Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 180 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật” Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 1 of 52: Đă gửi: 30 December 2004 lúc 10:53am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Pháp Vân xin chép lại tập: “Nghiên Cứu Kinh Đại Nhật”
Soạn giả : R.TAJINA – GS TS Viện Đại học Ba-Lê và Viện Đại học Đại Chánh ở Đông Kinh.
Soạn giả : Như Pháp Quân. 1990

ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU

Kinh Đại-Nhật, chúng tôi đă chép nó từ Đại Tạng (Tập 18, số 848) ra xong vào giữa tháng 1 năm 1987. Thế mà măi đến đều năm 1990, chúng tôi chỉ mới dịch được khoảng 1/3 bộ kinh ấy. Mặc giù từ năm 1988, với chí tâm cầu pháp, chúng tôi đă khổ công đi t́m chép, rồi photocopy được bộ: “Đại-Nhật Kinh Nghĩa Thích” để về nghiên cứu thêm.

May thay, đầu năm nay, một ông bạn mang đến biếu chúng tôi tập Nghiên Cứu Kinh Đại-Nhật bằng tiếng Pháp. Chúng tôi đọc nó, cảm thấy mừng rỡ vô cùng, bèn dịch ngay ra tập Nghiên Cứu này.

Tập bằng tiếng Pháp là của Soạn giả R.TaJiMa, một giáo sư tiến sĩ, Viện Đại học Ba-Lê và Viện Đại học Đại Chánh ở Đông Kinh. Ông là người Nhật, ngoài chữa Nhật và chữa Hán ra, ông c̣n giỏi tiếng Pháp, chữ Phạn, và cả chữa Tây Tạng nữa. Ông soạn ra tập Nghiên Cứu đó với sự trợ cấp của Viện Văn Minh Ấn Độ với Viện Nghiên Cứu Nhật Bản tại Đại học Ba-Lê, và của Hội Nhật Bản để phát triển việc bang giao văn hóa quốc tế.

Nói rơ như thế để biết rằng: Các Viện và Hội kia đă thấy nơi Ông là một người có đầy đủ khả năng để nghiên cứu vấn đề một cách thấu đáo và vững chắc, với những chứng tích xác thực mà Ông sẵn có.

Thực vậy, đọc kỹ bản dịch này, các bạn sẽ thấy các điều nói trên là có căn cứ cụ thể và nội dung tập kinh của Ông nghiên cứu thật là hy hữu. Sau đây là một số ư kiến nói về bộ kinh này:

-     “ Trong Đại Thừa, Kinh Đại-Nhật là Vua, và trong Mật tông, nó là : “Mật” hơn hết cả Kinh Pháp Hoa cũng không đạt đến độ cao siêu của nó, huống là các Kinh khác” (Trí Chứng Đại-Sư”
-     “Nếu người ta nghiên cứu tư tưởng sâu sắc của Kinh Đại-Nhật từng chi tiết, người ta sẽ nhận thấy rằng : Tư tưởng ấy thâm nhập bởi những ư niệm mà người ta đă biết được qua các kinh chính của Đại-Thừa như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bát Nhă. Kinh Đại-Nhật là nơi qui tụ của một tư tưởng tôn giáo, mà các kinh nổi tiếng kia chỉ mới đại diện cho các giai đoạn đầu của nó”. (xem cuối phần dẫn nhập)

Đôi lời trích dẫn để giới thiệu không dám nói nhiều, bởi đă có nội dung của kinh tự nói. Để tóm tắt, chỉ xin ghi một câu : “Đây là biển cả chảy vào một giọt nước”. Xin quí vị thông cảm.
Cuối cùng xin hồi hướng công quả cầu pháp và dịch kinh cho tất cả, trong đó có các đạo hữu xa gần, và nhân đây xin chân thành cảm ơn ông bạn đă biếu kinh.

Kính Cáo
24 – 02 – 1990 tức 29 –01 Canh Ngọ
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 2 of 52: Đă gửi: 30 December 2004 lúc 10:55am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Nghiên cứu
KINH ĐẠI NHẬT

GS.TS – R.TaJiMa soạn.
Cư sĩ Trần Ngọc Anh
Pháp danh Như Pháp Quân dịch.

DẪN NHẬP

I.     CÁC TIỀN TÍCH CỦA MẬT TÔNG PHẬT GIÁO :

Nguồn gốc tư tưởng Mật Tông lên đến thời xa xưa của Ấn Độ. Như người ta đă biết, tại một trong bốn kinh Vệ Đà là Atharva VeDa, người ta thấy có những định thức thần diệu, những sức dụ hoặc. Kế đến, khuynh hướng ảo thuật càng ngày càng phát triển trong giai cấp Bà la môn. Ngay trước khi Phật giáo phát sinh, nó đă có một h́nh thái tôn giáo, và chiếm một địa vị quan trọng trong các tín ngưỡng của dân gian. Đến lúc nó được sát nhập vào Phật giáo th́ nó đă đạt đến sự thành thục và sự phát triển trọn vẹn của nó. Tuy nhiên, trong Phật giáo nguyên thủy, người ta thấy Đức Phật cấm dùng Đà-La-Ni và sức dụ hoặc. V́ vậy mà không có vấn đề Thần chú và Đà-La-Ni. Trong các kinh Tiểu thừa và trong các sách của Luật tông, người ta cũng thấy Đức Phật đă nhiều lần lặp lại lệnh cấm của Ngài, từ đó ta có thể suy ra là lệnh ấy lắm khi đă từng bị vi phạm.

Trong các kinh sách Đại Thừa th́ ngược lại, ngay trong các kinh tiêu biểu nhất, như kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, kinh Bát Nhă, các thần chú và Đà-La-Ni lại được khuyến dụng, chúng nó đă được đem vào trong nhiều kinh khác. Người ta có thể chứng minh rằng tư tưởng Mật Giáo luôn luôn trở lại trên b́nh diện thông thường của Phật giáo.

Từ ngày Đại Thừa phát triển th́ Bà la môn giáo trở thành Ấn Độ giáo, đồng thời Phật giáo chịu ảnh hưởng của tôn giáo này, và những mầm ư kiến mới đă đem vào đó nhiều biến chuyển lớn.

Vào thế kỷ thứ 6 phát sinh ra cái mà người ta sẽ gọi là Mật giáo. Nó lớn mạnh nhanh chóng nhờ các vị thâm nhập kinh tạng của nhà chùa. Ư kiến của họ tuy dựa trên một căn bản đồng nhất nhưng chúng nó chưa tạo thành giáo thuyết của một phái duy nhất. Về sự phân rẽ này, Ông Masumoto BunZàbuto đă viết : “Mật Giáo đă không thể thống nhất được ở Ấn Độ. Vào thời kỳ hai ngài Kim-Cang-Trí (663-725) và Thiện-Vô-Úy đến Trung Hoa th́ ngài Nghĩa Tịnh từ Ấn-Độ trở về mới được hai mươi năm (695). Trong tập “Nan hai ki kouei tchuoan” (Nam hải kỳ quái chuyện) của ông, ông đă xét qua các trường phái Đại-Thứa của Ấn-Độ, người ta thấy rơ rằng, các trường phái ấy họp thành hai nhóm, là Trung Quán Tông và Du-Già. Chắc chắn là vào chính thời kỳ ấy, trào lưu Mật giáo phát triển ở Ấn. V́ ngài Nghĩa-Tịnh, trong khoảng 20 năm, đă đi khắp từ Nam-Ấn đến miền Đông và miền Trung của bán đảo ấy, nên hẳn nhiên là ngài đă biết các vùng đó. Chính là Mật giáo Ấn-Độ đă dự phần vào mỗi trường phái với những sắc thái khác nhau, và trong điều kiện ấy th́ nó không thể hợp nhất được. Nó chưa được nhóm lại thành một trường phái duy nhất, có thể lôi cuốn sự chú ư của người bàng quan. Khoảng 20 năm sau th́ Thiện Vô Úy và Kim-Cang-Trí mới gần như đồng thời đến Trung Hoa và Vị này không biết ǵ về giáo-thuyết vủa Vị kia là điều không tránh được.

Sau khi đă đạt được đến các đỉnh cao tột của nó vào thế kỷ thứ 8, với Thiện-Vô-Úy và Kim-Cang-Trí th́ Mật-tông của Phật giáo tan ră dần dần tại Ấn-Độ và suy thoái hẳn để cuối cùng mất hút trong các tín-ngưỡng của Ấn-Độ Giáo. Vả lại, truyền thống đúng đắn của Mật-Tông Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào đời nhà Đường, với sự đi đến của Thiện-Vô-Úy năm 716, của Kim-Cang-Trí và Bất-Không Tam Tạng năm 720. Tuy nhiên, các Thánh kinh của Mật-Tông tạp-đa đă được dịch ra chữa Hán từ lâu về trước : từ năm 223 đến năm 253, Chí-Khiêm thời Vua Vũ (nhà Hạ) đă làm việc ấy, người ta c̣n biết nhiều dịch giả, trước đời nhà Đường, như Cát Hữu ở Koutcha đă làm việc tại Trung Quốc, giữa các năm 317 và 322; Buddha-Bhadra, gốc người Trung-Ấn cũng đă làm việc tại Tàu từ năm 408 đến 429. C̣n Cưu-Ma-La Thập, cũng ở Koutcha, đă làm việc tại Tàu từ năm 508 đến 535, Jnànagupta ở Gandhàra, từ năm 560 đến 600.v,v…

Theo Nhất-Lăm-Biểu của Đại Thân Tây Nhai, trong tập “Sự phát triển của Mật-Tông” th́ trước khi Thiện Vô-Úy bắt đầu công việc của ông, người ta đă dịch ra chữa Hán 96 kinh Mật-giáo, 35 kinh có Đà-La-Ni và 4 tập Luận. Có thể là hết thẩy các dịch giả không phải là tín đồ của Mật Tông, v́ họ dịch cả các kinh Tiểu-Thừa và Đại-Thừa. Nhưng người ta có thể tin rằng các tín đồ ấy, gốc ở mọi miền Ấn-Độ và Trung-Á, chỉ chăm lo một điều duy nhất là phổ biến càng mau càng ốt , các đạo-lư của Phật-Đà.

Ở Trung Quốc, Phật giáo Mật-Tông có thể chỉ thịnh vượng nhất là vào đời nhà Đường, khi Thiện Vô-Úy và Kim-Cang-Trí làm việc truyền giáo. Trong Đại Chính nhất-thiết kinh th́ phần chính thực của Mật-Tông gồm có 612 số với 961 quyển, nhưng trong các phần khác, c̣n có một số lớn những tác phẩm có liên hệ đến Mật-Tông. Hầu hết các tác phẩm đó đều đă được dịch thành chữ Hán trước giữa đời nhà Đường.

Thiện Vô-Úy, Kim-Cang-Trí và Bất Không, tất cả các vị đó, khi đến Trung Quốc, đều được nhà Vua tiếp đón nồng hậu. Nhờ các Vua đỡ đầu nên công việc dịch thuật của họ được thành tựu như ư. Do đó mà Phật-giáo Mật-Tông đă trải qua một kỷ nguyên rất thịnh vượng, nó đă lan tràn khắp nơi trong đất nước Trung Hoa.

Tuy nhiên, bên cạnh các tông phái đă được thiết lập tại Trung Quốc, Phật giáo Mật-Tông đă không thể tự ḿnh tổ chức thành một Trường phái duy nhất. Sau giữa đời nhà Đường, h́nh như nó đi gần đến chỗ suy thoái ; người ta c̣n dịch một số các sách của Tông phái ấy. Nhưng đây là lúc suy đồi, nó không c̣n sinh khí và lợi-thú ở Trung Quốc, trước khi lại xuất hiện về sau dưới h́nh thức Lạt-Ma giáo, rất khác với trước.

II.     MẬT-GIÁO CHÂN NGÔN TÔNG
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 3 of 52: Đă gửi: 02 January 2005 lúc 9:28am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

II.     MẬT-GIÁO CHÂN NGÔN TÔNG
Nhà sáng lập ra Mật-giáo Chân-ngôn Tông ở Nhật Bản là Hoằng-Pháp Đại-Sư (774-835). Ngài đă đi t́m Đạo ở Trung Quốc năm 804. Vào thời đó, Mật giáo Trung Quốc đă làm xong ciệc dịch thuật các Kinh, Luận, và về giáo thuyết, th́ nó đă khá chín mùi. Tại Thanh Long Tự, Hoằng-Pháp Đại-Sư đă thụ giáo trực tiếp với Pháp Sư Huệ-Khả (746-805) là đệ tử nổi tiếng nhất của Vị Đại-Sư Mật-giáo, là ngài Bất Không. Năm 806 ngài trở về Nhật. Sự đi t́m Đạo của Ngài đă trùng hợp với thời kỳ toàn thịnh của Mật-giáo ở Trung Quốc. Nhờ đó Ngài đă hấp thu được các tinh yếu của Mật-tông và Ngài là người đầu tiên đă thành công trong việc hợp nhất một cách vững chắc tất cả các phái theo Mật-giáo thành một trường phái duy nhất. Nên nhớ rằng Phật-giáo Mật-tông đă phát sinh từ Ấn-Độ, trong một quá khứ xa xưa, trải qua nhiều thế kỷ, nó đă dần dần có đầy đủ sinh lực, du nhập vào Trung Quốc. Nó được phồn thịnh, nhưng chính tại Nhật Bản nó mới có kết quả mỹ măn. Ngày nay, sau Hoằng-Pháp Đại-Sư 11 thế kỷ, nó vẫn c̣n thịnh vượng tại đó.

Nếu chúng ta muốn kể lại lịch sử của nó th́ phải thấy rằng: Mật-Tông của Phật-giáo đă trải qua biết bao sự biến đổi tư tưởng, trước khi nó kết tinh lại trong Chân-ngôn Tông của Nhật Bản. Hẳn nhiên là Tông này hoàn toàn khác với Mật-tông mà Ấn-Độ đă biết đến. V́ thế, chúng tôi phải dành danh hiệu Chân-ngôn Tông cho Mật-Tông của Phật-giáo ở Nhật Bản, để tránh các trạng thái trung gian mà Nó có thể khoác qua, khi ở Trung Quốc.

Mật-tông ở Ấn-Độ đă quy tụ ở hai trung tâm là Tịnh xá Na-Lan-Đà và Tịnh xá Vikramasíla, v́ vậy mà nó tự phân thành hai truyền thống.

Truyền thống thứ nhất là sự phát triển của tư tưởng Đại-Thừa. Đó là một thứ Mật-giáo chính-thống, đặt trên nền móng Luật-Tông.

(c̣n nữa)
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 4 of 52: Đă gửi: 02 January 2005 lúc 11:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Truyền thống thứ hai tự cấu tạo trên mặt sinh hoạt chằng chịt của dân gian vào cuối thế kỷ thứ VIII và chẳng bao lâu nó đă suy đồi thành “Mật-giáo tả đạo”. Nó không có ảnh hưởng ǵ đến Chân-ngôn Tông của Nhật Bản. Thật thế, Vị Tổ-Sư mà Tông này có lệ thuộc là Thiện Vô-Úy, mà Thiện Vô-Úy là đệ tử của Ngài Pháp-Mật ở Na-Lan-Đà, và chính tại Na-Nan-Đà, Ngài Kim-Cang Trí đă vào đạo (680) để học văn phạm (Thanh Minh Luận) ở đó với Ngài Sa2ntifna2na. Đến 20 tuổi, Ngài đă thọ Cụ-túc giới và trong 6 năm liền, Ngài đă học giáo lư của hai thừa. Các sự kiện ấy chứng minh một cách quyết nhiên rằng Chân-ngôn Tông thuộc về truyền thống chính thống.

Chỉ xem Niên-đại kư th́ biết Mật-giáo Tây-Tạng đă được đem vào xứ này, sau sự thành lập của Mật-giáo Trung Hoa. Riêng về sự thâm nhập của nó th́ chứng ta có những bằng chứng lịch sử xác minh rằng nó thoát thai chính yếu từ trung tâm Vikramasíla. Về mặt khác, th́ sự sưu tầm các bản dịch Thánh kinh của Tây-Tạng rất quí báu đối với chính các bản văn ấy; nhưng ở đó, người ta nhạn thấy rằng : Mật-Tông kỳ lạ của Lạt-Ma giáo, trên thực tế, nó khá xa lạ đối với các lời dậy của Đức Phật. Vậy, chúng ta không bao giờ bỏ theo dơi sự cách biệt lớn lao giữa Mật-Giáo Tây Tạng với Mật-Giáo Trung Hoa, mà Chân – ngôn Tông của Nhật Bản có liên quan đến.

III.     SỰ NGHIÊN CỨU KINH ĐẠI NHẬT.

Vậy th́ Mật-giáo của Chânn-ngôn Tông là ǵ ?. Người ta có thể nói rằng, nó tiêu biểu cho cái đỉnh cao nhất của Đại thừa Phật giáo, nó tŕnh bầy trực tiếp cái tư tưởng trọng yếu của Đứa Phật. Hoằng-Pháp Đại-Sư gọi cái giáo lư do Hóa-Thân của Đức Thích nói ra là Hiển giáo. Ông quan niệm nó như một phương tiện cứu khổ giản dị. Từ đó, Ông kết luận rằng: “Chân-ngông Tông, phạm vi riêng về kinh nghiệm nội tại của Như-Lai, là háp giáo chính thực, do Pháp thân của Đức Đại-Nhật diễn bầy”. Các chân lư đó, do sự chứng ngộ của Như-Lai đạt được, là những chân lư sâu kín, đầy bí mật, khó nắm bắt được đối với sự hiểu biết thông thường của loài người. V́ thế người ta gọi chúng nó là Bí-mật thừa, hay nói giản dị là Mật-Tông của Phật-giáo. Nếu các chân lư đó có một cái ǵ sâu kín , ẩn áo, th́ đó không phải do Đức Phật muốn dấu kín nó, mà chính là v́ nhân loại khó có thể hiểu nổi nó.

Các Đệ tử phân biệt hai loại Mật-giáo:

-     Mật giáo thuần-khiết: Là pháp-giáo do Pháp Thân của Đức Đại-Nhật dạy, và thánh kinh quan trọng nhất của pháp-giáo này là Kinh Đại-Nhật và Kim Cang-Đảnh.
-     Mật giáo hỗn tạp: Gồm các giáo phái khác thuộc Mật-Tông, trong đó có các lời dạy của Đức Đại-Nhật lẫn lộn với các lời dạy của Phật giáo thông thường. V́ vậy mà ngoài kinh Đại-Nhật và kinh Kim-Cang Đảnh ra, các kinh Mật khác đều thuộc Mật-giáo hỗn tạp.

(c̣n nữa)
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 5 of 52: Đă gửi: 03 January 2005 lúc 10:27am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

     Trong các Thánh kinh thuộc Mật-Tông, một mặt th́ có những kinh thuộc phạm vi xuất thế gian và có xu hướng trực tiếp làm nẩy nở tư tưởng Bồ-đề; mặt khác lại có những kinh sách dạy cách làm cho thỏa măn các dục vọng thế-gian như: sự yên vui, hạnh phúc v.v…Hiển nhiên là cái mục đích thật của Mật-giáo thộc phạm trù xuất-thế-gian và các xu hướng khác có thể được xem là phương tiện để dẫn dắt phần đông trở về với giáo-lư của Phật-đà.

     Bởi thế, các Thánh kinh của Mật-giáo thuần-khiết hoàn toàn đứng trên b́nh diện xuất thế-gian. Kinh Đại-Nhật, kinh Kim-Cang-Đảnh và các quyển sớ giải về kinh đó, ói đến những vị Thiên Tôn, Thánh Tôn, khác lạ đối với Phật giáo nguyên thủy: đó cũng là những phương tiện để lôi cuốn nhân loại, và biểu lộ tính khoan đạt của Mật-giáo, muốn cho những người dị giáo vào trong ḷng của nó. Cũng với tinh thần ấy, Mật-giáo đă dùng những nghi thức không phải của Phật-giáo để làm cho ng7ời ta hiểu rơ cái tư tưởng thực của nó như Pháp Hộ-Ma của Phật-giáo cũng mang cùng một tên với nghi lễ của Bà-La-Môn giáo, nhưng ư nghĩa của nó th́ hoàn toàn khác hẳn. Pháp Hộ-Ma của Mật-giáo là giai đoạn đầu của sự tĩnh tọa. Đó là cách dùng lửa đốt sạch các sự đam mê của chúng ta. Pháp Hộ-Ma của Phật giáo hoàn toàn là tượng trưng, nó không có ǵ chung với Pháp Hộ-Ma của Bà-La-Môn giáo. Kẻ nào không biết cái tư tưởng chính thực của Mật-giáo chớ nên coi nó như một nghi-thức giản-dị, bề ngoài và chớ nên hiểu nó theo một ư nghĩa hời hợt.

     Phương pháp của Mật-giáo có một cái ǵ trực tiếp và dứt khoát thẳng tay. Phật giáo thông thường giải thích rằng: các đam mê của chúng ta là chướng ngại chính đối với Bồ-dề, và do đó, ta phải dẹp bỏ nó tận gốc. Ngược lại, Mật-Tông của đạo Phật tuyên bố rằng, các đam mê là đồng tánh với Bồ-đề. Nó xử trí như một vị y sĩ, dùng các món thuốc độc mạnh nhất để rút ra những phương dược thần hiệu. Giao Tư-tưởng Mật-giáo cho những người không thể hiểu nó th́ cũng nguy hại như đưa một thanh kiếm bén nhọn cho một đức bé làm đồ chơi. Sự việc ấy sẽ dẫn họ đến lầm lạc và cối cùng là làm hại họ. Lúc nào, Mật giáo cũng nghiêm cấm những người không được truyền thụ, nghiên cứu nó một cách đơn độc (theo thị hiếu cá nhân) và nhấn mạnh sự quan trọng của việc truyền khẩu từ Thầy sang tṛ. Nếu tṛ không có khả năng lănh thọ lời giảng dạy, th́ cấm, không được trao truyền cho y.

IV. ĐỊA VỊ KINH ĐẠI-NHẬT TRONG CÁC THÁNH KINH MẬT-GIÁO.
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 6 of 52: Đă gửi: 04 January 2005 lúc 10:43am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

IV.     ĐỊA VỊ KINH ĐẠI-NHẬT TRONG CÁC THÁNH KINH MẬT-GIÁO.

   Trong số các Thánh kinh Mật-giáo ở Ấn-Độ th́ kinh Đại-Nhật ở địa vị nào ?. Chúng ta không thể hiểu biết điều đó được. Ở Trung-Hoa, Nó đă có một địa vị quan trọng, bởi v́ vào đầu thời kỳ B́nh-An (ở Nhật), 8 tu sĩ sang Tàu để nghiên cứu Phật-giáo Mật-tông ở đó th́ mỗi vị đem về một bản kinh đó. V́ vậy mà khi mới vào Nhật, nó đă chiếm địa vị bậc nhất trong số các kinh Đại thừa.

   Mật-Tông Nhật-Bản chia làm hai trường phái là: Chân-ngôn Tông (do Hoằng-Pháp Đại-Sư sáng lập) và Thiên-Thai Tông (do Truyền-Giáo Đại-Sư, Từ-Giác và nhiều vị khác thiết lập ra). Sau khi đă nghiên cứu ở Tàu về về Chân-ngôn Tông th́ lấy Đông tự làm trung tâm. Đông-Tự là Giáo-Vương hộ-quốc tự của B́nh-An (Đông-Kinh). Do đó nhánh này được gọi là Đông-Mật. Thiên-Thai Tông được gọi là Thai-Mật, bởi v́ nó liên hệ với Tông phái Thiên-Thai ở Trung Quốc. Quan điểm của Tông này chống đối với quan điểm của kinh Đại-Nhật và Kinh Kim-Cang Đảnh. Trong Đông-Mật, nguyên lư cơ bản của Kinh Đại-Nhật là Lư, và nguyên lư của kinh Kim-Canh Đảnh là Trí. Hai nguyên lư đó không rời nhau, như mặt phải và mặt trái của cùng một tấm vải (Lư, Trí bất nhị).

   Do đó hai kinh chỉ chứa cùng Đạo-lư mà thôi. C̣n trong Thai-Mật th́ hai nguyên lư ấy vẫn c̣n là chất liệu để dậy và học, nhưng chúng nó được xem như là độc lập với nhau, và sự nhất trí của hai kinh chỉ được thực hiện trong nguyên lư thứ ba, Soshichijikỵ.

   Các Pháp-sư của Thai-Mật nghĩ rằng kinh Đại-Nhật có giá trị như thế nào, đối với kinh Pháp-Hoa là kinh căn bản của Thiên-Thai Tông ?. Họ thấy rằng trong kinh Đại-Nhật có sự giải thích cách thực hành các qui tắc trong kinh Pháp-Hoa. Trí-Chứng Đại-Sư của Thiên-Thai Tông, trong tập (Đại-Tỳ-Nô-Giá-Na kinh thức) của ông, ông đă diễn đạt như sau: “Nếu suy tư về điểm này, người ta thấy rằng, khuôn phép Tam-ma-địa (Định) ấy chỉ t́m thấy trong Mật-giáo).

   Ngoài các kinh của giáo phái này, không có một quyển kinh nào khác nói về việc này. Bởi vậy, trong Đại-Tứa, kinh đó (Đại-Nhật) là Vua, và trong Mật-Tông nó là “Mật” hơn hết, cả kinh Pháp-Hoa cũng không đạt đến độ cao siêu của nó, huống là các kinh khác. Nhiều Pháp-sư của những trường phái khác cũng đồng một ư kiến như thế. Vậy là chúng ta đă xác định được địa vị của kinh Đại-Nhật trong Phật giáo Nhật Bản.

V.     DÀN Ư CỦA KINH ĐẠI NHẬT
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 7 of 52: Đă gửi: 05 January 2005 lúc 9:18am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

V.     DÀN Ư CỦA KINH ĐẠI NHẬT

      Kinh Đại-Nhật bằng chữ Hán gồm có 7 quyển, 36 phẩm. Nhưng chỉ có 31 phẩm đầu là thuộc về chính bản của kinh, c̣n 5 phẩm của quyển thứ 7 được thêm vào với Đề-mục là Nghi-quĩ cúng dường. Đó chỉ là Đại Tỳ-Nô Giá-Na, yếu lược niệm tụng kinh (Do Ngài Kim Cang-Trí dịch) chứ chẳng phải là ǵ khác. Nguyên tập kinh này là một quyển kinh độc lập. Ngài Thiện Vô-Úy cũng đă dịch nó ra chữ Hán và đă thêm nó vào Kinh Đại-Nhật, xem như là quyển thứ 7 của kinh này. Sự kiện ấy, ngày nay đă được biết rơ. V́ thế mà các bản văn kinh Đại-Nhật của Tây Tạng không hề có quyển thứ 7. Sự bàn luận của chúng tôi cũng chỉ hạn định trong 6 quyển đầu mà thôi.

     Các quyển sớ giải kinh Đại-Nhật bằng chữ Hán chia ra làm hai loại. Loại thứ nhất là “Đại-Nhật kinh sớ” do Ngài Thiện Vô-Úy đọc cho đệ tử của Ngài là Nhất-Hành chép, gồm có 6 quyển (năm 725). Sau khi Ngài Nhất-Hành mất (725), hai tu sĩ khác là Ca-Cổ và Trí-Nghiễm đă sắp xếp lại các quyển trên thành 14 quyển, lấy nhăn đề là “Đại-Nhật kinh nghĩa thích”. Đông Mật dùng bộ kinh thứ nhất, Thai Mật dùng bộ thứ hai. C̣n quyển thứ 7 của kinh Đại-Nhật bằng chữ Hán, th́ một đệ tử của Ngài Thiện Vô-Úy là tu sĩ Bất-Khả Tư-Ngh́ tại Linh-minh Tự (ở Triều Tiên) đă sớ giải thành 2 quyển với nhan đề là “Đại-Nhật kinh cúng dường pháp sớ” gọi tắt.

     Kinh Đại-Nhật gồm có 2 phần :
     Phần đầu, phẩm thứ nhất là phần giáo lư, từ phẩm nh́ về sau là phần thực hành. Người ta có thể nói rằng: phần đầu là phần dẫn nhập tổng quát, nó đủ để giải thích điều trọng yếu của Giáo-lư. Các phẩm thứ hai và tiếp theo tŕnh bày cách áp dụng các nguyên lư, nói trong phần thứ nhất và nhất là cách thiết lập một Mạn-Trà-La và lễ Quán-đảnh cho đệ tử. Lễ này là lễ Quán-đảnh xưa của Ấn-Độ, lễ được thực hiện khi một vị Vua lên ngôi, nhưng Mật-giáo đă dùng nó với một ư nghĩa sâu sắc hơn. Trong lễ phong Vương, người ta thoa nước lên đầu của vị Hoàng tử được lên ngôi, với nước lấy ở 4 đại dương để biểu thị sự ngự trị phổ quát của nhà Vua. C̣n trong lễ Quán-đảnh của Mật-giáo th́ vị A-Xà-Lê rót trên đầu đệ tử nước của 5 b́nh báu, tượng trưng cho 5 Trí của Như-Lai, để cho ứng viên tiếp nối ḍng giống Phật.

     Phẩm thứ thứ của kinh, như chúng tôi đă nói, giải thích các nguyên-lư của đạo-lư, mà mọi đọc giả đều có thể hiểu được. Nhưng từ phẩm thứ hai trở đi, bản văn cần được soi sáng, nhờ sự truyền khẩu của bậc A-Xà-Lê, là bậc Thầy, mà chỉ có ngài mới có thể truyền cho đệ tử, và ngài cũng không được phép truyền cho ai, nếu người ấy chưa nhận lễ Quán-đảnh. Sự cấm kỵ đó cũng được áp dụng cho phần sớ giải của cả phần thứ hai.

     Trong công việc nghiên cứu hiện tại, chúng tôi xin nghiên cứu chính yếu là phẩm thứ nhất. Vả lại, nó cho phép chúng ta có một ư niệm khái-quát về toàn bộ quyển kinh.

VI.     CÁC TRỌNG YẾU CỦA KINH ĐẠI NHẬT :
     


Sửa lại bởi phapvan : 05 January 2005 lúc 9:22am
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 8 of 52: Đă gửi: 06 January 2005 lúc 8:37am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

VI.     CÁC TRỌNG YẾU CỦA KINH ĐẠI NHẬT :
     
Làm thế nào để tóm lược tư-tưởng dẫn đạo của kinh ?. Nó được diễn tả đầy đủ trong Chân-ngôn, nói trong Kinh là: “Hăy biết chân lư của tự tâm nhà ngươi”. Mục đích chung của toàn bộ Giáo-lư nhà Phật là đánh thức sự hiểu biết nơi con người dang vất vưởng lang thang. Kinh Đại-Nhật, cũng như các kinh khác của Đại-thừa, không cần dùng đến các thuyết minh uyên bác. Nó không sa đà trong những đường ngoắt nghéo của biện-chứng pháp hay của thần-thoại, nó đi thẳng về mục đích. Nó tuyên bố nhất định rằng: “Người chưa tỏ Ngộ là Phật”.

Mật-giáo gọi Tâm của chúng ta là “Tâm Bồ-đề Thanh-tịnh” và cái định nghĩa này đă được lập lại nhiều lần. Tâm Bồ-đề Thanh tịnh đó, chẳng là ǵ khác hơn, ngoài cái “Tự-tánh Thanh-tịnh Tâm” của mỗi một mà Phật giáo đă nói chung. Nó sáng chói ở đáy tâm hồn chúng ta, nó là cái thể tánh uyên nguyên của chúng ta. Chức năng vô hạn, vĩnh cửu của nó là cái Biết, nó là cái mà chúng ta gọi nó là Bồ-đề. Người nào trở về với nó th́ thành Phật.

Đức Phật nói: “…Bí Mật Chủ ! Bồ -đề là ǵ ?. Đó là biết Tự-tâm bản nhiên ḿnh…”.

Đức Phật nói : “Bí Mật Chủ ! Bồ-đề và Nhất thiết Trí, chớ t́m ở nơi khác, ngoài Tự tâm của nhà ngươi ! Tại sao ?. Tại v́ bản tánh uyên nguyên của nó là Thanh tịnh”.

Một cái vốn toàn tri hiện hữu vĩnh cửu trong Tâm của chúng ta, người ta gọi nó là “Nhất Thiết Trí Trí”

Các đoạn trích dẫn ngắn ngủi trên cho phép chúng ta tự tạo một ư niệm về toàn bộ kinh Đại-Nhật. Hơn nữa, nó tŕnh bày một đặc tính riệng biệt. Nó xác định cái thực thể của Tâm ta, và cũng xác định cái thực thể của tất cả các pháp. Qua chữa “Pháp”, Phật giáo hiểu mọi cái về Vật chất cũng như Tinh thần. Nói gọn là tất cả các sức tồn tại.

Trong phẩm thứ hai nói về cách thực hành “Pháp” được so sánh với các đồ vật hay là mọi động tác của thế giới này, để làm cho chúng ta thấy cần thiết phải hiểu rơ thực-thể của tất cả các Pháp. Bởi vậy, trong lễ Quán Đảnh, bậc A-Xà-Lê nói Pháp cho đệ tử nghe, bằng cách đưa cho y nhiều đồ vật khác nhau. Ông lấy một cái gương soi trong suốt và chỉ cho đệ tử thấy các pháp không có dấu hiệu riêng, và ông nói với y lời vi-diệu này : “ Các Pháp không có h́nh tướng, cũng không có dấu hiệu riêng, chúng nó thanh tịnh và không bị ô nhiễm. Chúng nó không thể nắm bắt được và không thể diễn tả được (bất khả đắc, bất khả tư ngh́). Chúng nó chỉ hiện ra từ những động tác làm Nhân. Nhận thức chúng nó như thế, về tự thể, th́ không bị nhiễm, đó là một điều lợi lạc không ǵ so sánh kịp. Như vậy là con từ Tâm Phật mà sinh ra đó”.

H́nh ảnh mà người đệ tử thấy trong gương, nó hiện ra v́ cái gương ở đó, nó không phải là “ngẫu xuất” hay “tự phát”. Bậc A-Xà-Lê giải thích rằng các Pháp cũng vậy, từ một dây chuyền Nhân Quả nối tiếp nhau sinh ra, các Pháp đều không “ngẫu xuất”. “ Tất cả các Pháp, đă là Pháp, th́ chúng nó tồn tại như thế, cho dù là có Như-Lai hiện thân hay không có Như-Lai hiệt thân. Các Pháp do Đức Phật chỉ dạy th́ thoát khỏi mọi dấu hiệu riêng biệt ; chúng nó hiện hữu (một cách giản dị) trong t́nh trạng các Pháp”.

Các nguyên-lư trọng yếu đó, được nhiều lần biện luận. Nhưng hiểu được thực thể của các Pháp th́ hiểu được thực thể của Tâm ta. Thực thể của Tâm ta là thực thể của các Pháp, xét về mặt chủ quan. Kinh Đại-Nhật biện luận về châ lư đó dưới biểu tượng của chữ A (A Tự-môn).

Giáo lư của Chân ngôn Tông là ǵ ?.
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 9 of 52: Đă gửi: 07 January 2005 lúc 11:04am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

     Giáo lư của Chân ngôn Tông là ǵ ?. Đó là tất cả các Pháp vốn chẳng sanh (Bổn Bất Sanh), nó là phạm vi của A Tự-môn. A Tự-môn là nền tảng của tất cả các giáo lư. Ngay từ khi người ta mở miệng, th́ tất cả các âm thanh đều mang nguyên âm A. Không có A th́ không có một tiếng nói nào. V́ vậy, nó được gọi là “Mẹ của tất cả các âm thanh”. Lời nói của ba cơi, tất cả đều dựa vào danh tự, mà danh-tự dựa vào vần ; v́ vậy mà công năng (hay “tất đàn”) của A Tự-môn, chính nó là mẹ của tất cả các vần. Nghĩa thật của chữ A là thế, dó là điều quan trọng phải biết. Nghĩa ấy lan tràn ra tất cả các Pháp.

     Có một Pháp nào không do một Nhân sinh ra chăng ?. Các sự vật từ một Nhân sinh ra, hết thẩy đều có chỗ bắt đầu, một nguồn gốc. Nhưng nếu chúng ta xem xét các nguyên nhân sinh ra nguồn gốc ấy, th́ chính nguồn gốc ấy cũng do một Nhân sinh ra, luôn luôn có một ṿng nhân quả như thế. Vậy th́ t́m nguồn gốc ở đâu ?. Chúng ta cứ suy tư như thế, chúng ta sẽ nhận ra chân lư Vô-sanh uyên nguyên. Nó là nguồn gốc của Vạn Pháp. Khi chúng ta nghe một lời nói nào, chúng ta nghe tiếng A, lúc chúng ta xét đến sự sinh ra các Pháp, chúng ta thấy sự vô-sanh uyên nguyên của chúng nó. Người nào biết sự vô-sanh uyên nguyên của các Pháp th́ người đó biết Tự Tâm ḿnh, nói như vậy, và kẻ nào biết Tự Tâm ḿnh, th́ người đó đạt được sự toàn tri. Theo nguyên lư vô-sanh uyên nguyên th́ dù có Phật, hay không có Phật, các Pháp vẫn tồn tại như vậy, với tính cách là các Pháp. Vậy đấng sáng tạo là ai ?. Các Pháp đă không do một nguyên nhân đầu tiên sinh ra, th́ cuối cùng, từ đó người ta rút ra một nguyên lư là các Pháp, trong tự thể của chúng nó, là Bất-sinh, Bất-diệt. Kinh Đại-Nhật nhằm giúp chúng ta nhận thức lại cái giá trị tuyệt đối của mọi sự vật.

VII.     KINH ĐẠI NHẬT Ở CHÂU ÂU : (lược)
VIII.     CHÂN NGÔN TÔNG VÀ TẠNG KINH CỦA NÓ :

     Trường phái mới lập ở Nhậ-Bản, Hoằng-Pháp Đại-Sư đặt tên cho nó là Chân-ngôn Tông. Chân ngôn là lời nói chơn thật, có nghĩa là thần-chú đúng đắn biểu lộ Chân lư của các Pháp. Đó là lời nói của các Pháp-Thân Như-Lai. Trong kinh Đại-Nhật, khi th́ người ta đọc là “Chân-ngôn Môn”, khi người ta đọc là “Chân-ngôn Pháp giáo”, Ngài Bất-Không, trong bài Tựa bản dịch của ông, ông viết: “ Chân ngôn Đà-La-Ni Tông là giáo lư bí-mật và sâu kín của tất cả chư Như-Lai, đó là môn làm cho hành giả chứng thực Pháp bằng một sự tỏ ngộ ngẫu phát”.

     Bản kê Kinh, Luật, Luận, do Hoằng-Pháp Đại-Sư lập ra, mà môn phái Chân-ngôn Tông có thể nghiên cứu th́ rất dài (188 tác phẩm trong 468 quyển), các tác phẩm quan trọng nhất là :

1.     Kinh Đại-Nhật, 7 quyển. Bản dịch chữ Hán của Thiện Vô-Úy
2.     Kinh Kim-Cang-Đảnh, 3 quyển. Bản dịch của Bất-không.
3.     Kim-Cang-Đảnh Du-Già Chú, lược xuất niệm tụng kinh, 4 quyển. Bản dịch của Kim-Cang Trí.v.v..

      Trong số các tác phẩm đó, th́ số 1, số 2 là những Thánh kinh bậc nhất của Mật-giáo Chân-ngôn Tông. Người ta gọi chúng là các đại kinh của 2 bộ : đó là Thai-Tạng Bộ, chủ đề của Kinh Đại-Nhật, và Kim-Cang Đảnh Bộ, chủ đề của kinh Kim-Cang-Đảnh. Ở đây chỗ thích hợp để nói qua đôi lời về nguồn gốc của kinh Kim-Cang-Đảnh.

     Nguyên bản chữ Phạn của kinh này chứa đến 10 Hằng-sa bài kệ, thu thập được trong 18 hội, và chúng ta có 1 bản phân tích tập kinh ấy, do ngài Bất-Không Kim-Cang dịch, nhưng bản mà chúng ta có ngày nay chỉ là một phần của tập kinh đó, nó gồm có 3000 bài kệ. tác phẩm số 3 kể trên (Lược xuất niệm tụng kinh) là tập tóm lược của hội thứ nhất, và nó được coi cũng quan trọng như tác phẩm số 2 là Kim-Cang-Đảnh Kinh, nó chỉ đến có mấy chỗ ám-chỉ 17 hội khác. Tập tóm lược của hội thứ nhất được chia ra làm 4 phần, phần đầu có 6 Phẩm. Phẩm thứ nhất gọi là “Kim-Cang Giới Mạn-Trà- La Quảng Đại Nghi-Quĩ Phẩm”. Vào đời nhà Tống, Ngài Thí-Hộ đă dịch tất cả các phẩm của hội thứ nhất. Bản dịch này có 30 quyển, và được gọi là “Tống Dịch Giáo-Vương Kinh” hay là “Tam Thập Quyển Giáo-Vương Kinh”. Nhưng bản dịch đó đến Nhật sau ngày thành lập Tông-phái của Hoằng-Pháp Đại-Sư cho nên nó không được coi là ăn bản. Để giản dị hóa, luôn luôn người ta gọi tác phẩm số 2 là Kinh Kim-Cang Đảnh.

IX. HAI MẠN TRÀ LA LỚN :

Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 10 of 52: Đă gửi: 15 January 2005 lúc 2:12am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

IX.     HAI MẠN TRÀ LA LỚN :
Mật-giáo Chân-ngôn Tông có hai Mạn Trà La lớn của Kim-Cang Giới và của Đại-Bi Thai-Tạng (gọi tắt là thai tạng). Hai Mạn Trà La có dùng h́nh thức biểu đồ để tŕnh bày các ư niệm của giáo lư Chân-ngôn Tông. Hai nguyên lư cơ bản, như chúng tôi đă nói, là Lư và Trí. Nguyên lư thứ nhất được giải trong kinh Đại-Nhật, nguyên lư thứ hai, trong kinh Kim-Cang-Đảnh. Nhà Phật gọi Sắc là tất cả những ǵ thuộc về Vật-chất, gọi Tâm là những ǵ thuộc về Tinh-thần. Lư và Trí của Mật – giáo tương ứng với hai phạm trù đó.

Theo Hoằng-Pháp Đại-Sư th́ bản chất của mọi vật thuộc về sáu yếu tố (6 đại) là: đất, nước, gió, lửa, e-te và khái niệm. Năm yếu tố đầu thuộc về Lư, yếu tố chót thuộc về Trí. Nếu chúng ta nh́n sự vật một cách khách quan th́ Chân-như của chúng nó hiển lộ, tính đồng nhất của chúng hiện bày : đó là Lư. Nh́n chúng nó một cách chủ quan th́ mặc giù vô lượng, chúng nó chỉ khác nhau, sự khác nhau về công dụng của Tâm chúng ta đó là Trí. Qua đồ biểu, Thai-Tạng Mạn Trà La diễn tả cái trạng thái của Lư, tinh đồng nhất hay là sự b́nh đẳng trên căn bản, của tất cả các Pháp. C̣n Kim-Cang Giới Mạn Trà La th́ chỉ cho thấy cái Trí nh́n sự khác nhau của các Tâm thực hành cái Lư như thế nào. Nhưng Lư và Trí chỉ là hai mặt của một thực thể duy nhất. Lư và Trí bất nhị là nguyên lư quan trọng nhất trong số các nguyên lư của Chân-ngôn Tông “Lư và Trí không làm hai”.

Thai-Tạng Mạn Trà La chỉ cho chúng ta thấy các Pháp trong bản tính uyên-nguyên của chúng nó, c̣n Kim-Cang Giới Mạn Trà La th́ chỉ cho chúng ta thấy phạm trù thấy-biết của Phật, do Lư thâm nhập. Mặc dù hai Mạn-Trà-La đối xứng và bổ túc cho nhau, cái trung tâm lư tưởng của chúng nó vẫn là cái nguyên lư độc nhất và bất khả phân của Lư Trí Đại-Nhật. Cái công dụng của Lư Trí bất khả phân ấy, chúng ta thân phận làm người mặc dù chưa tỏ ngộ, tất cả chúng ta đều có nó. Giáo lư Mật Tông xác định điều ấy một cách cao cả, v́ vậy mà hai nguyên lư của Lưỡng-Bộ Mạn-Trà-La, trong thực tại, là h́nh ảnh của bản tánh uyên nguyên của chúng ta, trong tiềm thức của nó.

X. CÁC TỔ SƯ CỦA CHÂN NGÔN TÔNG:
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
ANH SANG
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 05 January 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 11 of 52: Đă gửi: 16 January 2005 lúc 5:56am | Đă lưu IP Trích dẫn ANH SANG

Chào anh, tôi nghe nói Ông Trần Ngọc Anh có dịch rất nhiều sách mật tông, nhưng tôi lúc trước về vn có mua được một quyển Cơ sở mật giáo Tây Tạng, nhưng tôi không có quyển Kinh đại nhật của Ông dịch ra, nghe nói con của ông đă đem bản dịch nầy qua Mỷ..nhưng chưa thấy xuất bản,nay tôi thấy anh có đăng trên đây, tôi nhiệt liệt hoan hô tinh thần pháp thí của anh ....không biết Ông Trần Ngọc Anh c̣n những quyển nào đă được dịch ra vậy, và anh có sưu tập được những quyển ǵ....xin cho biết, nếu có duyên , ḿnh kết bạn , trao đổi và cùng đàm đạo , để chia xẻ những tâm đắc trên con đường tâm linh ...
ANH SANG
ÚC CHÂU
Quay trở về đầu Xem ANH SANG's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ANH SANG
 
CDMT
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 June 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 12 of 52: Đă gửi: 16 January 2005 lúc 7:07am | Đă lưu IP Trích dẫn CDMT

Em nghĩ muốn đọc và hiểu được bài này thấy rằng cần phải đọc thêm bài "Mật tông vấn đáp" để thấy được nguyên lư cơ bản của Mật Tông. Tuy nhiên thật đáng tiếc tại Việt Nam hai kinh cơ bản nhất của Mật Tông là :" Kim Cang Đảnh Kinh" và " Đại Nhật Kinh" lại chưa được dịch. Có lẽ do Phật Giáo Việt Nam với tư tưởng Thiền Tông là chủ đạo nên những người theo Mật Tông của Việt Nam vẫn chưa được tiếp cận với hai bộ kinh này.

Bài viết của bác Pháp Vân thật hay. Em đă có được rất nhiều tư liệu quư từ bài viết này. Tuy nhiên vẫn có những từ ngữ khó hiểu. Vậy bác có thể chú giải thêm những từ ngữ khó hiểu không ạ


Xin mời bác tiếp tục

---------------------------
Mọi vật đều có ở trong tâm
Dùng tâm mà xét đều thấy Không
Quay trở về đầu Xem CDMT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi CDMT
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 13 of 52: Đă gửi: 16 January 2005 lúc 10:37am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Chào anh ANH SANG,
Ông Trần Ngọc Anh đă dịch “Kinh Đại-Nhật Thích-Nghĩa” do Nhất Hành Thiền Sư Thuật Kư – vào năm 1992. Cũng đă dịch Giáo lư & Nghi Quĩ Bí Ẩn của Kim Cang Thừa, từ bản tiếng Pháp của JACQUES MARTY – vào năm 1988.

Cư Sĩ huyền Thanh cũng đă dịch (1997) “Đại-Tỳ-Lô-Giá-Na thành Phật thần biến Gia-Tŕ Kinh”, do Thiện Vô Úy và Sa Môn Nhất Hạnh đồng Hán dịch.

C̣n về Kinh Kim-Cang-Đảnh h́nh như cũng đă được Tỳ kheo Kiến-Châu dịch ra tiếng Việt rồi, nhưng chưa được phổ biến.

Những quyển Thánh Kinh trên nếu anh chưa có th́ gửi địa chỉ cho tôi, tôi sẽ coppy gửi tận nơi biếu anh.

Cảm ơn anh ANH SANG - Rất vui được kết bạn với anh cùng trao đổi và chia xẻ trên con đường Tâm linh.
Thân
Pháp Vân


Sửa lại bởi phapvan : 16 January 2005 lúc 10:38am
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
phapvan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 597
Msg 14 of 52: Đă gửi: 16 January 2005 lúc 10:40am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan

Bạn CDMT thân mến,
Đây không phải bài viết của PV mà PV chỉ chép lại, mong những bạn chưa có dịp đọc, để tham khảo thêm.

Những người theo Mật Tông của Việt Nam rất nhiều người theo hai bộ kinh trên, nhưng v́ là Mật nên ít phổ biến thôi, vả lại c̣n tùy duyên.

Đọc Tŕ kinh điển đại ư từ từ như Cà phê phin, dần dần sẽ hiểu - cốt yếu phải thực hành th́ mới vỡ ra.
Cảm ơn bạn CDMT, chúc bạn thâm nhập Mật pháp như ư !

Thân
Pháp Vân
Quay trở về đầu Xem phapvan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan
 
vic chuo
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 69
Msg 15 of 52: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 1:56am | Đă lưu IP Trích dẫn vic chuo

CAC BAN MUON THICH NHUNG KINH VE MAT TONG THI CO THE XUONG THU DUC .O DO CO MOT VAY THAY LA A XA LE NHU CUONG,LA TONG CHU CUA DONG PHAP KIM CANG.O DO CON CO DAY VE MAT TRONG NUA DAY.
Quay trở về đầu Xem vic chuo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vic chuo
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 16 of 52: Đă gửi: 30 December 2005 lúc 10:12am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

(PV xin tiếp)

X.     CÁC TỔ SƯ CỦA CHÂN NGÔN TÔNG:

Xét về phương diện đạo lư th́ Chân-ngôn Tông không phải là một tông được du nhập từ Ấn-Độ sang Trung-Quốc. Đạo lư của nó chỉ do một ḿnh Hoằng-Pháp Đại-Sư tuyên-thuyết. Cái mà nó mượn của Ấn-Độ là những nghi-lễ bí-mật về sự Quán Đảnh, ví như sự rót nước từ một b́nh báu sang một bửu b́nh khác. Bởi vậy, người ta chia các Tổ Sư của Châ-ngôn Tông ra làm hai nhóm. Một nhóm có nhiệm vụ truyền giáo và một nhóm chuyên lo truyền lại các nghi-lễ bí-mật. Mỗi nhóm có 8 vị, nhưng có những vị có tên trong cả hai nhóm.

Tám Tổ truyền lễ là :

1. Đại-Nhật Như-Lai                           2. Kim-Cang Tát-Đỏa.
3. Long Thọ Bồ Tát.         &n bsp;         &n bsp;      4. Long Trí Bồ Tát
5. Kim Cang Trí Tam Tạng.        & nbsp;     6. Bất không tam tạng
7. Huệ Quả A-Xà-Lê.        &nbs p;         &nbs p;     8. Hoằng Pháp Đại Sư.

Tám Tổ truyền giáo là :

1. Long Thọ Bồ Tát         &nb sp;         &nb sp;       2. Long Trí Bồ Tát
3. Kim Cang Trí Tam Tạng.        & nbsp;     3. Thiện Vô Úy Tam Tạng.
5. Bất Không Tam Tạng.        & nbsp;         & nbsp;6. Nhất Hành A Xà Lê.
7. Huệ Quả A Xà Lê.         &nb sp;         &nb sp;     8. Hoằng Pháp Đại Sư.

Đại-Nhật Như –Lai là Đức Phật mà Pháp thân đă tuyên thuyết hai Đại Kinh. Kim-Cang Tát-Đỏa đă lănh thọ giáo-lư từ kim khẩu của như-Lai,và theo lệnh Ngài, Bồ-Tát đă ghi thành kinh và giữ kinh trong cái tháp bằng sắt ở miền Nam Ấn-Độ, và đợi đến khi có người đủ khả năng mới trao truyền.

Đại-Nhật Như-Lai là sự hiển thánh của Đức Thích-Ca Mâu-Ni, và Kim-Cang Tát-Đỏa đại diện cho nhân loại hướng về sự khai triển Tâm Bồ-đề.

Long Thọ Bồ-Tát xuất hiện ở miền Nam Ấn-Độ 800 năm sau khi Đức Phật đă nhập diệt. Nhờ sự gia hộ của Đức Đại-Nhật Như-Lai,Ngài đă mở được cái tháp bằng sắt và vào tháp, đối diện với Kim Cang Tát Đỏa, nhận lễ Quán-Đảnh, tiếp thu hai bộ Đại Kinh, để có thể truyền bá trong đời sau.

Long Trí Bồ Tát là đại đệ tử của Ngài Long Thọ. Đức hạnh của Ngài đă lan khắp miền Nam Ấn-Độ; có thể Ngài đă đến Tích Lan để truyền Mật-Giáo ở đó. Chính Ngài, với danh hiệu là Pháp-Mật, đă ở tịnh xá Na-lan-đà, với danh hiệu Phổ-Hiền, đă đến Tích Lan. Trong cuộc đời, trải qua nhiều thế kỷ, Ngài đă phổ biến đạo-lư Mật-giáo rộng răi ở nhiều nơi. (1)

Chú thích: (1) Nếu là đệ tử của Long-Thọ th́ Long-Trí đă sống vào cuối thế kỷ thứ ba. Nếu là Thầy của Kim-Cang-Trí, th́ Ngài sống đến đầu thế kỷ thứ tám, như vậy có 1 khoảng cách là 400 năm. Bởi vậy, từ lâu người ta tưởng tượng ra nhiều giải pháp cho điều bí ẩn này. tập Kim-Cang Trí Tam Tạng Hành Trạng nói Ngài sống đến 700 tuổi. Trên tấm bia của Thiện Vô-Úy Tam Tạng có ghi : “ Khuôn mặt của Pháp-Mật là khuôn mặt của người 40 tuổi, mà tuổi thật của Ngài là đă đến 800 tuổi”.

KIM CANG TRÍ (670-741)    


__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 17 of 52: Đă gửi: 30 December 2005 lúc 11:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

KIM CANG TRÍ (670-741) là người con trai thứ ba của một hoàng tộc ở Trung-Ấn. Có người nói Ngài xuất thân từ một gia đ́nh Bà-la-môn, ở Malabar, tại Nam-Ấn. Lúc lên 10, Ngài đă vào học đạo ở tịnh xá Na-lan-đà. Đến 28 tuổi, Ngài đi tới Kpilavastu, và trong 3 năm, Ngài đă học Du-già luận, Duy-thức luận, Biện-trung luận, với ngài Sribhadra. Đến 31 tuổi, Ngài đi về miền Nam Ấn-Độ và gặp Ngài Long-Trí ở đó. Ngài làm đệ tử của Long-Trí 7 năm. Ngài đă học các kinh của Kim-Cang Du-Già, các giáo lư về Đà-La-Ni của Đại-Nhật, các kinh Đại-Thừa, và Ngũ Minh Luận.

Sau lễ Quán Đảnh của 5 bộ, Ngài đă hiểu cái nghĩa sâu kín của Mật-Giáo. Kế đó, Ngài trở về Trung-Ấn, đi hành hương đến 8 Thánh-tích. Đức Quan-Âm ở Potalaka (Nam-Ấn) khuyên ngài đi Trung-Quốc. Đến Tích Lan, Ngài vào tu viện Abhayaraja (nay là Kandy), thờ phụng cái răng của Đức Phật ở đó. Ngài leo lên núi Lăng-già, lại tạm trú ở Ấn-Độ và trở về Tích Lan. Từ hải cảng Polici, Ngài xuống một chiếc tầu buôn của một đoàn tàu 35 chiếc, thuộc người Ba-tư, và đi 1 tháng th́ tới Java. Ở đây, có 1 vị Trí-Tạng (sau sẽ gọi là Bất-Không Kim-Cang), 14 tuổi đi theo Ngài.

Sau khi tạm trú 5 tháng ở đó, Ngài lại xuống thuyền đi Trung-Quốc. Một cơn báo kinh khủng đánh tan nát 30 chiếc tàu khác ; tàu của Ngài đến Trung-Hoa vào cuối năm thứ 7 đời vua Khai-Nguyên (719). Năm sau Ngài đến Lê-giang; Huyền-Tông đă lên ngôi. Từ năm thứ 11 đến năm thứ 29 triều Khai-Nguyên (723-741), Ngài ở các chùa Tư-Thánh tự, Đại Tiến phước tự, và Ngài dịch kinh ở đó. Lúc Ngài sắp về Ấn th́ Ngài mất năm 741.

BẤT-KHÔNG KIM-CANG (705-774) là người Tích-Lan. Ngài theo Thầy của Ngài là Ngài Kim-Cang Trí, đến Lê-giang vào năm thứ 8 triều Khai-Nguyên (720). Lúc đó Ngài đă 16 tuổi. Trong 20 năm sau đó, cho đến khi Ngài Kim-Cang Trí mất, Ngài đă không rời Thầy Ngài, và đă giúp cho Thầy trong việc dịch các kinh luận. Năm 743, vâng lệnh Thầy, Ngài đi Tích Lan để t́m các kinh và các luận ở đó. Đến Tích Lan, Ngài gặp Long-Trí Bồ-tát và được vị này dạy giáo lư Mật-Tông cho. Kế đó Ngài đi khắp xứ Ấn-Độ. Năm 746, ngài trở về Trung-Hoa, đem theo một số lớn tác phẩm. Vua Huyền-Tông khiến thiết lập một bàn thờ trong cung vua, và tự ḿnh nhận Pháp Quán Đảnh. Sau , mọi tầng lớp trong xă hội đều theo về với tông phái ấy. Đó là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Mật-Tông ở Trung-Quốc. Số lượng kinh luận được Ngài Bất-Không dịch rất nhiều. Người ta đem đến hơn 100 tác phẩm trong số 200 tập. Ngài là một trong 4 đại dịch giả của Phật giáo Trung-Hoa.

THIỆN VÔ-ÚY TAM TẠNG (673-735) Xuất thân từ 1 gia đ́nh vương-giả ở Magadha. Theo lời di chúc của phụ vương, Ngài phải lên ngôi lúc 16 tuổi. Nhưng chẳng bao lâu, Ngài bỏ ngôi vua để vào đạo. Ngài học Mật-giáo ở Na-lan-đà với Pháp-Mật. Vâng theo lệnh của vị này, Ngài đi sang tàu để truyền bá đạo lư ở đó. Ngài viếng xứ Cachemire,nhiều vùng khác nữa, và sang Trung-Quốc qua xứ Tây Tạng. Đem theo nhiều sách bằng chữa Phạn, Ngài đă đến Trường An năm thứ tư, triều Khai-Nguyên (716). Lúc bấy giờ, Ngài đă 80 tuổi. Năm sau, Ngài bắt đầu dịch bản Kokùẓ gumojiḥ, Ngài dịch được 21 tác phẩm và mất năm 98 tuổi.

NHẤT-HÀNH (683-727) Ngài vào đạo với tư cách là đệ tử của một Thiền Sư. Ngài học tập ở núi Thiên-Thai năm 717, và trở thành hướng đạo sư của vua Huyền-Tông. Khi 2 Ngài Thiện Vô-Úy và Kim-Cang Trí đến Trung-quốc th́ Ngài làm đệ tử của 2 vị đó và giúp họ trong việc dịch thuật. Không những Ngài chỉ nghe đọc rồi chép kinh Đại-Nhật, mà ngài c̣n thích nghĩa kinh ấy và là tác giả của nhiều kinh khác nữa. Ngài rất rành về Thiên văn và làm lịch, Ngài mất năm 84 tuổi.

HUỆ-QUẢ A-XÀ-LÊ (746-805) Ngài quê ở địa phương gần Trườn-An. Trở thành đệ tử giỏi nhất của Ngài Bất-Không Kim-Cang, Ngài là bậc Thầy đáng kính của 3 vua: Thái-Tông, Đức-Tông và Thuận-Tông. Ngài có nhiều đệ tử nổi tiếng. Tác phẩm chính của Ngài là tập Thập Bát Khê-Ấn.

HOẰNG-PHÁP ĐẠI SƯ (774-835). Dưới chân Chùa Cửu-Mễ, ở Yamato (Đại-Ḥa), người ta phát hiện một tập thủ-bản của kinh Đại-Nhật, nhưng văn kinh rất khó hiểu. Nhân đó, Không-Hải (tên tục của Hoằng-Pháp Đại-Sư) mới khởi ư dự định sang Tàu. Năm 804, Ngài cùng đi với phái đoàn của Nhật gửi sang Trường-An, và đến đó Ngài tạm trú tại Chùa Thanh-Long. Ở đấy, Ngài nhận Pháp Quán Đảnh của Kim-Cang-Giới và Thai-Tạng, dưới sự chứng minh của Ngài Huệ-Quả. Khi vị Thầy mất th́ đệ tử của Ngài đă nắm được toàn bộ giáo lư.

Sau hai năm, Ngài Không-Hải trở về Nhật, và ở đó lần đầu tiên, Ngài tŕnh bày các nguyên lư của tông phái Chân-ngôn. Ngài đạt được ân-huệ của Vua B́nh-Thành (HeiZei), Tha-Nga (Saga) và Thuần-Ḥa (Junna). Ngài có thể truyền bá đức tin của ḿnh ở triều đ́nh, đồng thời phổ biến nó giữa đám dân chúng. Ngài là người phát động một phong trào mới trong lịch sử tư-tưởng Nhật. Năm 816, Ngài xây dựng chùa của Ngài ở Cao-Dă-Sơn (cách Đông-kinh 90 cây số về phía Bắc). Năm 823, Vua Tha-Nga giao cho Ngài một ngôi Chùa của kinh thành là Đông-Tự, đă được làm Hộ-Quốc Tự. Hoằng-Pháp Đại-Sư là tên Thụy (1) của Vua Thế Hồ (Daigo) vinh phong cho Ngài.

XI.     SỰ PHÁT TRIỂN VỀ SAU CỦA CHÂN NGÔN TÔNG.



__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
Tonnu_trami
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 December 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 22
Msg 18 of 52: Đă gửi: 02 January 2006 lúc 10:08am | Đă lưu IP Trích dẫn Tonnu_trami

Thưa chú Pháp Vân ,

Cháu đọc bài kinh Đại Nhật thấy hay quá , có hệ thống bài bản , đúng là chánh pháp phật đà . Cháu xin chú tiếp tục post tiếp ạ . Cám ơn chú Pháp Vân nhiều .
Chúc chú một năm mới dồi dào sức khỏe và vạn sự cát tường như ư !

Kính chú

Trà Mi
   


Quay trở về đầu Xem Tonnu_trami's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Tonnu_trami
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 19 of 52: Đă gửi: 03 January 2006 lúc 9:16am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

Cảm ơn bạn Trà Mi quan tâm,
Chúc duyên lành đến với bạn!

__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 
phapvan05
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 17 December 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 20 of 52: Đă gửi: 03 January 2006 lúc 9:18am | Đă lưu IP Trích dẫn phapvan05

XI.     SỰ PHÁT TRIỂN VỀ SAU CỦA CHÂN NGÔN TÔNG.

Hai nhánh : Cổ-Nghi và Tân-Nghi

Khoảng 300 năm, sau ngày Hoằng-Pháp Đại-Sư thành lập Chân-ngôn Tông th́ khuôn phép của tông phái này bị lơi lỏng.

Kakuban Sḥnin tức Hưng-Giác Đại Sư (1095-1134) được ân huệ của cụ Vương Điểu-Vũ; năm 1132, Ngài lập ở Cao-dă-sơn cái Đại-truyền pháp viện, nơi đó ngài tuyên thuyết một sự cải cách. Hai năm sau, Ngài về trụ tŕ tại Kim-Cang Phong Tự. Nhưng các phần tử phản động và hẹp ḥi chống lại sự canh tân của Ngài, và trước mưu đồ của họ, Ngài từ bỏ chức vị cao cả của ḿnh và chẳng bao lâu, Ngài về ẩn cư tại Negorosan.

Tuy nhiên, những kẻ tán thành cuộc cải cách ngày càng đông thêm, và ở Đại-truyền Pháp-viện, nhà bác học RaiyuṢj̣ (1226-1304) tŕnh bày những kiến giải mới. Ông này có những đối thủ ở Kim-Cang Phong Tự và ở Đông-Tự, từ đó thường xảy ra nhiều cuộc tranh luận. Năm 1288 Raiyu dời Đại-truyền Pháp viện về Negososan (cách chỗ cũ 10 dặm) với các môn đệ của ḿnh, đó là sự phân-phái giữa Tân-Nghi và Cổ-Nghi.

Điểm chính yếu của sự bất ḥa giữa hai phái thuộc về lai lịch của nhân vật coi như có tài đức tŕnh bày kinh Đại-Nhật. Đó là tự tánh pháp thân của Đức Đại-Nhật. Phái Tân-Nghi th́ phân biệt trong Tự-Tánh Pháp Thân, có bản Tự-Thân là Thân căn bản ở trong thể tuyệt đối, và thân gia tŕ có điều kiện. Phái Tân-Nghi th́ chấp nhận Thân gia tŕ làm việc thuyết pháp, c̣n bản Tự-Thân th́ không làm việc ấy được. Phái Cổ-Nghi ngược lại, cho rằng việc nói Pháp là của bản Tự Thân.

Các Chùa Đại Bổn-Sơn của Cổ-Nghi là các Chùa ở Cao-Dă-Sơn, Nhân-Ḥa Tự (Ngự Thất), Thế-Hồ tự, Đông Tự, Tuyền Phổ Tự, Tùy Tâm Viện, Khuyến Tu Tự.

Tân-Nghi ngự trị ở Trí-Tích Viện (Trí-Sơn), Trường Cốc Tự (Phong Sơn), và nhiều chùa khác khoảng độ 60 phần trăm trên tổng số 12.000 Chùa của Chân – ngôn Tông.

Người phàm đôi khi cứ giữ cảm tưởng rằng, Phật giáo Chân Ngôn Tông chỉ là một h́nh thái khác của Phật giáo Tây-Tạng kỳ lạ. Một số h́nh dung nó như là một nghi thức thuần túy dựa vào những tín-ngưỡng điên rồ, một số khác lại xem nó như là sự diễn đạt thần bí của một môn Thần thoại học. Nhưng Mật-giáo chính thống, ngược lại, khăng khăng xem trọng những sự kiện xác thực, trong một tâm thức xác thực.

Nếu người ta nghiên cứu tư-tưởng sâu sắc của kinh Đại-Nhật trong chi tiết, người ta sẽ nhận thấy rằng, tư tưởng ấy được thâm nhập bởi những ư-niệm mà người ta đă được biết, qua các kinh chính của Đại-thừa, như: Pháp-Hoa, Hoa-Nghiêm, Bát-Nhă. Kinh Đại-Nhật là nơi qui tụ của một tư tưởng tôn giáo mà các kinh nổi tiếng kia chỉ mới đại diện cho các giai đoạn đầu của nó.


Phần thứ nhất:

NGHIÊN CỨU TỔNG QUÁT VỀ KINH ĐẠI NHẬT



__________________
PhapVan
Quay trở về đầu Xem phapvan05's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phapvan05
 

Trang of 3 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.0703 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO