Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 240 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Thiền Định Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
minhtam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 16 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 132
Msg 1 of 3: Đă gửi: 18 March 2005 lúc 6:05am | Đă lưu IP Trích dẫn minhtam

Kính chào các bạn ,

Thích Minh Tâm gửi các bạn bài này để có phương pháp luyện thiền theo giáo lư của Đức Phật .

KHÁI NIỆM

I - Thiền quán là nói chung cho tất cả các phương pháp (pháp môn) nhiếp tâm vào Định.

Các pháp môn đó có thể là theo dơi (quán) Hơi Thở, Niệm Phật, Niệm Chú, Khán Thoại Đầu, Quán Lư Bát Nhă, Tri Vọng (theo dơi Tâm), Minh Sát Tuệ...

Đạo Phật được xem như một cây. Trong đó:

– Rễ cái tượng trưng cho ḷng tôn kính Phật và lư tưởng giải thoát.

– Những rễ phụ tượng trưng cho những tâm hạnh Đạo Đức.

– Thân cây tượng trưng cho phước tích lũy được do làm lợi ích cho chúng sinh.

– Các cành nhánh tượng trưng cho các pháp môn tu hành.

– Vô số lá tượng trưng cho Ba ngh́n oai nghi tám muôn tế hạnh.

– Hoa tượng trưng cho sức Định.

– Và quả tượng trưng cho Tuệ giải thoát.

Như vậy, điều đầu tiên của một đệ tử Phật là phải có ḷng tôn kính Phật sâu sắc cũng như có một ư niệm rơ ràng về mục tiêu giải thoát.

Kế theo, người đệ tử Phật phải tu tập vô số những tâm hạnh Đạo Đức như Từ Bi, khiêm hạ, nhẫn nhục, chân thật, b́nh đẳng, trầm tĩnh, vị tha...

Do những Đạo Đức này mà người đệ tử Phật làm vô số điều lợi ích cho chúng sinh và tích lũy được vô lượng phước để chuẩn bị cho công phu Thiền định tiếp theo. Thiếu phước, không một ai có thể nhiếp tâm vào Định được. Ngày xưa khi một Tỳ kheo đắc Alahán, Đức Phật luôn luôn cho biết nguyên nhân ban đầu là vị này đă gieo một duyên phước với một vị Thánh nào đó trong quá khứ. C̣n chúng ta ngày nay phải lấy tất cả chúng sinh làm phước điền, nghĩa là phải thương yêu và làm lợi ích cho chúng sinh một cách triệt để vô điều kiện và không giới hạn.

Càng sống vị tha chừng nào, chúng ta càng dễ vào Định chừng nấy.

Có tất cả những điều trên rồi th́ tùy duyên mỗi người sẽ theo một pháp môn. Điều chúng ta cần lưu ư là KHÔNG CÓ MỘT PHÁP MÔN NÀO ĐẦY ĐỦ TẤT CẢ ƯU ĐIỂM.

Mỗi Pháp môn hay ở mặt này và dở ở mặt khác. V́ thế việc độc tôn một pháp môn nào là tuyệt đối thù thắng chỉ là sự hiểu lầm và gây chia rẽ trong Phật pháp.

Đến khi nhờ một pháp môn (sau khi đă có các căn bản phía trước) th́ người đệ tử Phật sẽ tỏa ra bên ngoài những chiếc lá oai nghi tế hạnh giống hệt nhau, dù họ tu những pháp môn khác nhau. Những phong cách đó được kể ra như là thái độ hiền lành, trầm tĩnh, độ lượng, ung dung, đĩnh đạc, chân thành, sáng suốt, kiên nhẫn và đôi khi khôi hài...

Càng tu đúng, mọi người càng giống nhau đến kỳ lạ, dù trước đây họ khác nhau về mọi thứ. Những phong cách đó đi lần về phía giống như Đức Phật và các vị Alahán. Nhưng Đức Phật là sự thành tựu oai nghi tuyệt đối hoàn hảo. Nơi Phật dù một cái cất chân, đưa mắt, cất tay... tất cả đều đẹp đẽ, thanh thoát và đầy oai lực.

V́ thế, những trường hợp biểu lộ phong cách quái đản, kỳ cục, bừa băi, phóng túng... đều không nên được xem là khuôn mẫu.



II - Các mức Định th́ chúng ta vẫn lấy Bốn Mức Thiền làm tiêu chuẩn mà Đức Phật nhắc đi nhắc lại măi trong rất nhiều bài kinh. Thậm chí, trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật mấy lần xuất nhập các từng mức Thiền định như là một Di Ngôn không lời cuối cùng cho hậu thế.

Trước Đức Phật, nhiều Đạo Sĩ Ấn Độ cũng đạt được các mức Định khá sâu và t́m thấy một cơi Tâm vi diệu, rỗng rang, sáng suốt, phủ trùm mênh mông. Họ dừng lại ở đó, tôn thờ cái Tâm đó là tuyệt đối, là Chân Ngă, là Đại Ngă. Đức Phật cũng học với các Đạo Sĩ đó và cũng thành tựu như vậy, nhưng Ngài, với trí tuệ của một vị Phật tương lai, đă cảm thấy cái tâm đó chưa phải là tận cùng tuyệt đối, nên đă bỏ đi tự t́m lấy cái c̣n lại.

Dưới cội Bồ Đề, Phật cũng nhập trở lại các mức Thiền định và cuối cùng vượt qua cái mà các Đạo Sĩ Ấn Độ không vượt qua nỗi, đó là Ngă Chấp.

Phật đă cảnh giác điều này qua sự phân biệt về 3 loại chấp ngă :

– Thô phù Ngă Chấp : chấp thân này là Thật Ta, đó là cái chấp thô thiển, cạn cợt nhất của phàm phu.

– Ư sở thành Ngă Chấp : chấp tư tưởng là Thật Ta, đó là cái chấp của người có trí thức văn hóa, cuả các triết gia.

– Vô Sắc Ngă Chấp : ngoại đạo Ấn Độ tu tập Thiền định đạt được Định Vô Sắc với Tâm rỗng rang, sáng suốt, phủ trùm và cho đó là Đại Ngă.

Rồi đến khi Phật nhập Niết Bàn, các vị Alahán lần lượt ra đi, những đệ tử Phật về sau này không đủ sức vượt qua chấp ngă và do đó phát sinh 2 trường hợp:

– Một, một số vị cũng dừng lại tại đó, tôn thờ cái trạng thái Tâm ḿnh đă chứng được là bằng với Phật, là tuyệt đối chân thật.

– Hai, một số vị khác tuy không thể tiến lên xa hơn, nhưng vẫn cho rằng trạng thái tâm ḿnh đă chứng được vẫn c̣n tiềm tàng cái chấp ngă sâu kín.

Trong hai trường hợp trên, trường hợp thứ nhất là rơi trở lại kiến giải của Ngoại Đạo Ấn Độ thời Đức Phật; c̣n trường hợp thứ hai là vẫn đi đúng đường của Phật.

Ngày hôm nay, khi tiêu chuẩn hóa lại con đường thực tập Thiền quán, chúng ta vẫn phải chọn cái mục tiêu mà ngày xưa Đức Phật đă nhắm đến, đă đạt được, đă vượt hơn các ngoại đạo đương thời, đó là VÔ NGĂ.

Dù chúng ta có đạt được các kết quả trong Thiền định như nhiếp được tâm, xuất hiện nhiều trạng thái mới mẻ, an lạc hơn ngày xưa, sáng suốt hơn lúc trước, th́ vẫn phải cảnh giác rằng cái Tâm đó vẫn c̣n chứa đựng ngă chấp mănh liệt và đầy nguy hiểm. Những phiền năo chỉ tạm yên nghỉ đôi chút chứ chưa được đoạn trừ hẳn. Nếu có được sự kích động của kiêu mạn th́ vô số các phiền năo khác như tham lam, ô nhiễm, sân hận... sẽ trổi dậy như thác đổ sóng xô, và cuốn chúng ta đi vào đọa lạc. (xin xem Tâm Lư Đạo Đức, Chơn Quang)



III - Sau này khi loài người tiến bộ hơn, họ sẽ biết rằng Thiền định là phương tiện để đạt được hạnh phúc, Trí Tuệ. Thiền định cũng làm cho loài người trở thành một “loài người mới” cao cấp hơn v́ năng lực của tâm được phát triển và sử dụng với vô số điều kỳ diệu. Lúc đó, Thiền sẽ được đem ra mổ xẻ, phân tích, thí nghiệm, hệ thống hóa, tiêu chuẩn hóa và sẽ trở thành một môn khoa học thực nghiệm với nhiều nguyên lư, định lư. Ở mức độ thấp, Thiền được xem là một môn thể dục dưỡng sinh, vệ sinh thần kinh giúp con người giải tỏa bớt sự căng thẳng trong cuộc sống.

Ở mức độ cao, Thiền được xem là sự thực hành một triết lư của Hạnh Phúc, v́ sự b́nh an nội tâm là hạnh phúc thù thắng hơn bất cứ tṛ vui nào của thế gian.

Ở mức độ khác, Thiền được xem là ch́a khóa để con người tăng thêm khả năng của ḿnh về nhiều phương diện, trong đó năng lực tâm linh, khả năng phán đoán bằng trực giác, những phép lạ bắt đầu được t́m hiểu nghiêm túc.

Đó là điều sẽ xảy ra. Nhưng việc đó đến sớm hay muộn đều do từng người chúng ta có nỗ lực thực hành Thiền định từ bây giờ hay không.

Đức Phật là một biểu tượng tuyệt vời về công phu thực tập Thiền Quán. Chúng ta là đệ tử Phật th́ phải hết sức thực hành và hệ thống hóa, tiêu chuẩn hóa lại để đem Thiền tặng cho nhân loại. Chúng ta sẽ đem đến cho nhân loại một loại Thiền đầy tính khoa học và khách quan, không hạn cuộc bởi h́nh thức tông phái hay pháp môn.

Một ngày nào đó, các trẻ em đến trường đều được học về Thiền và học về Luật Nhân Quả Nghiệp Báo. Đó là ngày mà thế giới trở thành thiên đường như các vị Thánh từng mơ ước.


ĐIỀU THÂN

I – Thông thường Thiền là công việc của Tâm, là công phu kiểm soát tâm, nhiếp Tâm vào an định. Tuy nhiên Tâm và Thân là hai thành phần liên quan rất chặt chẽ. Những ǵ của Tâm đều ảnh hưởng đến Thân và những ǵ của Thân đều ảnh hưởng đến Tâm. Từ lâu chúng ta dễ vội vàng đi vào pháp môn Dụng Tâm mà quên đi công phu Điều Thân làm căn bản. Lâu dài về sau, do thân không chuẩn nên tâm bị ảnh hưởng, sức định có thể bị ngăn trở. Thêm nữa, do không Điều Thân nên cái chấp thân tồn tại măi. Và khi cái chấp thân tồn tại th́ chấp ngă có điều kiện để phát triển. Và khi chấp ngă phát triển th́ Đạo Đức đổ vỡ. Và khi Đạo Đức đổ vỡ th́ Phước mất. Phước mất th́ sức định không hiện diện nữa. Đó là tiến tŕnh Nhân Quả của Tâm. V́ thế, căn bản của Thiền chính là Điều Thân trước. Điều Thân càng vững chắc th́ việc dụng tâm càng dễ dàng. Có nhiều người chỉ mới điều thân đă cảm nghe an lạc, tinh thần đă sáng suốt hơn, mạnh mẽ hơn.



II – Trong việc Điều Thân, trước hết hành giả phải ngồi đúng tư thế kiết già, phải cố gắng ngồi kiết già, đừng ngồi bán già. Ngồi bán già tuy dễ nhưng lâu dài Tâm trở nên lỏng lẻo v́ Thân không được khó chặt.

Có những người gân cứng (có thể do lớn tuổi) nên bắt chân kiết già rất khó. Người này phải xoa bóp, bẻ nắn chân một lát trước khi bắt chân kiết già.

Một điều quan trọng nữa là không nên kê gối mềm để dễ ngồi thẳng lưng – hay gọi là bồ đoàn. Nhiều người cảm thấy kê một cái gối tṛn, mềm th́ ngồi dễ thẳng lưng và vững hơn v́ thân sẽ dồn sức nặng vào ba điểm: mông và hai đầu gối. Nhưng thật ra ngồi bồ đoàn có những điều tai hại sau:

– Chính cái dễ thẳng lưng nên hành giả không cần dụng tâm để giữ lưng thẳng. Đâu ngờ rằng chính sự cố gắng thường xuyên giữ lưng thẳng làm tăng sức mạnh tinh thần về sau.

– Về lâu dài, sức nặng dồn vào ba điểm không ổn định bằng sức nặng trải dài theo cả hai đùi như người không sử dụng bồ đoàn.

– Nói là ba điểm chứ thật ra là bốn điểm v́ nơi mông có 2 xương mông 2 bên. Sức nặng dồn vào 2 xương mông không đều nhau v́ hai chân bắt chéo chân trước chân sau không đều. Lâu ngày một bên xương sẽ xệ xuống nhiều hơn và làm cho hành giả có cảm giác đau cấn.

– Ngồi không kê gối th́ đầu tiên một bên đầu gối bị vênh lên. Nhưng không ngại, ngồi một lát th́ đầu gối sẽ hạ xuống sát. Với nữa, khi ngồi quen không cần kê gối, ta sẽ thấy thật là dễ chịu an ổn hơn là kê gối. Đi đâu cũng không cần đem theo bồ đoàn, chỉ cần một mặt phẳng ǵ đó là ngồi Thiền được.

Dĩ nhiên là không mặc quần áo chật chội. Nhưng cũng không nên mặc quần ngắn thiếu Trang Nghiêm. Cởûi đồng hồ và nới lưng quần.

– Ánh sáng nên được để dịu, đừng sáng quá cũng đừng tối đen. Tránh chỗ gió thổi đến từ sau lưng. Nơi yên tỉnh vẫn là chỗ thích hợp nhất cho việc tọa Thiền. Nơi xứ ta do luật Môi Trường không được tôn trọng nên ở phố thị mọi người tự do mở máy hát vang động sang cả nhà hàng xóm. Ai cũng chịu quen nên không đấu tranh để giành lại sự yên tĩnh. Đó là một thiệt tḥi cho sức khỏe cộng đồng và nhất là cho người tu tập Thiền Định.

– Nên sắp xếp thời gian đều đặn mỗi ngày để tọa Thiền th́ tốt. C̣n không th́ tùy những lúc thuận tiện mà ngồi. Không nên ngồi những lúc bụng c̣n no. Uống một ngụm nước trước khi ngồi cũng rất tốt.

– Không nên bày tỏ, khoe khoang cho người khác biết là ḿnh có tu tập Thiền Định v́ có thể làm công phu bị lui sụt. Nên ngồi chỗ không ai trông thấy, trừ khi phải ngồi với Đại chúng.



III – Nên lễ Phật ba lễ trước khi ngồi Thiền, với ḷng tôn kính tuyệt đối. Khi đă ngồi đúng tư thế, nên chắp tay niệm Phật ba lần. Nếu ngồi một ḿnh th́ niệm thầm. Nếu ngồi tập thể th́ niệm chung với Đại chúng.

\ Giữ tay chắp đó và tiếp tục tác ư thầm như sau :

– Nguyện trên chư Phật gia hộ cho con trải ḷng thương yêu khắp tất cả chúng sinh, dù là thế giới hữu h́nh hay thế giới vô h́nh – cho con thương yêu cả loài người cũng như chim thú trên rừng, cá trong nước.

– Nguyện trên Chư Phật gia hộ cho con giữ được ḷng khiêm hạ,ï lúc nào cũng thấy ḿnh như cỏ rác, cát bụi.

– Con nguyện ḷng quyết tâm giữ được sự vô nhiễm trong sạch.

Ba tác ư trên phải huân tập suốt đời mỗi khi tọa Thiền.



IV – Sau đó để tay xuống, ḷng bàn tay trái đặt lên ḷng bàn tay phải và bắt đầu thực hành Điều Thân theo các bước như sau :

Ngồi đúng cách.

Thường là chân trái bắt lên trước, chân phải kéo lên sau.

Để ư giữ lưng cho thẳng, không được để lưng cong chùng xuống, cũng đừng ưỡn lưng quá thẳng sẽ làm đầu bị căng. Hai vai giữ xuôi đều tự nhiên. Mắt mở rơ và nh́n xuống một điểm gần trước mặt. Giai đoạn mới tuyệt đối không được nhắm mắt, v́ phải mở mắt mới thấy thân ḿnh có lắc, động, nghiêng hay không khi so sánh với cảnh vật chung quanh.

Lưỡi gác trên chân răng trên (hơi ép ra một chút )

Hai tay phải hơi khuỳnh ra ngoài, đừng buông xuôi ép sát vào hông.

Đầu không ngẩng lên, có vẻ hơi cúi xuống một chút xíu.

a– Biết rơ toàn thân.

Luôn luôn biết rơ toàn thân, từ đầu đến chân, biết rơ từng ngón tay, từng bắp thịt. Biết một cách nhẹ nhàng, nhưng biết rất rơ.

Việc biết rơ toàn thân này có hai cái lợi :

+ Một, giúp cho cơ thể được khỏe hơn .

+ Hai, tạo dần sức Tỉnh giác biết rơ mà về sau sẽ dùng để kiểm soát tâm, để ứng dụng vào pháp môn dụng Tâm.

Tâm thức chúng ta rất phức tạp. Nếu không có sức Tỉnh giác mạnh, chúng ta không thể thấy rơ được Tâm ḿnh. Và việc luyện tập phát triển sức Tỉnh giác là do 2 nguyên nhân gần và xa.

– Gần là chính cái Biết rơ toàn thân sẽ tạo thành sức tỉnh giác về sau.

– Xa là chính những cái phước ta tích lũy được từ trước sẽ tạo thành sức Tỉnh giác khi ta cần phải kiểm soát tâm.

Trong các Kinh điển Nikaya, Đức Phật cũng dạy cái tác ư biết rơ toàn thân qua câu:

“Biết rơ toàn thân ta thở vào; biết rơ toàn thân ta thở ra. . .”

b – Giữ thân bất động nhưng mềm mại.

Đương nhiên khi tọa Thiền, chúng ta phải giữ thân bất động. Song song với việc Biết rơ toàn thân, chúng ta nhẹ nhàng giữ thân bất động không nhúc nhích. Từng bắp thịt, ngón tay... đều được giữ yên không cử động. Cái tác ư Giữ Thân bất động lâu ngày sẽ là một sự hỗ trợ lớn lao cho việc nhiếp tâm vào Định sau này.

Nếu không tác ư giữ thân bất động, thân sẽ không được vững chắc và có thể bị nghiêng ngửa, lay động, nhúc nhích về sau. Khi đó, tâm cũng bị ảnh hưởng rất nặng và sức định sẽ bị phá.

Tuy nhiên, giữ thân bất động không có nghĩa là kềm chặt, gồng cứng thân người. Toàn thân phải được ở trong trạng thái mềm mại.

Bất động nhưng phải mềm mại.

Không nhúc nhích nhưng cũng không gồng cứng.

Chúng ta phải luôn luôn kiểm soát coi chừng ngồi yên một lát sẽ có những thớ thịt, ngón tay... tự nhiên gồng cứng lên. Phải nhận ra và nhanh chóng thả lỏng lại.

c – Quán thân là vô thường hư ảo.

Ngồi yên theo dơi thân chừng vài phút, chúng ta lại tự nhủ thầm:

“Thân này là Vô thường Hư ảo.”

Lâu lâu lại tự nhắc như vậy.

Cái công phu Biết rơ toàn thân cộng với tác ư giữ thân Bất động mềm mại là sự chuẩn bị cho việc dụng Tâm theo pháp môn kế theo. Nhưng v́ do chú ư vào thân quá có thể làm phát triển cái chấp về thân, xem thân là quan trọng.

Hơn nữa, dù b́nh thường, việc Quán thân này là Vô thường cũng là một pháp tu quan trọng trong đạo Phật.

Tóm lại, Điều thân, ngoài việc ngồi đúng cách, c̣n có 3 tác ư quan trọng:

Một là Biết rơ toàn thân.

Hai là Giữ thân bất động nhưng mềm mại.

Ba là Thấy thân là Vô thường hư ảo.

Công phu Điều thân ban đầu rất quan trọng. Không chỉ quan trọng ở buổi đầu mà vẫn quan trọng đến suốt đời tu hành. Sau này khi hành giả đă tiến đến những giai đoạn dụng Tâm cao hơn th́ công phu Điều thân vẫn không được bỏ qua.



V – Giám Thiền.

Thông thường khi mới tập tọa Thiền, Đại chúng cần phải được theo dơi bởi một vị Giám Thiền có kinh nghiệm. Người Giám Thiền phải chịu cực theo dơi sửa chữa tư thế ngồi cho Đại chúng từng chút một. Một chút sai ban đầu không được sửa kỹ sẽ thành cái tật lâu dài về sau.

Người Giám Thiền phải tinh ư nhận ra nơi người đang ngồi một chút xíu nghiêng, một chút xíu lêch vai, lưng hơi chùng, mắt đảo tṛng, thậm chí phải nh́n ra được bắp thịt nào đang bị gồng cứng.

Người ngồi Thiền không kỹ, hai tay dễ bị buông vào sát hông. Phải nhắc họ khuỳnh 2 tay ra xa hông.

Phải coi chừng ánh mắt họ nh́n không đúng ở giữa, hoặc nh́n quá xa, và tuyệt đối không cho nhắm mắt.

Nếu nh́n thấy họ ngồi có vẻ không đẹp, không thư thái, không nghiêm trang th́ phải biết c̣n có cái ǵ chưa hoàn chỉnh.

Nếu chúng hơi đông hơn 20 người th́ phải có 2 người Giám Thiền, v́ Giám Thiền cho kỹ lưỡng th́ rất cực chứ không đơn giản. Mắt phải tinh, tâm phải sáng th́ Giám Thiền mới có thể phát hiện ra cái sai rất nhỏ của người đang ngồi.

Nên tập cho Đại chúng luân phiên làm Giám Thiền v́ đây là công việc khá nặng nhọc.

Người Giám Thiền phải đi nhẹ nhàng êm ái, nhưng mắt phải quan sát rất kỹ. Có thể dùng một cây Thiền bảng dẹp để khỏi phải chạm tay trực tiếp vào thân người mỗi khi cần sửa. Chạm cây Thiền bảng rất khẻ vào lưng hay vai để người ngồi hiểu ư mà sửa lại.

Nếu sửa trên đầu th́ nên dùng ngón tay nhè nhẹ.

Đôi khi phải nói nhỏ để người ngồi biết mà sửa.

Thường là thấy ai bị sai cái ǵ th́ sau khi sửa xong phải theo dơi lại thường xuyên v́ họ hay bị lập lại cái sai đó. Phải sửa và theo dơi đến khi nào thấy hết hẳn cái tật đó mới thôi.

Người nào hôn trầm th́ thường là do không Biết rơ toàn thân.

Có người bị rung v́ gân cứng quá. Ngồi vài bữa sẽ hết.

Vừa chính ḿnh ngồi Thiền, vừa giám Thiền cho huynh đệ th́ sẽ có thêm kinh nghiệm.



HƠI THỞ - XẢ THIỀN

I- Có nhiều loại Hơi Thở được dùng trong công phu tu tập Thiền Quán. Nhưng Hơi Thở được nêu ra ở bài này không phải là Pháp Môn tu tập. Qua đến phần Pháp Môn, chúng ta sẽ nêu ra loại Hơi Thở được dùng để nhiếp tâm vào Định.

Hơi Thở trong giai đoạn hiện nay chỉ là sự phát triển cao hơn của phương pháp Điều Thân, nghĩa là có tính chuẩn bị cho việc dụng tâm về sau. Hơi Thở này có hai tác dụng.

– Một là hỗ trợ sức khỏe.

– Hai là tạo thành tiềm lực tinh thần.

Và chính cái tiềm lực Tinh Thần đó là sức mạnh để sau này hành giả nhiếp tâm vào Định được dễ dàng hơn.



II- Trước khi nói về Hơi Thở, chúng ta biết qua về nguyên lư Âm Dương (xin xem Đạo Phật với triết lư Âm Dương, Chơn Quang). Nguyên lư này cho rằng mọi cấu thể đều có thể chia làm 2 phần.

– Một là phần khuất kín.

– Hai là phần bộc lộ.

Phần khuất kín được gọi là Âm và phần bộc lộ được gọi là Dương.

Sau khi quan sát mọi hoạt động, tác dụng của hai phần Âm và Dương trong các cấu thể, chúng ta nhận ra rằng chính cái phần Âm (khuất kín) là cái nền, cái gốc của toàn bộ Cấu Thể. Ví dụ như rễ cây nằm khuất kín dưới đất chính là phần quan trọng cho toàn bộ cái cây, móng nhà ch́m sâu dưới đất là căn bản quan trọng cho toàn bộ cái nhà; phần máy móc chíp điện tử nằm bên trong CPU là phần quyết định cho những h́nh ảnh hiện ra trên màn h́nh Monitor của computer.

Nhưng đa phần chúng ta dễ bị thu hút bởi cái hào nhoáng bên ngoài (Dương) hơn là chú ư đến cái gốc Âm nằm khuất đằng sau.

Cũng vậy, khi tu tập, chúng ta hay chú ư đến phần tâm, hoạt động của năo ở trên (Dương) hơn là để ư đến phần bụng ở dưới. Không ngờ rằng chính cái lực được tích lũy dưới bụng mới là cái gốc của sức mạnh tinh thần ở trên.

V́ vậy, để chuẩn bị cho việc nhiếp tâm về sau, chúng ta phải tập luyện Hơi Thở Bụng. Hơi Thở Bụng được tập luyện lâu ngày sẽ trở thành sức mạnh ở gốc Âm và tạo thành tiềm lực tinh thần hỗ trợ rất mạnh cho việc nhiếp tâm khi chúng ta đi vào pháp môn tu tập.



III- Chúng ta phải tu tập Điều Thân cho thật kỹ trước khi bước vào Hơi Thở Bụng. Đừng vội vàng đi vào Hơi Thở Bụng trong khi công phu Điều Thân chưa thuần thục.

Hơi Thở là một phương pháp khó. Nhiều người tu tập Hơi Thở không lâu đều bị cảm giác nghẹn, tức, khó chịu. Riết rồi họ rất sợ khi nghe nói đến Hơi Thở.

Lúc nào chúng ta cũng phải Thở ra Thở vào, thở một cách vô ư thức. Đến khi có ư thức, có chú ư đến Hơi Thở th́ Hơi Thở lại bị mất tự nhiên, bị trở ngại.

Cái gốc của vấn đề nằm ở PHƯỚC. Nếu Hơi Thở bị trở ngại quá đáng tức là Phước chúng ta chưa đủ. Phải cố gắng sống đời vị tha, khiêm hạ và lễ Phật thật nhiều.

Nguyên nhân thứ hai là v́ chúng ta chưa nắm vững phương pháp Thở. Dưới đây là những Nguyên Tắc cho việc tu tập Hơi Thở.



1. Không cố gắng thở dài.

Khi Hơi Thở đă thuần thục, chúng ta có thể kéo một hơi thở rất dài. Nhưng ban đầu, việc kéo dài hơi thở sẽ làm chúng ta mệt và nghe nghẹn tức nơi ngực dưới. V́ vậy, ban đầu, chúng ta chỉ Thở dài hơn b́nh thường một ít. Không được cố gắng Thở dài quá.

Sau này thuần thục, dù không cần cố gắng, Hơi Thở sẽ dài một cách tự nhiên dễ chịu.



2. Thở một cách êm ái nhẹ nhàng.

Chúng ta phải chọn cho ḿnh một cường độ Hơi Thở sao cho tự ḿnh cảm thấy an lạc dễ chịu. Đó sẽ là Hơi Thở thích hợp với thể tạng riêng của ḿnh. Thường th́ Hơi Thở đó êm ái nhẹ nhàng. Tuyệt đối không được Thở mạnh v́ muốn lấy cho nhiều hơi, nhiều oxy. Lúc Tọa Thiền, cơ thể ta không cần nhiều oxy như lúc làm việc.



3. Hơi Thở chỉ đi ngoài Da.

Trong việc tập Thở Bụng, hơi thở sẽ được cảm thấy như đi từ trên xuống tận Đan Điền, Khí Hải ở bụng dưới, dưới rốn 5 phân. Nhưng Tuyệt Đối chúng ta không được tưởng tượng dẫn Hơi Thở đi sâu trong thịt, chỉ tưởng tượng Hơi Thở đi phơn phớt ngoài Da. Nếu tưởng Hơi Thở đi sâu, ta sẽ cảm nghe nghẹn tức. Hơi Thở đi ngoài da làm cơ thể chúng ta sảng khoái khỏe khoắn.

Hơi Thở ǵ đi xuống bụng ?

Nếu theo những kiến thức khoa học hiện nay th́ chỉ có Hơi Thở đi vào 2 buồng phổi là hết, không hề có Hơi Thở nào đi xuống bụng cả. Tuy nhiên đây lại là sự thật. Thật sự tồn tại những luồng lực vô h́nh chi phối khắp cơ thể con người.

Tây Y chưa có khái niệm ǵ về các luồng lực vô h́nh này nên phương pháp chữa trị của họ vẫn để lại rất nhiều bịnh nan y. C̣n những bịnh họ cho là chữa được th́ để lại rất nhiều phản ứng phụ. Có khi phản ứng phụ c̣n nguy hiểm hơn cả cơn bịnh được chữa.

Ngược lại, Đông Y từ xưa đă ư thức về sự chi phối cuả các luồng lực vô h́nh này và vận dụng kiến thức đó vào việc chữa bịnh. Họ thấy được cái gốc của vấn đề nên việc chữa trị ít để lại phản ứng phụ. Dĩ nhiên sự kết hợp cả hai là điều rất cần thiết cho một nền y học hoàn hảo của ngày mai. Nhưng vấn đề là phải nhận ra sự tồn tại những luồng lực vô h́nh đan xen trong cơ thể.

Trong việc tập thở bụng, thở sâu, chúng ta chỉ lợi dụng hơi thở vật lư để kích thích sự hoạt động cuả các luồng khí lực vô h́nh này. Lâu ngày khi Hơi Thở Bụng thuần thục, chúng ta tạo được một nguồn lực ở dưới Đan Điền bụng dưới.



4. Thở Bụng.

Khi thở vào, bụng được ph́nh ra.

Khi thở ra, bụng được hóp vào.

Dĩ nhiên là việc ph́nh bụng hay hóp bụng được vận động một cách nhẹ nhàng, vừa phải. Không được cố gắng ph́nh cho nhiều, hóp cho nhiều.

Và điều quan trọng là Hơi Thở ở dưới bụng cũng chỉ ở ngoài Da, dù có vẻ tràn đầy chung quanh Đan Điền. Không cảm thấy Hơi Thở ở sâu trong ruột.



5- Vẫn biết rơ toàn thân.

Như đă nói, Điều Thân là nền tảng của Thiền Định. Dù chúng ta có tu dần dần lên những phương pháp khác th́ Điều Thân vẫn không được để mất. Điều Thân giống như một cái sàn rộng mà từ từ chúng ta đặt thêm lên đó các món khác.

Chúng ta điều khiển Hơi Thở vẫn trên căn bản Biết Rơ Toàn Thân, giữ thân Bất Động mềm mại, vẫn lâu lâu tự nhắc Thân Vô Thường Hư Aûo.

IV- HƠI THỞ 3 TH̀.

Hơi Thở như trên là Hơi Thở 2 th́, một th́ ra và một th́ vào. Sau 6 hoặc 7 tháng tu tập Hơi Thở 2 th́ khá thuần thục, ta sẽ chuyển sang Hơi Thở 3 th́. Nên nhớ là không được thở 3 th́ vội. Chỉ khi nào Hơi Thở 2 th́ đă quá tự nhiên, dễ dàng và dài th́ mới được chuyển sang Hơi Thở 3 th́.

Hơi Thở 3 th́ là:

– Hít vào (ph́nh bụng ra).

– Giữ yên lại (toàn thân bất động mền mại).

– Thở ra (hóp bụng vào).

– Chưa cần hít vào liền (giống như th́ 4).

Thời gian mỗi th́ lệ thuộc vào cảm giác do chính ḿnh thường xuyên kiểm soát. Hít vào ở mức độ như vậy ta cảm thấy vừa đủ; giữ yên lại một chút như vậy ta cảm thấy vừa đủ; thở ra...Tất cả đều phải chú tâm để kiểm soát xem có thích hợp hay không.

Lúc giữ yên lại khi đă đầy hơi là vô cùng ích lợi cho việc tích tụ Nội Lực. Tuy nhiên, nếu hơi thở 2 th́ chưa thuần thục th́ không nên gắng vội giữ hơi thở 3 th́.

Hỏi: Phép tập thở như vậy có đi quá xa chánh pháp hay không ?

Đáp: Phép tập thở như vậy chỉ là một cái Thuật để chuẩn bị cho công phu Thiền Định tiếp theo. Thuật thở này sẽ biến thành tà pháp nếu chúng ta hướng tâm về mục tiêu tà vậïy, như Trường Sinh, Sức Khỏe, Thần Lực...Thuật thở này sẽ biến thành Chánh pháp nếu chúng ta có một hướng đi xác quyết về mục tiêu Vô Ngă.

Trong cuộc sống, không phải chỉ phép tập thở này mới là Thuật mà c̣n vô số các sinh hoạt khác cũng là Thuật, như cách nấu ăn, cách may mặc, cách nói chuyện, cách làm văn... Nếu ta dùng những Thuật đó vào việc tà th́ nó thành tà. Nếu ta dùng những Thuật đó cho một đời sống Đạo Đức Thánh Thiện th́ nó là chánh. Chánh hay Tà do cách sử dụng của chúng ta.

Hơn nữa, việc tích tụ nội lực bằng tập thở là cách hỗ trợ rất lớn cho việc nhiếp tâm vào Định về sau.

V- XẢ THIỀN.

Quyết định đă đến lúc Xả Thiền hay chưa là một việc làm của Trí Tuệ.

Nếu c̣n có thể chịu đựng cái đau chân, cái mỏi mệt để tiếp tục ngồi mà chúng ta vội Xả Thiền th́ đó là sự phí phạm - Mà sự phí phạm nào cũng làm tổn phước. Lâu ngày chúng ta mất dần ư chí, và không c̣n phước để ngồi lâu nữa.

Nếu đă đau mỏi nhiều mà ta vẫn ráng hết sức để ngồi th́ đó lạm dụng Ư Chí. Ư Chí bị lạm dụng sẽ làm tăng trưởng Ngă Chấp, đưa đến kiêu mạn, nóng nảy...

V́ vậy chúng ta chọn lúc Xả Thiền sao cho không phí phạm ư chí khi vẫn c̣n sức để ngồi thêm, và không lạm dụng ư chí khi đă quá đau mỏi.

Việc quy định thời gian chung cho Đại Chúng chỉ là việc làm gượng gạo tạm thời chứ không hợp lư.

Có những lúc ta có thể ngồi thêm nhưng v́ trách nhiệm với Đại Chúng, v́ đến giờ phải làm việc chùa ǵ đó nên phải Xả th́ không mất tội phí phạm Ư Chí. Đời sống Vị Tha vẫn giữ cho chúng ta cái phước để tu về sau.

Trước khi vận động Xả Thiền, chúng ta tác ư cầu nguyện cho tất cả chúng sinh đều được Giải Thoát.

Kế đó thở mạnh ba lần.

Cúi đầu và ngước đầu nhẹ nhàng khoảng 10 lần.

Quay đầu qua lại nhẹ nhàng khoảng 10 lần.

Rồi chuyển động 2 vai nhẹ nhàng khoảng 10 lần.

Rồi xoay eo (cả phần trên quay theo) qua lại khoảng 10 lần.

Rồi bóp bóp 2 bàn tay, chà 2 bàn tay cho nóng áp lên đôi mắt.

Rồi dùng tay xoa mặt, đầu, tai, cổ, lưng, ngực, hông, sườn. Xoa càng kỹ càng tốt.

Rồi từ từ kéo chân ra, xoa chân.

Ngồi yên thư thái khoảng nửa phút rồi thong thả đứng lên đi bách bộ (kinh hành).

VI- VÀI THẮC MẮC.

Hỏi: Khi ngồi Thiền mà mồ hôi ra nhiều th́ sao?

Đáp: Đó là do thân nhiệt tăng. Thân nhiệt tăng v́ nguồn lực từ gốc Âm ở bụng dưới bốc lên. Nếu không có phương pháp thở bụng để bổ sung th́ ngồi Thiền lâu ngày sẽ làm cho người ta yếu mất âm lực. Khi âm lực đă yếu th́ ngồi Thiền ít ra mồ hôi.

Người tích tụ được Âm lực mạnh hay người có định th́ mồ hôi cũng bớt ra.

Hỏi: Các pháp môn đều chú trọng việc dụng tâm. kiểm soát Tâm, tác ư nơi Tâm, mà tâm là hoạt động của năo ở trên. Như vậy việc dụng Tâm luôn luôn làm lực chạy lên trên và làm gốc Âm bị trống?

Đáp: Đúng vậy! Các pháp môn đều làm lực chạy lên trên. Do đó, trước khi đi vào pháp môn, chúng ta phải khôn ngoan tập thở bụng để giữ gốc Âm lại.

Hỏi: Khi mới ngồi Thiền thường hay có cảm giác ngứa ngáy trên mặt như có con ǵ ḅ, tại sao?

Đáp: Đó là phản ứng (hay dị ứng) của thần kinh mặt khi chúng ta đang đi ngược lại sự biến động, sự xao động từ trước. Ngồi Thiền một thời gian sẽ hết.

Những tư tuởng bất thiện cũng làm xuất hiện cảm giác ngứa mặt khi ngồi thiền.

Hỏi; Đạo Đức và Phước ảnh hưởng đến công phu Thiền Định như thế nào?

Đáp: Cực kỳ quan trọng! Không có Đạo Đức và không có phước, không ai có thể tiến sâu vào Thiền Định.

Thiền Định đúng làm tăng trưởng Đạo Đức (và cả phước) và Đạo Đức làm tăng trưởng Thiền Định.

Trước khi tu tập Thiền Định, chúng ta phải tu dưỡng Đạo Đức đến chỗ gần như thuần thiện (Xin xem Tâm Lư Đạo Đức, Chơn Quang). Nhiều người cho rằng chỉ việc tinh tấn hết sức ḿnh th́ có thể vào Định được. Thực sự không phải vậy. Chính công đức lễ Phật, Đời Sống Vị Tha và Tâm Khiêm hạ là nền tảng cho công phu Thiền Định.


CÁC PHÉP QUÁN PHÁ CHẤP

I– Nếu không phân tích Tâm theo cơ cấu năm Uẩn (Ấm) một cách chi li phức tạp, ta có thể chia Tâm theo hai phần đơn giản: Gốc và Ngọn.

Ngọn của Tâm, hay bề ngoài của Tâm là những ư nghĩ mà ta có thể thấy được.

Gốc của Tâm, hay bề trong của Tâm, là những tính t́nh khuynh hướng, quan niệm, thành kiến, Đạo Đức, t́nh cảm... mà ta không thấy rơ lắm.

Chính cái gốc đă tạo thành cái ngọn. Chính những tính t́nh, t́nh cảm, khuynh hướng, quan niệm, Đạo Đức... bên trong tạo thành những ư nghĩ bên ngoài.

Nếu chúng ta tu tập Thiền Định mà chỉ lo nhiếp tâm để phá trừ vọng tưởng tức là chúng ta chỉ lo cái ngọn mà không lo cái gốc. Đă có rất nhiều, rất nhiều người nhiếp tâm được, phá được vọng tưởng mà nhân cách vẫn kém cỏi, Đạo Đức vẫn khuyết lở, tính t́nh vẫn chưa tốt. Họ tạm thời vặt hết lá cây nhưng gốc cây chưa đốn. Gốc bên trong c̣n th́ lá sẽ mọc lại không mấy khó khăn.

Người tu Thiền khôn ngoan là người vừa lo dọn lá bên ngoài vừa lo đốn gốc bên trong, vừa dùng một pháp môn để nhiếp tâm, vừa dùng các phép quán để phá trừ những quan niệm kiến chấp sai lầm bên trong. Người tu tập Thiền định phải khéo léo sử dụng các phép quán phá chấp trước khi đi chuyên sâu vào việc nhiếp tâm yên tĩnh theo một pháp môn nào đó.



II– Một phép quán truyền thống theo hệ thống Bát Nhă là quán Vô Thường. Theo phép quán này, Hành Giả cố gắng trong từng phút giây của cuộc sống đều tự nhủ thầm rằng tất cả đều vô thường, nghĩa là tất cả đều đang thay đổi, đang biến dịch... Hành Giả nghĩ đến thân và thấy thân là vô thường, ngày nào đó sẽ tan hoại. Hành Giả nh́n thấy thế giới và thấy mọi điều trong thế giới này đều sinh rồi diệt, sinh rồi diệt không đứng yên. Hành Giả nh́n lại Tâm và thấy Tâm là ḍng tư tưởng không dừng trụ, hết ư nghĩ này sang ư nghĩ khác biến đổi liên tục.

Hành Giả quan sát như vậy trong bốn oai nghi, trong mọi phút giây của cuộc sống.

Kết quả của phép quán này là làm cho trong thâm sâu tâm tưởng chúng ta rời xa sự tham đắm vào thân, tâm và cảnh. V́ không c̣n tham đắm, không c̣n xem quan trọng với mọi thứ, chúng ta không c̣n bận tâm để suy nghĩ nữa. Cái sức mạnh ngấm ngầm bên trong thúc đẩy chúng ta suy nghĩ, bây giờ không c̣n nữa. Do vậy, dù chưa đắc định, tâm ta đă nghe thảnh thơi nhẹ nhàng. Có những người chỉ quán Vô thường này thôi mà đă đắc định và đạt Đạo Quả luôn.

Đôi khi vài người đă suy diễn lư Vô Thường này theo hướng rất “tích cực”. Họ cho rằng nhờ có lư Vô Thường mà người ta có thể biến đổi sự vật từ xấu thành tốt. Ví dụ, nhờ mọi việc có thể thay đổi được mà người ta đă chế tạo nên xe hơi máy bay, TV, phi thuyền. Nếu không th́ không có ǵ thành tựu cả. Lối giải thích như vậy làm người ta yêu đời hơn và, ít muốn tu hơn!



III– Một phép quán cao hơn của lư Bát Nhă là xem cuộc đời chỉ là giấc mộng.

Ngay trong cuộc sống hiện tại này, Hành Giả thấy tất cả chỉ là giấc mộng hư ảo. Mọi cảnh chỉ như giấc chiêm bao. Cả người đang tu cũng chỉ là người trong mộng. Những cảnh xe cộ ngược xuôi, phố xá náo nhiệt hay cảnh rừng núi u tịch, chùa am thanh vắng... đều là chuyện chiêm bao.

Tuy nhiên, những điều huyễn hóa trong chiêm bao này lại diễn tiến theo Luật Nhân Quả Nghiệp Báo. V́ vậy, tuy mọi chuyện là huyễn hóa mà vẫn không sai lư Nhân Quả, tuy không sai lư Nhân Quả mà vẫn là huyễn hóa.

Hành Giả vẫn nỗ lực làm phước nhưng vẫn biết người làm phước và quả báo vị lai đều là huyễn hóa. Hành giả vẫn siêng năng lễ Phật nhưng vẫn biết Phật và chúng sanh đều là “không tịch”, rỗng lặng.

Thâm nhập được phép quán này tâm Hành Giả trở nên yên tĩnh, lắng sâu, sáng suốt. Nhưng cái tâm thanh tịnh đó cũng chỉ là huyễn hóa, người được cái tâm đó cũng chỉ là huyễn hóa.

Lư Bát Nhă này nói măi không cùng.

Ngoài hai phép quán quan trọng trên, c̣n có lư Duyên Hợp, xem mọi thứ đều do nhiều nhân duyên hợp thành, không có thực thể cố định.

Lư Bát Nhă này phá chấp rất tốt, giúp tâm thanh thản không c̣n bận tâm đến mọi chuyện. Tuy nhiên, một phản ứng phụ sẽ xảy ra là tâm Từ Bi sẽ bị suy yếu dần do thái độ lănh đạm với cuộc đời. Tâm Từ Bi là một thuộc tính của Thánh. Thiếu Từ Bi, chúng ta sẽ khó vào được ḍng Thánh. V́ vậy, ngoài những phép quán để phá chấp như trên, chúng ta phải có những phép quán để tăng trưởng Đạo Đức. Một phản ứng phụ khác cũng được ghi nhận là v́ không c̣n thấy có mục đích nào để hướng tới nên hành giả dễ bị mất dần ư chí. Để vượt qua khuyết điểm này, hành giả phải siêng năng lễ Phật.



IV– QUÁN TỪ BI (xin xem Tâm Lư Đạo Đức)

Từ Bi là ḷng thương yêu tất cả chúng sinh khắp trong ba cơi sáu đường. Ḷng thương yêu này có hai tính chất:

– Không đ̣i hỏi được thương trở lại một cách vị kỷ.

– Với người khác phái th́ không xen lẫn một chút ham muốn ô nhiễm nào.

Khi ngồi Thiền lễ Phật, Hành Giả trải ḷng thương yêu đến vô tận vô biên trùm phủ muôn loài, cả thế giới hữu h́nh lẫn thế giới vô h́nh, cả loài người hay loài thú, cả cơi trời hay địa ngục.

C̣n trong cuộc sống th́ khi tiếp xúc với ai đều âm thầm trải ḷng thương yêu họ. Đối với người khác phái th́ phải gạn sạch tâm ô nhiễm trước rồi mới hướng tâm Từ Bi đến họ sau.

Phải thực hành quán Từ Bi trong khi ngồi Thiền cũng như trong đời sống đến khi nào ta nhận thấy ḷng ḿnh thực sự hiện diện một ḷng thương yêu chúng sinh một cách sâu đậm tràn đầy. Như vậy khi quán Bát Nhă để phá chấp, ta không bị rơi vào thái độ lănh đạm với chúng sinh, dần dần thành tựu một cuộc sống vị tha trọn vẹn.



V– TRỪ DIỆT KIÊU MẠN.

Tâm kiêu mạn tàn phá công đức một cách khủng khiếp. Khi trong tâm hồn của chúng ta tồn tại một mầm mống nhỏ của kiêu mạn, điều đó có nghĩa là ba đường ác đă có lối vào. Người thành công sẽ dừng lại, người ở địa vị cao sẽ bước xuống, người chưa nhiễm ô sẽ bị nhiễm... Do đó, kẻ thù nguy hiểm nhất của người đi t́m Giải Thoát chính là tâm kiêu mạn nơi ḿnh.

Để trừ diệt kiêu mạn, chúng ta phải thực hành như sau:

– Khi vào ngồi thiền, tác ư ḿnh chỉ là cỏ rác, là cát bụi tầm thường.

– Khi tiếp xúc với mọi người, âm thầm khởi tâm tôn trọng họ.

– Tránh hẳn sự khoe khoang, không nói cái hay của ḿnh cho người khác biết. Tận trong thâm tâm, nếu ḿnh tự cho ḿnh có ưu điểm ǵ, đạt được kết quả tu tập nào, phải nghĩ rằng những điều đó chỉ là cát bụi so với chư Thánh.

– Không được có ư tranh hơn với ai, xin nhấn mạnh là chỉ mới “có ư” là phải sám hối. Mỗi khi nghe kể về ưu điểm của người khác, chúng ta phải chân thành vui mừng cho họ. Nhưng không được so sánh để t́m xem ḿnh hơn họ chỗ nào. Lúc nào cũng mong cho chúng sinh đạt được tiến bộ vượt bực trên đường tu tập.

Rất nhiều người ban đầu tu hành tiến bộ, sau đó v́ tâm hơn thua mà đă thối đọa. Hành Giả phải hết sức cẩn thận về điều này.



VI– VÔ NGĂ

Trí tuệ cao nhất trong Phật Pháp chính là Vô Ngă. Dù rất nhiều kinh điển Đại Thừa diễn tả về lư tánh, pháp thân... chúng ta phải khẳng định là Vô Ngă mới là Trí Tuệ tối hậu. Rất nhiều ngoại đạo đắc định rất sâu nhưng chưa đạt đến Vô Ngă nên không thể bằng Phật hay các vị Alahán.

Vô Ngă là cái rất khó vượt qua. V́ vậy dù tu hành rất tinh tấn và có đạt được kết quả nào đó, chúng ta phải tự cảnh giác rằng Bản Ngă vẫn c̣n tồn tại. Có khi chúng ta đạt được trạng thái Tâm rỗng rang, thanh tịnh, thênh thang, thấy như không c̣n ǵ bên trong nữa, vậy mà vẫn phải hiểu rằng Bản Ngă chưa hề nhúc nhích.

Những phép quán Bát Nhă ban đầu cũng giúp làm nhẹ Ngă Chấp. C̣n về sau khi đi sâu vào Pháp Môn để nhiếp tâm, thỉnh thoảng chúng ta cũng phải tự nhủ thầm:

“Cái Ta này không có thật”

Nhiều người tu tập Thiền Định đạt được kết quả ban đầu như định được Tâm, hoặc bất ngờ tỏ ngộ và tâm chuyển sang một trạng thái sáng suốt rỗng rang khác, để rồi sau đó tâm kiêu mạn xuất hiện nhiều hơn lúc chưa tu. Đây là điều có thật, và khá phổ biến. Sở dĩ có t́nh trạng này v́ lúc đó Hành Giả măi lo chiêm ngưỡng trạng thái của Tâm mà quên rằng Bản Ngă vô h́nh ở đằng sau vẫn âm thầm tồn tại.v V́ vậy, người tu Phật phải lấy Vô Ngă làm mục tiêu tối hậu để không bị lạc lối hay tự măn giữa đường.



VII– Những phép quán như trên là sự chuẩn bị dọn dẹp kiến chấp và tăng trưởng Đạo Đức để công phu Thiền Định tiếp theo được thuận lợi suôn sẻ. Riêng hai phép quán Vô Thường, Mộng Huyễn có thể được dùng như pháp môn để tu tập lâu dài nếu Hành Giả có duyên.

Hỏi: Khi ngồi Thiền, chân bị đau, quán cái đau là hư ảo, nhưng tại sao cái đau vẫn không hết?

Đáp: Cái đau là hư ảo, cái cảm giác khó chịu là hư ảo, cái ư muốn hết đau cũng là hư ảo.

Hỏi: Trong cuộc sống, có khi nhớ các pháp là hư ảo, nhưng có khi quên. Những khi quên th́ thấy tâm xao động lăng xăng. Làm sao cho đừng quên?

Đáp: Lúc nào nhớ các pháp là hư ảo th́ phải quan sát một cách sâu sắc. Nhờ thấm nhuần nên bớt bị quên hơn.

Hỏi: Quán sát một cách sâu sắc là như thế nào?

Đáp: Trước hết thấy các pháp bên ng̣ai là hư ảo, huyễn hóa, sau đó thấy người quan sát cũng là hư ảo huyễn hóa, những trạng thái lăng xăng hay thanh tịnh cũng là hư ảo huyễn hóa… Thật ra chính phước trong vô h́nh đă hỗ trợ cho trí quán như thế. Nhờ phước này mà bất cứ pháp nào đến, ta cũng đều nhanh chóng thấy nó là huyễn hóa để không chạy theo. Trường hợp, gặp việc mà không nhớ rằng các pháp là huyễn hóa, có nghĩa là phước c̣n thiếu.


CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

I- Trong Bát Chánh Đạo, Chánh Niệm là Chánh Đạo thứ 7. Chánh Niệm chuẩn bị cho Chánh Định.

Niệm có nghĩa là nhớ, là không quên, không đánh mất. Không quên, không mất cái ǵ?

Chánh Niệm là không quên pháp môn mà ḿnh đang áp dụng tu tập trong tâm.

Như trước đă nói, trong đạo Phật có nhiều pháp môn tu tập Thiền định. Mỗi pháp môn đều có ưu và khuyết điểm không giống nhau. Tùy duyên mỗi người sẽ chọn một pháp môn thích hợp.

Chánh Niệm nghĩa là giữ được pháp môn của ḿnh trong từng giờ phút của cuộc sống.

Tuy nhiên tất cả pháp môn đều có một chỗ chung đồng không thể phủ nhận. Đó là sức Tỉnh Giác Biết rơ vọng tưởng, không bị đồng hóa với vọng tưởng, không trôi theo vọng tưởng và có thể hóa giải vọng tưởng.

Dù chúng ta tu bất cứ Pháp môn nào, nhưng đến lúc tiến bộ, tâm ta đều xuất hiện trạng thái Tỉnh Giác giống hệt nhau. Nơi ánh sáng Tỉnh Giác này, vọng tưởng vừa khởi lên là bị Biết, bị tách ra thành một đối tượng bên ngoài. V́ vậy cái Chú Ư của ta (xin xem Năm Ấm là ǵ, Chơn Quang) không trôi miên man theo vọng tưởng từ ư nghĩ này sang ư nghĩ khác. Vọng tưởng không được sự hỗ trợ cuả cái Chú Ư nên yếu ớt và tự tan biến.

Lúc mê, mỗi vọng tưởng đều kéo cái Chú ư của ta đi theo nó. Trong thế giới mênh mông phức tạp của vọng tưởng, cái Chú Ư bị dẫn dắt vào đủ thứ chuyện trên đời của T́nh, Tiền, danh vọng, vật chất, hơn thua, thù oán, chiến tranh, bệnh tật...

Lúc tỉnh, cái Chú Ư không trôi theo vọng tưởng nên cũng không đắm ch́m vào những chuyện trần thế. Lúc đó ta dễ hiểu ra thế gian này là Vô Thường Hư Aûo.



II– V́ vậy, có thể tách ra khỏi các pháp môn, chúng ta vẫn sử dụng được phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác để kiểm soát tâm trong giai đoạn Tiền Chánh Định ( Trước khi vào Chánh Định).

Trong rất nhiều bài kinh Nikaya, Đức Phật luôn dạy rất kỹ giai đoạn tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác như là một điều kiện quan trọng để bước vàoThiền Định thật sự.

Vị Tỳ Kheo trong mọi oai nghi, sinh hoạt đều luôn luôn Tỉnh Giác kiểm soát Tâm. Dù đó là lúc cất chân, hay nhấc tay, lúc ăn uống hay nghỉ ngơi, lúc nói năng hay yên lặng, lúc đại tiện hay tiểu tiện, lúc xoay đầu hay nh́n ngó, lúc đông người hay vắng vẻ... đều kỹ lưỡng nhưng nhẹ nhàng theo dơi xem Tâm ḿnh có bị vọng tưởng khởi lên hay không.

Thiền Tông Trung Hoa gọi phương pháp này là Chăn Trâu( Theo Thập mục ngưu đồ). Từ ngày nay gọi là Tri Vọng.

Có 3 điều quan trọng cho phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác này.

Thứ nhất, dù làm bất cứ việc ǵ, Ta không chú ư vào công việc mà Chỉ lo chú ư kiểm soát tâm. Đừng sợ công việc không chu đáo kỹ lưỡng. Tâm yên tĩnh th́ tự động công việc sẽ chu đáo kỹ lưỡng. Nếu chú ư vào công việc tức là Tâm chạy ra ngoài, hơn nữa sự thay đổi từ việc này sang việc khác suốt cả ngày làm Tâm ta bị thay đổi theo, nếu ta chú ư vào nó. Do đó, chỉ lo Theo dơi Tâm chứ không chú ư theo công việc.

Thứ hai, nếu ta cố gắng theo dơi tâm mà lại hay quên rồi miên man trôi theo vọng tưởng, điều đó có nghĩa là tại ta Thiếu phước. V́ vậy phải cố gắng lễ Phật sám hối thật nhiều và ráng làm lợi ích cho mọi người, nhất là giúp người trong việc tu tập. Điều đó cũng có nghĩa là Aâm lực ở bụng dưới chưa nhiều. Hành giả cần tập Hơi thở bụng nhiều thêm nữa.

Thứ ba, mầm mống của vọng tưởng xuất phát từ vùng năo phía sau, nơi Đại năo giáp Tiểu Năo. Ư thầm kín th́ hoạt động khắp năo bộ, riêng ư phát khởi có ngôn ngữ lời nói th́ xuất phát từ một điểm tại đấy. V́ thế, khi theo dơi tâm, Hành giả để ư nhiều ở vùng năo phía sau sẽ dễ phát hiện những vọng tưởng c̣n mới manh nha. Một cái hay nữa là để ư ở phía sau như vậy, nh́n thấy tâm niệm vi tế như vậy, Hành giả dễ thấy được những sai lầm của ḿnh về mặt Đạo Đức, do đó nhanh chóng sửa đổi làm tăng trưởng Đức hạnh, làm mỏng nhạt ngă chấp.

Người để tâm ở phía trước lâu ngày dễ bị phát triển Ngă Chấp. Ngă Chấp phát triển th́ kiêu mạn phát sinh. Kiêu mạn phát sinh th́ nhiều lỗi lầm nối tiếp xuất hiện. Hành giả cần cẩn thận điều này.

Sau một thời gian thực hành Chánh Niệm Tỉnh Giác thuần thục, Tâm hành giả sẽ xuất hiện trạng thái rỗng rang, tỉnh sáng thường xuyên. Cái tỉnh sáng này vằng vặc rơ ràng trước mặt. Hành giả có khả năng phát hiện những tâm niệm rất vi tế từ khi nó chưa kịp khởi. Do vậy, Đạo Đức của hành giả dần dần hoàn thiện, khả năng Nhẫn Nhục tăng cao.

Trong Nikaya, Đức Phật đưa ra tiêu chuẩn làm kết quả cho người đă thuần thục Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đó là phá được Năm Triền Cái. Năm Triền Cái được phá kể như sau:

– Phá được hôn trầm – có thể thức khuya mà vẫn tỉnh táo.

– Phá được tham ái– không c̣n niệm ưa thích người khác phái, nhưng chưa phá hẳn được tham dục.

– Phá được sân – có khả năng b́nh thản trước nghịch cảnh.

– Phá trạo hối – không c̣n ray rứt v́ lỗi lầm cũ nhưng không phạm lỗi.

– Phá nghi – Vững niềm tin với Tam Bảo, ḷng tôn kính Phật vô biên, xác định đường đi đến giải thoát không hồ nghi do dự.

Nhiều người đến chỗ này rồi tự cho ḿnh đă Kiến Tánh, đă Chứng Thánh. Thật ra mức độ này chưa phải Sơ Thiền.



III– CHÁNH NIỆM THEO TỪNG PHÁP MÔN.

Trên đây là phương pháp Chánh Niệm thẳng tắt kiểm soát tâm. Kế đây chúng ta nói về ư nghĩ chánh Niệm theo pháp môn.

Ví dụ, người tu pháp môn Niệm Phật, lúc nào cũng ráng giữ tâm không quên câu Niệm Phật, cũng được gọi là Chánh Niệm. Hoặc người tu pháp môn Bát Nhă, lúc nào cũng nhớ quán thấy mọi thứ đều hư ảo không thật, cái ǵ đến với ḿnh đều nhớ liền đó là hư ảo, như vậy cũng được gọi là Chánh Niệm.

Hoặc người tu pháp môn công án, thoại đầu, lúc nào cũng truy t́m xem ư nghĩ công án đó, thoại đầu đó như thế nào, như vậy cũng được gọi là Chánh Niệm.

Tu Chánh Niệm phải giữ kỹ trong mọi thời mọi lúc không để quên mất. Nhưng v́ giai đọan này hành giả chưa thuần thục nên dễ bị “thất niệm” quên mất pháp môn, bị vọng tưởng dẫn đi lang thang.

Phước là điều kiện quan trọng để không bị mất Chánh Niệm.

So sánh giữa lối Chánh Niệm Tỉnh Giác thẳng tắt ở trên với Chánh Niệm dùng đến pháp môn th́ Chánh Niệm bằng pháp môn dễ giữ hơn. Câu niệm Phật dễ nhắc người ta nhớ lại công phu hơn. C̣n chỉ dùng cái Biết để theo dơi tâm th́ không cụ thể nên dễ bị mất.

Người căn cơ cao th́ có thể chỉ cần ráng tự biết lấy tâm ḿnh, tự kiểm soát lấy vọng tưởng vẫn có thể không mất Chánh Niệm. Người căn cơ thấp th́ phải dùng pháp môn làm phương tiện hỗ trợ.

Chư Tổ ngày xưa lập pháp môn Niệm Phật cũng rất có lợi cho chúng sinh. Rất nhiều người nhờ Niệm Phật rồi cũng nhiếp tâm vào định.



IV. CHÁNH NIỆM VỚI HƠI THỞ BỤNG.

Trong đời sống dường như chúng ta không thể tập trung vào hơi thở bụng. Nếu đă từng tích lũy hơi thở bụng th́ trong lúc đang thở b́nh thường, bụng vẫn thoi thóp nhẹ nhàng.

Khi đang c̣n tập hơi thở bụng để tích lũy Aâm lực, chúng ta chưa được gọi là tu tập Chánh định. Đó chỉ là giai đoạn chuẩn bị mà thôi.

Khi ngồi kiết già thở bụng, nếu c̣n biết rơ khu vực Đan điền th́ tạm gọi là có Chánh niệm. Nếu quên Đan điền để chạy theo vọng tưởng th́ gọi là thất niệm. Phải quay trở lại Đan điền.

Khéo thấy hơi thở đầy cả bụng nhưng phải giữ hết sức nhẹ nhàng. Không được có một chút gồng nơi bụng. Không được có lực nơi bụng. Nguyên tắc phải giữ là:

“Hơi th́ đầy, Lực th́ không.”

Hỏi: Khi thở ra có tưởng thấy hơi thở từ bụng đi ngược ra mũi không?

Đáp: Không nên. Tưởng như vậy th́ Âm lực không thành tựu v́ bị chạy lên lại. Lúc nào cũng để ư ở Đan điền. Hơi thở ra th́ có biết là đi ra, Nhưng không cần biết nó đi ra như thế nào. Để tránh dẫn hơi đi ngược lên, có khi người ta c̣n tưởng khi thở ra, hơi đi ra bằng hậu môn.

Hỏi: Khi thở bụng thấy toàn thân ấm lên, đúng hay sai?

Đáp: Đúng! Ấm một cách dễ chịu là đúng.



DỤNG CÔNG LINH ĐỘNG

1. Tiến tŕnh Tâm không bao giờ suôn sẻ

Trong các bài học trước, chúng ta nói qua các phương pháp dụng công căn bản của Thiền Quán, nhưng chưa thật sự chuyên sâu. Tuy nhiên, quá tŕnh thực hiện kỹ lưỡng các sự dụng công đó sẽ tạo nên nền tảng vô cùng quan trọng cho những giai đoạn về sau.

Mỗi giai đoạn dụng công như điều thân, hay hơi thở bụng… Chúng ta nên thực tập qua nhiều tháng trước khi bước sang giai đoạn kế tiếp. Điều mà tất cả hành giả đều tự thân kinh nghiệm là tiến tŕnh của tâm không bao giờ suôn sẻ. Có khi chúng ta thấy tâm được an lạc tỉnh giác nhưng cũng có khi chúng ta thấy tâm bị loạn động mê mờ. Không phải cứ tu là tâm vào định dần dần, mà kỳ thật, chúng ta sẽ thấy khi tiến khi lùi rất bất chừng.

Có khi chúng ta đang sử dụng một phương pháp dụng công rất thích hợp và tâm yên lắng dần. Chợt vài hôm sau tâm trở nên rối loạn mà phương pháp đó không giải quyết ǵ được. Đằng sau sự không suôn sẻ của tâm là nhiều nguyên nhân phức tạp, có khi của kiếp này, có khi của kiếp trước. Ngay cả có những người từng vào định mà sau đó thối thất bỏ tu, hoặc sau đó trở nên điên loạn. V́ vậy hành giả không bao giờ được chủ quan cho ḿnh sẽ thẳng tiến một khi bước đầu có kết quả, không bao giờ được cố chấp một phương pháp duy nhất khi tạm thời dụng công thấy đắc lực, phải hiểu rằng phía trước c̣n đầy những bất ngờ, những khó khăn, những cạm bẫy rất dễ làm chúng ta lạc lối.



2. Dụng công linh động.

Bốn phương pháp ban đầu sẽ được linh động ứng dụng để giữ tâm luôn luôn tỉnh giác không loạn động. Dưới đây là những gợi ư, chứ không bắt buộc, để hành giả hiểu được sự linh động cần thiết trong việc dụng công.

Khi bắt đầu vào tọa thiền, chúng ta chắp tay niệm Phật và phát nguyện như trong bài Điều Thân đă nêu ra, rồi sau đó kiểm soát khắp thân chừng vài phút, thấy ổn rồi, chúng ta bắt đầu thở bụng.

Khi để tâm ở Đan Điền thấy cả một bầu Đan Điền rỗng không sáng tỏ, hơi thở ra vào bụng pḥng xẹp rơ ràng, và vọng tưởng không khởi, th́ cứ tiếp tục thở bụng. Nhưng có trường hợp người vào thở bụng lại khó nhiếp tâm hơn là kiểm soát tâm từ vùng năo phía sau. Nên người này sau khi điều thân liền để ư ở sau năo cho tâm lắng yên rồi mới thở bụng.Tuy thở bụng mà tâm vẫn chủ yếu là để ư kiểm soát ở phía sau năo.

Có trường hợp người để tâm sau năo th́ thấy rất yên nhưng sợ mất Chân Âm nên khéo léo biết suốt từ trên đầu, khắp người và bụng dưới trong khi vẫn điều ḥa hơi thở nhẹ nhàng.

Có trường hợp người đang dụng công b́nh thường an ổn theo phương pháp để ư sau năo hay thở bụng, chợt hôm nọ vọng tưởng khởi măi không khắc phục được, liền đổi qua quán Từ Bi. Người này quán tưởng trải tâm thương yêu cùng khắp chúng sinh trong pháp giới, đến tận chúng sinh trong cơi vô h́nh. Duy tŕ trạng thái quán Từ Bi như vậy thật lâu, sau đó tự nhiên vọng tưởng bớt khởi và người này trở lại sự dụng công như trước.

Có trường hợp người đang dụng công b́nh thường chợt bị vọng tưởng dấy động không dứt được, liền đổi qua quán Bát Nhă thấy tất cả ta cùng vạn hữu chỉ là hư ảo mộng huyễn. Quán sát một lát th́ vọng tưởng lắng dịu rồi mới trở lại dụng công như trước.

Có trường hợp người đang dụng công b́nh thường, chợt bị vọng tưởng từ đâu tuôn khởi không thể kềm chế, liền xoay lại t́m xem trong mấy ngày qua ḿnh đă phạm phải lầm lỗi ǵ. Khi t́m ra lỗi th́ niệm Phật cầu sám hối. Niệm Phật sám hối suốt mười mấy phút như vậy rồi tâm mới yên lắng để trở lại dụng công như cũ. Có người không t́m thấy lỗi nhưng cũng vẫn niệm Phật sám hối một lát th́ mới tu tiếp được.

Có trường hợp người quán Bát Nhă thấy các pháp đều là hư ảo không thật có, tâm dần dần trở nên tỉnh sáng, rỗng rang, yên lắng. Đến khi tâm yên lắng rồi, cái tác ư quán tưởng cũng phải bị dẹp bỏ. Lúc đó hành giả tự nhiên lui lại chỉ c̣n để ư vùng năo phía sau xem chừng có niệm nào khởi lên hay không. Rồi một thời gian dài cứ để ư trên đầu măi nên Chân Aâm bị hao tổn, người này phải lập tức bổ sung phương pháp điều thân và thở bụng. Nếu không sẽ phát sinh những dạng Thiền bệnh khó chịu. Có trường hợp trong đời sống b́nh thường, hành giả lúc nào cũng giữ ǵn sự dụng công tu tập Thiền Quán. Nhưng đến khi đi qua chỗ đông người hay tiếp xúc với mọi người, hành giả liền khởi quán Từ Bi thương yêu tất cả. Nhờ có từ bi nên công đức của tâm được phát triển và Thiền Định được tiến bộ.

Có trường hợp đang giữ ǵn Chánh niệm trong đời sống b́nh thường, hành giả phải đối diện với nghịch cảnh gay gắt như bị vu khống, bị mưu hại, bị hoạn nạn, nghèo khó, bệnh tật… Lúc đó những phương pháp b́nh thường khó giữ cho tâm được b́nh thản mà phải tạm đổi sang phương pháp Quán Bát Nhă, Niệm Phật, suy nghiệm Nhân Quả Nghiệp Báo, quán thân Vô Thường, quán Từ Bi… mới giúp tâm đỡ buồn khổ.

Trường hợp những thuận cảnh đến làm phát sinh sung sướng như được khen tặng, đỗ đạt, giàu sang, tiếng tăm, được thương quư… hành giả dễ bị xuất hiện tâm kiêu mạn hoặc tâm tự hào bí mật. V́ vậy lúc đó chúng ta phải tác ư khiêm hạ, phải thấy ḿnh chỉ là cát bụi, là cỏ rác, là chưa đáng chút xíu nào so với chư Phật chư Thánh, hoặc tác ư những thành công này là nhờ sự gia hộ của Tam Bảo, sự dạy dỗ của bao nhiêu thầy bạn. Nhờ như vậy, chúng ta hóa giải bớt phần nào tâm tự hào hay kiêu mạn.



3. Dụng công phối hợp

Trong thực tế tu hành, không ai chỉ dụng công bằng một phương pháp duy nhất. Nếu nh́n kỹ, chúng ta sẽ thấy cùng một lúc chúng ta đang thực hiện nhiều phương pháp có tính hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ, từ phương pháp điều thân căn bản được thực hiện khá thuần thục chúng ta ghép thêm phương pháp thở bụng.

Như vậy tâm ta phải cố gắng nhiều hơn để vừa thở bụng một cách chuyên chú mà vẫn kiểm soát được thân ḿnh. Chính sự cố gắng đó làm vọng tưởng bớt khởi. Rồi có người lại thấy nhiều lúc hơi thở bụng không êm ả, không suôn sẻ, bị rối loạn, bị xáo trộn. Xem kỹ lại, sự trở ngại đó là do vọng tưởng từ trên năo gây nên. V́ vậy người này phải để ư từ vùng năo phía sau – nơi xuất phát vọng tưởng – để kiểm soát, để hóa giải, để diệt trừ vọng tưởng đó. Khi vọng tưởng từ vùng năo phía sau được ngăn chận, hơi thở bụng sẽ êm ả trở lại.

Nhưng có người vừa kiểm soát tâm từ vùng năo phía sau vừa để ư thở bụng th́ thấy dễ chịu. Ngược lại, có người phối hợp cả hai th́ thấy căng đầu khó chịu, thấy hơi nóng đi từ gáy lên đầu làm nhức đầu. Đó là do dồn tâm lực trên đầu nhiều quá nên có chút dằn ép. Trường hợp như vậy th́ nên bỏ cái để ư ở trên năo mà chỉ chú ư ở bụng để kéo lực tích tụ xuống dưới lại.

Có người phối hợp hơi thở với câu niệm Phật lại thấy tâm được yên lắng hơn. Mỗi khi hít vào cùng lúc niệm Phật một câu, thở ra cũng cùng lúc niệm Phật một câu. Trong sự phối hợp như vậy, hành giả vẫn biết toàn thân, vẫn hơi thở vào đầy bụng, và vẫn niệm Phật rơ ràng.

Có người đang dụng công, chợt bị vọng tưởng khởi lên quấy phá, liền chú ư kỹ hơn, biết rơ hơn vào đối tượng đang tu như bụng dưới, hay câu niệm Phật… th́ vọng tưởng yên lại. Có người lại phải lui về để ư ở vũng năo sau, hóa giải vọng tưởng rồi mới quay lại phương pháp dụng công đang thực hiện.

Trong đời sống b́nh thường, hơi thở bụng dưới khó thực hiện được suôn sẻ. Hành giả chỉ nên để tâm ở sau năo để kiểm soát vọng tưởng, hoặc ai có duyên th́ giữ câu niệm Phật. Như vậy dễ giữ tâm hơn.

Mỗi khi giao tiếp với mọi người th́ phải khởi tâm từ bi thương yêu mọi người và khởi tâm khiêm hạ tôn trọng mọi người. Nên tùy duyên và siêng năng làm lợi ích cho mọi người. Đừng chấp là phải chuyên chú giữ tâm thanh tịnh và sợ làm phước quá rồi loạn tâm. Chấp tu nội tâm quá sẽ biến thành ích kỷ, mà ích kỷ là nguyên nhân của đau khổ ràng buộc.

Tâm từ bi và đời sống vị tha cũng chính là Thiền Định. Đừng hiểu Thiền Định chỉ là nhiếp tâm thanh tịnh. Thiền Định có hai nghĩa: Nghĩa hẹp là nhiếp tâm thanh tịnh. Nghĩa rộng là một đời sống thánh thiện. Cả hai ư nghĩa đó hỗ trợ qua lại cho nhau. Người muốn nhiếp tâm được thanh tịnh phải có một đời sống vị tha thánh thiện – và ngược lại, người muốn có một đời sống thánh thiện phải nhiếp được tâm yên lắng.

Ở những người công phu chưa thuần thục, khi nói năng giao tiếp th́ tùy theo phương pháp mà ḿnh đang ứng dụng để giữ tâm. Bên ngoài th́ vẫn tùy thuận đối tiếp, nhưng bên trong vẫn lặng lẽ tu tập. Hoặc hành giả vừa nói chuyện vừa kiểm soát tâm từ sau năo; hoặc hành giả vừa nói chuyện vừa niệm Phật; hoặc vừa nói chuyện vừa quán Bát Nhă thấy ta và mọi người đều là hư ảo. Lúc nói chuyện hơi thở không c̣n ra vào b́nh thường nên không thể vừa nói chuyện vừa theo dơi hơi thở.

Có người thích hợp với phương pháp theo dơi hơi thở th́ khi làm lụng, đi tới đi lui lúc nào cũng nhẹ nhàng biết rơ hơi thở ra hơi thở vào.



4. Kinh hành.

Bây giờ th́ nhiều người thích dùng chữ Thiền Hành, nghĩa là vừa đi vừa tu tập Thiền Định. C̣n nào giờ chúng ta vẫn dùng từ Kinh Hành với nghĩa tương tự. Kinh Hành được thực hiện trong những trường hợp sau đây:

- Một, sau khi tọa Thiền.

- Hai , trước khi tọa Thiền.

- Ba, lúc bụng c̣n no sau khi ăn.

- Bốn , lúc ngồi Thiền bị hôn trầm.

-Năm , lúc rỗi việc nhưng chưa tiện ngồi Thiền.

Đọan đường để đi kinh hành th́ tùy điều kiện cụ thể. Có khi đó là một hành lang đi ṿng quanh Chánh điện, ṿng quanh tịnh thất; có khi đó là một lối đi trong vườn; có khi đó là một lối đi trong tăng xá; có khi đó chỉ là một khoảng ngắn vài mét trong thất kín.

Đừng chọn lối đi ngoằn ngoèo không ổn định v́ làm tâm bị chi phối. Lối đi hoặc đi ṿng quanh, hoặc đi thẳng tới lui là thích hợp hơn cả. Lối đi lên xuống triền núi hay bậc thang cũng không hay lắm.

Sau khi tọa thiền, chúng ta thường đi kinh hành một chút để tập quen dần việc giữ ǵn công phu tu hành từ tịnh ra động. Trước khi tọa thiền, chúng ta cũng nên kinh hành vài phút để chuẩn bị cho tâm đi từ cảnh động vào cảnh tịnh. Sau khi ăn no đi nghỉ liền dễ bị mê, v́ thế nên đi kinh hành một lát cho lưng bụng bớt.

Khi ngồi Thiền bị hôn trầm nên xả ra đi kinh hành để phá cơn hôn trầm nếu cơn hôn trầm đó là do ám nghiệp tạo nên. Việc dụng tâm trong khi kinh hành th́ khá giống khi tọa thiền, chỉ là khó phối hợp nhiều phương pháp một lúc.

Ví dụ, người đi kinh hành chỉ để ư kiểm soát tâm sau năo, hoặc chỉ niệm Phật, hoặc chỉ để ư hơi thở ra vào. Tuy nhiên, từng bước chân nhẹ nhàng chạm đất cũng là một phần tâm chú ư xuống dưới và tạo thành âm lực ở dưới gốc.

Khi đi hai tay buông thỏng tự nhiên, không giữ cứng cũng không đong đưa nhiều. Tốc độ đi thong thả vừa phải, không đi nhanh cũng không kềm giữ đi chậm. Nên chọn lối đi kinh hành nơi thanh vắng, hoặc nếu đông người th́ phải là những người cũng đang đi kinh hành.

Hỏi: V́ sao phải dụng công linh động hoặc dụng công phối hơp ?

Đáp: Mục đích của việc tu tập Thiền Định là nhiếp tâm thanh tịnh không vọng tưởng. V́ vậy chúng ta đừng cố chấp một phương pháp nào mà phải biết khéo léo uyển chuyển sử dụng cách này cách kia để nhiếp tâm.

Hỏi: Thời gian đi Kinh Hành là bao nhiêu so với thời gian tọa Thiền ?

Đáp: Dĩ nhiên chúng ta ưu tiên cho tọa thiền, c̣n lại là kinh hành


TT Thích Minh Tâm
Quay trở về đầu Xem minhtam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi minhtam
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 2 of 3: Đă gửi: 19 March 2005 lúc 10:07am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Kính T T Thích Minh Tâm và các bạn,

PV có đôi ḍng về điều ḥa hơi thở (cũng đă kinh nghiệm): Cần nắm vững 4 tướng của hơi thở:
1.     Tướng Phong: hơi thở có tiếng ra vào trong mũi thể hiện sự tán loạn.
2.     Tướng xuyễn: hơi thở ra vào tuy không có tiếng nhưng lại không thông thể hiện bị ngăn trệ.
3.     Tướng khí: hơi thở ra vào không có tiếng, không ngăn trệ nhưng nhưng không nhẹ nhàng rất nhọc nhằn.
4.     Tướng tức: hơi thở rất điều ḥa, nhè nhẹ, dài như có như không, tinh thần an ổn dễ định.

Điều ḥa 3 tướng hơi thở Phong, xuyễn và Khí về tướng Tức:
-     thứ nhất tưởng Tâm ở rún (không thủ ư đan điền).
-     thứ nh́ buông lỏng thân ḿnh, không cần tác ư dẫn hơi thở về bụng dưới (đan điền), không tác ư bụng dưới ph́nh ra thóp vào.
-     thứ ba tưởng thở khắp cả cơ thể, quên ta ḥa ḿnh vào đại khí (vũ trụ).
-     Chỉ quán sát hơi thở không cần dụng ư (nếu cố gắng dụng ư sẽ hại tâm khó được định), th́ hơi thở ra vào tự nhiên theo kinh mạch (thở bụng).

(Phỏng theo Pháp yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán của Trí Khải đại sư - dịch giả Thích Thanh Từ)


PV
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
xinchao
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 July 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 99
Msg 3 of 3: Đă gửi: 21 March 2005 lúc 1:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn xinchao

Cám ơn Bác Minhtam và Bác Phapvan rất nhiều. Bài viết của các bác rất có ích cho xinchao học hỏi.

Mong được tiếp tục đọc các bài viết của các bác.

Thân chào.
Quay trở về đầu Xem xinchao's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi xinchao
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.0391 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO