hay không thực tế, mà v́ mảnh đất thực tiễn của tâm ấy ít ai thử bước vào, thử nếm, thử trải. Do đó sự giác ngộ của Phật măi mầu nhiệm trong ta.

Chúng ta quá lạm dụng trí óc nhị nguyên đối đăi để hiểu Tự tánh chân như, cũng như hiểu cảnh giới Bất khả tư ngh́ của Phật. Chư Tổ đă phương tiện lập bày các danh ngôn văn tự để ta có manh mối hướng về giá trị thiêng liêng ấy. Ở đây người viết cũng xin mạo muội tŕnh bày từ từ theo thứ lớp, luận về các thứ lớp ấy và những tư duy của ḿnh về bản chất của Vô minh và quả vị Giác ngộ. Sự tỏ bày chỉ là ṿm trời của một con ếch ngồi đáy giếng. Xin chắp tay hoa cùng nhau hướng về ngày Thành đạo của đức Từ phụ Bổn sư Thích-ca Mâu-ni, quỳ xuống giữa đôi vầng nhật nguyệt, đảnh lễ vô cùng vô tận đấng Vô thượng Pháp vương.



__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 6 of 80: Đă gửi: 29 January 2006 lúc 5:18am | Đă lưu IP  

Lang thang mấy độ luân hồi,

T́m nhưng chẳng gặp người xây nhà này.

Khổ đau trong kiếp vần xoay,

Sáu đường ba cơi không ngày thoát ra.

Hỡi này, người đă xây nhà !

Mặt mày ngươi, ta nhận ra được rồi.

Từ nay, ngươi phải dừng thôi !

Cột, kèo, đ̣n đỡ dọc xuôi . . . lụi tàn.

Diệt tan gốc rễ ái tham,

Tâm ta tịch tịnh, lạc an vô cùng!

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
Giác Minh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 February 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 11
Msg 7 of 80: Đă gửi: 04 February 2006 lúc 3:09am | Đă lưu IP  

Luân hồi chẳng có lang thang?
Ai xây? Khỏi kiếm! Hoang mang làm ǵ?
Khổ đau vốn chẳng xoay chi?
Ba cơi không có, ai đi sáu đường?
Không nhà th́ gọi chơn thường!
Không mày, không mặt, nhận ra cái ǵ?
Không động! Có dừng lại chi?
Nhà đă không có, cái chi lụi tàn?
Ái tham vô gốc, diệt ǵ?
Thỏng ta vào chợ vô vi vui đùa.

Sửa lại bởi Giác Minh : 04 February 2006 lúc 3:22am


__________________
Bồ đề bổn vô thọ
Tâm phi minh kính đài
Bổn lai vô nhất vật
Vạ sử nhạ trần ai?
Quay trở về đầu Xem Giác Minh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Giác Minh
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 8 of 80: Đă gửi: 08 February 2006 lúc 6:56am | Đă lưu IP  

thaicuc đă viết:
Nếu chúng ta chấp nhận ư kiến "Tất cả chúng sanh đều b́nh đẳng và tất cả đều có thể đạt đến Phật quả" th́ ḷng kiêu ngạo của chúng ta sẽ dần dần biến mất. Sẽ không có tâm khinh thường đối với những người khác; cũng không phủ nhận chân giá trị của những điều không vừa ư ḿnh.



chào các bạn đạo hữu ,

Câu nói trên < chúng sanh đều b́nh đẳng và có thể thành Phật quả > nói th́ dễ nhưng hiểu được th́ rất ít , chỉ khoảng 1 phần ngàn người tạm hiểu được thôi . Tất cả chúng sanh đều b́nh đẳng phải hiểu đây là nói về phần linh hồn , chứ nghiệp quả th́ mỗi chúng sanh , mỗi con người đều khác nhau muôn ngàn lần . Tất cả chúng sanh đều có thể thành phật quả chứ không phải đều thành phật quả cho thấy ḍng nghiệp lực mà chúng sinh đă gây tạo từ khai thiên lập địa đến nay là vô cùng tận , cuốn trôi rất mạnh con người trong vô lượng kiếp luân hồi .

Người mà có thượng căn th́ hiểu ra căn nguyên của câu nói trên nên khiêm tốn quỳ dưới chân Phật cao cả mà tiến tu . Kẻ hạ căn mạt pháp th́ nghĩ ḿnh đang là Phật , ḿnh và Phật đang là như nhau nên ngă mạn , ngông nghênh , tự cao tự đại rồi tự chuốc lấy quả báo . Do tự xem ḿnh và Phật ngang nhau nên ḷng tôn kính Phật không c̣n , tổn phước đức mà thoái đoạ . Sự tôn kính Phật Đà qua bao nhiêu đời mang lại phước báu rất to lớn không thể nghĩ bàn . Lời Phật dạy đă qua bao thời đại mấy ngàn năm rồi rất ít người hiểu cho đúng đường lối phật pháp .

Có một lần tôi vào một thiền viện được một Sư Thầy người Hồng Kông thuyết pháp . Ông ta nói lớn tiếng trước đám đông rằng : " Các con có thấy ḿnh đang là Phật không ? " . Tôi nghe xong lẳng lặng bước ra ngoài v́ tôi hiểu đó chỉ là một cách nói để thu hút tín đồ của người đời sau . Đức Phật không bao giờ tuyên thuyết như thế cả . Cuộc đời Đức Phật đă tu hàng ngàn kiếp trong vô lượng kiếp rất gian khổ , khai sáng mở đạo cho nhân loại nay lại được hậu sinh sau này rao giảng , diễn giải như vậy bắt chước các chư tổ nghe mà mũi ḷng . Tôi im lặng và hiểu ra rằng tại sao đời nay người đời càng tu tập càng khó bỡi họ chưa hiểu về cuộc đời Đức Phật và những lời thuyết pháp của Ngài cho nhân loại /.
Vài ḍng tản mạn với các bạn .

Diệp Tấn Dũng
Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 9 of 80: Đă gửi: 08 February 2006 lúc 9:06pm | Đă lưu IP  

dieptan_dung đă viết:

Người mà có thượng căn th́ hiểu ra căn nguyên của câu nói trên


???
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 10 of 80: Đă gửi: 08 February 2006 lúc 9:21pm | Đă lưu IP  

Thượng căn ,hạ căn ......?????



    Vẩn c̣n so sánh thượng căn và hạ căn
tại sao không ai vượt qua được cái Ngă vậy ?.......
Một nhà tu hành có thể được coi là Thượng căn ......
C̣n một bác nông dân ít học không hiểu phật pháp được coi là quê mùa là Hạ căn chăng .......?
Nhưng có chắc rằng thượng căn sẽ phát tâm bồ đề
và hạ căn th́ không ?

Thiện tai .......vẩn c̣n chấp không

Sửa lại bởi saodem : 08 February 2006 lúc 9:27pm


__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
canlong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 14
Msg 11 of 80: Đă gửi: 08 February 2006 lúc 9:42pm | Đă lưu IP  




    Bác nông dân cũng có thể phát tâm bồ đề được mà v́ đó là tâm thật của bác " không giả dối , tham , sân , si , hay Ngă mạn , tự kêu .....đó là Chân Tâm
Tôi nhớ có chuyện 1 bà lăo nghèo nàn cúng phật với 1 ngọn đèn trong khi biết bao nhiêu người dâng hương , hoa thơm , trái ngọt cho chư phật ,Nhung khi mà chúng quả th́ bà lăo lại được trong khi những người khác dù có cúng nhiều đồ quư đi nữa vẩn không được chứng vitrong cuộc sống vẩn c̣n hơn thua , tranh chấp tâm không thanh tịnh và bà lăo thi khác ở đây chỉ là tấm ḷng chân thật của bà lăo đối với chư phật bồ tát thôi




__________________
Đừng bao giờ hỏi tại sao
Quay trở về đầu Xem canlong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi canlong
 
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 12 of 80: Đă gửi: 08 February 2006 lúc 10:00pm | Đă lưu IP  

    Mến chào !

Năm ngoái tôi có viếng thăm núi Châu Thới Biên Hoà
Sau khi dâng hưong lể phật th́ cũng có chào hỏi thầy Trụ tŕ. Nhưng duy nhất có một câu hỏi của ḿnh mà bây giờ vẩn c̣n ấn tượng về vấn đề có liên quan đến Thượng căn và Hạ căn

Thượng căn dành cho những người hiểu về phật pháp c̣n Hạ căn là những người không hiểu củng có hiểu nhưng it thôi "

Tôi nghe thầy giăng xong mà trong ḷng vẩn c̣n thắc mắc khi mà chúng sanh đă Ngộ ra rồi mà vẩn c̣n so sánh người này hiểu phật pháp nhiều kẻ kia Ngu dốt không hiểu hoặc chăng 1 chút ít thôi phật pháp thôi
tại sao phải so sánh như vậy? vẩn c̣n chấp quá
tâm chưa Thanh Tịnh



__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 
kemmayman
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 23 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 144
Msg 13 of 80: Đă gửi: 08 February 2006 lúc 10:55pm | Đă lưu IP  

anhkhoi09 đă viết:
     Mến chào !

Năm ngoái tôi có viếng thăm núi Châu Thới Biên Hoà
Sau khi dâng hưong lể phật th́ cũng có chào hỏi thầy Trụ tŕ. Nhưng duy nhất có một câu hỏi của ḿnh mà bây giờ vẩn c̣n ấn tượng về vấn đề có liên quan đến Thượng căn và Hạ căn

Thượng căn dành cho những người hiểu về phật pháp c̣n Hạ căn là những người không hiểu củng có hiểu nhưng it thôi "

Tôi nghe thầy giăng xong mà trong ḷng vẩn c̣n thắc mắc[/] khi mà chúng sanh đă Ngộ ra rồi mà vẩn c̣n so sánh người này hiểu phật pháp nhiều kẻ kia Ngu dốt không hiểu hoặc chăng 1 chút ít thôi phật pháp thôi
tại sao phải so sánh như vậy? vẩn c̣n chấp quá
tâm chưa Thanh Tịnh




Thế bạn tưởng rằng ai cũng "ngộ" giống bạn hết hay sao? Cái từ "ngu dốt" thực ra không nên dùng để ám chỉ kẻ "hạ căn", song không có từ nào chính xác hơn để thay thế trong "ngôn", và v́ vậy "ngôn" nếu c̣n, sẽ không bao giờ đạt được trí huệ, bởi "ngôn" chính là rào cản lớn nhất của tư tưởng.

Tuy vậy, trong bước đường đắc trí huệ, ngôn phải vẫn là phương tiện duy nhất để dẫn chúng sanh đạt trí, phải qua ngôn từ h́nh tướng lẫn pháp tánh, cái đắc mới thị hiện, c̣n ngộ? chỉ là "ngộ" mà thôi. A di đà Phật

KMM

__________________
Tiếng Gọi Thanh Niên
Quay trở về đầu Xem kemmayman's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kemmayman
 
kemmayman
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 23 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 144
Msg 14 of 80: Đă gửi: 08 February 2006 lúc 11:15pm | Đă lưu IP  

saodem đă viết:
Thượng căn ,hạ căn ......?????



    Vẩn c̣n so sánh thượng căn và hạ căn
tại sao không ai vượt qua được cái Ngă vậy ?.......
Một nhà tu hành có thể được coi là Thượng căn ......
C̣n một bác nông dân ít học không hiểu phật pháp được coi là quê mùa là Hạ căn chăng .......?
Nhưng có chắc rằng thượng căn sẽ phát tâm bồ đề
và hạ căn th́ không ?

Thiện tai .......vẩn c̣n chấp không


Thế bạn có nghĩ rằng bằng vào cái "bác bỏ" chấp không trên kia th́ bạn đang chấp cái ǵ không? Vấn đề nên phân biệt rơ tâm bồ đề vs "hạ căn", "thượng căn". Chính cái "ngă" mới hiển lộ được thượng căn và hạ căn, rồi đẻ ra thêm h́nh tướng "quê mùa" và "nhà tu hành". Đến lúc nào đó bạn "quán" được: "Tất cả các pháp đều vô ngă" thực sự th́ lúc đó cái "ngă" mới thực sự không c̣n tồn tại, mà đă không c̣n tồn tại, làm ǵ "ta" phải vượt qua? Bởi không c̣n "ta" th́ "ngă" làm sao c̣n?

Nhất thế hữu vi pháp như mộng huyễn, bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán

KMM

__________________
Tiếng Gọi Thanh Niên
Quay trở về đầu Xem kemmayman's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kemmayman
 
Giác Minh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 February 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 11
Msg 15 of 80: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 3:31am | Đă lưu IP  

"Không sợ vô minh khởi, chỉ sợ giác ngộ chậm"

__________________
Bồ đề bổn vô thọ
Tâm phi minh kính đài
Bổn lai vô nhất vật
Vạ sử nhạ trần ai?
Quay trở về đầu Xem Giác Minh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Giác Minh
 
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 16 of 80: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 5:59am | Đă lưu IP  

Đến Lời nói vẩn c̣n chấp làm sao đạt được trí tuệ bát nhă ? Hay lúc quán vẩn c̣n nhớ đến quan điểm của tại hạ liệu có thanh tịnh được hay chăng ?
Canh ba phải tặng 1 gậy Bổng hát quá à

__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 17 of 80: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 6:09am | Đă lưu IP  

Chúng ta có thể bị lôi cuốn vào trong sự vô minh và vụng về, khiến mọi người ghét bỏ chúng ta. Thông thường chúng ta tự dối ḿnh và có khuynh hướng bắt nạt kẻ khác. Việc đắm ch́m trong kiêu ngạo là sự bóp méo chân ngă do bởi những quan điểm sai lạc về chấp ngă đưa đến. Bất hạnh thay, sự rắc rối phức tạp về "tự ngă" (tự cao tự đại) đă ăn sâu vào trong tim óc của chúng ta trong suốt ḍng sanh tử. Bản ngă này đă lôi kéo chúng ta trong ṿng sanh tử luân hồi vô tận. Chính ngă tham trói buộc chúng ta ở trong sanh tử tương tục và làm cho thế giới này tràn ngập những khổ đau.


"Tham Sân Si "

Coi vậy chứ khó vượt qua lắm

__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
ngocnguyet
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 December 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 18 of 80: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 6:14am | Đă lưu IP  

   Thân chào các bác !

các bác đang thảo luận về "Tâm "nhưng tôi đọc bài viết trên tôi thấy chưa có bác nào Thanh Tịnh hết

Cố gắng Tinh Tấn để giải thoát chính ḿnh nhé

Vài hàng mạn đàm cùng các bác và đừng chấp NN kẻo rơi vào Bệnh "Chấp "nữa   
Quay trở về đầu Xem ngocnguyet's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngocnguyet
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 19 of 80: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 8:50am | Đă lưu IP  

kemmayman đă viết:
anhkhoi09 đă viết:
     Mến chào !

Năm ngoái tôi có viếng thăm núi Châu Thới Biên Hoà
Sau khi dâng hưong lể phật th́ cũng có chào hỏi thầy Trụ tŕ. Nhưng duy nhất có một câu hỏi của ḿnh mà bây giờ vẩn c̣n ấn tượng về vấn đề có liên quan đến Thượng căn và Hạ căn

Thượng căn dành cho những người hiểu về phật pháp c̣n Hạ căn là những người không hiểu củng có hiểu nhưng it thôi "

Tôi nghe thầy giăng xong mà trong ḷng vẩn c̣n thắc mắc[/] khi mà chúng sanh đă Ngộ ra rồi mà vẩn c̣n so sánh người này hiểu phật pháp nhiều kẻ kia Ngu dốt không hiểu hoặc chăng 1 chút ít thôi phật pháp thôi
tại sao phải so sánh như vậy? vẩn c̣n chấp quá
tâm chưa Thanh Tịnh




Thế bạn tưởng rằng ai cũng "ngộ" giống bạn hết hay sao? Cái từ "ngu dốt" thực ra không nên dùng để ám chỉ kẻ "hạ căn", song không có từ nào chính xác hơn để thay thế trong "ngôn", và v́ vậy "ngôn" nếu c̣n, sẽ không bao giờ đạt được trí huệ, bởi "ngôn" chính là rào cản lớn nhất của tư tưởng.

Tuy vậy, trong bước đường đắc trí huệ, ngôn phải vẫn là phương tiện duy nhất để dẫn chúng sanh đạt trí, phải qua ngôn từ h́nh tướng lẫn pháp tánh, cái đắc mới thị hiện, c̣n ngộ? chỉ là "ngộ" mà thôi. A di đà Phật

KMM



Chào bạn Kém May Mắn ,

Tôi rất ngạc nhiên với sự hiểu biết của bạn Kém May Mắn thật đáng khâm phục , tuy bạn viết ngắn nhưng đă nh́n ra ánh sáng chân lư . Người mê muội th́ mê mờ tự cho ḿnh là đă đắc trí nên không cần học đạo nữa . Ngay như trong kinh điển cũng đă đề cập về thượng căn thánh đức thời thượng ngươn và hạ căn thời mạt pháp mà những người này cũng không hiểu những điều tối thiểu cơ bản ,ngay cả hội viên Quang Quư cũng c̣n lẫn quẩn chưa biết điều này . Chúng sanh tạo nghiệp chồng chất qua vô số kiếp khác nhau muôn ngàn nên căn cơ , h́nh tướng , tài trí , hoàn cảnh cũng muôn ngàn khác nhau . Họ nghĩ cái trí của họ và của Đức Phật ,Chư Bồ Tát, Chư Tổ là ngang nhau ,sự suy nghĩ sai trái từ đây mà ra .
Do có quá nhiều căn cơ sai biệt khác nhau của người thế gian mà Đức Phật đă có 8 vạn bốn ngàn pháp môn khác nhau để hoá độ chúng sinh . Đức Phật cũng đă thuyết pháp trong 49 năm ṛng rả ,không có những lời tuyên thuyết bằng ngôn từ này để dẫn dắt chúng sinh th́ hơn 2500 qua chưa ai biết đạo Phật là ǵ . Những vị Tu Sĩ khi tâm đă chứng ngộ tuyệt đối vô ngă thanh tịnh an lạc th́ lúc đó mới vô ngôn kinh . Giữa < ngộ > và < đắc > là cả một quá tŕnh trước đó chứ không có ǵ tự nhiên mà có ngay được . Người đă chứng ngộ khổ luyện tu tập thực sự th́ thâm trầm an lạc và ít nói bỡi họ đă hiểu và đạt được sự an lạc thanh tịnh nơi tâm chứ không câu nệ văn tự hay đôi co với người đời nữa .

Thân kính

Diệp Tấn Dũng

p/s: Tôi mới dạo qua mục coi tử vi mới biết bạn Kém May Mắn c̣n trẻ mà sự hiểu biết về phật học thật sâu sắc vô cùng . Chúc mừng bạn an lạc vui với đạo nhà Phật .

Sửa lại bởi dieptan_dung : 09 February 2006 lúc 9:35am
Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 20 of 80: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 7:30pm | Đă lưu IP  

dieptan_dung đă viết:
Người đă chứng ngộ khổ luyện tu tập thực sự th́ thâm trầm an lạc và ít nói bỡi họ đă hiểu và đạt được sự an lạc thanh tịnh nơi tâm chứ không câu nệ văn tự hay đôi co với người đời nữa .


Vậy à, sau không thấy giống bậc thượng căn hay người chứng ngộ nhỉ? .

Tôi có lời khuyên với bạn: tôi biết hết những lư luận của bạn từ đâu, học như vẹt từ thầy nào, nhưng học mà vẫn chưa học hết ư nên nói sai quá nhiều.

Lúc mới lên diễn đàn này, kiến thức tử vi của bạn cho thấy c̣n khá kém chưa tới đâu nhưng không học hỏi lại chê bai cả những vị như DinhQuyThanh67...

Trong phật học th́ nhai lại nhiều mà ít suy nghĩ. Nói nhiều mà ít tu nên động tới th́ ngă mạn ầm ầm nổi lên.

Với người kiêu mạn như bạn, tôi thấy thương cảm nhiều hơn là đáng ghét.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

Trang of 4 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.9238 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO