Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 183 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Tu Thiền /PhúcTrung ! Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
kimlong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 21 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 1 of 1: Đă gửi: 05 November 2005 lúc 10:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn kimlong

Thiền

Phúc Trung

I - Dẫn: Thiền là một pháp môn tu tập được nhiều người ưa chuộng nhất, bởi v́ người ta thường hay nghe nói đến những quyến năng đạt được của người tu thiền, chẳng hạn như có thể xuất hồn đi chỗ nọ chỗ kia, đi đến những cơi khác, có thể chứng ngộ được nhanh chóng trên đường tu học, trị được những tật bệnh... Nhưng cũng có những người tu thiền không đạt được kết quả ǵ, trái lại có những người bị bệnh tâm thần thường gọi là "tẩu hỏa nhập ma". Cho nên chúng ta cần phải biết rơ về nguồn gốc, phương pháp tu tập, kết quả một người tu thiền có thể chứng ngộ được, tránh những sai lầm có thể nguy hiểm đến tính mạng.

II- Nguồn gốc Thiền : Đạo Bà La Môn hay gọi là Ấn Độ Giáo phát triển rất sớm ở Ấn Độ, thời kỳ thứ nhất khoảng 1500 đến 1000 năm trước kỷ nguyên họ đă có tư tưởng văn hóa ghi trong kinh điển Về Đà (Veda) , thời kỳ thứ hai từ 1000 đến 800 năm trước kỷ nguyên là thời đại Phạm Thư (Bràhmana) chia xă hội thành 4 giai cấp: fiea cấp Bà La Môn ( Brahmana) giữ việc tế lễ tôn giáo, kế đó là giai cấp Sắt Đế Lợi (Ksatriya) gồm vua, quan nắm quyền thống trị, xuống nữa là giai cấp Tỳ Xá (Baisya) gồm nông, công, thương và xuống đến cuối cùng là giai cấp Thủ Đà La (Sùdra) là những người đời đời làm nô lệ. Thời kỳ thứ ba, tư tưởng cuối cùng của Bà La Môn là Triết Học Áo Nghĩa Thư (Upanishad) từ 800 đến 600 năm trước kỷ nguyên, thời kỳ này phát sinh ra phép tu Du Già (Yoga) . Khi Đức Thế Tôn ra đời th́ xă hội Ấn Độ có Kư Na giáo, Lục sư ngoại đạo phái, tư tưởng của 6 nhà ngoại đạo và Kỳ na giáo không chịu ảnh hưởng Bà La Môn, trong đó có phái Du Gíà chủ trương tu Thiền để mong giải thoát.

Đức Phật dạy nhiều pháp môn tu học để thoát khỏi sanh tử luân hồi, về Thiền có kinh An Bang Thủ Ư (Kinh Quán Niệm Hơi Thở), Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng dạy con của Ngài khi mới đi tu : " Này ! La Hầu La, hăy tu tập về sự niệm hơi thở vào, hơi thở ra. Này, La Hầu La, do tu tập niệm hơi thở vào, hơi thở ra, làm cho sung măn nên được quả lớn, lợi ích lớn...".

III - Định nghĩa : Thuyền hay Thiền là từ đơn giản, nói cho đủ phải là Thiền Na, phiên âm từ chữ Phạn Jhàna, người Trung Hoa dịch là Tư duy tu hay Tịnh Lự hay Định Huệ đẳng tŕ.

Tư duy tu có nghĩa là tập luyện theo phương pháp tập trung tư tưởng và tâm niệm vào một chỗ để quan sát, suy tư.

Tịnh lự là phương pháp làm cho tâm lặng yên để suy nghĩ, quan sát chân lư. Tịnh có nghĩa là yên lặng, nó hàm chứa nghĩa DỪNG LạI, trong thuật ngữ Thiền gọi là CHỈ. Lự có nghĩa là suy gẩm, phải dùng tâm trí suy xét, t́m ṭi cho ra ư nghĩa của một vấn đề mà thuật ngữ Thiền gọi là QUÁN.

Định Huệ đẳng tŕ, Định là chuyên chú, tức TÂM chuyên chú vào một vấn đề, không để tán loạn, Huệ là sáng tỏ. Lục tổ có dạy rằng : " Thiền định là thể của trí huệ, trí huệ là dụng của Thiền định. Trong lúc tới trí huệ th́ Thiền định ở Trí huệ, trong lúc tới Thiền định th́ Trí Huệ ở Thiền định. Nếu biết nghỉa ấy, tức là sự học Thiền Định, Trí Huệ bằng nhau."

Tóm lại, Thiền là dừng các tạp niệm, tâm chuyên chú quan sát vào một vấn đề, để đạt đến sự hiểu biết sáng suốt.

Trong Kinh Kim Cang, ông Tu Bồ Đề có hỏi Phật :"Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu có người phát tâm bồ đề, muốn cầu qủa Phật, làm sao an trụ Chơn Tâm, làm sao hàng phục Vọng Tâm ?" Đức Phật đă trả lời :"Không nên trụ vào Sắc mà sinh tâm. Không nên trụ vào Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà sinh tâm. Không để tâm trụ vào cái ǵ hết th́ sinh Tâm Bồ Đề".

C̣n trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy :"Nếu các ông muốn biết cái "Câu sanh vô minh" (vô minh chung cùng sanh tử từ vô lượng vô thỉ đến nay) để trừ, và "Quả vô thượng bồ đề" để tu chứng, vậy nay ta sể chỉ cho các ông rơ.

Này A Nan ! Khiến cho các ông nhiều kiếp sanh tử luân hồi, chỉ là sáu căn, mà làm cho chứng quả Bồ Đề an vui giải thoát, cũng chỉ là sáu căn của các ông. Căn và Trần đồng một thể (Tâm) phiền trược và giải thoát không hai (mê th́ phiền trược, ngộ th́ giải thoát), các thức hư vọng cũng như hoa đốm giữa chốn hư không.

- A-Nan ! V́ có trần cảnh, nên ở nơi Căn mới khởi ra phân biệt. V́ đă có cái căn phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn và Cảnh đối đăi nhau vọng hiện, chớ không có thật. Cũng như h́nh câ lau gác nhau.

Thế nên khi THẤY, NGHE hay BIẾT mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. C̣n khi THẤY, NGHE hay BIẾT mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết Bàn. Ở trong CHơn Tâm thanh tịnh, không có dung chứa vật ǵ tất cả!"

Đó là những ǵ căn bản của phương pháp tu thiền.

IV - Phân loại : Thiền phân loại tùy theo phương pháp tu tập. Thông thường, người ta phân chia Thiền ra làm 3 loại:

- Như lai thiền

- Tổ sư thiền

- Ngoại đạo thiền

1.- Như lai thiền: Thiền theo phương pháp Phật chỉ dạy như Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Quán Vô Lượng Thọ hay theo Ngũ Đ́nh Tâm Quán:

- Sổ tức quán: Theo dơi hơi thở, để đối trị bệnh tán loạn của tâm.

- Bất tịnh quán: Tức tuántưởng thân không thanh tịnh, để đối trị ḷng tham sắc dục.

- Từ bi quán; Xem tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, b́nh đẳng, không thù ghét, thương yêu nhau, để đối trị ḷng sân hận.

- Nhân duyên quán: Qúan tưởng tất cả sự vật đều giả hợp, do duyên mà có, không trường tồn, chân thật, để đối trị ḷng si mê vật chất.

- Giới phân biệt quán: phân biệt và quán tưởng 6 trần, 6 căn, 6 thức vị chi 18 giới đều không thật có "ngă, pháp" để đối trị chấp ngă.

2.-Tổ sư thiền: Thiền theo phương pháp chư Tổ từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma trở về sau, ấy là phương pháp công án hay Khán thoại đầu. Công án là một vấn đề mà thiền sư đề ra cho người đệ tử giải quyết c̣n Khán thoại đầu, cái ǵ ta nói ra đă là thoại vĩ, vậy thoại đầu là cái mé chưa sanh một niệm, tức là chỗ không sanh không diệt, luôn luôn chăm chú nơi "không sanh không diệt " ấy, gọi là khán thoại đầu.

Chư tổ thường dùng phương pháp: Hỏi, hét, đánh, đạp cốt để đập vỡ cái vơ cứng cố chấp, hoài nghi làm cho người đệ tử bừng tỉnh sau một thời gian đắm ch́m trong suy tư về công án hay thoại đầu, sự bừng tỉnh ấy có thể người đệ tử được " Khoát nhiên đại ngộ". Chẳng hạn nhjư sau khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma tịch, vấn đề giải thoát được nêu lên với tất cả tin thành của người Phật tử. Người ta tham vấn biết bao Thiền sư qua câu hỏi :" Như hà thị Tổ sư Tây lai ư ?" ( Ư nghĩa tối yếu của Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Hoa là ǵ ?)

Thiền sư Hương Lâm đáp : "Ngồi lâu thấm mệt !"

Thiền sư Cửu Phong đáp :" Một tấc lông rùa nặng chín cân"

Thiền sư Triệu Châu đáp : " Cây Bách ở trước sân !"

Riêng Thủy Lăo tham kiến câu này với Mă Tổ Đạo Nhất, bị ngài Đạo Nhất đạp cho một đạp té nhào, sau khi ḅ dậy, tỉnh cơn chấnđộng từ thể xác dến tinh thần, Thủy Lăo nói:" Kỳ thật, trăm ngàn món tam muội, vô lượng ư nghỉa diệu huyền chỉ ở trên đầu một sợi lông và nhờ thế mà tôi liễu ngộ được cội nguồn !"

Ở thiền viện kia, vị thiền sư mỗi khi muốn nói ra một vấnđề ǵ quan trọng, thường đưa ngón tay lên miệng, để cho mọi người im lặng. Trong chùa có một chú tiểu rất thông minh, thấy thiền sư làm như thế chú cũng bắt chước, đưa ngón tay lên miệng khi muốn nói chuyện quan trọng. Một hôm hầu chuyện thiền sư, chú tiểu sắp tŕnh bày chuyện quan trọng, ra vẻ trang nghiêm, chú đưa ngón tay lên miệng, thấy thế, sẵn có con dao rọc giấy, thiền sư bèn nắmlấy đè ngón tay chú tiểu xuống bàn, tiện mất một đốt tay ấy. Chú tiểu đau đớn và hoảng sợ, kêu lên rồi bỏ chạy, thiền sư đuổi theo gọi : "Này chú!" Chú tiểu quay đầu nh́n lại, Thiền sư đưa ngón tay lên miệng, quen tánh, thấy vậy, chú tiểu cũng đưa ngón tay lên. Nhưng chợt nhận ra ngón tay ḿnh đă mất, chú tiểu bỗng thấy tâm trí bừng sáng, khoát nhiên đại ngộ.

Nhưng mà thuật ngữ Đại Ngộ là ngộ cái ǵ ? Thiền tông chủ trương : Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ minh tâm, kiến tánh thành Phật ( Đặc biệt truyền riêng, không viết thành kinh sách, chỉ thẳng vào tâm, thấy tánh là thành Phật), khoát nhiên đại ngộ đó Bất khả tư nghi (Không thể nghĩ bàn được) một tiền đề của Ngộ. Vè bất khả tư nghị, khi Phật c̣n tại thế, ở Hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen lên, yên lặng không nói chi, Ngài Ca Diếp lĩnh hội được ư Phật, ngài mỉm cười. Sau này trở thành vị Đệ Nhất Tổ.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma một hôm gọi các đệ tử đến hỏi :" Giờ ta ra đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hăy nói cho ta nghe sở đắc của ḿnh." Nào Đạo Phỗ, Đạo Dục, Tổng tŕ Ni mỗi người đều tŕnh kiến giải của ḿnh. Sau rốt có Huệ Khả làm lễ bái sư rồi đứng ngay một chỗ, im lặng không một lời. Qua đó Tổ truyền y bát cho Huệ Khả.

Không phải các thiền sư đều thành công, truyện thất bại hết sức đau thương sau đây, đă nói lên sự dụng công hết mức của Thiền Sư, người đệ tử vẫn không tự phá vỡ nổi cái vỏ cứng của Công án, trường hợp này, dưới mắt của thiền sư, chỉ một chút, c̣n một chút nữa thôi người đệ tử sẽ đạt đến đại ngộ, nhưng về phía người đệ tử không thể vượt qua, chỉ ở đây mới nói lên sự đ̣i hỏi quyết liệt của thiền sư là mỗi người phải Tự chứng tự tri.

Có một đệ tử kia, sau khi được thiền sư trao công án, nghiền ngẫm, nung nấu đă lâu mà không ngộ được, thiền sư kiên nhẫn, thúc bách và khuyến khích:

- Chú về thử ba tháng nữa xem.

Ba tháng sau, người đệ tử trở lại tŕnh thiền sư chưa có kết quả, vị thiền sư lại khuyến khích:

- Chú về thử ba tuần nữa.

Ba tuần sau trở lại, người đệ tử vẫn chưa có két quả.

Thiền sư thúc bách thêm:

- Ba ngày nữa mà không giác ngộ th́ chết đi cho rồi, chớ tu nữa mà làm ǵ ?

Ba ngày sau, khi đệ tử xuất hiện, vị thiền sư hỏi ngay:

- Sao, công án đi đến đâu rồi ?

- Bạch Thầy, con rất hổ thẹn, con vẫn chưa t́m ra được. Con sẽ tự tử.

Thiền sư quát:

- Th́ tự tử đi.

Người đệ tử liền rút dao trong người ra, mổ bụng chớp nhoáng rồi ngả gục xuống. Thiền sư nh́n vào nét mặt của người đệ tử của ḿnh và thúc dục:

- Tự tử th́ được rồi, nhưng công án đă t́m ra chưa?

Thều thào người đệ tử thưa:

- Bạch thầy chưa!

Vị thiền sư bồi thêm nhát búa cuối cùng:

- Câm đi! Người chết không có nói bao giờ.

Nhát búa cuối cùng ấy không chẻ được khối tư duy của người đệ tử. Một thất bại chua cay cho thiền sư, và cũng là một thảm cảnh cho thiền viện về công án thiền.

Những câu chuyện thiền, cho chúng ta thấy ở thiền viện, thiền sư có nhiệm vụ theo dơi tiến tŕnh tâm sinh lư của đệ tử, để dồn ép, xô đẩy người đệ tử vào một xó góc không lối thoát, và chọn lựa đúng thời cơ để bắt buộc người đệ tử phải vượt qua, cũng giống như xô đẩy người đệ tử leo lên đầu của một cây sào trăm thước, leo như vậy đă khó, khi đă lên tận đầu sào vẫn bị thúc đẩy phải leo lên nữa, tức là vượt lên khỏi đầu sào, không c̣n được bám víu vào ngọn sào một phương tiện dùng để vượt qua trăm thước.

Hiểu theo nghĩa thông thường, một giới hạn mà thiền sinh phải vượt qua để đạt tới tới hạn của thiền, ai đă tiếp tục leo lên nữa, sẽ rời khỏi đầu sào, rơi từ trên cao trăm thước xuống, người ấy sẽ có một cảm giác, một tới hạn tự chứng tri.

3.- Ngoại đạo thiền: Những phương pháp thiền khác, không chính thống Phật giáo hay không thuộc một trong hai loại trên là ngoại đạo thiền.

V.- Hành thiền: Muốn tu tập pháp môn thiền, chúng ta phải nhận thức rằng v́ vô minh vọng động nên chúng ta bị vạn duyên ràng buộc, niệm niệm sanh diệt, trói buộc chúng ta trong ṿng sanh tử luân hồi, tập thiền để tạp niệm không sanh, thoát khỏi luân hồi.

Đức Phật trải qua hằng vô lượng vô số kiếp tu tập, v́ nhân duyên đại sự Ngài mới thị hiện cơi ta bà này để giáo hóa chúng sanh, không phải Ngài tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời. Vậy điều cốt yếu là chúng ta phải tu tập hàng ngày, loại bỏ các tạp niệm dần dần tự tánh sẽ sáng suốt.

1.- Nhận thức: Muốn chấm dứt nhân quả để thoát khỏi sanh tử luân hồi, người tu thiền phải giữ cho 3 nghiệp được thanh tịnh: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, Ư nghiệp.

A) Hành vi tạo tác thân nghiệp : V́ vậy chúng ta phải giữ chẳng những không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, mà c̣n tập mỗi mỗi hành động cẩn trọng, nhẹ nhàng khi đi, đứng, nằm, ngồi. Tâm chúng ta sẽ không thanh tịnh, nếu chúng ta có những cử chỉ, hành động thô bạo.

B) Lời nói tạo tác khẩu nghiệp: Chúng ta phải tránh nói dối, nói thêm bớt, chửi mắng, khen chê người khác, nghe người ta nói rồi nói đi nói lại để gây thù oán nhau... nên dùng lời lẽ êm ái, dịu dàng, khuyên can mọi người để sống ḥa ái với nhau. Người xưa nói "Bệnh ṭng khẩu nhập, họa ṭng khẩu xuất", nói chẳng những dễ gây họa mà tâm cũng dễ bị phân tán.

C) Tư tưởng tạo tác ư nghiệp: Chúng ta phăi tránh tham, sân, si. Phải giữ cho tâm thanh thịnh hoặc chỉ tưởng nhớ đến những điều hay, tốt đẹp. Bất cứ làm việc ǵ cũng phải chú tâm vào đó, không nên để thân làm một việc, c̣n tâm nghĩ đến việc khác, đây cũng chính là thiền. Luôn luôn giữ cho Thân, Khẩu, Ư cho được thanh tịnh từ lúc buổi sáng cho đến khi đi ngủ vào buổi tối.

2.- Phương pháp: Về phương pháp hành thiền th́ phải:

-Điều thân

-Điều tức

-Điều tâm

A) Điều thân: Có 3 phần:

a) Trước khi ngồi thiền: Phải giữ thân thể sạch sẽ, nên tắm rửa trước khi ngồi thiền, không tắm được th́ cũng phải rửa mặt, tay, chân. Ăn mặc quần áo phải rộng răi và sạch, để tránh bị ngứa ngáy, khó chịu. Không ngồi thiền lúc bụng no, tối thiểu phải ngồi thiền sau khi ăn độ 2 giờ. Cũng không nên để bụng đói quá, nếu thiền vào sáng sớm hay trước bữa ăn, nên uống một tách trà hay thức uống.

b) Trong khi ngồi thiền: Ngồi trên bồ đoàn (hay cái gối thật mềm), hoặc dùng gối chêm ở mông cho 2 mép đầu gối nằm sát xuống sàn nhà, ngồi xuống rồi nới rộng lưng quần để cho bụng thoải mái trong khi thở, xoay ḿnh qua trái, qua phải vài cái rồi ngồi một trong hai thế:

- Ngồi bán già: Đặt bàn chân trái lên đùi phải.

- Ngồi kiết già: Đặt bàn chân phải lẻn đùi trái, rồi đặt bàn chân trái lên đùi phải (hai chân gài với nhau)

Hai tay, trước tiên để lên hai đầu gối, để cân cho vai ngang, xương sống thẳng, rồi lấy bàn tay trái để lên gót chân phải, bàn tay phải để lên bàn tay trái, hai ḷng bàn tay khum khum, kéo sát vào bụng, hai đầu ngón tay cái giao nhau, ngay rún. Ngồi giữ cho lưng (xương sống) thật thẵng, lỗ tai và bả vai, chót mũi và rún phải ngay nhau. Mắt để hé,nh́n ngay chót mũi. Miệng ngậm lại, răng trên kề răng dưới, chót lưỡi cong lên đụng nướu răng trên. Mặt nh́n xuống, hướng mắt nh́n với thân hợp thành góc 30 độ (mắt nh́n xuống một điểm ở sàn nhà, cách hai chân ta chừng một gang tay) để giữ cho xương sống thật thẳng từ xương khu lên đến ót.

Trong suốt thời gian ngồi thiền không được nhúc nhích, cục cựa do thân bị ngứa ngáy hoặc bị kiến cắn hay muỗi đốt (t́m cách pḥng ngừa trước như phải giữ thân thể, quần áo sạch sẽ, không ngồi nơi có kiến, ngồi trong mùng nơi không có muỗi) Khi bị ngứa ngáy buổi ban đầu, sau dần sẽ không có nữa.

Lúc mới ngồi thiền có thể bị ngủ gục, thân bị ngă qua ngă lại, tỉnh ngủ phải sửa thân lại, đôi khi ngưng thiền để kiểm soát thân ngồi có đúng thế hay không, dù không bị ngủ gục, thân đôi khi cũng bị nghiêng qua lại, có thể nhờ người nhà thỉnh thoảng theo dơi sửa giùm.

Mặc dù phải thẳng lưng, hai chân gác chéo nhau, hai tay khoanh ở trước nhưng không được gồng các bắp thịt, phải để cho các cơ bắp ở thế nghỉ ngơi hoàn toàn thoải mái.

Giữ cho được chỗ ngồi thiền yên tịnh, trong lành cũng có thể đốt nhang thơm hay xông trầm. Không nên ngồi nơi lạnh quá hay nóng quá. Trong khi ngồi thiền, yêu cầu người nhà giữ cho yên tịnh, đừng làm ồn ào, đừng quấy rầy ḿnh, nhứt là đừng làm kinh động có thể nguy hiểm cho ḿnh, cho nên cần lựa giờ giấc thích hợp nhất, ít ai lui tới.

c) Sau khi ngồi thiền: Phải giữ các cử động đi từ tế đến thô, tránh cử động mạnh và đột ngột ngay sau khi ngồi thiền, cho nên trước tiên ta ư thức ḿnh đang ngồi thiền vừa mới xong, từ từ đưa hai tay ra để trên đầu gối, rồi thở vài hơi thở dài sau đó thở sâu, dùng hai tay xoa vào nhau cho nóng rồi úp lên hai mắt, rồi lấy tay xoa trán và vổ trán vài cái (có thể dùng hai bàn tay đan vào nhau chà xát vài lần) tiếp theo xoay ḿnh vài cái rồi thả hai chân ra, dùng tay bóp chân từ vế đến đùi, cuối cùng mới đứng lên và từ từ đi.

Trong khi ngồi thiền, đạt được cảm giác thoăi mái nên giữ cảm giác này suốt ngày. Ngoài thời gian ngồi thiền, luôn luôn phải giữ cho thân cùng ư hợp nhau, nghĩa là ta hành động ǵ th́ tâm ta phải chú ư vào đó. Những lúc không làm ǵ, không để tâm miên man vào vấn đề nầy hay vấn đề kia, tưởng nghĩ đến việc thiện hay h́nh tượng Phật th́ tốt nhất.

B) Điều tức : Ai cũng biết rằng động tác của phổi dùng để hút oxy trong không khí vào cơ thể nuôi dưỡng máu huyết, tống thán khí đă xử dụng ra ngoài, ngày nay khoa học cho thấy rằng thở càng dài hơi càng tốt, vừa để hít nhiều oxy vào, tống hết thán khí ra, nhưng có đủ thời gian để trao đổi hết oxy hút vào càng tốt hơn, trong một phút, b́nh thường phổi làm việc 18 lần, nếu chúng ta thở dài hơi phổi sẽ làm việc chừng 10 lần, như vậy đời sống của phổi dài ra tức nhiên tuổi thọ con người cao hơn.

Chúng ta biết rằng con người có hành động ư thức và vô ư thức, thí dụ ta dơ tay lấy cây bút để viết, hành động đó có ư thức do tâm chúng ta điều khiển, khi ta đi từ chỗ này sang chỗ kia, có khi ta điều khiển cho chân ta bước đó là hành động có ư thức, có lúc ta quên điều khiển nhưng chân ta tự bước đi, đó là hành động vô thức hoặc khi ta đi, hai tay tự nó đánh đồng xa (đưa tới, đưa lui) hành động này ta không điều khiển, hoàn toàn vô thức. Nay ta tập thiền với mọi hoạt động đều có ư thức, có sự chú ư, cột tâm ư ta với hành động thành một. Những thiền viện ở Thái Lan, Miến Điện họ luyện tập về tập trung tư tưởng như sau. Ví dụ muốn dơ tay phải lên, người ta nghĩ trong đầu óc : dơ, dơ,dơ, tay, tay, phải, phải, lên, lên, lên...từ từ họ dơ tay phải lên. Làm như vậy để tâm ta luôn luôn gắn chặt vào hành động. Lói thiền nầy gọi là Thiền Minh Sát Tuệ.

Thở c̣n dùng để tập trung tinh thần (Sổ tức quán), dùng làm kinh nghệm do thời gian trong bước đầi khi ngồi thiền. Thí dụ: Khi áp dụng Sổ tức quán, người ta đếm được 300 hơi thở trong 30 phút, như vậy, cứ 100 hơi thở la 10 phút.

Chúng ta có thể phân biệt 3 loại thở:

- Thở sâu: Khi thở phải hít vào dài hơi, ngực nở, bụng ph́nh ra, khi thở ra co thót bụng lại để tống hết thán khí ra ngoài.

- Thở dài hơi : Thời gian thở kéo dài hơn b́nh thường.

- Thở thường : Thở thường nhưng dều đặn.

Thở có 3 nhịp:

- Nhịp 2 : Hít vào rồi thở ra.

- Nhịp 3 : Hít vào, ngưng lại giữ hơi, thở ra (hay hít vào, thở ra, ngưng giữ hơi).

- Nhịp 4 : Hít vào, ngưng giữ hơi, thở ra, ngưng.

Thường thường người ta áp dụng thở sâu với nhịp thở 4 hay 3, thở dài hơi với nhịp thở 3 và thở thường với nhịp thở 2. Hầu hết thiền đều áp dụng thở thường mà thôi.

Thở phải hết sức từ từ, thong thả, nhẹ nhàng, giữa hít vào và ngưng thở hay từ hít vào cho đến thở ra đều phải biến đổi từ từ gần như không có giới hạn. Hít vào thờ ra chỉ dùng lỗ mũi mà thôi. Bắt đầu buổi ngồi thiền phải thở 3 hơi thật sâu vừa để tống thán khí ra vừa để nương theo hơi hít vào làm cho xương sống thẳng đứng.

C) Điều tâm :

Đây là phần chính trong buổi tập thiền. Mục đích điều tâm là "Buông bỏ hết mọi suy nghĩ phân biệt". Người xưa thường nói "Tâm viên, ư mă" nghĩa là Tâm của ta như con vượn, nhảy nhót lăng xăng, c̣n ư của ta đi nhanh chóng như ngựa phi nước đại. Ví dụ chúng ta đang ở Mỹ đây mà nghe ai nóiđến Việt Nam th́ ta liền liên tưởng đến cảnh nào đó ở Việt Nam, vậy ư tưởng của ta đi nhanh hơn ngựa chạy, có thể nói nhanh như điện tử vậy. Cho nên điều tâm là làm sao cho tâm dừng lại, không suy nghĩ ǵ hết, làm được việc này thật là khó. Có 2 phương pháp :

* Thiền hữu chủng: Thiền có đè mục hay vấn đề để chúng ta tập trung tư tưởng vào đó, không để cho tâm buông lung, muốn nghĩ ǵ th́ nghĩ, phương pháp này có 3 giai đoạn:

- Định tâm: (Tập trung tư tưởng) giữ tư tưởng cho được yên tịnh, tâp trung vào một sự việc.

- Tham thiền: Suy nghĩ một vấn đề, đi từ thỉ cho đến chung, đi từ nhân cho đến quả.

- Nhập định: Nhập vào cái rốt ráo của vấn đề, ḥa ḿnh vào đó, không c̣n suy nghĩ phân biệt.

Ba giai đoạn này, phải đi từng bước như khi nhỏ, ta phải học mẫu giáo rồi mới vào tiểu học, trung học, đại học. Vậy bước đầu phải tập định tâm: Có rất nhiều cách, nhưng có 2 cách dễ dàng áp dụng:

1.- Sổ tức quán : Dùng phương pháp thở dài hơi nhịp 2, tập trung tư tưởng theo hơi thở và đếm số, khi hít vào th́ đếm, khi thở ra không đếm, chúng ta đếm từ 1 tới 10 rồi trở lại từ 10 cho tới 1, hoặc từ 1 đến 100 rồi trở lại từ 100 cho đến 1. Khi hít vào, thở ra phải thật nhẹ nhàng và đều đặn, phải đếm thầm và ghi nhớ rơ ràng, nếu quên nửa chừng phải đếm lại từ đầu, bắt buộc phải có kỷ luật như vậy, tâm ta mới chú ư vào hơi thở, trí ta mới định.

2.- Quán tưởng : Để tâm hướng vào một vật, h́nh dạng thật đơn giản. Thí dụ ta vẽ một ṿng tṛn đường kính chừng 2 tấc, sơn màu vàng, nh́n nó cho kỹ rồi khi ngồi thiền ta cứ h́nh dung và giữ h́nh ảnh ṿng tṛn màu vàng ấy luôn luôn hiện ra trong tư tưởng của ta, không suy nghĩ ǵ khác và cứ giữ như thế suốt buổi ngồi thiền.

Đấy là những phương pháp Định tâm đơn giản, sau khi ngồi thiền ta cũng phải giữ tâm ta luôn luôn chú ư vào hành động ta đang làm, chẳng hạn như khi rửa chén trong chậu, ta để tâm vào công việc rửa từng cái chén, từng cử động của chúng ta, khi quét nhà tâm ta phải theo dơi từng động tác quét của ta với từng cọng rác. Khi tập lái xe, tập trung chú ư vào những ǵ ở trước mắt ta, đừng để tư tưởng nghĩ ǵ khác. Tóm lại, nhất nhất, Thân và Tâm là Một giữ cho được từng giờ, từng phút, ấy là Định tâm.

Định được tâm lâu mau tùy theo căn cơ, tùy theo nguyện lực của mỗi người, có thể vài tháng, có thể vài năm, cái tâm ta vốn nhiều kiếp lăng xăng lộn xộ đă quen rồi,nay ta mới tập cho nó định cho nên khó. Chúng ta thấy con khỉ, người ta xích nó lại, dù 5 hay 10 năm, nó vẫn nhảy nhót, leo lên tuột xuống lăng xăng, cái tâm của ta cũng y như vậy mà thôi. Sau khi định tâm được rồi ta mới bắt đầu tham thiền về một vấn đề ǵ đó, trong một buổi chỉ tham thiền về một vấn đề mà thôi. Ví dụ ta tham thiền về câu đầu trong Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh : Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Đọc thầm từng chữ rồi t́m hiểu ư nghĩa từng chữ, từng câu và cả đoạn kinh. Tham thiền là giai đoạn Tham Công Án hay Khán Thoại Đầu trong thiền viện.

Và cuối cùng là chúng ta xem xét đến tận cùng của vấn đề, để ta với nó chỉ là một, ấy là nhập định, cứu cánh của thiền.

Đừng bao giờ tham thiền khi tâm ta chưa định, phải định tâm cho được mới qua tham thiền dù phải mất 5 hay 10 năm hay cả đời cũng phải kiên nhẫn thành công từng bước mới đến nhập định được.

* Thiền vô chủng: Ngồi thiền nhưng giữ cho tâm không suy nghĩ điều ǵ hết, đạt được tâm thanh tịnh tức đạt đến cứu cánh của thiền. Nhưng mà điều này hết sức khó khăn, phương pháp cơ bản để thực hành như sau:

- Theo dơi tư tưởng: Ngay từ đầu cứ để cho tư tưởng tự do muốn tưởng chi kệ nó, để dần dần xem coi cách nthế nó tưởng tượng ra sao, t́m ra quy luật của sự tưởng tượng rồi dần dần loại trừ những tư tưởng sai quấy, rồi dần dần cả những tư tưởng tốt cũng dừng lại, nghỉa là để cho tâm được yên tịnh, biết có vọng niệm nổi lên liền không cho nó tiếp tục. Thí dụ đương không ta bị nghĩ tới băi cỏ xanh ở trước sân, nếu ta không biết, ta sẻ nghĩ tới những cây bông hồng ta trồng ở đó, có cành đă ra hoa, có cành có nụ, ta nghỉ muốn cho hồng tốt, chiều nay sẻ vun phân tưới nước ... tự nhiên ta bị lôi cuốn vào đó, nếu ta biết ḿnh đang ngồi thiền, khi có h́nh ảnh cỏ trước nhà, ta liền không nghĩ tới nó nữa để giữ tâm thanh tịnh. V́ phương pháp thiền vô chủng rất khó, nên thường người ta dùng các phương pháp định tâm của thiền hữu chủng, sau khi tâm định rồi, người ta mới bước sang thiền vô chủng.

VI. - Thời gian : Người ta ngồi thiền vào các giờ Tư (12 giờ đẻm) , Ngọ (12 giờ trưa), Măo (6 giờ sáng), Dậu (6 giờ chiều). Giờ giấc như vậy theo Đông phương có Âm, Dương, 6 giờ sáng và 6 giờ chiều là giao thời trong ngày, không khí ḥa b́nh, 12 giờ trưa cực dương, 12 giờ đêm cực âm, thường người ta hay ngồi thiền vào 6 giờ sáng va 6 giờ chiều, thuận cho giờ giấc đi làm việc.

Về thời gian mới đầu nên ngồi 10 đến 15 phút sau tăng dần lên, phương pháp tăng dần như sau: ngồi 15 phút được 3 hay 4 tuần cho quen rồi tăng thêm 5 phút. Tóm lại mỗi lần chỉ tăng chừng 5 phút, phải tập cho quen với thời gian đă tăng từ 3 đến 4 tuần mới tăng thêm 5 phút nữa.

VlI.- Nơi chốn : Ở nhà ta t́m vị trí trang nghiêm, khoảng khoát, không khí trong lành và yên tịnh, có thể xông trầm hay đốt hương thơm, cho nên ngồi thiền trước bàn thờ là hay nhất. Khi thiền không nên để đèn sáng, không để tối, có ánh sáng lờ mờ, êm dịu là tốt, nơi này mùa đông không lạnh quá, mùa hè không nóng quá. Nều có muỗi nên ngồi thiền trong cái màn (mùng) nên tránh ngồi thiền trên giường ngủ.

VIII.- Các trở ngại và cách đề pḥng :

-Trở ngại thứ nhất là sự nản chí, v́ không đạt được như ư muốn rồi bỏ cuộc.

- Trở ngại thứ hai là sự lười biếng. Thể xác của chúng ta thích được ăn ngon, ngủ kỹ, được nghe người ta tâng bốc bằng lời dịu ngọt, thích nh́n cảnh quyến rũ đẹp đẻ... nuông ch́u theo những ư muốn đó ta sẽ ngày tập ngày không, dần dần rồi cũng bỏ cuộc. Phải ngồi thiền hàng ngày, dù có đau ốm cũng phải ngồi thiền, ngồi thiền có thể trị bớt bịnh, thân thể cảm thấy khỏe khoắn hơn.

Thiền là sự tinh lọc tinh thần, đươong nhiên phải tinh lọc thể xác, cho nên bắt buộc phải giữ ǵn giới hạnh cho nghiêm mật, phải tu tâm sửa tánh, ǵn lời giữ ư từng giây từng phút. Có những người ngồi thiền có kết qủa, nhưng tâm không tu sửa sẽ bị bệnh hoạn, có hại hơn là có lợi cho bản thân. Không nên hút thuốc và uống rượu. V́ đau ốm phải uống thuốc có ngâm rượu, phải ngưng tập thiền trong ngày hôm đó.

Trong khi ngồi thiền, bị tức ngực ấy là do hơi thở không suông sẻ, trong lúc thiền bị nhức đầ phải xả (ngưng) một chút rồi tập lại, nếu vẫn bị th́ xả thiền, không tập thêm nữa, hôm sau sẽ tập lại, hôm sau tập vẫn c̣n bị nhức đầu, nên ngưng vài hôm rồi tập trở lại, nhức đầu do ta chú tâm quá mức. Bị ngủ gục, đó là do mới tập, chưa quen.

Mới tập trong 6 tháng đầu, tâm sinh lư bị thay đổi, đôi khi tánh nóng nỗi lên bất thường, đó là do sự dồn nén tâm lư, nên tập hạnh huỷ xả và từ bi với mọi người chung quanh. Chừng 5, 7 năm trở đi tâm ta thay đổi nhiều, tánh chúng ta sẽ hiền ḥa, thuần thục hơn.

Tập bỏ bớt các ưóc muốn, sống b́nh dị, đương nhiên cần phải thực hành hạnh bố thí.

Những người cư sĩ tại gia như chúng ta, đừng bao giờ nghĩ rằng " Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời ", phải có ḷng tin vững chắc khi tâm ta thanh tịnh th́ trí tuệ được sáng tơ, như lời Phật dạy "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" để trả lời ông Tu Bồ Đề hỏi: " Làm sao an trụ chơn tâm, làm sao hàng phục vọng tâm ? "

IX .- Vài mẫu chuyện thiền : Năm 1989 và 1990, chúng tôi có đến viếng thượng tọa Thích Thông Lạc ở Trảng Bàng, Tây Ninh. Mặc dù hai làn đó đều là ngày chủ nhật nhưng người đến viếng Thượng Tọa không hơn 10 người, đều là những người ở Aaigon lên. Nơi Thượng Tọa tu gồm có một chánh điện cất đơn sơ, mỡi bề chừng 6 thước, một dăy nhà khách chừng 8 thước, rộng độ 3 thước, một dăy nhà bếp bằng nhà khách, xung quanh có những cái cốc lợp bằng tranh, mái đan tre, nền đất, bên trong chỉ có một cái giường nằm cũng bằng tre, đơn sơ hết sức.

Trả lời những câu hỏi về tu chứng, Thượng Tọa cho biết, trước Thượng Tọa có tu với Thiền sư Thanh Từ một năm, sau đó Thượng Tọa ra các ḥn ở Rạch Giá để tu, nhưng không kết quả. Cuối cùng Thượng Tọa trở về quê ở Trăng Bàng, cất thảo am. làm ruộng, trồng tiêu, trồng điều láy hoa lợi để tu, một ngày kia Thượng Tọa quyết định nhập thất, người mới nhờ bà mẹ mỗi ngày đem đến thất thức ăn và yẻu cầu, nếu người có dùng thức ăn th́ không phải lo chi cả, nếu thấy thức ăn mà người không dùng th́ phải vào thất xem c̣n sống hay đă chêt, nếu chết th́ nhờ hàng xóm lo chôn cất dùm. Trong 7 ngày nhập thất này, Thượng Tọa đă nhập đươc đại định, sau đó ngài ra thất vẫn ăn uống đi lại b́nh thường nhưng tâm trí vẫn c̣n trong Đại định, một hôm người công phu, lúc thắp nhang, đi lại va chạm mạnh vào cạnh bàn thờ Phật, cơn đau đó mới làm cho người thức tỉnh, xuất khỏi cơn Đại định.

Sau đó người đi tŕnh chứng đắc với thiền sư Thanh Từ. Thiền sư mới dùng ư nghĩa kinh để hỏi Thượng Tọa, sau khi Thiền sư công nhận những chứng đắc của Thượng tọa, Thiền sư có yêu cầu thượng Tọa hiệu chỉnh lại kinh Pháp Hoa, theo sự chỉ dẫn của Thượng Tọa, chúng tôi thấy trong tủ có chừng 30 quyển tập 100 trang, đó là kinh thượng tọa hiệu đính nhưng chưa in. Thượng Toạ cho biết, ai muốn tu thiền, hăy đến tu với Thượng Tọa trong 100 ngày, Thượng Tọa sẽ chỉ dẫn và theo dơi diễn tiến, nếu tu đươc th́ tiếp tục, nếu ai muốn sẽ ở đó tu trong 10 năm để sau khi chứng đắc sẽ viết , dịch một số kinh điển, ai không tu Thiền được th́ trở vè tu Thập thiện. Trong thời gian tu, ở trong cốc đă có, mọi sự ăn uống do Thượng Tọa cung cấp.

Tôi có quen biết anh Nguyễn văn Ân, trong ban nhạc không quân ở Tân sơn Nhất, anh ta ở Biên Ḥa, theo đạo Công Giáo. Khoảng năm 1970, anh ta tu thiền, một hôm tuyên bố với bạn bè, sẽ nhập thất trong 49 ngày và lần này anh sẽ gặp Đức Chúa, nhưng khoảng gần đến 49 ngày, bạn bè phát hiện anh đả chết trong cô-néc nơi đó anh đă nhập thất. Sau nầy hỏi lại nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, bạn đờng ngũ với anh ta, anh Thu cho biết khi phát hiện anh ta chết, dưới giường nằm của anh ta c̣n để một cái bếp điện, có lẽ anh ta bị lạnh quá nên dùng bếp điện sưởi ấm, đúng hơn anh ta đă bị "tẩu hỏa nhập ma". Hơn thế nữa, 6 thất trước, có lẽ anh được thầy dạy nên không sao, c̣n thất thứ 7 anh tự động thực hành nên bị Tẩu hỏa nhập ma.

Khoảng năm 1980, trong câu chuyện với anh Phạm Văn Tài, người tiền nhiệm của chúng tôi, nguyên hiệu trưởng trường Trung học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ Sài g̣n, lúc đó anh cho tôi biết rằng anh có tu thiền, theo môn phái kia, khi tiếp chuyện với ai anh có thể nh́n thấy hào quang của người ấy lớn hay nhỏ, rơ hay mờ. Sau anh đọc Kinh Duy Ma Cật, anh biết đó là tà đạo nên anh đă bỏ ngồi thiền theo môn phái đă học. Khoảng năm 1985, anh Tài đi làm Họa viên cho Hợp tác xă cơ khí Quang Minh ở G̣ Vấp, người phó chủ nhiệm gặp tôi cho biết h́nh như anh Tài đă bị "mát", sau đó tôi đến thăm anh, tôi thấy anh vẫn b́nh thường, nhưng chị vợ trước mặt anh nói với tôi là anh ta ban đêm không ngủ được, đi lại nói lảm nhảm suốt đêm (chỉ có hai vợ chồng ở trọn trường Việt Nam Học Đường ở Tân Định). Năm 1990, vào dịp Vía Đức Phật A Di Đà, chúng tôi lại gặp nhau ở Nhất Nguyên Bửu Tự, gần chợ Lái Thiêu, vợ anh Tài cho biết, căn bệnh của anh ta đă giảm, có người đoán cuối năm sẽ hết. Những lần gặp nhau như thế, anh cũng vẫn nói chuyện với tôi như thường, những ǵ vợ anh ta nói trước mặt anh ta, anh ta đều không xác nhận hay phủ nhận điều ǵ cả. Sau nầy anh qua Mỹ, vẫn c̣n bệnh và đă mất năm 2000 ở Oregon.

X .- Kết luận : Thiền rất hấp dẫn mọi người, nó rất hữu ích cho chúng ta, nhưng tập thiền phải đúng phương pháp, có người chỉ dẫn, theo dơi thường xuyên th́ tốt hơn, tuyệt đối không nên luyện thứ chi hết, đă tu tâm th́ phải sửa tánh tức là phải giữ giới cho nghiêm mật, dù không thành Phật trong kiếp này th́ ít ra tâm ta cũng được thanh thịnh, trí huệ được sáng tỏ và sức khỏe chúng ta tốt hơn


__________________
Muốn kiếp phù sinh sau khỏi luỵ .Quyển kinh câu kệ chớ nài công
Quay trở về đầu Xem kimlong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kimlong
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.3555 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO