Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 174 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Đàn Pháp Chuẩn Đề Tất Địa ---Liên Hoa Bộ (Mật Tông) Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
arahate
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 October 2004
Nơi cư ngụ: Russian Federation
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 20
Msg 1 of 7: Đă gửi: 11 March 2005 lúc 10:29am | Đă lưu IP Trích dẫn arahate

CHUẨN ĐỀ SÁM PHÁP



               Kinh dạy:

Trước khi vào Đạo tràng, nên làm lễ Phật, Sám hối, Tùy hỷ, Khuyến thỉnh, Phát nguyện.

Nên thọ Bồ đề Tâm Giới; năm pháp này là quy tắc sáu thời hành đạo của các vị Bồ Tát.

Đầu tiên vào Đạo tràng quỳ gối, chấp tay, niệm chú dâng hương.

Đọc Tịnh Pháp Giới Chơn ngôn: Án Lam (7 biến)

Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn ngôn: Tu Rị, Tu Rị, Ma Ha Tu Rị, Tu Tu Rị Ta Bà Ha. (3 lần).

Tịnh Tam Nghiệp Chơn ngôn: Án, Ta Phạ Bà Phạ Thuật Đà Ta Phạ, Đạt Ma Ta Phạ, Bà Phạ, Thuật Độ Hám (3 lần)

Phổ Cúng Dường Chơn ngôn: Án, Nga Nga Nẵng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hộc. (3 lần)

Đọc bài nguyện hương:

Nguyện thử hương hoa vân,

Biến măn Thập phương giới.

Nhứt nhứt chư Phật độ.

Vô lượng hương trang nghiêm.

Cụ túc Bồ Tát đạo,

Thành tựu Như Lai hương.

Phổ lễ Chơn ngôn: Án Phạ Nhựt Ra Vật. (7 lần)

ĐẢNH LỄ:

     Nhứt tâm đảnh lễ A Súc Thế Tôn

     Nhứt tâm đảnh lễ Bảo Sanh Thế Tôn.

     Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Vương Thế Tôn.

     Nhứt tâm đảnh lễ Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế Tôn.

     Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới chư Phật Thế Tôn.

     Nhứt tâm đảnh lễ Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết, Đại Chuẩn Đề, Đà Ra Ni

     Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương Pháp giới Tu đa la Tạng Nhứt thế Đà Ra Ni môn.

     Nhứt tâm đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na cung điện trung Thất Cu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Di Lặc Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Hư Không Tạng Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Phổ Hiền Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Vô Năng Thắng Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Đại Thế Chí Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt Thế Bồ Tát Ma ha tát.

     Nhứt tâm đảnh lễ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả Chư Đại Thanh Văn Tăng.

     Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương pháp giới Nhứt thế Tam thừa Hiền Thánh Tăng.

Sám hối:

Ngă đệ tử … chí tâm sám hối.

Đại Thánh Chuẩn Đề Tôn.

Nhứt thế Hiền Thánh chúng.

Kim thân nhược tiền thân.

Sở tạo chư ác nghiệp.

Chúng tội giai sám hối. (3 lễ).

Khuyến thỉnh:

Ngă đệ tử … chí tâm khuyến thỉnh

Thập phương nhứt thiết Phật.

Hiện tại thành đạo giả,

Ngă thỉnh chuyển Pháp luân,

An-Lạc chư chúng sanh,

Thập phương nhứt thế Phật,

Nhược dục Bát Niết Bàn.

Ngă kim đầu diện lễ,

Khuyến thỉnh cửu trụ thế (3 lễ).

Tùy hỷ:

Ngă đệ tử … chí tâm tùy hỷ.

Tam thế chư Như Lai,

Bồ Tát Thanh Văn chúng.

Tu tập tam thừa nhơn,

Năi chí phàm phu loại.

Sở hữu chư phước thiện,

Thí giới thiền định huệ.

Nhẫn nhục tịnh tinh tấn,

Ngă kim giai tùy hỷ (3 lễ)

Phát nguyện:

Ngă đệ tử … chí tâm phát nguyện.

Nguyện chư chúng sanh đẳng,

Tất phát Bồ đề tâm.

Vĩnh đoạn chư phiền năo,

Đương chứng nhứt thế trí.

Phục nguyện ngă kim tu,

Chuẩn Đề bí mật hạnh.

Sở cầu chư Tất Địa,

Tùy tâm tốc thành tựu. (3 lễ)

Hồi hướng:

Ngă đệ tử … chí tâm hồi hướng.

Dĩ ngă sở tu phước,

Cập dữ Chơn ngôn hạnh.

Hồi hướng chư hữu t́nh,

Cọng thành Vô thượng đạo.

Phục dĩ kim sở tu,

Lễ bái cập sám hối.

Khuyến thỉnh tịnh tùy hỷ,

Phát nguyện hồi hướng thiện.

Tất thí dữ chúng sanh,

Vĩnh đoạn tam đồ khổ.

Đồng thú đạo Bồ đề,

Pháp giới chơn như hải. (3 lễ)

Thất Phật Diệt Tội Chơn ngôn (3 lễ)

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ ni nể đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế ta bà ha.





VÀO ĐẠO TRÀNG TR̀ CHÚ CHUẨN ĐỀ

CÁCH NGỒI KIM CANG TỌA



(Nghĩa là lấy bàn chân mặt gác lên trên vế chân trái, hoặc tùy ư ngồi cũng được.)

               HAI TAY KIẾT ẤN TAM MUỘI: (Nghĩa là lấy tay mặt duỗi ra, để ngửa lên bàn tay trái, rồi hai ngón tay cái giáo móng với nhau). Để ngang dưới rún, thân cho tề chỉnh, tâm cho an tịnh. Rồi tưởng trên đỉnh đầu ta có một chữ LAM rất tṛn sáng như ngọc Minh Châu hay như mặt trăng rằm. Khi tưởng như vậy rồi th́ xả ấn Tam Muội trên Đảnh, tay trái kiết ấn Kim Cang Quyền (nghĩa là lấy ngón tay cái bấm vào ngón áp út ở giáp bàn tay, rồi 4 ngón tay kia nắm chặt lại h́nh như tay cầm cú), rồi tay mặt lần chuỗi mà tụng sau đây:

1)      Chú Tịnh Pháp Giới: Án Lam (108 biến)

2)      Chú Hộ Thân: Án Xỉ Lâm (108 biến)

3)      Chú Lục Tự Đại Minh: Án Ma Ni Bát Di Hồng (108 biến)

Khi tụng xong chú nói trên th́ xả ấn Kim Cang Quyền trên đảnh, rồi quỳ xuống tụng bài kệ Chú Chuẩn Đề:

Chuẩn Đề công đức tụ.

Tịch tịnh tâm thường tụng,

Nhứt thiết chư đại nạn

Vô năng xâm thị nhơn,

Thiên thượng cập nhơn gian

Thọ phước như Phật đẳng.

Ngộ thử như ư châu

Định hoạch vô đẳng đẳng.

Nam Mô Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Vương Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần rồi lạy)

Lúc lạy xong, ngồi kiết toàn già và kiết ấn Chuẩn Đề: Lấy ngón áp út và ngón út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai ḷng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; c̣n hai ngón tay cái th́ đè lên lóng giữa của ngón tay áp út bên mặt; rồi để ấn ấy ngang ngực. Chí tâm tụng 108 lần chú Chuẩn Đề và chú Đại Luân Nhứt Tự như vầy: Nam Mô Tát Đa Nẫm Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm (tụng 108 lần) muốn tŕ tụng nữa hoặc tùy ḷng. Nên tụng từ chữ Án trở xuống Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. Tụng kư số làm chừng như trên, hoặc tŕ nhiều hơn cũng tốt. Khi niệm đủ rồi muốn nghỉ th́ xả ấn lên trên đảnh, kế dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang Quyến mà ấn theo thứ tự năm chỗ sau đây:

1)      Trên đảnh.

2)      Nơi vai bên trái.

3)      Ở vai bên mặt

4)      Tại ngang ngực.

5)      Nơi yết hầu.

Trong lúc tay ấn vào năm chỗ ấy th́ miệng đọc Thần chú HỒNG HỒNG cho liên tục, chừng nào đủ năm chỗ rồi, thôi tụng xả ấn lên trên đảnh đầu và tụng:

Ngă kim tŕ tụng Đại Chuẩn Đề.

Tức phát Bồ đề quảng đại nguyện.

Nguyện ngă định huệ tốc viên minh

Nguyện ngă công đức giai thành tựu,

Nguyện ngă thắng phước biến trang nghiêm,

Nguyện cọng chúng sinh thành Phật đạo.

Ngă tích sở tạo chư ác nghiệp,

Giai do vô thỉ tham sân si,

Tùng thân ngữ ư chi sở sanh,

Nhứt thiết ngă kim giai sám hối.



A Di Đà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,

Cám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa bồ tát chúng diệc vô biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.



Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật (108 lần)

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Chuẩn Đề Vương Bồ Tát (10 lần)

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)



Nguyện ngă lâm dục mạng vong chung thời

Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại.

Diện kiến bỉ Phật A Di Đà

Tức đắc văng sanh Cực Lạc Quốc.



Tự Quy Y Phật,

Đương nguyện chúng sanh

Thể giải đại đạo,

Phát Vô thượng tâm.

Tự Quy Y Pháp,

Đương nguyện chúng sanh

Thâm nhập kinh tạng,

Trí huệ như hải.

Tự Quy Y Tăng,

Đương nguyện chúng sanh

Thống lư đại chúng

Nhứt thiết vô ngại.



Nguyện dĩ thử công đức,

Phổ cập ư nhứt thiết

Ngă đẳng dữ chúng sanh,

Giai cọng thành Phật đạo.

HẾT



CÁCH DÙNG KÍNH ĐÀN

(Mua cái kính tṛn mới chưa hề dùng soi mặt đường kính độ 7 phân tây)

               Đem kính tṛn xông trầm. Đến 10 giờ đêm tối ngày rằm, trước tượng Chuẩn Đề, xây mặt về hướng đông, tướng ngó hướng tây. Hành giả ngó hướng đông, cúng dường hương hoa trang nghiêm, xông an tức hương và tịnh thủy, kiết ấn Chuẩn Đề, tŕ chú 108 biến vào Kính đàn (tức là thành tựu đàn pháp). Mỗi khi tụng niệm, để kính trước mặt, tụng xong bỏ kính vào cất trong đăy vải, khi đi đâu đem theo để hộ thân.

Phương pháp an bố chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Đề”

Hành giả trước khi tŕ chú, hoặc sau khi tŕ,

An bố khắp thân phần,

Được vô lượng phước đức.

Hoặc mỗi khi tọa thiền quán tưởng chín chữ an khắp thân thể, rất là mầu nhiệm: ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA BÀ HA.

ÁN:           & nbsp;         & nbsp; An kư trên đỉnh đầu,

                             Ánh sáng như mặt trăng

                             Phóng ra vô lượng quang,

                             Trừ diệt tất cả chướng.

CHIẾT:        An kư nơi đôi mắt

                             Sáng màu như nhật nguyệt

                             Chiếu phá mọi u ám

                             Phát sinh trí huệ minh.

LỆ:         &n bsp;         &n bsp;   An kư nơi cổ,

                             Màu sáng cám lưu ly (xanh &đỏ)

                             Hiển bày các sắc tướng,

                             Đầy đủ Như Lai trí.

CHỦ:         & nbsp;         & nbsp;  An kư tại tim (ngực)

                                           Màu trong trắng như tơ,

                                            Khiến tâm được thanh tịnh

                                            Mau đến đạo Bồ đề.

              LỆ:     &nb sp;          &n bsp;       An kư hai vai,

Sắc màu sáng huỳnh kim,

Người Quán tưởng chữ này

Thường mặc giáp tinh tấn

CHUẨN:        An kư ở tại rún

Màu sắc vàng trắng đẹp,

Chóng lên diệu đạo tràng

Không thối Bồ đề tâm

ĐỀ:         &n bsp;          A n ở hai bắp vế

Sáng màu vàng hơi lợt,

Mau chứng đạo Bồ đề

Được ngồi ṭa Kim Cang.

TA BÀ:     An ở hai bắp chân

Sắc màu đỏ rực rỡ,

Nếu thường quán chữ này

Mau chuyển được Pháp Luân

HA:           & nbsp;     An ở hai bàn chân

Ánh sáng như trăng tṛn,

Hành giả Quán chữ này

Mau đến đạo Viên tịch.



NHẬP NHÀ MỚI



               Khi cất nhà mới, đến ngày nhập trạch th́ lấy một cái chén mới (Lâu nay chưa dùng làm ǵ) đựng nước trong lấy giữa ḷng giếng vào lúc nửa đêm, rồi tay trái kiết ấn Bảo Thủ: (Nghĩa là lấy ngón tay giữa và ngón tay áp út, co lại bấm vào ḷng bàn tay, mà giơ ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón út thẳng lên) rồi bưng chén nước, c̣n tay mặt th́ kiết ấn Kiết Tường. (nghĩa là lấy ngón tay cái co lại bấm vào đầu ngón áp út và giơ ngón trỏ, ngón giữa và ngón út lên rồi thư chữ LAM vào trong chén nước, rồi tụng 21 biến Chuẩn Đề có ghi sau đây), rồi đứng giữa nhà, lấy tay nhúng nước đó mà rải về tám phương: trên, dưới. Sau lại dùng son viết chín chữ Phạn của chú Chuẩn Đề như vầy vào giấy vàng. ÁN CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ TA BÀ HA (Viết bằng chữ Phạn), rồi đem dán đủ trên các cửa và chí tâm cầu nguyện Phật để tụng chú ấy luôn ba đêm, th́ nhà ở được yên ổn, không có quỷ quái nhiễu loạn mà lại được sự cát tường. Nhà đương ở mà sanh yêu quái, th́ cũng làm như trên.



TRỊ QUỶ MỊ LÀM ĐAU ỐM

             

Bị quỷ mị làm cho đau ốm, lấy cành dưng liễu hay nhánh thạch lựu, mắt nh́n vào nhánh cây, miệng chăm tụng chú Chuẩn Đề 108 biến, rồi lấy nhành cây ấy mà đập, phủi trên thân người đau, tức thời lành bịnh.

Nếu người bịnh ở xa, cũng làm phương pháp ấy; gia tŕ trong nhánh cây 108 biến rồi đêm về phủi trên ḿnh bịnh nhơn.

Trẻ em bị bịnh quan sát (Hay khóc dạ đề)

Mua chỉ ngũ sắc về, bảo một đứa trẻ (gái) nhỏ xe hiệp lại, rồi ḿnh cầm chỉ ấy tụng một biến chú Chuẩn Đề rồi gút lại một gút, cứ tụng và gút luôn cho đủ 21 gút, rồi lấy chỉ đeo vàơ ḿnh đứa nhỏ, bịnh nó sẽ lành ngay. Nếu trong thân người các chi tiết bị đau nhức, nên gia tŕ Thần chú vào trong tay 21 biến mà xoa vào chỗ đau cũng được lành bịnh. (Muốn trị bịnh theo pháp này, phải là người tŕ chú tu hành trong thời gian lâu dài mới có hiệu nghiệm.)

(C̣n người mới tụng Phạn âm chưa thuần tâm không chuyên nhất, không hiệu nghiệm mà đắc tội nặng. Khi vào tự chữa cho ḿnh lành bịnh rồi mới trị cho người khác).

Người bịnh trầm trọng:

Niệm chú Chuẩn Đề trong chỉ ngũ sắc, cứ niệm mỗi câu gút một gút cho đủ số 108 gút đeo trên cổ bịnh nhân th́ được lành bịnh. Nếu người ở xa, nên vẽ h́nh bịnh nhân rồi nh́n vào h́nh, xưng tên một lần, tŕ chú một biến, cho đến khi đủ 108 lần rồi mới lấy chỉ đó đeo vào h́nh nhơn th́ bịnh cũng lành được. Lúc đi đừng, vào rừng, đi thuyền, tàu, phải nên nhớ tụng chú Chuẩn Đề để hộ thân và tránh khỏi tai nạn.




LINH NGHIỆM HẢO MỘNG

CỦA NGƯỜI TR̀ CHÚ CHUẨN ĐỀ



Tụng 10 vạn biến hay 20 vạn biến trong mộng thấy Phật, Bồ Tát liền thổ ra vật đen. (Vật đen tiêu biểu cho ác nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt phước sanh, cho nên tự thấy trong miệng thổ ra vật đen hay cơm đen.) Mộng thấy chư Thiên, Đường, Tự Xá (Nhà, chùa, tịnh xá rộng lớn) hoặc trên núi cao, hoặc thấy ở trên cây cao (Không bị tội nghiệp hệ lụy, cho nên được thăng lên. Đây là thiện nhơn được thành tựu nên thấy thiên, đường, tự, xá) Hoặc thấy ở trong ao lớn tắm rửa (là tịch trừ tội cấu được thân thanh tịnh). Hoặc mộng thấy thân bay lên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc cho nên thân khinh cử nhẹ nhàng) hoặc thấy cùng chư Thiên nữ an vui khoái lạc (được sức giữ ǵn thiện căn tương ưng nên cùng thấy vui khoái lạc.) Hoặc thấy thuyết pháp (được thị giáo lợi hỉ). Hoặc thấy râu tóc rụng rớt (râu tóc rụng rớt là pháp Tây quốc ngoại đạo, râu tóc rụng rớt đều là tiêu biểu đoạn trừ phiền năo căn gốc vậy). Hoặc nói rằng thấy thân ḿnh cạo bỏ râu tóc. Hoặc thấy ăn cơm sữa, uống nước cam lồ (thấy ăn sữa là thành tựu được phước lành của thế gian, uống nước cam lồ là được pháp vị xuất thế). Hoặc vượt qua sông, suối, biển lớn (được khỏi biển khổ). Hoặc leo ngồi trên ṭa sư tử (được ṭa pháp vương) Hoặc thấy cây Bồ đề (là kiến đạo tướng). Hoặc cỡi thuyền (là nương cỡi thuyền Bát Nhă là được cái tướng đến bờ giải thoát. Tô Đất Địa kinh nói rằng: Hoặc thấy cỡi sư tử, cỡi trâu trắng, nai trắng, ngỗng trắng … đều là cái tướng Tất Địa thành tựu). Hoặc thấy bực Sa Môn (được ly thế nhiễm mà ra khỏi tam giới). Hoặc thấy cư sĩ mặc áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là tiêu biểu chánh, trắng là tiêu biểu tịnh, tức là thấy bạch tịnh Chánh pháp mà phú hộ). Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng (tiêu biểu phá phiền năo vô minh ám). Hoặc thấy người đồng nam đồng nữ (không bị phiền năo tham dục làm ô nhiễm). Hoặc thấy trên cây có nhũ quả (nhũ nghĩa là trắng, trắng là thiện nghiệp, nghĩa là được thế, xuất thế gian thiện nghiệp quả báo). Hoặc thấy người hắc trượng phu trong miệng tuôn ra lửa hừng hẫy cùng với họ đấu chiến được thắng (nghĩa là cùng phiền năo ma cộng chiến mà đắc thắng). Hoặc thấy ác mă, trâu nước muốn đến húc người tŕ tụng Thần chú. Người tŕ chú hoặc đánh, hoặc nạt nộ, sợ mà bỏ chạy (nghĩa là đối với si phiền năo ma, mà được thắng vậy). Hoặc ăn sữa cháo, tôn Phạn (là được thượng vị phước thiện thành tựu). Hoặc thấy Tô Ma Na Hoa (hoa đây nói là xứng ư hoa, sắc vàng trắng mà rất thơm, cây cao ba, bốn thước rũ xuống che như tàng lọng. Nghĩa là tiêu biểu sở cầu thiện pháp quyết được xứng ư. Hoặc thấy có mùi hương thơm, bạch hoa hương tiêu biểu cho hương của ngũ phần pháp thân. Nghĩa là được ngũ phần thiện nghiệp). Hoặc thấy quốc vương (nghĩa là được đại nhơn hộ niệm được tôn quư thắng nghiệp).

Nếu không thấy những cảnh giới như vậy, phải biết người đời trước đă tạo ngũ vô gián tội, nên càng phải tŕ tụng măn 70 vạn biến, 90 vạn biến, trăm vạn biến liền thấy những cảnh giới như trên, nên biết đó là tội đă diệt liền thành tiên hạnh. Những cảnh giới hảo mộng như trên đây đều là cái tướng chứng nghiệm thành tựu của người hành giả.




Sửa lại bởi arahate : 11 March 2005 lúc 10:34am


__________________
Nhất kiếp vô tu muôn kiếp khổ
Nhất thời bất giác vạn thời trầm
Quay trở về đầu Xem arahate's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi arahate
 
arahate
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 October 2004
Nơi cư ngụ: Russian Federation
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 20
Msg 2 of 7: Đă gửi: 11 March 2005 lúc 10:40am | Đă lưu IP Trích dẫn arahate

Mến gửi đến tặng các độc giả yêu thích Mật tông



MẬT GIÁO TÂM YẾU



             Gồm có các bộ như: Thần Biến Sớ Sao, Mạn Trà La Sớ Sao, đều cho Đà ra ni giáo là Mật Viên vậy. Hiển giáo viên tôn về phần trước, nói sự tu hành cốt yếu trước phải ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau y ngộ, tu Phổ Hiền Hạnh Hải, ĺa được sanh tử, chứng được nhập thân vô ngại Phật quả. Như người bịnh được phương thuốc tốt, cần phải biết phân, lượng, phép tắc bào chế, hiệp thành mà uống mới có thể lành bệnh, thân an.

Nay Mật Viên Thần chú, tất cả chúng sanh cho đến nhơn vị Bồ Tát, tuy không hiểu được, chỉ tụng đó liền được Tỳ Lô Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Được ĺa sanh tử, thành tựu mười thân vô ngại Phật quả, như bịnh nhân gặp được món diệu dược. Tuy không biết phân lượng phép tắc hoà hợp; chỉ uống thuốc là tự nhiên trừ bịnh, thân an. Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Mật chú của chư Phật là phép bí mật; chỉ có Phật với Phật tự biết với nhau; các vị Thánh không thể thông đạt. Chỉ tụng tŕ là diệt được đại lỗi, mau lên Thánh vị.” Lại nói rằng: “Thần chú là Mật ấn của chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác không thể thông hiểu.” Hiền Thủ Bát nhă sớ nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ hiểu của nhơn vị”. Chỉ tụng tŕ không cần phải gượng giải thích. C̣n Viễn Công Niết Bàn Sớ nói rằng: “Chơn ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc. Phiên dịch lại không hiểu, v́ vậy nên không phiên giải!”. Trong Thiên Thai Chỉ Quán nói rằng: “ Bậc Thượng Thánh mới có thể nói cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm nhơn chỉ tuyên truyền Hiển giáo, không thể tuyên truyền về mật giáo. Các Sư từ xưa đều nói: “Đà Ra Ni, nhơn vị Thánh Hiền, không thể hiểu giải, chỉ nên tin mà thọ tŕ, diệt được tội chướng, thành tựu phước đức.”

Hỏi: V́ sao, Mật chú của chư Phật không thể giải thích cho người khác hiểu?

Đáp: Thần chú là viên măn giải là phiến diện. Giải làm cho chú mất; bởi vậy nên không giải thích cho người khác rơ được, mật nghĩa nằm trong đó, cần phải suy nghĩ. Trong Pháp Hoa Sao nói rằng: “Về bí pháp của chư Phật, không hiểu nghĩa nó được, cho nên nói là Mật ngôn”. Bát nhă kinh nói: “Tổng tŕ như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời trị lành các bịnh sai lầm, uống th́ thường an vui.

Lại trong Lư Thú kinh, đức Như Lai có nói năm tạng:

1)Kinh Tạng: Như sữa ḅ.

2)Luật Tạng: Như sữa đặc.

3)Luận Tạng: Như sữa tươi.

4)Bát Nhă Tạng: Như sữa chín.

5) Đà Ra Ni Tạng: Như đề hồ.

(Đề hồ là vị đă lọc, nó ngon nhất trong các món ăn bằng sữa; trị được các bịnh, khiến các hữu t́nh thân tâm an vui. Ở Tây Thiên Trúc thường dùng đề hồ để trị các bịnh.)

Đà Ra Ni trong các Kinh, Luật là tối thắng, đệ nhất, hay trừ các tội giúp cho các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, An-Lạc pháp thân. Lư Thú kinh sớ nói rằng: “Tánh Đức Lực Đại, mật chú công cường, giải hạnh tuy kém, giải thoát th́ mau.” Các đại sư như: Hiền Thủ v.v… chỉ cho Hoa Nghiêm kinh là Viên, các giáo khác đều không phải. Nay lại cho Đà Ra Ni là Viên giáo, vậy không trái với Hiền Thủ cùng các đại sư khác sao?

-Đáp: Viên tông có hai:

1)Hiển viên.

2)Mật viên.

Hiền Thủ chỉ căn cứ vào Hiển giáo chánh phán Hoa Nghiêm là Viên. Nay có Thần Biến sớ sao, Mạn Trà La Sớ Sao, cho rằng giống như các thứ Hiển viên, Mật giáo cũng là Viên tông. Hiển Mật đă khác mà các sự không trái. Y theo Mật Viên tu luyện cũng chia làm hai:

1)Tŕ tụng nghi quỹ.

2)Nghiệm thành hành tướng.

Trước hết nói về Tŕ Tụng Nghi Quỹ: Chơn Ngôn hành giả, mỗi ngày muốn y pháp tŕ tụng, trước hết phải ngồi Kim Cang chính tọa: (Lấy chân bên hữu gác lên chân bên tả, hoặc tùy ư ngồi sao cũng được.) Tay kiết Đại Tam muội ấn (Lấy hai tay ngửa ra rồi tay hữu để lên tay bên tả, hai đầu ngón cái giáp lại nhau, để ngang dưới rún, ấn này hay diệt tất cả cuồng loạn, vọng niệm, tư duy tạp nhiễm.) Thân tam lắng tịnh, nhập định pháp giới Tam muội. Tưởng: tự thân trên đảnh đầu ta có một chữ Phạn LAM (Trong sách có ghi ra Phạn tự, song không thể đánh máy bằng vi tính được. Nếu hành giả nào muốn thực hành, xin t́m sách để nghiên cứu thêm)

Chữ này biến ra ánh sáng quang minh, như ngọc Minh châu, như mặt trăng rằm tṛn sáng. Tưởng chữ này xong, lại lấy tay trái kiết ấn: Kim Cang Quyền ấn: (Lấy ngón tay cái để trong ḷng bàn tay bấm lại đốt vô danh chỉ giáp ḷng bàn tay, rồi nắm chặt như cầm cú, ấn này hay trừ nội, ngoại chướng nhiễm, thành tựu tất cả công đức.) Tay mặt cầm chuỗi kư số, miệng tụng: Tịnh pháp giới chơn ngôn: 21 hoặc 108 biến. Chơn ngôn: Án Lam; hoặc chỉ đơn tŕ Lam hay là Lăm

Tịnh pháp giới Lam tự này, hoặc tưởng, hoặc tụng thường khiến tam nghiệp đều được thanh tịnh; tất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Lại hay thành tựu tất cả việc thù thắng; ở chỗ nào cũng được thanh tịnh. Y phục bất tịnh khiến thành tịnh y. Thân không tắm gội vẫn được sạch sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là Chơn tịnh. Nếu dụng tịnh pháp giới LAM tự này để tịnh, liền gọi là b́nh thanh tịnh triệt để. Như một hạt linh đơn điểm vào sắt thành vàng ṛng. Chơn ngôn một chữ biến nhiễm thành tịnh. Kệ rằng:

Ra tự sắc tiển Bạch. Không điểm dĩ nghiêm chi. Chữ RA, sắc trắng tịnh, điểm vào chỗ không để trang nghiêm nó, Phạn tự RA điểm vào chỗ không trên, tức thành LAM tự.

Như Minh châu trên nhục kế, an trí tại đỉnh đầu; Chơn ngôn đồng pháp giới; vô lượng chúng tội trừ. Tất cả xúc uế, nên gia tŕ chữ này. Nếu thật ngoại duyên không đầy đủ, không nước để tắm rửa, thiếu y mới tinh sạch, chỉ dùng LAM tự để làm cho sạch. Nếu người có ngoại duyên đầy đủ, trước dùng nước xong mặc y mới thanh tịnh, lại dùng LAM tự tịnh nữa, tức là trong ngoài đều thanh tịnh. (Như các chơn ngôn Nghi quỹ nói.)

Rồi tiếp tục tụng chú: Hộ thân chơn ngôn 21 hay 108 biến. Chơn ngôn, Phạn tự ÁN XỈ LÂM. Nếu tụng chú này, hay diệt ngũ nghịch, thập ác, tất cả tội nghiệp. Có công năng trừ tất cả bịnh, tai chướng, ác mộng, tà mị, quỷ thần và các việc bất tường. Thành tựu các việc thù thắng; khiến tất cả mọi sự mong cầu đều được viên măn. Chú này là tâm của chư Phật, nếu người chuyên tâm tụng một biến hay bảo hộ được chính ḿnh. Tụng hai biến hay bảo hộ được đồng bạn. Tụng ba biến thường bảo hộ mọi người trong nhà. Tụng bốn biến bảo hộ mọi người trong một thành. Cho đến bảy biến hay bảo hộ người trong tứ thiên hạ.

Rộng như Văn Thù Căn Bản Nhứt Tự Chú kinh nói.

Kế đến tụng 108 biến Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn: ÁN MA NI BÁT DI HỒNG, ÁN MA NI BÁT MINH HỒNG hay MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG.

Nếu tụng chú này ngay chỗ có vô lượng chư Phật, Bồ Tát, Thiên Long, Bát Bộ nhóm hội, đầy đủ vô lượng tam muội pháp môn. Ai tụng tŕ, th́ bảy đời ḍng họ đều được giải thoát; các trùng ở trong bụng sẽ được Bồ Tát vị. Người đó hằng ngày được đầy đủ công

đức sáu pháp Ba la mật. Được vô tận biện tài trí huệ thanh tịnh. Hơi ra trong miệng chạm đến người nào, người đó nhờ sự tiếp xúc xa ĺa các sân độc, sẽ được Bồ Tát vị. Giả như: Người trong bốn thiên hạ, đều đắc Thất địa Bồ Tát vị. Các Bồ Tát đó có bao nhiêu công đức, sánh với công đức tụng một biến chú Lục tự, cả hai đều b́nh đẳng không sai khác. Chú này là Vi diệu bổn tâm của Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu người nào chép lại sau chữ Đại Minh này, sánh với sự viết, chép tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng, cũng bằng công đức đó, không sai khác. Nếu lấy vàng báu tạo tượng Như Lai, số như vi trần, không bằng công đức việt một trong sáu chữ này. Nếu người nào đă đắc sáu chữ Đại Minh này, th́ họ không c̣n bị nhiễm trước tham, sân, si. Nếu đeo Thần chú này nơi thân cũng hết nhiễm tham, sân, si. Người tŕ tụng đeo mang sáu chữ này, tất cả loài hữu t́nh mà chân, tay người đó chạm đến, mắt người đó ngó đến, đều mau đắc Bồ Tát vị, không c̣n thọ các khổ sanh tử nữa. Khi nói xong Lục Tự Đại Minh này, có Thất Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất hiện và đồng thanh nói “CHUẨN ĐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết Lục Tự Đại Minh cùng Chuẩn Đề Chơn ngôn lần lượt nương vào nhau. (Rộng như Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói.) Nhiên hậu kiết ấn Chuẩn Đề tại Tim.

Chuẩn Đề Chơn ngôn cùng Nhứt tự luân chú, một thời đồng tụng 108 biến xong rồi xả ấn trên đỉnh đầu. (Hoặc không muốn tụng Đại Luân Chú, chỉ tŕ Chuẩn Đề Chơn ngôn cũng được.)

*

CHUẨN ĐỀ PHÁP ẤN

Lấy ngón áp út và ngón tay út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong ḷng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; c̣n hai ngón tay cái th́ đè lên lóng giữa ngón tay áp út bên mặt, để ngang ngực, chí tâm tụng chú Chuẩn Đề và Đại Luân Nhứt Tự, nếu muốn triệu thỉnh, đưa qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ. Khi kiết ấn, tụng chú, muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà đếm. Hoặc trên tay của tượng Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc quán tâm kư số, hoặc mười niệm kư số. Hoặc kiết ấn tụng được một ngh́n tám chục biến (1.080) rất tốt, hay hơn 108 biến. Hoặc chỉ tay bên tả kiết ấn kim cang quyền, tay bên hữu cầm chuỗi tŕ số cũng được, nếu sợ lộn, chỉ tán tŕ cũng có kết quả.

Thất Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni Chơn ngôn: Nam Mô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.

Phật dạy: Thần chú này có công năng diệt trừ thập ác ngũ nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách công đức. Tŕ chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí tâm tŕ tụng hay khiến chúng sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La tật là bệnh nan y, c̣n trị lành, huống chi các bịnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lư. Nếu có ai tụng măn bốn mươi chín ngày, Chuẩn Đề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có tâm niệm thiện ác, đều mỗi mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người vô phước trúng tướng cầu quan không toại ư, nghèo cùng khốn khổ, bức bách; thường tụng chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tôn, truyện Đăng Lục có trí dẫn người xưa) : “Cu chi chỉ niệm Tam Hành Chú mà được danh tiếng hơn người”. Nếu cầu trí tuệ được đại trí tuệ; cầu nam nữ được nam nữ. Phàm có sở cầu, đều được xứng ḷng và toại ư, giống như ngọc Như ư; tất cả tùy tâm ḿnh muốn. Hơn nữa, tụng chug này thường khiến cho các quốc vương, đại thần và tứ chúng đều sanh ḷng kính yêu, thảy đều hoan hỷ. Người tụng chú này, xuống nước không chết ch́m, nạn lửa không thể đốt. Độc dược, oan gia, quân trận, cường tặc và ác long thú, các loài quỷ mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh: Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm La, Thiên Tử v.v… chỉ tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, không dám trước sau chậm trễ. Hoặc có sai khiến ǵ được như ư muốn. Thần chú này có thế lực lớn đối với Nam Thiệm Bộ Châu. Dời núi Tu Di; khô nước Đại Hải; chú vào cây khô sẽ phát sanh hoa quả, huống chi là người năng y pháp tŕ tụng, có thể chuyển nhục thân, được đại Thần túc, sanh về cơi trời Đâu Suất. Nếu cầu trường sanh và các tiên dược, chỉ y pháp tụng chú, sẽ thấy được đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát trao cho thần tiên diệu dược, lấy đó mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Được sống lâu ngang bằng nhật nguyệt, chứng Bồ Tát vị. Nếu y pháp tụng măn một trăm vạn biến, liền được đi mười phương Tịnh Độ, hầu hạ các vị Phật, nghe khắp diệu pháp, chứng được quả Bồ đề.

Nếu muốn thành tựu đàn pháp: ở đây không đồng các Chơn ngôn khác, cần phải rộng tu cúng dường chỗ kiến lập đạo tràng phải cuốc đất hương nê : (bột hương trộn đất nhăo để thoa khắp nơi đạo tràng). Ở đây chỉ dùng một cái kính tṛn rất mới, chưa dùng (làm Kính đàn) để trước tượng Phật tùy theo tháng ngày tối Rằm; mặt hướng về phương Đông, ngồi trước Kính đàn tùy sức trang nghiêm; các món cúng dường đầy đủ. Xông An tức hương, nước tịnh thủy, nhiên hậu kiết ấn để tại ngang ngực. Chú trong Kính đàn 108 biến Chuẩn Đề, xong lấy bao vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng đem theo để tùy thân. Mỗi khi muốn tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để trước mặt, kiết ấn tụng chú. Nếu không thể tụng niệm hằng ngày, chỉ cần những ngày thập trai, đối Kính tŕ tụng cũng được.

Ngoài mười ngày trai, không tŕ tụng trước Kính đàn cũng được. (Trong Mật tạng, Kính đàn này là yếu diệu, Tổng nhiếp tất cả các Đàn pháp. Nếu không có Kính đàn, chỉ tưởng một Kính đàn trước mặt mà tŕ tụng. Kinh Tịnh chư ác thú, cùng nhiều kinh khác phần nhiều nói: Tưởng thành Đàn pháp, tŕ tụng là hơn hết. Hoặc không tưởng được Đàn pháp chỉ nên chuyên tâm tŕ chú. Các ngày thập trai: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.) Chú Chuẩn Đề này các Phật và Bồ Tát đều đồng nói. Độc Bộ Biệt Hành, tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn Đàn Pháp, Chuẩn Đề Phạn bổn Văn thuyết có mười vạn bài kệ. Ngài Long Thọ Bồ Tát nói bài kệ tán thán rằng:

“Chuẩn Đề Công Đức tụ;

Vắng lặng tâm thường tụng.

Tất cả các đại nạn,

Không thể xâm phạm người.

Trên trời và cơi người,

Thọ phước ngang bằng Phật.

Gặp chây Như Ư này,

Đắc định, chứng Bồ đề.

(Rộng như Chuẩn Đề kinh và Tŕ Minh Tạng Long Thọ Nghi, nói: Chuẩn Đề cũng có nơi gọi: Chuẩn Nê hay Tôn Na… Chỉ là Phạn âm bất đồng mà thôi.)

Chú Đại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm, cũng gọi là Nhứt Tự Tâm Chú trong đời mạt pháp. Đối với thời mạt pháp, khi chánh pháp sắp diệt, chú này có đại thế lực. Hay giúp thế gian làm đại lợi ích, hay hộ tŕ Pháp Tạng của Như Lai, hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ găy tất cả các ác chú trong thế gian. Đây là đảnh của các Đức Phật, là tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy cho tất cả chúng sanh và ban sự vui sướng cho họ. Phàm có tu tŕ sẽ tùy ư đắc quả, giống như ngọc Như Ư. Có công năng làm măn nguyện tất cả. Nếu tụng chú này, nh́n thẳng bốn phương, các ác quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản lạc. Các ác tinh diệu và các Thiên ma không dám lại gần. Nếu tŕ tụng các chơn

ngộn khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với Chơn ngôn khác đồng thời tŕ tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựu và hiệu nghiệm th́ các vị thần hộ chú kia cái đầu sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc tŕ riêng chú này cũng được. (Rộng như Văn Thù Nghi kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú kinh nói.)

Từ trước đến giờ lần lượt tŕ tụng đến Chuẩn Đề chú; nếu không kiết được ấn chú Chuẩn Đề, th́ lấy tay trái kiết ấn Kim Cang quyền, tay mặt cầm chuỗi mà tŕ tụng. Hoặc không theo sau, trước tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn lần lượt thọ tŕ, chỉ tŕ Chuẩn Đề Thần chú, hoặc căn độn không thể thọ tŕ đầy đủ chú ấy; chỉ từ chữ Án trở xuống mà tŕ, nên chữ Án là lời quy kính. Từ chữ Án v.v… là chánh Thần chú vậy. Mỗi khi tŕ tụng rồi, liền dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang, miệng tụng Hồng Hồng Chơn ngôn cho liên tiếp mà ấn vào năm chỗ:

1-Ấn trên trán.

2-Ấn vai phía trước.

3-Ấn vai bên mặt.

4-Ấn tại nơi ngực.

5-Ấn ở yết hầu.

Ấn xong xả ấn lên trên đỉnh đầu.

Hay trừ các ma chướng, thành tựu tất cả thắng sự. Hoặc trước khi tŕ tụng, kiết ấn trước năm chỗ rồi tŕ tụng. Lại nữa, tùy theo chỗ trụ xứ, muốn bài trừ Thần Quỷ, kiết Kim Cang giới. Chỉ tụng Chuẩn Đề Chơn ngôn, gia tŕ chú trong hương thủy (nước hương thơm) 21 biến rồi đem rải vào tám phương trên dưới liền thành tịch trừ kiết giới. Lại khi chánh tŕ tụng, căn cứ theo Cu Chi Đà Ra Ni kinh, Kim Cang Đảnh kinh, Ngũ Tự Đà Ra Ni kinh v.v… Trong các bổn kinh đó có nói, theo căn cơ ưa muốn, cũng có nhiều thứ.

1)Du Dà Tŕ:Chỉ tưởng có chữ hiện ra trong tâm nguyệt luân. Nghĩa là tưởng tự tâm ḿnh như một mặt trăng tṛn vắng lặng, thanh tịnh, trong ngoài phân minh. Lấy Phạn thư Án tự, an trong tâm nguyệt luân; lấy Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha tự; theo trước xoay về phía bên hữu, lần lượt hiện khắp theo một ṿng tṛn (đọc cao giọng xong rồi trở lại từ đầu)

2)Xuất nhập tức tŕ: Nghĩa là trong hơi thở ra vào, tưởng có Chơn ngôn Phạn tự. Hơi thở ra theo chữ ra, hơi hít vào theo chữ vào. Chữ chữ, sáng rơ như xâu chuỗi ngọc minh châu, không được gián đoạn. (Hoặc khi thở hơi ra, tưởng tượng trong tâm như mặt trăng tṛn sáng: Chín chữ Phạn, xoay vần đều có ánh sáng năm màu. Từ trong miệng ḿnh lưu nhập vào trong miệng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, xoay quanh bên hữu, an bố trong tâm nguyệt luân của Chuẩn Đề Bồ Tát. Nếu khi hít vào tưởng chữ trong tâm nguyện luân của Ngài Chuẩn Đề Bồ Tát. Từng chữ nối kết tṛn liền nhau, chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm sắc, từ miệng của Chuẩn Đề Bồ Tát tuôn ra, lưu nhập vào trong miệng ḿnh, xoay vần bên mặt, an bố trong tâm nguyệt luân. Xong rồi trở ra từ đầu, rất là nhiệm mầu.)

3)Kim Cang Tŕ: Môi, răng không động, lưỡi không đến cái nướu, chỉ động nho nhỏ trong miệng.

4)Vi Thinh Tŕ: Chỉ khiến cho tai ḿnh tự nghe: không chậm, không mau, từng chữ phân minh mà xưng niệm.

5)Cao Thinh Tŕ: Khiến kẻ khác nghe được diệt tội, lại có hai cách tŕ tụng:

1- Vô số tŕ tụng: Nghĩa là không tŕ chuỗi định số, thường tŕ luôn không gián đoạn.

2- Hữu số tŕ tụng: Nghĩa là lần chuỗi tŕ tụng mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu, không được thiếu sót.

Nếu lần chuỗi tŕ tụng, chỗ thu hoạch công đức, như các kinh rộng khen ngợi. Như kinh Số Châu Công Đức nói: Nếu có người tay cầm chuỗi, tuy không niệm Phật và Đà Ra Ni, người ấy cũng được phước vô lượng. Và trong kinh Kim Cang Niệm Châu có bài kệ rằng: “Nếu để trên đỉnh đầu tịnh tội vô gián, đeo trên cổ diệt được bốn trọng nghiệp, tŕ nắm tay sẽ trừ các tội giúp cho hành giả mau thanh tịnh”. Lại Nhứt Tự Đảnh Luân Nghi có nói: “Nếu dùng LAM TỰ Chơn ngôn gia tŕ số châu bảy biến, khi hành tŕ một biến thành ngh́n biến, nếu lần chuỗi đến hột mẫu châu, phải trở lại không được vượt qua mẫu châu). Mỗi ngày y pháp tŕ tụng, cần phải phân thời hạn định. Nếu như một thời, th́ buổi sớm mai. Hai thời th́ thêm buổi hoàng hôn. Nếu tŕ ba thời th́ thêm buổi chánh ngọ. (Nếu công việc bận rộn, không cần phải phân thời, lúc nào tŕ tụng cũng được.)

Nếu hạng thượng căn tŕ tụng, cần phải được Tam mật tương ưng.

1)      Thân mật: Kiết ấn.

2)      Ngữ mật: Tụng chú.

3)      Ư mật: Hoặc tưởng Chơn ngôn Phạn tự, hoặc duyên nghe theo tiếng tŕ tụng.

Hoặc tưởng tượng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc tưởng trong tay của Bồ Tát cầm các vật như xử, b́nh, hoa, quả v.v… Cho nên Thần Biến Kinh Sớ nói: Nếu dùng Tam mật làm môn tu hành; không cần tu trải qua nhiều kiếp số, đủ tu các hạnh, chỉ nơi đời này đầy đủ các Ba la mật rồi. Lại nữa, khi đang tŕ tụng chưa đủ 108 biến, không được nói chuyện với ai. C̣n nếu muốn nói chuyện th́ phải tưởng trên lưỡi ḿnh chữ phạm LAM, dù cho nói chuyện cũng không bị gián đoạn.

Hỏi: Chỉ tŕ tụng nhứt đạo Chơn ngôn sẽ thành tựu hay phải rộng tŕ nhiều bổn Chơn ngôn mới được thành tựu công đức?

Đáp: Có hai môn:

1)Tùy căn cơ ưa muốn: Căn cơ có nhiều sự ưa muốn bất đồng. Hoặc ưa tŕ 3, 5, 10 đạo cho đến 100 đạo v.v… Trong đó tùy căn cơ ưa muốn không đồng, đều được tŕ tụng.

2)Muốn mau chóng thành tựu: Muốn cầu tất cả công đức mau thành tựu, nên chuyên tŕ tụng nhứt đạo Chơn ngôn cho thành, thời tất cả Chơn ngôn công đức đều thành tựu.


Cho nên kinh Văn Thù Nghi Quỹ có nói: Nếu muốn tất cả công đức thành tựu, không được dùng Chơn ngôn mà khởi tư tưởng như trên, tuy có số đạo Chơn ngôn, nhưng đó là thứ lớp tŕ tụng với Chuẩn Đề Chơn ngôn.

Hỏi: Đă chuyên tụng một Thần chú mau được thành tựu, v́ sao lại hay bày vẽ Chuẩn Đề ngôn cho người tŕ tụng?

Đáp: 1- V́ Chuẩn Đề Chơn ngôn bao gồm tất cả các Chơn ngôn, và bao hàm tất cả các Thần chú. Các chú không bao hàm được Chuẩn Đề như biển lớn hay nhiếp trăm sông chứ trăm sông không thể thu nhiếp biển lớn (Chuẩn Đề tổng hàm các chú sau đây sẽ rơ.)

2- V́ Chuẩn Đề Đàn pháp người dễ làm thành tựu. Chỉ lấy một cái kính mới chưa từng dùng, ấy là Đàn pháp . Không đồng như các chú, phải kiến lập đàn pháp , cần phải lựa chọn nơi tịnh xứ hương nê đồ địa, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường đầy đủ mới có thể thành tựu. (Người có tài vật, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường đầy đủ, nơi trước tượng Phật, an trí Kính đàn, đối trước tŕ tụng lại càng nhiệm mầu.)

V́ Chuẩn Đề không cần lựa tính cách nhiễm tịnh để tŕ tụng, chẳng luận tại gia, xuất gia, đă lỡ uống rượu, ăn thịt, có vợ con v.v… đều tŕ tụng được. Không giống các Thần chú khác cần yếu phải tŕ giới mới hay tụng tập. (Nay v́ những kẻ thế tục đeo mang vợ con, uống rượu, ăn thịt, ấy là thường nghiệp của họ. Tuy gặp kẻ Tăng nhơn dạy bảo, nhưng tập tánh khó mà cải đổi. Nếu không dùng Đại bất tư ngh́ chú pháp này cứu thoát, th́ những kẻ như vậy biết ngày nào ra khỏi sanh tử. C̣n những ai, trai giới thanh tịnh y pháp tŕ tụng, lại là thù thắng nhiệm mầu hơn hết. Trong kinh Chuẩn Đề nói: Huống là trai giới đầy đủ, y pháp đầy đủ để tŕ tụng, không chuyển, không thân văng đến Tứ thiền, sẽ được đại Thần túc ấy.)

Sở dĩ thế nên dạy nhiều về Chuẩn Đề Chơn ngôn, khiến người tŕ tụng. Nếu muốn tŕ các Chơn ngôn khác, tùy tâm đều được, đừng định chấp một bên nào vậy. (Tuy chuyên tụng nhị chú, trước hết cần phải khởi tâm viên tín: Ngũ bộ Thần chú, đều là pháp môn thành Phật. Nếu thiếu tin một bộ, trở thành hủy báng Phật pháp). Lại nữa, Chơn ngôn hành giả, mỗi ngày đối trước Kính đàn, như ban đầu tŕ tụng; hoặc chỉ y như trước tiên, tưởng trên đầu của ḿnh có chữ Phạn LAM tṛn sáng như Minh Châu, nhiên hậu mới tŕ khóa. Lại căn cứ theo kinh Đại Thừa Quán Tưởng Mạn Noa La, kinh Tŕ Minh Tạng Thành Tựu Nghi Qũy cùng với kinh Tôn Thắng Phật Đảnh Tu Du Dà pháp cùng nhiều kinh khác đến mấy chục bộ, trong đó nói: Hoặc tưởng trên đỉnh đầu của ḿnh có chữ LAM, biến thành lửa ba góc; đốt hết thân ḿnh từ đỉnh đầu tới chân; khắp pháp giới chỉ thấy thanh tịnh, dù có ngũ vô gián tội, dụng chữ này đốt thân, cũng đều trừ diệt không sót. Tiếp đó, nên tưởng chữ Phạn A, sanh thành tự thân. (Chữ A tức là thể; tức vô tướng pháp giới, từ vô tướng đó sanh thành thân hành giả.) Lại một chữ ÁM, mang kết trong thập tự đảnh môn (Nghĩa chữ Ám tức là thể, nước quang minh của mười phương chư Phật để rưới lên đỉnh đầu của Phật tử. Đây là bí mật quán đảnh trong pháp môn, nhiên hậu tŕ tụng. Hoặc tưởng tự tâm như mặt trăng tṛn sáng, thanh tịnh, mặt trăng ấy có một chữ Phạn ÁN)

(Trong Nhơn vị của đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo Bồ đề, sau tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền thành Chánh giác. Chữ Án hàm đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật.) Hoặc trong tâm Nguyệt luân tưởng một chữ A, (Chữ A này là Ty Lô Phật thân, cũng là pháp giới, cũng là Bồ đề tâm, nếu người tưởng niệm th́ pháp sinh được vô lượng công đức.) Hoặc tưởng trong tâm Nguyệt luân một chữ Hồng (chữ Hồng tổng nhiếp Kim Cang bộ, tất cả Chơn ngôn. Là chủ thân Kim Cang bộ, cũng là ba giải thoát môn. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ tất cả tội chướng, thành tựu các công đức.) Hoặc trên lưỡi tưởng một chữ LAM, hay chữ HỒNG, tưởng xong rồi sẽ tụng tŕ. Hoặc tưởng trên cổ ḿnh phát xuất hoa sen lớn, trên hoa sen xuất hiện chữ A; lại tưởng chữ A biến thành mặt trăng tṛn; tưởng nơi mặt trăng đó biến thành chữ HỒNG, chữ Hồng này biến ra năm chùy Kim Cang, lại tưởng cái chày này dời lên trên cái lưỡi, gọi là lưỡi Kim Cang. Nhiên hậu tŕ tụng (Kế đó tay cũng tưởng chữ A, A lại biến thành Nguyệt luân, Nguyệt luân biến thành HỒNG tự, chữ Hồng biến ra sắc trắng năm chày Kim Cang mới gọi là tay Kim Cang, sau đó kiết tất cả ấn.) Hoặc tưởng ra chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Đề mỗi một chữ có các thứ ánh sáng An trong tự thân phần; nghĩa là tưởng chữ ÁN, an trên đỉnh đầu; chữ Chiếc, an nơi hai con mắt, chữ LỆ, an tại cổ, chữ CHỦ, an nơi tâm. Chữ Lệ, an nơi hai vai chữ CHUẨN, an nơi rún; chữ ĐỀ, an nơi hai bắp về; chữ Ta Bà, an nơi hai cổ chân và chữ HA, an tại hai bàn chân. Tưởng An bố khắp nơi rồi, nhiên hậu tŕ tụng.(Kinh Tŕ Minh Tạng Thành Tựu Nghi Quỹ nói: Nếu kẻ nào muốn thành tựu trong pháp Chuẩn Đề Bồ Tát, trước hết quán Chuẩn Đề Bồ Tát căn bổn vi diệu tự luân, trên thân ḿnh mỗi một chữ ở vào một chỗ rơ rệt, thân đời trước ngươi đó có tạo tất cả tội nghiệp, th́ cũng được trừ diệt. Phàm có sở cầu, quyết định thành tựu, pháp An bố cửu tự, trong Kinh tạng có nhiều chỗ nói vậy.)

Quán tưởng chữ Phạn đă có công đức rộng như trong các kinh Đà Ra Ni có nói: “Trên đây về quán môn Phạn tự, trong bốn oai nghi thường tư duy đến, rất là nhiệm mầu”. Phàm trong các kinh, tưởng chữ Chơn ngôn đều là chữ Phạn chứ không phải chữ của xứ ta. Cho nên Nhứt Tự Đảnh Luân Vương Nghi Quỹ nói rằng: “Chỗ nói quán các chữ, chỉ là chữ Phạn, không phải chữ ở các địa phương mà có sức đại thần dụng.” Hoặc có người không thể tưởng được chữ Phạn, chỉ nên chuyên tâm tŕ tụng cũng đủ tất cả tam muội. Cho nên Đại Bi Tâm Kinh nói rằng: “Đà Ra Ni là Thiền định tạng; trăm ngh́n tam muội thường hiện tiền.”

Nếu người khẩn thiết tŕ tụng, hoặc gặp các thứ ma chướng, hoặc bỗng nhiên sợ hăi, hoặc lưỡi khó tŕ tụng, hoặc thân không an, hoặc ngủ nhiều, giận nhiều, hoặc thấy các tướng lạ, hoặc sanh nghi các Thần chú không muốn tŕ tụng v.v… Nếu đối trị các điều đó, nên quán tưởng Phạn tự RA, hoặc quán chữ LAM, hay quán chữ A v.v… Chỉ tùy theo đấy quán tưởng một chữ, cảnh giới kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu tâm hay sanh nhiều phân biệt, nên quán Phạn tự SÁI, tức Thánh vô phân biệt. Nếu có trước tâm nhiều, nên quán tưởng HÀM tự, tức nhơn duyên pháp vốn không có vậy. (Trên đây ước nơi một mặt mà nói, nếu thật nói ra: Chỉ tùy một chữ mà tất cả đều có công dụng đó, nghĩa là một chữ thật đủ tất cả chữ, là công dụng của tất cả chư Phật, Bồ Tát vậy.)

Hỏi: v́ sao Phạn tự đều có bất tư ngh́ thần dụng như vậy?

Đáp: Nghĩa là mỗi một chữ tức thể là thân tâm của chư Phật, Bồ Tát vậy; tức là thể là ly tướng pháp giới vậy. Lại tức thể là giáo lư, hạnh và quả ấy vậy, sở dĩ thế nên có bất khả tư ngh́ thần dụng. (Phạn tự: ở Tây Phương vốn có sẵn trong pháp nhĩ. Khi thế giới mới thành, Phạm Vương truyền nói: Không đồng như chữ ở phương này, do Thương Hiệt sáng chế).

Hỏi: Nếu vậy, Phạn tự ở Phương Tây, đều có bất khả tư ngh́ thần dụng, cớ ǵ riêng nói chữ trong Chơn ngôn?

Đáp: Nghĩa là chữ trong Chơn ngôn, là pháp nhĩ của chư Phật bất tư ngh́ lực gia tŕ vậy. Pháp tánh như vậy đó, riêng có thần dụng. Như ngôn ngữ ở đây chỉ là một. Duy chỉ những câu như “cấp cấp như luật lịnh v.v…Chú hỏa không thiêu được, chú thủy không làm ch́m, cho nên làm ngữ chú riêng có công dụng, chẳng phải tất cả ngôn ngữ khác đều có công dụng như vậy. Chữ ở Tây Phương cũng thế …, chữ tuy là một mà làm chữ trong Chơn ngôn, riêng có thần dụng, chẳng phải tất cả chữ đều có thần dụng như vậy.


Hỏi: Trên nói đối đàn, kiết ấn, tụng chú v.v… đâu không phải hữu tướng ư?

Đáp: Viên Tông vô chướng ngại pháp giới, trên thể, vốn đủ vô tận pháp môn. Thiền tông vô tướng pháp môn chỉ là một trong vô tận môn vậy. Nay Mật tông, Đàn pháp, thủ ấn, Chơn ngôn, tức thể lại là vô chướng ngại pháp giới vậy. (Như Hoa Nghiêm kinh Sớ Sao, trong Thập huyền môn, nương sự hiển pháp môn, nói Kim sắc thế giới, tức là bổn tánh là Bát nhă vô phân biệt trí v.v… Nay có người nói rằng: Tŕ chú, kiết ấn, đối đàn là trệ ngại nơi tướng, đây chỉ là trong thiền tôn mà luận. Tức là ly tướng ngoại cầu nơi vô tướng. Tổ sư v́ ngoại đạo mà kiến giải, chứ không phải ư Phật giáo. Lại trong kinh Lăng Nghiêm sớ nói rằng: Tŕ tụng Thần chú hay trừ được các ác, hay nhóm tập các thiện. Kẻ ngu muội không biết ư chỉ đây; thấy người tŕ chú thường nổi lên ḷng hủy báng, cho đó không phải là kẻ tu hành. Chưa có một Đức Phật nào, không do nơi Thần chú mà được thành đạo để độ chúng sanh vậy, xin mời xét kỹ lại để cải cái lỗi này.

Hỏi: Trên kia dẫn chứng các đại sư, các Ngài đều nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ giải của nhơn vị, cớ ǵ trên kia lại giải chữ A, là Tỳ Lô Phật thân, chữ Hồng là Tam giải thoát môn v.v…

Đáp: Cứ theo Hiền Thủ Bát nhă trong kinh sớ và Thần Biến sớ, các Mật tạng Đà Ra Ni Kinh Ư th́ có hai môn:

1)Bát Nhă Thuyết Môn: Chú là mật pháp của chư Phật. Chư Phật truyền nhau, kẻ khác chẳng thông hiểu, chỉ nên tŕ tụng không cần cưỡng thích.

2)Cưỡng Thuyết Môn: Như trong Chơn ngôn, tùy cử một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác pháp, bao trùm cả không gian và thời gian, tự tại giải thoát. Tóm lại mà nói: Vô tận pháp môn ở trong một chữ tổng giải nói hết, mới là chữ nghĩa của Đà Ra Ni. Đem lời nói này, giả sử mười phương các Đức Phật trải qua hằng sa kiếp, chung nói nghĩa một chữ trong Chơn ngôn cũng không thể hết được, huống nữa người khác, nói đó c̣n khó, huống chi tham thọ. Sở dĩ đem một phần trong một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác pháp mà giải nó như trước nó chữ A, là Tỳ Lô Phật thân, Hồng tự là Tam giải thoát môn v.v… Tức là cưỡng nói cái nghĩa của một phần thôi. C̣n các chỗ khác có giải thích Chơn ngôn, tự nghĩa, cú nghĩa, đều là cưỡng thuyết giải một phần nhỏ nghĩa vậy. (Nếu ở trong một chữ Chơn ngôn, hoặc chia ra ba nghĩa, mười nghĩa hay một trăm nghĩa v.v… giải thích gọi là nghĩa một mặt vậy.) Trên nói: Duy Phật mới biết, chứ không thông giải cho kẻ khác. Đó là căn cứ vào Mật giáo bổn tôn bất khả thuyết môn mà nói: (Bất khả thuyết môn này là nói đến quả ly ngôn của Hiển giáo Viên tôn, Cưỡng thuyết môn đây tức là nói đến nhân quả của Hiển giáo Viên tôn)

Hỏi rằng: hoặc có chúng sanh muốn trừ các thứ tai, chướng, hoặc muốn tăng trưởng phước huệ, hoặc muốn cầu Thánh quả … là chỉ y Nghi Quỹ như trước tŕ tụng hay là có phương pháp nào khác?

Đáp rằng: Chỉ y Nghi Quỹ như trước tŕ tụng. Phàm có sở cầu nhất định thành tựu. Hoặc có muốn tùy việc sở cầu, mỗi pháp làm riêng khác. Nay lược bày pháp thức sau đây: Theo trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ, Thất Cu Chi Đại Minh Đà Ra Ni kinh, Thần Biến Sớ và các Chơn ngôn Nghi Quỹ … nói: Có năm thức Đàn pháp gọi:

1)      Tức Tai Pháp.

2)      Tăng Ích Pháp.

3)      Kính Ái Pháp.

4)      Hàng Phục Pháp.

5)      Xuất Thế Gian Pháp.

1)Tức Tai Pháp: (V́ để trừ ác nghiệp, trọng tội, phiền năo chướng … Các món tai nạn, quan sự, khẩu thiệt, quỷ mị sở trước, ác tinh lăng bức …) Kẻ hành giả hướng về phương Bắc, tréo gót chân ngồi thẳng; tượng Chuẩn Đề xoay về hướng Nam, đối trước tượng Ngài mà an trí Kính đàn. (Cái kính tṛn) Lại tưởng một Đàn tṛn sắc trắng, trong cái đàn ấy tưởng khắp chữ PHẠ, hoặc chữ VĂM tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả điều tưởng ở trong đàn tṛn; hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn tṛn cũng được. Quán tưởng đức Chuẩn Đề sắc trắng, hiến cúng hoa quả, ẩm thực và tự thân y phục đều là sắc trắng, đồ hương dùng bạch đàn, thiêu hương dùng trầm thủy, thắp đèn dầu Tô du; lấy từ tâm tương ưng. Lúc đầu hôm ngày mồng một mỗi tháng bắt đầu khởi việc, đến ngày mồng tám là măn, mỗi ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, khi đến ngày măn hoặc đoạn thực (không ăn) hoặc ăn tam bạch thực: nghĩa là sữa, gạo găy hay cháo. Người không đủ sức tôn tượng cúng dường đầy đủ y phục chỉ vận tâm tưởng cũng được, sau này cứ theo đây mà biết) Nếu khi tụng niệm, lần lượt tŕ tụng như trước, đến Chuẩn Đề chú tụng 108 biến, rồi sau chỉ từ chữ ÁN mà tụng. Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, gia hô tên … và trừ tai nạn TA BÀ HA. Nếu tự cầu cho ḿnh, trên chữ TA BÀ HA xưng danh ḿnh và sự việc cầu xin. Nếu v́ người khác, cũng xưng rơ tên, họ, sự việc v.v…

2)Tăng Ích Pháp: V́ cầu thêm sự vinh quang, tăng trưởng thọ mạng, cầu phước đức thông minh, quyến thuộc thế lực, tiền tài phongn thạnh, lúa nếp thành thục, cầu phục tang bảo châu, thuốc tiên, năm thần thông v.v… Hành giả hướng về Tây phương; trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn (lại tưởng một h́nh Đàn vuông, sắc vàng trong Đàn ấy có khắp chữ A, hoặc tưởng chữ ÁM, Tôn tượng cúng dường đầy đủ. Tự thân của hành giả đều tưởng ở trong cái đàn vuông, hoặc ở trước tượng vẽ một h́nh đàn vuông cũng được). Quán tưởng đức Chuẩn Đề sắc vàng, chỗ hiến cúng hoa quả ẩm thực và tự thân y phục … đều là sắc vàng. Đồ hương dụng, bạch đàn gia chút uất kim, thiêu bạch đàn hương, thắp đèn ma du (dầu mè) đem tâm vui mừng được tương ưng. Theo tháng ngày mồng 9, khi mặt trời mới mọc, khởi đầu hành tŕ cho đến ngày rằm là măn. Mỗi ngày như trước, ba thời tắm gội thay áo. Đến ngày măn cứ như trước đoạn thực và tam bạch thực; niệm tụng như trước.

Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, gia hộ tên… sở cầu như ư, Ta Bà Ha. (xưng tên và sự việc như bài trước đă nói)

3)Kính Ái Pháp: (V́ cầu tất cả Thánh Hiền gia hộ, Thiên long Bát bộ hoan hỷ, cầu thuyết pháp biện tài, ngôn âm hoà nhă, người nghe hoan hỷ và cầu tất cả mọi người ái kính, bạn hữu tri thức thân cận, oan gia hoà thuận …) Hành giả xây mặt về hướng Tây, ngồi cách thiền tọa, tượng diện hướng Đông, trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn. (Lại tưởng một bán nguyệt h́nh Đàn sắc màu đỏ, trong bán nguyệt h́nh Đàn ấy, tưởng khắp chữ Hạ hoặc chữ Hàm; tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả đều tưởng ở trong bán nguyệt h́nh đàn ấy. Hoặc trước tượng chỉ vẽ một h́nh đàn bán nguyệt cũng được.) Quán tưởng đức Chuẩn Đề màu sắc đỏ, thân mặc áo sa lụa, chỗ hiến cúng hoa quả, ẩm thực và tự thân y phục, thảy đều màu đỏ. Đồ hương dụng uất kim, thiêu hương lấy đinh hương, Tô hạp hương ḥa mật để thiêu đốt. Thắp đèn dầu trái cây đem thân tâm hỷ nộ tương ưng. Từ ngày 16 cuối đêm (hậu dạ) là khởi đầu; đến ngày 23 là măn, mỗi ngày tắm gội đoạn thực hiện tụng, thực hành như pháp trước.

Diệu Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề linh nhứt thiết nhơn ái kính…tên…Ta Bà Ha. (Xưng tên họ tùy theo việc sở cầu, như trước đă bày.)

4)Hàng phục pháp: Để hàng phục tất cả ác độc, quỷ thần và ác long thú tổn hoại tất cả hữu t́nh và điều phục tất cả người ác, không trung với đất nước, sanh tâm phản đạo, diệt Tam-Bảo, hủy Chơn ngôn, hoặc gây chướng ngại. Đối với tất cả người ác như vậy, người tŕ chú vận đại từ bi tâm, làm được phép này.


Nếu v́ ích kỷ mà cầu, hoặc có tâm oán cừu mà cầu, mà làm phép này, theo các kinh đă nói, quyết định phản chiêu tai họa, phản đắc suốt đời si ai, học giả nên biết! (nghĩa là ḿnh oán ghét người nào đó, cầu cho họ bệnh chết hay tai họa, th́ không thành mà trái lại ḿnh bị mang họa. Chư Phật Bồ Tát không cho phép, nếu cưỡng làm suốt đời bị ngu si.)

Hành giả hướng mặt về phương Nam, dùng phép ngồi tôn cư Tọa (Ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua hai bàn chân bên hữu. Mặt tượng hướng về phương Bắc. Nơi trước tượng Chuẩn Đề, an trí Kính đàn. (lại tưởng một cái Đàn tam giác sắc xanh ở trong tam giác Đàn, tưởng khắp chữ Ra, hay chữ Lam, tôn tượng cúng dường đầy đủ và tự thân của hành giả điều tưởng ở trong cái Đàn tam giác cũng được.) Chuẩn Để sắc xanh, hay màu đên mặc áo đen xanh tự thân y phục cũng đều sắc xanh. Hiến cúng hoa sắc xanh, hoa thối, hoa không thơm và Mạn đà la hoa v.v… ẩm thực, dùng thạch lựu làm nước nhựa nhuộm thành sắc đen hay sắc xanh, đồ hương dùng cây bá. Ứ già: dùng phân trâu (phân trâu trắng ở núi tuyết bên Ấn Độ nói ăn toàn cỏ thơm, nên phân nó mịn thơm chứ không phải phân trâu xứ ta). Lấy hoa sắc đen và giới tử Bá mộc làm đồ hương v.v… Mỗi thứ lấy một ít để nơi Ứ già thủy; đốt an tức hương. Thắp đèn dầu hạt cải; lấy phẫn nộ tâm tương ưng. Từ ngày 24 vào lúc giờ ngọ hoặc nửa đêm khởi đầu hành pháp cho đến ngày cuối tháng th́ măn; mỗi ngày tắm gội, đoạn thực, niệm tụng pháp, thực hành như trước.

Diệu Chơn ngôn: Hồng, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Hồng Phấn Tra, (Phấn Tra viết chữ Phạn)

(Nếu các người ác thân tâm không an, hoặc sắp chết, phải khuyên gấp người ấy, phát thiện tâm. Nếu người ấy biết hối lỗi, tự trách vĩnh đoạn ác tâm, th́ nên v́ họ làm phép Tức Tai, niệm tụng, người kia bèn khỏi tai nạn. Trên đây là bốn pháp thành tựu. Nếu muốn nhờ được thành công trong bốn pháp này; cần được dự tu tŕ Chuẩn Đề Chơn ngôn trước là 50 vạn, 70 vạn, hay 100 vạn biến. Đă thực hành rồi, mới làm bốn pháp, thành tựu được, tùy sự ưa muốn, dù làm một pháp cũng sẽ thành. Thấy trong thời nay hoặc Thích, hoặc Nho v́ lợi v́ danh măn năm suốt ngày xu hướng tham lam, dụng hết thân tâm cũng chưa vừa bụng. Khi vô thường đến lại sanh vào xứ thấp hèn. Sao bằng, vâng Thánh ngôn chư Phật tụng bí mật Thần chú, trên trong các pháp Tăng Ích lần lượt thực hành, việc sở cầu quyết định toại tâm; tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt; vô thường có đến th́ được sanh thắng xứ. Hiện tại, vị lai, đều được lợi lạc, há chẳng là điều tốt sao. Có được lợi lớn ấy, cho nên Phật mới dạy.)

5)Xuất thế gian đàn pháp: V́ muốn mau đủ hai món tư lương: Phước đức và trí huệ. Đốn viên mười món Ba la mật, siêu việt ba vô số kiếp khắc kỳ trong đời này Thánh quả hiện tiền. Người hành giả ở tại núi non, hang cốc sâu thẳm thù thắng, già lam thanh tịnh. Đem hết ḷng Đại Bi, thường ưa lợi lạc vô biên hữu t́nh, đồng với Chuẩn Đề Vương Bồ Tát. Nương nhờ Đại Bi, nguyện lực, hộ trợ các Phật, Bồ Tát. Hạn định bốn tháng bốn ngày trong một thời kỳ, dứt tuyệt không tiếp khách, dứt bặt lời nói. Tam Mật tương ưng tâm không gián đoạn; kẻ hành giả mặt hướng về phương Đông. (Các phương khác cũng được, nhưng hướng Đông là tốt hơn hết; hoặc ngồi toàn già, bán già, hay tùy ư ngồi đều được.) Mặt tượng hướng về Tây, nơi trước tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn.

(Trên đảnh hành giả tưởng chữ Lam, biến thành ṿng lửa đỏ đốt hết tự thân hữu lậu. Lại tưởng trên một hoa sen lớn có chữ A, sanh thành vô lậu trí thân, lại tưởng chữ Ám, quán đảnh rồi. Lại tưởng chữ LAM biến thành lửa lớn đốt cháy thế giới hữu vi này đồng như hỏa kiếp, cháy sạch không sót, chỉ có không tịch. Lại tưởng tượng lập nên Đàn vô vi. Phí dưới hạ phương khắp tưởng chữ Khiếm: tạp sắc mà làm Không luân. Nơi trên Không luân tưởng chữ Hàm, sắc đen, biến thành Phong luân (gió). Trên Phong luân tưởng chữ Lam sắc đỏ, biến thành Hỏa luân (lửa). Trên hỏa luân tưởng khắp chữ Văm, sắc trắng biến thành Thủy luân. Trên Thủy luân (nước) tưởng khắp chữ A, sắc vàng, biến ra Kim Cang địa. Trên Kim Cang địa khắp tưởng đại Liên hoa. Trên mỗi hoa sen đều có đức Chuẩn Đề Bồ Tát, vô lượng Thánh chúng vi nhiễu (vây quanh) trước mỗi đức Chuẩn Đề, đều có tự thân của hành giả (Chính ḿnh mỗi mỗi thân có hiện ra hoa quả ẩm thực, tràng phan… đầy đủ các món cúng dường đều đối trước Kính đàn Chuẩn Đề: Tam mật tương ưng. Nếu hành giả không có tượng Chuẩn Đề và hoa quả ẩm thực cúng dường đầy đủ, chỉ dùng quán tưởng này cũng được thành tựu kiết tường). Nhứt tâm để tưởng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, đầy đủ vô tận tướng hảo quang minh, nơi trong tâm Nguyệt luân của Bồ Tát, tưởng có Cửu Thánh Phạn tự Đàn (9 chữ chú Chuẩn Đề). Hành giả tưởng trong tâm Nguyệt luân của ḿnh cũng có chín chữ Phạn Đàn, c̣n ở tại thân ḿnh, tưởng khắp 9 chữ Thánh Phạn (Tâm Nguyệt luân và tự thân phần tưởng đủ các chữ, như trước đă nói). Các thứ hiến cúng hoa quả, ẩm thực, hương, đèn, đuốc, nến, …Nơi trong ba pháp: dứt tai ương, tăng ích, kính ái đă nói rơ sắc vật đều dùng được. Y phục của hành giả phải được mới, trong sạch mới được vào Đàn pháp (tu). Tóm lại th́ loại áo vàng là tốt nhất. Hành giả không cần phải lao h́nh, khổ nhọc sợ tâm thần tán loạn; đối với bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi đều được Tam mật tu tập. 1)Thân kiết ấn. 2)Miệng đọc chú. 3)Tâm duyên Phạn tự. Chỗ thấy, nghe hay biết chỉ quán chữ A: Nơi nhứt chơn thanh tịnh pháp giới, thường tu quán hạnh này. Lần lượt nghi quỹ tŕ tụng như đă nói ở trên, đến Chuẩn Đề Chơn ngôn. Từ đầu vô số, vô kư chuyên tinh niệm tụng. Cần sách thân tâm chớ nên biếng nhác. Lúc sắp thành tựu, ắt có khởi lên các thứ chướng ngại, nên làm phép: Tức tai, hàng phục … Tùy theo căn tánh sai khác của hành giả, khoảng thời gian này quyết chứng được Tam muội hiện tiền. Tức ở trong định thấy có vô số Phật hội, nghe được pháp âm vi diệu, chứng được Thập Địa Bồ Tát vị. (Một là pháp này, chỉ cầu xuất thế gian, nếu muốn thành tựu trong pháp này, trước hết cần phải tŕ tụng Chuẩn Đề Chơn ngôn được 500 vạn, 700 vạn, hoặc 1000 vạn biến rồi mới làm pháp này, quyết định có linh nghiệm.)



CÁC HÀNH TƯỚNG

THÀNH TỰU LINH NGHIỆM



Chuẩn Đề Đà Ra Ni kinh, Kim Cang Đảnh kinh, Tô Tất Địa … Cộng lại hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn, người hành giả dụng công tŕ tụng. Hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ Tát, Thánh tăng, Thiên nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên hư không một cách tự tại; hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, bay lên lầu các, hoặc lên cây cao thọ, hoặc trèo lên núi trắng, hoặc cỡi sư tử, ngựa, voi trắng, hoặc thấy hoa quả tốt đẹp. Hoặc mộng thấy mặc áo vàng, áo trắng Sa Môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả vật đen. Hoặc ngậm nuốt, mặt trời, mặt trăng … tức là cái tướng trạng tiêu diệt tội vô thỉ.

Hoặc chính đương lúc tŕ tụng thấy các thứ ánh sáng; hoặc thấy khắp chỗ trong hư không có các hoa kỳ lạ, đặc biệt. Hoặc thấy các Phật, Bồ Tát, Thánh tăng, Thiên Tiên … Hoặc thấy chư Phật Tịnh độ, hoặc thấy tự ḿnh dạo qua các Phật quốc và cúng dường. Hoặc tạm thời gian trải qua nhiều kiếp. Hoặc thấy đèn sáng cao 1 thước, 2 thước cho đến 1 trượng. Hoặc trong lư không có lửa mà tự nhiên có khói. Hoặc thấy Phật tượng, phan cái tự động; hoặc nghe các món mỹ thinh của chư Phật, Bồ Tát.

Hoặc tự biết thân ḿnh nguy nga, ṿi vọi cao lớn. Hay răng rụng lại mọc, tóc trắng lại đen; hoặc thân thể trắng nhuận, không sanh rận rệp, hoặc tham sân si tự nhiên tiêu diệt. Hoặc tổng tŕ bất vong, một chữ năng diễn nhiều nghĩa. Hoặc trí tuệ đốn sanh, tự nhiên thông hiểu tất cả kinh luật luận. Hoặc tất cả tam muội pháp môn tự nhiên hiện tiền. Hoặc phước đức đốn cao, tứ chúng thảy đều quy ngưỡng …(Kinh văn trên đây đă nói: Nay có kẻ Tăng, Nho sĩ sơ lược tham học thiền lư, vừa thấy các tướng ấy cho là yêu dị. Đây chẳng những là hủy báng tối thượng thừa giáo, mà cũng là đắc tội tà kiến, xả tướng, thủ tánh; lại không biết tướng kia, bản lai là tánh vậy.

Nếu gặp các việc như trên, chỉ là phước huệ tăng trưởng, tướng trạng gần thành tựu; chớ sanh ḷng nghi hoặc, chớ khởi niệm thủ xả.

Nên quán những cảnh giới đă gặp đó, đều là A tự, hoặc Lam tự, hoặc tưởng đều nh mộng huyễn hay đều là pháp giới nhứt tâm, nếu được ứng nghiệm như vậy cần phải phát tu, sách tất tam nghiệp, gia công tŕ tụng, không được tuyên nói những cảnh trong Thần chú để ḷe gạt người. Chỉ có người đồng đạo, không v́ danh lợi kính khen, th́ mới được nói sự đó.

Sự thành tựu có 9 phẩm:

1)Hạ phẩm có ba:

a)Nếu hạ phẩm thành tựu, năng nhiếp phục tất cả tứ chúng, phàm có sở cầu, cử ư tùng tâm, tất cả thiên long thường đến thăm hỏi; lại hay hàng phục tất cả trùng thú và quỷ mị …

b)Trung phẩm thành tựu: Có công năng sai sử tất cả thiên long, bát bộ hay khai mở tất cả những bảo tàng giấu kín, hoặc cần vào tu la cung, long cung liền được vào đó, đi, ở tùy tâm.

c)Thượng phẩm thành tựu: Liền được tiên đạo, thừa nương hư không bay đi qua lại. Trên trời dưới đất đều được tự tại. Thế gian xuất thế gian chẳng việc ǵ mà không đạt đến.

2)Trung phẩm có ba:

a)Hạ phẩm thành tựu: Liền được làm vua trong các tiên chú, trụ thọ vô số tuổi, phước đức trí huệ ba cơi không thể so kịp.

b)Trung phẩm thành tựu: Liền được thần thông qua lại các thế giới, làm Chuyển luân vương, trụ thọ một kiếp.

c)Thượng phẩm thành tựu: Hiện chứng từ Sơ địa Bồ Tát trở lên.

3)Thượng phẩm có ba: Nếu hạ phẩm thành tựu: Được đến đệ Ngũ địa Bồ Tát trở lên.

b)Trung phẩm thành tựu: Được đến đệ Bát địa Bồ Tát trở lên.

c)Thượng phẩm thành tựu: Tam mật biến thành Tam thân. Chỉ trong đời này được chứng quả Vô thượng Bồ đề. Đây là 9 phẩm thành tựu của người tŕ chú. Nếu cầu thẳng đến thành Phật chẳng cân cầu thành tựu ba hạ phẩm. C̣n căn cứ theo Thần Biến Sớ có năm phẩm thành tựu:

1) Hiện đến tín vị.

2) Đến sơ Địa.

3) Đến tứ Địa.

4) Đến bát Địa.

5) Đến thành Phật.

Đó là thuộc về kinh này. Nay thông y theo các kinh cho nên nói chín phẩm, nghĩa là Chuẩn Đề Chơn ngôn, bao gồm tất cả các bộ Thần chú.

Hỏi: V́ sao biết được Chuẩn Đề gồm các bộ Thần chú?

Đáp: Nghĩa là trong một tạng kinh, Thần chú không ngoài 25 bộ.

1)      Phật bộ: Là các chú của Phật.

2)      Liên Hoa bộ: Là các chú của Bồ Tát.

3)      Kim Cang bộ: là các chú của Kim Cang thần.

4)      Bảo bộ: Là các chủ của chư Thiên.

5)      Yết ma bộ: Là chú của các vị quỷ thần.

Năm bộ này mỗi bộ gồm có 5 bộ nhỏ thành 25 bộ. Nay Chuẩn Đề tổng nhiếp 25 bộ cho nên Chuẩn Đề kinh nói: Chỉ có 1 bộ mà nhiếp 25 bộ. Lại nói rằng: Nếu muốn triệu thỉnh 25 bộ thiên ma … chuyên tụng chú này, tùy thỉnh quyết đến. Lại nói rằng: Ngũ bộ Kim Cang Tứ Thiên Vương, đồng kết Tổng tŕ tam muội giới. Kinh đại Giáo vương có nói: Thất Cu Chi Như Lai, ba thân khen nói: Chuẩn Đề Bồ Tát Chơn ngôn năng độ tất cả hiền Thánh. Nếu người tŕ tụng, tất cả sở cầu thảy được thành tựu; không bao lâu chứng được Chuẩn Đề đại quả, v́ thế nên biết Chuẩn Đề Chơn ngôn đứng hàng đầu trong Mật tạng, là mẹ của Chơn ngôn, là vua của các Thần chú.

Chuẩn Đề Chơn ngôn tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn, hoặc dùng h́nh tượng ấn pháp Phạn tự … mỗi mỗi không đồng. Nay Chuẩn Đề Kính đàn tổng nhiếp tất cả các đàn pháp này vậy. Cho nên Chuẩn Đề kinh nói rằng tổng nhiếp 25 bộ. Đại Mạn Trà La: Phạn ngữ Mạn Trà La nghĩa là Đàn. Cho nên biết Kính đàn rất là tối tôn tối thượng hay diệt tất cả ma chướng, năng sanh tất cả công đức; mắt thấy, thân đeo mang đều được lợi lạc. Cho nên người xưa nói rằng: Đàn ấy là tập vậy, là chỗ vô biên Thánh Hiền tập hội. Như ngọc Phương Châu hứng ánh mặt trăng, liền có nước phát ra, đem kính (hội tụ) hứng ánh mặt trời, liền phát sanh ra lửa. Đá từ thạch dẫn hút kim loại. Hổ phách lượm hạt cải. Cái công dụng thật khó so lường; huống chi là Đàn pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Nay có kẻ ít nghe thấy, mê mờ không hiểu mật giáo, thấy dùng Kính đàn lại sanh hủy báng. Song ba đời các đức Như Lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Đàn phát mà thành Phật đạo, để hóa độ chúng sanh vậy. Mong những ai nghe thấy rộng răi, hăy mau sửa đổi sự sai lầm đó.

Mật giáo Tâm yếu đến đây là hết.


__________________
Nhất kiếp vô tu muôn kiếp khổ
Nhất thời bất giác vạn thời trầm
Quay trở về đầu Xem arahate's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi arahate
 
tu_tai_vo_uu
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 21
Msg 3 of 7: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 9:23am | Đă lưu IP Trích dẫn tu_tai_vo_uu

T́nh cờ vào đây đọc bài thấy nội dung khá đầy đủ và bài bản có thể giúp người đọc thực hành theo được, mong bác arahate góp thêm nhiều bài hơn nữa, bài ở đây đầy đủ và hay hơn của Nkd833 nhiều

__________________
Giải thoát là Nghĩa Dũng
Từ Bi là Oai Hùng
Quay trở về đầu Xem tu_tai_vo_uu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tu_tai_vo_uu
 
nkd833
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2004
Nơi cư ngụ: Angola
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1303
Msg 4 of 7: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 9:55am | Đă lưu IP Trích dẫn nkd833

tu_tai_vo_uu đă viết:
T́nh cờ vào đây đọc bài thấy nội dung khá đầy đủ và bài bản có thể giúp người đọc thực hành theo được, mong bác arahate góp thêm nhiều bài hơn nữa, bài ở đây đầy đủ và hay hơn của Nkd833 nhiều


Chời ui, sao lại vác tên tui vào đây?

- "bài ở đây đầy đủ" là đầy đủ cái ŕ vậy ta? Theo tui hỉu th́ bạn nói đầy đủ các phần đầu đuôi xuôi ngược chứ ŕ? Hihihi, dĩ nhiên là như thế rùi. Post xong th́ nó mới đầy đủ được chứ? Nkd tui hăy c̣n đang post dở cái lời tựa th́ làm sao "đầy đủ" được? Hihihi

- "và hay hơn của Nkd833 nhiều" - ha ha ha, hoá ra bạn đọc cái này thấy hay à? Tại tui vâng lời Thầy post mấy cái này lên thôi chứ c̣n thật ra tui lười như đười ươi ấy, lại toàn phải mổ c̣ nữa chứ! Đừng hỏi Thầy tui là ai nhé, Thầy tui là người bạn có ao ước cũng chưa chắc được nhận làm tṛ đâu! Khuyên 1 câu, đọc cho hay th́ đừng có đọc - nói thật đấy!

- C̣n một chuyện nữa, nói hai chữ "bài bản" - Hỏi đă có pác nào post h́nh bùa chú lên chưa? Hay chỉ toàn chữ với chữ, đọc đúng làm đúng nhưng lỗi văn bản đánh sai (errors in typing) th́ ... ai chịu trách nhiệm, hihihi - Thế mà tui định scan mấy cái bùa đó lên đây có chít ko cơ chứ. Mà chắc chắn là như vậy rùi, Thầy dạy làm sao th́ tṛ làm vậy mừ!
Quay trở về đầu Xem nkd833's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nkd833
 
tu_tai_vo_uu
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 21
Msg 5 of 7: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 10:29am | Đă lưu IP Trích dẫn tu_tai_vo_uu

Chu choa, làm cái ŕ mà rầy em rữ vậy nè, em c̣n nhỏ mừ. Mới tập tành bước vào mật tông thôi nên hăy c̣n iếu tim lém, để từ từ em cố gắng hơn, nghe anh nkd833 khen thầy anh nức nở quá khiến em lấy làm "ghen tị" đó à nha. Không biết Thầy anh dạy anh thế nào nhưng ở chỗ tu vi th́ có vẻ c̣n thấp hơn em 1 bực, v́ em chỉ cần ngũ bộ chú với cái Tâm buông xả cũng thấy ḿnh tự tại rồi , vui vui em vô đây nói chiện cho thêm phần sôi nổi thôi chứ không nghĩ chuyện xào xáo diễn đàn đâu. C̣n nếu như nói về chuyện t́m sư phụ th́ hiện tại em nghĩ đủ tư cách làm thầy em chỉ có đại sư Yến Phi Thiên ( Sương Măn Thiên) hoặc anh Kim Cang Trí bên dactrung thôi. Ngoài các vị ấy ra th́ em (nói nhỏ nha) có năn nỉ xin nhận em làm đệ tử em ũng ứ chịu đâu đó, v́ em đă lỡ ái mộ 2 vị đó quá trời rồi không c̣n ai chen chân vô lọt đâu, c̣n nếu anh nkd833 co thể post những bùa phép hoặc những cái hay của thầy anh lên cho mọi người cùng xem, nếu thấy quả thật cao minh th́ em cũng chẳn ngại ǵ mà cúi đầu: ngưỡng mộ ngưỡng mộ .
Chúc anh vui

__________________
Giải thoát là Nghĩa Dũng
Từ Bi là Oai Hùng
Quay trở về đầu Xem tu_tai_vo_uu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tu_tai_vo_uu
 
nkd833
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2004
Nơi cư ngụ: Angola
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1303
Msg 6 of 7: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 10:41am | Đă lưu IP Trích dẫn nkd833

Trích dẫn:

v́ em chỉ cần ngũ bộ chú với cái Tâm buông xả cũng thấy ḿnh tự tại rồi


Vâng, tôi kính anh. Tôi xin lỗi. Tôi sai. Anh đúng. Tôi im đây. Hihihi, nhưng tôi không tự tại được, tôi phải cười cái đă! hehehe

Chỉ xin anh một điều, chỗ nào đă đặt biển cấm xxx th́ xin đừng có xxx vào, anh TU cái kiểu ǵ đấy?
Quay trở về đầu Xem nkd833's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nkd833
 
tu_tai_vo_uu
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 21
Msg 7 of 7: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 10:56am | Đă lưu IP Trích dẫn tu_tai_vo_uu

Dạ em đâu có nói là em tu đâu, chỉ là 1 người tự tại vô ưu nên không để ư tới những kiến chấp rào mé b́nh thường, em chỉ chú ư sao cho tâm thường an lạc là thấy vui rồi, tu làm chi mà ḿnh vẫn đầy kiêu căng tật đố và sân hận hả huynh, em chỉ thấy cái ǵ vui th́ cười, buồn th́ khóc, thích th́ dến, không thích nữa th́ đi, chứ câu nệ mà chi cho nặng gánh phiêu bồng. Anh ndk833 thử làm như em nha:
"Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mĩm cười
An Trú trong hiện tại
Ôi giây phút tuyệt vời."
bảo đảm với anh nếu thường xuyên làm như vậy anh không cần chi tu, Bồ Đề tâm cũng đủ kiên cố rồi.

__________________
Giải thoát là Nghĩa Dũng
Từ Bi là Oai Hùng
Quay trở về đầu Xem tu_tai_vo_uu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tu_tai_vo_uu
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.8457 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO