Tác giả |
|
ngocnguyet Hội viên

Đă tham gia: 11 December 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:05am | Đă lưu IP
|
|
|
Nghiệp
Phạn ngữ Karman, vẫn được dịch là Nghiệp, có nghĩa là việc làm. Đó là một danh từ xuất phát từ ngữ căn kr, có nghĩa là làm, tạo tác, hành động, hoạt động... Việc làm ở đây là một hoạt động có mục tiêu như một học sinh học chăm chỉ nên thi đậu. Thi đậu là mục tiêu, phương tiện để đạt đến mục tiêu ấy là hoạt động chăm chỉ học hành. Nhờ học sinh ấy làm công việc học hành chăm chỉ nên mới đạt được mục tiêu ḿnh mong muốn là thi đậu.
Chúng ta có thể nói rằng đây là một việc làm có tính chất nhân quả, như nhờ học sinh đó "làm việc" chăm chỉ như thế, nên học sinh ấy đem lại một kết quả cho chính ḿnh là thi đậu, mà ngoài ra lại c̣n có thêm các kết quả phụ thuộc khác như bố mẹ vui mừng, mọi người khen ngợi. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu rằng ư nghĩa của karman chỉ giới hạn trong tiến tŕnh "việc làm" mà thôi, nghĩa là karman bắt đầu từ một ư muốn có mục tiêu khởi lên, rồi ư muốn ấy thúc đẩy cơ thể chúng ta "làm việc" nhằm đạt đến mục tiêu, cho đến bao giờ ư muốn ấy cho rằng làm việc như thế là đủ để đạt đến mục tiêu mà nó mong mỏi rồi, th́ nó ngưng không thúc đẩy cơ thể chúng ta làm việc nữa, lúc đó coi như nghiệp hay karman thành tựu, dù sau đó mục tiêu có thành hay không thành, có kết quả hay không có kết quả, ư muốn ấy có được thỏa măn hay không thỏa măn, cũng không thành vấn đề nữa. Thế nên hễ cứ có ư muốn và bị ư muốn ấy thúc đẩy "làm việc" xong xuôi là coi như chính Nghiệp đó rồi, chứ không phải đợi chờ đến kết quả được thỏa măn th́ mới được gọi là nghiệp.
Nghiệp là hoạt động có chủ ư của hữu t́nh giới
V́ Nghiệp hay karman là một việc làm bị thúc đẩy bởi một ư muốn có mục tiêu như thế, nên Nghiệp hay karman chỉ là các việc làm của hữu t́nh giới chứ không phải các việc làm của vô t́nh giới. Như nước chẩy, nhưng tự chính nước không hề ư thức là ḿnh chẩy ; nước làm ṃn đá, song không hề ư thức là ḿnh làm ṃn đá ; nước không hề có ư muốn chẩy, không hề có ư muốn làm ṃn đá ; nước không có chủ ư là ḿnh phải làm ṃn đá, không lấy đó làm mục tiêu của ḿnh. Nhân quả của vô t́nh giới chỉ là một tác dụng vô tư vô t́nh, tự nhiên không chủ ư. Trong khi việc làm của karman là một việc làm có ư thức, có ư muốn, có chủ ư, có mục tiêu, có suy xét nhận định, rồi phán quyết là phải làm thế nào, rồi sau đó mới ra tay hành động. Hoạt động của thiên nhiên vô t́nh đều không có được các ư nghĩa này, nên không phải là ư nghĩa của karman.
Và v́ việc làm theo nghĩa của karman là một việc làm có mục tiêu, có chủ ư, có suy xét đâu đó rồi mới làm, thế nên dù là hữu t́nh đi chăng nữa, song các hoạt động vô t́nh không chủ ư như đi đường dẫm chết kiến, các hoạt động theo bản năng sinh tồn hay sinh lư như ăn uống, đi tiêu đi tiểu, ngủ nghỉ, các hành động tự nhiên của cơ thể như đi đứng nằm ngồi, các hoạt động của các giác quan như nh́n nghe ngửi nếm v.v... đều không phải là ư nghĩa của karman.
Nghiệp chính yếu là hoạt động gieo nhân thuộc cơi con người
Chính v́ thế, đại đa số các hành động của các cơi (thú, gati) hay các loài khác ngoài loài người, v́ chỉ là các hoạt động quả báo, nói rơ hơn là các sinh hoạt trả quả, nghĩa là các hoạt động của họ chỉ là các sinh hoạt đáp ứng tương xứng lại với Nghiệp nhân mà thôi. Như hữu t́nh của cơi trời th́ hát ca, hưởng thụ ngũ dục sung măn đầy đủ như ư ; hữu t́nh thuộc địa ngục, ngạ quỷ th́ khổ sở đớn đau kêu rên không tận ; hữu t́nh thuộc súc sinh th́ chỉ sinh hoạt bằng bản năng không biết phân biệt phải trái tốt xấu hay dở đúng sai ; hữu t́nh thuộc cơi Thiền và Định th́ yên tĩnh b́nh lặng trải rộng an lạc... Các hoạt động hưởng thụ của các cơi trời, khổ sở của ba cơi ác, an lạc của các cơi Thiền Định, đều chỉ là những hành động tự nhiên phải có của quả báo mà thôi, như người làm ác (tức gieo nhân) nên bị tù khổ sai (tức quả báo), khi vào tù th́ các sinh hoạt, hoạt động trong tù như phải lao động cực nhọc khổ sở, đi lại tù túng, không tự do v.v... chỉ là các hoạt động trả quả. Các hoạt động trả quả như thế không được coi là Nghiệp.
Nghiệp hay karman phải là các việc làm hay hoạt động "gieo nhân" chứ không phải các hoạt động hay sinh hoạt trả quả. Thế nên thông thường Nghiệp hay karman hay được thực hiện trong cơi con người (nhân thú), v́ cơi con người không phải chỉ là một trong các cơi quả báo (thú) mà thôi, mà nó c̣n là một cơi có đủ yếu tố và tính chất để gieo nhân nữa. Tại sao vậy ?
Nghiệp là hành vi thiện ác do nơi tâm.
V́ các cơi trời và các cơi thiền định là các cơi quả báo thuần thiện, địa ngục ngạ quỷ súc sinh là các cơi quả báo thuần ác, trong khi cơi con người lại gồm cả báo thiện và báo ác, như người th́ vừa giầu vừa thông minh, người th́ vừa nghèo khổ tật nguyền vừa ngu dốt, các cảnh sung sướng và đau khổ ở chung cùng chỗ với nhau, thế nên người giầu dễ có cơ hội làm nghiệp thiện là bố thí cho người nghèo, người nghèo dễ có cơ hội sinh ḷng tham làm nghiệp ác cướp đoạt của người giầu v.v... Mà theo nguyên tắc của Nghiệp, th́ do tôi làm ác nên tôi mới bị quả như thế nầy, do tôi làm thiện nên tôi mới được hưởng quả như thế kia. Do có thiện ác cho nên mới có quả. Thiện ác ở đây là dựa vào đâu mà thẩm định được ? V́ các việc làm theo nghĩa karman luôn luôn phải được phát động từ một tâm suy tính có chủ ư, thế nên các việc làm này có tính chất ra sao là tùy theo tâm suy tính kia mà ra vậy. Tâm suy tính này (trong Phật Pháp gọi là Tư, cetanà), lại có tính chất thế nào đó là do các suy tính kia hướng theo một lối hoạt động nào đó của tâm. Các hướng hoạt động trong tâm này (trong Phật Pháp gọi là Hành, samskàra) gồm có ba loại là thiện, ác và vô kư, tức không thiện không ác. Nếu suy tính theo hướng thiện, như suy tính muốn bố thí chẳng hạn, th́ tâm suy tính ấy sẽ là thiện, và việc làm do tâm suy tính ấy phát động sẽ theo đó mà là thiện. Ngược lại, nếu suy tính theo hướng ác, th́ việc làm sẽ theo đó thành ác. Và chỉ có các việc làm theo hai hướng thiện ác mới có ư nghĩa của karman.
Thế nên dù là có mục tiêu hay chủ ư có suy tính đi nữa, song các việc làm có tính cách giải trí như đi hóng mát, chơi thể thao, coi kịch nghệ v.v... các việc làm nuôi thân không thiện không ác như ca sĩ hát ca, kịch sĩ đóng kịch, thợ mộc đóng bàn v.v..., các việc làm theo bổn phận không thiện không ác như học sinh học bài v.v..., các việc làm này v́ không có tính chất thiện hay ác, thế nên không có ư nghĩa của karman.
Có một số các việc làm được chúng ta đánh giá sẵn là thiện hay ác rồi, như giết người là việc làm ác, bố thí là việc làm thiện. Song thiện ác theo nghĩa karman được quyết định theo hướng thiện ác của tâm suy tính, chứ không chỉ nh́n theo việc làm mà quyết định. Như một người thấy người thân bị bệnh khổ hành hạ đau đớn mà không cách ǵ qua khỏi, nên phải cho thuốc cho chết đi để khỏi bị đau đớn nữa, th́ v́ tâm suy tính "giết" người thân ấy là tâm thiện chứ không phải tâm ác, thế nên việc làm "giết" ấy không c̣n là ác nữa, mà trong nhiều trường hợp c̣n là thiện nữa. Ngược lại bố thí với tâm ác, như cho với một âm mưu hại người nhận hay cho với một tâm lừa dối, th́ việc làm bố thí đó sẽ không c̣n là thiện nữa, mà lại thành ác.
Thế nên các việc làm thiện ác mà thế gian định sẵn hay chấp nhận chung với nhau như giết, trộm, tà dâm, nói láo, là ác ; không giết, không trộm, không tà dâm, không nói láo, là thiện. Các việc làm ấy cũng vẫn phải được xét theo tâm suy tính trước khi làm các việc ấy là tâm thiện hay ác, rồi mới đánh giá các việc làm ấy là thiện hay ác đúng theo nghĩa của karman được.
Do đó các việc làm thiện ác theo phong tục tập quán của mỗi miền, như tập tục nơi này th́ chồng mà hai vợ là ác, đối với nơi khác th́ nhiều vợ là thiện v.v..., các việc làm thiện ác theo truyền thống văn hóa khác nhau, như có truyền thống văn hoá chồng chết là vợ phải chết theo mới là thiện, các truyền thống khác cho đó là ác v.v... ; cũng như các truyền thống thiện, ác của tôn giáo, như có tôn giáo sáng ra phải lậy mười phương mới là thiện, có tôn giáo tiếp xúc với giai cấp khác là ác, có tôn giáo giết trừ kẻ ngoại đạo là thiện, có tôn giáo phải cạo bỏ hết râu tóc mới là thiện, có tôn giáo không bao giờ cắt tóc hay móng tay mới là thiện v.v... Tất cả các việc làm thiện ác trên đều không phải là tiêu chuẩn thiện ác theo nghĩa của karman. Thiện ác của karman là do nơi Tâm suy tính, (tức Tư, cetanà) quyết định.
Tại sao lại như vậy ? Bởi v́ tâm suy tính này là chủ động trong mọi việc làm thiện ác. Như thấy một người rớt xuống sông, tôi ném ngay một sợi giây xuống để kéo người ấy lên. Hành động hay việc làm ném giây xuống kéo lên này của tôi không phải là vô t́nh hay tự nhiên. Nếu tâm tôi không có chủ ư cứu người ấy, không suy tính mau lẹ là phải cứu làm sao, th́ việc làm ném giây cứu người kia sẽ không bao giờ được thực hiện. C̣n một khi ư tôi đă dứt khoát là phải cúu người ấy, th́ tâm tôi lập tức suy tính ngay là phải làm sao, và suy tính rồi là phải hành động tức thời. Hành động hay việc làm cứu người ấy hoàn toàn do tâm suy tính điều động và làm chủ.
Tư hay là ư nghiệp. Thân nghiệp, ngữ nghiệp hay là biểu nghiệp.
Theo Phật Pháp, việc làm hay hành động cứu người kia của tôi lúc ấy, hay karman của tôi lúc ấy, gồm hai thành phần : một là tâm suy tính thiện có chủ ư cứu người của tôi, hai là thân tôi chạy đi, tay tôi lấy dây ném xuống và kéo lên, có thể thêm nữa là miệng tôi hô hoán các người khác lại kéo giúp. Tóm lại karman hay việc làm bao giờ cũng gồm hai phần là tâm và thân. Việc làm thuộc tâm là các suy tính có tính chất hoặc thiện hoặc ác (trong Phật Pháp gọi là Tư, tức là ư nghiệp, manas-karman) ; việc làm thuộc thân là các hành động của thân nói chung như tay chân, nh́n ngó, lắng nghe... (trong Phật Pháp gọi là thân nghiệp, kàyakarman) và các hành động nói năng của miệng (trong Phật Pháp gọi là ngữ nghiệp, vàkkarman). Song tâm bao giờ cũng đóng vai tṛ chính. Đại thừa Phật giáo, cũng như Nam sơn luật tông sau này, coi karman chính là tâm suy tính (tư), thân hay khẩu chỉ là công cụ hay phương tiện được tâm suy tính sử dụng nhằm thỏa măn mục tiêu mà tâm mong muốn mà thôi.
Nghĩa là khi tôi bố thí cho ai, th́ cái việc làm bố thí hay karman bố thí ấy chính là một hoạt động của tâm suy tính muốn bố thí, chứ không phải là một hoạt động của tay tôi. Tay tôi chỉ là một phương tiện hay công cụ do tâm bố thí của tôi sử dụng lấy để hoạt động theo ư nó. Tâm bố thí của tôi vốn vô h́nh, nhưng khi nó sử dụng đến thân và tay của tôi, th́ nó hiển hiện ra rơ ràng qua hành động cuả tay tôi đưa của thí ra cho. Hành động bố thí của tay tôi thực ra chỉ là hành động của tâm tôi mà giờ đây chính tôi và mọi người đều thấy rơ ra được. Hành động của tâm hay karman khi hiển lộ ra và được tất cả mọi người nhận biết rơ qua thân và khẩu như thế được gọi là biểu nghiệp. Biểu (vijnapti) là lộ rơ ra bên ngoài cho mọi người thấy biết.
Tuy karman thật sự chỉ là hành động của tâm suy tính (Tư), song nếu chỉ suy tính ở bên trong mà thôi, chứ không chịu biểu lộ ra bên ngoài qua phương tiện thân và khẩu, th́ karman không bao giờ thật sự thành tựu. Song chắc chắn đă là karman th́ là phải biểu lộ ra qua hai mặt thân hoặc khẩu.
Tại sao vậy ? Bởi v́ mọi hoạt động suy tính của tâm (Tư) đều do duyên theo thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh mà khởi. Như thân tôi ngồi trong pḥng khách, nước để dưới bếp, em tôi cũng ở dưới bếp. Khi tôi cảm thấy khát nước và muốn uống nước, th́ tức thời tâm muốn uống nước của tôi sẽ dựa theo hoàn cảnh của thân tôi và khung cảnh xung quanh mà suy tính ngay rằng là thân tôi phải đứng lên và đi thẳng xuống dưới bếp th́ mới uống được nước và sẽ được thỏa cơn khát. Đó là tâm suy tính của tôi dùng đến thân mà hoạt động. Ngoài ra khi tôi suy tính rằng em tôi đang ở dưới bếp, th́ tôi có thể dùng đến phương tiện "miệng" là la với xuống bếp bảo em tôi có lên th́ mang lên cho tôi một ly nước. Đó là tâm suy tính của tôi dùng đến"miệng" mà hoạt động. Chắc chắn một khi đă muốn uống nước th́ tâm tôi sẽ phải suy tính cách nào đó để nó được thỏa măn, và các phương tiện để làm nó thỏa măn th́ không có ǵ ngoài thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh. Thế nên chắc chắn thân khẩu sẽ được sử dụng đến để liên hệ với hoàn cảnh xung quanh mà thành ra một việc làm của tâm suy tính được biểu lộ ra qua hai mặt thân khẩu trên bối cảnh là hoàn cảnh xung quanh.
Tóm lại, chỉ cho đến lúc chết, c̣n th́ tâm tôi không bao giờ thoát ra được khỏi thân này và thế giới xung quanh, thế nên chắc chắn hễ đă có chủ ư, đă có suy tính (Tư, hay karman, hay ư nghiệp) muốn làm ǵ đó rồi, th́ thế nào nó cũng sẽ phát động thân và khẩu làm việc (tức biểu nghiệp của thân và khẩu), chiếu theo hoàn cảnh xung quanh mà hoạt động xoay sở để mà được như ư.
Vô biểu hay là Nghiệp nhân, chủng tử
Và ngay khi hai nghiệp thân khẩu vừa làm việc xong xuôi, hay ngay khi karman hay Tư hay ư nghiệp vừa biểu lộ ra qua thân và khẩu xong xuôi, th́ không phải là karman chấm dứt, mà tức th́ karman thành tựu. Nói theo nguyên tắc của Phật Pháp là : ư nghiệp thúc đẩy thân nghiệp và khẩu nghiệp hoạt động, hoạt động cuả thân nghiệp và khẩu nghiệp vừa chấm dứt là Nghiệp thành tựu. Chúng ta thấy ngay là có một sự lộn xộn nào đó về danh từ Nghiệp hay karman này, tại sao Nghiệp làm xong rồi, đă không chấm dứt mà lại thành Nghiệp ! Nếu chúng ta thế vào các chữ Nghiệp ấy bằng các danh từ khác chuyên môn hơn, th́ nguyên tắc ấy sẽ không có ǵ là mâu thuẫn nữa : biểu nghiệp của thân khẩu vừa chấm dứt là vô biểu thành tựu.
Vô biểu này là ǵ vậy ? Vô biểu (avijnapti) có nghĩa là không biểu lộ ra bên ngoài để cho chính ḿnh và mọi người thấy biết hay nhận ra, nghĩa là karman hay Nghiệp trong giai đoạn này không biểu lộ ra bên ngoài cho mọi người nhận biết như trong giai đoạn biểu nghiệp của thân khẩu nữa. Tóm lại tiến tŕnh của Nghiệp hay karman diễn tiến như sau :
1/ Nghiệp khởi động lên với một chủ ư muốn đạt được mục tiêu nào đó, nên suy tư tính toán, t́m cách hoạt động để đạt mục tiêu. Đây là giai đoạn ư nghiệp hay là Tư. Trong giai đoạn này, Nghiệp chỉ hoạt động bên trong tâm chứ chưa biểu lộ ra ngoài cho mọi người thấy biết, nên tuy không ai nhận biết ra Nghiệp, song tâm tôi nhận biết được Nghiệp.
2/ Suy tư tính toán dứt khoát xong, Nghiệp phát động hai phương tiện thân và khẩu hoạt động để đạt đến mục tiêu một cách cụ thể. Đây là giai đoạn biểu nghiệp của thân và khẩu hoạt động. Trong giai đoạn này Nghiệp từ trong tâm biểu lộ ra bên ngoài qua hai mặt thân khẩu cho chính tôi và mọi người đều thấy biết được Nghiệp.
3/ Biểu nghiệp thân và khẩu vừa chấm dứt, Nghiệp ẩn ch́m đi thành vô biểu. Trong giai đoạn này, chính tâm tôi và mọi người xung quanh đều không c̣n nhận biết ra sự hoạt động của Nghiệp nữa.
Điểm đặc biệt nhất của karman hay Nghiệp là Nghiệp không hề chấm dứt sau khi đă biểu lộ ra ngoài qua hai nghiệp thân và khẩu, và được gọi là vô biểu. Ví như tôi có chủ ư ăn cắp chiếc đồng hồ của người bạn, tức giai đoạn nghiệp ăn cắp c̣n ở nơi tâm ư, gọi là ư nghiệp. Nên dùng tay lấy đi, tức giai đoạn nghiệp ăn cắp biểu lộ ra cho thấy rơ qua thân, gọi là thân biểu nghiệp. Lấy vừa xong th́ vô biểu thành tựu, tức giai đoạn Nghiệp ăn cắp vẫn tiếp tục hoạt động mà chính tôi và mọi người xung quanh đều không ai hay biết hay nhận ra được.
Song vô biểu như thế là để làm ǵ ? Vô biểu đó chính là nhân chủng liên tục hoạt động cho đến khi tác thành quả báo mới thôi. Nếu Nghiệp hay karman chấm dứt ngay khi biểu nghiệp thân khẩu chấm dứt, th́ lấy ǵ làm nhân để thành quả báo sau này nữa ? Nếu Nghiệp ăn cắp chấm dứt ngay khi tay tôi lấy xong chiếc đồng hồ, th́ coi như tôi không c̣n ăn cắp nữa. Giây phút ăn cắp đă qua rồi, mọi việc làm ăn cắp đă chấm dứt, không c̣n ǵ nữa là ăn cắp hết, th́ coi như tôi không dính ǵ đến chuyện ăn cắp ấy, vậy quả báo ở đâu ra đây ? Nếu mà có quả báo, th́ bắt buộc phải có nhân, và nhân ấy phải liên tục có mặt cho đến bao giờ thành quả mới thôi. Đạo Phật chấp nhận có quả báo, thế nên nhân ấy chính là Nghiệp vô biểu, tức là Nghiệp sau khi biểu lộ ra qua thân và khẩu th́ ẩn ch́m đi mà thành nhân.
Quả báo hay dị thục
Quả báo ở đây có nghĩa là thế nào ? Phải chăng do tôi ăn cắp chiếc đồng hồ xong xuôi, nên Nghiệp ăn cắp ấy thành nhân vô biểu, liên tục kéo dài đến một tháng sau th́ tôi bị khám phá ra, và phải chịu quả báo là nhục nhă và mất tín nhiệm đối với mọi người ?
Quả báo của Nghiệp không phải chỉ giản dị như vậy. Mà đă nói là Nghiệp hay karman th́ quả báo phải là một đời sống kiếp sau đó tiếp theo đời sống hiện tại này. Nếu mọi quả báo đều thành ngay trong đời sống hiện tại này, th́ sẽ có các khó khăn phi lư như sau :
Quả đều thành ngay trong hiện kiếp, th́ sẽ không có tái sinh để trả quả nữa, và như thế sẽ không có luân hồi nữa. Và không ai cần phải tu Đạo, v́ chắc chắn tất cả đều sẽ có được Niết Bàn vô sinh khi kiếp này chấm dứt.
Lại vốn dĩ con người tạo rất nhiều nghiệp nhân trong đời sống hiện tại, th́ làm sao có đủ th́ giờ để thành hết bằng đó quả được ?
Lại một người mà gieo hai nghiệp nhân trái ngược hẳn nhau, một nhân có quả là trường thọ, một nhân có quả là yểu mạng, vậy hai nhân đó làm sao có thể cùng thành quả được trong cùng một đời sống này ?
Lại đời sống hiện tại này vốn là quả của một nghiệp nhân quá khứ, nay các nghiệp nhân trong hiện tại cũng thành quả ngay nơi đời sống này th́ sẽ làm biến loạn cái quả hiện tại, và làm nguyên tắc nhân quả không sao thực thi được nữa. Như quả báo của tôi trong hiện tại là cả một đời nghèo, nay tôi tạo nghiệp bố thí thành nhân giàu có, nhân ấy sẽ thành quả giầu sang ngay trong đời này, như vậy cái quả báo cả đời này nghèo của tôi sẽ không được thực hiện nữa, và ngược lại cái quả báo hiện tại là tôi nghèo cũng ngăn chận không cho quả báo giầu có được thực hiện, cả hai hỗ tương phá nhau, th́ c̣n lư lẽ nhân quả ǵ nữa !
Lại nếu trước khi tôi lâm chung, tôi cho bố thí hết gia sản giầu có của tôi rồi mới tắt thở qua đời, vậy cái nhân bố thí hết của cải của tôi làm sao thành quả đây, v́ đời sống hiện tại của tôi không c̣n nữa ?
Do đó mà kết quả của Nghiệp hay karman phải là một đời sống kiếp sau. Thế nên ư nghĩa quả báo không phải chỉ là một liên hệ nhân quả theo nguyên tắc luận lư kiểu toán học hay lối luân lư đạo đức thế gian, nghĩa là một kẻ làm ác nên ngày kia bị bắt bỏ tù. Mà trái lại, Nghiệp luôn luôn có riêng một kết quả báo đáp tương xứng lại với chính nó, quả ấy là quả riêng của nó, Nghiệp sinh ra một quả riêng của ḿnh (dẫn sinh tự quả). Nghĩa là cho dù có nhiều kẻ làm ác suốt đời mà không thấy bị trừng phạt ǵ hết, trái lại vẫn sung sướng hưởng thụ cho đến khi chết, th́ điều ấy không có ǵ nghịch lư đối với Nghiệp. V́ theo nguyên tắc của Nghiệp, đời sống hiện tại này chính là quả báo của Nghiệp nhân đời trước ; c̣n các Nghiệp nhân ác mà hắn hiện tại gieo rắc, th́ chúng có riêng cả một hoạt động chuyển biến phát triển để thành quả riêng cuả chúng là một đời sống đầy đau khổ trong kiếp sau, chứ không cần phải mượn vào cái đời sống hiện tại mà vốn chỉ là quả báo đă rồi của một Nghiệp nhân đời trước. Như chúng ta gieo một hạt cam ngay vào chỗ gốc rễ của cây ổi, th́ hạt cam ấy vẫn phát triển thành một đời sống cây cam của riêng nó khác hẳn với đời sống cây ổi, chứ nó không cần phải mượn vào gốc rễ thân cành của cây ổi để lại kết thành trái cam ! Do đó mỗi Nghiệp nhân sẽ có y báo và chính báo riêng của nó, tức một đời sống riêng của nó, tương xứng với chính nó. Và v́ hữu t́nh không thể có hai đời sống, tức hai quả báo cùng một lúc, thế nên, các nghiệp nhân mà chúng ta tạo nên, sẽ chờ đợi quả báo của đời sống hiện tại này chấm dứt, th́ nó sẽ biến chuyển thành quả đời sau, do đó mà thành tái sinh luân hồi.
Nghiệp như thế là một công tŕnh sinh quả trong một thời gian khác. Nghiệp được gieo trong đời này, nhưng kết quả là một đời sau khác. Nghiệp khi được gieo th́ chỉ là do Tư và biểu nghiệp của Tư qua thân khẩu mà thành vô biểu tiềm ẩn không hiện, rồi cứ thế ngấm ngầm biến chuyển sao cho quả được thành. Khi thành quả th́ gồm cả một thân tâm và cả một thế giới hay một đời sống trong một thế giới. Thế nên quả báo của Nghiệp mới được gọi theo danh từ chuyên môn là dị thục (vipàka). Tiếp đầu ngữ "vi" của phạn ngữ có nghĩa là sai khác, hán ngữ là dị ; chữ pàka có nghĩa là nấu chín, chỉ cho quả khi chín mùi, hán ngữ là thục. Ư nói quả (thục, pàka) cuả Nghiệp luôn luôn khác (dị, vi) với nhân nghiệp theo ba phương diện như sau :
1/ Một là nhân biến khác đi rồi quả mới chín, chứ không trực tiếp thành quả ngay (biến dị nhi thục).
2/ Hai là quả chín vào lúc khác với nhân chứ không thành quả ngay trong thời hiện tại với nhân (dị thời nhi thục).
3/ Ba là nhân là các hoạt động để sinh quả, thế nên nhân phải là Nghiệp thiện hay ác, trong khi thành quả th́ các hoạt động tự nhiên của quả chỉ là để hưởng hay chịu quả, chứ không phải là các phải là các hoạt động để sinh quả, thế nên quả không phải là Nghiệp thiện hay ác, do đó nhân và quả là hai loại Nghiệp khác nhau (dị loại nhi thục).
Tóm lại Nghiệp hay karman như thế là cả một sự nghiệp tạo dựng thế gian, thành lập hữu t́nh đủ loại, một sự nghiệp mà các tôn giáo hữu thần đều đặt vào trong tay của Thượng Đế hay Thần Linh tối cao của họ, th́ ở đây, trong Phật giáo, sự nghiệp ấy chính là karman, như trong Câu Xá Luận nói :"Thế gian muôn vàn sai biệt, đều do nơi Nghiệp sinh ra" (karmajgam lokavaicitryam). Thế nên karman được chính thức dịch là Nghiệp.
Các nhân tố thành lập Nghiệp : khí thế gian, hữu t́nh thế giân và vô minh, phiền năo
Nghiệp như thế có phải do môt cái Tôi (àtman), một chủ thể hay một tác giả (kartr) nào đó tự làm ra hay không ? Kinh Pháp Cú (Dhammapada) ghi :
attanà'va katam pàpam attanà samkilissati
attanà akatam pàpam attanà'va visujjhati
suddhi asuddhi paccattam nănno annam visodhaye
Có nghĩa là: Do tự ḿnh tạo tội, do tự ḿnh ô nhiễm ; do tự ḿnh không tạo tội, do tự ḿnh thanh tịnh ; tịnh hay bất tịnh do chính tự nơi ḿnh, không ai thanh tịnh cho người khác được.
Bài kệ trên cho chúng ta một cảm tưởng như cái Tôi của ḿnh là chủ thể tạo ra tất cả mọi Nghiệp, tội ác cũng như thanh tịnh. Song theo sự giải thích của giáo lư Đại thừa th́ do đức Phật tùy thuận theo tâm suy lư chấp ngă của chúng sinh mà phương tiện sử dụng cái lối nói chấp Tôi, cái cách nói quy kỷ "tự ḿnh" ấy của chúng sinh, để thuyết pháp cho họ dễ hiểu. Chứ thật sự ra Tôi không hề có và không hề có ai là "tác giả" hay "người làm", như Buddhaghosa nói trong Visuddhimagga :
Dukkham eva hi, na koci dukkhiqto
kàrako na, kiriyà va vijjati ;
maggam atthi, gamako na vijjati
Nghĩa là : Dĩ nhiên là có khổ, song không có ai là người khổ ; không có ai là người làm, song việc làm th́ có đó; có tịch diệt mà không có người tịch diệt ; có con đường mà không t́m đâu ra người đi.
Như vậy, không có ai tạo Nghiệp hết, mà như chúng ta đă nói ở trên, Nghiệp chính là Tư, là tâm suy tính có chủ ư muốn đạt đến một mục tiêu nào đó. Tâm ấy không có Ngă, mà cũng không phải chính nó là Ngă, bởi v́ chính nó cũng không tự có mà do nhiều nhân tố tạo nên.
Như chúng ta đă nói ở trên, khi tâm suy tính là tâm dựa vào các dữ kiện như thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh mà suy tính, tâm muốn đạt đến một mục tiêu cụ thể dĩ nhiên phải sử dụng đến thân khẩu mà hoạt động đối xử với hoàn cảnh xung quanh. Do đó thân khẩu và hoàn cảnh xung quanh là các điều kiện phải có cho Nghiệp có phương tiện và có chỗ mà hoạt động. Chỗ như thế Phật Pháp gọi chung là "vô t́nh thế gian" (loka) hay chính xác hơn nữa là "khí thế gian" (bhàjanaloka), tức là nơi ở hay "chứa đựng" hữu t́nh.
Phương tiện thân khẩu sở dĩ được sử dụng đến là do tâm suy tính thôi thúc hoạt động, sự thôi thúc này là lực hoạt động của phiền năo (klesa) tham sân si. Phiền năo này cũng không hề là Ngă hay có Ngă, mà chỉ do tâm vô minh (avidya) không thấy rơ chân lư Vô Ngă, lại vọng tưởng cho rằng là có Ngă, thế nên phân biệt thành ta với người mà thành ra đồng loại chung sống hoạt động với nhau, gọi là "hữu t́nh thế gian" (sattvaloka), trong khi hữu t́nh chung sống đụng chạm với nhau th́ từ tâm phân biệt ngă chấp này so đo tính toán và tham sân si khởi động lên, rồi đối với nhau mà hoạt động thành Nghiệp thiện và ác. Do đó vô minh cũng như phiền năo là những nhân tố chính yếu để khơi động Nghiệp vậy.
Tóm lại Nghiệp phát sinh là nhờ hoàn cảnh môi trường xung quanh cộng với vô minh chấp ngă và phiền năo tham sân bên trong mà khởi lên Tư lự suy tư tính toán, rồi thúc đẩy thân khẩu hoạt động mà thành biểu nghiệp thiện ác, biểu nghiệp này vừa chấm dứt th́ thành nhân vô biểu thiện ác tiếp tục hoạt động phát triển dần dà mà thành quả là một đời sống khổ sướng sau này.
Nghiệp là nhân của luân hồi mà cũng là nền tảng của Đạo
Chính v́ Nghiệp không phải là một tự Ngă, mà phải do nhiều yếu tố nhân duyên khác mới thành lập được, thế nên cường độ thiện ác nặng nhẹ của Nghiệp đều tùy thuộc vào các nhân duyên ấy và do đó mà quả báo của Nghiệp cũng theo đó mà thành sai khác. Thí dụ hai người cùng làm một biểu nghiệp bố thí cho cùng một người nghèo, song một người thí với tâm thương xót, một người thí với tâm bực bội, mà thành ra hai Nghiệp nhân bố thí có phẩm chất thiện sai khác nhau. Người thí với tâm thương xót có phẩm chất thiện hoàn toàn hơn nên khi thành quả cũng được nhiều sung sướng viên măn hơn là người thí với tâm bực bội. Lại hai người cùng bố thí, mà một người thí cho kẻ đói, một người thí cho một tỳ kheo khất thực, th́ do duyên có sai khác như thế mà Nghiệp thí của hai người ấy không đưa lại một kết quả như nhau. Người thí cho kẻ đói có thể có được quả báo giầu có với sức khỏe và tuổi thọ sung măn ; người thí cho vị tỳ kheo có thể có được quả báo giầu có với một đầu óc thông minh sáng suốt và suốt đời an tĩnh...
Nhân duyên tác thành Nghiệp của chúng sinh chính yếu là thế gian, tức ba cơi luân hồi là bối cảnh của Nghiệp; tâm suy tính có chủ ư mong muốn làm ǵ đó (tức Tư), như tâm muốn bố thí v.v..., là chính nhân của Nghiệp; đối tượng của tâm suy tính này, như kẻ nghèo đói hay vị tỳ kheo, là duyên của Nghiệp. Do các nhân duyên ấy mà ra tay bố thí, th́ thành Nghiệp nhân bố thí. Song có điều là chúng sinh có xoay sở tạo bao nhiêu loại Nghiệp theo bao nhiêu cách đi nữa, th́ cũng chỉ là một nguyên tắc nhân quả mà thôi. Nghiệp chỉ là nhân, thế nên có Nghiệp là phải có quả, mà có quả tức có tái sinh, có tái sinh tức c̣n luân hồi, c̣n luân hồi tức c̣n khổ sinh tử. Tóm lại, Nghiệp là tất cả nguồn gốc của luân hồi khổ ! Do đó con đường thoát khổ trong Phật giáo nói chung là chấm dứt Nghiệp, tiêu diệt đi cái nhân tái sinh không c̣n sót chút ǵ nữa, gọi là tịch diệt Niết Bàn.
Lư do Nghiệp của hữu t́nh luôn luôn là luân hồi dù họ có loay hoay xoay sở làm sao đi nữa, là bởi v́ các nhân duyên của Nghiệp hữu t́nh đều có tính chất luân hồi. Tính chất này nằm ở chính nơi tâm suy tính tạo tác (Tư) của hữu t́nh, bởi v́ đây là một tâm vọng tưởng chấp ngă, và thiện ác của nó chỉ thuộc về t́nh cảm phân biệt ta người của tham sân si mà thôi. Hoàn cảnh xung quanh và đối tượng họ nhằm suy tính tạo nghiệp, tức khí thế gian và hữu t́nh thế gian, cũng đều là kết quả của các Nghiệp nhân thiện ác thuộc ngă chấp và tham sân si đời trước, thế nên chúng cũng hoàn toàn thuộc về tính chất vô minh tham sân ấy ! Do không có nhân duyên nào ngoài đó, nên mọi tạo tác của chúng sinh chỉ là Nghiệp nhân đưa đến phiền năo luân hồi mà thôi.
Song đó chỉ là do nơi tính chất phiền năo của tự thân các nhân duyên, chứ không phải là lỗi nơi nguyên tắc của nhân duyên. Như tôi ăn phải chất độc nên đau bụng, th́ đó là lỗi nơi chất độc, chứ không phải lỗi do ăn. Nhất là đối với Đại thừa Phật giáo, nguyên tắc nhân duyên của Nghiệp là căn bản chung vừa cho luân hồi khổ mà vừa cho cả con đường Đạo nữa . Như nếu tôi ăn vừa phải và ăn đủ chất bổ, th́ thân tôi sẽ khỏe mạnh không bệnh. Vậy th́ thân thể ốm đau hay khỏe mạnh đều do cùng một nguyên tắc ăn mà ra. Cũng thế, chúng sinh đau khổ luân hồi hay được giải thoát thành Phật đều cùng một nguyên tắc nhân duyên của Nghiệp mà ra. Chẳng hạn nếu như thế giới mà tôi sinh vào là Tịnh Độ của Phật, hữu t́nh mà tôi tiếp xúc gặp gỡ như là đồng loại toàn là đại A La Hán cùng với bất thối Bồ Tát, tâm nguyện suy tính hoạt động của tôi là tâm Bồ Đề cứu độ chúng sinh. Với các nhân duyên phối hợp như thế, thời các hoạt động biểu nghiệp thân khẩu của tôi chắc chắn sẽ luôn luôn là Nghiệp Đạo, nhân vô biểu của tôi sẽ luôn tương ưng với Đạo, và quả báo của tôi sẽ chỉ là Đạo quả mà thôi. Thế th́ cho dù là nhân quả, song hoàn toàn là nhân quả của Đạo.
Thế nên, Đại thừa Phật Pháp nhấn mạnh hoàn toàn vào mặt tạo dựng nhân duyên và hoạt động theo nhân duyên của Nghiệp Đạo, như phải sinh về cơi Phật, phải tạo công đức in kinh ấn tống, lập chùa đúc tượng, bố thí nhẫn nhục v.v... phải dùng ba nghiệp tán thán lễ lậy cúng dường niệm tướng chư Phật. Nếu trong các nhân duyên của Nghiệp, th́ Tư, tức tâm suy tính có chủ ư với mục tiêu nào đó, là chủ lực nhân chính yếu, thời trong Phật giáo Đại thừa Tư ấy được phát khởi thành những đại Nguyện rộng lớn vô biên, đến mức độ dường như một vị Bồ Tát sẽ tái sinh măi măi để cứu độ chúng sinh bất tận... Với Đại thừa, tất cả các việc làm trên đều là nhân duyên để phát triển Nghiệp Đạo ; và Nghiệp giờ đây, với các nhân duyên như thế, sẽ trở thành nhân của Đạo, tức là cơ sở hay là nền móng của Đạo vậy. Trong khi với Thanh Văn thừa, nhân duyên chỉ có nghĩa là nhân duyên của tái sinh đau khổ mà vô minh và Nghiệp chính là "thủ phạm", và diệt trừ các nhân duyên ấy đi chính là giải thoát Niết Bàn. Ư nghĩa này hoàn toàn rành mạch rơ ràng trong tiến tŕnh mười hai nhân duyên đưa đến luân hồi của hữu t́nh.
Tóm lại, khảo sát Nghiệp đến giai đoạn này sẽ trở thành khảo sát về nhân duyên. Và v́ nhân duyên vô vàn phức tạp, thế nên cần thiết phải là một đề tài riêng rẽ. Điều cần lưu ư ở đây là nguyên tắc của Nghiệp không phải chỉ áp dụng cho việc thành lập nhân của thế gian luân hồi, mà c̣n áp dụng chung cho cả việc thành lập nhân tu Đạo nữa. Có điều con đường Giải Thoát của Thanh Văn thừa dường như muốn chấm dứt cái nguyên tắc Nghiệp ấy để chứng nhập Niết Bàn, trong khi Đại thừa lại vẫn sử dụng đến Nghiệp để thành lập nhân Đạo. V́ nếu Phật đă là quả th́ bắt buộc phải có nhân, và Nghiệp chính là cách thức để gieo nhân, thế nên Đại thừa vẫn dùng đến Nghiệp để gieo nhân thành Phật. Nhưng nếu vậy th́ Phật thuộc về nhân quả, mà Niết Bàn của Thanh Văn có nghĩa là giải thoát cứu cánh là do chấm dứt mọi nhân quả, tức chấm dứt mọi luân hồi. Và v́ Thanh Văn lấy Niết Bàn là cứu cánh, thế nên không cần phải thành Phật, cũng như v́ Phật vẫn thuộc vào ṿng nhân quả, thế nên không phải là Pháp cứu cánh. Theo Phật với Thanh Văn thật ra chỉ là để theo Pháp mà thôi. Phật là Phật, ḿnh là ḿnh, chỉ có Pháp vốn là chân lư chung của cả Phật và ḿnh mới là quan trọng, chỉ có các phương pháp tu tập đưa đến sự chứng nhận ra chân lư ấy mới là quan trọng. C̣n Phật có tâm nguyện ǵ đó khác ḿnh không quan trọng, ḿnh không việc ǵ phải bắt chước Phật. Nếu Phật có cả một quốc độ thanh tịnh của Ngài đi nữa cũng mặc, Ngài có bao nhiêu thần thông, năng lực, công đức để điều phục người trời đi nữa cũng mặc, v́ tất cả đều thuộc pháp Nghiệp nhân quả vô thường, chỉ có Niết Bàn mới chân thật và vĩnh cửu, v́ nơi đó chấm dứt và tiêu diệt không c̣n chút Nghiệp nào c̣n sót lại nữa để tái sinh...
Song, làm sao để đưa đến chỗ chấm dứt Nghiệp nhân luân hồi, làm sao để đưa đến chỗ chứng nhập được Pháp cứu cánh Niết Bàn ? Chả lẽ cứ ngồi yên một chỗ đừng làm ǵ hết, th́ đó là tiêu diệt Nghiệp hay sao ? Hay không lẽ Nghiệp tự động diệt ? Hay cứ chờ đó rồi sẽ có vị thần nào đó ban cho ḿnh Niết Bàn ? Thanh Văn thừa thường nhấn mạnh là ḿnh phải tự tu lấy, tự tiêu diệt lấy các Nghiệp nhân ấy. Cái hoạt động "tự" ấy theo Đại thừa, nguyên tắc của nó chính là Nghiệp mà thôi. Như vậy muốn chấm dứt Nghiệp th́ vẫn phải dùng đến Nghiệp vậy !
Do đó, nguyên tắc của Nghiệp là nền tảng của tất cả mọi pháp, dù là thế gian hay là xuất thế gian. Thế nên, vấn đề Nghiệp kế tiếp sẽ được tiếp tục khảo sát qua ba chiều hướng như sau : một là Nghiệp là nhân của tất cả vô lượng vô biên thế giới và đời sống hữu t́nh ; hai là Nghiệp là nhân để diệt trừ chính Nghiệp mà đă tạo thành vô lượng vô biên thế giới hữu t́nh ; ba là Nghiệp là nhân để chuyển hóa vô lượng vô biên thế giới hữu t́nh trở thành thanh tịnh để ḥa nhập vào vô lượng vô biên thế giới thanh tịnh của vô lượng vô biên chư Phật. Và một lần nữa, chúng ta lại càng cảm nhận ra được tầm vóc bao la vô biên của Nghiệp để cảm thông với Thế Thân Bồ Tát qua câu nói của Ngài để mở đầu phẩm Nghiệp trong Câu Xá Luận:"Thế gian muôn vàn sai biệt, đều do nơi Nghiệp sinh ra !".
|
Quay trở về đầu |
|
|
thaicuc Hội viên

Đă tham gia: 12 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 119
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Tin Trong Đạo Phật
Tin là Tin, là chấp nhận, là sự thật, là việc lành, là mầu nhiệm, chớ không có ḷng nghi. Như tin Phật, có nghĩa là chúng ta chấp nhận Đức Phật là một đấng siêu nhiên, là một con người vĩ đại trong giữa đám người trần tục. Tin Tam Bảo, có nghĩa là chúng ta chấp nhận nơi Tam Bảo có đủ khả năng làm nơi nương tựa cho chúng ta. Đến với Tam Bảo chúng ta sẽ không c̣n lo âu phiền muộn.
Một người có đức tin, có ḷng tin, sẽ làm cho các điều thiện tăng trưởng, và làm cho tâm trí của ḿnh lắng trong, yên ổn, thanh cao. Như vậy. Ḷng tin là một cội rễ lớn của sự tu hành, nhờ đó mà các pháp sanh ra nhiều đức lành, nên kêu là Tín Căn. Cũng kêu là Tín Căn Bổn, một trong năm căn:
- Tín
- Tấn
- Niệm
- Định
- Tuệ
Tín căn là ḷng tin Tam Bảo, ḷng tin Tứ Đế ăn sâu trong tâm của chúng ta. Nhờ có Tín Căn chúng ta mới bền chí và vui ḷng tu hành Lục Độ:
- Bố Thí
- Tŕ Giới
- Nhẫn Nhục
- Tinh Tấn
- Thiền Định
- Trí Tuệ.
Như vậy đức tin là cội rễ. Cội rễ là đức tin. Người tu hành đạo Phật phải lấy đức tin làm cỗi rễ th́ mới được vững chắc trên đường tiến hoá và thành tựu. Kinh Niết Bàn có nói:
- Như ai có ḷng tin đạo, th́ ḷng tin đạo ấy là Tín Căn Bổn nó có thể trợ tá đạo quả Bồ Đề. Đức Phật giảng một nền thánh đạo với chư Thanh Văn, Ngài Phân ra nhiều món diễn thuyết từ Tín căn cho tới tám Thánh Đạo.
Qua những nét căn bản trên chúng ta thấy Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi sáng trước nhất cho chính bản thân chúng ta, kế đến cho thế gian. Mọi sự mọi vật, mọi lẽ chân thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ, nhận thấy lẽ thật rồi mới khởi ḷng tin đó là chánh tín.
Ngược lại với những điều căn bản nói trên là mê hoặc làm mù quán người đời, đó là mê tín. Thấy rơ, biết đúng mới tin là sức mạnh vô biên khiến chúng ta thành công trên mọi lănh vực. Thế nên trong Kinh Hoa Nghiêm có câu:
- Tin là nguồn của Đạo, là mẹ của mọi công đức. Tin hay nuôi lớn các gốc lành.
V́ thế người tu học cần có ḷng tin. Ḷng tin theo quan điểm của Đạo Phật có những lối tin Thanh Tịnh như:
01- Phải tin lời dạy trong Kinh rằng:
- Niệm Phật văng sanh là chân thật. Do đó khi niệm Phật để cầu văng sanh th́ chắc chắn sẽ được văng sanh, cầu an lạc sẽ được an lạc.
02- Phải tin tâm ḿnh là rộng lớn có đủ công đức thanh tịnh. V́ có đủ đức tánh thanh tịnh nên tâm có thể chấp nhận, và tu học theo đạo từ bi một cách dễ dàng.
03- Phải tin cái lư nhơn quả nương nhau như h́nh với bóng, theo nhau chẳng rời. Do đó một việc làm nào, chắc chắn cũng phải có sự liên quan đến ân duyên nhân quả. Cho nên một sự kiện nào đó xảy ra chắc chắc phải có nguyên nhân, chớ không phải vô lư mà có.
04- Phải tin rằng từ cái thân năm ấm của chúng ta cho đến vạn vật, trong các cơi thế giới từ xưa đến nay vốn không có thiệt, đều như hoa giữa hư không.
05- Phải tin rằng ở cơi đời ngủ trược ác thế nầy, toàn là ác độc, dơ dáy, cho nên chúng ta không thể cư trú lâu dài.
06- Phải tin rằng các pháp do tâm tạo, ngoài tâm không có pháp. Do đó muốn tăng tiến các thiện pháp cũng phải trở về với tâm, và muốn tiêu diệt các ác pháp cũng phải trở về với tâm.
07- Phải tin rằng nếu chúng ta cố gắng tu tập th́ cái niệm lực của chúng ta thành tựu không thể nghĩ, không thể bàn.
Cách tin thanh tịnh nầy là lối tin đă qua sàng lư trí gạn lọc kỹ càng, cho nên niềm tin đó rất là vững chăi. Với lối tin thanh tịnh nầy sẽ làm cho tinh thần giác ngộ càng ngày càng tăng tiến thêm hơn. V́ vậy để cho niềm tin càng ngày càng thêm vững chăi, trong cuộc sống hiện thực, đối với những người sơ cơ học đạo, cũng cần phải loại bỏ một số niềm tin, mà cách tin đó được xă hội cho là không lành mạnh. Hay nói khác, đó là mê tín.
Mê tín là lối tin mù quán khiến con người mất hết khả năng thông minh, mất hết tự chủ. Trong dân gian của xă hội Việt Nam chúng ta vẫn thường thấy những h́nh thức mê tín như là:
- Lên đồng,
- Lên cốt,
- Cầu cơ .v..v..
Đó là những hiện tượng mê hoặc khủng khiếp. Bởi v́ những người làm ông đồng bà cốt đều là những người sống trong trạng thái không b́nh thường. Chính bản thân họ đă mất hết khả năng tự chủ, họ bị sai xử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi ma lực đó dựa vào họ liền lạm dụng danh hiệu thánh, những bậc vĩ nhân của thuở xưa, có khi mạo xưng danh hiệu Phật, Bồ Tát hay những vị thần tiên nào đó để đe dọa những người có niềm tin nhưng không được kiên cố, không được hướng dẫn đúng mức theo quan điểm lành mạnh của Phật pháp, nên họ khiếp đảm kính tin. Những người có niềm tin thiếu vững chải như vậy, họ không dám phê phán đó là tà hay chánh. Thế rồi, họ một mực dạ dạ vâng vâng để được thưởng ban phép lành. Họ bị gạt bằng những danh hảo trong cơi vô h́nh hoặc những bùa phép lạ, những huyền hoặc về quá khứ, vị lai. Từ đây họ sống bằng ảo vọng mơ huyền, mất hết lư trí thực tại. Một tôn giáo chân chính, một dân tộc văn minh không cho phép mê tín len lơi vào trong tín đồ ḿnh, trong dân tộc ḿnh. Do đó chúng ta phải có bổn phận khám phá và soi sáng những lối mê hoặc ấy.
Riêng về Phật Giáo trong Kinh đă dạy rơ khi chứng đến quả vị Phật, Bồ Tát, A La Hán đều có đầy đủ trí tuệ và thần thông... V́ thế Bồ Tát hay A La Hán muốn hoá độ những người có duyên, th́ các Ngài liền dùng thần thông hiện giáo hoá, như Bồ Tát Quán Thế Âm, trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa chẳng hạn, không khi nào các bậc thánh đó lại phải dựa nhờ vào thân phàm tục khác làm việc giáo hoá. Như thế những ma lực tựa vào đồng cốt đều là sức của qủy thần. V́ sợ người đời không tin, nên chúng mạo xưng những danh hiệu cho to để gây uy tín. Biết rơ tính cách ma mị của chúng, Phật Tử chúng ta hăy lánh xa, tuyệt đối không được phụ hoạ với chúng. Có thế mới tỏ ra là người Phật Tử chân chánh.
Có người hỏi:
- Nếu nói cầu nguyện theo lối đồng bóng là mê tín, dị đoan vậy th́ sự cầu nguyện trong Đạo Phật là Chánh Tín hay Mê Tín.
Để trả lời câu hỏi nầy, chúng ta có thể dựa theo quan điểm cầu nguyện của mỗi người:
a- Mê Tín:
Nếu chúng ta khẳng định rằng mọi sự cầu nguyện đều được toại nguyện đó là mê tín. Bởi v́ nếu khẳng định sự cầu nguyện chắc chắc được toại nguyện, th́ không cần nói đến nhân quả nghiệp báo. C̣n như nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả nghiệp báo, th́ sự cầu nguyện không thể khẳng định chắc chắn là toại nguyện. Bởi v́ trong cuộc đời có người tạo nghiệp lành dữ. Người tạo nghiệp lành, khi phước báo đến th́ được như nguyện. Kẻ tạo nghiệp dữ khi nghiệp báo đến dù có nguyện cầu cũng khó thoát khỏi quả khổ. Do đó mà nếu khẳng định sự cầu nguyện là được như ư th́ đó là người tin tưởng sai lầm không hợp lư, nên thuộc mê tín.
Để xác định những dữ kiện nầy, với tính các thuần túy theo tinh thần đạo Phật, đứng về chiều thời gian, vạn vật hiện tượng có trong vũ trụ nầy, không vật nào thoát ra ngoài nhân quả mà được h́nh thành. Trên từ tiến tŕnh sinh diệt, quyết hẳn vạn vật từ nhân tiến đến quả, từ quả trở lại nhân. Nhân quả, quả nhân xoay vần không dứt. Đó là hiện tượng sinh hoá trên cơi nhân gian. Nghiệm xét thấu đáo chúng ta không thấy có một vật ǵ không nhân mà có, ngẩu nhiên mà thành. Thấy rơ lư nhân quả chúng ta khéo chuyển cái xấu trở thành cái tốt, cái dở trở thành cái hay. Thấy rỏ lư nhân quả, chúng ta nắm chắc quyền tự chủ tạo dựng tương lai tốt đẹp cho chính ḿnh. Lư nhân quả vừa là khoa học vừa là sức mạnh chuyển tiến của con người. T́m hiểu tường tận lư nhân quả là người thông minh. Biết ứng dụng nhân quả là con người tiến bộ. Khảo sát theo nhân quả là lư luận chặc chẻ, là hiểu biết thấu đáo. Cho nên nghiệm xét lư nhân quả tường tận rồi chúng ta tin tưởng là chánh tín.
Đứng về mặt không gian, thời gian th́ vạn vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hợp thành. Không một vật nào do một đơn vị làm nên, mà phải nhiều đơn vị hợp lại mới thành h́nh. Chính v́ thể mà lư nhân duyên thích ứng với tinh thần phân tích của khoa học ngày nay. Nếu sự vật do nhiều đơn vị thành một vật thể, người ta mới có thể phân tích ra nhiều đơn vị, nhiều loại. Nhỏ nhất như một nguyên tử, người ta phân tích trong đó có nhiều phần hợp thành, huống là những vật thể to tát. Do đó chúng ta thấy rơ lư nhân duyên trong nhà Phật nói là một lẽ thực, đúng với tinh thần khoa học hiện thời. Hiểu đươc Lư Nhân Duyên chúng ta phá tan cái chấp lầm vô nhân và nhất tâm. Hiểu được lư nhân duyên, chúng ta thấy rơ muôn vật trên thế gian có sự liên quan chằng chịt với nhau. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài tập thể, một cá nhân đứng ngoài nhân loại. Đây là lư do khiến dẹp được quan niệm cá nhân ích kỷ. Chúng ta tích cực xây dựng nên hạnh phúc chung cho nhân loại, không riêng của một cá nhân. Tin lư nhân duyên là tin bằng trí tuệ bằng khoa học cho nên chánh tín.
Nhận rơ Lư Nhân Quả, Lư Nhân Duyên là tác dụng của trí tuệ. Chính do nhận xét thấu đáo, phân tích rành mạch, khiến trí tuệ chúng ta càng ngày càng phát triển. Nếu một đối tượng trước mắt, chúng ta cứ thầm nhận là tự nhiên có nó, do tạo hoá làm nên, thế là c̣n ǵ phải nhận xét, phải phân tích. Cứ thế măi, trí tuệ sẽ không thể nào bén nhạy được, đó là cái cớ khiến người ta lười thiếu suy xét, lâu ngày khiến cho tâm trí trở nên ù lỳ chai cứng. Người Phật Tử phải sống bằng trí tuệ, nên thấy rơ vạn vật sinh thành hoại diệt đều nằm trong hệ thống nhân quả, nhân duyên. Sự vật hiện có mà không do nhân quả, nhân duyên là phản lại lư luận, phản khoa học. V́ thế người chánh tín là người thực tế khoa học, nhận xét bằng trí tuệ.
Thâm đạt nhân quả, nhân duyên, người ấy sẽ nhận lấy trách nhiệm nên hư, hay dỡ tốt xấu đều do ḿnh. Ḿnh là chủ động gây thành nhân tốt, tạo ra mọi duyên lành. Mọi duyên không được tốt lành là do ḿnh không chịu gây tạo nhân lành, đây là lỗi tại ḿnh. Biết như vậy chúng ta không nên trốn tránh không kêu than, trái lại can đảm chấp nhận để rồi xoay chuyển. Bởi nhận rơ nhân quả nhân duyên, chúng ta xét một sự kiện xảy ra tốt xấu, phát xuất từ nhân nào, hội đủ nhân duyên ǵ mới xảy ra như thế. Thế th́ dù việc dở việc hay, chúng ta đều thấy rơ không lầm. Chúng ta nổ lực cố gắng tạo điều kiện để chuyển đổi nó. Chịu trách nhiệm để thông qua, đó là tinh thần của người Chánh Tín.
Biết rơ dỡ, hay do ḿnh, quả thực ḿnh là chủ nhân của mọi sự thành bại. Đau khổ, chính ḿnh là người tạo ra. Ngày mai tươi sáng, ngày mai tối tăm, ta là người chủ động. Do hiểu thấu lư nhơn quả nhân duyên, con người sẽ cố gắng chuyển đổi, vươn lên trong mọi lănh vực. Một dân tộc có đức tự tin, không bao giờ cam chịu khuất phục, chậm tiến. Có tự tín là có một sức mạnh phi thường. Có tự tín, sự tu hành mới không thối chuyển.
b- Chánh Tín:
Chúng ta chỉ xem tinh thần cầu nguyện là một sự chúc lành là chánh tín. Chẳng hạn v́ quư kính cha mẹ, quư kính người thân, chúng ta hằng cầu nguyện cho những vị ấy được an lành, trường thọ. Tuy nhiên có được như nguyện hay không là c̣n tùy thuộc phước duyên dày mỏng của những vị ấy. Mặc dù không được như nguyện, cũng nói lên được ḷng hiếu thảo chân thành của chúng ta, cũng như hiếu kính đối với những người trưởng thượng. Trong phong tục Việt Nam cứ mỗi độ xuân về, mọi người thường chúc nhau, trong đó chúng ta thấy những bạn bè, thân hữu, đầu năm mọi người chúc lành cho nhau. Những lời chúc lành nầy không hẳn là sẽ thực hiện được, nhưng cũng nói lên được ḷng quư mến nhau và mong muốn cho người thân của chúng ta có được niềm cao sang phước lạc.
Trong số đức tin của người Phật Tử chúng ta có truyền thống cầu nguyện. Nếu là cho những người quá cố th́ gọi là cầu siêu, và cho người hiện tiền được tai qua nạn khỏi, nghiệp chướng tiêu trừ th́ gọi là cầu an. Chúng ta phải hiểu rằng sự cầu nguyện cũng có nghĩa là đem năng lực của mỗi người cộng lại để hồi hướng cho một gia đ́nh, một cộng đồng, một tổ chức, và lớn hơn là quê hương đất nước.
Sự cầu nguyện có một ư nghĩa rất là mầu nhiệm rất là sâu xa, nếu chúng ta biết ư nghĩa là biết học hỏi, biết thực tập, th́ ư nghĩa cầu nguyện như một sự tu học, một công tŕnh tích lũy công đức và hồi hướng, nó không mang tính cách tín ngưỡng thuần tuư, mà nó mang một ư nghĩa của t́nh thương và sự tụ hội tích luỹ t́nh thương để hồi hướng năng lực thương yêu đó để cho người c̣n, kẻ mất, người xa, kẻ gần từ cá nhân, đến gia đ́nh cho đến tập thể được an vui.
Sự cầu nguyện có một linh ứng, lợi ích rất là sâu xa, nếu người cầu nguyện, có tâm trong sạch, có cảm nghĩ trong sạch, có cái lợi đọc tụng khởi sướng trong sạch, có nghĩa là người cầu nguyện tự nơi cái thân của ḿnh, từ lời nói, ư nghĩ của ḿnh đều trong sạch, và càng nhiều người bao nhiêu, th́ sự trong sạch đó càng tạo thêm một năng lực, năng lực đó có thể hồi hướng cho bất cứ ai cũng được. Người chết mà chưa siêu th́ được siêu thoát về cơi lành, người sống bị đau ốm bị tai nạn có thể nhẹ và lành bệnh, tai qua nạn khỏi.
Khi chúng ta hiểu, chúng ta có kinh nghiệm th́ sự cầu nguyện như là một phép lạ, như là một nguyên tắc làm cho chúng ta có nhiều niềm vui, hạnh phúc và làm cho những người đang vướng mắc, đang đau khổ cởi bỏ sự vướng mắt đau khổ đó, và an vui.
Chúng ta thấy năng lượng của sức mạnh ư chí và cầu nguyện, nếu một người có giới đức thanh tịnh. Một người có thiền quán, khả năng cầu nguyện của người đó chia sẻ với những người bệnh, người đang bị tai nạn. Theo tinh thần của Kinh Địa Tạng nói rằng:
- Cầu nguyện như vậy chỉ chia sẻ cho người mất có ba phần.
Kỳ thực người có năng lực lớn th́ chia mấy mươi phần cũng được. Điều nầy giống như một nhà tỷ phú nói là cho ba phần của mấy trăm tỷ cũng đă nhiều, và như thế người được nhận của cũng đủ giàu sang. Cũng vậy sự cầu nguyện của một người có giới đức thanh tịnh nhờ vậy cho nên lành bệnh. Người không siêu thoát cũng được siêu thoát. Người bị tai nạn nghiệp, báo oan gia chửa hoài không lành th́ được lành. Cho nên thế lực của sự cầu nguyện rất lớn đối với một người tu hành, năng lực đó nó càng lớn hơn là đối với đại chúng. Nói là đại chúng là trong đó có nhiều Thầy, nhiều Phật Tử cư sĩ tại gia, cũng có sức tu học. Người nào cũng có sự thanh tịnh, người nào cũng có đức từ bi, người nào cũng có đức hiếu sinh, sự cầu nguyện đó có thể cảm động đến những vong thức vô h́nh và chuyển hoá những niềm đau nổi khổ của những người chưa có được siêu được siêu thoát, một cách rất là dễ dàng.
Tiếng tụng Kinh lạ lùng lắm, có những ngôi Chùa, Tăng Ni đông đảo người bệnh chỉ nằm trong căn pḥng các Ôn các Thầy tụng Kinh. Nghe xong là lành bệnh chứ không cần chữa ǵ hết. Nghe tiếng tụng Kinh là đánh thức dậy cả một linh hồn, thức dậy cả những sự mê muội. Thức dậy tất cả những năng lực, ngủ ch́m trong con người mang thân năm ấm. Và khi thức dậy rồi tự nhiên những tế bào, bộ phận trong cơ thể tự chửa lấy và b́nh an tức là chửa bệnh bằng cảm giác, bằng âm thanh. Những cách chữa bệnh nầy là những bệnh nan y, mà đối với các vị tu hành đạo cao đức trọng đều có thể chửa được bằng năng lượng. Đó là lư do v́ sao mà mỗi khi cầu siêu cho người qua đời, hay cầu an cho người c̣n, người bị bệnh bị tai nạn, thường tới những chỗ Chư Tăng tu tập, tới những Đạo Tràng thanh tịnh, tới những Tu Viện, bởi v́ người ta nghĩ rằng chỉ có những người tu mới có nhiều năng lực, cho nên chuyển hoá được những nổi khổ của những người bệnh, người chết được siêu thoát. Điều nầy đức Phật đă nói rơ ở trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn:
- Chúng sanh nào mà gặp những tai bay hoạ gởi, chỉ cần tâm thành niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm th́ người đó sẽ được như ư nguyện.
Tác dụng nầy, ư nghĩa nầy năng lực nầy sẽ giúp cho không những người qua đời không thôi, mà ngay những người hiện tiền cũng cảm thấy có nhiều hạnh phúc khi được ăn một bửa cơm rất là thanh tịnh, rất là yên lặng, rất là hoà b́nh với quư Thầy, và chư Phật Tử, đại chúng tu học... Nhất là được ăn bửa cơm sau thời cầu nguyện Kinh Phổ Môn tức là bản Kinh nói về hạnh nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát th́ c̣n ǵ quư giá cho bằng.
Như vậy cầu nguyện có nghĩa là tâm ư của chúng ta hướng tới một mục tiêu, là mang tới cho người nào đó một sự trọn lành. Người có ḷng thương th́ ḷng thương càng lớn thêm, người có trí tuệ th́ trí tuệ càng sâu thêm, đạo hạnh ḿnh có sự tươi mát, th́ sự tươi mát đó trở nên sâu sắc hơn, lớn hơn kỳ vị hơn.
Cầu nguyện là chúng ta dùng năng lượng đó cho người kia, ban cho người kia, đọc tên tuổi người kia làm cho họ được thừa hưởng như một món quà tinh thần. Do đó người nào có:
- Giới thanh tịnh, như không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm... không làm những điều xấu ác gọi là giới thanh tịnh.
- Đức thanh tịnh là người đó, hằng ngày nói những lời nói dễ thương. Lời xây dựng lời mà không tác hại đến ai, không làm đau khổ đến người khác, dù cho một cảm giác nhỏ, người đó gọi là đức thanh tịnh, đây là nói đến con người có ḷng từ bi. Khi nói ra điều ǵ là lợi ích của người khác, và không v́ lợi dưỡng và cá t́nh hẹp ḥi của ḿnh để làm cho người khác đau khổ bằng lời nói gọi là đức thanh tịnh.
- Tánh Thanh tịnh tức là người đó thường ngày ngồi thiền, lễ Phật làm điều lành, tránh điều dữ và thường ngày có hành tŕ công phu bái sám th́ người đó có tánh thanh tịnh, hiển lộ được Phật tánh.
Người nào mà có giới thanh tịnh, đức thanh tịnh, tánh thanh tịnh, một khi người đó cầu nguyện cho bất cứ người nào, th́ người nào đó cũng đều thừa hưởng rất là lớn. V́ vậy một lời cầu nguyện của đức Phật của Chư Tổ, của các vị Tăng tu hành tinh tấn, nó có tác dụng rất lớn cho người nghe, và cho những thân nhân mà ḿnh muốn quư Thầy hồi hướng. Do vậy việc cúng dường trai tăng, việc cúng dường tịnh tài, việc bảo trợ Chùa để phát triển mỗi ngày lớn hơn, làm cho đạo tràng ngày càng thêm khang trang để nhiều người về có chỗ tu tập tụng Kinh bái Sám... Tất cả những cái đó gọi là làm phước, cúng dường. Và người nào biết cúng dường cũng có trong phần gọi là giới thanh tịnh, tức là người có tâm ngưỡng mộ Phật Pháp cho nên cúng dường. Đức thanh tịnh v́ hiểu được Phật pháp cho nên sống dễ thương và hiền lành, và tánh thanh tịnh, nếu chúng ta biết tu thiền, biết quán chiếu, theo sự chỉ dẫn của các Thầy, trong các khoá tu và trong những khi tu tập hằng ngày th́ có đức tánh thanh tịnh.
Bên cạnh mục đích hướng tới cho những người thân của ḿnh, người tu Phật chúng ta c̣n cầu nguyện với mục đích phá tan tâm niệm vị kỷ của ḿnh, cho nên bất cứ một Phật sự nào, chúng ta cũng đều hồi hướng nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo. Mới nghe qua dường như những lời cầu nguyên suông không thể thực hiện được. Tuy nhiên trên tinh thần phá ngă, cứ lập tới lập lui măi, trong tâm niệm v́ tất cả chúng sanh khiến người ta quên hẳn bản ngă riêng tư của ḿnh. Mọi việc làm đều không phải v́ ḿnh, không được lợi ích riêng cho ḿnh, mà phải v́ nhân loại, v́ tất cả chúng sanh. Hằng ngày cứ huân tập măi tâm niệm nầy, đến một lúc nào đó, chúng ta không c̣n thấy bản ngă riêng, đồng hoá giữa ḿnh và chúng sanh không khác. Thế là chúng ta phá được chấp ngă và phát tâm đại bi, xem mọi khổ vui của người như của chính ḿnh.
Hiểu được sự cầu nguyện và ứng dụng cầu nguyện như vậy quả thực là chánh tín.
Nói tóm lại, việc tu tập và nguyện cầu, không những ḿnh tu tập cho ḿnh, cầu nguyện cho ḿnh, làm cho ḿnh an ổn hạnh phúc mà ḿnh c̣n đem năng lực đó cho vợ, cho chồng, cho con, cho ba mẹ, cho người c̣n kẻ mất, người xa kẻ gần đều được lợi lạc. V́ vậy cầu nguyện là một phép tu, cầu nguyện là một sự tích tụ năng lực, cầu nguyện là một nguyên tắc, mà tất cả các giới b́nh dân trí thức đều thực tập được hết. V́ chúng ta không hiểu ư nghĩa nầy, cho nên có nhiều người cho rằng:
- Tụng Kinh cầu nguyện, cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn có tính cách tín ngưỡng thuần tuư, và có tính cánh thiếu khoa học.
Kỳ thực khi mà chúng ta chưa có cảm được, chưa có thấy được những năng lực của sự cầu nguyện, th́ chúng ta coi đó như là những việc làm không tưởng, mê tín dị đoan. Nhưng khi hiểu một cách sâu sắc rồi th́ chúng ta sẽ thấy việc cầu nguyện cũng là một phương pháp thiền quán, cầu nguyện là cái phép lạ ở trong các tôn giáo, và cầu nguyện là một phương pháp rất là giản dị, rất là b́nh thường mà bất cứ người có học, người không có học, người sang kẻ hèn, người trí thức, đều có thể làm được điều đó cho bản thân ḿnh, cho thân nhân ḿnh, cho quyến thuộc của ḿnh, cho người c̣n kẻ mất đều lợi lạc. Đó là lư do tại sao người Phật Tử chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào năng lực của sự cầu nguyện
Kết Luận:
Mê Tín và Chánh Kiến là hai con đường tối sáng khác nhau. Nếu đi bên tối là không thấy bên sáng, nếu đi bên sáng là không thấy bên tối. Đạo Phật chủ trương Chánh Tín, không bao giờ chấp nhận mê tín. Do v́ nhân duyên truyền Đạo, đôi khi người đời chỉ nh́n vào khía cạnh phương tiện, đối với những người không thông lư Đạo, cho nên hiểu lầm đạo Phật là đạo mê tín.
Phải biết rằng, bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác ngộ, th́ làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện nay c̣n những hiện tượng mê tín, mà vội phê b́nh đạo Phật là đạo mê tín th́ có lẽ hơi vội vă, thiếu suy tư. Đây là những oan t́nh của đạo Phật. Tất cả những Kinh Phật không có nói những việc mê tín, chẳng qua v́ muốn hằng thuận với chúng sanh:
- Phật pháp không rời thế gian pháp
V́ thế mới có những phương tiện được khai mở để thích hợp với hoàn cảnh xă hội, cho nên mới bày vẽ để tùy thuận chúng sanh. Đến một lúc nào đó con người đă hiểu thấu được giáo lư nhiệm mầu của Đức Phật, th́ những phương tiện đó cũng không c̣n nữa, mà lúc bấy giờ tinh thần của đạo Phật sẽ về với vị trí uyên nguyên của nó tự thuở ban đầu, như tinh thần Nhất Phật Thừa của Kinh Pháp Hoa mà đức Phật đă từng nhắc nhở cho các hàng môn đệ của Ngài.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|