Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 178 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 1 of 7: Đă gửi: 21 September 2004 lúc 9:18am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG

Mục lục & Lời nói đầu


Tác gỉa ANNIE BESANT

MỤC LỤC

Cuối sách
Lời nói đầu
Nhập đề
Hữu ngă là Người-hiểu-biết.
Vô ngă là Cái-được-biết.
Hiểu biết phân biệt là “Tri”.

CHƯƠNG I.

BẢN CHẤT CỦA TƯ TƯỞNG
Sự liên quan giữa Người-hiểu-biết, Vật-hiểu-biết, Sự-hiểu-biết

CHƯƠNG II.


KẺ SÁNG TẠO ẢO TƯỞNG

Hạ trí và Mạt na thức.
Rèn luyện và nâng cao Thể Trí.

CHƯƠNG III.

CHUYỂN DI TƯ TƯỞNG

CHƯƠNG IV.

NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG
Mối liên quan giữa Cảm giác và Tư tưởng

CHƯƠNG V.

KƯ ỨC
Kư ức bản tính của trí nhớ.
Kém trí nhớ.
Kư ức tiên đoán.

CHƯƠNG VI.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG

Giá trị của Thuật Quan sát.
Sự phát triển khả năng trí tuệ.
Rèn luyện trí tuệ.
Gần bậc cao minh.

CHƯONG VII.

ĐỊNH TRÍ

Nơi nào có Đối tượng là có Tâm thức đáp ứng
Định trí cách nào?

CHƯƠNG VIII.

NHỮNG TRỞ NGẠI CHO VIỆC ĐỊNH TRÍ

Trí xao động.
Định trí không đúng cách rất nguy hại.
Thiền định.

CHƯƠNG IX.

SỰ TĂNG CƯỜNG QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG

Lo - Làm sao cho hết lo?
Suy tưởng và Ngưng Suy tưởng
Bí quyết làm cho Trí an tịnh

CHƯƠNG X.

GIÚP NGƯỜI KHÁC BẰNG TƯ TƯỞNG

Giúp đỡ kẻ quá văng
Dùng Tư tưởng hoạt động trong giấc ngủ
Sức mạnh Tư tưởng Liên hiệp
Lời Kết

PHỤ CHÚ CUỐI

******
mục lục đầu sách cuôi sách chú thích

LỜI NÓI ĐẦU

Tôi soạn quyển sách nhỏ này nhằm giúp học giả t́m hiểu bản tính ḿnh, tuy chưa hoàn hảo, nhưng về phương diện trí thức, ít ra nó cũng hữu ích cho kẻ sơ cơ.
Người nào thấu rơ các nguyên tắc tŕnh bày nơi đây có thể cộng tác với thiên cơ để mau tiến hóa, đồng thời các quan năng trí thức của ḿnh cũng phát triển nhanh chóng nữa.

Đoạn đầu quyển sách này sẽ đem lại nhiều điểm khó khăn cho những độc giả chưa bén duyên với mùi đạo, nên những người đó có lẽ chỉ đọc sơ rồi bỏ qua. Thật ra phần nhập đề là căn bản cần thiết cho những ai muốn t́m hiểu các mối liên quan giữa trí thức cùng các môi giới của bản tính con người và ngoại cảnh.
Kẻ nào muốn thực hành câu châm ngôn: “Ḿnh tự biết ḿnh” th́ chẳng nên giải đăi trước sự cố gắng nhỏ nhen và cũng đừng mong thức ăn tinh thần ngẫu nhiên rơi vào miệng.

Dầu cho tác phẩm nhỏ này chỉ giúp được vài học giả đứng đắn vượt qua một ít trở ngại trên đường hiểm trở th́ cũng đủ đạt mục đích rồi vậy.

ANNIE BESAN

******
mục lục đầu sách cuôi sách chú thích

PHẦN MỞ ĐẦU

Phải sống một đời sống trong sạch và thanh cao mới có thể nhận thức được giá trị của Minh Triết. Quyển sách nhỏ này ra đời nhằm mục đích nâng đỡ các học giả chân chính muốn áp dụng sự hiểu biết về lư thuyết đă lănh hội trong khi nghiên cứu giáo lư Thông Thiên Học, ngơ hầu trau dồi bản tính ḿnh và giúp ích nhân loại. Chúng tôi hi vọng sự thông hiểu tinh tường về bản tính trí thức sẽ hướng dẫn những kẻ ấy quyết tâm lánh dữ làm lành.

Cái tính t́nh thúc giục chúng ta sống một cuộc đời ngay thật sẽ giảm bớt phân nửa giá trị nếu ánh sáng của trí tuệ không soi tỏ con đường lập hạnh của chúng ta. Khác nào kẻ mù, càng đi xa th́ càng lạc lối, để rồi rơi xuống hố sâu, và cũng như Chơn Nhơn (Ego) bị vô minh che lấp, xa ĺa đường chính, chung cuộc sa đọa vào vực thẳm của chướng ngbiệp.

Avidya – Vô minh – Chính là bước đầu làm cho con người xa ĺa Đơn Nhứt để tiến đến sự chia rẽ. Do đó, người đời c̣n vô minh th́ c̣n chia rẽ, giảm bớt vô minh th́ giảm bớt chia rẽ. Chỉ khi nào con người diệt tận vô minh th́ mới an vui tự tại.

HỮU NGĂ LÀ NGƯỜI-HIỂU-BIẾT

Khi nghiên cứu bản tính con người, chúng ta phải phân biệt giữa con người và các thể, giữa Chơn ngă với các lớp y phục bên ngoài.

Chơn ngă th́ duy nhất, mặc dù Chơn ngă biểu hiện dưới nhiều h́nh thức bằng nhiều thể chất khác nhau. Dĩ nhiên, theo nghĩa đầy đủ nhất của từ th́ chỉ có cái Ta là Chơn Ngă Duy Nhất. Tỷ như tất cả tia sáng đều do mặt trời phát quang, c̣n những cái “Ta” tức là con người (Bản ngă) đều là những tia sáng của Đại Ngă, cũng gọi là Chơn Ngă tối cao phát huy. V́ vậy mỗi người trong chúng ta đều có thể tự hào: “Ta là Đại Ngă”.

Tuy nhiên, trong mục tiêu hiện thời, chúng ta chỉ đề cập đến một tia sáng, song chúng ta cũng có thể xác định thực tính duy nhất của tia sáng riêng rẽ này, dù nó đang bị màn sắc tướng che khuất.

Tâm thức là Đơn Nhứt, nhưng tại chúng ta thường hay phân tích nó ra nhiều cách để dễ biện luận, hoặc giả do những giác quan yếu đuối của chúng ta tạo ra những quan niệm sai lầm để chúng ta tạm dùng nơi cơi trần.

Cái Ta là Hữu ngă, tức là Bản ngă luôn luôn biểu lộ chung trong ba trạng thái: “Nhận thức, Ư muốn và Hành động” – do đó phát sanh những tư tưởng, những ham muốn và những hành động. Vả lại trong Bản ngă không có sự phân chia, cho nên toàn thể cái “Ta” hiểu biết, toàn thể cái “Ta” ham muốn và toàn thể cái “Ta” hành động. Ngoài ra các động tác này tương quan, tương ứng với nhau, v́ vậy, khi chúng ta hiểu biết th́ chúng hành động và ham muốn, khi chúng ta hành động th́ chúng ta cũng hiểu biết và ham muốn, và khi chúng ta ham muốn th́ chúng ta cũng hành động và hiểu biết.

Khi một chức năng nào vượt quá mức độ th́ làm cho chức năng khác suy nhược, nhưng không tiêu diệt hẳn. Như một trong ba trạng thái của Bản ngă là chức năng “nhận thức” dù có tập trung mănh liệt thế mấy cũng không thể diệt chức năng “ư muốn” và “hành động”. Hai chức năng này vẫn tồn tại và tiềm tàng trong Bản ngă. Hơn nữa, nhờ nghiên cứu tỉ mỉ nên chúng ta mới phân tích được.

Chúng ta gọi ba chức năng đó là “ba trạng thái của Bản ngă”. Thêm vài lời giải thích, có lẽ chúng ta dễ hiểu hơn: khi cái Ta an tĩnh th́ trạng thái “nhận thức” phát hiện, nhờ đó chúng ta có thể tiếp nhận h́nh dáng mọi vật trước mắt. Khi cái Ta chú định vào sự biến đổi của trạng thái, th́ phát sanh “Ư muốn”, và khi cái Ta đứng trước một cảnh vật nào, rồi phát động năng lực để tiếp xúc với cảnh vật đó th́ sanh ra “Hành động”. Như vậy, chúng ta hiểu rằng ba trạng thái này không phải là sự chia rẽ của Bản ngă như một chia làm ba, cũng không phải ba phối hợp làm một, mà là cái một toàn thể, không chia xẻ được, phát hiện ra ba cách khác nhau.

Thật khó mà quan niệm minh bạch về Bản ngă, chỉ có một cách giản tiện gọi đích danh nó là Bản ngă. Bản ngă là tâm thức, nhạy cảm và luôn luôn hiện hữu. Mỗi người trong chúng ta đều nh́n nhận hiện đang “có Ta”. Không một ai phủ nhận cái “có Ta” hay thẳng thắn quả quyết rằng “không có Ta”. Như Bhavagan Das đă nói: “Bản ngă là căn bản trọng yếu của sự sống... Theo lời ông Vachaspati – Mishra trong Luận giải (the Bhamati) về quyển Shariraka – Bhashya của Ngài Sankaracharya th́ không có người nào hoài nghi mà tự hỏi: “Có Ta hay không có Ta”? [1]

Thừa nhận “có Ta”, tức là chấp Ngă, đó là cái thừa nhận đầu tiên, trước hết mọi sự mà không cần phải trưng bằng cớ. V́ không một thực chứng nào có thể làm cho nó vững chắc thêm và cũng không có một phản chứng nào khác làm cho nó yếu bớt được. Cả thực chứng và phản chứng đều căn cứ nơi “Ngă chấp”. Cảm giác không thể bắt bẻ được là v́ chúng ta hiện đang Sống đây chỉ cảm biết hơn và kém. Khi Vui thích ta cảm thấy “Ta hơn”, nhưng đến lúc Khổ, ta lại cảm thấy “Ta kém”.

Nếu quan sát kỹ lưỡng, chúng ta cảm thấy “Ngă chấp” này diễn tả ba cách riêng biệt:

1 – Sự phản hưởng từ bên trong cái Vô ngă là Sự hiểu biết, nguồn gốc của tư tưởng.

2 – Sự tập trung vào nội tâm là Ư chí, nguồn gốc của ham muốn.

3 – Sự phát triển ra ngoại cảnh là Năng lực, nguồn gốc của sự hoạt động.

“Ta hiểu biết hay suy tư”, “Ta ham muốn hay ước vọng”, “Ta phát huy năng lực hay hành động”, đó là ba sự xác định của Ngă chấp, là Bản ngă duy nhất. Tất cả sự biểu hiện đều có thể gom vào một hay của ba đề mục này. Bản ngă cũng chỉ biểu lộ ở cơi trần theo ba phương thế đó mà thôi, giống như các màu sắc biến đổi đều do ba màu chánh. Cũng một lẽ ấy, tất cả những biến tướng của Bản ngă đều do “Hiểu biết”, “Ư muốn” và “Hành động” hợp chung lại.

Cái Ta ham muốn, cái Ta hiểu biết, cái Ta hành động, chính là cái Một trong trường tồn, tạo thành căn bản của cá thể trong Không gian và Thời gian. Đó là Bản ngă dưới h́nh thức tư tưởng, là trạng thái của Kẻ-hiểu-biết và cũng là đề mục của quyển sách.

VÔ NGĂ LÀ CÁI ĐƯỢC-HIỂU-BIẾT

Bản ngă vốn “bản tính là hiểu biết”: tự thấy nơi nó phản chiếu nhiều sắc tướng, và do kinh nghiệm, Bản ngă nhận biết rằng nó không thể hiểu biết, hay hành động, hoặc ham muốn xuyên qua những sắc tướng được. Tuy nhiên, nhờ sắc tướng mà Bản ngă mới nhận thức được sắc tướng không thuộc phạm vi kiểm soát của Bản ngă như lúc ban sơ. Bản ngă đă ư thức được sắc tướng và xem sắc tướng như nó. (Mặc dù quan niệm này sai lầm, nhưng rất cần thiết). V́ Bản ngă hiểu biết chớ không phải sắc tướng hiểu biết hay suy tư. Bản ngă ham muốn chớ tuyệt nhiên sắc tướng không ham muốn hay vọng động chi cả. Bản ngă phát huy năng lực chớ sắc tướng không mảy may xê dịch hay hành động ǵ hết. Bởi vậy, Bản ngă không thể xâm nhập vào sắc tướng để nói: “Ta biết”, “Ta muốn”, “Ta làm”, và sau cùng Bản ngă hiểu rằng mỗi sắc tướng đều có cái “Ngă” riêng biệt, đang biến chuyển dưới h́nh thức kim thạch, thảo mộc, thú cầm, nhân loại và siêu nhân, đoạn tổng hợp lại bằng một từ ngữ dễ hiểu là “Không Ta”, tức là Vô ngă.

Vô ngă là ǵ?

Đó là câu hỏi đă nêu ra từ ngàn xưa và được giải đáp như sau:

Vô ngă nghĩa là “Không Ta” hay là không chấp nhận có Ta. Tất cả những ǵ mà Ta không hiểu biết, Ta không ham muốn hay là Ta không hành động, đều gọi là Vô ngă.

Lời giải đáp trên đây phù hợp với nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, sau khi lần lượt phân tích các trợ duyên – ngoại trừ bản chất tế nhị cấu tạo Bản ngă – th́ Bản ngă hiểu rằng các trợ duyên ấy là nhiều thành phần của Vô ngă, là đối tượng của sự hiểu biết, kết thành “Sự-vật-để-hiểu-biết”, chớ không phải “Người-hiểu-biết”.

Thật ra Bản ngă không khi nào tự xem nó như một đối tượng riêng biệt, chính do bản chất tinh vi hơn hết tạo cho Bản ngă một cái Ta riêng biệt, v́ bản chất này rất cần thiết để tạo thành một cá thể. Nếu hiểu biết bản chất đó chỉ là Vô ngă th́ chúng ta mới có thể nh́n sâu vào Tất cả.

SỰ HIỂU BIẾT LÀ TRI

Muốn Bản ngă trở thành “Người-hiểu-biết”, c̣n Vô ngă thành “Cái-được-hiểu- biết” th́ giữa đôi bên phải có sự tương quan rơ rệt. Bản ngă phải ảnh hưởng đến Vô ngă và Vô ngă cũng phải ảnh hưởng đến Bản ngă th́ mới sanh ra sự hiểu biết.

Sự hiểu biết phân biệt là môi giới giữa Bản ngă và Vô ngă. Đặc tính của sự hiểu biết sẽ là đầu đề cho chương sau. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần phải hiểu rơ rằng sự hiểu biết là mối liên kết bao hàm nhị nguyên:

1 – Ư thức được có một cái “Ta” (Bản ngă hay Hữu ngă).

2 – Thừa nhận có một cái “Không Ta” (Phi ngă hay Vô ngă).

Hai yếu tố này phải tương tác nhau mới sanh ra “Sự hiểu biết”.

Người-hiểu-biết, Cái-hiểu-biết, Sự-hiểu-biết – Đó là Ba trong Một, mà chúng ta cần phải cố gắng t́m hiểu cho tường tận, nếu chúng ta muốn dùng sức mạnh tư tưởng để làm cứu cánh cho ḿnh và phục vụ đời.

Theo thuật ngữ Tây phương: Trí khôn hiểu biết là Chủ thể, vật thể được hiểu biết là Đối tượng, c̣n mối liên kết giữa Chủ thể và Đối tượng là Sự hiểu biết.

Vả lại, chúng ta cần phải hiểu về đặc tính của Người-hiểu-biết và Cái-hiểu-biết, sự tương quan giữa Người-hiểu-biết và Cái-hiểu-biết, sau cùng là cách phối hợp các mối tương quan ấy.

Khi hiểu rơ các điều trên đây, chúng ta đă trải qua một bước dài để đi đến chỗ Ḿnh tự biết Ḿnh, là cơ cấu của Minh triết. Chừng đó chúng ta mới có thể giúp đỡ những người lân cận có hiệu quả và giúp đời đắc lực. Đó là tiêu chuẩn chân thật của Minh triết và cũng nhờ ḷng Từ bi bác ái mà Minh triết cứu độ chúng sanh thoát khỏi phiền năo, đến tận bờ giác.

Đó cũng là đề mục cho sự nghiên cứu của chúng ta. Sách Tâm lư học Cổ truyền rất thâm diệu chép rằng: Đối tượng của triết lư là diệt khổ. V́ lẽ đó mà các thức giả phải suy tư và cũng v́ thế mà sự hiểu biết vẫn được theo dơi không ngừng.
_________________


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 2 of 7: Đă gửi: 21 September 2004 lúc 9:26am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG

Phần mở đầu & Chương 1


Tác gỉa ANNIE BESANT
PHẦN MỞ ĐẦU

Phải sống một đời sống trong sạch và thanh cao mới có thể nhận thức được giá trị của Minh Triết. Quyển sách nhỏ này ra đời nhằm mục đích nâng đỡ các học giả chân chính muốn áp dụng sự hiểu biết về lư thuyết đă lănh hội trong khi nghiên cứu giáo lư Thông Thiên Học, ngơ hầu trau dồi bản tính ḿnh và giúp ích nhân loại. Chúng tôi hi vọng sự thông hiểu tinh tường về bản tính trí thức sẽ hướng dẫn những kẻ ấy quyết tâm lánh dữ làm lành.

Cái tính t́nh thúc giục chúng ta sống một cuộc đời ngay thật sẽ giảm bớt phân nửa giá trị nếu ánh sáng của trí tuệ không soi tỏ con đường lập hạnh của chúng ta. Khác nào kẻ mù, càng đi xa th́ càng lạc lối, để rồi rơi xuống hố sâu, và cũng như Chơn Nhơn (Ego) bị vô minh che lấp, xa ĺa đường chính, chung cuộc sa đọa vào vực thẳm của chướng ngbiệp.

Avidya – Vô minh – Chính là bước đầu làm cho con người xa ĺa Đơn Nhứt để tiến đến sự chia rẽ. Do đó, người đời c̣n vô minh th́ c̣n chia rẽ, giảm bớt vô minh th́ giảm bớt chia rẽ. Chỉ khi nào con người diệt tận vô minh th́ mới an vui tự tại.

HỮU NGĂ LÀ NGƯỜI-HIỂU-BIẾT

Khi nghiên cứu bản tính con người, chúng ta phải phân biệt giữa con người và các thể, giữa Chơn ngă với các lớp y phục bên ngoài.

Chơn ngă th́ duy nhất, mặc dù Chơn ngă biểu hiện dưới nhiều h́nh thức bằng nhiều thể chất khác nhau. Dĩ nhiên, theo nghĩa đầy đủ nhất của từ th́ chỉ có cái Ta là Chơn Ngă Duy Nhất. Tỷ như tất cả tia sáng đều do mặt trời phát quang, c̣n những cái “Ta” tức là con người (Bản ngă) đều là những tia sáng của Đại Ngă, cũng gọi là Chơn Ngă tối cao phát huy. V́ vậy mỗi người trong chúng ta đều có thể tự hào: “Ta là Đại Ngă”.

Tuy nhiên, trong mục tiêu hiện thời, chúng ta chỉ đề cập đến một tia sáng, song chúng ta cũng có thể xác định thực tính duy nhất của tia sáng riêng rẽ này, dù nó đang bị màn sắc tướng che khuất.

Tâm thức là Đơn Nhứt, nhưng tại chúng ta thường hay phân tích nó ra nhiều cách để dễ biện luận, hoặc giả do những giác quan yếu đuối của chúng ta tạo ra những quan niệm sai lầm để chúng ta tạm dùng nơi cơi trần.

Cái Ta là Hữu ngă, tức là Bản ngă luôn luôn biểu lộ chung trong ba trạng thái: “Nhận thức, Ư muốn và Hành động” – do đó phát sanh những tư tưởng, những ham muốn và những hành động. Vả lại trong Bản ngă không có sự phân chia, cho nên toàn thể cái “Ta” hiểu biết, toàn thể cái “Ta” ham muốn và toàn thể cái “Ta” hành động. Ngoài ra các động tác này tương quan, tương ứng với nhau, v́ vậy, khi chúng ta hiểu biết th́ chúng hành động và ham muốn, khi chúng ta hành động th́ chúng ta cũng hiểu biết và ham muốn, và khi chúng ta ham muốn th́ chúng ta cũng hành động và hiểu biết.

Khi một chức năng nào vượt quá mức độ th́ làm cho chức năng khác suy nhược, nhưng không tiêu diệt hẳn. Như một trong ba trạng thái của Bản ngă là chức năng “nhận thức” dù có tập trung mănh liệt thế mấy cũng không thể diệt chức năng “ư muốn” và “hành động”. Hai chức năng này vẫn tồn tại và tiềm tàng trong Bản ngă. Hơn nữa, nhờ nghiên cứu tỉ mỉ nên chúng ta mới phân tích được.

Chúng ta gọi ba chức năng đó là “ba trạng thái của Bản ngă”. Thêm vài lời giải thích, có lẽ chúng ta dễ hiểu hơn: khi cái Ta an tĩnh th́ trạng thái “nhận thức” phát hiện, nhờ đó chúng ta có thể tiếp nhận h́nh dáng mọi vật trước mắt. Khi cái Ta chú định vào sự biến đổi của trạng thái, th́ phát sanh “Ư muốn”, và khi cái Ta đứng trước một cảnh vật nào, rồi phát động năng lực để tiếp xúc với cảnh vật đó th́ sanh ra “Hành động”. Như vậy, chúng ta hiểu rằng ba trạng thái này không phải là sự chia rẽ của Bản ngă như một chia làm ba, cũng không phải ba phối hợp làm một, mà là cái một toàn thể, không chia xẻ được, phát hiện ra ba cách khác nhau.

Thật khó mà quan niệm minh bạch về Bản ngă, chỉ có một cách giản tiện gọi đích danh nó là Bản ngă. Bản ngă là tâm thức, nhạy cảm và luôn luôn hiện hữu. Mỗi người trong chúng ta đều nh́n nhận hiện đang “có Ta”. Không một ai phủ nhận cái “có Ta” hay thẳng thắn quả quyết rằng “không có Ta”. Như Bhavagan Das đă nói: “Bản ngă là căn bản trọng yếu của sự sống... Theo lời ông Vachaspati – Mishra trong Luận giải (the Bhamati) về quyển Shariraka – Bhashya của Ngài Sankaracharya th́ không có người nào hoài nghi mà tự hỏi: “Có Ta hay không có Ta”? [1]

Thừa nhận “có Ta”, tức là chấp Ngă, đó là cái thừa nhận đầu tiên, trước hết mọi sự mà không cần phải trưng bằng cớ. V́ không một thực chứng nào có thể làm cho nó vững chắc thêm và cũng không có một phản chứng nào khác làm cho nó yếu bớt được. Cả thực chứng và phản chứng đều căn cứ nơi “Ngă chấp”. Cảm giác không thể bắt bẻ được là v́ chúng ta hiện đang Sống đây chỉ cảm biết hơn và kém. Khi Vui thích ta cảm thấy “Ta hơn”, nhưng đến lúc Khổ, ta lại cảm thấy “Ta kém”.

Nếu quan sát kỹ lưỡng, chúng ta cảm thấy “Ngă chấp” này diễn tả ba cách riêng biệt:

1 – Sự phản hưởng từ bên trong cái Vô ngă là Sự hiểu biết, nguồn gốc của tư tưởng.

2 – Sự tập trung vào nội tâm là Ư chí, nguồn gốc của ham muốn.

3 – Sự phát triển ra ngoại cảnh là Năng lực, nguồn gốc của sự hoạt động.

“Ta hiểu biết hay suy tư”, “Ta ham muốn hay ước vọng”, “Ta phát huy năng lực hay hành động”, đó là ba sự xác định của Ngă chấp, là Bản ngă duy nhất. Tất cả sự biểu hiện đều có thể gom vào một hay của ba đề mục này. Bản ngă cũng chỉ biểu lộ ở cơi trần theo ba phương thế đó mà thôi, giống như các màu sắc biến đổi đều do ba màu chánh. Cũng một lẽ ấy, tất cả những biến tướng của Bản ngă đều do “Hiểu biết”, “Ư muốn” và “Hành động” hợp chung lại.

Cái Ta ham muốn, cái Ta hiểu biết, cái Ta hành động, chính là cái Một trong trường tồn, tạo thành căn bản của cá thể trong Không gian và Thời gian. Đó là Bản ngă dưới h́nh thức tư tưởng, là trạng thái của Kẻ-hiểu-biết và cũng là đề mục của quyển sách.

VÔ NGĂ LÀ CÁI ĐƯỢC-HIỂU-BIẾT

Bản ngă vốn “bản tính là hiểu biết”: tự thấy nơi nó phản chiếu nhiều sắc tướng, và do kinh nghiệm, Bản ngă nhận biết rằng nó không thể hiểu biết, hay hành động, hoặc ham muốn xuyên qua những sắc tướng được. Tuy nhiên, nhờ sắc tướng mà Bản ngă mới nhận thức được sắc tướng không thuộc phạm vi kiểm soát của Bản ngă như lúc ban sơ. Bản ngă đă ư thức được sắc tướng và xem sắc tướng như nó. (Mặc dù quan niệm này sai lầm, nhưng rất cần thiết). V́ Bản ngă hiểu biết chớ không phải sắc tướng hiểu biết hay suy tư. Bản ngă ham muốn chớ tuyệt nhiên sắc tướng không ham muốn hay vọng động chi cả. Bản ngă phát huy năng lực chớ sắc tướng không mảy may xê dịch hay hành động ǵ hết. Bởi vậy, Bản ngă không thể xâm nhập vào sắc tướng để nói: “Ta biết”, “Ta muốn”, “Ta làm”, và sau cùng Bản ngă hiểu rằng mỗi sắc tướng đều có cái “Ngă” riêng biệt, đang biến chuyển dưới h́nh thức kim thạch, thảo mộc, thú cầm, nhân loại và siêu nhân, đoạn tổng hợp lại bằng một từ ngữ dễ hiểu là “Không Ta”, tức là Vô ngă.

Vô ngă là ǵ?

Đó là câu hỏi đă nêu ra từ ngàn xưa và được giải đáp như sau:

Vô ngă nghĩa là “Không Ta” hay là không chấp nhận có Ta. Tất cả những ǵ mà Ta không hiểu biết, Ta không ham muốn hay là Ta không hành động, đều gọi là Vô ngă.

Lời giải đáp trên đây phù hợp với nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, sau khi lần lượt phân tích các trợ duyên – ngoại trừ bản chất tế nhị cấu tạo Bản ngă – th́ Bản ngă hiểu rằng các trợ duyên ấy là nhiều thành phần của Vô ngă, là đối tượng của sự hiểu biết, kết thành “Sự-vật-để-hiểu-biết”, chớ không phải “Người-hiểu-biết”.

Thật ra Bản ngă không khi nào tự xem nó như một đối tượng riêng biệt, chính do bản chất tinh vi hơn hết tạo cho Bản ngă một cái Ta riêng biệt, v́ bản chất này rất cần thiết để tạo thành một cá thể. Nếu hiểu biết bản chất đó chỉ là Vô ngă th́ chúng ta mới có thể nh́n sâu vào Tất cả.

SỰ HIỂU BIẾT LÀ TRI

Muốn Bản ngă trở thành “Người-hiểu-biết”, c̣n Vô ngă thành “Cái-được-hiểu- biết” th́ giữa đôi bên phải có sự tương quan rơ rệt. Bản ngă phải ảnh hưởng đến Vô ngă và Vô ngă cũng phải ảnh hưởng đến Bản ngă th́ mới sanh ra sự hiểu biết.

Sự hiểu biết phân biệt là môi giới giữa Bản ngă và Vô ngă. Đặc tính của sự hiểu biết sẽ là đầu đề cho chương sau. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần phải hiểu rơ rằng sự hiểu biết là mối liên kết bao hàm nhị nguyên:

1 – Ư thức được có một cái “Ta” (Bản ngă hay Hữu ngă).

2 – Thừa nhận có một cái “Không Ta” (Phi ngă hay Vô ngă).

Hai yếu tố này phải tương tác nhau mới sanh ra “Sự hiểu biết”.

Người-hiểu-biết, Cái-hiểu-biết, Sự-hiểu-biết – Đó là Ba trong Một, mà chúng ta cần phải cố gắng t́m hiểu cho tường tận, nếu chúng ta muốn dùng sức mạnh tư tưởng để làm cứu cánh cho ḿnh và phục vụ đời.

Theo thuật ngữ Tây phương: Trí khôn hiểu biết là Chủ thể, vật thể được hiểu biết là Đối tượng, c̣n mối liên kết giữa Chủ thể và Đối tượng là Sự hiểu biết.

Vả lại, chúng ta cần phải hiểu về đặc tính của Người-hiểu-biết và Cái-hiểu-biết, sự tương quan giữa Người-hiểu-biết và Cái-hiểu-biết, sau cùng là cách phối hợp các mối tương quan ấy.

Khi hiểu rơ các điều trên đây, chúng ta đă trải qua một bước dài để đi đến chỗ Ḿnh tự biết Ḿnh, là cơ cấu của Minh triết. Chừng đó chúng ta mới có thể giúp đỡ những người lân cận có hiệu quả và giúp đời đắc lực. Đó là tiêu chuẩn chân thật của Minh triết và cũng nhờ ḷng Từ bi bác ái mà Minh triết cứu độ chúng sanh thoát khỏi phiền năo, đến tận bờ giác.

Đó cũng là đề mục cho sự nghiên cứu của chúng ta. Sách Tâm lư học Cổ truyền rất thâm diệu chép rằng: Đối tượng của triết lư là diệt khổ. V́ lẽ đó mà các thức giả phải suy tư và cũng v́ thế mà sự hiểu biết vẫn được theo dơi không ngừng.

mục lục đầu sách cuôi sách chú thích

CHƯƠNG MỘT
BẢN CHẤT TƯ TƯỞNG


Bản chất của tư tưởng có thể nghiên cứu về hai quan điểm:

1 – Quan điểm về Tâm thức, là khả năng hiểu biết phân biệt,

2 – Quan điểm về Sắc tướng, là h́nh thể. Nhờ có h́nh thể th́ chúng ta mới thấy biết. H́nh thể thường biến đổi theo ngoại cảnh.

Theo Triết học, chúng ta nên tránh hai trường hợp sau đây kẻo bị sa vào chủ nghĩa cực đoan.

Phái cực nội (hướng nội thái quá) chủ trương vạn vật, vạn sự do tâm tạo, không chấp nhận sắc tướng là điều kiện tối cần cho tâm thức. Trái lại, phái cực ngoại (hướng ngoại thái quá) th́ duy vật, phủ nhận sự sống trong tâm linh và cho rằng tất cả mọi h́nh thức đều do vật chất hóa sanh.

H́nh dạng và sự sống, vật chất và tinh thần, khí thể và tâm thức, đều là trạng thái liền đôi của Cái Đó liên kết chặt chẽ và khi biểu hiện th́ không khi nào tách biệt ra. Cái Đó không phải tâm thức hay khí thể mà là cội rễ của cả hai: vật chất và tinh thần.

Triết lư nào chỉ biết có vật chất mà phủ nhận sự sống trong tâm linh th́ sẽ vấp phải những vấn đề nan giải. Trái lại, triết lư nào chỉ chú trọng về sự sống thiêng liêng, không chịu hiểu biết vật chất th́ sẽ gặp một bức tường kiên cố ngăn cách, không thể vượt qua được.

Giải pháp cuối cùng là tâm thức và khí thể, sự sống và h́nh dạng, tinh thần và vật chất, là biểu thị nhất thời của hai trạng thái của Hiện Hữu Duy nhất mà chúng ta không thể hiểu biết được, trừ phi trạng thái đó biểu hiện thành:

a) Tinh thần Căn nguyên (Pratyagatman) – Bản thể vô tướng – do đó phát sanh những cái Ta riêng biệt,

b) Vật chất Căn nguyên (Mulaprakriti) th́ phát sanh sắc tướng, tức là những h́nh dáng có thể trông thấy được.

Khi biến hiện th́ Tinh thần Căn nguyên sanh ra bộ ba tâm thức, và Vật chất Căn nguyên sanh ra bộ ba Vật chất, c̣n nền tảng của Thực tại Duy nhất th́ tâm thức hữu vi không thể nào biết rơ. Như đóa hoa không bao giờ hay biết rễ cây đă làm cho nó nẩy nở, mặc dù rễ cây là nguồn sống của hoa; nếu không có rễ th́ không khi nào có hoa.

Bản ngă là Người-hiểu-biết, có nhiệm vụ làm phản chiếu lại nó cái Vô ngă. Tỷ như kính ảnh thu nhận ánh sáng do những vật phản chiếu lại và nhờ ánh sáng làm biến đổi thể chất mà nó rọi vào để tạo thành h́nh ảnh của sự vật. Cũng thế đó, Bản ngă thâu nhận những h́nh ảnh ở ngoại cảnh. Nhờ tia sáng của Bản ngă Duy nhất rọi vào cảnh vật, rồi cảnh vật ấy phản chiếu trên nhăn cầu của Bản ngă làm phát hiện trên mặt nhăn cầu h́nh bóng cảnh vật vô ngă. Trong giai đoạn hoạt động đầu tiên của tâm thức Bản ngă không hiểu biết được cảnh vật thực sự, mà chỉ nhận biết h́nh bóng cảnh vật của vô ngă phản chiếu trên lớp nhạy cảm của nhăn cầu, nghĩa là con người (Bản ngă) nhờ cặp mắt mới nhận biết h́nh bóng cảnh vật ở ngoại giới.

Bởi vậy, cái Trí là quan năng của Bản ngă, có thể ví như tấm gương soi, đặt trước cảnh vật nào th́ thấy trong gương in h́nh bóng cảnh vật đó. Đúng ra, chúng ta không khi nào biết được thực thể của chính cảnh vật, mà chỉ biết h́nh dung của cảnh vật phát hiện từ trong tâm thức của chúng ta, v́ cái trí của chúng ta chỉ nhận thức được những phản ảnh của cảnh vật chớ không phải cảnh vật thật sự. Cũng như vậy, cái Trí chỉ hiểu biết được ảo ảnh của ngoại cảnh chớ không thể hiểu biết được thực thể của cảnh vật. Sở dĩ h́nh ảnh phát hiện ra được là do trợ duyên làm cho Bản ngă nhận thức cảnh vật, sự nhận thức này chỉ phỏng tạo theo cảnh vật.

Tuy nhiên, trong đoạn trước, chúng tôi có dùng từ “phản chiếu” và tấm gương soi để so sánh, thật ra không được chỉnh, v́ cảnh tượng ở trong trí là phỏng tạo theo cảnh vật, chớ không phản chiếu. Thể chất của cái Trí chế biến một cảnh vật tương tợ cảnh vật mà cái trí đă thâu nhận được, kế đó Bản ngă phóng tác và sửa đổi lần lần cảnh vật đó cho giống cảnh vật thật ở bên ngoài, rồi gọi là Ta hiểu biết cảnh vật. Thật ra trong trường hợp này, những ǵ mà Bản ngă nhận thức được chỉ là ảnh tượng do trợ duyên tạo ra chớ không phải cảnh vật thật sự. Vả lại, ảnh tượng đó không phải là một phóng tác y hệt cảnh thật, v́ lư do riêng, chúng tôi sẽ đề cập vấn đề này nơi chương khác.

Có người hỏi: Nếu vậy th́ chúng ta không thể nào biết được cảnh vật thật sự hay sao ? Cái thấy sai lầm này c̣n kéo dài măi không ?

Điều đó làm cho chúng ta nhận thấy có sự biến chuyển khác biệt giữa tâm thức và vật chất. Sở dĩ tâm thức hoạt động được là do vật chất. Có như thế mới t́m được lời giải đáp cho câu chất vấn tự nhiên trên đây theo trí tuệ của mọi người. Khi Bản ngă tiến hóa cao th́ tự nhiên quyền năng phát triển, do đó Bản ngă có thể tạo lại trong trí tất cả những ǵ ở ngoại giới. Cái lớp vỏ vật chất bao bọc cái trí mà trước kia Bản ngă dùng hoạt động th́ bây giờ tan ră. Lúc này tâm thức nhận thấy rằng Bản ngă của nó và các Bản ngă khác đang cùng nhau tiến hóa vốn là đồng nhất, v́ vậy Bản ngă chỉ xem Vô ngă như vật chất do nhiều Bản ngă riêng biệt kết hợp lại mà thôi. Đó là “Đại Nhật, Hăy ở với chúng tôi”[2]. Đó là sự hiệp nhất, là sự vinh quang của cuộc tiến hóa, lúc ấy tâm thức tự biết ḿnh và biết những tâm thức khác cũng như ḿnh vậy. Ḥa đồng với vạn vật là hiểu biết thông suốt, Bản ngă nhập vào trạng thái vi diệu là đồng nhất, bất hoại, kư ức không mất, sự chia rẽ cáo chung và người-hiểu-biết, vật-được-hiểu-biết, sự-hiểu-biết chỉ là Một.

Hiện thời, trí thức là đặc tính kỳ diệu của Bản ngă đang tiến triển do sự hiểu biết, vậy chúng ta cần phải nghiên cứu để nhận thức bản tính của tư tưởng đặng thấy rơ vọng tưởng, ngơ hầu có thể dùng vọng tưởng để đả phá vọng tưởng, V́ thế, chúng ta phải học hỏi, t́m hiểu tại sao sự liên lạc giữa Người-hiểu-biết và Cái-được-biết lại sanh ra Sự-hiểu-biết. Điều này sẽ làm cho chúng ta nhận thấy rơ ràng hơn về bản chất của tư tưởng.

SỰ LIÊN QUAN GIỮA NGƯỜI-HIỂU-BIẾT,

VẬT-ĐƯỢC-BIẾT VÀ SỰ-HIỂU-BIẾT.

Rung động là một từ đă được các Triết gia Đông phương khởi xướng từ ngàn xưa, măi tới ngày nay từ này mới trở thành điểm then chốt cho khoa học Tây phương. Sự vận động là căn nguyên của tất cả vạn vật, Sự sống vận động, Tâm thức vận động. Khi sự vận động ảnh hưởng đến vật chất th́ gọi là sự dao động, nói cho dễ hiểu hơn là rung động. Đơn nhất, Toàn thể, là bất di bất dịch… Cái Đơn nhất dầu động hay tịnh, cũng là Đơn nhất tuyệt đối, không có sự luân chuyển trong Đơn nhất tương đối. Chỉ khi nào có sự sai biệt, hoặc sự chênh lệch từng phần th́ chúng mới có thể nghĩ đến cái mà chúng ta gọi là động. Động chỉ là một sự thay đổi vị trí trong một khoảng thời gian liên tục. Khi Đơn nhất hóa thành muôn vàn th́ phát sanh vận động, nếu sự vận động điều ḥa th́ chúng sanh mạnh khỏe, có ư thức và sinh sống, trái lại, nếu sự vận động không điều ḥa th́ sanh bệnh tật, vô ư thức và diệt vong. Sinh tử, tử sinh là chị em sinh đôi, giống như sự vận động biểu hiện.

Khi Nhất bổn biến thành Vạn thù th́ sự vận động đương nhiên xuất hiện, cái Hiện diện khắp nơi tức Vô sở bất tại (chỗ nào cũng có) xuất hiện trong nhiều phần tử riêng biệt, sự vận động không ngừng tiêu biểu cho cái Hiện diện khắp nơi. Nói một cách khác, cái Hiện diện khắp nơi biểu hiện ra phản ảnh hay h́nh ảnh trong vật chất. Bản chất của vật chất là phân ly, cũng như bản chất của Tinh thần là Duy nhất. Khi Một sinh Hai – như trong sữa có ván sữa – th́ phản ảnh của cái Hiện diện khắp nơi là Một trong muôn vàn vật chất đang sinh hóa không ngừng trong sự vận hành vô cùng vô tận.

Sự chuyển động tuyệt đối – mỗi đơn vị đều vận hành trong một điểm hư không nơi mỗi sát na [3] cũng đồng nhất với yên tĩnh, nhưng chỉ đồng nhất theo quan điểm đối với vật chất, chớ không đồng nhất đối với tâm linh. Về phương diện tâm linh chỉ có Một, nhưng về phương diện vật chất th́ biến đổi thiên h́nh vạn trạng.

Cái chuyển động vô tận này xuất hiện dưới h́nh thức vận hành, nó rung động nhịp nhàng trong vật chất và biểu hiện trong mỗi “Một đơn vị tâm thức riêng biệt” gọi là Jiva[4]. Jiva này phân cách với Jiva khác như bị cô lập do một tấm vách tường vật chất ngăn cản. Khi luân hồi, mỗi Jiva đều mặc trang phục vật chất[5] khác nhau. Khi trang phục vật chất này rung động th́ nó truyền sự rung động đến vật chất ở xung quanh, rồi vật chất ấy tiếp chuyển sự rung động đó lan tràn ra ngoài và truyền tới trang phục bao bọc một Jiva khác và xung kích Jiva này như Jiva đầu tiên.

Trong loạt rung động này – khởi đầu từ một Jiva mang một xác thân rung động và truyền sự rung động lan tràn đến Jiva khác cũng có xác thân làm thành sự rung động tương tục để xác thân này có thể tiếp xúc với xác thân khác. Xác thân sau hiểu biết được xác thân trước để rút kinh nghiệm. Dầu sao cũng có một vài sự khác biệt, là khi Jiva thứ nh́ tiếp được sự rung động của Jiva thứ nhất th́ nó rung động, nhưng không phải chỉ lập lại động tác rung động đó mà nó phối hợp sự rung động đầu tiên của nó với sự rung động bị ràng buộc ở ngoại cảnh, v́ thế nó không tạo được một h́nh ảnh giống như thật được, mà chỉ phóng tác một h́nh ảnh tương tự, càng lâu càng rơ thêm, bởi v́ một khi xác thân c̣n tồn tại th́ con người không thể nhận thức được sự ǵ chính xác và chân thật cả.

Những sự rung động liên tục này thường xảy ra luôn nơi trần thế. Như một ngọn lửa là trung tâm tạo tác của sức nóng trong dĩ thái[6] gọi là nhiệt khí, sự rung động nhiệt khí gọi là làn sóng nóng hay là nhiệt ba. Nhiệt ba truyền qua lớp dĩ thái chung quanh, tỷ như gần đó có một thoi sắt th́ làn sóng này rung động truyền sang qua những phân tử li ti của thoi sắt làm cho thoi sắt rung động cùng nhịp rồi th́ thoi sắt trở nên nóng và trở nên nơi phát nguồn nhiệt lực. Cũng như vậy, các loại rung động di chuyển từ Jiva này đến Jiva khác và tất cả sinh vật liên kết với nhau đều do mạng lưới ư thức này.

Bởi đó cho nên, trong cơi hữu h́nh có nhiều loại rung động như: tia sáng, sức nóng, điện khí, âm thanh, v.v... tất cả đồng tính chất và cùng theo phương thức chuyển động trong dĩ thái, nhưng đặc tính và tốc độ của các làn sóng th́ khác nhau.

Nhận thức, Ư muốn và Hành động biểu dương sự “hiểu biết, ư chí và động tác” xuyên qua bản thể, cả thảy cùng đồng chung một tính, nghĩa là đều do sự rung động cấu tạo và tùy thuộc đặc tính rung động mà phát sinh những hiện tượng khác nhau.

Vài loại rung động khác biệt có đặc tính riêng trong vật chất như: “rung động tư tưởng”, “rung động dục vọng” và “rung động hành vi”, những từ này dùng diễn tả vài sự kiện của vạn vật. Có vài loại dĩ thái rung động cảm nhiễm nhăn quan, chúng ta gọi là “ánh sáng”, có thứ dĩ thái khác có sự rung động tinh vi hơn, chỉ có cái trí mới cảm nhận được gọi là “tư tưởng”. Hiện thời chúng ta đang bị một vật chất có nhiều mật độ riêng biệt, bao bọc xung quanh, phát ra sự rung động dễ cảm nhiễm chúng ta và những nhăn quan khác nhau thuộc về những thể xác thô trược hay những thể xác tinh khiết của chúng ta đáp ứng lại. Sự rung động cảm nhiễm đến mắt gọi là “ánh sáng”, sự rung động cảm nhiễm đến cái trí gọi là “tư tưởng”. Khi làn sóng “dĩ thái ánh sáng” rung động phát sanh từ một cảnh vật đến mắt chúng ta gọi là “nh́n thấy”, c̣n khi làn sóng “dĩ thái tư tưởng” rung động phát sanh giữa cảnh vật và trí năo của chúng ta th́ gọi là “ư nghĩ”. Trong hai điều này không có điều nào huyền bí nhiều hay ít hơn điều kia.

Bàn về cái trí, chúng ta nhận thấy rằng sự giao tiếp của làn sóng tư tưởng làm thay đổi cơ cấu của những nguyên tố, c̣n khi nghĩ đến vật cụ thể th́ chúng ta lại có cảm giác như trước kia đă kinh nghiệm những ấn tượng đó ở ngoại cảnh. Bản ngă có dịp tác động sự rung chuyển và tất cả những ǵ có thể đáp ứng được, đều tạo thành sự hiểu biết.

Tư tưởng là sự phóng tạo trong trí của Người-hiểu-biết và những ǵ Được-hiểu-biết. Nói theo nghĩa đen, đó là một bức tranh do các làn sóng rung động phối hợp lại tạo thành h́nh ảnh.

Khi một phần của Vô ngă rung động, th́ Bản ngă tiếp nhận sự rung động đó rồi rung động trở lại, th́ phần Vô ngă ấy trở thành vật Được-hiểu-biết. Giữa các vật chất có ít nhiều sự rung cảm th́ sự va chạm vật này với vật kia đều có thể sanh ra Sự-hiểu-biết. V́ thế mà sự liên quan giữa Người-hiểu-biết, Vật-được-hiểu-biết và Sự-hiểu-biết luôn luôn giữ vững và tồn tại măi măi


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 3 of 7: Đă gửi: 21 September 2004 lúc 9:29am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG

Chương 2

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG
Tác gỉa ANNIE BESANT
CHƯƠNG HAI


KẺ SÁNG TẠO ẢO TƯỞNG
“Có thản nhiên trước cảnh vật đă nh́n thấy th́ môn sinh mới khám phá được Chủ tể của Giác quan, là kẻ Sáng tạo Tư tưởng và làm phát hiện ảo tưởng.

Cái Trí là kẻ phá hoại lớn nhất của Thực Tại”.

Đó là đoạn văn mà Bà H.B.Blavatsky trích dịch trong quyển Kim Huấn Thư, một áng văn kiệt tác và cũng là món quà quí giá của tác giả đă lưu truyền cho hậu thế.

Thật ra không c̣n từ nào khác dùng để diễn tả ư nghĩa cái Trí cho rốt ráo bằng câu: “Cái Trí là kẻ sinh ra ảo tưởng”.

Cái Trí không phải là Bản ngă hiểu biết, v́ vậy chúng ta cần phải luôn luôn thận trọng để phân biệt cho rơ rệt. Có nhiều sự lầm lẫn chẳng những gây sự khó khăn mà c̣n làm cho học giả rối trí thêm là tại có lắm người không chịu để ư đến sự khác biệt giữa Bản ngả hiểu biết và cái Trí là quan năng dùng để tiếp nhận sự hiểu biết. Nhận lầm cái Trí là Bản ngă hiểu biết th́ chẳng khác nào ta lầm tưởng cái đục của ông thợ chạm là ông thợ chạm.

Mỗi Bản ngă đều có hai cái Trí căn bản, nói đúng hơn, là hai thể Trí: Một thể Trí cấu tạo bằng lớp vật chất tinh vi gọi là Thượng Trí [7] và manas , Trí trừu tượng; và một thể Trí khác nữa làm bằng vật chất rất thô sơ gọi là Hạ Trí [8] và manas , Trí cụ thể. Cái Trí tự nó phản chiếu trong vật chất nguyên tử của trạng thái Bản ngă tiêu biểu cho sự Hiểu biết. Cái Trí này thường hay hạn chế Jiva[9], v́ vậy khi lư trí tâm thức gia tăng chừng nào th́ càng làm trở ngại Jiva nhiều thêm chừng nấy theo đủ mọi cách. Giả như một người nào làm công việc ǵ mà bị bắt buộc phải mang bao tay dày cộm th́ cảm thấy đôi tay bị bó rọ, gây trở ngại mọi hoạt động. Trong khi sờ mó vật ǵ, đôi bàn tay của y mất hết xúc giác, chẳng c̣n khéo tay và lanh lẹ như trước, y không thể nhặt món ǵ nhỏ bé, chỉ cầm được những vật to lớn một cách vụng về. Cũng như vậy, khi Bản ngă mang thêm Hạ trí, các quan năng của Bản ngă đều bị kếm chế, không tự do phát huy khả năng được.

Trong đoạn tới, chúng tôi sẽ giải thích thêm về “Cái Trí cụ thể” tức là hạ trí hợp với manas.

“Trí” là kết quả do ư niệm của kiếp trước và hằng bị ư niệm trong kiếp này thay đổi luôn. Có một điều chắc chắn không thay đổi là, bất cứ khả năng nào, dù mạnh dù yếu, thảy đều do nghiệp quả của những hành vi trong tiền kiếp.

Cái trí của chúng ta đă tạo nên kết quả th́ không thể sửa đổi được liền trong nhất thời, mà phải sửa đổi lần lần, chúng ta không thể dùng ư chí cương quyết mà vượt qua được, cũng không thể ném nó qua một bên, mà cũng không thể cấp tốc loại trừ những bất hảo của kết quả. Trí nào th́ quả nấy. Trí là thành phần của Vô ngă tạo ra để chúng ta trọn quyền sử dụng, và cũng nhờ Vô ngă, chúng ta mới hiểu biết, phân biệt được.

Do kết quả của kiếp trước nên ngày nay chúng ta mới có những ư niệm trong trí. Mỗi cái trí đều có cách thức rung động riêng và rung động không ngừng, tạo thành bức tranh sống động thay đổi liên tục. Mỗi ấn tượng hoạt động từ ngoại cảnh do nhăn cầu thu nhận và khối rung động đang có sẵn, sửa đổi khối rung động mới đến, đồng thời cũng bị khối rung động mới đến biến đổi nữa. V́ vậy, thành quả không do nơi sự phỏng tạo chính xác của khối rung động mới, mà do sự phối hợp giữa các rung động mới và các rung động đă có sẵn.

Thêm một thí dụ về ánh sáng: nếu chúng ta đặt một tấm kính màu đỏ trước mắt, rồi nh́n vào một cảnh vật có màu xanh lục, th́ cảnh vật đó trở thành đen. Những rung động làm cho chúng ta cảm thấy sắc đỏ bị sự rung động của màu xanh lục ngăn lại, v́ thế chúng ta thấy lầm cảnh vật màu xanh lục là màu đen. Cũng như vậy, nếu chúng ta nh́n vào cảnh vật có màu xanh da trời với kính màu vàng, th́ cảnh vật đó cũng trở nên đen. Thành thử khi có hai màu sắc khác nữa, gọi là màu trung gian, ấn tượng này làm chúng ta có cảm giác như cảnh vật đổi màu, khác hẳn màu mà chúng ta đă thấy bằng mắt thường. Nhưng dầu chúng ta có thấy được bằng mắt thường, th́ cũng chỉ thấy hơi khác hơn, v́ khi mắt thu cảnh vật, tự nó sửa đổi sự rung động ấy với tốc độ mau lẹ quá sức tưởng tượng. Cái trí bị ảnh hưởng do sự trung gian giữa kính màu và cảnh vật, và đă làm cho cảnh vật ấy thay đổi màu sắc. Bản ngă không ư thức được ảnh hưởng của cái trí, cũng như một người chưa hề có cơ hội thấy, cũng không ư thức được cảnh vật thay đổi màu sắc, ngoại trừ sự nh́n thấy xuyên qua kính có màu xanh hay đỏ.

Khi chúng ta nói: “Cái Trí là kẻ sinh ra ảo tưởng”, theo ư nghĩa thông thường là cái trí có thể cho chúng ta biết h́nh ảnh sai lệch do sự phối hợp của cái trí với ngoại cảnh. Thật ra câu trên đây c̣n có ư nghĩa khác cao siêu và sâu sắc hơn nhiều. Câu “Cái Trí là kẻ sinh ra ảo tưởng” có dụng ư chỉ cho chúng ta hiểu biết h́nh ảnh sai lệch đó là h́nh bóng ở ngoại cảnh chớ không phải là h́nh ảnh thật, nó chỉ là h́nh bóng của cái bóng do trí ta tạo ra. Bấy nhiêu đây cũng đủ cho chúng ta nhận thức về ảo ảnh do bản tính sáng tạo.

****

Nếu chúng ta hiểu biết thực trạng của thế giới, quan niệm của chúng ta sẽ thay đổi hẳn, v́ từ nhỏ đến khôn lớn, chúng ta chỉ quen tánh hiểu biết thế giới bằng sự rung động sửa đổi của thể trí trong phạm vi sắc tướng. Điều này không phải không thể nhận thức được, mặc dù những người nhận thức được toàn là những người đă làm chủ được tư tưởng và tiến hóa cao. Nếu tâm không vọng động th́ sự rung động của thể trí cũng ngưng hoạt động, cảnh vật bị tiếp xúc tạo ra một h́nh ảnh giống như cảnh thật, sự rung động về phẩm và lượng đều tương đương, không rung động với rung động của kẻ bàng quan. Hoặc giả tâm thức tự phóng ra ngoài và làm sống động cảnh vật khách quan để nó có thể trực tiếp cảm nhận những sự rung động. Có hai trường hợp để chúng ta nhận thức được thật sự của h́nh tướng.

1- Ư niệm trong cảnh giới thực tại mà sắc tướng tiêu biểu trạng thái hữu h́nh có thể hiểu biết được bằng tâm thức hoạt động trong Thượng trí mà không bị cái Trí cụ thể hay những thể thấp khác làm trở ngại.

2- Sự thật cho chúng ta biết rằng các sự vật đều do ấn tượng của chúng ta, chớ tự ta không thể biết được thực thể của sự vật – ngoại trừ trường hợp trên - đó là điều quan trọng khi chúng ta áp dụng chơn lư này vào đời sống thực tế.

Chơn lư dạy chúng ta phải khiêm tốn, thận trọng và lắng tai nghe những ư tưởng mới. Chúng ta cần phải diệt trừ tánh hay quả quyết rằng tất cả những ǵ chúng ta thấy đều đúng cả. Chúng ta hăy tập xét đoán chúng ta trước, rồi sẽ xét kẻ khác.

Sau đây là một thí dụ để làm sáng tỏ vấn đề:

Tôi gặp một người có cách thức rung động có thể bổ túc cho sự rung động của tôi. Khi gặp nhau, chúng tôi không thích v́ không hạp nhau. Giữa chúng tôi, không thấy có điều chi khác biệt, nhưng cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên không hiểu tại sao ông A nào đó khen người mà chúng tôi chê dốt là thông minh, bởi v́ chúng tôi chê bai lẫn nhau, người này nói người kia đần độn, người kia nói người này ngu ngốc. Song le, nếu tôi tự hiểu biết ḿnh một chút, ắt không c̣n thắc mắc nữa. Thay v́ tưởng nghĩ người ấy đần độn, tôi tự hỏi: Phải chăng tôi có điều chi sơ sót nên không thể đáp ứng sự rung động của người ấy ? Cả hai chúng tôi đều rung động, song nếu tôi không nhận thức được quan niệm và sự hoạt động của người ấy, là v́ tại tôi không đáp ứng lại sự rung động của y. Tại sao tôi xét đoán người ấy ? Là bởi v́ tôi không hiểu người ấy trước khi tôi tự sửa đổi cho đầy đủ để có khả năng tiếp nhận y.

Chúng ta không thể sửa đổi kẻ khác, nhưng ít ra chúng ta có thể tự sửa đổi ta, là cố gắng không ngừng để làm phát triển khả năng cảm ứng của chúng ta. Chúng ta phải trở thành ánh sáng trong suốt, hiển lộ trong các màu sắc, chẳng những không làm cho màu sắc hoen ố, mà làm cho màu sắc nổi bật và tươi thắm thêm. Chúng ta có thể đo khoảng cách giữa chúng ta và ánh sáng trắng trong suốt bằng cách dùng năng lực của chúng ta để đáp ứng lại các đặc tính khác nhau.

HẠ TRÍ VÀ MANAS (MẠT NA THỨC)

Bây giờ chúng ta có thể xem xét cách cấu tạo thể trí hay Trí cụ thể là quan năng của tâm thức theo trạng thái Người hiểu biết hầu t́m hiểu sự cấu tạo này ra sao, và bằng cách nào chúng ta đă đào tạo cái trí trong dĩ văng và t́m biện pháp sửa đổi nó trong hiện tại.

Xét về phương diện sự sống th́ tinh thần là manas. Manas là trạng thái nhận thức của Bản ngă phản chiếu trong vật chất nguyên tử của cơi thứ ba gọi là Cơi Trí[10].

Xét về phương diện sắc tướng (h́nh dạng) th́ manas có hai trạng thái riêng, mỗi trạng thái hoạt động theo điều kiện khác nhau do nơi tâm thức sử dụng manas ở Cơi Trí. Hai trạng thái này do hợp chất của vật chất ở cơi trí bị thu hút vào chung quanh trung tâm rung động thuộc nguyên tử của cơi trí. Vật chất này tùy theo bản tính và cách dùng của tâm thức gọi là “chất liệu trí tuệ” hay “chất liệu tư tưởng”. Vật chất ấy tạo thành một vùng rộng lớn trong vũ trụ, thâm nhập vào chất thanh khí ở cơi Trung giới và chất Hồng trần ở thế gian. Các vật chất ấy tràn ngập trong bảy cảnh giống như trạng thái vật chất ở hồng trần. Những chất này rất nhạy cảm đối với sự rung động của trạng thái Bản ngă là sự hiểu biết, và trạng thái này ấn định cho nó đặc tính riêng.

Trạng thái thứ nhất – cao hơn hết của cái trí – là Thượng trí (Nhân thể). Thượng trí gồm có vật chất từ cảnh thứ năm và thứ sáu của cơi Trí, tương ứng những chất dĩ thái tinh vi hơn hết ở cơi Trần. Trong giai đoạn tiến hóa hiện tại thể Thượng trí này ở đa số có đôi chút phát triển, v́ Thượng trí không dùng để suy luận những sự việc ở cơi Trần. Vậy ngay bây giờ, chúng ta nên tạm gác vấn đề Thượng trí qua một bên. Tóm lại, Thượng trí là quan năng của Trí trừu tượng.

Trạng thái thứ nh́, là thể trí, cũng gọi là Hạ trí. Nó gồm chất tư tưởng của bốn cảnh thấp hơn hết ở cơi trí, tương ứng với chất dĩ thái thấp nhất ở cơi Trần trong trạng thái chất hơi, chất lỏng và chất đặc. Nó có thể gọi là thể trí dày đặc. Thể này chia làm bảy loại căn bản lớn, mỗi loại gồm nhiều h́nh thức và tùy tŕnh độ phát triển khác nhau, nhưng tất cả đều tiến hóa theo định luật chung. Hiểu biết và áp dụng được những định luật này, tức là ta đem sự tiến hóa chậm chạp của thiên nhiên để đổi lấy sự tiến hóa mau lẹ do khiếu thông của người tự quyết định. Đó là điểm quan trọng của sự khảo cứu về thể trí.

RÈN LUYỆN VÀ NÂNG CAO THỂ TRI

Điều chúng ta cần phải hiểu là do phương pháp nào mà tâm thức rèn luyện được thể trí, v́ trong đời sống hằng ngày hằng giờ, chúng ta đều có cơ hội áp dụng phương pháp ấy cho mục đích cao thượng. Dù trong khi thức hay ngủ, chúng ta vẫn luôn luôn đào luyện thể trí của chúng ta. Khi tâm thức rung động, th́ nó cảm nhiễm chất thượng thanh khí hay chất tư tưởng ở chung quanh, một ư nghĩ vừa thoáng qua, cũng đủ cho nó thu hút vài phân tử của chất tư tưởng, rồi phóng ra ngoài vài phân tử khác. Về phần thể xác do Bản ngă mượn dùng tạm ở cơi trần cũng do sự rung động, nhưng đừng quên rằng yếu tính của tâm thức luôn luôn nh́n nhận chính nó là Vô ngă. Đó là v́ tâm thức bao gồm hai chiều hướng tương phản nhau, cho nên khi th́ tâm thức chấp nhận “Tôi là thế này”, khi lại phủ nhận “Tôi không phải là thế này”. Do đó tâm thức vận chuyển trong vật chất tạo thành sự hút vào rồi đẩy ra mà chúng ta gọi là rung động. Khi vật chất chung quanh bị tâm thức rung động, vật chất ấy liền truyền sự rung động đó ra để cảm nhiễm tâm thức khác.

Thế th́ các vật chất, dù tinh khiết hay thô sơ, đều tùy thuộc tính chất rung động do tâm thức phát sinh. Các tư tưởng trong sạch và thanh cao gồm những rung động mau lẹ, chỉ cảm nhiễm các chất tinh vi của thể trí, c̣n những chất thô trược th́ không cảm nhiễm, v́ không rung động đồng nhịp với chất tinh vi được. Khi một ư tưởng cao đẹp rung động, các chất thô trược đều bị loại ra ngoài, đồng thời thay thế những chất tinh khiết vào để rèn luyện thể trí trong sạch. Trái lại, những tư tưởng xấu xa, đê hèn rất dễ thu hút các chất thô trược vào thể trí hạ tiện, đồng thời xua đuổi các chất tinh khiết ra ngoài.

Đặc tính rung động của tâm thức là luôn luôn sa thải chất cũ rồi đem chất mới thay vào để rèn luyện thể trí. V́ thế, mỗi hành động hay ư niệm vừa phát khởi đều gây nên hậu quả; như khi xưa chúng ta có những hành vi hay tư tưởng lành dữ thế nào th́ ngày nay những hành vi hay tư tưởng đó đáp ứng lại cho chúng ta y như thế.

Nếu thể trí của chúng ta cấu tạo bằng chất tinh khiết th́ ư tưởng xấu xa đê hèn không cảm ứng thể trí của chúng ta, nhược bằng, thể trí của chúng ta cấu tạo bằng chất thô trược, th́ chất đó dễ cảm nhiễm những ư tưởng thoảng qua thấp hèn, mà không thể cảm nhiễm những ư tưởng tốt lành được.

Khi chúng ta tiếp xúc với một vị đạo hạnh có tư tưởng thanh cao, những rung động tư tưởng của vị ấy có năng lực khêu gợi nhịp rung động trong thể trí của chúng ta gia tăng tốc độ để có thể cảm ứng sự rung động tư tưởng của vị đó. Sự rung động này có công năng bài tiết lần lần những chất ô trược trong thể trí để sự rung động tư tưởng của chúng ta tăng thêm đến mức độ cao. Những lợi ích mà chúng ta nhận lănh của các vị đạo đức phần lớn là do nơi ư tưởng của chúng ta đă có từ suy nghĩ đă qua. Sở dĩ ngày nay chúng ta có mối thông cảm với các vị ấy là do nghiệp quả quá khứ.

Chúng ta không thể tư tưởng dùm người này hay người kia, song ta chỉ có thể suy nghĩ những tư tưởng của chính ta mà thôi. Như vậy, ta tạo ra sự rung động tương ứng trong chất tư tưởng ở chung quanh chúng ta, sự rung động này có khả năng làm phát khởi những rung động đồng tính trong thể trí để tiêm nhiễm tâm thức của chúng ta.

Tuy nhiên, không phải mỗi lần ở ngoại cảnh phát sinh rung động th́ chúng ta cảm biết và hiểu liền được. Sự kiện này thường giống như sức nóng mặt trời và nước mưa thấm vào đất cát có ảnh hưởng đến hạt giống vùi dưới lớp đất. Đầu tiên, không thể biết được sự rung động cảm ứng đến hạt giống, nhưng chắc chắn đă có sự sống rung động yếu ớt ở bên trong hạt giống. Sự rung chuyển này ngày càng trở nên mạnh cho đến khi mầm mống đủ sức phát triển làm hạt giống nứt mộng, đâm chồi và mọc rễ. Về phương diện tâm linh cũng như vậy, từ bên trong tâm thức, trước khi cảm ứng, đă có sự rung chuyển yếu ớt do sự tiếp xúc với ngoại cảnh. Trong khi chúng ta chưa có thể hiểu nổi một vị có tư tưởng cao siêu th́ tiềm thức của chúng ta đă cảm ứng được phần nào rồi. V́ thế, khi chúng ta xa ĺa ảnh hưởng của Đấng Cao Cả, là chúng ta đă nhận được một ít sự phong phú của đời sống tâm linh nhiều hơn khi trước, để các chủng tử tư tưởng của chúng ta nảy nở mau lẹ và cũng để cho tinh thần chúng ta được tiến hóa dễ dàng hơn.

Bởi vậy, trong việc rèn luyện trí năo, không những do hoàn cảnh bên ngoài mà c̣n phải tùy thuộc sự hoạt động từ trong tâm thức nữa. Nếu muốn thể trí được mạnh mẽ, minh mẫn, tích cực để có thể lănh hội những tư tưởng cao siêu, chúng ta phải nỗ lực học tập, suy tư cho đúng đắn, v́ chính ta mới là kẻ rèn luyện và uốn nắn trí năo của ta mà thôi.

Nhiều người nghĩ rằng hễ đọc nhiều sách là có thể rèn luyện được trí năo, sự thật không phải như vậy. Chỉ có tư tưởng mới rèn luyện được trí năo mà thôi. Chúng ta phải xem sự đọc sách như một công việc sưu tầm tài liệu để cung cấp cho tư tưởng, như thế sự đọc sách mới hữu ích. Người ta có thể đọc nhiều sách, song trí năo phát triển chỉ tương đương với tất cả sự suy nghĩ mà họ đă dùng trong việc đọc. Nếu độc giả không thu nhặt được một vài ư tưởng hay để trao dồi trí năo ḿnh th́ giá trị về sự hiểu biết của kẻ ấy rất nông cạn và mau phai lạt.

Lord Bacon nói: Đọc th́ no trí. Điều này rất đúng về phương diện tinh thần, cũng như về mặt vật chất người ta nói: Ăn th́ no bụng. Nếu thức ăn không hạp, khó tiêu hóa, th́ ích lợi ǵ cho xác thân. Về tinh thần cũng vậy, nếu dồn ép sự đọc sách cho đầy trí óc mà không chịu để tâm suy nghĩ, không đồng hóa được với những ǵ đă đọc th́ ích lợi ǵ cho trí năo. Ư tưởng chồng chất đầy đầu óc, nhưng không tiêu thụ nổi, th́ chẳng những trí năo không mở mang, mà c̣n suy giảm là khác nữa. Như kẻ ăn nhiều mà không tiêu th́ mang thêm bệnh v́ bội thực.

Muốn tinh thần sáng suốt, trí năo mở mang, chúng ta phải đọc ít mà suy nghĩ nhiều. Nếu thật ḷng chúng ta muốn rèn luyện tinh thần, chúng ta phải dành riêng mỗi ngày một giờ để nghiên cứu một quyển sách nào đứng đắn và cao hơn tŕnh độ ta hiểu biết một chút. Chúng ta đọc chừng năm phút, nhưng phải suy nghĩ mười phút, và nên tiếp tục như vậy trong một tiếng đồng hồ. Theo thế thường nhiều người hay đọc lia lịa trong một giờ rồi dẹp sách qua một chỗ, đợi tới ngày sau lấy sách ra đọc tiếp. Như vậy, phần nhiều quan năng tư tưởng của người ấy tiến rất chậm.

Một điểm đặc biệt nhất là có nhiều người nhận thấy trí năo các hội viên của phong trào Thông Thiên Học mỗi năm đều mở mang thêm. Điều này chứng tỏ một phần lớn các hội viên đó đă được giảng giải minh bạch về bản chất của tư tưởng. Nhờ vậy hội viên bắt đầu hiểu lần lần, rồi áp dụng một vài phương pháp đă lănh hội để rèn luyện thể trí thay v́ để cho thể trí phát triển chậm chạp theo quá tŕnh của định luật tự nhiên. Muốn mau tiến, độc giả phải cố gắng dành riêng ít nhất năm phút để đọc và mười phút suy nghĩ để t́m hiểu những điều ḿnh đă đọc và đừng bỏ qua một ngày nào không đọc sách.

Lúc ban đầu độc giả cảm thấy sự cố gắng rất buồn chán và mệt nhọc, lại nữa sẽ khám phá ra năng lực suy nghĩ của ḿnh cũng yếu ớt.

Đó là bước đầu và cũng thường thấy rất ít người có thể cầm trí suy tưởng lâu mà không gián đoạn được. Kẻ nào không thể suy nghĩ mà tưởng ḿnh có thể suy nghĩ th́ kẻ ấy tiến rất chậm. Thà ḿnh yếu mà tự biết ḿnh yếu, c̣n hơn là ḿnh yếu mà cứ tưởng ḿnh mạnh.

Sau khi cố gắng đeo đuổi khá lâu về một ư tưởng khó khăn, sau cùng không thể chú ư được nữa, độc giả cảm thấy nóng bức, rối loạn, đầu óc mệt nhọc. Công việc này giống như khi ta rán sức tập luyện các bắp thịt trong một lúc lâu, th́ ta cảm thấy thân thể bải hoải và mệt mỏi vậy.

Nhờ công phu luyện tập bền bỉ và đều đặn – nhưng đừng khi nào quá độ – th́ sức mạnh tư tưởng phát triển y như sức lực của các bắp thịt. Một khi sức mạnh tư tưởng phát triển, ta càng dễ kiểm soát tư tưởng và sử dụng nó trong những mục đích chơn chánh.

Người không biết tư tưởng, thể trí như mất định hướng và vô tổ chức. Nếu không biết tập trung tư tưởng – nghĩa là không biết chủ định sức mạnh tư tưởng vào một điểm đă chọn – th́ ta không thể thi thố được chút nào về quyền năng tư tưởng cả.
_________________


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 4 of 7: Đă gửi: 21 September 2004 lúc 9:31am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG

Chương 3




Tác gỉa ANNIE BESANT
CHƯƠNG BA

CHUYỂN DI TƯ TƯỞNG

Ngày nay, hầu hết ai cũng muốn thực hành phép chuyển di tư tưởng và ước mơ được diễm phúc tiếp xúc với những bạn thiết của ḿnh hiện đang xa vắng mà khỏi cần liên lạc bằng điện thoại, hoặc điện tín hay thơ từ.

Nhiều người tưởng rằng chỉ gắng công chút đỉnh là có thể biết được phương pháp chuyển di tư tưởng, nhưng họ sẽ ngạc nhiên và thất bại hoàn toàn. Điều hiển nhiên là muốn chuyển di tư tưởng, trước hết phải biết tư tưởng. Tư tưởng đó phải hội đủ năng lực cần thiết để có thể phóng ra ngoài không gian một làn sóng thật mạnh. Những tư tưởng bạc nhược lau chau, đều là những rung động lu lờ và chập chờn trong bầu không khí tư tưởng, những rung động đó hiện rồi tan, tan rồi hiện trong mỗi giây phút, sắc thái lờ mờ, yếu ớt, không thành h́nh dạng rơ ràng. Thật ra, h́nh thức tư tưởng phải rơ rệt và sống động mới có thể phóng tới một phương hướng nhất định, và cần phải có đủ năng lực để giữ vững sắc thái, th́ nó mới có thể tái lập được h́nh thức tư tưởng khi di chuyển đến nơi đến chốn.

Có hai phương pháp chuyển di tư tưởng: một là phương pháp vật thể, hai là phương pháp tâm linh. Phương pháp vật thể do trí và năo, c̣n phương pháp tâm linh chỉ do tâm trí mà thôi.

Đầu tiên, tâm thức sinh ra tư tưởng, tạo thành sự rung động trong thể trí, rồi lần đến thể vía, kết thành làn sóng dĩ thái và trong những “phân tử đông đặc” của bộ óc. Sự rung động của năo cảm nhiễm dĩ thái, đoạn dĩ thái truyền làn sóng lan rộng ra xa dần, sao cho tới khi gặp bộ năo khác để kết thành sự rung động trong dĩ thái cũng như trong những “phân tử đông đặc” của năo. Bộ năo sau này tiếp thu sự rung động rồi truyền qua thể vía, kế đến thể trí. Tới phiên thể trí rung động để đáp ứng lại, rồi rung động của thể trí cảm nhiễm tâm thức. Như vậy, mỗi tư tưởng đều phải trải qua nhiều giai đoạn như trên theo h́nh bán nguyệt. Những giai đoạn theo chiều dài h́nh ṿng cầu này không cần thiết, v́ tâm thức có thể tạo thành sự rung động trong thể trí rồi trực tiếp hướng dẫn sự rung động đó đến thể trí của tâm thức tiếp thu làn rung động này, như vậy tránh được đường ṿng cầu mô tả.

Giờ đây, chúng ta thử xét qua phương pháp chuyển di tư tưởng thứ nhất.

Nơi phía trước và dưới năo bộ có một hạch nhỏ bằng trái tùng, gọi là tùng quả tuyến, các nhà sinh lư học Tây phương chưa biết được tác dụng của hạch này và nhà tâm lư học Tây phương cũng không màng quan tâm đến. Tùng quả tuyến là một bộ phận phát triển chậm hơn hết trong cơ thể con người, mặc dù rất chậm chạp, nhưng nó cứ tuần tự phát triển măi. Mặt khác, chúng ta có thể thúc giục bộ phận này phát triển mau lẹ hơn, bằng cách bắt nó thực hiện phận sự của nó mà trong tương lai nó sẽ hoạt động trong mọi người. Tùng quả tuyến là quan năng dùng để chuyển di tư tưởng, rất cần thiết như mắt để thấy và tai để nghe vậy.

Người nào chủ tâm suy nghĩ về một việc ǵ và cứ tập trung tư tưởng vào việc đó măi, th́ sẽ cảm giác như ở trong hạch quả tùng có cái ǵ rung chuyển và rọ rại như kiến ḅ. Cái rung chuyển đó vốn ở trong dĩ thái thấm nhuần hạch này, sinh ra một luồng từ diện rất yếu ớt và mảnh mai làm ta có cảm giác như có kiến ḅ trong tế bào của tùng quả tuyến.

Nếu người nào suy tưởng mạnh mẽ, đủ khả năng phát ra một luồng từ điện mạnh th́ có thể truyền tư tưởng ḿnh đi đến một nơi khác rất rơ ràng.Sự rung động trong dĩ thái của hạch quả tùng tạo thành làn sóng ở chất dĩ thái chung quanh như làn sóng ánh sáng nhưng rất nhỏ và tốc độ mau hơn. Làn sóng ấy lan tràn khắp nơi làm cho dĩ thái này rung động, rồi truyền qua dĩ thái khác, và như thế măi cho tới khi gặp được dĩ thái của tùng quả tuyến trong bộ năo khác. Từ đó, nó chuyển sang qua thể vía, rồi đến thể trí, và tiếp tục đều đều chuyển đến tâm thức. Nếu hạch quả tùng thứ hai không tạo lại được làn sóng rung động mà nó đă tiếp nhận, th́ tư tưởng sẽ phân tán, không sanh ra được một ấn tượng nào cả, cũng như ánh sáng không làm cho người mù trông thấy sáng.

Phương pháp chuyển di tư tưởng thứ hai là: người tư tưởng tự tạo ở cơi trí một h́nh tư tưởng, nhưng không truyền sang bộ năo, mà trực tiếp truyền cho một người tư tưởng khác ở cơi trí. Kẻ thực hành được điều này tất nhiên phải giàu nghị lực, tư tưởng mạnh mẽ và cao siêu hơn những kẻ dùng trí năo chuyển di tư tưởng. Bởi v́ người dùng phương pháp này phải tỉnh thức ở cơi trí mới hành động được.

Mỗi người trong chúng ta đều có dùng những quyền năng ấy một cách gián tiếp và vô ư thức, v́ theo bản tính tự nhiên, những tư tưởng của chúng ta phát sinh từ thể trí, đều rung động và truyền lan đến các chất thượng thanh khí chung quanh.

Không có lư do nào khác để thu hẹp ư nghĩa của từ chuyển di tư tưởng trong sự cố tâm và dụng ư về sự chuyển di tư tưởng riêng biệt của người này truyền sang cho người khác. Chúng ta thường bị ảnh hưởng với nhau luôn do những làn sóng tư tưởng tạo ra không ư định rơ rệt, và điều mà cái gọi là dư luận quần chúng, một phần lớn thành h́nh nhờ tư tưởng mà ra, thường quần chúng hay tưởng nghĩ một cách nào đó, chớ không phải suy xét chu đáo một vấn đề rồi đi đến một kết luận. Đó là v́ đa số dân chúng chỉ nghĩ một việc ǵ rồi lôi cuốn những người khác cùng theo họ.

Một tư tưởng mạnh mẽ của một nhà đại tư tưởng sở dĩ truyền bá được khắp cơi tư tưởng là do một số người hấp thụ tư tưởng này rồi truyền lại làn sóng tư tưởng đầu tiên, và khuếch đại làn sóng đó để kích động những kẻ chưa cảm ứng được làn sóng sơ khởi. Làn sóng ấy cứ tiếp tục tăng cường măi cho đến khi cảm nhiễm được quảng đại dân chúng. Một khi thành dư luận quần chúng, th́ nó có ảnh hưởng lớn lao đối với đại chúng, ảnh hưởng này đập mạnh vào trí óc dân chúng để khêu gợi dân chúng đáp ứng lại những làn sóng mà họ đă thu nhận được. Có vài tư tưởng theo đường lối quốc gia tạo thành những vận hà sâu rộng do sự lập đi lập lại không ngừng trong nhiều thế kỷ một thứ tư tưởng như nhau bởi những cuộc tranh đấu lịch sử và những tập quán của một dân tộc. Những tư tưởng ấy thay đổi sâu xa và tô điểm thêm sắc thái cho thể trí những ǵ thuộc về dân tộc, và mỗi tư tưởng đó, bất cứ từ đâu đến, đều bị phương thức rung động quốc gia biến đổi.

Những tư tưởng ngoại lai vào trí năo chúng ta, đều bị thể trí của chúng ta thay đổi và khi chúng ta tiếp nhận chúng là chúng đă tiếp nhận những tư tưởng rung động đó với những rung động b́nh thường của chúng ta. Như thế, chúng ta thâu nhận một loại rung động do sự kết hợp của hai thứ rung động. V́ vậy, các quốc gia lân bang ghi nhận những tư tưởng ngoại lai, đều bị sự rung động dân tộc tính của quốc gia biến đổi.

Do đó, người Anh và người Pháp, hay người Ấn Độ và người Phi châu đều thấy rất nhiều sự việc như nhau, nhưng mỗi dân tộc đều thêm thắt những ǵ họ có từ lâu đời, mặc dầu thành thật, song họ vẫn tố cáo lẫn nhau, dân này nói dân kia ngụy tạo, c̣n dân kia nói dân nọ hành động phi pháp. Nếu chân lư bất khả kháng này được thành thật nh́n nhận, th́ nhiều cuộc tranh chấp quốc tế sẽ được san bằng dễ dàng, những chiến tranh có thể tránh khỏi và những kẻ gây chiến rất dễ dàn xếp ổn thỏa để tránh nạn khói lửa. Ngoài ra, mỗi quốc gia sẽ nh́n nhận cái mà đôi khi họ gọi là b́nh đẳng cá nhân thay v́ khiển trách và đổ lỗi cho nước láng diềng của ḿnh chỉ v́ lư do bất đồng ư kiến, mỗi quốc gia cố gắng t́m hiểu ư nghĩa quan điểm dị đồng giữa đôi bên và đừng quốc gia nào ngoan cố giữ măi thành kiến của ḿnh.

Một câu hỏi thiết thực được nêu ra: đang khi chúng ta sống trong bầu không khí hỗn loạn, tràn ngập những làn sóng tư tưởng xấu xa lẫn tốt đẹp, không ngớt va chạm vào trí óc chúng ta, làm thế nào biết được có bao nhiêu điều lành ta đă hưởng và bao nhiêu điều dữ ta đă tránh ? Phải đề pḥng cách nào để tránh những tư tưởng xấu và làm sao thu nhận những tư tưởng tốt ? Đó là một vấn đề tối quan trọng mà chúng ta cần t́m hiểu để chọn lựa cho đúng.

Thật ra, mỗi người là một cá nhân nên thể trí của chúng ta chịu ảnh hưởng của chúng ta nhiều nhất, c̣n ảnh hưởng của kẻ khác chỉ thỉnh thoảng cảm nhiễm chút đỉnh thôi. Nghe diễn thuyết hay đọc sách th́ thuyết tŕnh viên hay tác giả cũng ảnh hưởng đến cái trí, nhưng đó là sự ngẫu nhiên trong cuộc đời, chính chúng ta mới là yếu tố thường xuyên. Ảnh hưởng của riêng chúng ta đóng góp trong sự kiến tạo thể trí mạnh nhất và nhiều hơn hết, nó do chính chúng ta quyết định thể thức rung động b́nh thường cho cái trí của chúng ta mà thôi. Tư tưởng nào không hợp với thể thức rung động khi vừa chạm đến thể trí của chúng ta th́ liền bị loại ra ngoài. Nếu người nào tưởng đến sự ngay thật, th́ sự dối trá không nhiễm vào tâm trí của họ, người nào có tư tưởng bác ái, th́ sự oán thù không làm cho họ băn khoăn, kẻ nào nghĩ đến minh triết th́ sự ngu dốt không làm họ tê liệt được. Chỉ như thế mới đem lại thực sự an toàn và dũng mănh. Đừng để trí ta ở không như mảnh đất hoang, mặc cho những mầm giống tư tưởng nào cũng mọc lên được, v́ như vậy trí ta cảm nhiễm tật xấu nhiều hơn tánh tốt.

Đó là bài học thực tập. Nếu chúng ta hành đúng, th́ sẽ mau t́m thấy giá trị của tư tưởng. Chúng ta hăy nhớ rằng chỉ có tư tưởng chân chính mới làm cho đời sống thanh cao, và cũng nhờ minh triết mà chúng ta dứt được đau khổ.


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 5 of 7: Đă gửi: 21 September 2004 lúc 9:46am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG

Chương 4


Tác gỉa ANNIE BESANT
CHƯƠNG BỐN

NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG

Ngoại trừ giới tâm lư học, không mấy người chịu để tâm t́m hiểu vấn đề do nguồn gốc nào có tư tưởng, hay tư tưởng từ đâu đến ? Vừa xuống cơi trần chúng ta phải mang theo nhiều ư niệm đă có sẵn. Những ư niệm mà chúng ta phải mang theo khi vừa mở mắt chào đời gọi là “Tiên thiên quan niệm”[11]. Đó là những nghiệp quả cô đúc hay rút ngắn lại do những tư tưởng, hành vi, kinh nghiệm của chúng ta tạo ra từ kiếp trước và phải mang theo trong kiếp này. Hiện nay, chúng ta đang hưởng hay đang trả những nghiệp quả tiền khiên ấy.

Các tâm lư gia không thể quan sát trực tiếp mà hiểu được nguồn gốc tư tưởng. Tuy nhiên, các nhà chuyên môn ấy có thể hiểu được chút ít trong khi quan sát một em bé. Như lúc sơ sinh, xác thân hài nhi phải trải qua một thời kỳ phát triển vật chất mau lẹ trong khi c̣n là một bào thai, cũng như thể trí mới phải vượt qua mau chóng những giai đoạn tiến triển lâu dài của tiền kiếp. Thật ra, “thể trí” không khi nào giống “tư tưởng”, dù khi nghiên cứu chính thể trí mới, chúng ta cũng chưa t́m được “nguồn gốc tư tưởng”. Điều ấy có lẽ đúng hơn nếu chúng ta xét thấy rất ít người có thể nghiên cứu trực tiếp về thể trí song họ có thể gián tiếp quan sát hành vi tạo tác của xác thân bằng trí óc và thần kinh hệ. “Tư tưởng” khác biệt thể trí và xác thân, v́ tư tưởng thuộc về tâm thức và sự sống, c̣n thể trí và xác thân th́ thuộc về h́nh thể và vật chất, cả thảy đều là khí thể trung gian, những phương tiện để dùng tạm nơi cơi trần.

Nơi Chương Hai, chúng tôi có giải thích sự khác biệt giữa Bản ngă và cái Trí, vậy học giả nên nhớ kỹ sự khác biệt này: Bản ngă th́ hiểu biết c̣n cái Trí là cơ năng dùng tiếp nhận sự hiểu biết – và cũng đă định nghĩa: trí thức là thể trí và manas phối hợp lại.

Vả lại, chúng ta c̣n có thể nghiên cứu những ảnh hưởng của tư tưởng trên các thể mới, để suy luận cho tương hợp với khái niệm liên quan về nguồn gốc tư tưởng khi Bản ngă tiếp xúc lần đầu tiên với Vô ngă Vũ trụ. Sự quan sát này giúp chúng ta căn cứ theo lư đương nhiên “Thiên Địa tương đồng”. Vạn vật trên cơi trần đều là phản ảnh và khi nghiên cứu những phản ảnh, chúng ta có thể hiểu biết được các nguyên nhân tạo thành vạn vật.

Quan sát kỹ một đứa trẻ, ta thấy rằng cảm giác có trước trí khôn tức là những nỗi cảm kích vui và khổ, nhưng đầu tiên là khổ, nghĩa là những cảm giác mơ hồ có trước sự nhận biết xác thực. Trong lúc thai nhi c̣n nằm trong bụng mẹ, sự sống bào thai nhờ sinh lực người mẹ truyền sang, nhưng vừa lọt ḷng mẹ, hài nhi không thể nhờ sinh lực của người mẹ nữa. Sự sống của hài nhi ĺa sinh lực người mẹ chưa được thay thế liền. Tuy nhiên, khi thiếu sinh lực, tự nhiên nó thấy cần thiết và khi cảm thấy cần là thấy khổ. Khi nhu cầu của đứa trẻ được thỏa măn, th́ nó vui vẻ và trở lại trạng thái vô ư thức. Lần lần sự nghe thấy gợi cảm giác đứa trẻ, song vẫn chưa có dấu ǵ là hiểu biết. Trẻ thơ bắt đầu mở trí khôn hiểu biết là khi nó thấy và nghe được tiếng nói của người mẹ hoặc nhũ mẫu có liên quan đến sự ân cần cho nó bú đầy đủ khi nó khát sữa. Nhờ vậy, mới có sự liên lạc trong trí nhớ hoặc do trí nhớ của ít nhiều cảm giác phát khởi cùng chung một cảnh vật bên ngoài, ngoại cảnh này khác hẳn cảm giác, nhưng được xem như nguyên nhân phát khởi cảm giác. Tư tưởng là sự nhận thức mối liên quan giữa nhiều cảm giác và là cái một, cái duy nhất nối chúng với nhau. Đó là sự biểu lộ đầu tiên của trí khôn và cũng là tư tưởng trước nhất – từ chuyên môn gọi là “tri giác”. Trong đoạn trên, chúng tôi đă có nói: cốt yếu của tri giác là thiết lập mối liên kết giữa Jiva ( đơn nhất của tâm thức) với đối tượng. Bởi vậy, nơi nào có mối liên kết là có tư tưởng, tức là có sự hiểu biết.

Điều này dễ kiểm soát và có thể dùng làm thí dụ tổng quát để chứng minh nguồn gốc tư tưởng trong một Bản ngă riêng biệt, gọi là Biệt ngă. Đó là bộ ba Bản ngă bị một lớp vật chất rất tinh vi bao bọc trong một Bản ngă (cá thể), khác hẳn với Chơn ngă. Trong Biệt ngă này, cảm giác có trước tư tưởng. Sự chủ ư của Bản ngă được khêu gợi khi có một ấn tượng kích thích và nó đáp ứng bằng một cảm giác. Một đứa bé thấy thiếu sinh lực như khát sữa, có cảm giác phải khóc để đ̣i hỏi chớ không biết suy nghĩ, nhưng khi được no nê th́ nó nín khóc. Và cứ như thế măi cho tới khi đứa trẻ bắt đầu tập tễnh tiếp xúc với ngoại cảnh một cách lờ mờ, rồi lần lần do cảm xúc bên ngoài, đứa trẻ có xu hướng theo ngoại cảnh. Nhờ dinh dưỡng đầy đủ đứa trẻ khỏe mạnh và chóng lớn, nó bắt đầu suy nghĩ đến cảnh tượng làm cho nó có cảm giác – mặc dù rất yếu ớt. Sự sửa đổi không ngừng trong thể trí của đứa trẻ kích thích Bản ngă nó tiến lần đến tŕnh độ hiểu biết để có thể rung động đồng nhịp. Đứa trẻ cảm biết cần phải bồng ẵm và thích được vuốt ve mơn trớn. Khi thấy có người tới gần nó, mắt và miệng của nó cảm giác lẫn lộn một lượt. Nó có ba đặc tính cố hữu liên kết với nhau: nhu cầu, tiếp xúc và thỏa măn. Sự liên kết này tạo thành ư tưởng. Nếu Bản ngă không cảm ứng động tác nào cả th́ không có tư tưởng v́ chính Bản ngă nhận thức chớ không ai khác.

Tri giác này làm cho đứa trẻ biết ham muốn, có ư thức hơn, sự đ̣i hỏi trước kia do bản năng thúc đẩy không ư định, bây giờ trở thành sự ham muốn hướng về một việc ǵ có chủ định – như muốn uống sữa. Tuy nhiên, sự nhận thức ấy cần phải sửa đổi, v́ Bản ngă hiểu biết liên kết ba đặc tính nhưng đă đến lúc một trong ba đặc tính ấy là nhu cầu phải được tách riêng ra. Điều này rất có ư nghĩa là khi đứa bé thấy người nào cho nó bú th́ nó biết đ̣i. Đó là nó tiến đến giai đoạn đầu, v́ Bản ngă hiểu biết khêu gợi cho nó nhận được h́nh ảnh người đến gần nó. Dù đứa bé không khát sữa nhưng khi trông thấy mẹ nó, th́ nó khóc lên để đ̣i vú mẹ, về sau, trẻ lớn khôn th́ không c̣n khóc để đ̣i vú nữa, trái lại, nó thích gần gũi và tŕu mến mẹ nó nhiều hơn. Sự tŕu mến của trẻ con đối với người mẹ trở thành một kích động mới cho tư tưởng.




MỐI LIÊN QUAN GIỮA CẢM GIÁC VÀ TƯ TƯỞNG



Nhiều sách tâm lư học Đông và Tây phương xác nhận rằng tất cả tư tưởng đều căn cứ nơi cảm giác, một số lớn các cảm giác được súc tích nhưng không tạo được tư tưởng.

Bà H. P. Blavatsky viết: “Như chúng ta đă biết tư tưởng có thể phân tích bằng những trạng thái của tâm thức thay đổi tùy theo thời gian tính, cường độ, sự phức tạp, v.v... nhưng chung qui tất cả đều căn cứ trên cảm giác”[12]. Vài tâm lư gia đi xa hơn, cho rằng chẳng những cảm giác là nguyên liệu dùng kiến tạo tư tưởng mà c̣n tạo nên tư tưởng nữa, như vậy có nghĩa không chấp nhận có Người suy tưởng và cũng phủ nhận Bản ngă hiểu biết. Phái đối lập cực đoan th́ xem tư tưởng như kết quả do ư niệm của bản thân phát khởi từ nội tâm, chớ không do ngoại cảnh, c̣n cảm giác là nguyên liệu để Bản ngă sử dụng theo đặc tính tự nhiên, chớ Bản ngă không do hành động theo điều kiện nào cả.

Một đàng cho rằng tư tưởng do cảm giác phát sinh, đàng khác bảo rằng tư tưởng do Bản ngă sáng tạo. Theo kiến giải của hai đàng th́ đàng nào cũng chỉ chứa đựng một phần chân lư, c̣n đúng chân lư, lại ở giữa hai quan điểm đó. Cần phải khêu gợi Bản ngă để cảm giác nương theo đó mà hành động ở ngoại cảnh, và nếu tư tưởng đầu tiên phát khởi là do hậu quả của cảm giác thúc đẩy th́ cần phải có cảm giác từ trước, nhưng nếu Bản ngă không có khả năng cố hữu liên kết sự vật lại với nhau và nếu Bản ngă không có tính hiểu biết phân biệt, dù cảm giác luôn luôn trụ vào Bản ngă, th́ cũng không phát sinh một tư tưởng nào cả. Vậy khi nói tư tưởng phát nguồn từ cảm giác th́ chỉ đúng phân nửa chân lư. Thật ra phải tạo cho cảm giác một cơ cấu vững chắc và thiết lập mối liên quan giữa cảm giác với cảm giác, giữa cảm giác với Bản ngă, và liên kết chặt chẽ giữa cảm giác và Bản ngă với ngoại cảnh. Cũng như Người tưởng nghĩ là cha, cảm giác là mẹ, c̣n tư tưởng là con vậy.

Nếu tư tưởng phát nguồn từ cảm giác, mà sở dĩ những cảm giác ấy phát sinh là do sự tiếp xúc với ngoại cảnh và điều tối quan trọng là khi cảm giác phát khởi, các đặc tính và sự bành trướng của cảm giác phải được xem xét cho xác đáng. Phận sự đầu tiên của Người hiểu biết là quan sát, nếu không có ǵ để quan sát th́ nó luôn luôn bất động, nhưng khi đối tượng phát hiện, Bản ngă tiếp xúc đối tượng với tư cách Người hiểu biết th́ nó chủ ư xem xét phân biệt. Sở dĩ có sự quan sát đúng là do tư tưởng của Bản ngă hiểu biết tập trung một số lớn quan sát tương tự ấy lại. Nếu Bản ngă hiểu biết quan sát không đúng, và nếu có sự sai lầm giữa chủ thể hiểu biết và đối tượng để hiểu biết th́ sau này những hành động sai lầm ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu sự sai lầm khác nữa, vô phương sửa đổi, trừ phi bắt đầu làm lại tất cả.

Giờ đây, chúng ta hăy xem xét cái then chốt của cảm giác và tri giác trong một trường hợp đặc biệt. Giả sử bàn tay ta va chạm nhẹ vào vật ǵ, ta có cảm giác bị đụng chạm. Sự nhận biết sự vật bằng xúc giác đă tạo ra cảm giác một ư tưởng. Khi ta cảm thấy bị đụng nhẹ, là ta chỉ cảm giác suông mà thôi. Nhưng nếu khi ta thấy đối tượng mà sinh ra t́nh cảm, th́ tri giác là một tư tưởng. C̣n về phần Người hiểu biết, nơi đây tri giác có nghĩa là ta nh́n nhận hiện đang có một mối liên quan giữa ta với đối tượng, và đối tượng tạo cho ta một cảm giác. Tuy nhiên, không phải tất cả sự kiện này xảy ra đều như thế cả. Bởi lẽ, ngoài ra ta c̣n nhận thấy nhiều cảm giác về màu sắc, h́nh dáng, êm dịu, ấm áp, kết cấu. Những cảm giác đó, ta nhận thấy với tư cách Người hiểu biết, do sự trợ giúp của các kỷ niệm và ấn tượng mà ta đă ghi nhận từ trước – nghĩa là ta so sánh sự vật cũ với sự vật mới mà ta cảm xúc – th́ ta mới phân định được tính chất của đối tượng.

Việc hiểu biết sự vật này đem lại cho ta một t́nh cảm đă chứa sẵn mầm mống tư tưởng. Theo ngôn ngữ siêu h́nh: Khi nhận thức được Vô ngă như là nguyên nhân của vài cảm giác trong Bản ngă, th́ ta bắt đầu hiểu biết. Cảm giác một ḿnh là cảm giác suông, điều này thường xảy ra, không đủ sức làm cho ta nhận thức được Vô ngă, mà chỉ khêu gợi sự vui buồn trong Bản ngă, là sự nở rộng hay co thắt lại trong tâm hồn.

Nếu người nào chỉ biết cảm giác suông th́ không tiến hóa cao được. Khi chúng ta thấy đối tượng mà sinh t́nh cảm, đó là ta hiểu biết được đối tượng mang lại cho ta sự vui hay sự buồn, là ta bắt đầu mở trí khôn. Mối liên kết chặt chẽ có ư thức giữa Bản ngă và Vô ngă là nền tảng cho mọi tiến hóa sau này, và một phần lớn sự tiến hóa ấy làm cho mối liên kết của Người hiểu biết ngày càng trở nên rơ ràng và chắc chắn thêm. Khi tâm thức vọng động, Người hiểu biết liền tiếp xúc với ngoại cảnh thấy đối tượng sinh ra t́nh cảm vui hay khổ, rồi ngoảnh lại thế gian mà nói: “Đối tượng ấy làm tôi vui, đối tượng ấy làm tôi khổ.”

Cần phải có nhiều kinh nghiệm về cảm giác trước, rồi sau này Bản ngă mới đáp ứng lại với ngoại cảnh. Do ḷng ước ao muốn hưởng lạc thú lập lại làm Bản ngă phải lần ḍ trong tối tăm để t́m cho được thú vui. Và đấy là một thí dụ rất hay về sự kiện đă kể trên để chứng minh không có sự việc nào gọi là cảm giác thuần túy hay tư tưởng thuần túy, bởi v́ “sự mong mỏi thú vui được tái diễn” hàm súc ư nghĩa rằng h́nh ảnh lạc thú vẫn luôn luôn c̣n tiêm nhiễm trong tâm thức, dù cho h́nh ảnh ấy có yếu ớt chăng nữa, th́ đó cũng là công việc của ư niệm thuộc phạm vi tư tưởng. Phải mất một thời gian lâu, Bản ngă mới tỉnh thức được phân nửa song c̣n buông trôi từ sự vật này đến sự vật khác, rồi ngẩu nhiên va chạm nhằm Vô ngă chớ không do tâm thức hướng dẫn, Bản ngă cảm biết vui khổ, nhưng không rơ tại sao vui và tại sao khổ. Sau khi trải qua một thời gian lâu trong t́nh trạng như vậy, Bản ngă mới nhận thức được sự vui khổ và từ đây bắt đầu thiết lập mối liên kết giữa Người hiểu biết và Vật được biết.


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
daoky
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 502
Msg 6 of 7: Đă gửi: 21 September 2004 lúc 9:49am | Đă lưu IP Trích dẫn daoky

QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG

Chương 5


Tác gỉa ANNIE BESANT
CHƯƠNG NĂM


KƯ ỨC

BẢN TÍNH CỦA TRÍ NHỚ



Khi chúng ta được vui thích với đối tượng nào th́ tâm lại khởi ư niệm muốn gặp lại đối tượng đó nữa để vui thêm. Hoặc có đối tượng nào làm chúng ta đau khổ mà muốn xa ĺa đối tượng ấy th́ thể trí cũng tái tạo những h́nh ảnh đối tượng đó trở lại chúng ta nữa. V́ theo định luật chung, năng lực di chuyển theo chiều hướng ít trở ngại để vật chất thể trí tiện việc chọn lựa theo sở thích với h́nh thức thường dùng, chờ khi năng lực mới này hoạt động, th́ nó tạo lại những sự rung động đă phát khởi từ trước. Khuynh hướng này do Tamas [13] (tịnh chất) là mầm mống của trí nhớ và cũng là chủng tử của Kư ức. Các phân tử vật chất của thể trí kết tụ, rồi phân tán lần lần khi gặp năng lực khác xung kích, tuy nhiên chúng vẫn giữ được khuynh hướng kết tụ với nhau trong một thời gian lâu. Nhưng nếu các phân tử ấy gặp sự kích động giống như lần trước, chúng liền trở về vị trí cũ. Hơn nữa, khi Người hiểu biết rung động theo đường lối riêng biệt th́ năng lực rung động ấy vẫn tồn tại trong Người hiểu biết chớ không mất, và sự ham muốn được gần gũi với cảnh vui, xa lánh cảnh buồn được Người hiểu biết phóng năng lực rung động ra ngoại cảnh để kích động sự vui buồn theo nhu cầu của thể trí.

Người hiểu biết thâu nhận và phát xuất được h́nh ảnh là do hai nguyên nhân:

1- Sự vui thích hấp dẫn tái tạo nên h́nh ảnh vui thích.

2- Sự đau khổ v́ ganh tị cũng tạo ra h́nh ảnh đau khổ.

Do kinh nghiệm, sự vui và sự buồn hổn hợp lại thành một loạt rung động tạo nên h́nh ảnh đối tượng, rồi sự vui thích hay đau buồn đồng tái hiện lại, làm ta cảm giác được sự vui hay buồn ấy thêm một lần nữa, nhưng lần sau này không có đối tượng trước mắt. V́ đó chỉ là trí nhớ dưới h́nh thức đơn giản nhất, là sự rung động sẵn có tự nhiên và đồng bản chất với sự rung động đă gây nên nỗi vui hay buồn, hầu khêu gợi mối thiện cảm hay ác cảm. Đối với Người hiểu biết, h́nh ảnh ấy lu mờ, ít rơ ràng, ít sống động hơn những h́nh ảnh đă tiếp xúc thẳng với ngoại cảnh. Tuy nhiên, sự rung động nặng nề của vật chất giúp nhiều năng lực cho những h́nh ảnh của ư tưởng và dục vọng, thật ra các rung động đều giống hệt nhau và kư ức chỉ là sự tái tạo trong vật chất trí tuệ những đối tượng do Người hiểu biết trước kia đă cảm nhiễm. H́nh ảnh này có thể và đang được tái diễn nhiều lần trong vật chất rất tinh vi, ngoài sự nhận thức của Người hiểu biết riêng biệt, tất cả những h́nh ảnh tái tạo ấy đều gom lại và làm ra một thành phần nhỏ mọn của kư ức Đức Thượng Đế, Chủ tể Vũ trụ. Bất cứ Người hiểu biết nào cũng có thể thâu tiếp các h́nh ảnh của những h́nh ảnh ấy miễn là Người hiểu biết có đủ “năng lực rung động” như được kể ở trên. Cũng giống đài phát thanh truyền tin tức trên băng tần 1000 chu kỳ, th́ các máy thu thanh c̣n tốt, bắt đúng tần số đó đều nghe được tin tức của đài. Như thế, năng lực rung động tiềm tàng trong Người hiểu biết có thể hoạt động do một sự rung động tương tự trong những h́nh ảnh vũ trụ. H́nh ảnh ấy được tái tạo đầy đủ chi tiết về h́nh tướng và âm thanh trong cảnh Akasha [14] tức là cơi Thái hư mà giới Thông Thiên Học thường gọi là Thái hư kư ảnh hay là Tiên thiên kư ảnh, nghĩa là h́nh ảnh ghi trên không gian.



KÉM TRÍ NHỚ



Nếu muốn hiểu tại sao chúng ta “kém trí nhớ”, chúng ta phải xét qua những quá tŕnh của trí năo, v́ rất cần thiết cho sự phát sinh trí nhớ. Nhiều sách tâm lư học cho rằng kư ức như là quan năng đặc biệt của trí năo. Thật ra sự nhớ dai một h́nh ảnh trong trí óc không do quan năng đặc biệt nào cả, mà do phẩm chất chung của cái trí. Hễ trí nhu nhược th́ mau quên – tỉ như một chất lỏng đổ vào khuôn nào th́ nó theo h́nh thức của khuôn ấy, nhưng khi tách rời khỏi khuôn, chất lỏng không c̣n ở y như h́nh thức của khuôn ấy nữa – thể trí nào kém tổ chức th́ hợp chất của phân tử ở thể trí rời rạc và tản mác như một vầng mây thưa thớt, như thế trí nhớ sẽ rất kém cỏi. Tuy nhiên, kém trí nhớ là sự thông thường của người đời, không đáng phiền ngại, v́ chúng ta hiện nay đang sống trong giai đoạn chưa tiến hóa cao, th́ ai nấy cũng đều kém trí nhớ cả.

Khi những năng lực của Jiva hoạt động trong thể trí và có tổ chức trật tự, chúng ta cũng c̣n thấy cái mà chúng ta gọi là “kém trí nhớ”, nhưng nếu xét kỹ, chúng ta thấy rằng không phải phương diện nào chúng ta cũng đều kém trí nhớ cả. Dĩ nhiên, có vài việc dù ta không mấy để ư, nhưng cũng có thể nhớ được rơ ràng và chắc chắn nữa. Nếu chịu khó xét lại các sự kiện ấy, ta thấy rằng những việc mà ta nhớ dai thảy đều kích động tâm trí của ta nhiều nhất. Tóm lại, phàm những ǵ làm chúng ta ưa thích hoặc đau khổ thái quá th́ càng làm cho chúng ta nhớ dai.

Tôi biết một bà thường phàn nàn về tánh mau quên của bà trong việc học hành. Tuy nhiên, tôi nhận thấy có nhiều việc bà ta nhớ rất giỏi, như nhớ từ chi tiết một bộ y phục mà bà ta thường trầm trồ. Nhận xét chung, trí nhớ của bà không có ǵ là kém cỏi, khi bà chủ ư quan sát một điều ǵ kỹ lưỡng th́ trong trí bà phát hiện ra h́nh ảnh rơ ràng và h́nh ảnh ấy giữ được một thời gian khá lâu rồi mới tan. Việc này là một bí quyết giúp ích chúng ta hiểu biết về việc “kém trí nhớ”.

Người kém trí nhớ là tại v́ họ thiếu chủ ư và quan sát kỹ, người như vậy về sau hay có những tư tưởng lộn xộn. Tư tưởng lộn xộn đó là ấn tượng không rơ rệt do sự quan sát thiếu cẩn thận, chú ư. Trái lại, những tư tưởng minh bạch là những ấn tượng sắc bén do một chủ tâm quan sát cẩn thận và chính xác. Lại nữa, những ǵ mà ta thích thú và chủ ư nhiều th́ thường hay nhớ dai.

Làm cách nào để sửa chữa được việc “kém trí nhớ”?

Trước hết, chúng ta phải ghi những việc ǵ mau quên và những việc ǵ hay nhớ để tiện việc phân tách khả năng chung, rồi nghiên cứu tỉ mỉ những điều chúng ta chóng quên, xem xét lại các việc ấy thử coi có đáng nhớ hay không. Nếu thấy chẳng ích lợi bao nhiêu, nhưng lắm khi chúng ta thấy cần chăm lo th́ phải tự nhủ: “Tôi muốn chủ ư đến việc này, tôi muốn xem xét việc này cho rành mạch, tôi muốn nghĩ đến việc này một cách chu đáo”. Làm như thế chúng ta cảm thấy trí nhớ của chúng ta ngày càng mở mang thêm. Như đă giải rơ nơi đoạn trước, trí nhớ tùy thuộc sự chú ư cẩn thận, quan sát chín chắn và suy nghĩ kỹ càng. Muốn chú ư cần phải có sự hấp dẫn, nếu thiếu sự hấp dẫn th́ phải có ư chí để thay thế yếu tố quan trọng ấy.

Đây chính là khởi điểm gây nên sự trở ngại mà chúng ta thường thấy. Làm cách nào để ư chí có thể thay thế sự hấp dẫn ? Cái ǵ làm phát động ư chí ? Hấp dẫn khêu gợi ham muốn, sự ham muốn thúc đẩy con người chạy theo đối tượng hấp dẫn. Nhưng giả sử trong trường hợp không có sự ham muốn th́ làm sao ư chí có thể thay thế ham muốn được ? Ư chí là sức mạnh thúc đẩy sự hành động theo đường lối do Lư trí xét đoán kỹ càng và chỉ định chớ không do sự hấp dẫn ở ngoại cảnh. Hành động bị thúc đẩy do sự quyến rủ ở ngoại cảnh – thường gọi là Bản ngă phát huy năng lực – đó là dục vọng (ham muốn), c̣n hành động do Lư trí Thuần túy hướng dẫn, gọi là ư chí.

Khi nào ngoại cảnh không c̣n sức quyến rủ nữa th́ nội tâm thông suốt. Sự tham cứu sâu rộng của trí thức là nguyên nhân làm cho ư chí được thành tựu, và nhờ sự luyện tập phán đoán là mục tiêu của mọi nỗ lực để đi đến tận thiện. Đó là điều mà Lư trí chọn làm phương tiện đưa Bản ngă đến chỗ tuyệt mỹ ngơ hầu tạo thành nguyên nhân cho ư chí. Một khi đă quyết định thực hành, sau này dù chúng ta có mỏi mệt hay đau ốm, sự huấn luyện tư tưởng ấy không quên nhắc nhở ta cần phải thận trọng và khích lệ thêm ư chí. Nếu việc ǵ cũng đắn đo, cân nhắc cẩn thận, th́ mọi việc đều trở nên hấp dẫn, nghĩa là khi chúng ta tạo trong trí một h́nh ảnh có đức tính cao quí và vui tươi để áp dụng vào công việc hữu ích, th́ h́nh ảnh ấy trở nên hấp dẫn. Theo thế thường, người nào ham muốn một vật ǵ đều ước mong có đủ phương thế để đạt được vật ấy đặng làm của riêng, tuy nhiên nhờ sự cố gắng giữ đúng kỷ luật khắc khe trong sự rèn luyện ư chí, chúng ta có thể thắng được tính ích kỷ này.

Có vài mục đích cao cả đáng cho chúng ta ham muốm để được dẫn dắt đến hạnh phúc viên măn, v́ vậy chúng ta cần phải tận dụng ư chí hoạt động mạnh mẽ hầu đi đến cứu cánh. Việc ǵ cũng vậy, nhất là trong việc trau giồi năng lực quan sát, sự luyện tập thường xuyên, mỗi ngày một ít, có hiệu quả hơn là cố gắng thật nhiều trong một lúc rồi gián đoạn. Mỗi ngày chúng ta bắt buộc phải tập quan sát tỉ mỉ một vật ǵ thông thường, tưởng tượng trong trí h́nh dáng vật đó cho đầy đủ chi tiết, rán sức chủ ư và giữ h́nh ảnh ấy trong trí một thời gian ngắn như chính mắt ta đă trông thấy. Qua ngày sau, chúng ta cố gắng nhớ lại, tái tạo trong trí h́nh ảnh vật đó cho thật đúng, đúng nhiều càng tốt, rồi so sánh, xem xét, bổ túc những thiếu sót và sửa chữa chỗ sai lầm.

Nếu mỗi ngày chúng ta dành năm phút để luyện tập quan sát, lần lượt mỗi lần xem xét tỉ mỉ một vật, h́nh dung vật ấy trong trí, qua ngày sau rán sức nhớ lại h́nh ảnh vật ấy rồi so sánh với vật trước, nhờ vậy trí óc của chúng ta chóng phát triển và những năng lực quan sát, chủ ư, suy tưởng, định trí cũng tiến triển khả quan. Thật ra chúng ta rèn luyện thể trí để tiến mau lẹ, hầu có đủ tư cách xứng đáng làm tṛn nhiệm vụ giúp đời hữu hiệu, hơn là để thể trí phát triển chậm chạp theo định luật tự nhiên.

Không một người nào luyện tập theo phương pháp trên đây mà không thâu thập được kết quả. Hành giả sẽ được hài ḷng khi nhận thấy năng lực trí thức của ḿnh ngày càng gia tăng và sự kiểm soát ư chí cũng dễ dàng hơn.

Có nhiều phương pháp nhân tạo tập mở trí bằng cách tŕnh bày sự vật có sắc thái hấp dẫn qua các giác quan, hoặc tom góp các sự vật lại làm thành một h́nh thức đặng ghi nhớ. Nếu người có năng khiếu về mắt (tức là có trông thấy mới dễ nhớ), nên dùng h́nh ảnh hoặc viết hay vẽ vời trên bảng những h́nh thức muốn nhớ, để mắt trông thấy mới nhớ được. Người khác, thính giác trội hơn, th́ những âm thanh dễ ghi vào trí năo, như khi nghe lọt vào tai một bài học hay những vần thơ, hoặc một bản nhạc du dương th́ nhớ rất lẹ. Những người này học bài thường hay đọc to tiếng để cho tai nghe th́ mới mau thuộc. Tuy nhiên, phương pháp hay nhất và hợp lư nhất dùng cách rèn luyện thể trí cho có căn bản vững chắc là phương pháp mà chúng tôi đă tŕnh bày nơi đoạn trên.



KƯ ỨC VÀ TIÊN ĐOÁN



Bây giờ chúng ta trở lại với Người hiểu biết kém mở mang của chúng ta.

Khi kư ức vừa hoạt động th́ tiên đoán theo liền rất mau lẹ, v́ tiên đoán chỉ là trí nhớ được đưa ra trước.

Lạc thú xưa kia chúng ta được hưởng, nay nhớ lại muốn có thú vui ấy để hưởng nữa th́ gọi là kư ức, c̣n khi trí tưởng nghĩ thấy được đối tượng ở ngoại giới và sự vui thích liền theo, th́ đó là tiên đoán. H́nh ảnh của đối tượng và h́nh ảnh của vui thích liên lạc với nhau, cả thảy đều trụ vào Người hiểu biết, nếu gia thêm vào sự chiêm niệm yếu tố thời gian quá khứ và tương lai th́ sự chiêm niệm này thành ra có hai tên gọi. Đó là kư ức và tiên đoán:

1- Kư ức là sự chiêm niệm có thêm ư tưởng quá khứ.

2- Tiên đoán là sự chiêm niệm có thêm ư tưởng tương lai.

Có nghiên cứu các sự kiện này, chúng ta mới hiểu được câu châm ngôn sâu sắc của Đại sư Patanjali, mà các đệ tử theo pháp môn Yoga đều phải chận đứng “sự biến đổi của tư tưởng”. Xét theo quan điểm của Huyền bí học, mỗi lần tiếp xúc với Vô ngă, th́ cái trí đều thay đổi. Một phần chất liệu của thể trí được dùng để tạo thành việc bố trí lại h́nh ảnh ấy, chúng ta có tư tưởng về phương diện “h́nh thể”. Tương ứng với điều này, sự rung động phát sinh từ chính Người hiểu biết và những sự biến đổi ấy xảy đến trong nó tạo thành tư tưởng về phương diện “sự sống”.

Chúng ta nên nhớ rằng mối liên kết ấy do công việc riêng biệt của Người hiểu biết có phụ thêm vào h́nh ảnh, và sự bổ túc này biến đổi h́nh ảnh thành tư tưởng. Những h́nh ảnh trong thể trí rất giống đặc tính các ấn tượng tạo trên kính ảnh do làn sóng dĩ thái từ bên ngoài quang phổ đến, có tác dụng hóa học trong chất muối bạc biến đổi tính chất làm cho h́nh ảnh đối tượng hiện lên trên kính ảnh. Thể trí cũng mường tượng như kính ảnh, các chất của thể trí sắp đặt để kiến tạo lại các h́nh ảnh đối tượng mà nó tiếp xúc được. Khi Người hiểu biết nhận thấy những h́nh ảnh ấy do những rung động khêu gợi từ tâm thức, chúng liền xem xét các h́nh ảnh ấy trong chốc lát rồi bắt đầu kiến tạo và sửa đổi những h́nh ảnh đó bằng những rung động của y phát ra. Theo định luật đă diễn giải ở giai đoạn trước, năng lực thường hướng theo con đường ít trở ngại để Người hiểu biết uốn nắn các h́nh dáng ấy và sửa đi đổi lại măi, để tạo thành những h́nh ảnh của h́nh ảnh và tàng trữ cho đến khi gặp được yếu tố thời gian làm tái hiện h́nh ảnh ấy tùy dĩ văng hay tương lai mà chúng ta gọi là “kư ức” hay “tiên đoán”.

Sau hết, tư tưởng cụ thể chỉ là sự lập lại các kinh nghiệm hằng ngày trong vật chất tinh vi hơn, với sự khác biệt này, Người hiểu biết có thể ngưng hoặc thay đổi sự liên tục các h́nh ảnh ấy, hoặc lập lại nhanh chậm tùy ư. Y có thể giữ lại bất kỳ một h́nh ảnh để mơ tưởng hay xem xét lúc nào tùy thích, mặc dù có nhiều việc y đă kinh nghiệm rồi, nhưng lại quên phứt, v́ bị lôi cuốn theo bánh xe thời gian vận chuyển không ngừng với một tốc độ không tăng, không giảm. Y cũng có thể làm cho thời gian trôi qua mau hay chậm tùy ư, nhưng chỉ hoạt động trong lănh vực riêng biệt của y, cũng như Thượng Đế hoạt động cho thế giới của Ngài. Tuy nhiên, y không tránh khỏi sự liên tục là bản chất của thời gian, nếu y c̣n bị chướng ngại vật chất ràng buộc, th́ không thể hiệp nhất với tâm thức của Thượng Đế.

mục lục đầu sách cuôi sách chú thích

CHƯƠNG SÁU


SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG

GIÁ TRỊ CỦA THUẬT QUAN SÁT

Muốn tư tưởng cho chính đáng phải hội đủ hai điều kiện cần thiết:

1- Chủ ư quan sát thật đúng. Ta phải xem xét kỹ lưỡng sự vật là Vô ngă để nó trở thành sự hiểu biết ngơ hầu ḥa đồng với Người hiểu biết.

2- Thể trí phải cảm nhiễm và duy tŕ năng lực, điều giải mau lẹ những ấn tượng và giữ lại khi chúng phát hiện.

Thể trí cảm nhiễm và giữ bền được là nhờ khả năng phân biệt chủ ư mạnh và quan sát đúng, do đó những quan năng tiềm tàng sẽ chóng trở thành động lực thúc đẩy sự tiến hóa mau lẹ.

Nếu Người hiểu biết không xem xét h́nh ảnh tư tưởng cho chính xác, nếu cái trí không phát triển, không cảm nhiễm những rung động của sự vật ở ngoại cảnh, và cũng không sửa đổi được những ǵ mô phỏng từ bên trong cho đầy đủ, th́ sự kiến tạo tư tưởng sẽ khiếm khuyết và sai lầm.

Ban sơ, khi quan năng chưa phát triển, chúng ta nhận định h́nh ảnh không rơ rệt, thiếu sót. Về sau, nhờ dùng chất liệu tinh vi hơn để kiến tạo thể trí, nên các quan năng mở lần, làm cho chúng ta nhận thức rơ ràng sự vật ở ngoại cảnh. Cùng y một sự vật từ xưa đến nay không thay đổi, nhưng trước kia ta thấy h́nh dáng một cách tổng quát, thiếu sót và sơ sài, c̣n bây giờ, cũng sự vật đó, nhờ biết quan sát mà chúng ta nhận định minh bạch, đầy đủ chi tiết và phân biệt được nhiều khía cạnh hơn.

Thí dụ: một bác nông phu và một nhà danh họa, cả hai đang đứng giữa cánh đồng trước cảnh trời xinh đẹp vào buổi chiều tà. Bác nông phu quê mùa cục mịch, chưa từng thưởng thức cảnh tượng thiên nhiên, chỉ biết xem trời đoán mưa hay nắng để chuẩn bị mùa màng theo nếp sống nhà nông mà thôi. C̣n nhà danh họa là một nghệ sĩ, là một họa sư lừng danh, có óc thẩm mỹ, đă từng thưởng thức nét đan thanh huyền ảo của màu sắc và cảm xúc được từng đợt biến chuyển của ánh sáng.

Trước cảnh chiều tà, mặt trời từ từ lặn, ba thể: thân, vía, trí của bác nông phu rung động do trợ giúp của tâm thức, bác thấy bầu trời có nhiều màu khác nhau và thấy nếu có màu đỏ nhiều th́ sẽ hứa hẹn một ngày mai tốt trời, một vụ mùa của ông tốt xấu. Bác chỉ cần hiểu biết bấy nhiêu đó thôi để chăm lo việc đồng áng. Trái lại, thân, trí, vía của nhà họa sư rung động với tốc độ muôn triệu lần mau lẹ hơn sự rung động thể chất thô sơ của bác nông phu. V́ vậy, cùng một cảnh mặt trời lặn, mà nhà họa sư cảm thấy hoàng hôn tươi đẹp, uyển chuyển nhẹ nhàng làm sao; sắc thái thanh nhă giao ḥa với nhau thật là huyền diệu. Nơi đây màu xanh da trời lồng dưới áng mây hồng trong suốt như gương, nơi khác, ánh vàng huy hoàng xuyên qua ráng mây xanh lá mạ, thướt tha lập ḷe với điểm son, lóng lánh ánh kim. Cảnh hoàng hôn huyền ảo này làm cho nhà danh họa càng thêm quyến luyến say mê, ngây ngất nhập điệu với cảnh. Cảm giác tế nhị từ nội tâm của họa sư rung động tràn ngập t́nh yêu đương, tinh thần sảng khoái trước sự mỹ lệ vô biên, từ trong tâm hồn họa sư tuôn trào nguồn cảm hứng dồi dào, nảy sanh nhiều ư tưởng phong phú khi thể trí của họa sư dần dần biến đổi dưới ảnh hưởng của sự rung động trên cơi Trí do cảnh hoàng hôn huyền linh và sống động tạo trong tâm hồn. Cảnh tượng khác biệt này không do sự nhận thức bên ngoài, mà do nơi cảm ứng trong tâm nghĩa là do Bản ngă và thể vía chớ không phải do nơi Vô ngă. Nếu so sánh, chúng ta thấy t́nh cảm và sự nhận xét của bác nông phu rất thiếu sót, trái lại, của nhà danh họa th́ rất phong phú.

Nơi đây chúng ta thấy rơ ư nghĩa sự tiến hóa của Người hiểu biết phát triển mạnh mẽ. Vũ trụ tuyệt mỹ đang bao bọc chung quanh chúng ta, truyền những làn sóng rung chuyển đến chúng ta từ khắp mọi phía, nhưng chúng ta không hề cảm biết hay nh́n thấy được, các việc ấy đối với chúng ta dường như không có thật. Tất cả những ǵ chứa đựng trong tâm thức của Thượng Đế thuộc về hệ thống của chúng ta, đều có ảnh hưởng và liên quan đến chúng ta, tâm thức và thể xác của chúng ta đều được và đang hưởng những ân huệ ấy. Những ǵ mà chúng ta đă được hưởng đều đánh dấu cho giai đoạn tiến hóa của chúng ta, những ǵ cần thiết cho sự phát triển của chúng ta đều biến đổi từ trong nội tâm chớ không phải ở bên ngoài của chúng ta. Tất cả mọi sự đều cung cấp đầy đủ, chỉ chờ chúng ta mở mang khả năng để tiếp nhận mà thôi.

Một trong các yếu tố của ư tưởng minh bạch mà chúng tôi vừa tŕnh bày là sự quan sát chín chắn. Chúng ta phải bắt đầu áp dụng điều này ngay khi c̣n ở cơi trần là nơi xác thân của chúng ta đang tiếp xúc với Vô ngă. Rồi chúng ta tiến lần từng giai đoạn bằng cách đi lên, v́ sự tiến hóa khởi đầu từ cơi thấp đến cơi cao. Trước hết, chúng ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài, là cơi thấp, và sự rung động từ ngoại cảnh tiến dần lên – nói cách khác, sự rung động hướng vào bên trong – để khêu gợi những quyền lực ở nội tâm.

Vậy quan sát chín chắn là một khả năng cần phải rèn luyện cho đúng mức. Nhiều người ra đường đời mắt nhắm mắt mở, điều này chúng ta có thể tự kiểm soát được bằng cách mỗi lần đi trên đường phố chúng ta tự hỏi: “Khi đi dọc theo con đường này, chúng ta đă quan sát được những ǵ ?” Phần đông dường như không quan sát được điều ǵ cả, không một h́nh ảnh nào ghi rơ trong trí họ. Một ít người để ư đến chút đỉnh đồ vật, và có vài người khác chú ư nh́n thấy nhiều hơn.

Nhà ảo thuật trứ danh Robert Houdin thuật chuyện rằng ông có thói quen tập đứa con của ông quan sát những ǵ bày biện trong tiệm buôn mỗi khi đi rảo qua các đường phố Luân đôn và cả việc tập cho nó quan sát toàn bộ những ǵ bày trước cửa hàng khi đi ngang qua mà không cần dừng chân, chỉ ngó thoáng một lượt đă có thể ghi nhớ trong trí rồi về nhà kể lại.

Một trẻ em b́nh thường và một người man rợ, cả hai đều quan sát và do khả năng quan sát của mỗi người mà biểu lộ sự thông minh của ḿnh. Thói quen quan sát nhanh chóng và rơ ràng tạo cho người có trí óc b́nh thường một căn bản tư tưởng vững chắc. Nhưng người có ư tưởng lu mờ là tại v́ họ quan sát không đúng, ngoại trừ trường hợp người thông minh xuất chúng, bởi v́ trí của kẻ ấy có thói quen hướng thẳng vào nội tâm nên ba thể (thân, vía, trí) không cần tập luyện theo cách thức vừa tŕnh bày.

Nếu ta hỏi một vài người tại sao họ quan sát không đúng ? Họ liền trả lời: “Tại tôi mắc suy nghĩ việc khác”. Câu giải đáp này chỉ đúng với người nào đang suy tưởng điều chi quan trọng hơn là sự rèn luyện thể trí và khả năng chú ư của người ấy nhờ sự quan sát cẩn thận. Trái lại, những kẻ mơ mộng thường có ư tưởng bấp bênh không chủ định, họ chỉ biết phung phí năng lực và làm mất ngày giờ vô ích.

Một người ch́m sâu vào trong tư tưởng, dù cho cảnh vật có ở ngay trước mắt, họ cũng không nh́n thấy, v́ trí năo của kẻ ấy hướng vào nội tâm nên không để ư đến ngoại cảnh. Có thể trong kiếp này, đối với người như vậy, sự rèn luyện ba thể để quan sát gần như biệt lập không cần thiết nữa, v́ người tiến hóa cao và người mới vừa tiến hóa, mỗi người đều có phương pháp luyện tập khác nhau.

Nhưng mà trong số người không biết quan sát, có được mấy người thật sự đă “đi sâu vào suy tưởng”. Phần đông người ta không quan tâm nghĩ ngợi về bất cứ một h́nh dáng tư tưởng nào c̣n lảng vảng trong trí, v́ họ không biết cách sử dụng. Khác nào một phụ nữ nhàn rỗi, không biết làm ǵ khác hơn là lục soạn, ngắm nghía y phục ḷe loẹt treo trong tủ áo, hoặc mân mê trầm trồ các món nữ trang quư báu đựng trong hộp. Làm như vậy không phải là suy tưởng đâu. Như chúng ta đă biết, suy tưởng là tạo ra sự liên lạc rồi bổ túc sự ǵ hiện thời chưa có. Trong hành vi suy tưởng, Người hiểu biết phải trực tiếp cố gắng tích cực chú ư vào h́nh ảnh tư tưởng.

Tập tính quan sát cũng là phương pháp giáo dục để mở mang trí thức, những người có thói quen quan sát, trí óc trở nên sáng suốt, năng lực gia tăng, biết cách chỉ huy, v́ vậy có thể hướng thẳng tới một đối tượng đă chỉ định dễ dàng mà trước kia họ không thành công. Khi luyện tập thuần thục th́ năng lực quan sát trở thành xem xét tự động, thể trí và các thể khác ghi nhận h́nh ảnh một cách máy móc, để sau này khi chúng ta cần đến, th́ những h́nh ảnh ấy sẽ tái hiện, mặc dù lúc này chúng ta không cần phải chủ ư. Thói quen quan sát làm cho chúng ta khỏi phải chủ ư đến đối tượng diễn ra trước mắt, nhưng giác quan của chúng ta tự động hướng tới đối tượng, rồi tạo ra một ấn tượng để thâu nhận nó.

Sau đây, một câu chuyện tuy rất thông thường, nhưng đầy đủ ư nghĩa do kinh nghiệm của riêng tôi. Trong một chuyến hành tŕnh qua nước Mỹ, ngày nọ tôi nảy ư muốn biết coi đầu máy xe lửa mà chúng tôi đă đi mang số mấy ? Tức th́ trong trí tôi hiện ra con số mà tôi muốn biết. Đây không phải do thần nhăn, v́ theo trường hợp thần nhăn, th́ cái Vía cần phải t́m thấy chiếc xe lửa và con số ghi nơi đầu máy. Điều này chỉ do thói quen của giác quan và trí quan sát của tôi tự động ghi con số nơi đầu máy xe lửa khi xe vừa tới nhà ga ngoài ư muốn của tôi, măi đến khi cần biết số ấy th́ trong trí bỗng nhiên xuất hiện chiếc xe lửa đang chạy tới có luôn cả con số ghi trước đầu máy. Luyện được khả năng này rất có ích lợi, v́ nhờ nó mà không biết bao nhiêu việc xảy ra chung quanh trong lúc chúng ta chẳng hề để ư lại có thể t́m gặp, nếu chúng ta chịu xem xét các dấu vết ba thể của chúng ta đă tự động ghi riêng lấy nó.

Khác hẳn hành vi tự động có ư thức của Jiva, hành vi tự động máy móc này trong cái trí của chúng ta cứ bành trướng măi không thể quan niệm được. Như chúng ta đă biết, người bị thôi miên có thể kể lại rành rẽ một số sự việc nhỏ nhặt đă xảy ra mà trước kia họ không để ư tới. Các ấn tượng ấy xuyên qua năo, truyền vào cái trí rồi tự ghi vào trí và tiềm thức. Rất nhiều ấn tượng truyền vào trí không được sâu đậm để có thể thâm nhập vào tâm thức, không phải tâm thức hiểu biết được những ấn tươïng ấy, nhưng v́ ở trạng thái b́nh thường của tâm thức nó chỉ có thể ghi nhận những ấn tượng sâu đậm mà thôi. Ở trạng thái thôi miên, trong lúc hôn mê, hay trong giấc mộng, khi Jiva xuất ra ngoài, th́ bộ óc mới phóng thích những ấn tượng mà b́nh thường vẫn bị các ấn tượng khác mạnh hơn đè nén do Jiva thâu và phát. Tuy nhiên, nếu trí được rèn luyện có thói quen quan sát và ghi nhận, Jiva cũng có thể thâu và phát ra tùy ư những ấn tượng như vậy nữa.

V́ thế, nếu có hai người đồng thời đi ra phố, một người có tập luyện quan sát c̣n người kia th́ không. Cả hai cùng nhận thấy một số ấn tượng như nhau, song không người nào chú ư. Về sau, người quen tánh quan sát, có thể t́m gặp lại các ấn tượng ấy, trong khi người kia th́ không nhớ ǵ hết. Bởi chưng, thuật quan sát làm nền tảng cho việc tư tưởng trở thành rơ ràng, v́ vậy kẻ nào muốn luyện tập và kiểm soát quyền năng tư tưởng phải chuyên cần tập tánh quan sát cho nhuần nhă và phải hy sinh những thú vui tầm thường do sự hoan lạc giả tạm quyến rủ và lôi cuốn.


SỰ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG TRÍ TUỆ

Lần hồi những h́nh ảnh tích trữ càng nhiều th́ phận sự của Người hiểu biết lại càng khó khăn thêm và phức tạp hơn trong công việc sắp xếp các h́nh ảnh ấy theo thứ tự trước sau liên tiếp để có thể liên kết chặc chẽ với bản tính thiêng liêng. Y chỉ c̣n cảm nhiễm ở ngoại cảnh những ǵ đơn giản, liên quan đến nó như những đối tượng làm cho nó vui thích hay đau khổ rồi sắp đặt các h́nh ảnh ấy tiếp nối nhau, xem xét trạng thái riêng biệt mỗi h́nh ảnh, sửa đổi và cân nhắc lại. Y bắt đầu sắp đặt lại những ǵ chính Y đă quan sát và ghi mỗi h́nh ảnh hiện ra liên tiếp có thứ lớp. Khi h́nh ảnh thứ nh́ hiện tiếp theo h́nh ảnh thứ nhất nhiều lần, Y có thói quen, vừa khi thấy h́nh ảnh thứ nhất phát hiện, liền chờ đón h́nh ảnh thứ nh́ để sắp xếp chung lại. Đó là lập luận đầu tiên của Y và cũng tại nơi đây, chúng ta kêu gọi đến một khả năng đă được liên kết chặt chẽ. Y lư luận rằng: v́ A và B xuất hiện kế tiếp nhau luôn, bởi đó cho nên, khi A xuất hiện, th́ B thế nào cũng xuất hiện theo. Sự dự đoán này có thể kiểm soát được, v́ Y nối liền hai việc xảy ra lại với nhau như “nhân” và “quả”. Tuy nhiên, có nhiều sự lầm lẫn là v́ trước kia Y quá hấp tấp củng cố sự liên lạc của nguyên nhân. Kế đến, Y sắp xếp những h́nh ảnh gần nhau đặng xem xét những điểm dị đồng, hầu mở rộng khả năng so sánh. Y chọn lọc h́nh ảnh này hoặc h́nh ảnh nọ tùy sở thích. Hơn nữa, muốn t́m kiếm h́nh ảnh ở ngoại cảnh, Y phải vận dụng xác thân để khai triển sự xét đoán bằng những chọn lựa và những ảnh hưởng của các h́nh ảnh ấy. Y đưa ra một ư nghĩa cân xứng theo sự liên lạc giữa những h́nh ảnh giống nhau và khác nhau, đoạn tom góp những cảnh tương tự nhiều nhất và tách riêng ra những h́nh ảnh khác biệt. Nơi đây, Y cũng c̣n lầm lẫn nhiều – sau này sẽ lần lượt sửa chữa những lỗi lầm do sự quan sát thiếu sót – v́ lúc ban đầu Y gặp nhiều trạng thái rất giống nhau về h́nh thức bề ngoài nên dễ lẫn lộn.

Nhờ rèn luyện các khả năng này mà sự quan sát, phân biệt, lư luận, so sánh, phán đoán, lần lượt tiến triển, và cũng nhờ tư tưởng hoạt động do hành vi tạo tác và phản ứng giữa Vô ngă và Bản ngă, cứ lập đi lập lại măi nên Người hiểu biết mới mở mang.

Muốn các khả năng này mau phát triển chúng ta phải chủ ư chuyên cần luyện tập, lợi dụng hoàn cảnh sinh hoạt hằng ngày để tạo nên cơ hội mở trí. Như chúng ta đă thấy, năng lực quan sát có thể luyện tập trong đời sống hằng ngày, nhờ đó chúng ta mới quen nhận xét những điểm dị đồng của những đối tượng chung quanh. Việc ǵ xảy ra chúng ta đều có thể đúc kết, trắc nghiệm, so sánh, đắn đo kỹ càng và phán đoán một cách có ư thức. Nếu chúng ta chủ tâm rèn luyện th́ quyền năng tư tưởng sẽ chóng phát triển và trở thành lợi khí thuộc quyền sở hữu của chúng ta, để chúng ta tùy nghi sử dụng quyền năng này cho chính đáng.

RÈN LUYỆN TRÍ TUỆ

Giáo dục cái trí là đào luyện tinh thần để được mở mang thêm. Luyện tập theo phương pháp trí dục nào chín chắn cũng đều có ảnh hưởng đến sự tổ chức của chất liệu làm ra thể trí và đồng thời đánh thức một vài quan năng của Người hiểu biết. Khả năng phát triển về trí dục có thể hướng đến mọi mục tiêu và được sử dụng theo ư định. Đem cái trí đă được huấn luyện để áp dụng vào một vấn đề ǵ mới mẻ, nó có thể am tường và nắm vững. Đó là điều mà cái trí chưa được huấn luyện không thể đảm đương. Vậy việc rèn luyện trí tuệ là một vấn đề quan trọng và rất hữu ích.

Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng huấn luyện cái trí không phải nhồi sọ hay nhét đủ mọi việc cho đầy trí óc, mà là khai thác năng lực tiềm tàng trong tâm trí. Cũng không phải mở mang trí năo là nhét đầy đầu óc những tư tưởng cao siêu của kẻ khác mà ḿnh chưa hấp thụ nổi, nhưng là phải tự ḿnh rèn luyện những khả năng tư tưởng của riêng ḿnh. Người ta nói rằng các vị Đại Huấn Sư chỉ đạo công cuộc tiến hóa nhân loại đều hiểu biết hết những việc trong Thái dương hệ. Điểm này không có nghĩa là tất cả những việc ǵ xảy ra hằng ngày nơi đó đều luôn luôn hiện ra trong tâm thức của các Ngài. Các vị Đại Huấn Sư là những bậc tỏ ngộ thông suốt mọi lư lẽ, nên khi các Ngài để tâm hướng về nơi nào th́ các Ngài hiểu biết những việc xảy ra nơi đó mà thôi. Điều này quan trọng hơn là tích trữ trong trí đủ thứ việc, cũng như chính mắt chúng ta ngó thấy sự vật th́ hiểu biết nhiều và rơ ràng hơn người mù chỉ hiểu biết sự vật bằng cách nghe ngóng những lời của kẻ khác thuật lại. Trí năo mở mang không phải do nơi trí óc chất chứa nhiều h́nh ảnh, mà do nơi tŕnh độ hiểu biết tức là quyền năng phát huy từ nội tâm để tái tạo một đối tượng ở ngoại cảnh. Quyền năng này sẽ rất hữu dụng ở cơi trần hoặc ở cảnh giới khác; một khi đă đạt được quyền năng này rồi th́ nó không hề mất, dù chúng ta ở bất cứ nơi nào cũng vậy.

GẦN BẬC CAO MINH

Nếu gần gũi với những vị tiến hóa cao, chúng ta sẽ được các Ngài trợ giúp rất nhiều về việc rèn luyện tinh thần. Tư tưởng của các vị ấy rất mạnh, có thể giúp đỡ chúng ta bằng cách truyền làn sóng rung động cao độ của các Ngài đến chúng ta. Nói cách khác, là các Ngài ban rải từ điển hay thần lực cho chúng ta. Thí dụ một thoi sắt đặt nằm dưới đất không thể phát sinh nhiệt ba, tức sự rung động của sức nóng, nhưng nếu ngẩu nhiên thoi sắt ấy đặt gần lửa, th́ nó liền đáp ứng sự rung động sức nóng của lửa; như vậy, thoi sắt trở nên nóng. Cũng một lẽ ấy, khi chúng ta được vinh hạnh gần bậc cao minh, sự rung động của Ngài truyền sang thể trí chúng ta và thúc đẩy sự rung động của chúng ta ḥa hợp với sự rung động của Ngài, làm cho chúng ta phát sinh nhiều thiện cảm với Ngài. Trong lúc này, chúng ta cảm thấy năng lực tâm trí gia tăng và lănh hội được ư tưởng cao siêu của Ngài mà trong lúc b́nh thường chúng ta không thể hấp thu nổi. Nhưng khi xa vắng Ngài, chúng ta lại cảm thấy những ư tưởng ấy trở nên mập mờ khó hiểu.

Có một vài người sáng dạ nghe diễn thuyết, theo dơi và ngay lúc đó hiểu rơ ràng lời lẽ của diễn giả đă tŕnh bày. Khi ra về, y rất hài ḷng v́ đă hiểu trọn vấn đề. Qua ngày sau, muốn chia sớt lại với bạn thân những điều hiểu biết mà y đă nghe trong buổi diễn thuyết hôm trước, y rất buồn v́ không thể thuật lại những ư tưởng tốt đẹp mà dường như y đă hiểu rơ. Thường thường y bực tức kêu lên: “Tôi dám chắc tôi hiểu rơ bài diễn thuyết này lắm, nó c̣n nằm đâu đây, nhưng làm thế nào tôi có thể khui nó ra được”. Cảm giác này phát sinh là do kư ức của thể trí và Jiva có kinh nghiệm, đồng rung động một lượt, nhưng giờ đây nó chỉ c̣n giữ lại trong tâm thức những ư niệm, những kư ức về h́nh hài và cảm giác, v́ vậy, phải chờ khi nào những việc này đột khởi th́ mới có thể nhớ lại dễ dàng. Sở dĩ ngày hôm trước y hiểu rơ là nhờ sức rung động cao độ của diễn giả đập mạnh vào h́nh thức do thể trí cảm nhiễm, những h́nh thức ấy chỉ ghi lại mơ hồ ở bên ngoài chớ không khắc sâu vào tâm. Thành thử ư niệm thiếu kinh nghiệm ấy, khi nghe qua một lượt, không đủ khả năng phô diễn lại những ư nghĩa đó. Bởi vậy, cần phải nghe thấy lại nhiều lần mới có thể ghi dính vào tâm, để nhớ nằm ḷng th́ sau này mới diễn tả lại được. Vậy trước hết, Người hiểu biết phải tập rung động nhiều lần theo đường lối cao, rồi sau mới tạo lại sự rung động đó tùy theo ư muốn. Do bản tính tự nhiên, y có thể khai triển năng lực để mô phỏng lại những ǵ mà y đă tiếp xúc và đáp ứng nhiều lần ở ngoại cảnh. Năng lực của Người hiểu biết đều giống như nhau, nhưng lại khác nhau về sự phát triển mau hay chậm. Một cái th́ năng lực đă phát triển, c̣n cái kia tiến chậm chạp v́ năng lực c̣n tiềm tàng bên trong. Nhờ tiếp xúc với cái có năng lực tiến triển, nên cái có năng lực tiềm tàng hoạt động mạnh thêm, thành thử năng lực yếu phải nhờ năng lực mạnh thúc đẩy th́ mới mau phát triển.

Bởi thế, gần gũi với bậc cao minh, chúng ta có nhiều cơ hội thuận tiện để học hỏi. Khi tiếp xúc với những vị ấy, chúng ta nhờ ảnh hưởng các Ngài trợ giúp th́ mới mau tiến. Chơn Sư không cần đến ngôn ngữ để giảng dạy cho các đệ tử, v́ ảnh hưởng thần lực của Ngài đă gia hộ các đệ tử được giữ gần Ngài trở nên sáng suốt và tiến hóa mau chóng.

Có trực tiếp ở gần Chơn Sư, chúng ta hưởng rất nhiều ân huệ; nhưng nếu không được vinh hạnh ấy, chúng ta có thể nhờ đến sách vở do chúng ta khéo chọn lọc. Khi đọc tác phẩm của một nhà văn nổi danh, chúng ta nên cố gắng tạm thời đặt ḿnh trong t́nh trạng tiêu cực hoặc nhạy bén, để có thể hấp thụ càng nhiều càng tốt những rung động tư tưởng của nhà văn. Sau khi đọc xong một vài đoạn, chúng ta nên dừng lại, suy nghĩ, cân nhắc từng câu, cố gắng đạt cho được ư nghĩa, nhiều khi cần đọc đi đọc lại, để có thể cảm thông tư tưởng của tác giả đă biểu lộ phần nào nỗi u uẩn của tấm ḷng họ đă truyền vào câu văn. Đọc như thế mới hữu ích cho sự huấn luyện tinh thần của chúng ta. Nếu dùng sự đọc sách để làm thú tiêu khiển mà không chịu khó chủ ư suy nghĩ, th́ cũng như chúng ta trang hoàng tinh thần chúng ta nhiều đồ đạc, như vậy chỉ có lợi một cách gián tiếp. Nhưng nếu đọc sách theo cách thức chúng tôi vừa tŕnh bày, th́ nó thúc đẩy mạnh sự tiến hóa của chúng ta. Những người nào cầu học để phụng sự nhân loại hoặc giúp đỡ kẻ khác đồng tiến với ḿnh th́ không nên xao lăng việc này.


__________________
Chốn hư không Trời vô ngôn quán đảnh, Pháp hiện tiền vi tiếu một cành hoa
Quay trở về đầu Xem daoky's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi daoky
 
Thomaspc01
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 18 September 2004
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3
Msg 7 of 7: Đă gửi: 22 September 2004 lúc 10:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn Thomaspc01

cảm ơn
Quay trở về đầu Xem Thomaspc01's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Thomaspc01
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.6152 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO