Tác giả |
|
KimCangHue Hội viên

Đă tham gia: 14 May 2006 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 71
|
Msg 1 of 4: Đă gửi: 15 May 2006 lúc 4:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vô Ngă
Người mới học Phật khi nghe nói Vô Ngă th́ thường hiểu lầm là Vô Ngă là Không Có Ǵ Hết Cả hay là Vô Ngă là Vô Tri Không Biết Ǵ Hết.
Nếu mà hiểu nghĩa Vô Ngă như vậy là bị lạc vào Đoạn Diệt là một trong hai Biên Kiến mà trong Kinh Phật thường dạy đó là:
Ngă trong đạo Phật là để chỉ Cái Chấp của chúng sanh là các hiện tượng Có Một Thực Thể
Chấp Có Một Cái Thường C̣n Bất Biến Là Thật Ngă đó là Thường Kiến
Chấp Rốt Ráo Là Trở Về Với Hư Vô Trống Không đó là Đoạn Kiến
Lư Vô Ngă có nhiều bực sâu cạn khác nhau
Vô Ngă Của Giáo Lư Thanh Văn Thừa:
Giáo Lư Vô Ngă của Thanh Văn Thừa là do quán sát thấy Các Hiện Tượng Biến Đổi Liên Tục v́ vậy mà Không Có Một Thực Thể nào có thể định được là Ngă Cả.
Giáo Lư Vô Ngă của Thanh Văn Thừa là nh́n theo Sự Biến Đổi Liên Tục Của Tất Cả Các Hiện Tượng hay là c̣n gọi là Lư Vô Thường.
V́ các hiện thượng là đều là Vô Thường cho nên là Vô Ngă.
Vô Ngă Của Giáo Lư Bồ Tát Thừa:
Vô Ngả của Giáo Lư Bồ Tát Thừa là do quán sát thấy Các Hiện Tượng Đều Do Duyên Hợp Mà Thành.
Tất cả các hiện tượng đều do duyên hợp cho nên Tất Cả Các Hiện Tượng Đều Không Có Tự Tánh hay là c̣n gọi là Lư Duyên Khởi Tánh Không.
Cái Trí hay Quán Sát Biết Tất Cả Các Hiện Tượng Đều Không Có Tự Tánh th́ gọi là Trí Bát Nhă (Trí Huệ Tánh Không).
Phát Khởi được Cái Trí Hay Quán Sát Biết Tất Cả Các Hiện Tượng Đều Không Có Tự Tánh chỉ mới là bước đầu tiên để mà một vị Bồ Tát tu hành trên con đường đi đến Phật Quả.
Trí Huệ Tánh Không có nhiều bậc:
1-Quán Chiếu Bát Nhă:
Cái Trí Hay Quán Sát Biết Tất Cả Các Hiện Tượng Đều Không Có Tự Tánh
Trong Quán Chiếu Bát Nhă cũng có rất nhiều bậc chứ không phải là như nhau v́ vậy mà trong Kinh Đại Bát Nhă có nói đến 18 Không.
2-Thật Tướng Bát Nhă:
Là Cái Trí Biết Tất Cả Các Hiện Tượng Đều Tự Tâm Hiện Không Có Tự Tánh Mà Cái Trí này Lặng Lẽ Vô Niệm như gương sáng hiện tất cả các h́nh tượng mà Không Có Khởi Phân Biệt. Ngôn ngữ của thế gian là sanh diệt cho nên chỉ có thể tạm dùng phương tiện mà nói về Trí Bát Nhă c̣n Trí Bát Nhă th́ như trong Kinh Văn thù Thuyết Bát Nhă nói:
Không tất cả đối đăi sanh diệt, ngôn ngữ
__________________ Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 2 of 4: Đă gửi: 15 May 2006 lúc 8:30pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào các bạn,
Vô ngă và nghiệp có mâu thuẫn với nhau không ? NP cũng xin đưa ra một vài ư kiến để mong đóng góp được một phần nào vào câu trả lời.
1) Đa số Phật tử thường quan niệm rằng "nghiệp" và "luân hồi" là hai khái niệm cốt yếu của đạo Phật, đến nỗi nghĩ tới đạo Phật là phải nghĩ ngay tới nghiệp báo và luân hồi.
Thật ra, "nghiệp" (kamma) và "luân hồi" (samsara) là hai khái niệm có trước đạo Phật đă lâu, và là một phần của giáo lư Bà La Môn, là tôn giáo chính thống của xứ Ấn Độ thời đức Phật Thích Ca. Phần kia của giáo lư Bà La Môn là thuyết "Đại ngă " (Brahman) và "tiểu ngă" (atman). Đức Phật chấp nhận "nghiệp" và "luân hồi" (hay "tái sinh"), nhưng phủ nhận thuyết "Đại ngă " và "tiểu ngă", và đưa ra thuyết "vô ngă " và lư "duyên khởi " để giảng nghĩa sự tương hữu của mọi sự vật. Như vậy, cái cốt tủy, đặc thù, cách mạng của đạo Phật chính là "vô ngă " (đi ngược lại với đạo Bà La Môn và tất cả các tôn giáo thần khải, quan niệm có linh hồn và Thượng Đế), chứ không phải là "nghiệp" và "luân hồi ".
2) "Kamma" (nghiệp) là từ chữ "kar" (= hành động) mà ra. Do đó có nghĩa là hành động (gây ra một ảnh hưởng nào đó), chứ không phải là kết quả của hành động, như mọi người thường nghĩ. Và đặc điểm của đạo Phật, ngược lại với đạo Bà La môn và Thị Na (Jaĩn) chẳng hạn, là chỉ có hành động ư thức, cố t́nh mới tạo nghiệp. Vô ư th́ không tạo nghiệp.
Tới đây chúng ta liên tưởng tới câu đầu của Kinh Pháp Cú : "Tâm dẫn đầu các pháp". Mano (tâm) có khi cũng được dịch là "ư ". Trong đạo Phật, ư tưởng là quan trọng hơn hết, v́ chính ư tưởng tạo nên nghiệp, dẫn tới khổ, luân hồi, hoặc ngược lại giải thoát, Niết Bàn.
3) Câu phê b́nh của ông Will Durant vềđao Phật là một câu phê b́nh cổ điển đă được dùng nhiều lần bởi các nhà triết học và thần học Tây phương : "nếu không có ngă, không có linh hồn th́ ai tái sinh, ai bị đầy đọa trong ṿng luân hồi ?".Hơn nữa, sẽ không c̣n ai hành động, cảm nghĩ, không c̣n khổ, không c̣n hiện hữu...
Nói như vậy th́ có khác chi đẩy đạo Phật vào hố thẳm của hư vô ! Và như vậy là không hiểu rằng đức Phật luôn luôn chủ trương con đường "trung đạo", tức là vừa không chấp ngă, vừa phủ nhận thuyết hư vô.
Cái ngă tạm thời của mỗi người, do năm uẩn hợp thành, đức Phật đâu có bao giờ phủ nhận (nếu không th́ ngài đă không công phu mất 45 năm trời đi hoằng pháp !). Ngài chỉ vạch rơ lên tích chất tạm thời, vô thường, không thực chất, huyễn hóa của cái ngă đó, để cho con người đừng chấp vào cái ngă đó, đừng chạy theo ảo tưởng, rồi tạo nghiệp, khổ đau...
Ỳ nghĩa của câu "Có hành động chèo thuyền, nhưng không có người chèo thuyền" là như vậy. Không có lư do ǵ chúng ta phủ nhận những ǵ xẩy ra trên thế gian. Nhưng nếu nh́n kỹ , th́ chúng ta sẽ không thấy có chủ thể như một cá thể biệt lập, không có ngă. Lấy thí dụ chiếc xe của ngài Na Tiên, th́ không có bộ phận ǵ trong cái xe có thể gọi là cái xe được, nhưng nó có đi lại, nó có chở người, chở hàng, cũng như chiếc thuyền được chèo qua bến sông, nhưng không có người chèo thuyền...
4) Vấn đề "tái sinh" là một vấn đề siêu h́nh, vừa không chứng minh được vừa không cần thiết trong đạo Phật. Trong một bài trước, NP đă tŕnh bầy quan điểm của ḿnh về vấn đề đó.
NP chỉ xin nhắc lại câu chuyện ông Malunkyaputta hỏi đức Phật về một số vấn đề siêu h́nh như "vũ trụ vô tận hay hữu tận, vô biên hay hữu hạn, tinh thần và thể xác là một hay không, Như Lai sau khi tịch diệt sẽ c̣n hay không ?", Đức Phât đă trả lời ông alunkyaputta bằng ẩn dụ của người bị bắn mũi tên độc, và giải thích rằng sở dĩ ngài không giảng dậy về những điều đó v́ những hiểu biết đó không có ích lợi ǵ, không có liên quan tới đời sống thánh thiện, và không đem lại an lạc, trí huệ và giải thoát, là mục đích duy nhất của đạo Phật.
Kinh điển Pali rất ít khi đề cập đến vấn đề "tái sinh", và điều đó hoàn toàn phù hợp với tính chất thiết thực, có thể nói là "điều trị " của đạo Phật.
Đạo Phật là con đường để đi theo ngay bây giờ và tại đây, cũng như một liều thuốc phải uống ngay, chứ không phải đợi tới kiếp sau !
NP tự hỏi phải chăng vấn đề "tái sinh" hay được đặt ra bởi các Phật tử tại v́ chính chúng ta vẫn lo sợ cái chết, tại v́ chúng ta vẫn chưa chấp nhận được sự thật rằng mọi sự sống bắt buộc phải hủy hoại ?
Có lẽ nếu hiểu thâm sâu được "vô ngă", "duyên khởi " rồi th́ không c̣n đặt vấn đề "tái sinh" lên nữa. Lúc bấy giờ thi "luân hồi " cũng không khác ǵ "Niết Bàn"...
Đề nghị hăy quán sát cánh hoa phù dung, vốn sớm nở tối tàn - giúp ta thấy rơ lẽ vô thuờng
Cuộc đời của cánh hoa phù dung quả là thật sự ngắn ngủi
Nhưng trong khoảng thời gian thật sự ngắn ngủi của cuộc đời ấy, hoa phù dung sống trọn vẹn cuộc cống của nó : nở hoa, tỏa huơng ..., cuời nhẹ với đời, rồi héo tàn, sẵn sàng tan biến, không một chút âu lo hay níu kéo cuộc sống
Cánh hoa phù dung không nuối tiếc quá khứ, không uớc vọng tuơng lai. Hoa phù dung luôn sống với từng giây phút hiện tại.
"Bài học hoa phù dung" thấm thía biết bao.
Nhắc tới hoa phù dung, tôi lại nhớ tới một câu thơ của Đinh Hùng "... và trong vườn nhà ai thấp thoáng hoa phù dung buổi sáng nở trắng như một linh hồn c̣n trẻ."
Hoa phù dung chóng tàn, nhưng hoa nào rồi chẳng tàn ("Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết..."), khác nhau chăng chỉ là tỷ lệ thời gian.
Vô thường rốt cục chỉ là định luật thời gian. Không có thời gian th́ không có ǵ hiện hữu. Sự sống vô thường đă đành, nhưng ngay cả mọi sự vật không sống động cũng vô thường, vô ngă.
Nh́n chiếc bọt sà bông, với những vân mầu chuyển động không ngừng, ta thấy nó đẹp vô cùng, rồi bỗng nhiên chiếc bọt vỡ tan, làm cho ta chợt tỉnh. Đâu là cái thường c̣n, cái cá thể của chiếc bọt ? Không phải là nó không hiện hữu, nó hiện hữu ít ra đối với người cảm nhận nó vào một lúc nào đó.
Nhưng ngoài ra, làm sao nói được ǵ hơn về sự hiện hữu của nó, vượt lên khỏi mọi nhận thức, khái niệm, ngôn từ? Đọc lại câu thơ trên, ta thấy tất cả chỉ là khái niệm, ngôn từ. Cái ǵ là hoa ? Cái ǵ là nở ? Cái ǵ là trắng ? Cái ǵ là linh hồn ? cái ǵ là trẻ ? Hoa nở chẳng phải để đẹp ḷng ta, chẳng phải để tô điểm cuộc đời, nó tàn cũng chẳng để cho người nuối tiếc. Nó chẳng nở, mà cũng chẳng tàn, nó chỉ hiện hữu, trong sự tương hữu với thế gian, trong "lưới trời (không) ai dệt"... " Vô thường, vô ngă, khổ (hiểu một cách rộng là sự không được hoàn mỹ, sự không hài ḷng, Trong kinh điển Nguyên thủy, chỉ thấy nói tới "ba pháp ấn" thôi chứ không hề có "bốn pháp ấn", xuất hiện sau này trong kinh diển Đại thừa (chứ không phải do các luận sư sát nhập hai cái sau làm một, như trong những câu đầu của bài viết, v́ lư do lịch sử là NT có trước DT).
Đại thừa nói pháp ấn thứ tư là Niết Bàn, nhưng nếu Niết Bàn là Luân hồi, theo quan niệm DT, tức là Khổ, th́ việc ǵ phải thêm Niết Bàn ? C̣n nếu quan niệm Niết Bàn như là một pháp vô vi (dhamma non conditionnấờ), th́ NB đâu c̣n phải là một dấu ấn của các pháp nữa ?
Theo ông W. Rahula trong cuốn L'enseignement du Bouddha (NS Trí Hải dịch Việt), trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) có ba câu quan trọng là "Các hành vô thường (Sabbe samkhara anicca)", "Các hành khổ(Sabbe samkhara dukkha)", "Các pháp vô ngă (Sabbe dhamma anatta)".
Sở dĩ hai câu đầu dùng chữ hành (samkhara), câu cuối dùng chữ pháp (dhamma), là v́ để nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa những pháp hữu vi (hành, dhamma conditionnấờs) đều vô thường, khổ và vô ngă, và những pháp vô vi, như Niết Bàn, Chân Như đều vô ngă.
Như vậy th́ trong đạo Phật nguồn gốc, thuần túy, ngay cả Niết Bàn, Chân Như cũng không có tự tánh, không có ngă. "Thường, Lạc, Ngă, Tịnh" là những đặc tính của Niết Bàn xuất hiện trong Kinh điển DT, chứ tự nó không hề có những đặc tính đó, theo những lời dậy ban đầu của đức Phật Thích Ca. Đó là một sự khác biệt giữa giáo lư NT và DT, có thể gây hoang mang ít nhiều cho người học Phật.
Thân mến,
NP
|
Quay trở về đầu |
|
|
KimCangHue Hội viên

Đă tham gia: 14 May 2006 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 71
|
Msg 3 of 4: Đă gửi: 15 May 2006 lúc 9:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vô Ngă và Nghiệp không có mâu thuẫn chỉ là Vô Ngă là nói về Bản Thể, Nghiệp là nói về Hiện Tượng.
Như là phân tích một hành động của một người th́ dường như là Có nhưng thật ra th́ là Không Thật Có (Không Phải Là Không Có)
Bởi v́ dùng Trí Quán Sát th́ tất cả mọi hiện tượng đều là do Nhân Duyên Hội Tụ mà thành v́ vậy không có một điều ǵ mà tồn tại độc lập như là một Thực Thể (Ngă)
1) Đa số Phật tử thường quan niệm rằng "nghiệp" và "luân hồi" là hai khái niệm cốt yếu của đạo Phật, đến nỗi nghĩ tới đạo Phật là phải nghĩ ngay tới nghiệp báo và luân hồi.
Nghiệp và Luân Hồi là một trong các giáo lư căn bản của Phật Giáo nhưng không phải là Cốt Tủy bởi v́ mục đích của Đức Phật thị hiện ra đời là để dạy phương pháp Chấm Dứt Nghiệp và Sanh Tự
Thường, Lạc, Ngă, Tịnh trong Kinh Đại Bát Niết Bàn nói về bốn đức của Niết Bàn không phải như là theo thế gian hiểu.
Đối Đăi là Có Sanh Diệt có Sanh Diệt là Vô Thường
Niết Bàn Không Tất Cả Các Tướng Đối Đăi cho nên nói là Thường
Khổ, Vui, Không Khổ Không Vui đều là Sanh Diệt, Sanh Diệt là Khổ
Niết Bàn dứt tất cả Các Tướng Đối Đăi cho nên nói là Lạc
Thấy Có, Thấy Không, Thấy Cũng Có Cũng Không đều là Chấp Ngă.
Niết Bàn dứt tất cả các Cái Thấy Đối Đăi mà vẫn Thường Biết cho nên gọi là Ngă.
Tâm Khởi Niệm Đối Đăi Sanh Diệt đó là Bất Tịnh.
Niết Bàn dứt tất cả Vọng Tưởng Sanh Diệt đó là Tịnh.
__________________ Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
|
Quay trở về đầu |
|
|
nhusanh Hội viên

Đă tham gia: 14 April 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 64
|
Msg 4 of 4: Đă gửi: 16 May 2006 lúc 2:17am | Đă lưu IP
|
|
|
V́ không phải triết gia hay học giả mà chỉ là một du tăng tầm đạo nên lời lẽ trong đây không được văn hoa cho lắm. Kính xin các bậc cao minh thạc đức hoan hỷ lượng thứ cho.
Thích Trí Siêu
Đa số Phật tử đến với đạo Phật đều biết và công nhận đời là vô thường. Biết là vô thường nhưng thấy rơ vô thường là một chuyện khác. B́nh thường chúng ta ít khi nào thấy rơ vô thường, chỉ khi nào trong gia đ́nh có người bị tai nạn, bệnh tật, chết chóc th́ lúc đó mới thấy vô thường. Loại vô thường này trong đạo Phật gọi là "nhất kỳ vô thường". Thấy và ư thức được loại vô thường này cũng quư lắm rồi, v́ nhiều người nhân đây mà phát tâm xuất gia tu hành. Có một loại vô thường thứ hai tinh vi hơn mà bạn nên quán chiếu, ghi nhận, đó là "sát na vô thường", tức sự biến chuyển sinh diệt trong từng sát na, từng giây phút. Bạn đưa tay cử động là vô thường, mỗi bước đi là vô thường, bạn hít vào thở ra là vô thường, nói chuyện là vô thường, kim giây đồng hồ của bạn không chịu đứng yên là vô thường (trừ trường hợp hết pin), mỗi mỗi đều vô thường.
Chúng ta ngoài miệng nói vô thường nhưng trong thâm tâm th́ lại cho sự vật rất là thường (tức luôn luôn là như vậy, không thay đổi, không biến chuyển, sinh diệt). Đối với thằng cu Tèo 10 năm về trước và cậu thanh niên Tèo hôm hay ta vẫn chỉ thấy đó là thằng Tèo. Cô vợ đẹp mới cưới ngày hôm nay, ta vẫn đinh ninh trong tâm là cô ta sẽ đẹp măi măi như vậy 20 năm sau. Cứ như thế, ta luôn luôn bám víu, chấp cứng vào sự vật, cho rằng nó không bao giờ đổi thay. Ông A là kẻ thù của ta hôm nay th́ không thể nào trong tương lai có thể trở thành bạn ta được. Ta yêu cô B hôm nay và tưởng rằng sẽ yêu cô ta măi măi. Mạng sống của ta rất mong manh, đụng nhẹ th́ sứt da chảy máu, đụng mạnh th́ bể đầu gẫy xương, chưa kể trúng gió, trúng độc, vi trùng xâm nhập, hoặc tai nạn xe cộ, không biết chết lúc nào? Có thể chết ngày mai, hoặc chiều hôm nay, vậy mà ta cứ tưởng ḿnh sẽ sống lâu lắm, nên đầu tắt mặt tối làm ăn kiếm tiền để lo mua nhà, mở tiệm, ăn chơi, v.v...
Thực tướng của sự vật là vô thường, nhưng ta lại lầm tưởng là thường. Sự lầm tưởng này trong đạo Phật gọi là vô minh, tức không nh́n thấy sự thật. V́ không biết nước biển là mặn, lại lầm tưởng uống vào sẽ hết khát nên ta cứ uống. Uống vào một lần chưa hết khát, ta lại uống thêm lần thứ hai, thứ ba..., càng uống càng khát, để rồi cuối cùng khô cổ mà chết.
Mọi sự đau khổ đều bắt nguồn từ vô minh. V́ vô minh, không thấy được thực tại, không thấy được tính chất vô thường của sự vật nên chúng ta tự tạo đau khổ cho ḿnh và người. Nếu thực sự thấy được vô thường th́ ta sẽ có thái độ khác đối với sự vật. Thấy được vô thường th́ người bạn của ta hôm nay có thể trở thành kẻ thù mắng chửi ta ngày mai, nhưng ta sẽ không giận. Một người lầm lỗi với ta hôm nay, và ngày mai đến xin lỗi ta, ta sẽ sẵn sàng tha thứ. Một người thân ĺa bỏ cơi trần ta sẽ không buồn. Được người khen thưởng ta sẽ không mừng. V́ khen hôm nay ngày mai lại chê, vinh hôm nay ngày mai là nhục, được hôm nay ngày mai sẽ mất, sung sướng hôm nay ngày mai lại khổ. Thấy rơ vô thường th́ ta không c̣n tham lam, ham muốn, bám víu vào sự vật, không c̣n như người gỗ bị giựt dây (bởi cảnh đời) mà ta sẽ sống tự tại và luôn luôn hỷ xả.
* Sabbe sankhara dukkha, chư hành là khổ. Câu này quá ngắn gọn và súc tích, cần được giải thích và b́nh luận. Nếu giải thích theo nguyên văn th́ tất cả sự vật ǵ do nhân duyên kết hợp thành (conditionné) đều là khổ.
Không biết bạn đọc nghĩ sao, nhưng theo ư kiến cá nhân th́ tôi không đồng ư. Cái bàn là một thứ giả hợp, do nhân duyên kết thành, nhưng cái bàn đâu có khổ! Ngay như nếu đem nó ra chặt chẻ, thiêu đốt th́ nó cũng đâu có la hét, đau đớn! Ta có thể nêu ra những thứ khác như nhà, cửa, xe, cộ v.v... đều do nhân duyên tạo thành, nhưng chúng đâu có khổ.
Khổ là một loại cảm thọ (sensation) của loài hữu t́nh (sattva, sentient beings), do đó các loại khác như nhà, cửa, bàn, ghế, xe, cộ, mây, mưa, v..v... là loài vô t́nh nên không có cảm thọ. Không có cảm thọ nên không có sướng, khổ.
Chữ hành (sankhara) trong câu 'Chư hành là khổ', theo tôi nghĩ th́ nó chỉ định cho loài hữu t́nh. Hành của loài hữu t́nh, nhất là con người, đó là ngũ uẩn. Ngũ uẩn là những yếu tố cấu tạo nên cái mà ta gọi là con người. Bản chất của chúng là vô thường, biến chuyển, sinh diệt. Chính v́ sự biến chuyển vô thường này mà chúng trở thành một môi trường cho đau khổ phát sanh. Loại đau khổ này có thể được xem là ngũ uẩn thủ khổ (pancupadana-kkhanda- dukkha) hoặc hành khổ (sankharadukkha).
Như đă nói ở đầu sách, nếu không có khổ th́ không có đạo Phật, v́ đạo Phật là đạo cứu khổ! Ấy thế mà vẫn có nhiều người chưa ư thức được điều này, v́ họ cho rằng cuộc đời tuy có khổ nhưng cũng có vui. Khổ có thể được chia làm ba loại hay tám loại như đă nói ở phần trước. Ở đây tôi tạm chia ra hai loại khổ: khổ tinh thần và khổ thể xác.
Trong tám loại khổ nói ở phần trước,
- Có ba loại được xếp vào khổ tinh thần: ái biệt ly, cầu bất đắc và oắn tắng hội.
- Có bốn loại được xếp vào khổ thể xác: sinh, lăo, bệnh, tử.
- Có một loại bất định, v́ có thể vừa là thể xác, vừa là tinh thần: ngũ uẩn thủ.
Nếu bạn là người tu hành có đạo lực khá, tâm không ưa ai, ghét ai, hoặc không mong cầu ǵ hết th́ bạn có thể tự hào mà nói rằng tôi không khổ! Nhưng đây mới chỉ là không khổ tinh thần thôi.
Hoặc có người đời này sinh trưởng trong gia đ́nh giàu có, thân ít bệnh tật, đau ốm, lại thêm tâm thần không lo lắng ǵ nhiều. Xin khuyên bạn đừng nên tự hào cho rằng ḿnh không khổ, đó chẳng qua nhờ túc duyên đời trước, bạn đă tạo nhiều nhân lành, nên ngày nay được hưởng quả báo tốt. Bạn hăy cẩn thận v́ phước báo của bạn đang bị tiêu thụ đó!
Dù sao đi nữa bạn cũng khó ḷng tránh khỏi cái khổ về thể xác. Ngay cả đức Phật và các bậc A La Hán xưa kia cũng không tránh khỏi. Đức Phật đă bị bệnh kiết lrước khi nhập Niết Bàn. Nếu bạn học Y khoa hay Vạn Vật th́ bạn sẽ dễ dàng công nhận điều này. Thân thể con người, ngoài tim, gan, thận, phổi... 32 thứ liệt kê trong kinh, nó c̣n được cấu tạo bởi trăm triệu ngàn tế bào khác nhau (đó là chưa kể vô số vi khuẩn, vi trùng sống trong ruột non, ruột già, bao tử...). Chỉ cần một tế bào phát triển vô trật tự th́ bạn có thể mang bệnh ung thư. Chỉ cần một hạt mỡ (cholesterol) nhỏ hơn đầu cây kim đi du lịch lang thang trong máu sẽ có ngày làm nghẹt hay vỡ mạch máu đầu của bạn, nếu hạt mỡ lớn hơn th́ sẽ làm nghẹt tim. Như vậy bạn đă có đến trăm triệu ngàn cơ hội để bị bệnh. Thế mà ngày hôm nay đây bạn c̣n khỏe mạnh, sống c̣n. Quả thật là một điều may mắn, hy hữu. Nếu ư thức được điều đó th́ bạn hăy nên thầm cảm ơn và đảnh lễ Tam Bảo.
Bị bệnh khổ lắm, ngoài việc không ăn uống dễ dàng, lại bị đau nhức hành hạ khổ sở. Bệnh khổ cũng là một chướng ngại lớn lao cho người tu hành, v́ bạn sẽ không tụng kinh được, không ngồi thiền được, v.v... không làm ǵ được cả ngoài việc đi bác sĩ rồi về nhà nằm một chỗ, cảm thọ sự đau nhức của căn bệnh.Và khi bệnh th́ những người thân nhất của ḿnh như cha mẹ, vợ chồng, con cái dù có thương yêu ḿnh cách mấy đi nữa cũng đành bó tay không thể chịu đau thay ḿnh được.
"Pḥng bệnh hơn chữa bệnh". Trong lúc thân thể c̣n khỏe mạnh, tinh thần tỉnh táo, bạn hăy nên tu tập, trau giồi phước huệ, đừng chờ đến khi có bệnh mới vào chùa cầu an. "Hăy nên tu trước, kẻo sau mà nhờ".
* Sabbe dhamma anatta, chư pháp Vô Ngă. Câu này trong các kinh Nguyên Thủy thường giảng là các pháp không phải là Ta (ngă), không phải là của Ta (ngă sở), không phải là tự ngă của Ta. Một số đông các học giả Đại thừa cũng đồng ư quan niệm này. Quan niệm này có vẻ như chỉ nhằm đả phá sự chấp ngă nơi một chúng sinh, chứ nó không đi sâu vào thể tánh của các pháp. Câu trên có thể hiểu là các pháp không có tự ngă, tức không có một tự tánh cố định. Sau này Đại thừa xiển dương lư Không Tánh (sunyata) chẳng qua cũng bắt nguồn từ lư Vô Ngă (anatta) và khai triển rộng ra các pháp, không c̣n hạn cuộc ở một chúng sinh.
Trong câu thứ ba này, không c̣n dùng chữ hành (sankhara) mà dùng chữ pháp (dhamma). Chữ pháp ở đây rộng hơn và bao trùm cả hành. Hành là tất cả các pháp hữu vi, c̣n chữ pháp ở đây bao gồm cả những pháp hữu vi và vô vi. Vô vi là những pháp không sinh diệt như: Phật tánh, Niết bàn, Chân như v.v...
Mục đích của tập sách này nói về Vô Ngă, nhằm giải trừ sự chấp ngă, nên tôi tạm thu hẹp chữ pháp ở đây về một đối tượng giới hạn và cụ thể, đó là con người. Con người Vô Ngă, tức con người không có Ta! Nếu không có Ta th́ có ǵ?
Trước khi hiểu Vô Ngă, cần phải rơ thế nào là Ngă? Trước khi muốn hiểu "Không Ta" th́ phải rơ thế nào là Ta. Đến đây chắc bạn c̣n nhớ, ở Chương 3 - Nguyên nhân của khổ, tôi có đề nghị bạn đi ngược ḍng tư tưởng đến tận bức tường của con đường cùng, đó là câu "Ta là ai?". Câu này có vẻ "vớ vẩn" nhưng quan trọng vô cùng! Nếu bạn không biết ta là ai th́ không thể "làm ăn" ǵ được. Khi đi đường nếu có người hỏi bạn là ai, mà bạn trả lời:"Tôi không biết" th́ người ta sẽ cho bạn là người mất trí! Do đó, bạn mới trả lời: "Tôi là Nguyễn văn A! Tôi là Giám Đốc, Kỹ Sư, Bác Sĩ, v.v... Khi trả lời như thế th́ người ta bằng ḷng mà bạn cũng yên chí. Nhưng sự thật bạn có phải là những ǵ bạn vừa nói chăng? Đó chỉ là những nhăn hiệu của cuộc đời mà bạn tạm vay mượn chứ tự thân bạn đâu phải những thứ ấy.
Trong đạo cũng vậy, nếu bạn không biết "Ta là ai?" th́ cũng khó tu tiến được. Nếu bạn cho "Ta là Thượng Tọa A, Đại Đức B, Hội Trưởng C, Tiến Sĩ D..." th́ lại càng nguy to! V́ cho "Ta" là như thế nên bạn phải làm chùa cho to, lập Hội cho lớn, Hội đàm cho đông để xứng đáng với cái nhăn hiệu mà bạn gắn lên cho cái Ta.
Ngoài cái Ta ra, c̣n có cái của Ta (ngă sở) như con Ta, vợ Ta, nhà của Ta, chùa của Ta v.v... Suốt cuộc đời bạn đă đầu tắt mặt tối, nai lưng ra làm việc, tạo nghiệp chẳng qua chỉ làm công cho cái Ta và những cái của Ta, để rồi cuối cuộc đời, ra đi với hai bàn tay trắng, không đem theo được một chút phước đức nào cả. Kể có đáng giận chăng?
Giờ đây trở lại câu: "Ta là ai?". Theo tôi câu: "Ta là ǵ?" có lẽ dễ hiểu hơn.
Ta là người, một con người. Như bạn thường biết, con người được cấu tạo bởi 5 uẩn. Mỗi khi có 5 uẩn hợp lại th́ chúng ta gọi đó là con người. Vậy con người là một tổng thể của 5 uẩn. Theo giáo lư Nguyên Thủy th́ có con người (l'être) nhưng không có cái Ta (le Je, moi) v́ cái Ta chỉ là một giả danh, tức danh từ tạm lập. Sau này theo giáo lư Không Tánh của Trung Quán th́ con người cũng chỉ là một giả danh (nom désigné).
Ở đây chúng ta tạm gác giáo lư Không Tánh qua một bên, chỉ bàn đến giáo lư Vô Ngă theo quan niệm Tiểu thừa, v́ hiểu được Vô Ngă theo Tiểu thừa cũng là quư lắm rồi! Thật ra Vô Ngă không phải là riêng của Thừa nào cả, chẳng qua v́ Tiểu thừa nhấn mạnh và chú trọng đến nó hơn, nên tạm gọi như vậy.
Theo tôi nghĩ, Vô Ngă là một giáo lư căn bản rất cần thiết cho sự giải thoát. Những giáo lư khác tuy cũng quan trọng và có thể thâm diệu hơn nhưng vẫn cần dựa trên nó, ví như căn nhà lầu dựng trên nền đá. Nếu nền không chắc, làm bằng bùn, cát, th́ trước sau ǵ căn nhà lầu kia cũng bị sụp đổ. Tuy có tầm mức quan trọng như vậy, nhưng lại ít có sách vở nói về Vô Ngă cùng những cách thức tu tập.
1/ Ngũ uẩn
Hiểu Vô Ngă hay nói chuyện Vô Ngă không có nghĩa là thành A La Hán liền đâu nhé bạn! Hiểu là một chuyện, tu tập chứng đắc là một chuyện khác. Ở đây không có chuyện "kiến tánh thành Phật".
Theo giáo lư Nguyên Thủy th́ tất cả các pháp đều có, trừ cái Ta (ngă), v́ cái Ta chỉ là một ảo tưởng (illusion), một giả danh (désignation) của 5 uẩn. Nhưng 5 uẩn là ǵ? Là phật tử lâu năm chắc chắn bạn biết 5 uẩn là ǵ, nhưng ở đây tôi xin định nghĩa lại.
Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Uẩn (P. Khanda, Skt. Skandha) Pháp dịch là "agrégat" có nghĩa là một nhóm, một tổng hợp.
* Sắc uẩn: Tức thân thể con người, được cấu tạo bởi bốn đại (đất, nước, gió, lửa), nếu kể chi tiết th́ gồm 32 thứ: tóc, tai, mũi, lưỡi, tim, gan, ruột, phổi... Sắc uẩn tương đối cụ thể, dễ nhận biết nên không cần nói nhiều.
* Thọ uẩn: Là những cảm thọ (sensation) phát sinh do sự tiếp xúc giữa 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) và 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Có 6 loại thọ: nhăn thọ, nhĩ thọ, tỷ thọ, thiệt thọ, thân thọ, ư thọ. Tính chất của 5 loại thọ đầu có thể là: lạc (dễ chịu), khổ (khó chịu), xả (không khổ, không sướng). Riêng ư thọ, theo Duy Thức, có thể có 5 tính chất: lạc, khổ, xả, ưu (buồn) và hỷ (vui).
Khi mắt nh́n lên mặt trời bị chói và nhức, đó là nhăn thọ khổ. Khi tai nghe nhạc êm dịu, thoải mái, muốn nghe nữa, đó là nhĩ thọ lạc. Khi nghe tin người thân chết, sanh ra buồn khổ, đó là ư thọ ưu.
* Tưởng uẩn: Tưởng (P. Sanna, Skt. Samjna) được dịch là tri giác (perception) có nghĩa là sự biết (tri) của các giác quan (căn). Tri giác được phát sanh do sự tiếp xúc giữa 6 căn và 6 trần. Và như thế cúng ta có đến 6 loại tưởng.
Mắt thấy sắc. Sự thấy của mắt gọi là nhăn tưởng. Tai nghe tiếng. Sự nghe của tai gọi là nhĩ tưởng. Mũi ngửi mùi. Sự ngửi của mũi gọi là tỷ tưởng. Lưỡi nếm vị. Sự nếm của lưỡi gọi là thiệt tưởng. Thân xúc chạm vật. Sự xúc chạm của thân gọi là thân tưởng. Ư biết các pháp. Sự biết của Ư gọi là ư tưởng.
Chữ Ư ở đây là ư căn (manas, organe mental) và các pháp là những ǵ thuộc tâm linh như: ư nghĩ, ư niệm, ư tưởng...
Những sự thấy, nghe, ngửi,..., biết ở đây chưa tạo nghiệp, v́ nó không có khả năng tác ư mà chỉ là sự cảm nhận đơn thuần, vô tư của 6 căn đối với 6 trần. Nếu nói theo Duy Thức th́ nó có thể được xem như là hiện lượng (pratyaksapramana).
Tới đây cần định nghĩa lại vài danh từ thông dụng: ư thức, ư niệm, ư tưởng, ư nghĩ. Bốn danh từ này đều liên quan đến Ư, tức ư căn (manas). Trong ngôn ngữ việt nam, khi nói đến chữ "ư nghĩ", ta có thể hiểu theo hai chiều: chủ thể (sujet) và đối tượng (objet).
1/ Chủ thể: Ư căn (chủ thể) suy nghĩ (động từ). 2/ Đối tượng: Ư nghĩ (danh từ) là những điều do Ư căn nghĩ ra.
Thông thường chữ "ư nghĩ" được hiểu theo nghĩa thứ hai.
Ư niệm và ư tưởng cũng vậy. Ư niệm có thể được hiểu là:
1/ Ư căn ghi nhớ (se souvient).[1] 2/ Những điều ghi nhớ (souvenir) bởi Ư căn.
Ư tưởng có thể được hiểu là:
1/ Ư căn thâu nhận (perçoit). 2/ Những điều thâu nhận bởi Ư căn (perception).
Khi Ư-tưởng-một điều ǵ đó, chúng ta cho cái "điều-ǵ-đó" là ư tưởng. Khi Ư-nghĩ-một điều ǵ, chúng ta cho cái "điều-ǵ" này là ư nghĩ. Khi Ư-niệm-một điều ǵ, chúng ta cho cái "điều-ǵ " này là ư niệm.
Ư tưởng, ư nghĩ, ư niệm thường được chúng ta xem là những sản phẩm của Ư, hay nói dễ hiểu hơn là của tâm. Nhưng thực ra chúng không phải là sản phẩm của Ư mà là những đối tượng của sự tưởng, nghĩ, niệm của Ư.
Thay v́ hiểu ư tưởng là sự tri giác của Ư, chúng ta lại cho ư tưởng là một sản phẩm của Ư, đồng nghĩa với tư tưởng. Để tránh trường hợp khó xử này, chúng ta có thể tạm gom cả 3 thứ: ư tưởng, ư nghĩ, ư niệm, đối tượng của ư thành một loại: ư trần. Chữ ư trần này chỉ là một thuộc phần của pháp trần tức đối tượng tổng quát, bao la của Ư.
Về tưởng uẩn, đa số thường hiểu là tưởng tượng (imaginer). Tưởng tượng là ǵ? Ở đây có hai nghĩa: thụ động và tác ư.
1/ Nghĩa thụ động: Tưởng là sự cảm nhận, thâu nhận, ghi nhận của 6 căn c̣n gọi là tri giác. Tượng là những h́nh tượng, h́nh ảnh thuộc tâm linh.
Thí dụ: bất chợt có những h́nh ảnh (tượng) thuộc quá khứ như núi, sông, v.v... hiện hành trong tâm. Khi những h́nh ảnh này khởi lên và Ư (căn) thâu nhận (per Yt) nó, th́ đó gọi là tưởng tượng. Nói cho rơ hơn là Ư (căn) tưởng (cảm nhận) những h́nh tượng. Ở đây không có sự tác ư. Ngược lại, nếu cố nhớ, moi đầu, moi óc, h́nh dung lại h́nh ảnh, th́ đó là một sự tác ư, cố ư thuộc về hành nghiệp (karman). Và khi h́nh ảnh này hiện ra trên mặt ư thức th́ có sự thâu nhận(tưởng). Trong trường hợp này phải nói là Ư-nghĩ-niệm-tưởng-ư trần, tức là có sự suy nghĩ, cố nhớ làm hiện hành ra những h́nh tượng và từ đó có sự nhận biết (tưởng).
2/ Nghĩa tác ư: Tưởng tượng là tạo ra trong tâm trí h́nh ảnh của những sự vật đă tác động vào giác quan, hoặc h́nh ảnh của những sự vật mới lạ chưa xảy ra.
Theo ngôn ngữ thông dụng th́ tưởng tượng mang nghĩa thứ hai, tức tác ư. Như vậy tưởng tượng (imaginer) là một tác động từ ư nên có thể tạo nghiệp. C̣n tưởng (percevoir) của tưởng uẩn là một động từ cảm nhận nên không tạo nghiệp.
Chữ tưởng (samjna) của tưởng uẩn, thấy có vẻ giản dị nhưng cho tới bây giờ, nó vẫn chưa được giảng giải và dịch nhất định là ǵ. Những điều vừa nói ở trên chỉ là ư kiến cá nhân, nên không chắc là đúng. Ai cũng có quyền cho những điều ḿnh hiểu là đúng nhưng không có quyền bắt người khác phải tin và nghe theo ḿnh. V́ thấy đúng hay sai chỉ là chủ quan tương đối. Sau đây tôi xin liệt kê vài dịch từ về chữ tưởng (samjna) trong các tác phẩm Việt ngữ để bạn đọc tùy ư lựa chọn.
- Trong sách "Vấn đề nhận thức trong Duy Thức Học" của thầy Nhất Hạnh, tr.79, nói về 5 uẩn, dịch chữ tưởng là các khái niệm (concepts).
Trong Kinh "Pháp Ấn" do thầy Nhất Hạnh dịch và chú giải, tr.28, dịch tưởng là tri giác (perception).
Trong "Câu Xá Luận Cương Yếu " của thầy Đức Niệm, tr.40, dịch tưởng (uẩn) là nhận thức tổng hợp của các cảm giác đưa đến tưởng nhớ, nghĩ ngợi.
Trong Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung C̣n, tập 3, trang 1093, dịch tưởng (uẩn) là tư tưởng, sự tưởng tượng nơi tâm trí.
Ngoài ra đa số đều dịch tưởng (uẩn) là tưởng tượng, tưởng nhớ.
Đến đây bạn đọc có thể ngạc nhiên hỏi lại tôi rằng: "Tưởng tượng không thuộc tưởng uẩn, thế nó thuộc cái ǵ?"
Trong pháp số Phật học, có nhiều danh từ giống nhau, nhưng ư nghĩa lại khác, tùy trường hợp, vị trí và bối cảnh. Theo tôi, chữ tưởng trong ngũ uẩn, không có nghĩa là tưởng tượng, nó chỉ có nghĩa là tri giác. Trong tâm lư học Phật giáo có nói đến tưởng (P.Sanna, Skt.Samjna) như là một tâm sở trong 51 tâm sở (caittas) của Duy Thức, hoặc 52 tâm sở (cetasika) của A Tỳ Đàm Tiểu Thừa (Abhidham-matthasangaha), hoặc 46 tâm sở của Câu Xá Hữu Bộ. Trong phạm vi này, nó có thể được xem là tưởng tượng (imaginer), v́ có sự tác ư và như vậy nó thuộc về hành uẩn.
- Trong "Vấn đề nhận thức trong Duy Thức học", tr.66, nói về tưởng (tâm sở) như sau: Tưởng là động tác của trí năng trên ảnh tượng thu nhận được, nói một cách khác hơn, là sự cấu tạo thành khái niệm.
- Trong Phật Học phổ thông, khóa thứ IX, tr.38, nói giản dị hơn: Tưởng là nhớ tưởng. Nghiệp dụng của nó là bịa đặt những danh từ để kêu gọi.
Tóm lại khi nói về tưởng, bạn đọc nên cân nhắc xem ḿnh muốn nói về tưởng uẩn hay hành uẩn. V́ nếu thuộc tưởng uẩn th́ chưa tạo nghiệp, c̣n nếu thuộc hành uẩn th́ tạo nghiệp.
Năy giờ chưa nói về ư thức, v́ nó thuộc thức uẩn, sẽ được bàn đến sau.
* Hành uẩn: Là một tổng hợp của những ư nghĩ lưu chuyển. Hành có nghĩa là đi, là làm, là tiếp tục, là chuyển. Pháp dịch là formations mentales. Khi Ư căn hoạt động phối hợp với các tâm sở, kết quả của sự hoạt động này cho ra những ư nghĩ, hay nói chung là tất cả ư trần, đối tượng của 51 tâm sở. Như vậy hành uẩn bao gồm cả 51 tâm sở (caittas, facteurs mentaux) và cùng những đối tượng của nó.
Năm mươi mốt tâm sở là:
- Năm biến hành: xúc, tác ư, thọ, tưởng, tư.
- Năm biệt cảnh: dục, thắng giải, niệm, định, huệ.
- Mười một thiện: tín, tàm, quư, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.
- Sáu căn bản phiền năo: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
- Hai mươi tùy phiền năo: phẫn, hận, phú, năo, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quí, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đăi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
- Bốn bất định: hối, miên, tầm, tư.
Để biết nhiều hơn, bạn có thể nghiên cứu về Duy thức hoặc A Tỳ Đàm.
* Thức uẩn: Thức (P.Vinnăna, Skt.Vijnăna) là sự nhận thức, phân biệt, hiểu biết. Pháp dịch là conscience hay discernement. Theo giáo lư nguyên thủy th́ thức được phát sinh do sự tiếp xúc giữa 6 căn và 6 trần. Và như vậy chúng ta có 6 loại thức.
Nhăn thức là cái biết của mắt khi nh́n thấy cảnh trần. Nhĩ thức là cái biết của tai khi nh́n thấy âm thanh. Tỷ thức là cái biết của mũi khi ngửi thấy mùi hương. Thiệt thức là cái biết của lưỡi khi nếm vị. Thân thức là cái biết của thân khi xúc chạm đồ vật. Ư thức là cái biết của Ư khi nhận thức ư trần.
Đến đây, chắc hẳn bạn đọc đă để ư, từ lúc nói về Tưởng uẩn, tôi đă dùng chữ Ư đi đôi với căn. Đó là để phân biệt Ư căn (Manas) với Ư thức (Mano- vijnăna). Ư căn là một bộ phận tâm linh (organe mental) mà từ nơi đó làm phát sinh ra sự nhận thức. Sự nhận thức này gọi là Ư thức (conscience mentale).
* Sự khác biệt giữa Tưởng và Thức.
Tưởng là tri giác, tức sự biết của các giác quan. Thức cũng là sự biết của 6 căn, vậy hai cái biết này giống hay khác?
Cái biết của Tưởng có tính chất cảm nhận đơn thuần, vô tư, trong khi cái biết của Thức lại có tính chất phân biệt, khái niệm. Để dễ hiểu, xin lấy thí dụ về một em bé gái (ngây thơ), một anh thợ săn và một đồng tiền vàng. Khi đi đường, nếu em bé nhặt được một đồng tiền vàng, em sẽ chỉ thấy đó là một vật tṛn, mỏng, màu vàng, có h́nh vẽ xinh xắn, có thể trở thành một món đồ chơi của em. Em không hề hay biết ǵ về giá trị của đồng tiền cả. Sự "thấy" đồng tiền vàng của em bé được dụ cho Tưởng. Ngược lại, đối với anh thợ săn th́ khác. Khi thấy đồng tiền vàng, anh ta liền biết đó là một đồng tiền vàng cùng với giá trị của nó. Vói tiền này anh sẽ mua được tất cả thứ ǵ anh thích. Sự "thấy" đồng tiền vàng của anh thợ săn này dụ cho Thức.
Đúng ra theo giáo lư Nguyên Thủy th́ chúng ta có thể ngưng ở đây, sau khi đă định nghĩa năm uẩn. Nhưng đa số thường không rơ sự khác biệt giữa Tâm, Ư và Thức nên tôi sẽ tạm mượn một ít giáo lư của Duy Thức, trong đó phân biệt chi tiết về Tâm, Ư và Thức.
Vẫn biết mục đích của tập sách này là nói về Vô Ngă chứ không phải Duy Thức, nhưng cái Ngă là một tổng hợp phức tạp, cấu tạo bởi năm uẩn, trong đó thủ phạm chấp ngă nằm trong Thức uẩn. Nói về thức uẩn, không ǵ đầy đủ chi tiết hơn Duy Thức. Đây là lư do thứ hai cần phải nói một chút về Duy Thức.
Theo Duy Thức th́ Thức uẩn (vijnăna skandha) bao gồm Tâm (citta), Ư (manas) và Thức (Vijnăna). Tâm được xem là thức thứ 8, Ư được xem là thức thứ 7, Thức tức là 6 thức đầu được kể ở trên. Sau đây chỉ xin lược nêu về 3 thức: thứ 8, thứ 7 và thứ 6.
Thức thứ 8, có tên là Tàng thức hay A lại Da thức (Alaya-vijnăna). Thức này có 3 nghĩa:
a/ Năng tàng: Thức này chứa đựng, ǵn giữ chủng tử (bija) của các pháp.
b/ Sở tàng: Sở tàng ở đây không có nghĩa là bị chứa, mà có nghĩa là Thức này bị ươm ướp (parfumé) bởi chính những chủng tử được chứa trong nó.
c/ Ngă ái chấp tàng: Thức này bị thức thứ 7 (manas) bám víu và chấp làm Ta.
Thể và dụng của thức này sâu rộng vô cùng, chúng ta không thể thấu hiểu bằng ư thức thông thường được. Nó chính là nền tảng cho 7 thức kia phát sinh. Tánh chất của nó là vô phú vô kư, có nghĩa là không bị che lấp bởi vô minh, nhưng cũng không thiện, không ác. Như vậy nó không phải là thủ phạm chấp ngă.
Thức thứ 7 tên Mạt Na (manas-vijnăna). Nó là Ư căn (organe mental) tức là căn cứ, nơi phát sinh ra ư thức (conscience mentale). Cũng như mắt là nhăn căn, nơi phát sinh ra nhăn thức. Thức này c̣n có tên là "Truyền tống thức" v́ nó công năng truyền các pháp hiện hành vào Tàng thức và tống đưa các pháp chủng tử khởi ra hiện hành. Thức này được xem là thủ phạm chính của sự chấp ngă. Sự chấp ngă của nó thuộc loại "câu sinh ngă chấp" tức sự chấp ngă sinh ra cùng lúc với thân mạng. Sự chấp ngă này rất khó diệt trừ. Mạt Na thường tương ưng với bốn căn bản phiền năo: ngă si (avidya), ngă ái (atmasneha), ngă kiến (atmadrsti), ngă mạn (asmimana). Ngă si chíng là vô minh, ngă ái là sự thương yêu, ái luyến cái Ta, ngă kiến là cái thấy sai lầm về ngă, ngă mạn là sự kiêu ngạo cho cái Ta cao cả hơn hết.
Hai thức A lại Da và Mạt Na hằng chuyển không bao giờ gián đoạn, ngay cả khi cá nhân đă chết.
Thức thứ 6, gọi là Ư thức (mano-vijnăna). Khi Ư căn tiếp xúc với pháp trần làm phát sinh ra sự nhận thức, sự nhận thức này được gọi là Ư thức. Ư thức có ba h́nh thái nhận thức: hiện lượng, tỷ lượng và phi lượng.
- Hiện lượng: sự nhận thức trực tiếp, vô tư, chưa trải qua suy luận, phân biệt.
- Tỷ lượng: sự nhận thức qua suy luận, phân biệt.
-Phi lượng: Khi hai sự nhận thức trên (hiện lượng hoặc tỷ lượng) phản ảnh sai lầm về thực tại th́ gọi là phi lượng. Thí dụ trong đêm tối , thấy sợi dây tưởng là con rắn.
Trong tám thức, duy có thức này là lanh lẹ và khôn ngoan hơn hết. Trong Bát Thức Quy Củ tụng khi nói về Ư Thức có câu: "Độc hữu nhứt cá tối linh ly" nghĩa là riêng có một cái thức rất lanh lẹ. Suy nghĩ làm việc phải, thức này đứng đầu, tính toán tạo nghiệp ác th́ nó cũng hơn cả (công vi thủ, tội vi khôi). Về tội th́ thức này cũng chấp ngă và chấp pháp. Nhưng sự chấp ngă của nó là "phân biệt ngă chấp", tức chấp ngă do nhận thức phân biệt sai lầm mà ra. Sự chấp ngă này tương đối dễ loại trừ. Sau này tu tập về Vô Ngă, chúng ta sẽ rất cần đến thức thứ 6 này.
Đến đây sự định nghĩa về 5 uẩn có thể được xem như tạm đủ. Năm uẩn, c̣n gọi tắt là thân tâm, tuy được liệt kê thành từng phần, nhưng thật ra chúng hoạt động rất chặt chẽ, không thể tách rời được. Thí dụ khi bị đau răng. Răng thuộc về thân (sắc uẩn), đau thuộc khổ thọ (thọ uẩn), cảm biết có sự đau thuộc tưởng uẩn, biết rơ đó là đau răng thuộc thức uẩn, và mỗi khi thức làm việc đều có sự tương ưng, trợ giúp của các tâm sở, do đó hành uẩn cũng có trong cuộc.
2/ Chấp Ngă
Chúng sinh trôi lăn trong sinh tử chỉ v́ vô minh lầm tưởng có một cái Ta hiện hữu, rồi bám vào nó, biến nó thành bản ngă, thành cái Ta (tôi). Nhưng sự thật cái Ta chỉ là một ảo ảnh, một giả danh. Thế nào là ảo ảnh (mirage)? Khi đi trong sa mạc, đói khát, nh́n xa thấy có ao nước nhưng khi chạy lại gần th́ chẳng thấy ǵ cả. Ao nước là một ảo ảnh, nó ảnh hiện như có mà kỳ thực là không. Cũng vậy, con người luôn luôn cảm thấy như có một cái Ta (hiện hữu), nhưng nếu t́m kỹ lại th́ sẽ không thấy. V́ sao? V́ nó chỉ là một giả danh, danh từ tạm lập (nom désigné) của một hợp thể 5 uẩn. Tất cả mọi người đều cho rằng cái Ta thật có và xem đó là điều hiển nhiên, nhưng đây là một tà kiến, một cái thấy sai lầm, nguyên nhân chính gây ra khổ đau và luân hồi.
Trong kinh luận có nói đến 62 tà kiến về sự chấp ngă, nhưng chung quy cũng không ngoài 5 uẩn. Đó là chấp:
- Sắc là Ta - Sắc nằm trong Ta - Ta nằm trong sắc - Ta có sắc. [2]
Chấp sắc là Ta: Cho thân tứ đại, đầu, mắt, tay, chân,... là Ta. Khi thân đi th́ cho là Tôi (Ta) đi. Nh́n trong gương thấy mặt đẹp, cho là tôi đẹp.
Chấp sắc nằm trong Ta: Cho sắc là một phần nhỏ nằm trong cái Ta (lớn). Thí dụ như nói "chân tôi đau " tức chân là một phần của tôi.
Chấp Ta nằm trong sắc: Cho Ta là một phần nhỏ của sắc, tức sắc lớn hơn Ta. Thí dụ như nói "Tôi đau bụng " tức Tôi nằm trong sắc (bụng).
Chấp Ta có sắc: Cho Ta là cái ǵ ở ngoài sắc và là chủ của sắc. Thí dụ như nói "Tôi phải săn sóc cái thân".
Trên đây là 4 điều lầm chấp về sắc uẩn. Đối với 4 uẩn c̣n lại cũng lầm chấp như trên, chỉ thay thế thọ, tưởng, hành, thức vào chữ sắc. Như thế có 20 sự lầm chấp về 5 uẩn; 20 sự lầm chấp này xảy ra trong cả 3 thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Thí dụ chấp cái sắc (thân) hôm qua là Ta, cái sắc hôm nay cũng là Ta và cái sắc ngày mai cũng vẫn là Ta. Như vậy là có 60 (20x3) sự lầm chấp (tà kiến).Thêm vào 2 lầm chấp nữa là chấp thường và chấp đoạn: cho cái Ta này thường c̣n vĩnh cửu hoặc mất hẳn sau khi chết. Trên đây là 62 tà kiến về Ngă (satkayadrsti). Bạn đọc nên ngẫm nghĩ lại và kiểm chứng trong đời sống hằng ngày hoặc những lúc thiền quán, xem ḿnh chấp ngă kiểu nào và chấp cái ǵ là Ngă.
Muốn tu hành giải thoát phải ư thức được ḿnh có bệnh chấp ngă, v́ bệnh này nguy hiểm hơn bệnh tham, sân, si trăm ngàn lần. V́ chấp ngă nên mới sinh ra tham lam dành giật cho cái Ta và những cái của Ta. V́ chấp ngă nên có ai xâm phạm hoặc trái ư cái Ta th́ nổi sân lên. V́ chấp ngă nên si mê tạo đủ thứ nghiệp cho cái Ta sung sướng và bảo vệ cái Ta. Người nào mà cái Ta (bản ngă) càng lớn th́ đau khổ càng nhiều. Bởi thế người tu cần phải cố gắng diệt trử bản ngă.
3/ Vô chủ
Sự chấp ngă của Mạt Na là "câu sinh ngă chấp" tức sự chấp ngă cùng sinh ra một lần với thân mạng. Nhưng thật ra Mạt Na đă chấp ngă trước khi thân mạng được sinh ra. Nó lấy kiến phần (darsanabhaga) của A lại Da làm đối tượng và lầm cho đó là Ngă. Do đó sự chấp ngă này rất là vi tế. Có nhiều người quan niệm rằng khi mới sinh ra tánh của con người là thiện (nhân chi sơ tánh bổn thiện) rồi từ từ lớn lên mới nhiễm những tật xấu do xă hội mang lại. Nhưng ta hăy quan sát những đứa trẻ mới sinh ra hoặc khoảng một hai tuổi, tụi nó cũng biết tranh giành đồ ăn hay đồ chơi. Băy nhiêu đó cũng cho thấy là cái ngă của chúng đă hiện hữu rồi, không cần phải xă hội hay cha mẹ dạy. Sau khi thân mạng được sinh ra, Mạt Na có cơ hội củng cố sự chấp ngă của nó, bằng cách gán vào mọi sự vật đối tượng cái nhăn hiệu Ta và của Ta. Như mỗi lần mở miệng ra nói Ta (Tôi) là một lần củng cố thêm sự hiện hữu của cái Ta, trừ trường hợp Ư thức biết đó là một quy ước giả lập (langage conventionnel).
Sự chấp ngă của Ư thức là "phân biệt ngă chấp" tức sự chấp ngă do nhận thức sai lầm mà ra. Sự nhận thức sai lầm này là kết quả của vô minh quá khứ, c̣n gọi là si tức sự không thông hiểu giáo lư Phật pháp như Tứ Diệu Đế, Tam Pháp Ấn (vô thường, khổ, vô ngă)...
Khi nh́n vào cái thân tứ đại này, thay v́ ghi nhận một cách đúng đắn: "đây là thân", Ư thức lại ghi nhận: "Đây là Ta, hoặc đây là thân Ta". Khi đi, thay v́ ghi nhận như thật: Thân đang đi, hoặc có một sự đi, Ư thức lại ghi nhận: "Ta đang đi".
Ư thức tuy cũng chấp ngă, nhưng nó có khả năng ghi nhận, phân biệt sự vật đúng như thật (yathabhutam). Nếu được học, hiểu, tu tập quán chiếu Vô Ngă, dần dà Ư thức sẽ không c̣n ghi nhận sai lầm về sự thật nữa mà sẽ hiểu tất cả những sự đi, đứng, nằm, ngồi, nói, năng, v.v... chỉ là một sự tác động vô chủ của 5 uẩn. Không có một cái Ta nào hiện hữu thực chất (substantiel) để làm chủ hay điều khiển 5 uẩn cả. Pháp Thiền Tứ Niệm Xứ rất có công hiệu trong việc thanh lọc và truy luyện Ư thức. Nói đến đây, nhớ lại trong quyển "Thiền Tứ Niệm Xứ", phần Niệm Thọ, tôi có nhấn mạnh rằng khi đau chân, hành giả tuyệt đối không được niệm: "Tôi đang đau, hoặc chân tôi đau", mà phải niệm "có một cảm giác đau nhức đang phát sanh (nơi chân)". Thực thế, làm ǵ có một cái Tôi nào đau chân? Nếu niệm Tôi đang đau, tức chấp cảm thọ đau là Ta (bạn đọc xem lại 62 tà kiến về Ngă ở trên).
Ư thức cần nhận diện cho rơ sự duyên khởi vô chủ của 5 uẩn cũng như của các pháp. Để hiểu rơ về vô chủ, ta có thể quán chiếu về mưa. Mưa là ǵ? Là một hiện tượng thiên nhiên, là sự rơi rớt của những hạt nước từ trên không xuống đất. Gặp trời nắng, nước trong sông, hồ, bốc hơi lên tụ thành mây. Khi khí hậu thay đổi nhiệt độ và áp tiết th́ mây biến thành nước và rơi xuống thành mưa. Những hạt nước mưa chảy trở về ao, hồ. Sau đó, nếu gặp trời nóng sẽ lại bốc hơi lên và cuộc tuần hoàn lại tái diễn. Như vậy mưa chỉ là một phần nhỏ của cả cuộc tuần hoàn trên. Không có Ai làm ra mưa! Mưa là một hiện tượng vô chủ, tức không có ai làm chủ hay điều khiển nó. Cũng thế, khi bước đi, bạn không nên cho rằng có một cái Ta bước đi mà chỉ có một sự bước đi , hay đúng hơn là có một cái thân đang bước đi. Sự bước đi này cũng là một hiện tượng vô chủ, diễn tiến như một cơn mưa vậy. Chỉ có một sự đi chứ không có Ai đi cả! V́ sao? Trong tâm có một ư niệm (muốn đi) hiện khởi, ư niệm này tác động vào thân khiến cho thân di động. Chỉ có một sự di động, biến chuyển xảy ra do tác động phối hợp của thân và tâm, thế thôi! Sự kiện này xảy ra "vô chủ". Thế nhưng bởi vô minh chấp ngă, Mạt Na cộng tác với Ư thức, gán vào sự kiện vô chủ đó một ông chủ, tức cái Ta: "Ta đi".
Ngay nơi 5 uẩn này đă có một sự chấp Ta rồi, và tệ hại hơn nữa, khi đối đầu với thế giới bên ngoài, tiếp xúc, xưng hô, chúng ta không thể nào không dùng chữ Ta. V́ nếu bỏ, không dùng chữ Ta nữa th́ ăn nói làm sao bây giờ? Làm sao phân biệt được đâu là anh, đâu là tôi? Đến đây bạn đọc cần nhận định rơ có hai loại Ta (ngă):
1. Một cái Ta dường như hiện hữu độc lập, tự tánh (le Je intrinsèque) không tùy thuộc vào nhân duyên bên ngoài, giữ vai tṛ chủ động, sai khiển 5 uẩn.
2. Một cái Ta giả lập (le Je désigné) trên 5 uẩn để chỉ định, phân biệt, xưng hô cho một cá nhân trong môi trường xă hội, cộng đồng. Nó là một danh từ quy ước (convention) rất cần thiết cho đời sống hằng ngày, thuộc Tục Đế (vérité relative).
Thông thường, v́ ít khi nào để ư xem cái Ta hiện hữu kiểu nào, có mấy loại, nên chúng ta chấp lẫn lộn cả hai loại trên. Trong hai cái Ta th́ cái Ta dường như hiện hữu độc lập tự tánh là một tà kiến cần phải giải trừ, v́ thực sự nó chưa và sẽ không bao giờ hiện hữu (exister). C̣n cái Ta giả lập là một quy ước tục đế , nó vô hại một khi đă thấu hiểu Vô Ngă. Các vị A La Hán, Bồ Tát, sau khi chứng ngộ vẫn tiếp tục dùng chữ Ta (tôi) để xưng hô hay nói chuyện với người, nhưng trong tâm của các ngài không c̣n bám víu vào một cái Ta, không c̣n bóng dáng của một cái Ta hiện hữu độc lập. Tuy cái Ta giả lập này tự nó không phải là một tà kiến, nhưng nếu không hiểu Vô Ngă, th́ mỗi lần dùng đến nó như nói: Tôi đi, tôi làm, tôi nói, v.v... chúng ta lại vô t́nh củng cố thêm sự chấp ngă sâu dày từ đời vô thỉ.
Nói đến đây xem như xong phần "Chư pháp Vô Ngă". Chúng ta có thể chuyển sang nói chuyện theo Đại thừa để thay đổi không khí.
4/ Có hay Không?
Đa số hay ưa chuộng Bát Nhă, thích tu theo "Không", ít khi nào nói đến "Có", xem "Có" như một tà kiến, rất không được nói đến, v́ nếu nói đến có thể bị liệt vào Tiểu thừa chấp pháp. "Không" và "Có" là hai khái niệm đối đăi tương sinh. Nếu không có "Không" th́ sẽ không có "Có". "Không" và "Có" giống như hai mặt của một đồng tiền, làm sao có thể tách rời được?
Nhưng trước khi nói chuyện có Có-Không, thiết nghĩ cần phải xác định lại ư nghĩa cũng như vị trí của hai chữ này. Như ở phần trước, khi nói đến Vô Ngă, cần phải hiểu Ngă là ǵ? Ta là ǵ? Chấp ngă là chấp ngă cái ǵ? Có là có cái ǵ? Không là không cái ǵ? Cũng cùng một danh từ mà nói theo trong Đạo th́ một nghĩa, theo ngoài đời th́ lại một nghĩa khác. Do đó khi nói chuyện, nhất là chuyện Đạo, cần xác định lại phương diện vị trí, hoặc theo Chân đế tuyệt đối (paramartha) hoặc theo Tục đế tương đối (samvrti) hoặc Tánh (svabhava) hoặc Tướng (laksana). Vẫn biết Tánh không rời Tướng, Tướng không rời Tánh, nhưng nếu nói lẫn lộn th́ sinh ra nhiều hiểu lầm.
Thông thường chữ "Có" có nghĩa khẳng định (affirmation), "Không" là phủ định (négation). Thí dụ hỏi: Anh có đi chơi không? Câu trả lời sẽ là hoặc Có hoặc Không. Trong trường hợp này "Có", "Không" là một trợ động từ (verbe auxiliaire), v́ "có" là có cái ǵ? Có (đi chơi). "Đi chơi" là động từ chính. Ngoài ra chữ "Có" trong tiếng Việt có thể hiểu như một động từ (verbe). "Có" (posséder, avoir) như sở hữu, có được: "Tôi có hai căn nhà". Chữ "Có" c̣n có nghĩa là có mặt, hiện hữu (exister) như: Cái bàn có hay không? "Không" là một danh từ đối lập của "Có". Dù được dùng như trợ động từ hay động từ chính, chữ "Có và Không" vẫn không nằm ngoài hai nghĩa "Khẳng định" và "Phủ định". Nhưng khẳng định là khẳng định cái ǵ? Phủ định là phủ định cái ǵ? Không thể khẳng định hay phủ định suông được! Do vậy, "Có và Không" cần phải đi đôi với một túc từ (complément) mới đủ nghĩa. Song le, trong đời sống hằng ngày, chúng ta có thể bỏ rơi túc từ cũng không sao, v́ trong nội dung câu chuyện ta vẫn có thể hiểu được. Nhưng trong Đạo, lời Kinh thường được dịch theo lối Hán-Việt, và nếu không dùng theo văn phạm Việt Nam th́ sẽ gây nhiều hiểu lầm. Đó là trường hợp chữ "Không" của Bát Nhă:
"Sắc tức thị không, Không tức thị sắc!"
"Cái bàn có hay không?" - Cái bàn có mà không! Nói như vậy ai mà hiểu cho nổi! Chữ Không ở đây nó không phải đối lập với Có nữa mà nó phủ định chuyện khác.
Xưa kia, Thần Hội đến viếng Lục Tổ Huệ Năng. Tổ có nói câu:
- Ta thấy mà cũng chẳng thấy! Thấy là thấy lỗi lầm nơi tâm ḿnh, chẳng thấy là không thấy những việc phải quấy của người khác.
Ở đây đối tượng của thấy và chẳng thấy không phải là một mà là hai thứ khác nhau. Cũng thế "Cái bàn có mà không!" là nghĩa làm sao?
Cái bàn có mà không có thật! Danh từ "có thật" có hai nghĩa, tùy theo Đạo hay theo Đời. Theo Đời, những ǵ mắt thấy, tai nghe, tay sờ mó được th́ gọi là có thật. Theo Đạo Phật th́ danh từ có thật không có nghĩa như vậy. "Có thật" có nghĩa là có thật tánh, có tự ngă, tự tánh. Thí dụ: Nếu cái bàn có thật th́ dù có đem nó ra băm chẻ, thiêu đốt th́ nó vẫn là cái bàn, không thay đổi. Trải qua một trăm tỷ năm, không cần ai làm ra nó, không cần ai tạo ra nó mà tự nó vẫn là cái bàn th́ đó gọi là có thật. Nhưng thực tế, nếu đem cái bàn ra băm chẻ, thiêu đốt, nó sẽ không c̣n là cái bàn nữa, và như vậy theo đạo Phật th́ cái bàn không có thật (n'existe pas vraiment). Không có thật c̣n có nghĩa là không có tự tánh (n'ayant pas de nature propre).
Cái bàn có mà không có thật đồng nghĩa với cái bàn có h́nh tướng mà không có tự tánh. Chữ "Có" ở đây có nghĩa hiện hữu (exister) chứ không phải sở hữu (avoir). Cái bàn có hiện hữu chứ đâu phải không, v́ ai nấy đều nh́n thấy nó. Nó do nhiều nhân duyên hợp lại như gỗ, đinh, cưa, búa, v.v... mới thành. V́ do nhân duyên hợp nên không thể tự có một ḿnh được. Sự không thể tự có một ḿnh được gọi là không có tự tánh.
Như vậy khi nói "cái bàn có mà không", chữ "có" và "không" ở đây không phải là hai danh từ đối đăi trực tiếp như chúng ta thường hiểu mà chữ "có" nó khẳng định một chuyện (có hiện hữu) và chữ "không" lại phủ định một chuyện khác (không có tự tánh).
Để tránh trường hợp lầm lẫn cho "có" là đối lập của "không" chúng ta có thể thay thế chữ "có" bằng chữ "ảnh hiện" (apparaitre). Về chữ "ảnh hiện", có một thí dụ rất hay trong số mười thí dụ nói về pháp Không của Kinh Đại Bát Nhă, đó là ảo ảnh về sóng nắng (mirage).
Khi đi trong sa mạc, đói khát, nh́n đằng xa, ta thấy có một ao nước. Mừng rỡ chạy vội đến. Nhưng khi đến nơi th́ chẳng c̣n thấy ao nước nào cả! Ao nước rơ ràng hiện bày trước mắt, nhưng khi t́m lại th́ không thấy. Vậy ao nước có hay không có? Nếu bảo là có, vậy sao t́m không thấy? Nếu bảo là không th́ sao mắt lại thấy? Vậy phải trả lời làm sao đây? Có hai cách:
- Vừa có, vừa không. - Không có, cũng không không.
Thật ra, không có cũng không không đồng nghĩa với vừa có vừa không. Hai cách trên chúng ta không nên dùng v́ nó hơi "Thiền" quá! Nhiều khi chính chúng ta không hiểu mà làm cho người khác cũng không hiểu luôn. Nói chuyện mà không ai hiểu ai th́ cuộc nói chuyện trở thành vô ích. Cách cuối cùng là nên trả lời dài ḍng nhưng đầy đủ ư nghĩa, tức là: Ao nước có ảnh hiện nhưng không có thật - Đây chính là Sắc tức thị Không. Ao nước tuy không có thật nhưng vẫn ảnh hiện - Không tức thị Sắc.
Theo Chân Đế tuyệt đối th́ các pháp không có thật, không có tự tánh, không thể nắm bắt, nên không sinh, không diệt, tương ưng với chữ Chân Không. Nhưng Chân Đế không ĺa Tục Đế. Các pháp tuy không có thật, không có tự tánh, nhưng chúng vẫn duyên khởi, vẫn ảnh hiện và vẫn diệu hữu.
Thế nào là tuyệt đối, là tương đối? Sau một cuộc truy lùng, t́m kiếm cùng cực tới mức tối hậu (recherche ultime) mà ta thấy được một điều ǵ th́ điều này được xem là tuyệt đối (ultime).Như thí dụ trên: Sau khi t́m kiếm ao nước trong sa mạc, ta không thấy ǵ cả. Sự không thấy ǵ cả là một cái thấy tuyệt đối, c̣n có nghĩa là tối hậu.
Lúc sống b́nh thường, không cần t́m liếm, quán chiếu mà vẫn thấy, cái thấy này được xem là tương đối (relative) tựa như thấy ao nước trong sa mạc.
Cái thấy tương đối (vue relative) đều được mọi người chấp nhận dễ dàng như: lửa nóng, nước lạnh, đàn ông, đàn bà, nhà, cửa, v.v... không cần tu hành ǵ mà cũng thấy được nên gọi là Tục đế (vérité conventionnelle). Cái thấy tuyệt đối (vue ultime) là cái thấy của các bậc tu hành, trải qua thời gian quán chiếu mới nhận ra, và nó có khả năng đưa đến giải thoát nên gọi là Chân đế (vérité ultime).
Vô Ngă, tức không có cái Ta (tự tánh) thuộc Chân đế, cái Ta (giả lập) thuộc Tục đế.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|