Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 222 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Đạo lư cho Thiên niên kỷ mới Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 1 of 2: Đă gửi: 08 April 2006 lúc 1:42am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam



ĐẠO LƯ CHO THIÊN KỶ MỚI

VAI TR̉ TÔN GIÁO TRONG XĂ HỘI TÂN TIẾN

Một sự kiện đáng buồn trong lịch sử nhân loại là tôn giáo từng làm một nguồn chính cho các cuộc xung đột. Ngay ở hiện đại, c̣n có các cá nhân thương vong, các cộng đồng hủy diệt, các xă hội bất ổn như kết quả của cuồng tín và cừu hận đến từ tôn giáo.

Chẳng trách sao có những câu hỏi đặt ra về vị trí của tôn giáo trong xă hội loài người. Tuy nhiên nếu suy nghĩ tận tường, chúng ta thấy xung đột nhân danh tôn giáo trổi dậy từ hai nguồn chính. Một chỉ là kết quả của sự đa nguyên tôn giáo - các khác biệt chủ thuyết, văn hóa và nghi thức giữa tôn giáo này và khác. Rồi có xung đột trổi dậy trong khuôn khổ của chính trị, kinh tế, và các yếu tố khác, chủ yếu ở tŕnh độ cơ chế.

Sự ḥa hợp liên tôn giáo là then chốt vượt qua xung đột loại đầu tiên. Trong trường hợp loại thứ nh́, cần t́m ra vài giải pháp. Thế tục hóa và đặc biệt là sự tách ĺa hệ thống tôn giáo khỏi các cơ chế của quốc gia có thể làm giảm bớt vấn đề cơ chế. Tuy vậy, vấn đề quan tâm của chúng ta trong chương này là sự ḥa hợp liên tôn giáo.

Đây là một diện rất hệ trọng trong điều mà tôi gọi là trách nhiệm toàn cầu. Nhưng trước khi quán sát vấn đề vào chi tiết, tưởng cần nên xét qua câu hỏi tôn giáo có thích đáng thật sự trong thế giới hiện đại chăng. Nhiều người lập luận phủ bác. Như tôi đă từng quán sát trước đây, đức tin tôn giáo không phải là điều kiện tiên quyết của thái độ luân lư hoặc của chính hạnh phúc. Tôi cũng đă đề nghị, dù một người có thật hành tôn giáo hay không, các phẩm tánh tâm linh như t́nh thương và tâm từ bi, nhẫn nại, bao dung, tha thứ, khiêm cung, vân vân đều cần thiết. Đồng thời, tôi phải làm sáng tỏ điều tôi tin tưởng, đó là tất cả các thứ trên sẽ được phát huy dễ dàng và hữu hiệu nhất trong khuôn khổ của thật hành tôn giáo. Tôi cũng tin rằng, khi một cá nhân thành tín thật hành tôn giáo, cá nhân đó sẽ hưởng lợi lạc rất lớn. Những người triển khai được một niềm tin vững chắc, đặt nền tảng trên sự hiểu biết và cội rễ trong thật hành hàng ngày, thường dễ đối phó cùng nghịch cảnh hơn những người không có.

Do đó, tôi cũng đoan quyết rằng, tôn giáo có khả năng khôn lường trong việc tạo lợi lạc cho nhân loại. Biết sử dụng đúng đắn, đó là một thứ công cụ hữu hiệu tuyệt vời trong việc xây dựng hạnh phúc nhân sinh. Đặc biệt, tôn giáo giữ một vai tṛ dẫn đạo trong việc khuyến tấn loài người phát huy một cảm thức trách nhiệm đối với tha nhân và một nhu cầu cần giới luật theo đạo lư.

Do đó, trên các nền tảng này, tôi tin rằng tôn giáo vẫn c̣n rất thích đáng cho thời đại mới. Nhưng cũng nên quán xét điều này: vài năm trước đây, thân xác của một người Thời Đồ Đá được khám phá trong băng thạch ở đỉnh núi Alps tại Âu châu. Mặc dù đă hơn năm ngàn năm, thân xác đó vẫn c̣n được giữ nguyên trạng. Ngay cả áo quần vẫn c̣n khá nguyên vẹn. Tôi c̣n nhớ đă từng nghĩ đến việc nếu có thể hồi sanh cho người đó trở về đời sống ngày nay, chúng ta sẽ biết được có bao nhiêu điểm tương đồng cùng ông. Chắc hẳn chúng ta sẽ thấy rằng ông cũng quan tâm đến gia đ́nh và các người thân thuộc, đến sức khỏe của ông, và vân vân.

Bất kể khác biệt về văn hóa và diễn đạt, chúng ta vẫn c̣n có thể nhận diện nhau qua tŕnh độ cảm xúc. Có thể sẽ không có lư do ǵ để giả định rằng ông ấy ít quan tâm đến việc t́m hạnh phúc và tránh đau khổ bằng chúng ta. Nếu tôn giáo, với sự nhấn mạnh về việc t́m hạnh phúc và tránh đau khổ qua việc thật hành giới luật luân lư và vun bồi t́nh thương và từ bi, có thể được cảm nhận thích đáng trong quá khứ, thật khó thấy tại sao lại không c̣n tương tự trong hiện tại.

Cho rằng trong quá khứ giá trị của tôn giáo có thể hiển nhiên hơn v́ đau khổ của loài người rơ rệt hơn do thiếu thốn các tiện nghi tân tiến. Nhưng bởi v́ loài người chúng ta vẫn c̣n đau khổ, dù rằng ngày nay kinh nghiệm đó nằm trong nội tại nhiều hơn, như tinh thần và cảm xúc phiền nhiễu; và bởi v́ tôn giáo ngoài các tuyên ngôn về chân lư cứu độ, c̣n quan tâm đến việc giúp chúng ta vượt qua đau khổ, cho nên chắc chắn vẫn c̣n rất thích nghi.

Như thế làm cách nào chúng ta có thể đem đến sự ḥa hợp thiết yếu để vượt qua mọi xung đột giữa các tôn giáo? Như trong trường hợp các cá nhân dấn thân vào kỷ luật giới chế các phản ứng trước ư niệm và cảm xúc tiêu cực và vun bồi các phẩm tánh tâm linh, then chốt nằm ở việc phát huy tri thức. Trước tiên cần phải nhận diện các yếu tố ngăn trở. Tiếp theo phải t́m cách vượt qua chúng. Có thể loại ngăn trở đáng kể nhất cho ḥa hợp liên tôn chính là thiếu sự thẩm định giá trị của các truyền thống tín ngưỡng khác.

Cho đến gần đây, sự truyền đạt giữa các nền văn hóa khác nhau, ngay cả các cộng đồng khác nhau, rất chậm chạp hoặc có khi không có. V́ lư do đó, thiện cảm dành cho truyền thống tín ngưỡng khác không cần thiết phải hệ trọng - dĩ nhiên ngoại trừ nơi nào các thành viên của nhiều tôn giáo khác nhau cùng chung sống cận kề. Nhưng thái độ đó không c̣n tồn tại được. Trong thế giới hiện đại ngày càng phức tạp và tùy thuộc vào nhau, chúng ta bắt buộc phải nh́n nhận sự hiện hữu của các nền văn hóa khác, các nhóm nhân chủng khác, và, dĩ nhiên, các niềm tin tôn giáo khác. Dù thích hay không, đa số chúng ta đang kinh nghiệm sự đa dạng đó trên căn bản mỗi ngày. Tôi tin rằng cách tốt nhất để vượt khỏi vô minh và đạt được tri thức chính là đối thoại cùng các thành phần của truyền thống tín ngưỡng khác. Điều này có thể diễn tiến bằng nhiều phương cách khác nhau. Thảo luận giữa các học giả trong đó sự đồng quy, và có thể c̣n quan trọng hơn, sự dị phân giữa các truyền thống tín ngưỡng khác nhau được khảo sát và thẩm định, đó là điều rất giá trị.

Ở một tŕnh độ khác, rất hữu ích khi có các cuộc hội ngộ giữa các tín đồ b́nh thường phụng hành các tôn giáo khác biệt, hầu chia sẻ kinh nghiệm của ḿnh. Đó là phương cách hữu hiệu nhất để có thể thẩm định được các thuyết giảng của truyền thống khác.

Trường hợp của tôi, sự hội ngộ của chính tôi cùng cố linh mục Thomas Merton, vị tu sĩ Ki-tô giáo thuộc ḍng Cistercian, đă tạo linh cảm sâu đậm. Các cuộc thảo luận đă giúp tôi triển khai được một sự ngưỡng phục sâu xa đến các thuyết giảng của Thiên Chúa giáo. Tôi c̣n cảm nhận rằng các cuộc gặp gỡ đôi khi cùng quư lănh đạo tôn giáo khác, tụ họp cầu nguyện chung cho một chánh nghĩa chung, quả vô cùng hữu ích. Sự tập hợp tại Assisi ở Ư đại lợi vào năm 1986, khi đại biểu các tôn giáo chính trên thế giới cùng đến cầu nguyện cho ḥa b́nh thật lợi lạc vô lượng cho các tín đồ của rất nhiều tôn giáo, như là biểu tượng của sự đoàn kết và một sự tận hiến cho nền ḥa b́nh của tất cả. Cuối cùng, tôi cảm thấy sự thật hành của các thành viên theo các truyền thống tôn giáo khác nhau cùng đi hành hương chung có thể rất hữu ích.

Trong tinh thần đó, năm 1993, tôi đi Lourdes, rồi đến Jerusalem, thánh địa của ba tôn giáo lớn trên thế giới. Tôi cũng đă viếng thăm các đền điện khác nhau của Ấn giáo, Hồi giáo, đạo Jain, và đạo Sikh ở cả Ấn độ lẫn nước ngoài. Gần đây, nhân một cuộc hội thảo nhằm luận bàn và thật hành thiền định theo truyền thống Thiên Chúa giáo và Phật giáo, tôi có tham dự một cuộc hành hương lịch sử của các hành giả thuộc cả hai truyền thống, trong một chương tŕnh cầu nguyện, thiền định, và thoại luận dưới gốc Bồ đề tại Bồ đề Đạo tràng ở Ấn độ. Đó là một trong số các thánh địa quan trọng nhất của Phật giáo. Khi các trao đổi như thế diễn ra, tín đồ của một truyền thống sẽ thấy rằng, cũng như trong trường hợp của chính ḿnh, giáo lư của các tín ngưỡng khác vừa là nguồn cảm hứng tâm linh vừa là hướng dẫn đạo lư cho các tín đồ. Rơ rệt hơn nữa, bất kỳ chủ thuyết hoặc các thứ khác biệt ra sao, mọi tôn giáo chính trên thế giới đều quan tâm đến việc giúp đỡ cá nhân trở thành người tốt.

Tất cả đều nhấn mạnh đến t́nh thương và từ bi, nhẫn nại, bao dung, tha thứ, khiêm cung, vân vân, và đều có thể giúp cá nhân phát huy các điều đó. Hơn nữa, thí dụ do các vị sáng lập mỗi tôn giáo chính đưa ra đều minh chứng cụ thể một mối quan ngại trong việc giúp tha nhân t́m hạnh phúc qua sự triển khai các phẩm tánh trên. Ngay trong đời sống riêng của chính chư vị, mỗi vị đều hành xử bằng sự chân phương cao cả. Các giới luật đạo lư và t́nh thương dành cho tất cả mọi người là ấn dấu của đời chư vị. Họ không sống xa hoa như vua chúa. Thay v́ vậy, họ tự nguyện chấp nhận sự đau khổ - không hề xét đến các nặng nề khổ nhọc - hầu tạo lợi lạc cho nhân loại như là một toàn thể. Trong sự giáo huấn của chư vị, tất cả đều nhấn mạnh đến sự phát huy t́nh thương và tâm từ bi, và phủ nhận các ham muốn ích kỷ. Và mỗi một vị đều kêu gọi chúng ta phải chuyển hóa tâm trí của ḿnh. Thật thế, dù có đức tin hay không, tất cả chư vị đều xứng đáng được chúng ta tán thán ngưỡng phục sâu xa.

Đồng thời, khi đi sâu vào những thoại luận cùng tín đồ các tôn giáo khác, chúng ta dĩ nhiên cần phải hoàn tất trong đời sống hàng ngày giáo lư của chính tôn giáo ḿnh. Một khi ta kinh nghiệm về lợi lạc của t́nh thương và tâm từ bi, của giới luật đạo lư, chúng ta sẽ dễ nhận ra giá trị của các giáo lư khác. Nhưng cốt yếu phải nhận ra thật hành tôn giáo đ̣i hỏi nhiều thứ chứ không phải chỉ nói, "Tôi tin cậy" hoặc, như trong Phật giáo, "Tôi quy y" là đủ. Cũng nhiều hơn là phải đi lễ chùa, đền điện, hoặc giáo đường. Và học giáo lư không có lợi là bao nếu không đi sâu vào trong tâm mà chỉ ở tŕnh độ trí thức. Chỉ dựa cậy vào đức tin mà thiếu tri kiến và trọn vẹn thật hành, cũng chỉ đạt đến giá trị hạn chế. Tôi thường bảo các người Tây tạng rằng, đeo chuỗi "mada" (giống như tràng hạt) không làm cho người ta trở thành một hành giả thực thụ. Các nỗ lực chúng ta chân thành thực hiện hầu chuyển hóa tâm linh là điều sẽ giúp ta trở nên hành giả thực thụ.

Chúng ta sẽ thấy tầm quan trọng vượt trội của sự thật hành khi nhận thức rằng, theo cùng với vô minh, các liên hệ kém lành mạnh của cá nhân trong niềm tin của họ chính là một yếu tố khác gây sự bất ḥa tôn giáo. Thay v́ áp dụng các sự giảng dạy trong tôn giáo vào đời sống cá nhân, chúng ta lại có xu hướng dùng chúng để tăng cường thêm thái độ quy ngă của ḿnh. Chúng ta liên hệ cùng tôn giáo như một thứ ǵ ta sở hữu, hoặc một thứ nhăn hiệu nào đó chia cách ta cùng người khác. Chắc chắn đó là điều lạc lối. Thay v́ dùng tinh hoa của tôn giáo hầu tẩy gột các thứ độc chất trong tâm và trí, lại có nguy cơ khi ta nghĩ đến việc dùng các chất tiêu cực làm nhiễm độc tinh hoa của tôn giáo.

Chúng ta lại phải nh́n nhận điều này c̣n phản ánh một vấn đề khác, hàm súc trong mọi tôn giáo. Tôi muốn viện dẫn đến lời tuyên ngôn của tất cả tôn giáo như là "chân lư" duy nhất. Làm sao giải quyết khó khăn này? Quả thật trên quan điểm cá nhân của tín đồ, chủ yếu là cần phải hướng nhất tâm vào tín ngưỡng của ḿnh. Ngoài ra c̣n cần tùy thuộc vào sự xác tín sâu xa rằng con đường của ḿnh là phương tiện duy nhất đưa đến chân lư. Nhưng đồng lúc, chúng ta phải t́m cách để kết hợp đức tin đó vào một hiện thực với rất nhiều tuyên ngôn tương tự nhau. Trên diện thật hành, cá nhân hành giả phải t́m ra một lối, ít nhất chấp nhận sự hữu hiệu của giáo lư các tôn giáo khác, đồng thời vẫn giữ được tâm tận hiến cho đạo của ḿnh. C̣n về hiệu lực của tuyên ngôn về chân lư của thế giới, vốn có tánh cách siêu h́nh, đương nhiên đó là vấn đề nội bộ của truyền thống đặc thù đó.

Trong trường hợp của tôi, tôi tin tưởng là Phật giáo cung ứng cho tôi một khuôn khổ hữu hiệu nhất, trong đó tôi có thể đặt hết mọi nỗ lực hầu phát huy được tâm linh qua việc vun bồi t́nh thương và tâm từ bi. Đồng thời, tôi phải nh́n nhận trong khi Phật giáo là đạo siêu diệu nhất đối với tôi - phù hợp với cá tánh, khí chất, khuynh hướng, và bối cảnh văn hóa của tôi - th́ điều này cũng đúng cho Thiên Chúa giáo đối với tín đồ. Đối với họ, Thiên Chúa giáo là con đường tốt nhất. Căn bản của tôi là sự xác tín, tuy vậy, tôi vẫn không thể nói, Phật giáo là tốt nhất cho tất cả mọi người. Đôi khi tôi nghĩ về tôn giáo như là một y khoa cho tinh thần của loài người. Cách sử dụng của nó vốn độc lập, và thích hợp cho từng cá nhân trong các điều kiện riêng, v́ vậy chúng ta không thể phán đoán thật sự mức hữu hiệu của một loại thuốc. Chúng ta không đúng khi bảo, thuốc này rất tốt v́ có các chất liệu thế này thế kia. Nếu không đặt liên hệ tương xứng giữa bệnh nhân và ảnh hưởng của thuốc trên người đó, th́ thật vô nghĩa. Điều thích đáng nhất là nói, trong trường hợp bệnh nhân cá biệt này với chứng bệnh đặc biệt này, loại thuốc đó hữu hiệu nhất. Tương tự, đối với các truyền thống tôn giáo khác nhau, chúng ta chỉ có thể nói loại này là hữu hiệu nhất cho cá nhân đặc biệt nào đó. Nhưng lư luận trên căn bản của siêu h́nh học hoặc triết học rằng tôn giáo này tốt hơn tôn giáo nọ, là điều vô ích. Điều quan trọng chắc chắn là sự hữu hiệu của nó cho các trường hợp cá biệt. Cách giải quyết của tôi về sự kiện có vẻ mâu thuẫn giữa tuyên ngôn của các tôn giáo về "một chân lư và một tôn giáo" và hiện thực đa tín ngưỡng, chính là cần hiểu rơ, cho mỗi trường hợp của một cá nhân quả thật chỉ có một chân lư và một tôn giáo. Tuy nhiên, trong phối cảnh bao quát của xă hội loài người, chúng ta phải chấp nhận khái niệm "nhiều chân lư, nhiều tôn giáo." Tương tự, trong y khoa, trường hợp của một bệnh nhân cá biệt, món thuốc thích hợp quả là món thuốc duy nhất. Nhưng rơ ràng điều đó không có nghĩa là các món thuốc khác không thích hợp cho các bệnh nhân khác.

Theo tôi thiết nghĩ, sự đa dạng trong các truyền thống tôn giáo quả vô cùng phong phú. Do đó, không cần phải t́m cách để nói lên rằng cuối cùng th́ tất cả tôn giáo đều như nhau. Chúng tương đồng trong sự nhấn mạnh tối yếu về t́nh thương và tâm từ bi trong khuôn khổ giới luật đạo lư. Nhưng nói thế không có nghĩa cho rằng chúng nhất thiết phải là một. Tri kiến khác biệt nhau về sáng thế và vô khởi thủy giữa Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Ấn độ giáo, chẳng hạn, có nghĩa là cuối cùng khi đến các vấn đề siêu h́nh, chúng ta cứ tự thật hành riêng lẻ, mặc dù có nhiều điểm tương đồng không thể phủ nhận. Các mâu thuẫn đó có thể không quan trọng lắm trong giai đoạn khởi đầu thật hành tôn giáo. Như khi đi xa trên con đường truyền thống đạo, chúng ta bắt buộc phải nh́n nhận các dị biệt nền tảng. Thí dụ, khái niệm tái sanh của Phật giáo và các truyền thống cổ điển Ấn độ có thể không tương hợp cùng ư niệm cứu rỗi của Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, điều này không phải là một cái cớ để kinh khiếp. Ngay cả trong Phật giáo, trong lănh vực siêu h́nh có rất nhiều quan điểm đối chọi nhau. Ít ra, sự đa dạng đó có nghĩa là chúng ta có nhiều khuôn khổ hầu đặt vào đó giới luật đạo lư và sự phát huy các giá trị tâm linh. Đó là lư do khiến tôi không hề đề thuyết về một tôn giáo siêu việt hoặc mới mẻ nào cả. Làm điều đó, chúng ta sẽ đánh mất đặc tánh của các truyền thống tín ngưỡng đa dạng.

Vài người cho là khái niệm Phật giáo về "shunyata", hoặc không tánh, tối thượng sẽ giống như là tri kiến về khái niệm Thượng đế. Tuy vậy, sự kiện đó vẫn c̣n khó khăn. Thứ nhất là trong khi chúng ta có thể diễn dịch các khái niệm đó, đến tầm mức nào th́ vẫn có thể giữ được sự trung thành cùng kinh pháp nguyên thủy? Có một số tương đồng giữa khái niệm Phật giáo Đại thừa về "Dharmakaya, Sambogakaya", và "Nirmanakya" và Tam Thể trong Thiên Chúa giáo của Thượng đế như là Cha, Con và Thánh Thần. Nhưng nếu ngay trên căn bản đó, mà cho là Phật giáo và Thiên Chúa giáo tận cùng như nhau, th́ quả là đi quá xa! Một câu cổ ngữ của Tây tạng nói, chúng ta phải thận trọng đừng cắm đầu ḅ rừng "yak" vào ḿnh cừu - hoặc ngược lại.

Thay v́ thế, điều thiết yếu là chúng ta phát huy được một ư nghĩa chân chánh về sự đa dạng của tôn giáo, mặc dù các tuyên ngôn khác biệt của các truyền thống tín ngưỡng. Điều này đặc biệt đúng nếu chúng ta thật nghiêm túc trong sự tôn trọng nhân quyền như một nguyên lư toàn cầu. Về diện này, tôi thấy khái niệm về một nghị hội các tôn giáo thế giới rất phấn khích. Trước tiên, chữ "nghị hội" mang một ư niệm dân chủ, trong khi "các tôn giáo" nhấn mạnh đến sự quan trọng của nguyên tắc đa dạng trong truyền thống tín ngưỡng. Phối cảnh đa nguyên trong tôn giáo thể hiện dưới h́nh thức một nghị hội, tôi tin là sẽ thật sự hữu ích. Nó giúp tránh được, một mặt là sự cực đoan quá khích từ ḷng sùng tín tôn giáo riêng, mặt kia là sự hô hào một chủ nghĩa hỗn hợp vô ích. Nối liền với vấn đề ḥa hợp liên tôn này, phải nói đến sự kiện chuyển đạo. Đây là một vấn đề phải được quán chiếu thật nghiêm túc. Cần nhận thức rằng, không phải chỉ chuyển đạo là giúp cho cá nhân trở thành người tốt hơn, nghĩa là, giới luật hơn, từ bi hơn, trái tim ấm áp hơn. Do đó, lợi ích hơn nhiều là cá nhân đó cứ tập trung vào việc chuyển hóa tâm linh ḿnh bằng cách thật hành giới luật, đức hạnh và từ bi. Trong khuôn khổ các tri kiến hoặc thật hành của tôn giáo khác lại hữu ích hoặc thích đáng cho tín ngưỡng của ḿnh, sự học hỏi từ người khác rất có giá trị. Trong vài trường hợp, việc thọ nhận vài điều từ người khác c̣n có thể hiệu quả. Tuy nhiên, trong khi làm việc đó một cách sáng suốt, chúng ta vẫn có thể tiếp tục tận hiến cho đức tin của ḿnh. Đây là cách tốt nhất, v́ nó không mang theo nguy cơ của sự lẫn lộn, đặc biệt là trong cách sống khác nhau theo với các truyền thống tín gưỡng khác nhau.

Đa dạng là điều t́m thấy trong xă hội loài người, đương nhiên có các trường hợp trong số hàng triệu tín đồ của một tôn giáo nào đó, một số người sẽ nhận thấy khuynh hướng phát huy đạo lư và tâm linh của một tôn giáo khác khiến ḿnh măn nguyện hơn. Đối với một số người này, khái niệm tái sanh và nghiệp lực có vẻ rất hữu hiệu cho cảm hứng phát huy t́nh thương và tâm từ bi trong khuôn khổ trách nhiệm. Đối với một số người khác, khái niệm siêu việt, một đấng sáng tạo yêu thương loài người, có vẻ thích hợp hơn.

Trong các trường hợp như thế, điều hệ trọng đối với các cá nhân này là tự hỏi ḿnh thật nhiều lần. Họ tự hỏi, "Tôi bị thu hút bởi tôn giáo khác đó có phải v́ các lư do đúng không? Hay đó chỉ là sự hấp dẫn của các diện văn hóa và nghi thức? Hoặc chính bởi giáo lư cốt yếu? Giả thử như tôi chuyển sang tôn giáo mới, có ít sự đ̣i hỏi như tôn giáo hiện thời chăng?" Tôi nói lên điều này, v́ tôi thường gặp nhiều trường hợp những người chuyển sang một tôn giáo khác truyền thống thừa hưởng của ḿnh, thường khi chỉ v́ họ chấp nhận một số khía cạnh phiến diện của nền văn hóa mà tôn giáo mới tùy thuộc vào. Nhưng sự thật hành đ̣i hỏi phải đi sâu vào trong tôn giáo nhiều hơn nữa.

Trong trường hợp một người sau khi đă quán chiếu thật lâu và chín chắn, quyết định tiếp thụ một tôn giáo khác, quan trọng nhất là phải nhớ đến sự đóng góp tích cực cho nhân loại của mỗi một truyền thống tôn giáo. Nguy cơ là cá nhân đó có thể, trong khi t́m cách biện minh cho quyết định của ḿnh, lại chỉ trích niềm tin khi trước. Cốt yếu phải tránh điều này. Chỉ v́ truyền thống không c̣n hữu hiệu cho trường hợp một cá nhân này không có nghĩa nó không c̣n ích lợi cho nhân loại. Trái lại, chúng ta có thể đoan chắc rằng nó đă từng tạo cảm hứng cho nhiều triệu người trong quá khứ, nhiều triệu người trong hiện tại, và sẽ gây cảm hứng cho nhiều triệu người trong tương lai, trên con đường của t́nh thương và tâm từ bi.

Điều quan trọng phải luôn ghi nhớ là cuối cùng th́ cứu cánh trọn vẹn của tôn giáo chính là tạo điều kiện cho t́nh thương và ḷng từ bi, nhẫn nại, khoan dung, tha thứ, khiêm ḥa, vân vân. Nếu chúng ta lăng quên các điều đó, cho dù có chuyển đạo cũng chẳng ích chi. Cũng thế, nếu chúng ta là tín đồ sốt sắng với đức tin của ḿnh, mà lại bỏ quên việc thể hiện các phẩm tánh đó trong đời sống hàng ngày, th́ cũng không có ǵ lợi lạc. Một tín đồ như thế chẳng khác nào như một bệnh nhân mắc phải chứng bệnh trầm kha mà chỉ lo đọc cách chữa bệnh chứ không chịu uống thuốc trị liệu.

Hơn nữa, nếu các tín đồ tôn giáo chúng ta lại không có tâm từ bi và giới luật, th́ làm sao ta có thể hy vọng nơi người khác? Nếu chúng ta xây dựng được một sự ḥa hợp chân chánh đến từ sự tôn kính và hiểu biết lẫn nhau, tôn giáo sẽ trở thành một năng lực vĩ đại có thẩm quyền phát biểu trên các vấn đề đạo đức tử sanh, như ḥa b́nh và giải giới, như xă hội và công lư chính trị, như môi trường thiên nhiên, và nhiều vấn đề hệ trọng khác ảnh hưởng đến toàn nhân loại. Nhưng nếu chưa tinh tấn đưa các giáo lư siêu h́nh vào thật hành, th́ chúng ta cũng chẳng được xem như nghiêm túc. Và điều đó, cùng với các điều khác, có nghĩa là làm một tấm gương tốt, qua sự phát huy được liên hệ tốt với các truyền thống tín ngưỡng khác.

Dalailama 14







Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 2 of 2: Đă gửi: 10 April 2006 lúc 7:03am | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma

(bàn luận về đau khổ - nhân quả - Thiên Chúa)


Về những văn bản chỉ dạy đức khoan dung (nhẫn ḥa) đ̣i buộc ở quí bạn sự cương quyết chấp nhận những thử thách và đau khổ, điều đó sẽ trở nên sai lầm khi quyết đoán rằng chịu khổ đau là điều tuyệt hảo, tất cả chúng ta phải nên t́m kiếm. Tuyệt nhiên tôi không tán thành một quan điểm như vậy. Theo tôi tưởng, mục đích đời sống chúng ta là t́m kiếm hạnh phúc, t́m kiếm sự thỏa thích và viên măn. Tuy nhiên, v́ những thử thách và đau khổ là một thành phần trong đời sống con người, đương nhiên chúng ta phải tiếp cận chúng một cách thực tế hơn ngơ hầu có thể rút tỉa một vài lợi ích.

Khi xem xét bản chất “đau khổ”, chúng ta nhận thấy có loại đau khổ người ta có thể t́m ra giải pháp để nhờ đó vượt thắng được. Nhưng cũng có loại đau khổ không thể tránh né và lướt thắng, v́ đó là những sự kiện tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày. Trong trường hợp đó, thật quan trọng để triển khai một trạng thái tinh thần cho phép tiếp cận sự khổ đau một cách thực tế hơn. Khi hành sử như thế, có lẽ quí bạn sẽ đạt tới sự chấp nhận những khó khăn đó bao lâu chúng xuất đầu lộ diện. Thái độ đó sẽ che chở quí bạn, không nhất thiết khỏi thực tế của sự khổ đau về mặt thể lư nhưng khỏi gánh nặng tâm lư phụ thuộc và sẽ trở nên vô ích khi chống trả lại.

Một trong những cách thức hữu hiệu nhất để đối phó với khổ đau được tŕnh bày trong “Bồ-Tát Hạnh” là nếu một khó khăn mà có phương cách thoát ly th́ không nên bận tâm vô ích. Nếu ngược lại, không có phương cách thoát ly th́ việc bận tâm chả ích lợi ǵ!

Những ḍng chữ Phúc Thật nầy đối với tôi h́nh như cũng đề cập đến “nguyên lư nhân quả”. Nếu từ chuyên môn Phạn ngữ “karma” (nghiệp) không thấy xuất hiện trong ngữ cảnh Thánh Kinh th́ nguyên lư đại cương về nhân quả, ngấm ngầm trong học thuyết “karma” (nghiệp) đối với tôi xem ra được nhắc nhở ở đây. Những câu Phúc Thật trên đây muốn ám chỉ rằng nếu người ta hành động thế nào người ta sẽ gặt lấy hậu quả thế đó và nếu người ta không hành động thế đó, người ta sẽ không nhận lănh hậu quả thế kia. Rơ ràng nguyên lư nhân quả được hàm chứa trong huấn dụ nầy.

Mặc dù những truyền thống tâm linh lớn trên thế giới không đề cập tới vấn đề nhân quả dưới góc độ những chu kỳ luân hồi tái sinh nhiều kiếp, tuy nhiên xem ra có một sứ điệp cốt lơi dựa trên “nguyên lư nhân quả”, chung cho mọi truyền thống đó. Nghĩa là, nếu bạn làm điều lành, bạn sẽ được những kết quả mong muốn và nếu bạn làm điều dữ, bạn sẽ hứng chịu những kết quả ngoài ư muốn. Sứ điệp đạo đức căn bản đó xem ra gắn liền với mọi truyền thống tâm linh lớn trên thế giới.

Một điểm phụ thuộc ở đây cũng rất thích thú cần được ghi nhận đó là sự tương đồng nổi bật về “cách hành văn giữa các văn bản Kitô giáo và Phật giáo”. Để bắt đầu những Mối Phúc Thật, Phúc Âm ghi rằng khi thấy đám đông, Chúa Giêsu lên núi, ngồi xuống, v.v…Người ta cũng gặp những đoạn mở đầu tương tự trong nhiều “sutras” (Kinh Phật). Các Kinh Phật thường kể lại vào một thời nào đó, Đức Phật thăm viếng một nơi nào đó, ngài đă được một số đông đệ tử vây quanh, ngài đă ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Do đó có một sự tương đồng thích thú trong cách hành văn tŕnh bày những đoạn tương tự.

Một khái niệm khó khăn đă trở thành vấn đề ở đây - nhất là đối với Phật tử - đó là khái niệm một đấng thần linh - THIÊN CHÚA. Dĩ nhiên, có thể khi đề cập như thế, người ta cho rằng đó là một điều không thể diễn tả được, ở bên kia ngôn từ và khái niệm. Nhưng phải công nhận rằng trên b́nh diện lư thuyết, những ư niệm về “Thượng Đế và Sáng Tạo” là một quan điểm bất đồng giữa Phật tử và Kitô hữu. Tuy nhiên, tôi tin rằng những lư lẽ và những suy tư đưa tới một niềm tin như thế th́ chung cho cả Phật tử và Kitô hữu.

Nếu người ta xem xét bản chất mọi hiện tượng tự nhiên, lương tri nói với chúng ta rằng mọi biến cố đều có một “nguyên nhân”. Phải có những nguyên nhân và những điều kiện nào đó (tức “nhân và duyên”) mới phát sinh một biến cố. Điều đó chẳng những đúng với đời sống cá nhân chúng ta mà cũng đúng với toàn thể vũ trụ bên ngoài. Theo một nghĩa chung chung, cho rằng một sự việc không có nguyên nhân - dù ở trong vũ trụ hay đời sống cá nhân chúng ta - là điều không thể chấp nhận được.

Do đó vấn đề được đặt ra như sau: trong trường hợp đó, nếu đời sống chúng ta phải có một nguyên nhân - nếu ngay cả vũ trụ bên ngoài cũng phải có một nguyên nhân - th́ nguyên nhân đó từ đâu tới? Và kết quả là nguyên nhân đó chính nó cũng phải có một nguyên nhân khác, và cứ như thế chúng ta “lùi lại vô cùng tận”.

Để vượt lên trên sự khó khăn về một sự lùi lại vô cùng tận như thế, thật hữu ích nên đưa ra định đề về một khởi điểm - một “Đấng Tạo Hóa” - và chấp nhận một số chân lư về bản chất của Đấng Tạo Hóa: Ngài độc lập, tự sinh ra, hoàn toàn phép tắc và không đ̣i buộc một nguyên nhân nào khác. Chấp nhận một khởi điểm như vậy giúp giải quyết vấn đề lùi lại vô cùng tận.

Nếu người ta đưa ra định đề về một Đấng Tạo Hóa như thế và nếu người ta xem xét lịch tŕnh tiến hóa từ Big-Bang và toàn bộ bí mật vũ trụ, người ta đương nhiên phải công nhận “Đấng Tạo Hóa có toàn quyền tuyệt đối”.

Ngoài ra, nếu người ta xem xét bản chất vũ trụ, người ta nhận thấy vũ trụ không vận hành một cách hoàn toàn hỗn độn và ngẫu nhiên. Xem ra có một trật tự chặt chẽ, một nguyên tắc nhân quả hoạt động. Như thế người ta cũng phải chấp nhận “Đấng Tạo Hóa toàn tri”, như thể mọi tiến tŕnh đă được kế hoạch hóa hết. Nh́n dưới góc cạnh nầy, mọi tạo vật theo một cách nào đó đều là những biểu tượng của thần lực linh thiêng kia.

Và đứng trên quan điểm đó, lại một lần nữa, người ta có thể nói Đấng Tạo Hóa là cùng đích và tạo vật là tương đối, vô thường. Trong ư nghĩa đó, người ta có thể nói “Đấng Tạo Hóa là chân lư tuyệt đối và cùng đích”. Nhưng tôi không biết các thần học gia Kitô giáo nghĩ như thế nào về điều đó!

Riêng cá nhân tôi, khi xem xét ư niệm về Tạo Hóa và niềm tin ở một Đấng Tạo Hóa, tôi tự nhủ kết quả chính của niềm tin đó là bơm vào một động lực, một t́nh cảm khẩn trương trong việc cam kết hành giả trở nên một con người lương hảo, một con người có kỷ cương về mặt đạo đức. Khi bạn được trang bị một quan niệm và một niềm tin như thế, điều đó cũng mang lại một đích điểm cho cuộc sống bạn. Điều đó thật rất hữu ích để phát triển những “nguyên tắc luân lư”.

Đó, tôi hiểu thần học Kitô giáo như thế đó!”

Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.5156 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO