Tác giả |
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 1 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh
Hán dịch: Đường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Đạt Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Ḥa Thượng Tuyên Hóa.
"Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại " là tên gọi đầy đủ của bộ kinh này, mà gọi tắt là "Thiên Thủ Thiên Nhăn Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh." Trong đó, "Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni" là tên riêng (biệt danh), và "Kinh" là tên chung (thông danh). V́ sao gọi là tên riêng? Bởi v́ chỉ riêng bộ kinh này được gọi bằng tên ấy mà thôi, các kinh điển khác đều không được mang trùng tên. Ngoài ra, v́ các sách ghi chép lời thuyết giảng của Đức Phật đều được gọi là kinh, cho nên chữ "Kinh" được xem là tên chung.
Bộ kinh này lấy ǵ để lập danh? Lấy đầy đủ cả "Nhân, Pháp, Dụ" để lập danh. "Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát" là Nhân (người); "Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại" và "Đại Bi Tâm" là Dụ (tỷ dụ); "Đà La Ni" là Pháp. "Đà La Ni" là tiếng Phạm; Trung ngữ dịch là "Tổng Tŕ." Do đó, "Tổng Tŕ" là Pháp—loại pháp Tổng Tŕ. Vậy, tên đề của bộ kinh này có đủ Nhân, Pháp, Dụ.
Trước hết xin giảng về từ ngữ "Thiên Thủ Thiên Nhăn" (ngàn tay ngàn mắt). Làm sao lại có ngàn tay, ngàn mắt? Đó là hiện tướng oai đức thần thông, được lưu xuất từ chỗ chứng đắc của sự tŕ niệm Chú Đại Bi. Chúng ta không nên xem việc tu niệm Chú Đại Bi là quá dễ dàng, đơn giản! Chú Đại Bi này cần phải có thiện căn sâu dày từ nhiều đời trước mới có thể gặp được. Nếu không có thiện căn thuộc loại thâm hậu từ đời trước th́ chưa nói đến tụng niệm Chú Đại Bi, mà chỉ muốn nghe thấy ba chữ "Chú Đại Bi" cũng khó có cơ hội; cho đến tên gọi cũng khó được nghe tới, huống hồ là thấy! Bây giờ, chúng ta không những được thấy mà c̣n có thể tŕ tụng nữa, đó là việc hết sức hy hữu; có thể nói là "trăm ngàn vạn kiếp khó t́m gặp" —dù trải qua trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp cũng khó mà gặp được vậy. Hiện chúng ta nhờ có thiện căn chín muồi ở đời trước nên mới được nghe đến ba chữ "Chú Đại Bi," mới được tham học, tŕ tụng chương cú thần diệu của Chú Đại Bi, và mới có thể thuộc được Chú Đại Bi. Đó là do có thiện căn, có chủng tử khó nghĩ bàn từ đời trước nên nay mới được như thế.
V́ vậy, hôm nay chúng ta, những người đến nghe Chú Đại Bi, đều là những người có thiện căn. Quư vị thử nghĩ xem: Trên thế giới này có bao nhiêu người chưa từng được nghe đến tên Chú Đại Bi? Trọn cả thành phố Cựu Kim Sơn này có thể có trên năm trăm người được nghe tới tên Chú Đại Bi chăng? Tôi tin là không! Thành phố Cựu Kim Sơn có được bao nhiêu cư dân? Quư vị cứ theo đó mà tính th́ có thể suy ra số người có thiện căn trên thế giới là bao nhiêu ngay. Cho nên, nay chúng ta được nghe đến danh hiệu của Chú Đại Bi th́ mỗi người phải sanh tâm hoan hỷ, vui mừng, phải trân quí và phải biết đó là điều khó t́m khó gặp! Không dễ ǵ mà gặp được Chú Đại Bi, nay gặp được rồi th́ phải thật sự khắc cốt ghi tâm, chớ nên xem nhẹ mà thờ ơ bỏ qua!
Lần này, quư vị được nghe giảng bộ Kinh Đại Bi Đà La Ni, âu cũng là một cơ duyên bất khả tư ngh́. Số là mấy tháng trước, lúc bộ Kinh Kim Cang sắp được giảng xong, th́ các vị hộ pháp của Phật Giáo Giảng Đường là Quả Địa, Quả Ninh và Quả Tiền ngỏ ư muốn được nghe giảng bộ Kinh Đại Bi Đà La Ni. V́ sao họ muốn t́m hiểu bộ Kinh này? Bắt đầu từ năm ngoái, ở Phật Giáo Giảng Đường này mỗi tuần đều có dạy pháp môn bí mật Bốn Mươi Hai Thủ Nhăn. Pháp môn này không chỉ là bí mật mà vốn từ trước đến nay tôi chưa hề truyền dạy cho ai cả. Song, sang đến Mỹ quốc, tôi nghĩ là cần đem pháp môn bí mật bất truyền này truyền dạy cho quư vị, những người Mỹ có thiện căn. V́ vậy, kể từ năm ngoái, tôi bắt đầu dạy Bốn Mươi Hai Thủ Nhăn, một pháp môn vi diệu bất khả tư ngh́. Tuy nhiên, tôi chẳng hề đến bất cứ nơi nào rêu rao: "Này, tôi có mật pháp nhưng chẳng truyền cho ông đâu!" Mặc dù là pháp bí mật, song tôi vẫn đem truyền bá. Truyền cho những ai? Tất nhiên tôi phải "chọn mặt gởi vàng," chỉ truyền cho những người có đại thiện căn, có quy y Tam Bảo và thâm tín Phật Pháp.
Sau khi tôi truyền xong Bốn Mươi Hai Thủ Nhăn th́ có mấy vị sanh ḷng khát ngưỡng đối với bộ Kinh Đại Bi Đà La Ni, muốn hiểu rơ kinh nghĩa của Bốn Mươi Hai Thủ Nhăn này. Cho nên, do cư sĩ Quả Địa khởi xướng, mọi người mời tôi giảng bộ Kinh Đại Bi Đà La Ni. Lúc ấy, tôi thấy khó mà từ khước trước ḷng thành của nhóm Phật tử này, nên đă bằng ḷng nhận giảng Kinh Đà La Ni. Nhưng giảng xong Kinh Kim Cang th́ lại tiếp tục giảng Tâm Kinh. Tâm Kinh tuy là hai trăm mấy chục chữ nhưng giảng xong cũng mất hết hai, ba tháng. Thật ra trong hai, ba tháng ấy tôi chỉ giảng vào ngày Chủ nhật mà thôi, chứ không phải là ngày nào cũng giảng. Nếu ngày nào cũng giảng th́ khoảng một hoặc nửa tháng là xong. Hiện tại Tâm Kinh đă giảng xong, bây giờ bắt đầu giảng bộ Đại Bi Đà La Ni Kinh.
Đây là một bộ Kinh có thể nói là hầu hết quư vị chưa từng được nghe qua; và chẳng riêng ǵ quư vị mà ngay cả người Trung Hoa cũng vậy, số người được nghe đến bộ Kinh này cũng rất ít. Người Trung Hoa mà đă được nghe, rồi có thể giảng giải nghĩa lư của Kinh một cách tường tận cũng là không dễ, cũng là hy hữu vậy!
V́ vậy, bây giờ tôi đem bộ Kinh Đại Bi Đà La Ni này giảng cho quư vị nghe th́ mỗi người, trước hết, phải quét sạch tất cả những "rác rưởi" trong đầu óc của ḿnh. Đừng khởi nhiều vọng tưởng, đừng quá nặng ḷng tham, chớ sanh tâm sân hận và cũng chớ quá si mê. Phải quét sạch những rác rưởi tham sân si trước; đó cũng chính là quét dọn sạch sẽ tất cả những đồ "xú uế " trong mỗi người. Phải thu dọn và quét sạch mọi thứ bất tịnh trong chính ḿnh ra ngoài, để sau đó có thể chứa đựng nước cam lồ pháp vị. Bấy giờ quư vị mới có thể thanh tịnh mà chứng đắc pháp lực của pháp môn này. Đây là điều tối trọng yếu, quư vị cần lưu tâm!
Bây giờ giảng về từ ngữ "Thiên Thủ Thiên Nhăn (ngàn tay, ngàn mắt)."
Có người nói rằng: "Phải tu pháp Đại Bi Đà La Ni th́ mới đạt được ngàn tay ngàn mắt; thế nhưng ‘ngàn tay ngàn mắt’ này dùng để làm ǵ?" Và c̣n cho rằng: "Chúng ta mỗi người có được hai tay, hai mắt là đă tốt quá rồi. Hai tay có thể giúp ta cầm nắm đồ vật, hai mắt cho ta nh́n thấy mọi điều; thế th́ c̣n muốn có nhiều mắt, nhiều tay như vậy để làm ǵ? Xét ra, hiện chúng ta đang ở vào thời đại khoa học, nhiều tay nhiều mắt đến thế cũng chẳng ích lợi ǵ!" Vậy, nếu quư vị chê nhiều th́ khỏi cần tu pháp Đại Bi!
Bây giờ tôi giải thích từ ngữ "Thiên Nhăn (ngàn mắt)" trước. Quư vị đều có hai con mắt, và quư vị phải mở mắt ra nh́n th́ mới thấy được sự vật, nếu nhắm hai con mắt này lại th́ không c̣n trông thấy ǵ nữa. Tuy nhiên, nếu quư vị có một ngàn con mắt th́ có thể khiến chúng thay phiên nhau làm việc—cho con mắt này nhắm lại để nghỉ ngơi, mở con mắt kia ra để nh́n ngó; quư vị thấy có vi diệu không nào?
"Ngàn mắt" này được gọi là "thiên nhăn chiếu kiến" (ngàn mắt chiếu soi). Con mắt phàm của chúng ta chỉ có thể nh́n thấy trong phạm vi mười hoặc hai mươi dặm; nếu quư vị dùng kính viễn vọng th́ có thể thấy xa tới khoảng một trăm dặm, c̣n xa hơn nữa th́ e rằng không đủ khả năng. Nếu quư vị có được một ngàn con mắt th́ thế nào? Trăm dặm, ngàn dặm, vạn dặm, tận hư không, khắp Pháp Giới—vô số vô biên hành tinh và hệ ngân hà—quư vị đều có thể thấy rơ. Bấy giờ, không cần xem vô tuyến truyền h́nh mà quư vị vẫn có thể biết được: "Ồ! Hai phi hành gia đang đi trên mặt trăng!" Quư vị thấy có vi diệu hay không? Hiện tại quư vị phải nhờ vào ti-vi mới có thể thấy được con người đặt chân lên nguyệt cầu; nhưng nếu quư vị có ngàn mắt th́ khỏi phải dùng ti-vi mà vẫn thấy được rơ ràng. Chẳng những khỏi cần ti-vi mà quư vị c̣n khỏi cần trang bị ăng-ten hay hệ thống ra-đa, và cũng chẳng phải trả tiền nữa—bớt được bao nhiêu là rắc rối! Quư vị bảo rằng có một ngàn con mắt là không tốt ư? Bây giờ quư vị biết đó là điều tốt rồi chứ?
Chẳng những thế, với ngàn con mắt này, quư vị có thể từ phía trước thấy được phía sau, từ đằng sau trông rơ đằng trước. Hư Vân Lăo Ḥa Thượng có câu thơ rằng:
Năo hậu kiến tai ḱnh diều tử,
Đỉnh môn cụ nhăn tróc phi hùng.
(Sau đầu thấy má: chụp diều hâu,
Cửa đỉnh đủ mắt: tóm gấu bay.)
Chúng ta vốn không thể nào thấy được mặt mũi của chính ḿnh; tuy nhiên, nếu quư vị có ngàn mắt th́ ở phía sau có thể nh́n thấy phía trước, ở phía trước cũng có thể nh́n thấy phía sau—có thể thấy được bản lai diện mục của chính ḿnh. Bấy giờ, quư vị cũng có thể thấy được những ǵ ở trong bụng ḿnh, biết được trong đó có bao nhiêu con trùng chết, trùng lười biếng... Từ bên ngoài quư vị có thể thấy rơ bên trong và từ phía trong quư vị có thể thấy rơ phía ngoài, giống như nh́n xuyên qua bức tường bằng pha-lê hay thủy tinh vậy. Bụng quư vị lúc ấy tựa như pha-lê—lóng lánh, trong suốt, không c̣n có sự ngăn cách giữa trong và ngoài. Nhờ đó, quư vị có thể thấy được tim ḿnh h́nh thù như thế nào, bụng ḿnh muốn nói điều ǵ, và cũng biết được mọi ư tưởng cũng như mọi hoạt động của các machines—các cơ quan—trong cơ thể ḿnh. Thế nào, bây giờ quư vị có muốn có ngàn mắt không? Quư vị có c̣n cho rằng có hai con mắt là đủ rồi nữa không? Tôi e rằng bây giờ quư vị cũng nhận thấy như thế là chưa đủ. Ngàn mắt có nhiều diệu dụng như vậy đấy!
C̣n "Thiên Thủ (ngàn tay)" th́ sao? Tay dùng để cầm nắm đồ vật. Không cần nói đâu xa, bây giờ chúng ta hăy lấy việc cầm tiền làm thí dụ. Quư vị có hai tay, mỗi tay có thể cầm được mười ngàn đồng chẳng hạn; vậy nếu tôi có một ngàn tay th́ tôi có thể cầm được mười triệu đồng. Quư vị không thể nào một lúc mà cầm được nhiều tiền như tôi, quư vị thấy có kỳ diệu không chứ? Hoặc lấy một thí dụ khác, như chia táo chẳng hạn. Quư vị cứ tha hồ, lấy được bao nhiêu táo th́ lấy. Tất nhiên, nếu quư vị có một ngàn tay th́ lấy được một ngàn trái táo, có hai tay th́ chỉ lấy được hai trái. Quư vị xem, như vậy có hữu dụng không chứ? Tuy nhiên, ngàn tay này chẳng phải để dùng vào chuyện vặt vănh, tầm thường, cũng chẳng phải dùng để tranh ăn như tṛ chơi của trẻ con.
Công năng của ngàn tay là cứu người. Thí dụ có một ngàn người bị té xuống biển, quư vị có hai tay th́ tay này kéo một người, tay kia lôi một người, tức là chỉ có thể cứu được hai người mà thôi. Nếu quư vị có được một ngàn tay th́ chỉ việc tḥ luôn một ngàn cánh tay xuống biển là vớt được cả một ngàn người suưt bị chết đuối ấy lên bờ. Quư vị thắc mắc là một ngàn cánh tay này dùng để làm ǵ ư? Để cứu người đấy! Cho nên nói:
"Thiên Nhăn chiếu kiến, Thiên Nhĩ diêu văn, Thiên Thủ hộ tŕ."
(Ngàn mắt chiếu soi, Ngàn tai lắng nghe, Ngàn tay cứu giúp.)
Ngàn tay là để hộ tŕ tất cả chúng sanh—nếu như có một chúng sanh có khổ nạn ǵ th́ quư vị chỉ cần duỗi một cánh tay ra là cứu được chúng sanh ấy thoát ṿng khổ ải. Nếu chỉ có hai tay th́ quư vị không thể cứu độ được nhiều người. Cho nên Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt là để cứu hộ tất cả chúng sanh, chứ không phải để đi ăn trộm. Quư vị cần phải hiểu rơ điểm này! Không được khoác lác rằng ḿnh có một ngàn cánh tay để hái trộm một ngàn trái táo!
Ngàn tay và ngàn mắt này rốt ráo là từ đâu đến? Vừa rồi tôi chẳng bảo đó là từ Chú Đại Bi sanh xuất ra hay sao? Quư vị chỉ cần tụng Chú Đại Bi, và tu Đại Bi Pháp của Bốn Mươi Hai Thủ Nhăn là được. Thủ Nhăn cuối cùng trong Bốn Mươi Hai Thủ Nhăn có tên là Tổng Nhiếp Thiên Tư Thủ. Hễ quư vị tụng câu chú của Thủ Nhăn này một biến, th́ quư vị sẽ có thêm bốn mươi hai cánh tay. Tụng một biến th́ có được bốn mươi hai cánh tay; tụng mười biến th́ được 420 tay; tụng một trăm biến th́ được 4.200 tay. Nếu quư vị tụng một ngàn biến th́ sẽ có được 42.000 cánh tay, và cũng có luôn cả 42.000 con mắt. Vấn đề là quư vị có chịu khó tu tập hay không mà thôi! Bởi, Thiên Thủ Thiên Nhăn không phải chỉ trong một sớm một chiều mà thành tựu được. Quư vị tu pháp môn này, nếu ngày ngày đều miệt mài dụng công không hề gián đoạn, ngày ngày đều y Pháp tu hành, th́ sẽ thành tựu được thứ diệu dụng bất khả tư ngh́. Tuy nhiên, nếu quư vị hôm nay tu, ngày mai nghỉ, th́ sẽ chẳng có tác dụng ǵ cả! Muốn lấy được bằng cấp tiến sĩ của thế gian, th́ từ lúc khởi sự học hành cho đến khi thành đạt cũng phải mất khoảng mười bốn, mười lăm năm công phu đèn sách; huống hồ là tu học Phật Pháp? Học Phật Pháp, nếu quư vị không thật sự dụng công hành tŕ th́ chẳng thể nào có sự thành tựu được!
Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Bồ Tát tinh tấn nhất, siêng năng nhất, và không hề muốn nghỉ ngơi. Ngài sẵn ḷng suốt ngày cứu độ chúng sanh, chẳng nề hà công việc nhiều vất vả, cũng chẳng quản ngại chúng sanh lắm khổ nạn; cho nên có thể nói rằng Ngài là vị Bồ Tát bận rộn nhất. Ngài không phải là một vị Bồ Tát lười biếng, thích nghỉ ngơi nhàn nhă, mà là một vị Bồ Tát chăm chỉ, cần mẫn nhất. Bởi một cánh tay th́ cứu được quá ít người, hai cánh tay th́ số người cứu được cũng c̣n giới hạn; do đó, Ngài muốn có ngàn tay ngàn mắt—một ngàn cánh tay để cứu vớt và một ngàn con mắt để chiếu cố tất cả chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Các chúng sanh mà Ngài chiếu cố đều là những chúng sanh gánh chịu nhiều đau khổ, và các chúng sanh mà Ngài cứu độ là những chúng sanh gặp phải tai ương, hoạn nạn.
Chữ "Quán" trong "Quán Thế Âm Bồ Tát" có nghĩa là quán sát, theo dơi. Quán sát cái ǵ? Quán sát thế giới này. Quán sát cái ǵ ở thế giới này? Quán sát âm thanh của thế giới này. "Quán" chính là trí huệ năng quán, tức là chủ thể trí huệ quán sát. "Thế" là cảnh giới sở quán—đối tượng, cảnh giới được quán sát—và đó chính là tất cả chúng sanh trong thế giới này.
Chúng sanh lúc khốn khổ gian nan th́ thường nghĩ đến ai? Nghĩ đến người cha đại từ bi, nghĩ đến người mẹ đại từ bi. Người cha đại từ bi ấy là ai? Đó là Bồ Tát Quán Thế Âm. Người mẹ đại từ bi ấy là ai? Cũng chính là Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhớ nghĩ đến Ngài rồi th́ sao? Họ liền niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát..." Họ vừa niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền dùng ngàn mắt trí huệ để nh́n, dùng tai trí huệ để lắng nghe, rồi dùng tay trí huệ để cứu vớt họ.
Chúng sanh có tai nạn khổ ách không phải lúc nào cũng lẻ tẻ, lần lượt từng người một. Nếu trăm ngàn vạn ức chúng sanh đồng thời lâm nạn, tức là sẽ có trăm ngàn vạn ức chúng sanh đồng thời cầu cứu, xưng niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát"; th́ Đức Quán Thế Âm sẽ đồng thời cứu vớt và tất cả đều sẽ đồng thời được giải thoát, đồng thời được an vui. V́ thế, Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là "Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát."
Bồ Tát luôn cứu giúp con người. Nếu quư vị cứu giúp con người, quư vị chính là Bồ tát; nếu tôi cứu giúp con người, tôi cũng là Bồ tát. Nếu quư vị không cứu giúp con người th́ quư vị chính là la-sát; và nếu tôi không cứu giúp con người, tôi cũng là la-sát. Quỷ la-sát và Bồ Tát Quán Thế Âm mới nh́n dung mạo bề ngoài tưởng chừng như không khác nhau là bao, nhưng sự thật lại hoàn toàn tương phản! La-sát quỷ nữ rất xinh đẹp, song cũng rất ích kỷ, chỉ biết mưu lợi cho ḿnh mà thôi. Điểm khác biệt chính là một bên th́ chỉ biết lợi ḿnh mà không biết lợi người; c̣n một bên th́ chỉ biết lợi người mà không màng đến lợi ḿnh. Cho nên, tướng mạo của Quán Thế Âm Bồ Tát rất viên măn, dung mạo của la-sát nữ cũng chẳng kém ai, nhưng do tâm địa bất đồng, một niệm sai biệt, mà thành ra khác nhau vậy!
Thế nên, nếu quư vị muốn học Quán Thế Âm Bồ Tát th́ quư vị phải đi cứu người giúp đời, lợi ích quần sanh. Có người nói: "Tôi không có khả năng ǵ cả—thứ nhất, tôi không có tiền; thứ hai, tôi không biết thuyết giảng Phật pháp, không khéo ăn nói. Vậy th́ tôi làm sao mang lại lợi ích cho nhân loại được?"
Tôi bảo cho quư vị biết: Quư vị có "miệng từ bi, lưỡi phương tiện." "Miệng từ bi" tức là có ḷng nhân từ, không chưởi mắng người khác. "Lưỡi phương tiện" tức là dùng căn lưỡi của ḿnh làm phương tiện, chứ không phải để nói chuyện thị phi. Ví như có xảy ra sự xích mích ǵ đó, mà quư vị, bằng phương tiện quyền xảo giảng nói, làm cho đôi bên được ḥa giải, hoặc bằng lời lẽ khéo léo mà hóa giải được các tranh chấp trên thế gian, dập tắt được hiểm họa chiến tranh thế giới—đó là quư vị dùng "lưỡi phương tiện" vậy. Có câu:
"Miệng từ bi, lưỡi phương tiện,
Có tiền, không tiền đều tạo đức được."
Có tiền hay không có tiền đều có thể tạo được công đức như nhau. Đương nhiên có tiền th́ cũng có tốt hơn đôi chút, nhưng nếu quư vị không có tiền th́ bất tất phải lo buồn, cũng chẳng nên nghĩ: "Tôi nghèo quá, làm sao làm việc phước đức được?" Làm việc công đức cốt là để cho quư vị nuôi dưỡng ḷng hảo tâm, biết làm việc từ thiện, và làm một con người tốt.
"Bồ Tát" là Phạn ngữ, nói đầy đủ là "Bồ Đề Tát Đỏa." "Bồ Đề" dịch nghĩa là "giác"; c̣n "Tát Đỏa" là "hữu t́nh." Vậy, Bồ Tát có nghĩa là một người đă giác ngộ giữa đám hữu t́nh, và cũng có nghĩa là một người đi giác ngộ tất cả chúng hữu t́nh. Thế nào gọi là loài "hữu t́nh"? Tất cả các loài có khí huyết đều được gọi là loài hữu t́nh. Loài không có khí huyết th́ cũng là chúng sanh, song chúng là vô t́nh—không có t́nh cảm, không có cảm giác.
Người ta thường nói: "Nhân phi thảo mộc, thục năng vô t́nh? (Con người nào phải cỏ cây, sao nỡ vô t́nh?)" Câu này ư nói cỏ cây là vô tri vô giác, không có t́nh cảm; nhưng thật ra, cỏ cây cũng có t́nh cảm vậy, chẳng qua là thứ t́nh cảm mê muội, không sáng suốt. V́ sao không sáng suốt? V́ chúng toàn làm những việc ngu si cho nên mới bị biến thành cỏ cây gỗ đá. Chúng là một trong mười hai loại chúng sanh.
Cảnh giới của Quán Thế Âm Bồ Tát vốn bất khả tư ngh́. Chính v́ cảnh giới bất khả tư ngh́ này rất bất khả tư ngh́, cho nên tôi không thể nào diễn tả được! Bây giờ tôi kể cho quư vị nghe một công án.
Thuở trước, có một người nọ tŕ tụng Chú Đại Bi đă được khoảng mười hai năm. Trong suốt mười hai năm ấy, ông chẳng gặp chuyện ǵ gọi là kỳ diệu nhiệm mầu cả—Chú Đại Bi chẳng biến ra cơm cho ông ăn, cũng chẳng làm ra áo quần cho ông mặc—thế nhưng, ông vẫn tin tưởng và chăm chỉ, đều đặn tŕ tụng Chú Đại Bi. Mỗi ngày ông tụng tối thiểu là 108 biến, mà thông thường là nhiều hơn thế.
Một lần nọ, ông đi chơi xa và phải ngủ qua đêm ở nhà trọ. Tại Trung Hoa, ở một vài địa phương có loại quán trọ gọi là "hắc điếm." Hắc điếm là ǵ? Đó là một thứ nhà trọ trá h́nh của bọn cướp. Bọn cướp này cũng tương tự như thổ phỉ vậy; có điều, thổ phỉ th́ ra chận đường người ta mà cướp bóc, giết hại, c̣n chúng th́ ở trong nhà chờ đợi. Khi có khách tới quán của chúng tá túc, thấy khách mang theo tiền của, hoặc đeo nhiều vàng bạc châu báu, ra vẻ khách buôn giàu có, th́ chúng liền đưa khách đến một căn pḥng nhỏ khá tươm tất và có cửa riêng để chúng có thể ra vào dễ dàng. Sau đó, chúng lén bỏ thuốc mê trong rượu cho khách uống và đến khuya, thừa cơ khách ngủ mê mệt, chúng lẻn vào đoạt hết tiền bạc, đôi khi c̣n giết người luôn nữa.
Người tŕ tụng Chú Đại Bi này ở trọ trong hắc điếm cũng được mời uống thứ rượu có bỏ thuốc mê, nhưng v́ thâm tín Phật Pháp nên ông không uống rượu; do đó không bị trúng thuốc mê. Đến nửa đêm, đang ngủ ông chợt nghe có tiếng chân người tiến vào pḥng ḿnh. Ông hé mắt nh́n ra, nhác thấy bóng một lưỡi dao sáng loáng, ông sợ đến cứng cả người, tự nhủ: "Người này cầm dao đến hẳn là để giết ḿnh đây!"
Ngay lúc đó, bên ngoài bỗng có tiếng đập cửa. Chủ quán—kẻ âm mưu giết người—giật ḿnh giấu vội con dao, lẻn ra khỏi pḥng, rồi hỏi vọng ra: "Ai đó? Ai gọi cửa đó? Who are you? Who?"
Người ngoài cửa đáp: "Tôi đây! Tôi họ Đậu, tên Du Bằng. Tôi có một người bạn ở trọ trong quán ông. Ông ấy tên là ... Nhờ ông nhắn lại là tôi mời ông ấy sáng mai đến nhà tôi ăn điểm tâm nhé!"
Chủ quán mở hé cửa nh́n ra th́ thấy một người đàn ông trang phục giống như cảnh sát, liền nghĩ: "Th́ ra viên cảnh sát này có quen biết với người mà ḿnh định giết. Ông ta là bạn của cảnh sát! Cảnh sát đến mời ông ấy sáng mai đi ăn điểm tâm!" V́ thế, đêm ấy gă chủ quán không dám ra tay giết người.
Sáng hôm sau, chủ quán nói với ông khách trọ chuyên tŕ Chú Đại Bi: "Ông có người bạn tên Đậu Du Bằng đến t́m tối qua. Lúc đó đă khuya lắm rồi, mà ông cũng đă đi ngủ nên ông ấy không muốn đánh thức ông dậy. Ông ấy muốn mời ông hôm nay đến nhà ông ấy ăn sáng."
Ông này vừa nghe đến mấy tiếng "Đậu Du Bằng" th́ cảm thấy rất quen thuộc. Sực nhớ ba chữ ấy vốn ở trong bài Chú Đại Bi, ông chợt hiểu ra ngay, bèn nói: "Đúng rồi, ông ấy là bạn tôi đấy. Chúng tôi có hẹn gặp nhau sáng nay, chốc nữa tôi đến nhà ông ấy ăn sáng."
Người này lọt vào sào huyệt của bọn cướp mà không bị chúng giết hại là nhờ có tŕ tụng Chú Đại Bi. Do đó, quư vị đừng cho rằng tŕ tụng Chú Đại Bi là chẳng có ích lợi. Đến lúc quư vị gặp nguy hiểm, sanh mạng của quư vị bị đe dọa, bấy giờ quư vị mới nghiệm ra được diệu dụng mầu nhiệm của Chú . Tuy nhiên, hiện tại quư vị chưa gặp chuyện bất trắc, nguy hiểm tới tánh mạng, th́ cũng chưa cần đến sức gia hộ của Chú Đại Bi. Vậy, quư vị chỉ nên thành tâm chuyên cần tŕ tụng là đủ, và chớ bận tâm về việc Chú Đại Bi có trợ giúp ǵ trong vấn đề cơm ăn áo mặc của ḿnh hay không!
Tôi đă giảng về ư nghĩa của "Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát"; bây giờ nói về từ ngữ "Quảng Đại."
"Quảng" là rộng lớn (chỉ bề ngang). "Đại" là cao to (chỉ bề dọc). Bộ Kinh này có thể nói là "hoành biến thập phương, thụ cùng Tam Giới"—bề ngang th́ trùm khắp hết mười phương, dựng đứng lên th́ cao đến tột cùng của Tam Giới. "Tam Giới" là ba cơi—Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. "Thập phương," như quư vị đều biết, là mười phương—Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Trên và Dưới.
Hai câu chú trong Chú Lăng Nghiêm là "A Na Lệ. Tỳ Xá Đề," cũng hàm nghĩa "quảng đại"—một câu ngụ ư "hoành biến thập phương," và một câu là "thụ cùng Tam Giới." Tác dụng của hai câu chú này là mỗi khi niệm lên th́ yêu ma quỷ quái, thiên ma ngoại đạo, một bước cũng không đi được, không c̣n đường để tẩu thoát nữa, đành phải chịu quy đầu phục thiện. Ở đây, ư nghĩa của từ ngữ "quảng đại" trong tên đề của Kinh Đà-La-Ni th́ cũng vẫn vậy, có điều là công năng không lợi hại bằng hai câu chú kia.
"Viên Măn" có nghĩa là tṛn đầy, không c̣n chút khiếm khuyết nào nữa.
"Vô Ngại" có nghĩa là không có ǵ chướng ngại, ngăn trở được cả.
Cái ǵ quảng đại, viên măn và vô ngại? Đó là "Đại Bi Tâm." Đại Bi Tâm th́ vừa quảng đại, vừa viên măn, lại vừa vô ngại nữa. Đại Bi Tâm có công năng dứt trừ khổ nạn, cứu vớt chúng sanh thoát khỏi mọi gian nan khốn khổ; cho nên nói: "Bi năng bạt khổ"—ḷng bi mẫn, thương yêu, có thể dứt sạch tất cả khổ lụy cho chúng sanh.
Cái ǵ có được công năng dứt trừ mọi nỗi khổ của chúng sanh? Đó chính là pháp Đà-La-Ni.
"Đà-La-Ni" là Phạn ngữ; Hoa ngữ dịch là "Tổng Tŕ." "Tổng" tức là bao hàm tất cả các pháp, tất cả các pháp đều ở trong đó. "Tổng" cũng là thủ lănh, là "cái đầu" của tất cả các pháp, có công năng khơi nguồn tất cả các pháp. "Tŕ" là chấp tŕ, nắm giữ. "Tŕ" cái ǵ? "Tŕ vô lượng nghĩa"—vô lượng đạo lư đều nằm trong sự chấp tŕ, nắm giữ của quư vị. Chỉ cần quư vị tŕ tụng Đa-La-Ni th́ sẽ có được công năng này.
Vậy, trong tên đề của bộ kinh này, chữ "Kinh" là tên chung (thông danh), và "Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni" là tên riêng (biệt danh). Kinh này lấy Nhân (người) và Pháp để lập thành đề mục hay tựa kinh (tittle)—"Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát" là Nhân; c̣n "Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni" là Pháp. Lại cũng có thể nói rằng đề mục của bộ kinh này thuộc loại Nhân, Pháp, Dụ lập đề; trong đó, "Tâm" là Dụ. "Đại Bi Chú" ví như cái tâm Đại Từ Bi tiềm tàng trong mỗi con người, cho nên gọi là "Đại Bi Tâm Đà-La-Ni."
"Kinh" có nghĩa là "kinh thường bất biến"—măi măi như thế, không bao giờ thay đổi.
Bộ Kinh này lấy ǵ làm Thể? Lấy Thật-tướng làm Thể. Thật-tướng chính là Vô-tướng, mà Vô-tướng cũng chính là Thật-tướng.
Có Thể rồi th́ cần phải có Tông—Tông-chỉ. Vậy, Kinh này lấy ǵ làm Tông-chỉ? Lấy "hàng phục chư ma, chế phục ngoại đạo" làm Tông-chỉ.
Lấy ǵ làm Dụng? Lấy sự diệt ác sanh thiện, bớt khổ thêm vui, làm chỗ Dụng. "Hàng phục chư ma, chế phục ngoại đạo" có nghĩa là trừ diệt điều ác, sanh khởi điều thiện, dứt khổ thêm vui; do đó, "sanh thiện, diệt ác" chính là lực dụng của bộ Kinh này vậy.
Kinh này có công năng sanh thiện, diệt ác, cứu khổ, ban vui; và lấy đề-hồ làm giáo tướng—diệu vị đề-hồ và vô thượng cam-lồ đều được lưu xuất từ bộ Kinh này.
Trên đây là dùng Ngũ Trùng Huyền Nghĩa—Danh, Thể, Tông, Dụng, Giáo—và bảy loại lập đề để giải thích sơ lược về đề mục bộ Kinh.
ĐƯỜNG TÂY THIÊN-TRÚC SA-MÔN GIÀ-PHẠM-ĐẠT-MA DỊCH.
Chúng ta đă t́m hiểu phần đề mục, bây giờ nói về dịch giả. Bộ Kinh này vốn do ai phiên dịch? Đường Tây Thiên-Trúc Sa-môn, tức là dưới triều đại nhà Đường có một vị Sa-môn người xứ Tây Thiên-Trúc. Tây Thiên Trúc là thuộc Ấn Độ. Thời ấy, nước Ấn Độ gồm có năm vùng: Nam Ấn, Bắc Ấn, Đông Ấn, Tây Ấn và Trung Ấn; và vị Sa môn này ở vùng Tây Ấn.
"Sa-môn" nghĩa là ǵ? Sa-môn là tiếng Phạn; Hán ngữ dịch là "cần tức" —cần tu Giới Định Huệ, tức diệt tham sân si (siêng tu Giới Định Huệ, dứt sạch tham sân si).
Oai nghi của một vị Sa-môn [siêng tu Giới luật] là như thế nào? Tỳ-kheo Mă Thắng [luôn nghiêm tŕ oai nghi, giới luật] là một trong năm vị đệ tử xuất gia đầu tiên của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và cũng là người có oai nghi tốt đẹp nhất. Lúc chưa gặp Phật, Tôn-giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên t́nh cờ thấy Tỳ-kheo Mă Thắng đắp y, ôm b́nh bát đi khất thực. Ngài vừa đi vừa nhiếp tŕ chánh niệm—mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng hỏi ḷng, mắt không nh́n dáo dác, tai không chực nghe ngóng—tuy chân bước đều mà dáng vẻ so với nhập Định chẳng có ǵ khác biệt. Bấy giờ, hai Tôn-giả đều kinh ngạc: "Ồ! Sao người này lại có được tướng mạo tốt đẹp thế kia?" Và liền đến thỉnh giáo thầy Tỳ-kheo: "Chẳng hay Ngài học pháp ở đâu mà có được oai nghi tuyệt diệu như thế?"
Mă Thắng Tỳ-kheo đáp: "Tôi học oai nghi với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni." Rồi Ngài đọc bài kệ:
"Chư pháp tùng duyên sanh,
Chư pháp tùng duyên diệt.
Ngă Phật Đại Sa-môn,
Thường tác như thị thuyết."
Nghĩa là:
"Các pháp từ duyên sanh,
Các pháp theo duyên diệt.
Phật ta Đại Sa-môn,
Thường dạy như vậy đó!"
Vị Sa-môn người xứ Tây Thiên-Trúc này chỉ để vỏn vẹn "Đường Tây Thiên-Trúc Sa-môn," chứ không dùng hai chữ "Tam Tạng" trong danh xưng của ḿnh, có lẽ v́ Ngài chỉ thông đạt một hoặc hai tạng trong số ba tạng Kinh, Luật và Luận.
Già Phạm Đạt Ma dịch. "Già Phạm Đạt Ma" là tên của vị Sa-môn người xứ Tây Thiên-Trúc, và có nghĩa là "Kính Pháp" hoặc "Tôn Pháp." Ngài là một vị Sa-môn rất mực tôn kính giáo pháp của Đức Phật, và chính ngài đă dịch bộ Kinh Đà-La-Ni này từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Trung Hoa.
Kinh Văn:
Âm: NHƯ THỊ NGĂ VĂN: NHẤT THỜI, THÍCH CA MÂU NI PHẬT TẠI PHỔ ĐÀ LẠC GIÀ SƠN. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CUNG ĐIỆN, BẢO TRANG NGHIÊM ĐẠO TRÀNG TRUNG, TỌA BẢO SƯ TỬ T̉A. KỲ T̉A THUẦN DĨ VÔ LƯỢNG TẠP MA NI, BẢO NHI DỤNG TRANG NGHIÊM, BÁCH BẢO TRÀNG PHAN CHÂU TRÁP HUYỀN.
Nghĩa: Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên bảo ṭa Sư tử trong đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, là cung điện của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện ở núi Phổ Đà Lạc Già. Chỗ ấy toàn dùng vô số ngọc báu ma ni để trang nghiêm, treo xung quanh là tràng phan làm bằng trăm thứ quư báu khác.
Lược Giảng:
"Như thị ngă văn":
‘Như thị’ là tín thành tựu
‘Ngă văn’ là văn thành tựu
"Như thị" có nghĩa: Đúng là như vậy, hoàn toàn đáng tin cậy. ‘Như’ có nghĩa là bất biến, không thể nào khác được. ‘Thị’ là như vậy, hoàn toàn là chính xác. ‘Như thị’ nghĩa là hoàn toàn như thật, hoàn toàn đích xác, không ǵ thay đổi được. Mọi Kinh Phật đều mở đầu bằng bốn chữ "Như thị ngă văn". V́ sao có nguồn gốc bốn chữ này? Bốn chữ này là do A Nan tiếp chỉ từ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật lúc sắp nhập Niết bàn đă Di giáo lại.
Lúc Phật Thích Ca sắp nhập Niết bàn, tuy A Nan đă chứng đến nhị quả nhưng vẫn c̣n sự cảm động lưu luyến không dứt. Biết vậy, A Nan cầu thỉnh Phật phải trụ thế, chưa có thể viên tịch, nhưng vẫn không được. Cầu thỉnh không được th́ làm sao? Ông ta khóc, khóc oà lên đầm đ́a nước mắt, mọi cái đều quên hết. V́ sao vậy? V́ ông ta rất ái mộ Phật.
Quư vị xem trong ‘Kinh Lăng Nghiêm’, A Nan v́ sao xuất gia? Là v́ thấy Phật ‘tướng hảo quang minh, có đủ ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ đẹp’ Ông ta liền sanh ái kiến và tự nhủ ḷng: ‘Ồ, tướng hảo Đức Phật tốt như thế, tôi nguyện ở mọi lúc mọi nơi theo làm thị giả hầu cận Đức Phật, dẫu có khó nhọc bao nhiêu tôi cũng nguyện theo’. Sơ tâm xuất gia v́ ḷng ái mộ như thế, nên lúc Đức Thích Ca sắp nhập Niết bàn, ông ta vẫn c̣n mang ái kiến, không muốn thấy có điều đó, nên liền khóc than cầu khẩn.
Như quư vị biết A Na Luật Tôn giả là một vị đệ tử bị mù, tuy bị mù nhưng trong tâm rất sáng tỏ. Lúc đó, A Na Luật vẫn biết Đức Phật Thích Ca sắp nhập Niết bàn, mà cứ thấy A Nan măi khóc lóc không ngớt như thế, nên ông ta đến bên cạnh A Nan nói rằng:
Này A Nan! Ông khóc ǵ vậy?
A Nan nói: Đức Phật Thích Ca sắp nhập Niết bàn, làm sao thầy bảo tôi không khóc! Không có cách nào mà không khóc cả?
A Na Luật nói: Ồ! Bây giờ thầy đang có nhiều việc trọng yếu phải làm mà! Thầy khóc có ích lợi ǵ cơ?
A Na Luật nói vậy, A Nan cũng tỉnh ra một chút và ngớt khóc.
A Nan nói: À, có việc quan trọng, việc quan trọng ǵ?
A Na Luật liền nói: Đức Phật sắp nhập diệt, chúng ta phải thỉnh vấn, là sau này kết tập Kinh Tạng, th́ tất cả những điều Đức Phật tuyên thuyết sau này, sẽ kết tập thành Kinh điển th́ phải mở đầu Kinh điển như thế nào?
A Nan đáp: Việc này quan trọng đấy, đó là việc phải làm, c̣n việc ǵ nữa không?
Tôn Giả A Na Luật nói: Lúc Đức Phật c̣n tại thế chúng ta được theo Phật mà an trú, sau này Đức Phật nhập Niết bàn rồi chúng ta phải ở trú xứ nào?
A Nan ngừng một lát rồi bảo: Ồ! Giờ tôi như lẩn thẩn, nếu thầy không bảo tôi có lẻ tôi không nghĩ ra. Việc này cũng khá trọng yếu đấy! C̣n việc ǵ nữa không?
A Na Luật lại bảo rằng: Lúc Phật c̣n tại thế, Phật là Đấng Đạo Sư của chúng ta, sau khi Phật nhập Niết bàn, chúng ta nên tôn ai làm thầy? Chúng ta nên tiến cử ai làm lănh tụ Tăng đoàn, một người đại biểu của Tăng già mà mọi người phải tuân thủ?
A Nan đáp rằng: Ồ! Thầy nói điều này cũng rất quan trọng, đó là điều thứ ba, c̣n có điều ǵ nữa không?
A Na Luật Tôn giả bảo: Điều thứ tư là lúc Đức Phật c̣n tại thế, có một số Tỳ kheo tha hóa, phạm giới gọi là ‘ác tính Tỳ kheo’ th́ Đức Phật có thể chế phục và giáo huấn được. Sau này Đức Phật đă nhập diệt th́ các ‘ác tính Tỳ Kheo’ này làm sao có biện pháp nghiêm trị?
A Nan đáp: À! Điều này cũng rất quan trọng, c̣n có vấn đề ǵ nữa không?
A Na Luật nói: Không c̣n nữa! Những vấn đề tôi muốn đề cập tôi đă nói hết. C̣n chính thầy c̣n thắc mắc vấn đề ǵ nữa không? Tự thầy nghĩ lại xem!
A Nan đáp: Chính tôi cũng không c̣n vấn đề ǵ, bốn điều này đă đủ rồi!
V́ thế Tôn giả A Nan vội vàng đến chỗ Đức Phật mà thỉnh vấn:
Bạch Đức Thế Tôn! Ngài đă sắp nhập Niết bàn, bây giờ chúng con có mấy vấn đề thắc mắc, kính xin Đức Phật từ bi chỉ giáo.
Đức Phật bảo: Vấn đề ǵ, ông cứ tŕnh bày ra!
A Nan liền bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc Ngài tại thế, Ngài có thể giáo hóa được hạng ‘ác tính Tỳ kheo’, c̣n sau khi Ngài diệt độ rồi th́ làm sao có thể hoán cải được họ. Dạ! Đây là điều thứ tư lẻ ra con không nên hỏi trước, nhưng cũng có thể làm điều thứ nhất để tham vấn Ngài.
Đức Phật đáp rằng: Ác tính Tỳ kheo làm sao chế phục ư?
Các Ngài phải dùng pháp ‘Mặc tẩn’ để bắt đầu hoán đổi họ.
Sao gọi là mặc? Mặc là im lặng, không có giảng giải ǵ thêm với họ. Tẩn là ǵ? Nghĩa là mọi người phải nên cho họ biệt lập, mọi người không được trao đổi, quan hệ ǵ với họ. Hăy dùng sự ‘im lặng sấm sét’ của Đại chúng để giải hóa họ? Lời nói không lời ấy sẽ làm cho họ có một sức nén để bừng tỉnh! Điều này Đức Phật có dạy rơ trong Giới luật.
Đức Phật bảo: C̣n có thắc mắc ǵ nữa không, ông cứ nói ra.
A Nan liền bạch: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc Ngài c̣n tại thế. Ngài là Đấng Đạo Sư của chúng con, vậy sau khi Ngài diệt độ, chúng con phải tôn ai làm thầy? Chúng con có phải t́m một vị thầy nào khác để thọ giáo không?
Đức Phật bảo: Không phải vậy! Sau khi ta diệt độ, các ông hăy lấy ‘Giới luật’ làm thầy, lấy Ba La Đề Mộc Xoa làm thầy của các ông. Phàm là Tỳ kheo phải nghiêm tŕ Giới luật, lấy Giới luật làm thầy!
A Nan lại bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc Ngài c̣n tại thế, chúng con được hầu cận bên Ngài, vậy sao khi Ngài diệt độ chúng con biết dời đến trú xứ nào mà cư trú?
Đức Phật dạy: Sau khi Ta diệt độ, các ông hăy y theo ‘Tứ Niệm Xứ’ mà an trú. Tứ Niệm Xứ như ta đă từng dạy, các ông phải dùng ‘bốn loại quán’ này để an trú, ngỏ hầu tiến xa trên lộ tŕnh đạo nghiệp.
A Nan bạch Đức Phật tiếp: Con c̣n có vấn đề này nữa, vấn đề này rất trọng yếu hơn các vấn đề trước.
Đức Phật bảo: Vấn đề ǵ nữa, ông cứ nói ra.
A Nan liền bạch Phật. Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả những lời dạy của Ngài được tuyên thuyết trong đời này. Sau khi Ngài nhập diệt, chúng con phải kiết tập Kinh điển, lúc biên tập chúng con nên dùng chữ ǵ để mở đầu các Kinh điển, xin Ngài Di giáo.
Đức Phật liền dạy: Vấn đề này cơ? Ông nên dùng bốn chữ ‘Như Thị Ngă Văn’ để làm sự mở đầu cho các Kinh điển.
V́ vậy, nên tất cả các Kinh Phật hiện giờ đều mở đầu bằng ‘Như Thị Ngă Văn’. Nghĩa là tất cả những Kinh pháp này là đích thân A Nan tôi tận tai nghe Đức Phật tuyên thuyết. Tất nhiên Tôn giả A Nan là ‘Đa văn đệ nhất’ nên Đức Phật đă mật ư phó chúc cho A Nan ‘tái phát âm’. V́ Tôn giả A Nan có một công năng kỳ lạ mà không ai có: Đó là một điều nghe qua đều nhớ rơ mồn một, gọi là ‘quá nhĩ bất vong’, không bao giờ quên sót.
Bốn chữ ‘Như Thị Ngă Văn’ này có 3 ư nghĩa.
Thứ nhất là khác với ngoại đạo.
Thứ hai tránh tranh luận.
Thứ ba là đoạn ḷng nghi.
Thứ nhất là khác ngoại đạo: Sao gọi là khác ngoại đạo? V́ tất cả những kinh điển của ngoại đạo. một khi mở đầu thường dùng hai chữ A [ ] và ÚM [ ]. A nghĩa là ‘Vô’ . Úm nghĩa là hữu, mở đầu liền nói ‘Vô hữu’ hoặc ‘hữu vô’. Ngoại đạo có kiến giải rằng, tất cả vạn hữu có hai đạo lư, một là ‘hữu’ và một là ‘vô’.
‘Hữu’ có nghĩa là chấp thường.
‘Vô’ nghĩa là đă chấp đoạn.
Nói như vậy th́ bất kể cái ǵ, không phải là ‘vô’ th́ nghĩa là ‘hữu’ mà không phải là ‘hữu’ th́ là ‘vô’. Nói tóm lại là không thể chấp nhận hai phạm trù ‘hữu vô’ này cũng tức là không thể đưa ra hai kiến giải một đằng là ‘đoạn kiến’, một đằng là ‘thường kiến’
Ở đây nói ‘Như Thị Ngă Văn’ này cũng không phải chấp đoạn, cũng chẳng phải chấp thường, cũng không phải là ‘hữu’ chẳng khẳng quyết là ‘vô’. Đó là sự khác nhau với kiến giải ngoại đạo là ở chỗ này vậy.
Thứ hai là tránh tranh luận.
Lúc ấy, Tôn giả A Nan chỉ mới chứng Nhị quả Tư Đà Hàm, tuy về sau lúc kết tập Kinh Tạng A Nan đă chứng được Tứ quả A La Hán, nhưng cũng là một vị A La Hán rất nhỏ tuổi. Trong lúc các vị như Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề đều là các vị trưởng thượng, tuổi cao tác lớn, lạp tuế cao thâm, đức độ tṛn đầy. V́ A Nan là người tuổi c̣n trẻ như thế, nên lúc thăng ṭa kết tập Kinh Tạng, th́ sợ trong đại chúng có người tranh chấp. Bạn cũng muốn là đệ nhất, tôi cũng muốn là đệ nhất, nhưng v́ ‘đệ nhất’ chỉ có một người, không thể có nhiều người. Vậy th́ nhiều vị A La Hán như thế sẽ tiến cử vị nào? Cho người tuổi lớn th́ sợ người tuổi nhỏ không cảm phục, chọn người tuổi nhỏ th́ người tuổi lớn không bằng ḷng, chọn người trung niên th́ cũng chẳng biết chọn ai là hay nhất? Cho nên sẽ không có cách nào sẽ xử lư được sự kiện này, nếu như Đức Thế Tôn không Di huấn lại.
Như thế nên dùng bốn chữ ‘Như Thị Ngă Văn’ nghĩa là điều ấy không phải là ư bạn, cũng chẳng phải là ư tôi mà cũng chẳng phải ư của bất cứ một ai cả. Đó là tất cả những điều mà Đấng Đạo Sư tuyên thuyết, nay được kết tập mà không một ai có quyền ‘can gián’ vào đó. Bạn cũng không phải là đệ nhất, tôi cũng không phải là đệ nhất, không có đệ nhất nên mọi người không có sự tranh chấp ǵ cả.
Thứ ba là đoạn các nghi.
Bốn chữ ‘Như Thị Ngă Văn’ này là được Đức Phật phó thác Di huấn lại. Cũng có nghĩa là những điều sau này được chép lại trong Kinh điển là điều ‘chắc thật’. Đức Thế Tôn Di huấn là bốn chữ ‘Như Thị Ngă Văn’, trong mật ư là Đức Phật đă tin chắc và xác quyết lại một lần nữa, là những Kinh điển sau này được Tôn giả A Nan ‘tái thuyết’ th́ đều là sự thật. V́ Bảo Tạng Kinh trong ‘Tạng thức kư ức’ của A Nan cũng là Bảo Tạng Kinh mà Đức Thế Tôn đă từng tuyên thuyết.
V́ thế bốn chữ này cũng là đại biểu cho ‘Kim khẩu’ của Đức Phật, nên trong Tăng đoàn và chúng sanh về sau không ai c̣n có thể thắc mắc, hay nghi hoặc nhữngđiều trong Kinh Tạng nữa.
‘Như Thị’ là tín thành tựu.
‘Ngă Văn’ là văn thành tựu.
‘Nhất thời’ là thời thành tựu.
‘Thích Ca Mâu Ni Phật’ là chủ thành tựu.
‘Tại Phổ Đà Lạc Già Sơn’ là xứ thành tựu.
‘Lục thành tựu’ này là một sự ‘xác quyết chắc thật’ về những ǵ xung quanh một Pháp Hội mà Đức Thế Tôn đă từng thuyết pháp.
‘Phổ Đà Lạc Già’ là tiếng Phạm. Trung văn dịch là ‘Tiểu Bạch Hoa’, v́ trên núi này có nở một loại hoa Tiểu Bạch nên gọi núi này là Tiểu Bạch Hoa Sơn hay c̣n gọi là Phổ Đà Lạc Già Sơn.
‘Quán Thế Âm Bồ Tát cung điện’, đó là cung điện thị hiện của Đức Quán Thế Âm.
‘Bảo Trang Nghiêm Đạo Tràng Trung’: Là ở trong đạo tràng này đều làm bằng thất bảo rất trang nghiêm. Chính trong đạo tràng này Đức Thế Tôn ngồi trên bảo ṭa Sư tử để đăng đàn thuyết pháp.
Sửa lại bởi phoquang : 05 April 2006 lúc 9:07pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 2 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Văn:
Âm: NHĨ THỜI NHƯ LAI Ư BỈ T̉A THƯỢNG, TƯƠNG DỤC DIỄN THUYẾT TỔNG TR̀ ĐÀ-LA-NI CỐ, DỮ VÔ ƯƠNG SỐ BỒ TÁT MA-HA-TÁT CÂU, KỲ DANH VIẾT: 1) TỔNG TR̀ VƯƠNG BỒ TÁT, 2) BẢO VƯƠNG BỒ TÁT, 3) DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT, 4) DƯỢC THƯỢNG BỒ TÁT, 5) QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, 6) ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT, 7) HOA NGHIÊM BỒ TÁT, 8) ĐẠI TRANG NGHIÊM BỒ TÁT, 9) BẢO TẠNG BỒ TÁT, 10) ĐỨC TẠNG BỒ TÁT, 11) KIM CANG TẠNG BỒ TÁT, 12) HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT, 13) DI LẶC BỒ TÁT, 14) PHỔ HIỀN BỒ TÁT, 15) VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT.
Như thị đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát, giai thị quán đảnh Đại Pháp Vương Tử.
Nghĩa: Lúc bấy giờ, Đức Như Lai ở trên bảo ṭa, sắp sửa tuyên thuyết Pháp môn Tổng Tŕ Đà-La-Ni. Có vô số Bồ tát Ma-ha-tát đến tham dự; danh hiệu các vị ấy là: 1) Tổng Tŕ Vương Bồ tát, 2) Bảo Vương Bồ tát, 3) Dược Vương Bồ tát, 4) Dược Thượng Bồ tát, 5) Quán Thế Âm Bồ tát, 6) Đại Thế Chí Bồ tát, 7) Hoa Nghiêm Bồ tát, 8) Đại Trang Nghiêm Bồ tát, 9) Bảo Tạng Bồ tát, 10) Đức Tạng Bồ tát, 11) Kim Cang Tạng Bồ tát, 12) Hư Không Tạng Bồ tát, 13) Di Lặc Bồ tát, 14) Phổ Hiền Bồ tát, 15) Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.
Các vị Bồ Tát Ma-ha-tát như thế đều là những Đại Pháp Vương Tử đă được quán đảnh.
Lược Giảng:
Lúc bấy giờ, Đức Như Lai ở trên bảo ṭa, sắp sửa tuyên thuyết Pháp môn Tổng Tŕ Đà-La-Ni. Khi ấy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên ṭa Sư tử, và muốn đem pháp môn Tổng tŕ Đà La Ni ra giảng nói. "Đà La Ni" chính là "Tổng tŕ," mà "Tổng tŕ" cũng là "Đà La Ni." Ở đây th́ gọi là "Tổng tŕ Đà La Ni"; cũng có thể nói rằng Chú Đại Bi là chú tổng tŕ trong Đà-La-Ni.
Trong Pháp Hội ấy có vô số Bồ tát Ma-ha-tát đến tham dự. Bồ tát Ma-ha-tát tức là bậc Đại Bồ tát; và danh hiệu các vị ấy là:
1) Tổng Tŕ Vương Bồ tát. Thế nào gọi là "tổng tŕ"? "Tổng" là bao hàm tất cả pháp; "tŕ" là nắm giữ vô lượng nghĩa. Điều này có nghĩa là tất cả các pháp môn vị Bồ tát này đều thọ tŕ. đều sáng tỏ và đều liễu đạt. V́ vậy, Ngài có danh hiệu là Tổng Tŕ Vương Bồ tát.
2) Bảo Vương Bồ tát. Lại có một vị Bồ tát tên là Bảo Vương Bồ tát.
3) Dược Vương Bồ tát. Lại có vị Bồ tát tên là Dược Vương Bồ tát. Vị Bồ tát này chuyên chữa bệnh cho chúng sanh.
4) Dược Thượng Bồ tát. Dược Vương Bồ tát và Dược Thượng Bồ tát vốn là hai anh em, và đều phát nguyện hộ tŕ Phật Pháp.
5) Quán Thế Âm Bồ tát. Trong số các Đại Bồ tát tham dự Pháp hội, cũng có ngài Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát nữa.
6) Đại Thế Chí Bồ tát. Vị Bồ tát này mỗi khi duỗi tay hoặc nhấc chân th́ cả đại địa đều chấn động sáu cách; cho nên Ngài được gọi là Đại Thế Chí Bồ tát.
7) Hoa Nghiêm Bồ tát. Vị Bồ tát này chuyên thọ tŕ Kinh Hoa Nghiêm.
8) Đại Trang Nghiêm Bồ tát. Lại có một vị Bồ tát có danh hiệu là Đại Trang Nghiêm Bồ tát.
9) Bảo Tạng Bồ tát. Vị Bồ tát này có vô lượng bảo tạng, bất cứ thứ bảo bối ǵ Ngài cũng có cả.
10) Đức Tạng Bồ tát. Đức hạnh của vị Bồ tát này là vô lượng vô biên, cho nên Ngài có danh hiệu là Đức Tạng Bồ tát.
11) Kim Cang Tạng Bồ tát. Vị Bồ tát này là một trong các vị Bồ tát Hộ Pháp Kim Cang Mật Tích.
12) Hư Không Tạng Bồ tát. Lại có một vị tên là Hư Không Tạng Bồ tát nữa.
Những vị Bồ tát này có lẽ quư vị đều biết hoặc đă từng nghe nhắc đến.
13) Di Lặc Bồ tát. "Di Lặc" là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Từ Thị. Vị Bồ tát này c̣n có tên là A-Dật-Đa. "A-Dật-Đa" là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Vô Năng Thắng. Trong tương lai, Di Lặc Bồ tát sẽ thành Phật ở thế giới này.
14) Phổ Hiền Bồ tát, tức là ngài Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.
15) Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tức là ngài Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.
Các vị Bồ tát Ma-ha-tát như thế đều là những Đại Pháp Vương Tử đă được quán đảnh. Những vị Bồ tát kể trên đều là những bậc Bồ tát Ma-ha-tát thuộc hàng thượng thủ, và đều ở ngôi vị "Quán Đảnh"—được Phật thọ kư tương lai sẽ thành Phật. Các ngài đều đă được Đức Phật trao nước "Quán Đảnh" và bảo cho biết tương lai sẽ thành Phật ở thế giới nào, quốc độ nào, vào thời điểm nào và mang danh hiệu ǵ.
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG VÔ SỐ ĐẠI THANH VĂN TĂNG, GIAI HÀNH A LA HÁN THẬP ĐỊA, MA HA CA DIẾP NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng vô số Đại Thanh-Văn Tăng, tất cả đều hành A-la-hán ở Thập Địa; với ngài Ma-Ha Ca-Diếp làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng vô số Đại Thanh-Văn Tăng, tất cả đều hành A-la-hán ở Thập Địa; với ngài Ma-Ha Ca-Diếp làm thượng thủ. Trong Pháp hội c̣n có các bậc Đại Thanh-Văn tu hạnh A-la-hán đă đạt đến quả vị Thập Địa, mà đứng đầu là Trưởng lăo Đại Ca-Diếp.
"A-la-hán" là tiếng Phạn (Arhat). Có ai c̣n nhớ "A-la-hán" dịch sang tiếng Anh là ǵ và có mấy nghĩa không? Người nào biết th́ nên nói ra, không nên ngồi làm thinh như thế! Biết mà không chịu nói ra cho mọi người cùng nghe tức là "hà tiện" Pháp! ("Hà tiện Pháp" có nghĩa là bỏn xẻn, không muốn chia sẻ sự hiểu biết của ḿnh với người khác.)
"A-la-hán" là quả vị cao nhất trong Thanh Văn thừa, và có ba nghĩa:
1) Ứng cúng (xứng đáng được nhận sự cúng dường của cơi người và cơi trời);
2) Sát tặc (giết giặc phiền năo lậu hoặc);
3) Vô sanh (đă đoạn được sự sanh tử luân hồi).
"Tỳ-kheo" (và "Tỳ-kheo-ni") cũng có ba nghĩa; đó là những nghĩa ǵ?
Đệ tử đáp: "Đó là Phá ác, Ma ... ma sợ?"
Là "sợ ma"? Hay là "ma sợ"? Nếu quư vị đảo ngược hai chữ này th́ ư nghĩa sẽ hoàn toàn khác hẳn. "Sợ ma" có nghĩa là quư vị sợ Ma-vương; c̣n "ma sợ" tức là Ma-vương sợ quư vị. Ở đây, từ ngữ mà chúng ta muốn nói đến là "bố ma"—tức là Ma-vương sợ quư vị, chứ không phải là quư vị sợ Ma-vương. Ma-vương sợ thầy Tỳ-kheo; song phải là thầy Tỳ-kheo tốt, có tu hành, có đạo hạnh, th́ Ma-vương mới nể sợ; chứ nếu là vị Tỳ-kheo không tu hành, th́ Ma-vương chẳng những không sợ mà c̣n lấn lướt, quấy nhiễu nữa là khác! Hễ quư vị chăm chỉ tu hành th́ Ma-vương sẽ kính nể quư vị; c̣n nếu quư vị không tu hành, th́ quư vị sẽ sợ Ma-vương!
Ngoài hai nghĩa "Bố ma" và "Phá ác," chữ "Tỳ-kheo" c̣n hàm nghĩa "Khất sĩ" (người đi xin).
Thập Địa là ǵ? Đó là Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa, Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa và Thập Địa.
"Thập Địa" được đề cập đến ở đây chính là Thập Địa của Bồ-tát Đại thừa; và "A-la-hán ở Thập Địa" có nghĩa là bậc A-la-hán đă chứng đắc cảnh giới Bồ-tát Thập Địa.
Lúc giảng Kinh Địa Tạng, tôi đă nhiều lần giảng về thuật ngữ "Thập Địa" này:
"Địa Tạng Bồ tát chứng Thập Địa quả vị dĩ lai, thiên bồi đa ư thượng dụ."
(Từ lúc Bồ tát Địa Tạng chứng quả vị Thập Địa đến nay đă ngh́n lần lâu hơn con số tỷ dụ nêu trên.)
(Kinh Địa Tạng, Phẩm thứ nhất)
Có ai c̣n nhớ Thập Địa là gồm những ǵ không? Có lẽ Quả Địa c̣n nhớ đấy. Quư vị có người nào c̣n nhớ không? Ai nhớ được th́ hăy mau mau lên tiếng!
Đệ tử: Viễn Hành Địa.
Sư Phụ: Viễn Hành Địa ư? Okay! Thế dịch sang tiếng Anh là ǵ?
Đệ tử: Traveling Far.
Sư Phụ: Yes! C̣n ǵ nữa?
Đệ tử: Happiness (Hoan Hỷ Địa), Leaving Filth (Ly Cấu Địa), Emitting Light (Phát Quang Địa), Blazing Wisdom (Diệm Huệ Địa), Invincible (Nan Thắng Địa), Manifesting (Hiện Tiền Địa), Traveling Far (Viễn Hành Địa), Unmoving (Bất Động Địa), Good Wisdom (Thiện Huệ Địa), Dharma Cloud (Pháp Vân Địa).
Sư Phụ: Yes, very good! Đó gọi là Thập Địa.
1) Sơ Địa, hay địa thứ nhất trong Thập Địa, gọi là Hoan Hỷ Địa. Bồ-tát đạt đến địa vị này luôn luôn vô cùng hoan hỷ, vui vẻ.
Lúc Quán Thế Âm Bồ-tát c̣n ở địa thứ nhất này, sau khi được nghe Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như-Lai tuyên thuyết Chú Đại Bi, th́ Ngài liền chứng đắc quả vị Bát Địa—tức là đang từ Sơ Địa mà tiến vọt lên chứng đạt địa vị thứ tám là Bất Động Địa. Chỉ những Bồ-tát đă đạt đến Bát Địa mới có Định lực chân chánh, mới thật sự không c̣n bị dao động.
Ở quả vị Hoan Hỷ Địa này, mọi lúc mọi nơi Bồ-tát đều hoan hỷ giáo hóa chúng sanh. Nhờ luôn ở trong sự hoan hỷ nên Bồ-tát có thể dứt sạch dần mọi cấu nhiễm dơ bẩn để chứng đắc địa thứ nh́—Ly Cấu Địa.
2) Ly Cấu Địa. Tại Sơ Địa, tuy Bồ-tát luôn luôn hoan hỷ nhưng vẫn chưa dứt sạch cấu nhiễm, chưa đạt được sự thanh tịnh. Đến Nhị Địa, Bồ-tát mới tẩy sạch hết trần cấu nhiễm ô, được hoàn toàn thanh tịnh.
3) Phát Quang Địa. Bởi Bồ-tát đă hoàn toàn thanh tịnh, trong sạch, cho nên có hào quang phát ra; v́ thế Tam Địa được gọi là Phát Quang Địa.
4) Diệm Huệ Địa. Trí huệ quang minh của Bồ-tát ở địa vị này th́ có rực rỡ hơn, tiến bộ hơn và thù thắng hơn một bậc so với ở Phát Quang Địa.
5) Nan Thắng Địa. Trí huệ của bậc Bồ-tát ở Ngũ Địa th́ không có ǵ có thể so sánh được.
6) Hiện Tiền Địa. Cái ǵ "hiện tiền"? Ở địa vị này, hào quang trí huệ của Bồ-tát luôn luôn hiện tiền. Tại các địa trước, có nơi Bồ-tát có trí huệ quang minh, nhưng không phải đều luôn luôn hiện tiền; c̣n đến địa thứ sáu này th́ hào quang sáng rỡ của trí huệ lúc nào cũng tỏ rạng.
7) Viễn Hành Địa. Đến địa thứ bảy này th́ ánh sáng trí huệ quang minh của Bồ-tát không những luôn luôn hiện tiền, mà c̣n chiếu soi khắp cả Pháp Giới, nên gọi là Viễn Hành Địa.
8) Bất Động Địa. Tại bảy địa trước, Định lực của Bồ-tát vẫn chưa thể gọi là chân chánh đạt đến cảnh giới "tịch quang bất động"; phải đến Bát Địa th́ Bồ-tát mới thực sự được "tịch nhiên bất động, cảm ứng toại thông." Tuy là "bất động" song Bồ-tát vẫn có thể ứng hiện Bát Tướng Thành Đạo1 , và làm Phật trong hàng trăm cơi giới. Bấy giờ, ở quả vị Bát Địa, nếu Bồ-tát muốn hiện thân đến thế giới khác để giáo hóa chúng sanh, thậm chí thành Phật, đều được cả.
Thế gian có những kỳ nhân ra đời trong một cái bọc, điển h́nh là Hư Vân Lăo Ḥa-Thượng. Khi chào đời, Ngài nằm gọn trong một cái bọc tṛn trịa như quả cầu—ball—vậy. Trường hợp này gọi là sanh ra có "mặc y phục." Chào đời với "y phục" hẳn hoi là cảnh giới của hàng Bồ-tát từ Bát Địa trở lên, khi các ngài thị hiện giáng sanh ở thế gian. Sinh ra mà có mặc y phục tức là rất thanh tịnh, sạch sẽ. Các Bồ-tát thuộc bảy địa trước th́ không đến trần thế bằng cách này.
9) Thiện Huệ Địa. Tại đây, trí huệ của Bồ-tát là vi diệu nhất, hoàn hảo nhất.
10) Pháp Vân Địa. Bậc Bồ-tát đạt đến địa thứ mười này th́ ví như áng mây lành bao phủ khắp thái hư, từ bi phù hộ và độ tŕ tất cả chúng sanh.
"Ma-Ha Ca-Diếp" là tiếng Phạn (Mahàkàsyapa). "Ma-Ha" dịch là Đại; "Ca-Diếp" dịch là Ẩm Quang.2
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG PHẠM-MA-LA THIÊN, THIỆN-TRA PHẠM-MA NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng Phạm-Ma-La Thiên, với ngài Thiện-Tra Phạm-Ma làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng Phạm-Ma-La Thiên, với ngài Thiện-Tra Phạm-Ma làm thượng thủ. Trong Pháp hội c̣n có sự hiện diện của vô số Ma-vương cùng quyến thuộc đến từ cơi trời Phạm Thiên và Ma-La Thiên; và vị dẫn đầu của họ là ngài Thiện-Tra Phạm-Ma.3
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG DỤC GIỚI CHƯ THIÊN-TỬ CÂU, CÙ-BÀ-GIÀ THIÊN-TỬ NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng chư thiên-tử ở cơi Dục Giới đến câu hội, với Thiên-tử Cù-Bà-Già làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng chư thiên-tử ở cơi Dục Giới đến câu hội. "Chư thiên-tử ở cơi Dục Giới" tức là chư thiên ở sáu cơi trời Dục Giới. Sáu cơi trời Dục Giới gồm có: 1) trời Tứ Thiên Vương, 2) trời Đao Lợi, 3) trời Dạ Ma, 4) trời Đâu Suất, 5) trời Hóa Lạc, 6) trời Tha Hóa Tự Tại.
Với Thiên-tử Cù-Bà-Già làm thượng thủ. Tất cả các thiên-tử ở sáu cơi trời này đều đến tham dự Pháp hội; trong đó, Thiên-tử Cù Bà Già làm thủ lănh.4
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG HỘ THẾ TỨ VƯƠNG CÂU, ĐỀ-ĐẦU-LẠI-TRA NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng Hộ Thế Tứ Vương câu hội, với ngài Đề-Đầu-Lại-Tra làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng Hộ Thế Tứ Vương câu hội, với ngài Đề-Đầu-Lại-Tra làm thượng thủ. Ngoài ra, các vị Thiên-vương của Tứ Vương Thiên cũng cùng nhau đến dự Pháp hội; trong đó, vua Đề-Đầu-Lại-Tra làm thủ lănh.5
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG THIÊN, LONG, DẠ XOA, CÀN THÁT BÀ, A TU LA, CA LÂU LA, KHẨN NA LA, MA HẦU LA GIÀ, NHÂN, PHI NHÂN ĐẲNG CÂU; THIÊN ĐỨC ĐẠI LONG VƯƠNG NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân câu hội; với Thiên Đức Đại Long Vương làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân câu hội.
"Dạ-xoa" là tên của một loài quỷ.
"Càn-thát-bà" là thần tấu nhạc ở chỗ Ngọc Đế.
"A-tu-la" tuy có phước báo của cơi trời (thiên phước), song không có thiên đức và thiên quyền.
"Ca-lâu-la" tức là đại-bàng kim-xí điểu.
"Khẩn-na-la" cũng là thần tấu nhạc ở chỗ Ngọc Đế.
"Ma-hầu-la-già" tức là đại măng xà.
"Nhân, phi nhân" có nghĩa là loài người cùng những loài không phải người.6
Với Thiên Đức Đại Long Vương làm thượng thủ. Trong số ấy, có một vị vua rồng tên là Thiên Đức Đại Long Vương làm thủ lănh.
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG DỤC GIỚI CHƯ THIÊN NỮ CÂU, ĐỒNG-MỤC THIÊN NỮ NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng chư thiên-nữ ở cơi Dục Giới câu hội, với Đồng-Mục Thiên nữ làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng chư thiên-nữ ở cơi Dục Giới câu hội, với Đồng-Mục Thiên-nữ làm thượng thủ. Ngoài ra, vô số chư thiên-nữ từ sáu cơi trời Dục Giới cũng lũ lượt đến tham dự Pháp hội; và trong số đó có một thiên nữ tên là Đồng Mục Thiên-nữ làm trưởng đoàn.
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG HƯ KHÔNG THẦN, GIANG HẢI THẦN, TUYỀN NGUYÊN THẦN, HÀ CHIỂU THẦN, DƯỢC THẢO THẦN, THỌ LÂM THẦN, XÁ TRẠCH THẦN, THỦY THẦN, HỎA THẦN, ĐỊA THẦN, PHONG THẦN, THỔ THẦN, SƠN THẦN, THẠCH THẦN, CUNG ĐIỆN ĐẲNG THẦN, GIAI LAI TẬP HỘI.
Nghĩa: Lại có vô lượng các vị thần như Thần Hư Không, Thần Sông Biển, Thần Suối Nguồn, Thần Sông Hồ, Thần Dược Thảo, Thần Thọ Lâm, Thần Nhà Cửa, cùng Thủy Thần, Hỏa Thần, Địa Thần, Phong Thần, Thổ Thần, Sơn Thần, Thạch Thần, Cung Điện Thần, v.v... đều đến tập hội.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng các vị thần như Thần Hư Không. Quư vị có biết Thần Hư Không tên là ǵ không? Có ai biết không? Trong Kinh Lăng Nghiêm nói như thế nào?
"Thuấn-nhă-đa tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển."
"Thuấn-Nhă-Đa" chính là tên của Thần Hư Không; Thuấn-Nhă-Đa là một vị Thần Hư Không. Tôi đă giảng rất nhiều về "Thuấn Nhă Đa," quư vị nhớ ra chưa? Đó là thần Hư Không đấy mà! Quư vị nghe giảng kinh mà đều không chú ư! Nghe xong là trả lại cho tôi hết cả! Quư vị quả thật là không có ḷng tham, ngay cả Pháp mà cũng không muốn giữ cho ḿnh nữa!!! Hẳn là quư vị đă đạt đến cảnh giới "nhân không, Pháp không" rồi!
Thần Sông Biển. Ở các con sông lớn và biển cả đều có Thần Sông và Thần Biển cai quản.
Thần Suối Nguồn. Suối nước cũng có vị thần làm chủ suối.
Thần Sông Hồ. Ở các con sông nhỏ và ao hồ nhỏ cũng đều có những vị thần trông coi.
Thần Dược Thảo. Tất cả các loại thảo mộc có vị thuốc đều có thần cai quản.
Thần Thọ Lâm. Trong rừng cũng có vị thần cai quản khu rừng.
Thần Nhà Cửa. Ngay cả nhà ở cũng có vị Thần Nhà Cửa cai quản.
Cùng Thủy Thần, Hỏa Thần, Địa Thần, Phong Thần. Địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió)—cả bốn đại này đều có thần cai quản. Địa Thần vốn là một nữ thần, trước kia cô ta là một kẻ rất ngạo mạn, cho rằng chỉ có cô ta là Địa Thần, ngoài ra không có vị thần nào khác nữa. Đến khi gặp Phật, Ngài thuyết pháp cho cô ta nghe rồi dạy rằng ngoài Địa Thần ra, c̣n có ba vị cũng là Thần Tứ Đại nữa; đó là Thủy Thần, Hỏa Thần và Phong Thần. Thoạt đầu th́ cô ta không chịu tin, nhưng sau khi Đức Phật phương tiện dùng vô số tỷ dụ để giảng giải, cô ta hiểu ra và chịu tin theo. Vậy, trên đây là nói về bốn vị Thần Tứ Đại.
Thổ Thần, Sơn Thần. Đất đai, núi non đều có Thần Đất và Thần Núi làm chủ quản. Theo truyền thuyết th́ loài cọp chính là Sơn Thần, là chúa tể sơn lâm, cho nên trên núi thường thờ cúng "ông" Sơn Thần này.
Thạch Thần. Ngoài ra, ngay cả các tảng đá cũng đều có vị Thần Đá cai quản.
Cung Điện Thần, v.v... đều đến tập hội. Các vị thần canh giữ cung điện và nhiều vị thần khác cũng cùng nhau tề tựu, tham gia Pháp hội.
Thường th́ con sông nào cũng có một vị thần chủ quản, chẳng qua là phàm nhân không thể thấy biết đó thôi. Người nào đắc Thiên Nhăn Thông th́ sẽ biết được rằng đâu đâu cũng có thần nhân cả—ở mọi nơi, vào mọi lúc, đều có vị thần túc trực để quản lư.
Đức Phật có một đệ tử tên là Ca-Lưu-Đà-Di, đă chứng đắc quả vị A-la-hán. Mỗi khi cần qua sông, Thầy thường gọi Thần Sông (Hà-thần) mà bảo rằng: "Bớ tiểu tỳ! Hăy ngưng chảy!" "Tỳ" có nghĩa là người đầy tớ gái, một người nữ đi làm công cho người ta. Do đó, "tiểu tỳ" tức là người làm công hay người hầu nhỏ thôi, chứ không phải là người hầu lớn! V́ sao Thầy lại bảo nước ngừng chảy? Bởi nước không c̣n chảy xiết nữa th́ Thầy mới qua sông được. (Thường th́ các vị đă chứng quả vị A-la-hán đi đến bất cứ chỗ nào có nước cũng có thể tùy tiện bảo nước ngừng chảy, để họ lội băng qua.)
Rồi cứ hết lần này tới lần khác, hễ muốn sang sông là Thầy Ca-Lưu-Đà-Di đều gọi như thế. Thần Sông lấy làm không vui, bèn đến mách với Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Ngài có một đệ tử nói năng không tế nhị chút nào. Mỗi khi gặp tôi, ông ta không những bất lịch sự mà c̣n gọi tôi là ‘tiểu tỳ’ nữa chứ! Ông ta lẽ ra không nên gọi tôi như vậy! Tại sao lại gọi tôi là ‘tiểu tỳ’ kia chứ?"
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: "Thôi được, khi nào ông ấy về Ta sẽ bảo ông ấy đến xin lỗi ngươi."
Lúc Thầy Ca-Lưu-Đà-Di về đến Tịnh-xá, Đức Phật mới quở trách Thầy: "V́ sao mỗi lần qua sông ông cứ gọi Thần Sông là ‘tiểu tỳ’thế? Ông không nên thiếu tế nhị như vậy! Nói năng cần phải ư tứ, lễ độ một chút chứ!"
Rồi Phật lại dạy: "Này Ca-Lưu-Đà-Di! Ông hăy đến gặp Thần Sông mà nhận lỗi, đích thân xin lỗi người ta ngay đi!"
Thầy Ca-Lưu-Đà-Di vâng lời, hoan hỷ đến gặp Thần Sông và nói: "Này tiểu-tỳ! Đừng phiền trách ta nữa nhé! Ta thật là không phải!"
Thần Sông vốn đă không muốn bị gọi là "tiểu tỳ," thế mà Thầy lại vẫn cứ oang oang: "Này tiểu-tỳ! Đừng phiền trách ta nữa nhé!" Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị Đại A-la-hán biết được chuyện th́ đều bật cười. V́ sao các ngài cười ư? Bởi v́ do gọi Thần Sông là "tiểu-tỳ" khiến thần không vui nên Thầy Ca-Lưu-Đà-Di mới phải đi xin lỗi; thế mà khi gặp Thần Sông để tạ lỗi, Thầy lại buột miệng: "Này tiểu-tỳ..."
Biết là không đúng th́ phải sửa lại, gọi là "Thần Sông," hoặc "Tôn thần," hoặc một danh xưng nào mà "dễ nghe" hơn cũng được; đằng này Thầy Ca-Lưu-Đà-Di lại vẫn cứ gọi là "tiểu tỳ" như trước! V́ sao đă chịu đến nhận lỗi mà Thầy vẫn gọi Thần Sông là "tiểu tỳ"?
Đó là v́ trong năm trăm đời ở quá khứ, vị Thần Sông này đều là người làm công của gia đ́nh Thầy Ca-Lưu-Đà-Di, cho nên Thầy đă quen gọi "tiểu tỳ" như thế rồi. Đời này tuy đă chứng quả A-la-hán song Thầy vẫn c̣n tập khí cũ, cho nên mỗi khi gặp Thần Sông, Thầy cứ quen miệng gọi là "tiểu tỳ." Đây cũng là vấn đề nhân quả vậy!
Sự kiện trên chứng tỏ rằng ở bất cứ nơi nào cũng có thần cả; tuy nhiên, chúng ta không thể nào trông thấy hoặc gặp mặt những vị thần này như đối với người phàm được. Nếu quư vị đă mở Ngũ Nhăn, đắc Lục Thông, th́ quư vị sẽ nh́n thấy được chư thần; nếu chưa có Ngũ Nhăn, chưa chứng Lục Thông, th́ dù có thấy họ, quư vị cũng chẳng nhận ra được, cũng chẳng biết họ là ai!
____________
1 Bát Tướng Thành Đạo (tám tướng trạng thành Đạo: 1) giáng sanh từ cung trời Đâu-suất; 2) nhập thai; 3) trụ thai; 4) xuất thai; 5) xuất gia; 6) hàng ma; 7) chuyển Pháp-luân; 8) nhập Niết-bàn.
2 Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là một vị đại đệ tử của Đức Phật, đứng đầu về hạnh Đầu-đà. Lúc Ngài chào đời th́ có hào quang lấn át cả ánh sáng của mặt trăng, mặt trời và các v́ tinh tú.
3 "Phạm-Ma-La Thiên" là tiếng Phạn (Brahma), gọi tắt là Phạm Thiên, là tên một cơi trời ở Sắc Giới. "Thiện-Tra Phạm-Ma" là tên của vị Thiên tử làm chủ cơi trời Phạm Thiên.
4 "Cù-Bà-Già" (Gopaka) là tên của một vị Thiên-tử ở Dục Giới, chuyên giữ pháp lành cho chúng sanh.
5 Hộ Thế Tứ Vương hay Hộ Thế Tứ Thiên Vương là bốn vị Thiên chủ của bốn cung trời ở bốn phương: 1) Phương Đông là Tŕ Quốc Thiên Vương; 2) Phương Nam là Tăng Trưởng Thiên Vương; 3) Phương Bắc là Đa Văn Thiên Vương; 4) Phương Tây là Quảng Mục Thiên Vương.
"Đề Đầu Lại Tra" là tiếng Phạm (Dhrtaràstra), cũng gọi là Đề Đa La Tra, tức là Tŕ Quốc Thiên Vương.
6 1) "Thiên," tiếng Phạm là Đề-bà (Deva). Những người tu Thập Thiện th́ sau khi mạng chung được sanh lên hưởng phước cơi trời.
2) "Long," tiếng Phạm là Na-già (Naga), dịch là rồng. Loài rồng này có thần thông biến hóa, hoặc canh giữ cung điện trên trời, hoặc giữ địa luân, hoặc làm mưa gió.
3) "Dạ-xoa’ là tiếng Phạm (Yasha), Trung Hoa dịch là "dơng kiện," "bạo ác" hay "tiệp tật." Đây là một loài quỉ rất hung mănh, bay đi mau lẹ, có phận sự canh giữ các thành tŕ trên trời.
4) "Càn-thát-bà" là tiếng Phạm (Gandnarva), Trung Hoa dịch là "hương âm." Đây là thần tấu nhạc của trời Đế Thích, và dùng hương thơm làm thức ăn, cho nên cũng gọi là Hương Thần hoặc Hương Âm Thần.
5) "A-tu-la’ là tiếng Phạm (Asura), Trung Hoa dịch là "phi thiên." A-tu-la là loài thần có phước trời mà đức không bằng trời, quyền biến không như cơi trời, có thần thông biến hóa, nhưng thân h́nh thô xấu, v́ tiền kiếp tánh t́nh thường sân hận.
6) "Ca-lâu-la" là tiếng Phạm (Garuda); Trung Hoa dịch là "kim xí điểu." Đây là một loại chim thần (thần điểu), cánh có lông màu vàng tốt đẹp, hai cánh x̣e ra cách nhau đến 3.360.000 dặm, có thần thông biến hóa.
7) "Khẩn-na-la" là tiếng Phạm (Kinnara); Trung Hoa dịch là "nghi nhân." Đây cũng là thần tấu nhạc cho Ngọc Hoàng Đế Thích.
8) "Ma-hầu-la-già" là tiếng Phạm (Mahoràga); Trung Hoa dịch là "đại măng" hoặc "địa long," tức là thần rắn.
Từ Thiên, Long cho đến Ma Hầu La Già là tám loài; gọi chung là Bát Bộ (tám bộ chúng).
"Phi nhân" là loại quỉ thần, h́nh như người mà không phải người, hoặc có sừng, có cánh, có móng vuốt.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 3 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:09pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh
Hán dịch: Đường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Đạt Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Ḥa Thượng Tuyên Hóa.
1 2 3 4
(tiếp theo)
Kinh Văn:
Âm: THỜI QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT, Ư ĐẠI HỘI TRUNG, MẬT PHÓNG THẦN THÔNG QUANG MINH, CHIẾU DIỆU THẬP PHƯƠNG SÁT ĐỘ CẬP THỬ TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI, GIAI TÁC KIM SẮC. THIÊN CUNG, LONG CUNG, CHƯ TÔN THẦN CUNG, GIAI TẤT CHẤN ĐỘNG. GIANG HÀ ĐẠI HẢI, THIẾT VI SƠN, TU DI SƠN, THỔ SƠN, HẮC SƠN, DIỆC GIAI ĐẠI ĐỘNG. NHẬT NGUYỆT CHÂU HỎA, TINH TÚ CHI QUANG, GIAI TẤT BẤT HIỆN.
Nghĩa: Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát từ trong đại hội mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng mười phương sát-độ cùng cơi Tam Thiên Đại Thiên thế giới này, khiến tất cả đều biến thành sắc vàng. Thiên cung, Long cung, và cung điện của chư tôn thần đều chấn động. Sông hồ, biển cả, núi Thiết-vi, núi Tu-di, cùng Thổ sơn, Hắc sơn cũng đều rung động dữ dội. Ánh lửa ngọc của mặt trời mặt trăng và ánh sáng của các v́ tinh tú đều không hiện hữu nữa.
Lược Giảng:
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát từ trong đại hội mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng mười phương sát-độ cùng cơi Tam Thiên Đại Thiên thế giới này, khiến tất cả đều biến thành sắc vàng. Hào quang do Quán Thế Âm Bồ-tát bí mật phóng ra chiếu dọi khắp nơi, làm cho mười phương quốc độ và luôn cả cơi Tam Thiên Đại Thiên thế giới của chúng ta như nhuộm một màu vàng rực rỡ.
"Mười phương quốc độ" này là ở ngoài chứ không phải ở trong cơi Tam Thiên Đại Thiên thế giới của chúng ta. Có ai biết thế nào gọi là "tam thiên đại thiên thế giới" không? Chẳng lẽ không có người nào biết cả sao?
Thế th́, thế nào gọi là "một thế giới"? Cứ một núi Tu-di, một cái Tứ Thiên-hạ, một mặt trời và một mặt trăng, th́ gọi là "một thế giới." Một ngàn núi Tu-di, một ngàn mặt trời, một ngàn mặt trăng, và một ngàn cái Tứ Thiên-hạ gộp lại th́ gọi là "một tiểu thiên thế giới." Một ngàn cái tiểu thiên thế giới gộp lại th́ gọi là "một trung thiên thế giới." Một ngàn cái trung thiên thế giới th́ gọi là "một đại thiên thế giới."
Bởi "tam biến ngôn thiên"—chữ "thiên" (ngàn) được lập lại ba lần—nên gọi là "tam thiên." Và do đó, một ngàn cái tiểu thiên thế giới, một ngàn cái trung thiên thế giới và một ngàn cái đại thiên thế giới được gộp lại gọi là "tam thiên đại thiên thế giới." Hiện nay con người đă có thể du hành từ trái đất đến mặt trăng và cho rằng đó là một điều vô cùng tuyệt diệu. Thế nhưng, ngoài mặt trăng này ra c̣n có bao nhiêu mặt trăng, bao nhiêu tinh cầu khác nữa mà khoa học chưa hề biết tới? Nhiều đến vô lượng vô biên! Quư vị đến được chỗ này, nhưng chỗ kia th́ vẫn chưa thể đến được. E rằng đến khi nơi nào quư vị cũng tới được hết th́ thế giới này cũng không c̣n nữa!
Thiên cung, Long cung, và cung điện của chư tôn thần đều chấn động. Theo quư vị th́ tại sao các cung điện ấy lại bị rung chuyển?
Chẳng những thế, luôn cả sông hồ, biển cả, núi Thiết-vi, núi Tu-di, cùng Thổ sơn, Hắc sơn cũng đều rung động dữ dội. Khắp nơi đều có địa chấn, mọi ánh sáng đều không c̣n nữa. V́ sao có hiện tượng chấn động này? Đó là do Quán Thế Âm Bồ-tát đă vận dụng sức thần thông bí mật, làm cho tất cả các cơi giới đều lung lay, dao động.
Ánh lửa ngọc của mặt trời mặt trăng và ánh sáng của các v́ tinh tú đều không hiện hữu nữa. V́ sao ánh sáng do mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao phát ra đều biến mất, không c̣n thấy rơ nữa? Bởi v́ các thứ ánh sáng đó đă bị hào quang quá lớn mạnh, quá chói lọi của Quán Thế Âm Bồ-tát lấn át và "ăn" mất! Nói như thế không có nghĩa là ánh sáng bị "ăn" hoặc bị "nuốt chửng" thật sự; chẳng qua là hào quang do Bồ-tát phóng ra rực rỡ đến nỗi các ánh sáng kia trở nên lu mờ hẳn, dường như là không c̣n nữa vậy. Tôi dùng chữ "ăn" là để ví von, ngụ ư rằng ánh sáng này "ăn đứt," sáng trội hơn các ánh sáng kia vượt bực.
Kinh Văn:
Âm: Ư THỊ TỔNG TR̀ VƯƠNG BỒ TÁT, KIẾN THỬ HY HỮU CHI TƯỚNG, QUÁI VỊ TẰNG HỮU, TỨC TÙNG T̉A KHỞI, XOA THỦ HỢP CHƯỞNG, DĨ KỆ VẤN PHẬT, NHƯ THỬ THẦN THÔNG CHI TƯỚNG, THỊ THÙY SỞ PHÓNG.
Nghĩa: Lúc đó, Tổng Tŕ Vương Bồ-tát thấy tướng trạng hy hữu ấy th́ lấy làm lạ, cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, dùng kệ thỉnh hỏi Đức Phật xem tướng thần thông kia là do ai phóng ra.
Lược Giảng:
Lúc đó, Tổng Tŕ Vương Bồ-tát thấy tướng trạng hy hữu ấy th́ lấy làm lạ, cho là việc chưa từng có. Bấy giờ, Tổng Tŕ Vương Bồ-tát tự nghĩ: "Kỳ lạ thật! Quả là hết sức kỳ lạ! Từ trước đến nay chưa bao giờ có chuyện kỳ lạ như vậy. Thế này là thế nào nhỉ?"
Quư vị xem, ngay cả Tổng Tŕ Vương Bồ-tát mà c̣n không biết về hiện tượng ấy, chẳng trách khi tôi hỏi th́ quư vị cũng đều không biết cả! Tổng Tŕ Vương Bồ-tát thần thông quảng đại biết bao, thế mà Ngài vẫn không hiểu được; huống ǵ quư vị chỉ mới được nghe qua loa vài câu Phật Pháp thôi th́ làm sao có thể biết được thứ đạo lư vi diệu dường ấy! Cho nên, mặc dù quư vị không trả lời được, tôi cũng thông cảm mà tha thứ cho quư vị!
Bấy giờ, Tổng Tŕ Vương Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, dùng kệ thỉnh hỏi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xem tướng thần thông kia là do ai phóng ra.
Kinh Văn:
DĨ KỆ VẤN VIẾT:
"THÙY Ư KIM NHẬT THÀNH CHÁNH GIÁC,
PHỔ PHÓNG NHƯ THỊ ĐẠI QUANG MINH,
THẬP PHƯƠNG SÁT ĐỘ GIAI KIM SẮC,
TAM THIÊN THẾ GIỚI DIỆC PHỤC NHIÊN?
THÙY Ư KIM NHẬT ĐẮC TỰ TẠI,
DIỄN PHÓNG HY HỮU ĐẠI THẦN LỰC,
VÔ BIÊN PHẬT QUỐC GIAI CHẤN ĐỘNG,
LONG THẦN CUNG ĐIỆN TẤT BẤT AN?
KIM THỬ ĐẠI CHÚNG HÀM HỮU NGHI,
BẤT TRẮC NHÂN DUYÊN THỊ THÙY LỰC,
VI PHẬT, BỒ TÁT, ĐẠI THANH VĂN,
VI PHẠM MA THIÊN, CHƯ THÍCH ĐẲNG?
DUY NGUYỆN THẾ TÔN ĐẠI TỪ BI,
THUYẾT THỬ THẦN THÔNG SỞ DO DĨ."
Nghĩa:
Lời kệ hỏi rằng:
"Hôm nay ai được thành Chánh Giác,
Phóng đại quang minh khắp thế này,
Mười phương sát-độ thành sắc vàng,
Tam thiên thế giới cũng như vậy?
Hôm nay ai chứng đắc tự tại,
Phô diễn đại thần lực hiếm có,
Vô biên nước Phật đều rúng động.
Cung điện Long Thần cũng chẳng yên?
Đại chúng hôm nay có thắc mắc,
Chẳng rơ nhân duyên bởi sức ai?
Là Phật, Bồ-tát, Đại Thanh Văn?
Hoặc trời Phạm, Ma, chư Đế Thích?
Chỉ mong Thế Tôn đại từ bi,
Nói rơ thần thông nọ do đâu."
Lược Giảng:
Lời kệ hỏi rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Hôm nay ai được thành Chánh Giác, Phóng đại quang minh khắp thế này, Mười phương sát-độ thành sắc vàng, Tam thiên thế giới cũng như vậy?" Tổng Tŕ Vương Bồ-tát bạch cùng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: "Bạch Đức Thế Tôn! Phải chăng hôm nay có ai được thành Phật? Cả đại địa đều chấn động và chói ḷa ánh sáng. Có một thứ hào quang màu vàng rực rỡ soi chiếu khắp nơi, khiến cho các cơi nước trong mười phương và luôn cả cơi tam thiên đại thiên thế giới, hết thảy đều biến thành sắc vàng."
"Hôm nay ai chứng đắc tự tại, Phô diễn đại thần lực hiếm có, Vô biên nước Phật đều rúng động. Chẳng hay hôm nay có vị Bồ-tát nào chứng đắc được sức thần thông tự tại thế? Vị ấy thị hiện phóng ra sức đại thần thông hy hữu nhất, khiến cho tất cả mọi quốc độ của Phật đều rúng động, đều xảy ra địa chấn. Cung điện Long Thần cũng chẳng yên? Đời sống của rồng ở chốn long cung vốn rất b́nh yên, song nay th́ cung điện cũng không được yên ổn nữa!"
"Đại chúng hôm nay có thắc mắc, Chẳng rơ nhân duyên bởi sức ai? Hiện tại tất cả đại chúng đều thắc mắc, không hiểu nhân duyên này là như thế nào, ai đang vận dụng sức thần thông, và ai phóng ra thứ ánh sáng này? Thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con được rơ. Đó là Phật, Bồ-tát, Đại Thanh Văn, hoặc trời Phạm, Ma, chư Đế Thích? Hiện tượng địa chấn và hào quang có phải là do Phật thị hiện? Hay là do Bồ-tát phóng ra? Hay là do hàng Đại Thanh-văn, A-la-hán phô diễn? Hoặc giả, hào quang này là do chư thiên cùng Ma vương ở trời Đại Phạm phóng ra? Hay là do các thần đất phóng ra?"
"Chỉ mong Thế Tôn đại từ bi, Nói rơ thần thông nọ do đâu. Con nay cúi xin Đức Thế Tôn mở ḷng từ bi rộng lớn mà nói rơ nguồn cơn, cho chúng con được biết thần thông quang minh này vốn từ đâu đến?"
Kinh Văn:
Âm: PHẬT CÁO TỔNG TR̀ VƯƠNG BỒ TÁT NGÔN: "THIỆN NAM TỬ! NHỮ ĐẲNG ĐƯƠNG TRI, KIM THỬ HỘI TRUNG, HỮU NHẤT BỒ-TÁT MA-HA-TÁT DANH VIẾT QUÁN-THẾ-ÂM TỰ-TẠI, TÙNG VÔ LƯỢNG KIẾP LAI, THÀNH TỰU ĐẠI TỪ ĐẠI BI, THIỆN NĂNG TU TẬP VÔ LƯỢNG ĐÀ-LA-NI MÔN, VI DỤC AN LẠC CHƯ CHÚNG SANH CỐ, MẬT PHÓNG NHƯ THỊ ĐẠI THẦN THÔNG LỰC."
PHẬT THUYẾT THỊ NGỮ DĨ,
Nghĩa: Đức Phật bảo Tổng Tŕ Vương Bồ-tát: "Thiện nam tử! Các ông nên biết, trong Pháp hội hôm nay có vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đă thành tựu tâm đại từ đại bi và khéo tu tập vô lượng pháp môn Đà-La-Ni, v́ muốn chúng sanh được an vui nên mật phóng sức đại thần thông như thế."
Đức Phật nói những lời ấy xong,
Lược Giảng:
Đức Phật bảo Tổng Tŕ Vương Bồ-tát: "Thiện nam tử! Các ông nên biết, trong Pháp hội hôm nay có vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại. Hiện trong đại hội này có một vị Đại Bồ-tát tên là Quán Thế Âm và là một vị Bồ-tát rất tự tại. Vị Bồ-tát này từ vô lượng kiếp đến nay đă thành tựu tâm đại từ đại bi, công đức đại từ đại bi, và khéo tu tập vô lượng pháp môn Đà-La-Ni, v́ muốn chúng sanh được an vui nên mật phóng sức đại thần thông như thế." Chính v́ muốn làm cho tất cả chúng sanh đều được b́nh yên, vui vẻ, nên Bồ-tát Quán Thế Âm đă bí mật phóng ánh sáng đại quang minh, phô diễn sức đại thần thông như thế.
Đức Phật nói những lời ấy xong…, ... Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong th́ thế nào?
Kinh Văn:
Âm: NHĨ THỜI QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT TÙNG T̉A NHI KHỞI, CHỈNH LƯ Y PHỤC, HƯỚNG PHẬT HỢP CHƯỞNG, BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NGĂ HỮU ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI CHÚ, KIM ĐƯƠNG DỤC THUYẾT, VI CHƯ CHÚNG SANH ĐẮC AN LẠC CỐ, TRỪ NHẤT THIẾT BỆNH CỐ, ĐẮC THỌ MẠNG CỐ, ĐẮC PHÚ NHIÊU CỐ, DIỆT TRỪ NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI CỐ, LY CHƯỚNG NẠN CỐ, TĂNG TRƯỞNG NHẤT THIẾT BẠCH PHÁP CHƯ CÔNG ĐỨC CỐ, THÀNH TỰU NHẤT THIẾT CHƯ THIỆN CĂN CỐ, VIỄN LY NHẤT THIẾT CHƯ BỐ ÚY CỐ, TỐC NĂNG MĂN TÚC NHẤT THIẾT CHƯ HY CẦU CỐ, DUY NGUYỆN THẾ-TÔN TỪ AI THÍNH HỨA."
Nghĩa: Ngay lúc đó, Quán Thế Âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, rồi chắp tay hướng về Đức Phật và bạch với Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Con có Chú Đại Bi Tâm Đà-La-Ni, nay xin nói ra là v́ muốn cho chư chúng sanh được an lạc, được trừ tất cả các bệnh, được thọ mạng dài lâu, được giàu có sung túc, được dứt trừ tất cả ác nghiệp trọng tội, được xa ĺa chướng nạn, được tăng trưởng tất cả các công đức bạch pháp, được thành tựu tất cả các thiện căn, được xa ĺa tất cả sự sợ hăi, được mau có đủ tất cả những thứ mong cầu. Cúi xin Đức Thế Tôn từ bi hứa khả cho."
Lược Giảng:
Ngay lúc đó, Quán Thế Âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, rồi chắp tay hướng về Đức Phật và bạch với Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Con có Chú Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Con có một thần chú tên là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni Thần Chú và nay xin nói ra là v́ muốn cho chư chúng sanh được an lạc. Con nói ra Thần Chú Đại Bi này để làm cho hết thảy chúng sanh đều được vui vẻ, an ổn, không gặp nguy hiểm, không bị đe dọa, khủng bố; và được trừ tất cả các bệnh, bất cứ bệnh ǵ cũng có thể giải trừ được cả.
"Được thọ mạng dài lâu. Có người nếu tŕ tụng Chú Đại Bi th́ được phước báo trường thọ, được giàu có sung túc, tiền của dồi dào, được dứt trừ tất cả ác nghiệp trọng tội." Quư vị xem, Chú Đại Bi có công năng diệt trừ hết thảy ác nghiệp của tất cả chúng sanh. "Ác nghiệp" tức là bao gồm luôn cả các tội thuộc Ngũ Nghịch, Thập Ác. Cho nên, những nghiệp tội nghiêm trọng nhất, nặng nhất, đều có thể tiêu tan.
"Được xa ĺa chướng nạn, thoát khỏi mọi ma chướng, khó khăn, được tăng trưởng tất cả các công đức bạch pháp." "Bạch pháp" (pháp trắng) tức là thanh tịnh pháp—thứ pháp trong sạch, không nhiễm ô. Pháp nhiễm ô tức là "hắc pháp" (pháp đen); c̣n không nhiễm ô th́ gọi là "bạch pháp." "Công đức bạch pháp" có nghĩa là công đức thanh tịnh.
"Được thành tựu tất cả các thiện căn." Chú Đại Bi c̣n có công năng khiến cho hết thảy căn lành đều được thành tựu.
"Được xa ĺa tất cả sự sợ hăi." Nếu quư vị nào sợ đi máy bay th́ hăy tŕ niệm Chú Đại Bi, bởi như thế sẽ giúp quư vị không c̣n sợ hăi nữa.
"Được mau có đủ tất cả những thứ mong cầu." Chú Đại Bi lại có thể giúp cho quư vị được măn nguyện, khiến cho những hy vọng, ước muốn của quư vị đều được thành tựu một cách mau chóng.
"Cúi xin Đức Thế Tôn từ bi hứa khả cho. Con nay thỉnh cầu Đức Thế Tôn phê chuẩn sự thỉnh cầu của con, từ bi cho phép con tuyên thuyết Chú Đại Bi cho đại chúng cùng nghe!"
Kinh Văn:
Âm: PHẬT NGÔN: "THIỆN NAM TỬ! NHỮ ĐẠI TỪ BI, AN LẠC CHÚNG SANH, DỤC THUYẾT THẦN CHÚ, KIM CHÁNH THỊ THỜI, NGHI ƯNG TỐC THUYẾT, NHƯ LAI TÙY HỶ, CHƯ PHẬT DIỆC NHIÊN."
Nghĩa: Đức Phật dạy: "Thiện nam tử! Ông thật đại từ bi, v́ sự an lạc của chúng sanh nên muốn tuyên thuyết thần chú. Nay chính là lúc ấy, vậy ông hăy mau nói ra. Như Lai tùy hỷ, và chư Phật cũng thế!"
Lược Giảng:
Đức Phật dạy: "Thiện nam tử! Ông thật đại từ bi." Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nghe Bồ-tát Quán Thế Âm thỉnh cầu, muốn được tuyên thuyết Đại Bi Chú, bèn trả lời rằng: "Quán Thế Âm ơi, ḷng từ bi của ông thật là quảng đại một cách phi thường, v́ sự an lạc của chúng sanh nên muốn tuyên thuyết thần chú. Ông hằng ao ước được nói ra Đại Bi Thần Chú, th́ nay chính là lúc ấy. Bây giờ chính là thời điểm thích hợp để tuyên thuyết Chú Đại Bi, vậy ông hăy mau nói ra. Như Lai tùy hỷ, và chư Phật cũng thế! Chẳng những Ta, Như Lai, tùy hỷ theo công đức của ông, mà cả mười phương chư Phật thảy đều tùy hỷ tán thán công đức đó."
Kinh Văn:
Âm: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TRÙNG BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NGĂ NIỆM QUÁ KHỨ VÔ LƯỢNG ỨC KIẾP, HỮU PHẬT XUẤT THẾ DANH VIẾT THIÊN QUANG VƯƠNG TĨNH TRỤ NHƯ LAI. BỈ PHẬT THẾ TÔN, LÂN NIỆM NGĂ CỐ, CẬP VI NHẤT THIẾT CHƯ CHÚNG SANH CỐ, THUYẾT THỬ QUẢNG ĐẠI VIÊN MĂN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI, DĨ KIM SẮC THỦ, MA NGĂ ĐẢNH THƯỢNG, TÁC NHƯ THỊ NGÔN:
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Đức Phật Thế Tôn ấy v́ thương nghĩ đến con cùng tất cả chúng sanh, nên đă tuyên thuyết Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni này, lại dùng tay kim sắc xoa đảnh đầu con và dạy lời như vầy:
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước" "Vô lượng ức kiếp" tức là vô lượng vô biên, không biết rơ được là bao nhiêu kiếp, không cách nào tính ra được con số cụ thể.
Quán Thế Âm Bồ-tát nhớ lại một sự việc trong đời quá khứ, xảy ra từ vô lượng kiếp về trước. Vào thuở ấy, "có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Bấy giờ, Đức Phật Thế Tôn ấy, tức là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, v́ thương nghĩ đến con cùng tất cả chúng sanh, nên đă tuyên thuyết Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni này."
Rồi Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai "lại dùng tay kim sắc xoa đảnh đầu con—Quán Thế Âm Bồ-tát—và dạy lời như vầy:"
Kinh Văn:
Âm: "‘THIỆN NAM TỬ! NHỮ ĐƯƠNG TR̀ THỬ TÂM CHÚ, PHỔ VI VỊ LAI ÁC THẾ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, TÁC ĐẠI LỢI LẠC.’
NGĂ Ư THỊ THỜI. THỦY TRỤ SƠ ĐỊA, NHẤT VĂN THỬ CHÚ CỐ, SIÊU ĐỆ BÁT ĐỊA, NGĂ THỜI TÂM HOAN HỶ CỐ, TỨC PHÁT THỆ NGÔN:"
Nghĩa: ‘Thiện nam tử! Ông nên thọ tŕ tâm chú này, v́ khắp tất cả chúng sanh trong đời ác ở thời vị lai mà làm sự đại lợi lạc.’
Con lúc đó mới đang ở Sơ Địa, vừa nghe xong Chú này th́ liền vượt lên Bát Địa. Bấy giờ, trong ḷng hoan hỷ, con lập tức phát lời thệ nguyện:
Lược Giảng:
‘Thiện nam tử! Ông nên thọ tŕ tâm chú này.’ Thuở ấy, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai dặn ḍ Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: "Này Thiện nam tử, ông cần phải thọ tŕ tâm chú này. Tâm chú nào ư? Đó là Đại Bi Tâm Chú, hay cũng gọi là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Và ông hăy v́ khắp tất cả chúng sanh trong đời ác ở thời vị lai mà làm sự đại lợi lạc. Ông nên làm cho hết thảy chúng sanh ở đời sau đều được hưởng sự lợi ích và được an vui."
"Con lúc đó mới đang ở Sơ Địa." Sơ Địa có tên là ǵ? Đó là Hoan-hỷ Địa.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát chỉ mới chứng đắc Sơ Địa; thế nhưng Ngài "vừa nghe xong Chú này—tức là Chú Đại Bi—th́ liền vượt lên Bát Địa." Như thế tức là từ Sơ Địa, Quán Thế Âm Bồ-tát đă vượt qua Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa, Thất Địa, tiến thẳng đến Bát Địa.
"Bấy giờ, do trong ḷng hoan hỷ, con lập tức phát lời thệ nguyện:" Phát thệ nguyện ǵ?
Kinh Văn:
Âm: ‘NHƯỢC NGĂ ĐƯƠNG LAI, KHAM NĂNG LỢI ÍCH AN LẠC NHẤT THIẾT CHÚNG SANH GIẢ, LINH NGĂ TỨC THỜI THÂN SANH THIÊN THỦ THIÊN NHĂN CỤ TÚC!’
PHÁT THỊ NGUYỆN DĨ, ƯNG THỜI THÂN THƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHĂN TẤT GIAI CỤ TÚC, THẬP PHƯƠNG ĐẠI ĐỊA LỤC CHỦNG CHẤN ĐỘNG, THẬP PHƯƠNG THIÊN PHẬT, TẤT PHÓNG QUANG MINH, CHIẾU XÚC NGĂ THÂN, CẬP CHIẾU THẬP PHƯƠNG VÔ BIÊN THẾ GIỚI.
Nghĩa: ‘Nếu trong đời vị lai tôi có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh, th́ xin khiến cho thân tôi lập tức sanh đủ ngàn tay ngàn mắt!’
Phát nguyện ấy xong th́ trên thân liền ứng thời hiện đủ ngàn tay ngàn mắt. Lúc ấy, mười phương đại địa chấn động sáu cách; ngàn Đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân con, cùng chiếu dọi vô biên thế giới ở khắp mười phương.
Lược Giảng:
"‘Nếu trong đời vị lai tôi có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh, th́ xin khiến cho thân tôi lập tức sanh đủ ngàn tay ngàn mắt!’" Trong đời quá khứ ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát đă nguyện rằng: "Giả sử trong tương lai, tôi có thể trở nên hữu ích đối với hết thảy chúng sanh, có thể mang lại sự an lạc cho muôn loài, th́ tôi hy vọng rằng thần lực của Chú Đại Bi này hăy khiến cho một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt mọc ra đầy đủ nơi nhục thân của tôi ngay tức khắc!"
"Phát nguyện ấy xong, sau khi con lập nguyện, th́ trên thân liền ứng thời hiện đủ ngàn tay ngàn mắt. Ngay trên nhục thân của con liền hiện ra cả một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt trong cùng một lúc."
"Lúc ấy, mười phương đại địa chấn động sáu cách." Khắp mười phương thế giới, đại địa rúng động theo sáu cách khác nhau, gọi là "lục chủng chấn động." Đó chính là 1) Chấn (vang dội); 2) Hống (gào lên); 3) Kích (đánh ra); 4) Động (động cựa); 5) Dũng (phun ra); 6) Khởi (vùng dậy). Chấn, hống, kích là những biến động thuộc về âm thanh; động, dũng, khởi là những biến hóa thuộc về h́nh thể.
Ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh. Từ thế giới của ngàn đức Phật trong mười phương đều đồng thời phóng ra hào quang đại quang minh, hào quang ấy dọi đến thân con, cùng chiếu soi, tỏa ánh sáng rực rỡ tới vô biên thế giới ở khắp mười phương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 4 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:11pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Văn:
Âm: TÙNG THỊ DĨ HẬU, PHỤC Ư VÔ LƯỢNG PHẬT SỞ, VÔ LƯỢNG HỘI TRUNG, TRÙNG CÁNH ĐẮC VĂN, THÂN THỪA THỌ TR̀ THỊ ĐÀ-LA-NI, PHỤC SANH HOAN HỶ, DŨNG DƯỢC VÔ LƯỢNG, TIỆN ĐẮC SIÊU VIỆT VÔ SỐ ỨC KIẾP VI TẾ SANH TỬ."
Nghĩa: Từ đó về sau, trong vô lượng Phật sở, vô lượng Pháp Hội, con được nghe lại và đích thân nhận lănh, thọ tŕ Đà-La-Ni này, lại sanh hoan hỷ, phấn chấn vô lượng, nên được siêu vượt vi tế sanh tử trong vô số ức kiếp."
Lược Giảng:
"Từ đó về sau, trong vô lượng Phật sở, vô lượng Pháp Hội, con được nghe lại và đích thân nhận lănh, thọ tŕ Đà-La-Ni này. Kể từ đó, tại vô lượng vô biên cơi nước của Phật cũng như tại vô lượng Pháp hội, con thường được nghe lại Chú Đại Bi Đà-La-Ni và tự thân con cũng thọ tŕ chú tổng tŕ này. Con lại sanh hoan hỷ, phấn chấn vô lượng. Con mừng rỡ đến nỗi muốn nhảy múa reo vui, nên được siêu vượt vi tế sanh tử1 trong vô số ức kiếp, lại c̣n được vượt qua biến dị sanh tử vô cùng vi tế trong vô số ức kiếp ở quá khứá."
Kinh Văn:
Âm: TÙNG THỊ DĨ LAI THƯỜNG SỞ TỤNG TR̀, VỊ TẰNG PHẾ VONG. DO TR̀ THỬ CHÚ CỐ, SỞ SANH CHI XỨ, HẰNG TẠI PHẬT TIỀN, LIÊN HOA HÓA SANH, BẤT THỌ THAI TẠNG CHI THÂN.
Nghĩa: Từ ấy đến nay. con thường xuyên tŕ tụng, chưa từng quên bỏ. Nhờ thọ tŕ Chú này nên con luôn được sanh ra tại Phật tiền, hóa sanh từ hoa sen, không c̣n thọ thân thai bào nữa.
Lược Giảng:
"Từ ấy đến nay. con thường xuyên tŕ tụng, chưa từng quên bỏ. Kể từ khi ấy cho đến nay, con vẫn luôn tụng tŕ Chú Đại Bi, không một ngày xao lăng. Nhờ thọ tŕ Chú này nên con luôn được sanh ra tại Phật tiền, vào thời có Phật trụ thế, được hóa sanh từ hoa sen chứ không c̣n thọ thân thai bào nữa, không c̣n phải mang thân thể do cha mẹ hoài thai, cưu mang nữa."
____________
1 Có hai loại sanh tử: 1) Phân đoạn sanh tử. Đây là sự sanh và tử của nhục thân. Các bậc A-la-hán đều đă kết thúc sự sanh tử này; 2) Biến dị sanh tử. Đây là nói về sự thay đổi, chuyển biến vi tế của ḍng tư tưởng. Các bậc Bồ-tát đều đă dứt được cả hai thứ sanh tử này. Ở đây, vi tế sanh tử chính là Biến dị sanh tử.
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC HỮU TỲ KHEO, TỲ KHEO NI, ƯU BÀ TẮC, ƯU BÀ DI, ĐỒNG NAM, ĐỒNG NỮ, DỤC TỤNG TR̀ GIẢ, Ư CHƯ CHÚNG SANH KHỞI TỪ BI TÂM, TIÊN ĐƯƠNG TÙNG NGĂ PHÁT NHƯ THỊ NGUYỆN: ..."
Nghĩa: "Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn tŕ tụng, th́ nên phát khởi ḷng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy ..."
Lược Giảng:
"Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn tŕ tụng ..." Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Giả sử có các Thầy hoặc các Sư cô, đă xuất gia, người nam hoặc người nữ c̣n tại gia, và đồng nam hoặc đồng nữ nào phát tâm muốn tŕ tụng Chú Đại Bi, th́ nên phát khởi ḷng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy ..." Trước hết, vị phát tâm ấy cần phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười lời thệ nguyện như sau ...
Kinh Văn:
Âm:
1) "NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TỐC TRI NHẤT THIẾT PHÁP;
2) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TẢO ĐẮC TRÍ HUỆ NHĂN;
3) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TỐC ĐỘ NHẤT THIẾT CHÚNG;
4) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TẢO ĐẮC THIỆN PHƯƠNG TIỆN;
5) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TỐC THỪA BÁT-NHĂ THUYỀN;
6) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TẢO ĐẮC VIỆT KHỔ HẢI;
7) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TỐC ĐẮC GIỚI ĐỊNH ĐẠO;
8) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TẢO ĐĂNG NIẾT-BÀN SƠN;
9) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TỐC HỘI VÔ-VI XÁ;
10) NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGĂ TẢO ĐỒNG PHÁP TÁNH THÂN.
NGĂ NHƯỢC HƯỚNG ĐAO SƠN, ĐAO SƠN TỰ TỒI CHIẾT;
NGĂ NHƯỢC HƯỚNG HỎA THANG, HỎA THANG TỰ KHÔ KIỆT;
NGĂ NHƯỢC HƯỚNG ĐỊA NGỤC, ĐỊA NGỤC TỰ TIÊU DIỆT;
NGĂ NHƯỢC HƯỚNG NGẠ QUỶ, NGẠ QUỶ TỰ BĂO MĂN;
NGĂ NHƯỢC HƯỚNG TU-LA, ÁC TÂM TỰ ĐIỀU PHỤC;
NGĂ NHƯỢC HƯỚNG SÚC SANH, TỰ ĐẮC ĐẠI TRÍ HUỆ."
Nghĩa:
1) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp;
2) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhăn;
3) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh;
4) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện;
5) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhă;
6) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ;
7) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng đắc Giới Định Đạo;
8) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn;
9) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi;
10) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh.
Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ;
Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn;
Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt;
Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ;
Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục;
Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ."
Lược Giảng:
Mười lời nguyện đó là:
1) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả pháp."
"Nam mô" nghĩa là ǵ? "Nam mô" là tiếng Phạn, và có nghĩa là "quy mạng." Do đó, "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" có nghĩa là giao phó tất cả thân tâm, tính mạng của ḿnh cho Quán Thế Âm Bồ-tát.
"Nam mô" lại cũng có nghĩa là "kính đầu," tức là cung kính quy y, cung kính quay về nương tựa. Như vậy, "nam mô Phật" tức là cung kính quay về nương tựa Phật; "nam mô Pháp" là cung kính quay về nương tựa Pháp; "nam mô Tăng" là cung kính quay về nương tựa Tăng; và "nam mô Đại Bi Quán Thế Âm" là cung kính quay về nương tựa Đức Quán Thế Âm Bồ-tát đại từ đại bi.
Sau khi đă quay về nương tựa Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát rồi th́ sao nữa? Th́ hăy phát nguyện rằng: "Con nguyện chóng biết tất cả pháp. Cầu xin Quán Thế Âm Bồ-tát gia bị, phù hộ cho con được hiểu rơ Phật Pháp một cách nhanh chóng." Ở đây, "biết" (tri) tức là hiểu rơ, hiểu thấu đáo.
2) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhăn." Ở thế gian chúng ta, những người hiện đời có được Ngũ Nhăn, Lục Thông đều là nhờ thuở trước họ đă từng tŕ tụng Chú Đại Bi và quy y với Quán Thế Âm Bồ-tát, nên Trí Huệ Nhăn khai mở và họ có được "con mắt trí huệ."
3) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh." Chúng ta cần "mau biết tất cả pháp, sớm được Trí Huệ Nhăn" để làm ǵ? Chính là để "chóng độ các chúng sanh."
4) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương tiện." Muốn độ tất cả chúng sanh th́ chúng ta cần phải biết mọi pháp môn phương tiện ngơ hầu có thể tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thuyết giảng thứ giáo pháp thích hợp, "tùy bệnh cho thuốc." Do đó, sớm chứng đắc các pháp môn thiện xảo phương tiện là điều rất thiết yếu.
5) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhă. Con lại quay về nương tựa Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ chóng được ngồi thuyền trí huệ Bát-nhă."
6) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ. Sau khi được lên ngồi trên thuyền trí huệ Bát-nhă rồi, con nguyện sẽ dùng con thuyền này để nhanh chóng vượt thoát biển khổ sanh tử."
7) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng được Giới Định Đạo. Con cung kính quy y Đức Quán Thế Âm Đại Từ Đại Bi, và nguyện sẽ sớm thông đạt được đạo Giới, Định, Huệ."
8) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn. Sau khi đắc được Giới Định Đạo, con nguyện sẽ mau chóng lên được cơi Niết-bàn."
9) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi." "Nhà Vô-vi" tức là Vô-vi pháp; do đó, "chóng về nhà Vô-vi" có nghĩa là sớm chứng đắc pháp môn Vô-vi vậy.
10) "Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh. Con xin cung kính quay về nương tựa Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát, và nguyện sẽ sớm chứng đắc tự thân của Pháp tánh."
"Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ. Khi niệm Chú Đại Bi, nếu con quay về hướng núi đao mà niệm, th́ núi đao sẽ tự nhiên tan ră, đổ sụp xuống."
"Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn. Nếu con hướng về địa ngục nước sôi mà niệm Chú Đại Bi, th́ lửa sẽ lụn tắt và nước cũng cạn khô."
"Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt. Nếu con hướng về địa ngục mà niệm Chú Đại Bi, th́ địa ngục sẽ biến thành thiên đường—không c̣n có địa ngục nữa."
"Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ. Nếu con hướng về loài ngạ quỷ mà niệm Chú Đại Bi, th́ hết thảy ngạ quỷ đều được no đủ, không c̣n bị cái khổ đói khát hành hạ nữa."
"Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục. Nếu con hướng về những chúng sanh Tu-la hung ác nhất mà niệm Chú Đại Bi, th́ tâm địa độc ác của loài Tu-la sẽ tự nhiên được điều phục và tất cả đều phát tâm muốn quy y, hướng thiện."
"Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ. Nếu con hướng về những súc sanh ngu muội mà niệm Chú Đại Bi, th́ chúng sẽ có được trí huệ rộng lớn."
Kinh Văn:
Âm: "PHÁT THỊ NGUYỆN DĨ, CHÍ TÂM XƯNG NIỆM NGĂ CHI DANH TỰ, DIỆC ƯNG CHUYÊN NIỆM NGĂ BỔN SƯ A-DI-ĐÀ NHƯ-LAI; NHIÊN HẬU TỨC ĐƯƠNG TỤNG THỬ ĐÀ-LA-NI THẦN CHÚ. NHẤT TÚC TỤNG MĂN NGŨ BIẾN, TRỪ DIỆT THÂN TRUNG BÁCH THIÊN VẠN ỨC KIẾP SANH TỬ TRỌNG TỘI."
Nghĩa: "Phát những nguyện này xong, hăy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con và cũng phải chuyên niệm danh hiệu Đức Bổn Sư của con là Đức A-Di-Đà Như Lai; sau đó phải luôn tŕ tụng Thần Chú Đà-La-Ni này. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến th́ có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử."
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Đức Phật: "Sau khi các chúng sanh phát tâm thọ tŕ Chú Đại Bi đă phát những nguyện này xong, hăy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con–Quán Thế Âm Bồ-tát."
Quư vị muốn thọ tŕ Chú Đại Bi, th́ trước tiên, mỗi người phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười thệ nguyện như trên; rồi kế đến là phải chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, tức là Quán Thế Âm Bồ-tát. "Chí tâm" tức là thành tâm thành ư, một ḷng một dạ.
"Và cũng phải chuyên niệm Đức Bổn Sư của con. Các chúng sanh đó nếu chỉ niệm danh hiệu của con thôi th́ vẫn c̣n chưa đủ, họ cần phải chuyên tâm tŕ niệm cả danh hiệu của Bổn Sư của con nữa; Bổn Sư của con là ai ư? Chính là Đức A-Di-Đà Như Lai." Bởi "uống nước nhớ nguồn," cho nên chúng ta cần phải biết nghĩ đến Đức Phật A-Di-Đà, vốn là Thầy của Quán Thế Âm Bồ-tát tự thuở ban sơ. Do đó, chúng ta cũng cần phải niệm "Nam mô A-Di-Đà Phật" nữa, chứ không phải chỉ niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" mà thôi.
"Sau đó, phải luôn tŕ tụng Thần Chú Đà-La-Ni này. Trước hết, các chúng sanh đó phải niệm danh hiệu của con—‘Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát’; rồi tiếp đến là niệm danh hiệu Đức Bổn Sư của con—‘Nam mô A Di Đà Phật’; và sau đó mới bắt đầu tụng Thần Chú Đà-La-Ni. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến th́ có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử."
Mỗi tối, nếu quư vị có thể chuyên cần tŕ tụng Chú Đại Bi đủ năm biến, đều đặn như thế, th́ có thể khiến cho bao nhiêu nghiệp chướng mà bản thân quư vị trót gây tạo đều được tiêu trừ. "Trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử" tức là những tội lỗi thâm trọng mà chúng ta đă tạo tác trong quá tŕnh luân hồi luẩn quẩn, sanh rồi chết, chết rồi lại tái sanh, lập đi lập lại măi trong suốt cả hằng trăm ngàn vạn ức kiếp.
Kinh Văn:
Âm: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ NHÂN THIÊN TỤNG TR̀ ĐẠI BI CHƯƠNG CÚ GIẢ, LÂM MẠNG CHUNG THỜI, THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT GIAI LAI THỌ THỦ; DỤC SANH HÀ ĐẲNG PHẬT ĐỘ, TÙY NGUYỆN GIAI ĐẮC VĂNG SANH."
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, th́ lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn; và muốn sanh về cơi Phật nào cũng đều được tùy nguyện văng sanh."
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, th́ lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn." Giả sử các chúng sanh trong cơi người và cơi trời tụng tŕ Chú Đại Bi này th́ đến lúc hấp hối, họ sẽ được chư Phật từ khắp mười phương hiện đến và đưa tay tiếp dẫn, đích thân nắm tay họ mà dắt về cơi nước của các ngài.
"Và muốn sanh về cơi Phật nào cũng đều được tùy nguyện văng sanh." Lại nữa, các chúng sanh này muốn sanh về cơi Phật nào th́ đều được văng sanh về cơi Phật đó, đúng như ước nguyện của họ.
Kinh Văn:
Âm: PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH TỤNG TR̀ ĐẠI BI THẦN CHÚ, ĐỌA TAM ÁC ĐẠO GIẢ, NGĂ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.
TỤNG TR̀ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT SANH CHƯ PHẬT QUỐC GIẢ, NGĂ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.
TỤNG TR̀ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT ĐẮC VÔ LƯỢNG TAM-MUỘI BIỆN TÀI GIẢ, NGĂ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC."
Nghĩa: Lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà c̣n bị đọa vào ba ác đạo, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cơi nước của chư Phật, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác."
Lược Giảng:
Đức Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà c̣n bị đọa vào ba ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Như vậy, nếu tất cả những chúng sanh tụng tŕ Chú Đại Bi đều không c̣n bị đọa vào ba đường ác, th́ Quán Thế Âm Bồ-tát mới thành Phật!
"Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cơi nước của chư Phật, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người tŕ niệm Thần Chú Đại Bi và phát nguyện muốn được sanh về quốc độ của đức Phật nào đó, nếu người ấy không được toại nguyện th́ Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ không thành Phật!
"Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và biện tài, th́ con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người tŕ niệm Thần Chú Đại Bi mà lại chẳng chứng được vô lượng Tam-muội cùng đại biện tài—không có được khả năng biện luận và giảng kinh thuyết pháp, cũng chẳng được khai mở đại trí huệ—th́ Quán Thế Âm Bồ-tát cũng sẽ không thành Phật.
Kinh Văn:
Âm: "TỤNG TR̀ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, Ư HIỆN TẠI SANH TRUNG, NHẤT THIẾT SỞ CẦU NHƯỢC BẤT QUẢ TOẠI GIẢ, BẤT ĐẮC VI ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI DĂ; DUY TRỪ BẤT THIỆN, TRỪ BẤT CHÍ THÀNH."
Nghĩa: "Tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ư, th́ không gọi là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni; chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành."
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Đức Phật rằng: "Những người tụng tŕ Thần Chú Đại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không được kết quả toại ư, không được măn nguyện, th́ Thần Chú này không gọi là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni!" Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần phải lưu ư trước, đó là các trường hợp ngoại leä—"chỉ trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành."
"Chỉ trừ bất thiện." Nếu quư vị một mặt th́ tụng Chú Đại Bi, mặt khác lại đi giết người, cướp của, hoặc tà dâm, vọng ngữ, rượu thịt say sưa..., chẳng từ một việc xấu nào cả, th́ hẳn nhiên là Thần Chú sẽ không hiển linh, không công hiệu. "Bất thiện" là bao gồm hết thảy mọi hành vi bất chánh, tà vạy như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ...
"Trừ chẳng chí thành." Nếu quư vị tụng niệm qua loa cho có lệ, nói là muốn thử xem Chú Đại Bi có thật sự linh nghiệm hay không, như thế có nghĩa là quư vị không có ḷng thành. Quư vị không có ư muốn thử, th́ Chú sẽ linh ứng; song nếu quư vị muốn thử, th́ Chú sẽ chẳng hiển linh! V́ sao ư? V́ Phật và Bồ-tát không phải là đối tượng để cho quư vị tùy tiện thử thách, thí nghiệm—các ngài không cần quư vị đến thử nghiệm! Chư Phật và chư Bồ-tát có thể thử nghiệm chúng sanh, song chúng sanh không được phép thử nghiệm các ngài. Do đó, nếu quư vị rắp tâm muốn thử xem sự việc sẽ như thế nào, tức là quư vị không có ḷng chí thành; mà không có ḷng thành khẩn thiết tha th́ chẳng thể nào có sự cảm ứng linh nghiệm được!
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC CHƯ NỮ NHÂN YẾM TIỆN NỮ THÂN, DỤC THÀNH NAM TỬ THÂN, TỤNG TR̀ ĐẠI BI ĐÀ-LA-NI CHƯƠNG CÚ, NHƯỢC BẤT CHUYỂN NỮ THÂN THÀNH NAM TỬ THÂN GIẢ, NGĂ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC; SANH THIỂU NGHI TÂM GIẢ, TẤT BẤT QUẢ TOẠI DĂ."
Nghĩa: "Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn thành thân nam, tụng tŕ Thần Chú Đại Bi Đà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, th́ con thề sẽ không thành Chánh Giác; người nào c̣n sanh chút ḷng nghi tất không được toại nguyện."
Lược Giảng:
"Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, không muốn phải sanh làm người nữ nữa, muốn thành thân nam, tụng tŕ Thần Chú Đại Bi Đà-La-Ni, như không được chuyển thân nữ thành thân nam, th́ con thề sẽ không thành Chánh Giác." Sự "chuyển thân nữ thành thân nam" này không phải là sẽ xảy ra ngay trong đời hiện tại, mà là ứng vào đời sau trong thời vị lai.
Vậy, giả sử những người nữ ao ước được làm người nam đó siêng năng tŕ niệm Chú Đại Bi, mà đến đời sau họ lại không được sanh làm thân nam, th́ Quán Thế Âm Bồ-tát quyết sẽ không thành Phật.
"Người nào c̣n sanh chút ḷng nghi tất không được toại nguyện." Tuy nhiên, nếu trong ḷng quư vị có dấy lên dù chỉ một mảy may hoài nghi th́ sự mầu nhiệm sẽ chẳng bao giờ xảy ra, và do đó, tâm nguyện của quư vị sẽ không được thành tựu.
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH XÂM TỔN THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, THIÊN PHẬT XUẤT THẾ BẤT THÔNG SÁM HỐI, TÚNG SÁM DIỆC BẤT TRỪ DIỆT, KIM TỤNG ĐẠI BI THẦN CHÚ, TỨC ĐẮC TRỪ DIỆT."
Nghĩa: "Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ dẫu một ngàn đức Phật ra đời cũng chẳng được sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được; nay tụng Thần Chú Đại Bi th́ tức khắc được tiêu trừ."
Lược Giảng:
"Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ." Thường Trụ tức là nhà chùa.
Những kẻ đến chùa ăn uống, tiêu thụ vật thực của chùa mà không cúng dường tiền lại, hoặc mượn đồ dùng của chùa rồi không chịu trả, lạm dụng tài vật của chùa... th́ sẽ mang tội rất nặng. Tội ấy, "th́ dẫu một ngàn đức Phật ra đời, cũng chẳng được sám hối. Chư Phật không thể hứa khả cho họ sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được."
Cái tội xâm chiếm hoặc làm hao tổn thực phẩm và tài vật của chùa chiền rất nghiêm trọng, cho dù các chúng sanh đó có đối trước chư Phật mà khẩn cầu sám hối th́ tội lỗi cũng chẳng thể tiêu tan. Thế nhưng, "nay tụng Thần Chú Đại Bi, th́ tức khắc được tiêu trừ." Nếu ngay bây giờ họ tŕ tụng Chú Đại Bi, th́ bao nhiêu tội chướng sẽ lập tức tiêu tan!
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC XÂM TỔN THỰC DỤNG THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, YẾU ĐỐI THẬP PHƯƠNG SƯ SÁM TẠ, NHIÊN THỦY TRỪ DIỆT; KIM TỤNG ĐẠI BI ĐÀ-LA-NI THỜI, THẬP PHƯƠNG SƯ TỨC LAI VI TÁC CHỨNG MINH, NHẤT THIẾT TỘI CHƯỚNG, TẤT GIAI TIÊU DIỆT."
Nghĩa: "Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ; nay tụng Đại Bi Đà-La-Ni th́ mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan."
Lược Giảng:
"Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, th́ phải đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ." Những kẻ dám chiếm đoạt hoặc gây tổn thất hư hại cho tài sản, đồ ăn thức uống của nhà chùa, th́ phải đối trước chư Đại Sư ở khắp mười phương—cũng chính là mười phương chư Phật—để sám hối tạ tội th́ may ra nghiệp tội tày trời của họ mới có thể được tiêu tan.
Tuy nhiên, những kẻ đó nếu "nay tụng Đại Bi Đà-La-Ni th́ mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan." Chỉ cần ngay bây giờ những kẻ ấy bắt đầu thành khẩn tụng tŕ Chú Đại Bi, th́ mười phương chư Phật sẽ đến để chứng giám cho họ, và mọi tội lỗi nghiệp chướng của họ liền được tiêu tan.
Kinh Văn:
Âm: "NHẤT THIẾT THẬP ÁC, NGŨ NGHỊCH, BÁNG NHÂN BÁNG PHÁP, PHÁ TRAI PHÁ GIỚI, PHÁ THÁP HOẠI TỰ, THÂU TĂNG KỲ VẬT, Ô TỊNH PHẠM HẠNH; NHƯ THỊ ĐẲNG NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI, TẤT GIAI DIỆT TẬN."
Nghĩa: "Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng nhân báng Pháp, phá trai phá Giới, phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh; bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch."
Lược Giảng:
"Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch ..."
Thập Ác tức là mười việc ác: 1) Sát sanh; 2) Trộm cắp ; 3) Tà dâm; 4) Tham lam; 5) Sân hận; 6) Si mê; 7) Nói lời thêu dệt; 8) Nói lời gian dối; 9) Nói lời hung ác; 10) Nói lời đâm thọc (nói lưỡi đôi chiều).
Ngũ Nghịch là năm tội nghịch tày trời: 1) Giết cha; 2) Giết mẹ; 3) Giết bậc A-La-Hán; 4) Phá sự ḥa hợp của Tăng chúng; 5) Làm cho thân Phật chảy máu.
"Báng nhân, báng Pháp." "Báng nhân" tức là hủy báng, chê bai, bôi nhọ người khác. Thí dụ, người ta vốn là một vị tu hành, có đạo đức, mà ḿnh lại buông lời miệt thị: "Ui chao! Hắn là một kẻ chẳng ra ǵ, đừng nhắc tới nữa!"; như thế là hủy báng tha nhân vậy.
"Báng Pháp" tức là hủy báng Phật Pháp, hủy báng chư Tăng Ni, khinh chê lời Phật dạy.
"Phá trai, phá Giới." Nếu quư vị đă nguyện là chỉ ăn chay, song lại không giữ lời, tùy tiện ăn thịt; như thế tức là quư vị "phá trai" vậy. Nếu quư vị thọ Giới mà lại không giữ Giới, cứ làm những điều trái với Giới Luật, th́ đó gọi là "phá Giới."
"Phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh." "Phá chùa hủy tháp" tức là phá hoại, triệt hạ chùa chiền và tháp miếu thờ Phật; "trộm của Tăng-kỳ" là lấy cắp đồ đạc của người xuất gia; "làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh" là khiến cho người đang tu hạnh thanh tịnh bị ô uế, không giữ được hạnh trong sạch nữa.
Những tội lỗi kể trên đều rất nghiêm trọng, tuy thế, nếu quư vị đă trót phạm mà nay lại có thể thành tâm tŕ tụng Chú Đại Bi th́ "bao nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch."
Kinh Văn:
Âm: "DUY TRỪ NHẤT SỰ, Ư CHÚ SANH NGHI GIẢ, NĂI CHÍ TIỂU TỘI KHINH NGHIỆP, DIỆC BẤT ĐẮC DIỆT, HÀ HUỐNG TRỌNG TỘI? TUY BẤT TỨC DIỆT TRỌNG TỘI, DO NĂNG VIỄN TÁC BỒ ĐỀ CHI NHÂN."
Nghĩa: "Chỉ trừ một việc, nếu đối với Thần Chú c̣n sanh ḷng nghi th́ ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ, huống hồ tội nặng? Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân xa của Bồ-đề."
Lược Giảng:
Tuy nhiên, "chỉ trừ một việc." Câu này vô cùng quan trọng; vậy th́ ngoại trừ trường hợp nào? Đó là trường hợp "nếu đối với Thần Chú c̣n sanh ḷng nghi."
Nếu quư vị cứ phân vân: "Không biết Chú này có linh nghiệm như thế thật không nhỉ? Có thật là có sự mầu nhiệm đến thế không? Tuy nói rằng tŕ tụng Chú này th́ được cảm ứng, nhưng đó chỉ toàn là nghe người ta kể lại chứ ḿnh vẫn chưa được chứng kiến tận mắt; chẳng biết có đúng là như vậy hay không?"; tức là quư vị không có ḷng tin đối với Thần Chú. Mà hễ quư vị không tin th́ thế nào? Th́ sẽ hoàn toàn không linh nghiệm! V́ sao ư? Bởi v́ quư vị không đặt trọn ḷng tin nơi Thần Chú!
Thí dụ, khi quư vị nhờ bạn bè làm giùm một việc ǵ đó, th́ quư vị cần phải thật tâm tín nhiệm họ; bằng không, họ sẽ chẳng muốn giúp quư vị! Tương tự như thế, quư vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Thần Chú này; bằng không, "th́ ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ."
"Đối với Thần Chú c̣n sanh ḷng nghi" cũng có nghĩa là không "y giáo phụng hành," không làm đúng theo các đạo lư bao hàm trong Thần Chú. Thí dụ Quán Thế Âm Bồ-tát căn dặn là hành giả mỗi ngày phải tụng Chú Đại Bi đủ năm biến, th́ quư vị không tụng năm biến mà lại tụng bốn biến, c̣n nói rằng: "Bớt đi một biến th́ đâu có ǵ quan trọng?! Tụng nhiều hay ít th́ cũng vậy thôi; miễn có tụng là được rồi!" Thế là, hôm nay lười biếng nên chỉ tụng một biến rồi nghỉ; hôm sau siêng năng hơn nên tụng luôn một lúc đến một trăm biến để bù lại! Như vậy th́ có khác ǵ hôm nay ăn một lúc hết hai mươi chén cơm, rồi sang ngày mai th́ không ăn ǵ cả? Không ăn ǵ cả th́ đói chịu không nổi; c̣n ăn luôn hai chục chén cơm th́ bụng no anh ách cũng chẳng dễ chịu tí nào! Việc tụng Chú Đại Bi tuy về h́nh tướng th́ không hoàn toàn giống như việc ăn cơm, song tính cách th́ cũng tương tự. Trong kinh đă dặn mỗi ngày tụng năm biến th́ chúng ta phải mỗi ngày chăm chỉ tụng đủ năm biến; nhất định phải đều đặn như thế, chứ đừng tụng sáu biến, mà cũng chớ nên tụng bốn biến!
Có người phân trần: "Tôi vốn kém trí nhớ, nên cứ lẫn lộn, không biết là ḿnh đă tụng đủ năm biến hay chỉ mới tụng bốn biến!" Nói như thế tức là quư vị hoàn toàn chẳng có tụng niệm ǵ cả! Bởi quư vị không thể nhớ được kia mà! Tụng được bao nhiêu biến mà chính ḿnh cũng không nhớ rơ, th́ một biến cũng chẳng thành lập! Do đó, quư vị cần phải ghi nhớ cho rơ ràng rành mạch.
Lại có người thắc mắc: "Tôi vừa bắt đầu niệm Chú th́ đầu óc cứ mơ mơ màng màng; như thế có kể là có tụng không?" Như thế th́ không kể; đó là ngủ gà ngủ gật chứ không phải là tụng Chú!
Có người th́ kể lể: "Mỗi lần tôi tu Pháp là hai mắt cứ ríu lại, mở không ra!" Như thế cũng không tính, bởi quư vị chỉ tu niệm một cách hồ đồ, điên đảo, thiếu sáng suốt. Quư vị cần phải y theo giáo pháp mà tu tập trong sự tỉnh táo, minh mẫn mới được!
Cũng có người tự biện hộ rằng: "Tôi chỉ phạm một vài sai sót nho nhỏ thôi th́ chắc cũng không sao; vị Thần của Chú không thể nào biết được! Hiện tại tôi chưa tụng Chú, th́ vị Chú Thần chưa đến, vậy tôi có uống chút xíu rượu cũng chẳng hề ǵ!" Suy nghĩ như thế tức là quư vị "c̣n sanh ḷng nghi," không có tín tâm đối với Chú. Phải như thế nào mới gọi là thật sự có tín tâm đối với Chú? Phải thành khẩn, không mảy may gợn chút hoài nghi, và phải theo đúng khuôn phép, nền nếp mà tu hành!
"Huống hồ tội nặng?" Tội nhỏ nghiệp nhẹ mà c̣n không tiêu trừ được, th́ tội lớn nghiệp nặng lại càng khó thể tiêu trừ hơn nữa!
"Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân Bồ-đề về lâu xa." Mặc dù quư vị tụng Chú với ḷng nghi th́ tội nặng không thể được tiêu trừ ngay, song quư vị vẫn có thể gieo được cái nhân Bồ-đề cho chính ḿnh về sau. Hạt giống Bồ-đề này, đến một đại kiếp nào đó trong tương lai sẽ nẩy mầm Bồ-đề và sẽ lớn mạnh, kết thành quả Bồ-đề. Cho nên, một khi đă trồng cái nhân rồi, th́ sớm muộn ǵ nó cũng đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 5 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
KINH VĂN:
Âm: PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ NHÂN THIÊN TỤNG TR̀ ĐẠI BI TÂM CHÚ GIẢ, ĐẮC THẬP NGŨ CHỦNG THIỆN SANH, BẤT THỌ THẬP NGŨ CHỦNG ÁC TỬ DĂ."
Nghĩa: Ngài lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng tŕ Đại Bi Tâm Chú, th́ sẽ được mười lăm loại thiện sanh và không phải chịu mười lăm loại ác tử."
LƯỢC GIẢNG:
Ngài?Quán Thế Âm Bồ-tát?lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng tŕ Đại Bi Tâm Chú, th́ sẽ được mười lăm loại thiện sanh." "Thiện sanh" tức là sự sinh sống tốt lành.
Nếu loài người ở nhân gian hoặc chư thiên ở cơi trời có thể học thuộc và siêng năng thọ tŕ Kinh Đại Bi Tâm Đà-La-Ni cùng Chú Đại Bi, th́ họ sẽ được mười lăm việc tốt lành; "và không phải chịu mười lăm loại ác tử." "Ác tử" là những cái chết tức tưởi do rủi ro, bất trắc. Nếu quư vị thành tâm tŕ tụng Chú Đại Bi th́ sẽ tránh được mười lăm loại "ác tử."
KINH VĂN:
Âm: "KỲ ÁC TỬ GIẢ:
NHẤT GIẢ, BẤT LINH KỲ CƠ NGẠ KHỐN KHỔ TỬ;
NHỊ GIẢ, BẤT VI GIÀ CẤM TRƯỢNG SỞ TỬ;
TAM GIẢ, BẤT VI OÁN GIA THÙ ĐỐI TỬ;
TỨ GIẢ, BẤT VI QUÂN TRẬN TƯƠNG SÁT TỬ;
NGŨ GIẢ, BẤT VI HỔ LANG ÁC THÚ TÀN HẠI TỬ;
LỤC GIẢ, BẤT VI ĐỘC XÀ NGOAN YẾT SỞ TRÚNG TỬ;
THẤT GIẢ, BẤT VI THUỶ HỎA PHẦN PHIÊU TỬ;
BÁT GIẢ, BẤT VI ĐỘC DƯỢC SỞ TRÚNG TỬ;
CỬU GIẢ, BẤT VI CỔ ĐỘC HẠI TỬ;
THẬP GIẢ, BẤT VI CUỒNG LOẠN THẤT NIỆM TỬ;
THẬP NHẤT GIẢ, BẤT VI SƠN THỌ NHAI NGẠN ĐỌA LẠC TỬ;
THẬP NHỊ GIẢ, BẤT VI ÁC NHÂN YẾM MỴ TỬ;
THẬP TAM GIẢ, BẤT VI TÀ THẦN ÁC QUỶ ĐẮC TIỆN TỬ;
THẬP TỨ GIẢ, BẤT VI ÁC BỆNH TRIỀN THÂN TỬ;
THẬP NGŨ GIẢ, BẤT VI PHI PHẬN TỰ HẠI TỬ."
Nghĩa: "Các loại ác tử đó là:
Một là không bị chết v́ đói khát, khốn khổ;
Hai là không bị chết v́ gông, tù, đ̣n roi;
Ba là không bị chết v́ oan gia thù nghịch;
Bốn là không bị chết v́ chiến trận tương tàn;
Năm là không bị chết v́ cọp, sói, ác thú tàn hại;
Sáu là không bị chết v́ trúng độc rắn, rết, ḅ cạp;
Bảy là không bị chết v́ nước cuốn, lửa thiêu;
Tám là không bị chết v́ trúng phải độc dược;
Chín là không bị chết v́ cổ độc tác hại;
Mười là không bị chết v́ điên loạn, mất trí;
Mười một là không bị chết v́ núi lở, cây ngă, vách đá sụp;
Mười hai là không bị chết v́ kẻ ác thư ếm;
Mười ba là không bị chết v́ tà thần, ác quỉ thừa cơ làm hại;
Mười bốn là không bị chết v́ ác bệnh triền thân;
Mười lăm là không bị chết v́ tự sát, tự tử."
LƯỢC GIẢNG:
Quán Thế Âm Bồ-tát bạch với Đức Phật: "Các loại ác tử đó là: Một là không bị chết v́ đói khát, khốn khổ." Loại "ác tử" (cái chết xấu) thứ nhất là "chết v́ đói khát, khốn khổ." Nếu quư vị tụng tŕ Chú Đại Bi th́ sẽ không bao giờ bị đói khát, thiếu thốn. "Đói khát" tức là không có cơm ăn nước uống, phải chịu đói chịu khát mà chết. "Khốn khổ" tức là vô cùng vất vả cực khổ, không được vui sướng thảnh thơi. Con người có thể bị chết do đói, do lạnh, hoặc do nghèo nàn khốn khó; song nếu thành tâm tŕ tụng Chú Đại Bi th́ chúng ta sẽ không phải lâm vào các hoàn cảnh đó.
"Hai là không bị chết v́ gông, tù, đ̣n roi." Loại "ác tử" thứ hai là "chết v́ gông, tù, đ̣n roi."
"Gông" là thứ h́nh cụ đeo ở cổ tội nhân. Ở Mỹ quốc không biết có thứ h́nh cụ này không, chứ ở nước Trung Hoa th́ thời xưa người ta thường tṛng cái gông vào cổ của kẻ phạm pháp, rồi bắt đi diễu qua các đường phố cho mọi người đều trông thấy.
Nếu quư vị có thể thành tâm tŕ tụng Chú Đại Bi th́ sẽ không bị chết do phải mang gông cùm quá lâu ngày hoặc do tù đày khổ sở, và cũng không bị đánh đập đến găy tay găy chân, đau đớn quá mà chết.
"Ba là không bị chết v́ oan gia thù nghịch." Loại "ác tử" thứ ba là "chết v́ oan gia thù nghịch." Trên thế gian này, chúng ta hầu như ai cũng có "oan gia đối đầu." "Oan gia" (kẻ có oán thù) tức là kẻ chỉ có thù hận, oán ghét, chứ không có thiện duyên với quư vị.
Những kẻ cứ mang ḷng thù hận cũng rất đáng thương, v́ tâm tư họ luôn trĩu nặng một nỗi phẫn uất, không thể nào giải tỏa được. Nói chung, họ bị bao phủ bởi một thứ oán khí u ám và sống trong sự thù ghét, hằn học?tôi thù anh, anh hận tôi. Chữ "thù" này cũng đồng nghĩa với chữ "cừu," có nghĩa là căm ghét, thù hận. Người ta thường do những việc không ưng ư mà sanh ra thù hằn, chống đối lẫn nhau.
"Bốn là không bị chết v́ chiến trận tương tàn." Loại "ác tử" thứ tư là "chết v́ chiến trận tương tàn." Những người có tŕ tụng Thần Chú Đại Bi th́ cho dù phải ra chiến trường chiến đấu với địch quân, cũng không bị chết v́ tên bay đạn lạc.
Cho nên, nếu quư vị nào có nhiệm vụ huấn luyện binh lính th́ hăy dạy cho họ tŕ niệm Chú Đại Bi, để đến khi giao chiến họ không bị trúng đạn mà tử thương. Thế nhưng, nếu quư vị dùng Chú Đại Bi để huấn luyện binh lính đi gây chiến, th́ tuy không bị tử trận, song cũng chẳng thể đánh thắng được! Đó là v́ Bồ-tát không muốn nhân loại gây khởi chiến tranh, chém giết lẫn nhau.
"Năm là không bị chết v́ cọp, sói, ác thú tàn hại." Loại "ác tử" thứ năm là "chết v́ bị cọp, sói, ác thú tàn hại." Nếu quư vị tŕ tụng Chú Đại Bi th́ sẽ không bị cọp beo, chó sói, hoặc những thú dữ khác cắn chết hay tàn hại.
"Sáu là không bị chết v́ trúng độc rắn, rết, ḅ cạp." Loại "ác tử" thứ sáu là "chết v́ bị trúng độc của rắn, rết, ḅ cạp." Rắn, rết (một loại rắn thân màu đen tuyền) và ḅ cạp đều có nọc độc; người nào chẳng may trúng phải nọc độc của chúng th́ đành bó tay chịu chết, vô phương cứu chữa. Tuy nhiên, nếu quư vị tŕ tụng Chú Đại Bi th́ sẽ không bị nọc của các độc trùng đó làm hại đến tánh mạng.
"Bảy là không bị chết v́ nước cuốn, lửa thiêu." Loại "ác tử" thứ bảy là "chết v́ bị nước cuốn, lửa thiêu." Người tŕ tụng Chú Đại Bi th́ "xuống nước không ch́m, vào lửa không cháy." Thế nào là "xuống nước không ch́m, vào lửa không cháy"? Trước đây tôi có kể cho quư vị nghe một công án về vấn đề này, song vẫn có nhiều người chưa được nghe, vậy hôm nay tôi kể lại một lần nữa.
Thuở trước, có một Đạo-sĩ nọ chuyên tu luyện công phu "xuất huyền nhập tẫn." Công phu "xuất huyền nhập tẫn" là ǵ? Người luyện được công phu này th́ có thể khiến cho một h́nh nhân nho nhỏ xuất ra từ đỉnh đầu của ḿnh để đi đây đi đó, và rồi vẫn có thể trở về nhập vào xác thân lại như cũ. H́nh nhân xuất ra gọi là "xuất huyền," trở về lại với nhục thân gọi là "nhập tẫn."
Vị Đạo-sĩ "xuất huyền nhập tẫn" này thường đi khắp nơi để tham vấn, học hỏi. Một hôm, ông đi ngang qua một ngôi chùa nhỏ, trong chùa chỉ có một thầy Tỳ-kheo già và một chú Sa-di c̣n nhỏ tuổi ở đó tu hành. Bấy giờ trời cũng vừa sập tối, ông bèn vào chùa xin tá túc qua đêm.
Đến khuya hôm ấy, vị Đạo-sĩ ngồi tĩnh tọa, dùng công phu "xuất huyền" mà xuất ra ngoài dạo chơi. Ông tới thăm Nhật Bản, rồi sang Đức, sang Úc... Tuy những nơi đó toàn là người ngoại quốc và ông cũng chẳng hiểu được ngôn ngữ của họ, song ông vẫn muốn viếng thăm các danh lam thắng cảnh cho thỏa ḷng hiếu kỳ. Ông cứ thong thả dạo khắp đó đây, ung dung chiêm ngưỡng các kỳ quan của thế giới. Rất có thể là ông cũng có đến Hoa Kỳ và ngắm nghía cầu Kim Môn (Golden Gate Bridge): "Ồ! Cầu Kim Môn có kiến trúc đẹp thật, quả là một công tŕnh vĩ đại!"; rồi mải mê nh́n ngắm đến quên mất chuyện trở về.
Sáng sớm hôm sau, lúc ăn điểm tâm, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di: "Con hăy vào mời ông khách ngủ trọ hôm qua ra dùng điểm tâm!"
Chú Sa-di đến pḥng dành cho vị Đạo-sĩ th́ thấy ông đang ngồi yên... bất động: "Ồ! Ông ấy ngồi mà viên tịch rồi!" Thế là chú hớt hăi chạy đi báo cho vị Tỳ-kheo hay: "Sư-phụ ơi! Ông khách xin tá túc tối qua đă viên tịch rồi!"
Vị Tỳ-kheo vội vă vào xem th́ thấy quả thật vị Đạo-sĩ đă chết rồi. Thật ra, đó là v́ trong khi "xuất huyền" th́ nhục thân của ông Đạo-sĩ nọ không c̣n hô hấp, mà tim mạch cũng ngừng đập, nên t́nh trạng lúc ấy trông chẳng khác ǵ một xác chết vậy.
Vị Tỳ-kheo già bảo: "Ồ! Ông ấy chết thật rồi! Thôi th́ chúng ta hăy làm lễ hỏa táng cho ông ấy vậy." Và chẳng mấy chốc th́ nhục thân của vị Đạo-sĩ đă trở thành một đống tro tàn!
Bấy giờ, vị Đạo-sĩ sau khi "xuất huyền"?73;i du ngoạn thỏa thích rồi (mà không tốn tiền mua vé máy bay!), bèn tính chuyện trở về để "nhập tẫn." Trở về, mới hay nhục thân của ḿnh không c̣n ở chỗ cũ nữa, ông hốt hoảng lùng kiếm khắp nơi song vẫn không t́m ra. Thế là tối đến, ông liền tới ngôi chùa nhỏ nọ quát hỏi om ṣm: "Các người đem cái "nhà" của ta đi đâu? Hăy trả "nhà" lại cho ta!" ("nhà" là ám chỉ nhục thân của ông.)
Vị Tỳ-kheo già cùng chú Sa-di nghe thấy th́ kinh ngạc nh́n nhau: "Ai thế? Ai nói ǵ đấy?" Bởi v́ tuy cũng là người tu hành, song họ chưa có được Ngũ Nhăn, Lục Thông; bằng không, họ có thể nh́n thấy và biết rằng vị khách hôm nọ đă trở về. Chính v́ chỉ nghe có tiếng nói chứ không thấy dáng người nên cả hai thầy tṛ đều cho rằng đó là ma quỷ đến quấy phá: "Ồ, đó hẳn là hồn ma của ông khách hôm nọ trở về đ̣i nhà chứ ǵ?!"
Hôm đầu tiên th́ đêm đến "hồn ma" của vị Đạo-sĩ mới tới chùa để đ̣i nha?ưng qua hôm sau th́ trời vừa nhá nhem tối là ông đă đến rồi. Và kể từ đó, hôm nào ông cũng đến, có lúc ngay cả giữa ban ngày mà ông cũng đến kêu réo đ̣i nhà. Trong khoảng hơn một tháng, ngày nào ông cũng đến chùa nằng nặc đ̣i nhà như thế, khiến cho lăo Tỳ-kheo và chú Sa-di sanh ḷng sợ hăi: "Chậc, trong chùa có ma thật rồi! Thế này th́ e rằng chúng ta phải lánh đi nơi khác mà thôi; không thể nào ở đây được nữa!" Thế là họ quyết định bỏ chùa mà đi.
Chiều hôm đó, hai thầy tṛ đang chuẩn bị để ngày mai dọn đi, th́ có một nhà Sư đến xin tá túc. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di: "Con hăy thưa với ông ấy rằng chúng ta hiện nay không cho khách ngủ trọ nữa! Lần trước đă xảy ra chuyện rắc rối quá rồi!"
Chú Sa-di thưa lại với vị Sư mới đến: "Xin Thầy hăy đến nơi khác tá túc. Chùa chúng con hiện nay không cho ngủ trọ nữa ạ."
Vị Sư nọ gạn hỏi: "Nhà chùa hiện nay không cho ngủ trọ nữa ư? Như thế có nghĩa là trước kia th́ chùa vẫn cho khách ngủ trọ! Vậy th́ tại sao bây giờ lại không cho nữa? Chú có thể cho ta biết nguyên do chăng?"
Chú Sa-di bèn kể lể sự t́nh: "Bởi v́ trước kia có một ông khách xin tá túc và rồi viên tịch tại đây. Chúng con đă hỏa thiêu nhục thân của ông ấy, bây giờ ngày nào hồn ma của ông ấy cũng đến đ̣i nhà. Cho nên nay nhà chùa không dám cho khách ngủ trọ nữa; vả lại, chùa chúng con cũng sắp dọn đi nơi khác rồi."
Vị Sư nọ gật gù: "Ồ, th́ ra là như thế! Không sao, ta có thể trị được ma quỷ. Ta có cách khiến cho con ma đó phải chịu đầu hàng, ṭng phục."
Nghe vị Sư nói như thế th́ chú Sa-di mừng rỡ reo lên: "Thế th́ để con vào thưa lại với Sư-phụ, xem Sư-phụ định liệu ra sao!" Nói dứt lời, chú hớn hở chạy về liêu pḥng bạch cùng vị Tỳ-kheo: "Bạch Sư-phụ! Ông Sư mới đến ấy bảo rằng có thể trị được ma quỷ. Ông ấy muốn ngủ trọ một đêm, chẳng hay Sư-phụ có bằng ḷng chăng?"
Vị Tỳ-kheo đáp với vẻ đắn đo: "Ậy! Ông ta nói trị được ma quỷ là nói gạt con đấy! Chúng ta là người xuất gia mà đều không trị được ma quỷ, ông ấy cũng như chúng ta thôi, th́ làm sao mà trị được chúng? Mà thôi, bất luận có trị được hay không th́ chúng ta cũng cứ để cho ông ấy tá túc một đêm rồi hẵng hay!" Chủ ư của vị Tỳ-kheo là cứ thử xem sao?vị Sư nọ nếu trị được con ma này th́ tốt, mà dẫu không trị nổi nó th́ cũng không sao, đằng nào ông ta cũng chỉ ở nhờ có một đêm! Và thế là vị Sư nọ được mời ở lại chùa.
Bấy giờ, vị Sư nọ hỏi hai thầy tṛ: "Chẳng hay ông khách nọ chết ở pḥng nào? Bây giờ ông ta đ̣i trả nhà, thế th́ ông ta ở đâu chui ra mà đ̣i nhà?"
Vị Tỳ-kheo đáp: "Ông ấy ở tại liêu pḥng phía tây. Ông ấy đến hôm trước th́ hôm sau viên tịch; và cũng từ đó bắt đầu có ma quỷ đến đ̣i nhà. Hễ mặt trời vừa lặn là ông ấy lại đến; theo Thầy th́ chúng ta phải làm ǵ bây giờ?"
Vị Sư nói: "Dễ thôi! Xin Sư-phụ hăy chuẩn bị cho tôi một chậu nước thật lớn, đồng thời đốt một đống lửa trong pḥng của tôi. Sư-phụ hăy làm theo lời tôi dặn đi, rồi đâu sẽ vào đấy thôi!"
Tối hôm đó, quả nhiên có tiếng kêu réo: "Bớ các người, các người đem cái nhà của ta đi đâu? Hăy trả nhà lại cho ta, mau lên!"
Khi ấy, nhà Sư biết trị quỷ mới cất tiếng hỏi: "Nhà của ông ư? Nhà của ông ở trong chậu nước ấy, ông vào trong đó mà t́m!" Thế là vị Đạo-sĩ liền nhảy vào chậu nước, loay hoay t́m kiếm, rồi nói: "Không có!"
Vị Sư nọ điềm nhiên hỏi lại: "Không có à? Thế th́ phải ở trong đống lửa đằng kia đấy thôi, ông mau đến đó t́m thử xem!" Ông Đạo-sĩ lại nhảy vào đống lửa, chạy vô chạy ra sục sạo một lúc lâu, rồi thất vọng la lên: "Cũng không có! Nhà của ta không có trong đống lửa này!"
Bấy giờ vị Sư mới chậm răi hỏi: "Này ?ông Thượng Tọa?! Ông bây giờ xuống nước không ch́m, vào lửa không cháy; thế th́ ông c̣n t́m ?nhà? để làm ǵ nữa?!" Nghe nói như thế, vị Đạo-sĩ chợt khai ngộ: "Ừ nhỉ!" Và từ đó, ngôi chùa nhỏ được yên ổn, không bị ma quỷ quấy rầy nữa, và vị Tỳ-kheo già cùng chú Sa-di cũng không phải dọn đi nơi khác.
Trên đây là một nguy cơ của việc sử dụng công phu "xuất huyền nhập tẫn." Tuy là có thể dạo chơi khắp nơi tùy thích, nhưng nếu không gặp được người thông hiểu hoặc có kinh nghiệm về công phu này, rủi ro bị kẻ khác thiêu mất xác thân của ḿnh, th́ sẽ không c̣n "nhà" mà trở về nữa!
"Tám là không bị chết v́ trúng phải độc dược." Loại "ác tử" thứ tám là "chết v́ trúng phải độc dược."
Thuở trước, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đă từng ăn thức ăn có trộn thuốc độc, và khi Ngài nôn ra lại th́ các thức ấy đều biến thành rắn cả?đó là v́ những kẻ đố kỵ Ngài đă trộn nọc rắn vào thức ăn để đầu độc Ngài; song nhờ Ngài tŕ tụng Chú Đại Bi nên không bị chết bởi thuốc độc. Ngài bị đầu độc đến sáu lần; sau cùng Ngài tự nghĩ: "Cần ǵ mà phải rắc rối như thế nhỉ? Ta chỉ làm cho người khác thêm sanh ác tâm mà thôi!" Và thế là Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma bèn giả vờ bị trúng độc mà chết, chứ sự thật th́ Ngài không phải chết v́ độc dược; v́ sao? V́ Ngài có tŕ tụng Chú Đại Bi!
"Chín là không bị chết v́ cổ độc tác hại." Loại "ác tử" thứ chín là "chết v́ bị cổ độc tác hại." Ở Nam Dương, Singapore, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, và luôn cả ở tỉnh Quảng-đông (Trung Hoa), người ta có luyện được những loại thuốc độc cực mạnh và vô cùng lợi hại, gọi là "cổ độc." Có rất nhiều loại "cổ độc"; có loại chỉ cần ăn một chút xíu nhưng khi vào đến bụng th́ nó lại ph́nh to ra, khiến cho nạn nhân bị trướng bụng mà chết. Tuy nhiên, nếu quư vị thành tâm tŕ tụng Chú Đại Bi th́ không có độc chất nào có thể hại được quư vị.
"Mười là không bị chết v́ điên loạn, mất trí." Loại "ác tử" thứ mười là "chết v́ bị điên loạn, mất trí." Người tŕ tụng Chú Đại Bi th́ không bị chết do điên cuồng mê loạn, hoặc do đầu óc không được tỉnh táo.
"Mười một là không bị chết v́ núi lở, cây ngă, vách đá sụp." Loại "ác tử" thứ mười một là "chết v́ núi lở, cây ngă, vách đá sụp." Những người chuyên tâm tŕ tụng Chú Đại Bi th́ không bị các cây to ngă xuống đè chết, không bị đá từ trên núi lăn xuống đè chết, và cũng không bị tường thành đổ sập xuống đè chết.
"Mười hai là không bị chết v́ kẻ ác thư ếm." Loại "ác tử" thứ mười hai là "chết v́ bị kẻ ác thư ếm." Có nhiều kẻ dùng "ác chú" để trù ếm, khiến cho người ta nằm mộng thấy những điều sợ hăi, hoặc dùng tà thuật để "thư" cho người ta chết.
"Kẻ ác thư ếm" tức là kẻ ác ấy có "tà chú" nên có thể âm thầm ám hại người khác; tương tự như trường hợp cô gái Ma Đăng Già dùng tà chú của phái ngoại đạo "hoàng phát" (tóc vàng) để bắt cóc Tôn-giả A-Nan vậy. Tà chú có thể làm cho đầu óc người ta trở nên mê muội, không c̣n tri giác, cũng không c̣n sáng suốt để làm chủ chính ḿnh nữa; do đó bị kẻ dùng chú khống chế, sai sử một cách dễ dàng.
"Mười ba là không bị chết v́ tà thần, ác quỷ thừa cơ làm hại." Loại "ác tử" thứ mười ba là "chết v́ tà thần, ác quỷ thừa cơ làm hại." Quư vị tŕ tụng Chú Đại Bi th́ tà thần, ác quỷ không có cơ hội hăm hại hoặc giết chết quư vị.
"Mười bốn là không bị chết v́ ác bệnh triền thân." Loại "ác tử" thứ mười bốn là "chết v́ ác bệnh triền thân." Người tŕ tụng Chú Đại Bi th́ không bị mắc phải "ác bệnh." "Ác bệnh" tức là các loại bệnh trầm trọng, ngặt nghèo, như bệnh tê bại, không nhúc nhích được, hoặc các bệnh nan y khác. Cancer (ung thư) cũng thuộc loại "ác bệnh" vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 6 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
Ở Hồng-kông có một vị Ḥa Thượng rất nổi tiếng tên là Định Tây, ông mắc bệnh cancer và sau hơn một năm th́ chết v́ "ác bệnh" này. Tôi tin rằng ông ta không thành tâm tin tưởng ở Chú Đại Bi! Tuy rằng ông bảo người ta tu hành song chính bản thân ông lại chẳng mấy chú ư dụng công tu tập, cho nên mới mắc cancer.
Tôi bảo cho quư vị biết, ông ta là người rất háo danh, ở Hồng-kông chuyên môn "mua danh chuốc tiếng"! Ông rêu rao cùng khắp cả Hồng-kông rằng Pháp Sư Độ Luân là đệ tử của ông ta! Thật là hoang đường! Hoàn toàn không có chuyện đó! Tôi với ông ta phải nói là chẳng quen biết, chẳng liên can ǵ với nhau cả, thậm chí c̣n ở cách xa nhau cả mấy ngàn dặm đường!
Lúc tôi c̣n ở Đông Bắc th́ ông ta hoàn toàn không biết ǵ về tôi cả. Chỉ có sau khi tôi đến Hồng-kông th́ số người tín ngưỡng tôi rất đông đảo, ông bèn nói với mọi người rằng tôi là đệ tử của ông! Bởi rất nhiều người tin tưởng tôi, vậy nếu ông ta là sư phụ của tôi th́ đương nhiên là ai nấy sẽ càng tôn kính ông ta hơn nữa; cũng tương tự như trường hợp một vị Pháp Sư nọ nói Hư Vân Lăo Ḥa Thượng là đệ tử của y vậy!
Lúc tôi ở Hồng-kông, có một người họ Trương nọ mắc bệnh cancer mà sáu vị bác sĩ nổi tiếng là cao minh nhất của Hồng-kông thời ấy đều chẩn đoán về bệnh t́nh của anh ta rằng: "Nội trong một trăm ngày chắc chắn sẽ chết, không thể nào sống nổi!"
Họ Trương này quy y với tôi vào ngày 18 tháng 5 âm lịch, và sau lễ quy y th́ tôi có khuyên anh ta nên phát tâm làm chút việc công đức. Tôi nói: "Nếu anh chịu làm đúng theo lời tôi dặn th́ tôi bảo đảm rằng không phải chỉ nội trong một trăm ngày, mà ngoài một trăm ngày, anh vẫn chưa phải chết! Nhưng, phải nhớ là làm theo cách tôi đă bảo!" Tức là phải làm ǵ?
Nhân v́ lúc bấy giờ người xuất gia từ Đại-lục (Trung Quốc) tỵ nạn sang Hồng-kông rất đông, có đến ba, bốn ngàn vị, mà hầu hết đều bị thiếu thốn về mọi mặt; tôi bèn khuyên họ Trương rằng: "Anh nên phát tâm cúng dường mỗi vị xuất gia hai mươi đồng và một súc vải Hoa-kỳ (một súc vải có thể may được tới mấy bộ đồ). Nếu anh có thể làm như thế để kết thiện duyên với những vị xuất gia này, tôi bảo đảm rằng anh sẽ chưa phải chết!"
Họ Trương liền phát nguyện, hứa sẽ y lời. Anh ta c̣n nói là nếu trong ṿng một trăm ngày mà anh ta không chết, th́ sẽ bố thí cho tôi hai trăm ngàn Mỹ kim. Anh ta là một người rất giàu có ở Hồng-kông, tài sản có đến bạc tỷ; song đều là do làm ăn bất chánh mà có được.
Đến kỳ hạn một trăm ngày mà bác sĩ đă chẩn định, họ Trương quả nhiên vẫn chưa chết. Trong thời gian này, vị Ḥa Thượng bị cancer mà tôi nói ban năy (bấy giờ chưa bị cancer), có giúp họ Trương lạy sám hối. Lạy sám ǵ? Lạy Dược Sư Sám, mỗi tuần mỗi lạy Sám Dược Sư. Thấy đă quá một trăm ngày mà họ Trương vẫn chưa chết, vị Ḥa Thượng nọ bèn kể lể với anh ta rằng đó là nhờ công đức bái sám của ḿnh!
Thật ra, chỉ v́ họ Trương là người giàu có, chứ nếu là kẻ không có tiền th́ ông Ḥa Thượng nọ nhất định chẳng chịu bái sám cho! Và rốt cuộc là họ Trương nọ, với tôi th́ chẳng thực hiện lời hứa; c̣n vị Ḥa Thượng nọ th́ đă có công bái sám nên được tặng cho năm ngàn đồng. Vị Ḥa Thượng đó c̣n nói với họ Trương: "Năm ngàn đồng này là phí tổn hành lễ bái sám, nhờ công đức bái sám này mà anh khỏi phải chết đấy!"
Người họ Trương này chính là Trương Ngọc Giai. Sau đó, họ Trương sống thêm được tám năm nữa. Vào tháng giêng năm ấy, nhân ngày đầu năm, tôi nói với mọi người rằng: "Năm nay, nếu Trương Ngọc Giai có gặp phải chuyện ǵ mà đến khẩn cầu tôi, th́ cho dù anh ta có quỳ trước cửa đến ba năm đi nữa, tôi cũng chẳng ngó ngàng tới!"
Bởi tôi chờ đợi đă tám năm rồi mà anh ta vẫn chưa chịu thực hiện lời nguyện. Tôi không thể xem đó như món nợ, phải đi đ̣i: "Anh chưa chết, thế th́ phải đưa tôi hai trăm ngàn Mỹ kim!" Tôi không làm như thế được, cho nên tôi chỉ tuyên bố: "Tôi đợi đă tám năm rồi mà anh ta vẫn không phát tâm; vậy bắt đầu từ hôm nay trở đi, nếu có bất cứ chuyện ǵ xảy ra cho Trương Ngọc Giai, tôi đều không biết đến!"
Sau khi tôi tuyên bố như thế chưa được bao lâu, Trương Ngọc Giai bịnh nặng trở lại và lâm vào t́nh trạng nguy kịch. Họ Trương bèn bảo người nhà đến t́m tôi, nhưng bao nhiêu lần tôi đều từ chối không gặp, thậm chí không mở cửa cho họ vào nữa: "Các người đến t́m tôi, song tôi không muốn tiếp các người!" Đây là một việc mà hầu hết những người xuất gia ở Hồng-kông chẳng mấy ai làm được! Người giàu có như thế đến thăm mà c̣n không chịu tiếp, không cho gặp mặt, th́ thật là... không thể hiểu nổi!!! Cho nên tôi bị rất nhiều người phê b́nh: "Thật là không thông hiểu Phật Pháp ǵ cả! Người ta tới xin gặp mà cứ không chịu cho gặp!"
Có một lần, họ Trương cho người mang đến tặng tôi hai trăm đồng, tôi ném tiền ra ngoài cửa trả lại cho y. Do đó, những người xuất gia ở chỗ vị Ḥa Thượng nọ đều bất b́nh và chỉ trích tôi: "Ông ta không phải là người xuất gia! Người ta cúng dường mà không chịu nhận, lại c̣n ném trả lại nữa; tại sao ông ta lại quá quắt đến thế? Thật là chẳng biết điều chút nào!"
Khoảng chừng ba tháng sau th́ Trương Ngọc Giai chết v́ chứng cancer. Chẳng bao lâu sau th́ vị Ḥa Thượng nọ cũng bị cancer, bấy giờ có ai bái sám cho ông ta th́ ông cũng không khỏi bệnh được. Ông ta có thể bái sám cho người khác được khỏi bệnh; thế mà bây giờ tất cả Ḥa Thượng ở Hồng-kông đều bái sám, niệm Phật cho ông ta, th́ lại không linh nghiệm, bệnh ông ta vẫn không thuyên giảm. Sau đó khoảng hơn một năm th́ ông "Sư-phụ giả mạo" của tôi tạ thế. Đó cũng là "chết v́ ác bệnh triền thân" vậy.
"Mười lăm là không bị chết v́ tự sát, tự tử." Loại "ác tử" thứ mười lăm là "chết v́ tự sát, tự tử."
"Tự sát, tự tử" (phi phận tự hại) tức là tự đi t́m cái chết cho ḿnh bằng cách uống thuốc độc, treo cổ, nhảy xuống giếng, lao xuống biển... hoặc vô số cách khác, v́ chính ḿnh không c̣n muốn sống nữa. Người tŕ tụng Chú Đại Bi th́ không bao giờ tự hủy hoại đời ḿnh.
KINH VĂN:
Âm: "TỤNG TR̀ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, BẤT BỊ NHƯ THỊ THẬP NGŨ CHỦNG ÁC TỬ DĂ, ĐẮC THẬP NGŨ CHỦNG THIỆN SANH GIẢ:
NHẤT GIẢ, SỞ SANH CHI XỨ, THƯỜNG PHÙNG THIỆN VƯƠNG;
NHỊ GIẢ, THƯỜNG SANH THIỆN QUỐC;
TAM GIẢ, THƯỜNG TRỊ HẢO THỜI;
TỨ GIẢ, THƯỜNG PHÙNG THIỆN HỮU;
NGŨ GIẢ, THÂN CĂN THƯỜNG ĐẮC CỤ TÚC;
LỤC GIẢ, ĐẠO TÂM THUẦN THỤC;
THẤT GIẢ, BẤT PHẠM CẤM GIỚI;
BÁT GIẢ, SỞ HỮU QUYẾN THUỘC, ÂN NGHĨA H̉A THUẬN;
CỬU GIẢ, TƯ CỤ TÀI THỰC, THƯỜNG ĐẮC PHONG TÚC;
THẬP GIẢ, HẰNG ĐẮC THA NHÂN CUNG KÍNH PHÙ TIẾP;
THẬP NHẤT GIẢ, SỞ HỮU TÀI BẢO, VÔ THA KIẾP ĐOẠT;
THẬP NHỊ GIẢ, Ư DỤC SỞ CẦU, GIAI TẤT XƯNG TOẠI;
THẬP TAM GIẢ, LONG THIÊN THIỆN THẦN HẰNG THƯỜNG ỦNG VỆ;
THẬP TỨ GIẢ, SỞ SANH CHI XỨ, KIẾN PHẬT VĂN PHÁP;
THẬP NGŨ GIẢ, SỞ VĂN CHÁNH PHÁP, NGỘ THẬM THÂM NGHĨA."
Nghĩa: "Người nào tụng tŕ Thần Chú Đại Bi th́ chẳng những không bị mười lăm loại ác tử như thế, mà c̣n sẽ được mười lăm loại thiện sanh:
Một là sanh ra ở nơi thường gặp bậc thiện vương;
Hai là thường sanh ra ở thiện quốc;
Ba là thường gặp thời đại tốt;
Bốn là thường gặp thiện hữu;
Năm là thân căn thường được đầy đủ;
Sáu là Đạo tâm thuần thục;
Bảy là không phạm cấm giới;
Tám là tất cả quyến thuộc đều ḥa thuận, có ân nghĩa;
Chín là đồ dùng, tiền tài, vật thực thường được đầy đủ;
Mười là luôn được người khác cung kính, giúp đỡ;
Mười một là tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt;
Mười hai là những việc mong cầu đều được toại nguyện;
Mười ba là long, thiên, thiện thần thường theo ủng hộ;
Mười bốn là sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe Pháp;
Mười lăm là được nghe Chánh Pháp và tỏ ngộ nghĩa lư thâm sâu."
LƯỢC GIẢNG:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Đức Thế Tôn: "Người nào tụng tŕ Thần Chú Đại Bi th́ không bị mười lăm loại ác tử như vậy, mà sẽ được mười lăm loại thiện sanh." Mười lăm thứ "thiện sanh" đó là gồm những ǵ?
"Một là sanh ra ở nơi thường gặp bậc thiện vương." Nếu quư vị tụng tŕ Chú Đại Bi th́ sẽ được sanh trưởng ở những đất nước có vị quốc vương biết tu Ngũ Giới và hành Thập Thiện.
"Hai là thường sanh ra ở thiện quốc." "Thiện quốc" tức là một đất nước không có chiến tranh loạn lạc, không có giặc giă đao binh, không có lũ lụt, hỏa hoạn, và cũng không có các bệnh dịch hoành hành. Ngoài ra, dân chúng ở đất nước đó đều là những người rất lương thiện, ai nấy đều chung sống thuận ḥa chứ không tàn sát lẫn nhau.
"Ba là thường gặp thời đại tốt." Tŕ tụng Đại Bi Chú, quư vị sẽ được sanh vào thời thái b́nh thịnh trị, không gặp cảnh chiến tranh giặc giă.
"Bốn là thường gặp thiện hữu." "Thiện hữu" tức là những người bạn tốt, biết khuyến khích quư vị học tập Phật Pháp, chăm chỉ tu hành.
"Năm là thân căn thường được đầy đủ." Nếu quư vị thường niệm Chú Đại Bi th́ sáu căn?mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư?của quư vị đều vô cùng xinh đẹp, viên măn.
"Sáu là Đạo tâm thuần thục." "Thuần" tức là thuần nhất, không hỗn tạp, không xen lẫn ǵ cả. "Thục" tức là thành thục, chín muồi. Vậy, nếu quư vị tụng tŕ Chú Đại Bi, th́ cái tâm thuần thành tu Đạo của quư vị chẳng những kiên cố mà c̣n sắp thành thục nữa.
"Bảy là không phạm cấm giới." Phàm là tu Đạo, quư vị hễ thọ giới nào rồi th́ không được vi phạm giới đó. Trong Giới Luật có bảo quư vị chớ làm việc ǵ đó song quư vị vẫn cứ làm, như thế là "phạm cấm giới" vậy.
"Tám là tất cả quyến thuộc đều ḥa thuận, có ân nghĩa." Tất cả bà con họ hàng của gia đ́nh quư vị đều biết cảm ân báo đức lẫn nhau; quư vị tử tế với họ và họ cũng tử tế với quư vị, không ai có ḷng ích kỷ hoặc mưu đồ lợi lộc riêng tư.
"Chín là đồ dùng, tiền tài, vật thực thường được đầy đủ." Quư vị được sở hữu rất nhiều tài bảo, vật dụng, đồ ăn thức uống; và luôn luôn sống trong sự sung túc, dư dả, không bao giờ bị thiếu thốn.
"Mười là luôn được người khác cung kính, giúp đỡ." Hễ ai gặp quư vị cũng đều tỏ ra cung kính và sẵn ḷng giúp đỡ quư vị.
"Mười một là tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt." Các tài bảo của riêng quư vị th́ không bị người khác đến tranh giành, cướp đoạt.
"Mười hai là những việc mong cầu đều được toại nguyện." Quư vị ao ước điều ǵ th́ cũng đều được thỏa măn, vừa ḷng đẹp ư.
"Mười ba là long, thiên, thiện thần thường theo ủng hộ." Thiên, long, bát bộ, cùng tất cả thiện thần đều luôn luôn phù hộ, che chở cho quư vị.
"Mười bốn là sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe Pháp." Nếu quư vị tŕ tụng Chú Đại Bi th́ sanh ra ở xứ sở nào cũng đều được thấy Phật và được nghe Pháp. Nay tuy Đức Phật đă nhập Niết-bàn, song chúng ta trông thấy tượng Phật th́ cũng như được "thấy Phật," và nghe giảng Phật Pháp tức là được "nghe Pháp" vậy.
"Mười lăm là được nghe Chánh Pháp và tỏ ngộ nghĩa lư thâm sâu." Những điều quư vị được nghe th́ đều thuộc về Chánh Pháp, và quư vị có thể hiểu được những đạo lư rất thâm sâu.
KINH VĂN:
Âm: "NHƯỢC HỮU TỤNG TR̀ ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI GIẢ, ĐẮC NHƯ THỊ ĐẲNG THẬP NGŨ CHỦNG THIỆN SANH DĂ, NHẤT THIẾT THIÊN NHÂN, ƯNG THƯỜNG TỤNG TR̀, VẬT SANH GIẢI ĐĂI."
Nghĩa: "Nếu người nào tŕ tụng Đại Bi Tâm Đà-La-Ni th́ sẽ được mười lăm chỗ thiện sanh như thế. Tất cả hàng Trời, người nên thường xuyên tŕ tụng, chớ sanh biếng nhác!"
LƯỢC GIẢNG:
"Nếu người nào tŕ tụng Đại Bi Tâm Đà-La-Ni th́ sẽ được mười lăm chỗ thiện sanh như thế. Tất cả hàng Trời, người, nên thường xuyên tŕ tụng, chớ sanh biếng nhác!" Hết thảy thiên nhân trên các cơi trời cũng như loài người chúng ta ở chốn nhân gian đều nên chuyên cần tŕ tụng Chú Đại Bi, và phải nhớ kỹ là đừng lười biếng, xao lăng! Chúng ta cần phải nhớ là chớ nên tham ăn, tham ngủ! Nếu quư vị có thể chú trọng việc tŕ niệm Chú Đại Bi như việc ăn uống, quan tâm đến việc tŕ tụng Chú Đại Bi như việc ngủ nghỉ, th́ tốt biết bao: "Hễ hôm nào mà không tụng Chú Đại Bi là tôi cảm thấy như thiếu ăn thiếu ngủ vậy!"
Quư vị hăy xem việc tŕ niệm Chú Đại Bi cũng thiết yếu như việc ăn uống, ngủ nghỉ; chớ nên giải đăi, lười biếng. Chuyển cái tâm thích ăn thành cái tâm thích tŕ tụng Chú Đại Bi, đổi cái tâm thích ngủ thành cái tâm thiết tha tụng tŕ Đại Bi Chú; quư vị xem, như thế chẳng phải là kỳ diệu sao?
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 7 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỊ NGỮ DĨ, Ư CHÚNG HỘI TIỀN, HỢP CHƯỞNG CHÁNH TRỤ, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI ĐẠI BI TÂM, KHAI NHAN HÀM TIẾU, TỨC THUYẾT NHƯ THỊ QUẢNG ĐẠI VIÊN MĂN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ. ĐÀ-LA-NI VIẾT: ...
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi ḷng từ bi, tươi mặt cười nụ, tuyên thuyết chương cú thần diệu Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó như vầy: ...
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi ḷng từ bi, tươi mặt cười nụ... “Tươi mặt cười nụ” tức là miệng cười chúm chím, nét mặt lộ vẻ hân hoan. Nếu mặt mày quạu quọ, lầm ĺ nhăn nhó, th́ gọi là “xụ mặt.” Quư vị cần phải rạng rỡ tươi vui, chứ đừng nên lúc nào cũng mặt ủ mày chau, hoặc sầm đen lại như đang giận ai vậy. (Ở Trung Hoa có ông Bao Công mặt sắt đen ś, song đó không phải là dấu hiệu của sự giận dữ!)
Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát chắp hai tay lại và đứng ngay ngắn trước mặt Đức Phật cùng đại chúng, rồi sanh ḷng đại từ đại bi thương xót tất cả chúng sanh, Ngài tươi cười rạng rỡ và lập tức tuyên thuyết chương cú thần diệu Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó như vầy: ...
Kinh Văn:
NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A RỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ, THƯỚC BÁT RA DA. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA CA LÔ NI CA DA. ÁN. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ. SÓC ĐÁT NA ĐÁT TẢ. NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ĐỎA Y MÔNG A RỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ. NAM MÔ NA RA CẨN TR̀. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐA SA MẾ. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG. A THỆ DỰNG. TÁT BÀ TÁT ĐÁ, NA MA BÀ TÁT ĐA, NA MA BÀ GIÀ. MA PHẠT ĐẶC ĐẬU. ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN, A BÀ LÔ HÊ. LÔ CA ĐẾ. CA RA ĐẾ. DI HÊ RỊ. MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA. TÁT BÀ TÁT BÀ. MA RA MA RA. MA HÊ MA HÊ, RỊ ĐÀ DỰNG. CU LÔ CU LÔ YẾT MÔNG. ĐỘ LÔ ĐỘ LÔ, PHẠT GIÀ RA ĐẾ. MA HA PHẠT GIÀ DA ĐẾ. ĐÀ LA ĐÀ LA. ĐỊA LỴ NI. THẤT PHẬT RA DA. GIÁ RA GIÁ RA. MA MA PHẠT MA RA. MỤC ĐẾ LỆ. Y HÊ DI HÊ. THẤT NA THẤT NA. A RA SAM PHẬT RA XÁ LỢI. PHẠT SA PHẠT SAM. PHẬT RA XÁ DA. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ RỊ. TA RA TA RA. TẤT LỴ TẤT LỴ. TÔ RÔ TÔ RÔ. BỒ ĐỀ DẠ, BỒ ĐỀ DẠ. BỒ ĐÀ DẠ, BỒ ĐÀ DẠ. DI ĐẾ RỊ DẠ. NA RA CẨN TR̀. ĐỊA LỴ SẮT NI NA. BA DẠ MA NA. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. MA HA TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DU NGHỆ. THẤT BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. NA RA CẨN TR̀. TA BÀ HA. MA RA NA RA. TA BÀ HA. TẤT LỖ TĂNG A MỤC KHƯ DA. TA BÀ HA. TA BÀ MA HA A TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. GIẢ CÁT RA A TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. NA RA CẨN TR̀, BÀN GIÀ RA DA. TA BÀ HA. MA BÀ LỢI THẮNG, YẾT RA DA. TA BÀ HA. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A LỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ. THƯỚC BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. ÁN, TẤT ĐIỆN ĐÔ. MẠN ĐÀ RA. BẠT ĐÀ DA. TA BÀ HA.
Lược giảng:
Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu Kinh Đại Bi Đà La Ni, do đó tạm thời chưa giảng đến bài Chú Đại Bi này. Chỉ riêng một bài Chú này thôi cũng phải cần rất nhiều thời gian mới giảng giải cho tường tận được; do đó, bây giờ tôi chỉ giảng phần Kinh văn, c̣n ư nghĩa của Chú (Chú nghĩa) th́ để khi nào có cơ hội tôi sẽ giải thích cặn kẽ sau. Và, luôn cả Chú Lăng Nghiêm cũng vậy, trong tương lai, nếu có cơ duyên thuận tiện th́ tôi sẽ giảng nghĩa cho quư vị nghe; c̣n hôm nay th́ tôi chỉ giải thích sơ lược về câu đầu và câu cuối của bài Chú Đại Bi này mà thôi.
Câu đầu tiên của Chú Đại Bi là “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da.”
“Nam mô” có nghĩa là quy y, quay về nương tựa; do đó câu chú trên trở thành “Quy y Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da,” và có nghĩa là “quy y tận hư không, biến Pháp Giới, thập phương tam thế, vô tận vô tận Tam Bảo” (con về nương tựa vô lượng vô biên Tam Bảo ở tận cùng hư không và khắp cả Pháp Giới trong mười phương ba đời). Nói theo đồ h́nh th́ đây là bổn thân của Quán Thế Âm Bồ-tát. Nếu quư vị tŕ niệm câu chú này th́ Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ giúp cho mọi sở cầu của quư vị đều được toại nguyện, viên măn như ư.
Câu cuối cùng của bài Chú Đại Bi là “Án Tất Điện Đô. Mạn Đà Ra. Mạt Đà Da. Ta Bà Ha.” Câu này nghĩa là ǵ? Câu này hàm ư là tất cả mọi nguyện vọng thiết tha của hành giả đều sẽ mau chóng được thành tựu. Quư vị tŕ niệm câu Chú này th́ những điều nguyện ước hoặc hy vọng của quư vị sẽ không những được thành tựu mà c̣n thành tựu một cách nhanh chóng nữa.
Trên đây là sơ lược về ư nghĩa của câu đầu và câu cuối của bài Chú Đại Bi.
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỬ CHÚ DĨ, ĐẠI ĐỊA LỤC BIẾN CHẤN ĐỘNG, THIÊN VŨ BẢO HOA, TÂN PHÂN NHI HẠ. THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TẤT GIAI HOAN HỶ. THIÊN MA NGOẠI ĐẠO, KHỦNG BỐ MAO THỤ. NHẤT THIẾT CHÚNG HỘI, GIAI HOẠCH QUẢ CHỨNG: HOẶC ĐẮC TU-ĐÀ-HOÀN QUẢ, HOẶC ĐẮC TƯ-ĐÀ-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-NA-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-LA-HÁN QUẢ, HOẶC ĐẮC NHẤT ĐỊA, NHỊ ĐỊA, TAM ĐỊA, TỨ ĐỊA, NGŨ ĐỊA, NĂI CHÍ THẬP ĐỊA GIẢ. VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM.
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu cách, trời mưa hoa báu xuống lả tả, mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ; thiên ma ngoại đạo sợ hăi đến dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán, hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, cho đến Thập Địa; vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm.
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu cách ... “Đại địa” (cơi đất lớn) tức là mặt đất mà chúng sanh chúng ta đang cư ngụ. Như đă đề cập trong phần trước, sáu loại chấn động của đại địa (lục chủng chấn động) là chấn, hống, kích, động, dũng và khởi.
1) Chấn tức là chấn động (vang dội, rúng động);
2) Hống là gầm rống, gào thét;
3) Kích có nghĩa là va chạm, đập vào nhau.
Chấn, hống và kích là những chấn động thuộc về âm thanh.
4) Động tức là động cựa hướng về phía trên;
5) Dũng là dũng hiện, hàm ư phun vọt lên trên;
6) Khởi tức là vùng dậy, khởi lên.
Động, dũng và khởi là những chấn động về mặt h́nh thể.
Sáu loại chấn động này lại có thể biến chuyển thành mười tám thứ chấn động khác nhau mà trước đây tôi đă có giảng rồi, và tôi tin rằng quư vị vẫn c̣n nhớ cho nên không cần phải giảng tỉ mỉ lại nữa!
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chấn động của đại địa. Sáu loại chấn động có thể xảy ra do: 1) ở thế gian có người thành Phật; 2) có người chứng đắc quả vị A-la-hán; 3) có chư Phật hoặc Bồ-tát tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa.
Ba sự kiện trên là thuộc về phương diện thiện (điềm lành) và khi xảy ra th́ cả đại địa đều chấn động sáu cách. Ngoài ra, địa chấn cũng có thể xảy ra do: 1) có Ma-vương xuất hiện (Ma-vương có thể dùng ma lực của ḿnh để làm cho đại địa biến thành chấn động sáu cách); 2) có thiên tai nhân họa xảy ra bởi nghiệp cảm của chúng sanh; 3) trời đất phát sinh tai biến.
Địa chấn th́ có loại tốt, có loại không tốt. Địa chấn xảy ra bởi ba nguyên nhân đầu th́ không gây tổn hại ǵ cho nhân loại cả; c̣n địa chấn bởi ba nguyên nhân sau th́ đều là những tai họa đối với loài người. Thế nhưng, mức độ tác hại do địa chấn gây ra, như tôi vừa nói ban năy, c̣n tùy thuộc vào nghiệp cảm của chúng sanh nữa. Mặc dù nói rằng nếu nghiệp lực của chúng sanh quá nặng th́ biến cố sẽ xảy ra, nhưng nếu ở nơi đáng lẽ phải có tai ương giáng xuống đó mà có bậc thánh nhân—Phật, Bồ-tát, A-la-hán—ra đời, th́ tai ương của nơi đó có thể sẽ chuyển dời sang nơi khác, hoặc có thể từ họa lớn biến thành họa nhỏ, hoặc từ họa nhỏ biến thành tiêu tan. Cho nên, ở thế gian này chẳng có ǵ là nhất định cả.
Vừa rồi chỉ là sơ lược về ư nghĩa cùng t́nh h́nh của hiện tượng địa chấn; nếu đi sâu vào chi tiết, th́ c̣n có rất nhiều quan hệ và nguyên nhân vi tế khác vô cùng phức tạp.
Trời mưa hoa báu xuống lả tả. Các thiên nữ ở cơi trời đua nhau rải hoa báu xuống, cứ hết đóa này đến đóa khác liên tiếp rơi xuống như mưa.
Mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ; thiên ma ngoại đạo sợ hăi đến dựng lông tóc. Lúc bấy giờ, tất cả chư Phật trong mười phương đều sanh tâm hoan hỷ; c̣n các Ma-vương và hàng ngoại đạo trên cơi trời th́ đều rùng ḿnh khiếp sợ, sợ đến nỗi bao nhiêu lông tóc đều dựng đứng lên cả.
Tất cả chúng hội đều được quả chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán. Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú Đại Bi xong, trong đại chúng có rất nhiều vị chứng được Sơ Quả A-la-hán, Nhị Quả A-la-hán, Tam Quả A-la-hán hoặc Tứ Quả A-la-hán.
Hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa cho đến Thập Địa. Lại nữa, trong Pháp Hội cũng có rất nhiều vị chứng đắc được các địa vị của Bồ-tát Đại Thừa như Nhất Địa (Hoan Hỷ Địa), Nhị Địa (Ly Cấu Địa), Tam Địa (Phát Quang Địa), Tứ Địa (Diệm Huệ Địa), Ngũ Địa (Nan Thắng Địa), Lục Địa (Hiện Tiền Địa), Thất Địa (Viễn Hành Địa), Bát Địa (Bất Động Địa), Cửu Địa (Thiện Huệ Địa), và Thập Địa (Pháp Vân Địa).
Vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Ngoài ra, ngay lúc ấy c̣n có vô lượng vô biên chúng sanh phát khởi tâm Bồ-Đề rộng lớn.
Kinh Văn:
NHĨ THỜI, ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG TÙNG T̉A NHI KHỞI, CHỈNH LƯ Y PHỤC, HỢP CHƯỞNG CUNG KÍNH, BẠCH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “THIỆN TAI, ĐẠI SĨ! NGĂ TÙNG TÍCH LAI, KINH VÔ LƯỢNG PHẬT HỘI, VĂN CHỦNG CHỦNG PHÁP, CHỦNG CHỦNG ĐÀ-LA-NI, VỊ TẰNG VĂN THUYẾT NHƯ THỬ VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐẠI BI ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ. DUY NGUYỆN ĐẠI SĨ, VI NGĂ THUYẾT THỬ ĐÀ-LA-NI H̀NH MẠO TRẠNG TƯỚNG, NGĂ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, NGUYỆN NHẠO DỤC VĂN.”
Nghĩa: Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay, Đại Sĩ! Từ trước đến nay, tôi đă trải qua vô lượng Phật Hội, được nghe vô số Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Chỉ mong Đại Sĩ v́ tôi mà nói về h́nh mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy; tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe.”
Lược giảng:
Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề... Quư vị đều có biết đôi chút về vị Đại Phạm Thiên Vương này. Đại Phạm Thiên Vương có ba con mắt, tay cầm phất trần màu trắng (bạch phất), và cỡi con trâu trắng (bạch ngưu). Ngài ngồi Thiền, ngủ nghỉ ngay trên ḿnh trâu và cảm thấy rất tự tại, rất thú vị; bởi Ngài nhận thấy ḿnh được ung dung tự tại nhất, cho nên nơi Ngài ở được gọi là Đại Tự Tại Thiên, một cảnh trời cao nhất trong Sắc Giới Thiên.
Vậy, sau khi đứng dậy và vuốt lại vạt áo thiên y không phải khâu may của ḿnh cho ngay ngắn rồi, Đại Phạm Thiên Vương cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay, Đại Sĩ! Ngài quả là một vị Bồ-tát vĩ đại nhất! Từ trước đến nay, tôi đă trải qua vô lượng Phật Hội. Tôi đă từng được tham dự vô lượng vô biên Phật Hội, số nhiều đến không thể đếm xuể, đồng thời tôi cũng được nghe vô số Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, vô số Tổng Tŕ, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Tôi chưa bao giờ được nghe thấy một chương cú thần diệu, nhiệm mầu như Thần Chú Đại Bi này.
Chỉ mong Đại Sĩ v́ tôi mà nói về h́nh mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy. Tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe. Hiện nay toàn thể đại chúng chúng tôi ở trong Pháp Hội này đều thiết tha mong được lắng nghe Đại Sĩ nói rơ về h́nh tướng của Chú Tổng Tŕ này!”
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CÁO PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NHỮ VI PHƯƠNG TIỆN LỢI ÍCH NHẤT THIẾT CHÚNG SANH CỐ, TÁC NHƯ THỊ VẤN, NHỮ KIM THIỆN THÍNH, NGÔ VI NHỮ ĐẲNG, LƯỢC THUYẾT THIỂU NHĨ.”
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông v́ phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hăy khéo lắng nghe, Ta sẽ v́ các Ông mà lược thuyết đôi điều.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông v́ phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hăy khéo lắng nghe, Ta sẽ v́ các Ông mà lược thuyết đôi điều.”
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói với Đại Phạm Thiên Vương rằng: “V́ muốn đem lại sự lợi ích cho hết thảy chúng sanh nên Ông mới đến đây nghe Pháp và đặt câu hỏi như thế. Vậy, Đại Phạm Thiên Vương ơi! Bây giờ Ông hăy chú ư lắng nghe, Ta sẽ v́ đại chúng các Ông mà nói sơ lược đôi chút về đạo lư này!”
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “ĐẠI TỪ BI TÂM THỊ, B̀NH ĐẲNG TÂM THỊ, VÔ VI TÂM THỊ, VÔ NHIỄM TRƯỚC TÂM THỊ, KHÔNG QUÁN TÂM THỊ, CUNG KÍNH TÂM THỊ, TỲ HẠ TÂM THỊ, VÔ TẠP LOẠN TÂM THỊ, VÔ KIẾN THỦ TÂM THỊ, VÔ THƯỢNG BỒ-ĐỀ TÂM THỊ. ĐƯƠNG TRI NHƯ THỊ ĐẲNG TÂM, TỨC THỊ ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, NHỮ ĐƯƠNG Y THỬ NHI TU HÀNH CHI!”
ĐẠI PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NGĂ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, KIM THỦY THỨC THỬ ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, TÙNG KIM THỌ TR̀, BẤT CẢM VONG THẤT.”
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo: “Đó là tâm Đại Từ Bi, là tâm B́nh Đẳng, là tâm Vô Vi, là tâm Vô Nhiễm Trước, là tâm Không Quán, là tâm Cung Kính, là tâm Tỳ Hạ, là tâm Vô Tạp Loạn, là tâm Vô Kiến Thủ, là tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy ông nên y theo đó mà tu hành.”
Đại Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến tướng mạo của môn Đà-La-Ni này. Từ nay chúng tôi xin thọ tŕ, chẳng dám quên lăng.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Ông muốn biết Đại Bi Tâm Đà-La-Ni là ǵ ư? Ta nói cho Ông rơ: Đó là tâm Đại Từ Bi.”
Đại Từ Bi Tâm chính là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Ḷng “từ” có thể ban vui, tâm “bi” có thể cứu khổ; do đó nếu quư vị có được ḷng từ bi bao la, rộng lớn th́ đó chính là Chú Đại Bi vậy. Quư vị đă nghe rơ cả chưa? Đại Bi Tâm chính là Đại Bi Chú, Đại Bi Chú chính là Đại Bi Tâm. Quư vị có tâm Đại Bi tức là quư vị đang niệm Chú Đại Bi; nếu quư vị không có tâm Đại Bi tức là quư vị chưa niệm Chú Đại Bi vậy!
Hằng ngày, cho dù từ sáng đến tối quư vị luôn lầm rầm tụng niệm: “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da…,” nhưng nếu quư vị không có ḷng đại từ đại bi th́ đó không phải là niệm Chú Đại Bi. Trái lại, nếu quư vị chẳng hề niệm Chú Đại Bi, song thâm tâm lúc nào cũng tồn giữ tấm ḷng đại từ đại bi, th́ đó chính là quư vị đang tŕ niệm Chú Đại Bi vậy! Quư vị hiểu rơ cả rồi chứ? Cho nên, song song với việc niệm Chú, quư vị cần phải nuôi dưỡng cái tâm Đại Từ Bi nữa, như thế mới là chân chánh niệm Chú!
“Là tâm B́nh Đẳng.” Chú Đại Bi là ǵ? Đó là cái tâm b́nh đẳng, cái tâm không phân biệt. Tâm b́nh đẳng là một cái tâm “vô đảng vô thiên” (không phe nhóm, chẳng thiên vị); và cái tâm ấy chính là Chú Đại Bi.
Chúng ta không nên niệm Chú Đại Bi với ḷng ích kỷ, phân biệt: “Người này là anh em của tôi th́ tôi phải gần gũi anh ta hơn. Cô kia là bạn của tôi, th́ tôi phải thân thiết với cô ta hơn. Người ấy không có quen biết ǵ với tôi cả, vậy tôi nên tránh xa hắn...”; bởi như thế tức là không có tâm b́nh đẳng.
“B́nh đẳng” tức là đối với anh em ruột thịt cũng vậy mà không phải là anh em ruột thịt th́ cũng vậy—chúng ta xem tất cả đều như nhau, chẳng hề phân biệt thân sơ. Đối với bạn bè, anh em, và ngay cả người dưng kẻ lạ, chúng ta đều nên đăi ngộ ngang nhau, giống nhau. Nếu quư vị cư xử tử tế với anh em của ḿnh, th́ đối với mọi người khác, quư vị cũng nên tử tế giống như với anh em của quư vị vậy; như thế mới gọi là có tâm b́nh đẳng. Và nếu quư vị hiếu thảo với cha mẹ, th́ quư vị cũng nên xem những người tuổi tác đều như cha mẹ ḿnh, và cũng quan tâm, hiếu thuận với họ giống như với cha mẹ ḿnh; đó là có tâm b́nh đẳng vậy.
Nói tóm lại, tâm b́nh đẳng là cái tâm “vô đảng, vô thiên.” Quư vị có tâm b́nh đẳng, tức là có niệm Chú Đại Bi; không có tâm b́nh đẳng tức là không niệm Chú Đại Bi vậy.
“Là tâm Vô Vi.” “Vô vi” có nghĩa là không làm; thế th́ “không làm” điều ǵ? Đó là không làm những việc tà vạy, không khởi tà niệm, không sanh tà tri tà kiến. Cái tâm luôn nhắc nhở quư vị chớ nên làm điều xấu xa bại hoại, được gọi là tâm vô vi. Quư vị không làm điều xấu điều ác, tức là quư vị đang niệm Chú Đại Bi! Nếu quư vị vừa niệm Chú Đại Bi lại vừa làm điều sai trái, tức là quư vị không có tâm vô vi; và như thế có nghĩa là quư vị không niệm Chú Đại Bi vậy!
“Là tâm Vô Nhiễm Trước.” Tâm vô nhiễm trước là cái tâm sáng trong thanh tịnh, không chấp trước, không tạp niệm, không vọng tưởng, không tà niệm, không dục niệm—nói rơ hơn, là không có các ư tưởng dâm dục. Nếu quư vị không có ḷng tham đắm sắc dục, tức là quư vị có tâm vô nhiễm trước. Trái lại, nếu quư vị có những ư nghĩ dâm ô tà vạy, dục vọng nặng nề, tức là trong tâm quư vị có sự nhiễm trước, bợn nhơ; mà niệm Chú Đại Bi với cái tâm nhiễm trước th́ không phải là niệm Chú Đại Bi! Cho nên, những người hiện đang tŕ niệm Chú Đại Bi đều cần phải chú ư đến đoạn kinh văn này!
“Là tâm Không Quán.” Chúng ta cần phải quán tưởng về tánh “không” của tất cả các pháp. Có “không quán,” thấy được các pháp đều là “không,” th́ quư vị sẽ không c̣n chấp trước ǵ nữa cả.
“Là tâm Cung Kính.” Quư vị nên hiền từ, ḥa nhă, có ḷng cung kính đối với mọi người. Hăy xem tất cả chúng sanh đều là Phật, và v́ thế ḿnh phải sanh tâm cung kính đối với họ.
“Là tâm Tỳ Hạ.” Tâm tỳ hạ tức là ḷng khiêm cung, nhún nhường mà kính cẩn. Chúng ta nên luôn luôn giữ ḷng khiêm cung đối với mọi người, chứ đừng sanh tâm cống cao ngă mạn.
“Là tâm Vô Tạp Loạn.” Quư vị không nên có cuồng tâm dă tánh, không nên có cái tâm tạp loạn.
“Là tâm Vô Kiến Thủ.” Khi quư vị trông thấy sự vật th́ trong ḷng liền mê chấp, sanh khởi kiến hoặc; hễ có kiến hoặc tất có sự chấp giữ (sở thủ).
“Là tâm Vô Thượng Bồ Đề.” Quư vị phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, th́ đó chính là Chú Đại Bi; nếu quư vị không có Đạo tâm Vô Thượng Bồ Đề, th́ không phải là niệm Chú Đại Bi vậy.
“Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy Ông nên y theo đó mà tu hành.” Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Ông phải biết rằng mười cái tâm kể trên—tâm Đại Từ Bi, tâm B́nh Đẳng, tâm Vô Vi, tâm Vô Nhiễm Trước, tâm Không Quán, tâm Cung Kính, tâm Tỳ Hạ, tâm Vô Tạp Loạn, tâm Vô Kiến Thủ, và tâm Vô Thượng Bồ Đề—chính là tướng mạo của Chú Đại Bi. Các Ông hăy y chiếu theo mười thứ tâm này để tu hành và tŕ tụng Chú Đại Bi.”
Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết như thế, Đại Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến tướng mạo của môn Đà-La-Ni này. Tất cả chúng tôi trong Pháp Hội nhờ được nghe Ngài, bậc Đại-sĩ Đại Bồ-tát, thuyết giảng nên mới nhận thức được tướng mạo của pháp môn Tổng Tŕ này. Từ nay chúng tôi xin thọ tŕ, và phát nguyện rằng bắt đầu từ hôm nay chúng tôi sẽ tụng tŕ Thần Chú Đại Bi—chương cú thần diệu Đại Bi Tâm Đà-La-Ni—chẳng dám quên lăng!”
V́ sao ư? V́ pháp môn này đích thực là:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Một pháp môn cao siêu, vi diệu th́ rất là khó t́m, khó được gặp; thế mà nay:
Ngă đẳng kiến văn đắc thọ tŕ.
Bây giờ, chúng ta không chỉ may mắn được nghe, được thấy, mà c̣n được thọ tŕ nữa! V́ thế, chúng ta phải:
Nguyện giải vô thượng chân thật nghĩa.
Vậy, mỗi người trong chúng ta cần phải phát nguyện hiểu được pháp yếu vô thượng này, lănh hội được diệu lư chân thật này, và vĩnh viễn không bao giờ dám lăng quên.
Đại Phạm Thiên Vương có bản lănh lớn lao như thế, thong dong tự tại như thế, mà nghe được Chú Đại Bi rồi c̣n hứa là chẳng dám quên, huống hồ là chúng ta? Nếu quư vị thờ ơ lănh đạm, tùy tiện bỏ qua, không lo tŕ niệm, bỏ quên Chú Đại Bi tuốt ngoài chín tầng mây, cách xa tới mười vạn tám ngàn dặm, th́ đến lúc quư vị muốn t́m lại, e rằng không dễ ǵ c̣n t́m thấy được nữa!
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM NGÔN: “NHƯỢC THIỆN NAM TỬ, THIỆN NỮ NHÂN, TỤNG TR̀ THỬ THẦN CHÚ GIẢ, PHÁT QUẢNG ĐẠI BỒ-ĐỀ TÂM THỆ ĐỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, THÂN TR̀ TRAI GIỚI, Ư CHƯ CHÚNG SANH KHỞI B̀NH ĐẲNG TÂM, THƯỜNG TỤNG THỬ CHÚ MẠC LỆNH ĐOẠN TUYỆT, TRÚ Ư TỊNH THẤT, THÁO DỤC THANH TỊNH, TRƯỚC TỊNH Y PHỤC, HUYỀN PHAN NHIÊN ĐĂNG, HƯƠNG HOA BÁCH VỊ ẨM THỰC DĨ DỤNG CÚNG DƯỜNG, CHẾ TÂM NHẤT XỨ CÁNH MẠC DỊ DUYÊN, NHƯ PHÁP TỤNG TR̀, THỊ THỜI ĐƯƠNG HỮU NHẬT QUANG BỒ-TÁT, NGUYỆT QUANG BỒ-TÁT, DỮ VÔ LƯỢNG THẦN TIÊN, LAI VI TÁC CHỨNG ÍCH KỲ HIỆU NGHIỆM.”
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào tŕ tụng Thần Chú này phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh, thân tŕ trai giới, đối với chúng sanh khởi tâm b́nh đẳng, thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn. Lại nên ở chốn tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết, treo phướn đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường, kềm tâm một chỗ, chớ theo dị duyên, tŕ tụng đúng Pháp. Lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào tŕ tụng Thần Chú này, phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh.” Người tŕ tụng Chú Đại Bi không nên có tâm lượng nhỏ hẹp, không nên có ḷng ích kỷ, không nên có ḷng mưu lợi riêng tư, không nên có ḷng đố kỵ, không nên có tâm chướng ngại; mà cần phải phát huy cái tâm Bồ-đề bao la—cái tâm giác ngộ rộng lớn—và phải phát nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh đều được xa ĺa khổ năo, hưởng sự an vui.
Lại nữa, người ấy cần phải “thân tŕ trai giới,” phải giữ chay tịnh và phải thọ tŕ Ngũ Giới—không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; đồng thời phải “đối với chúng sanh khởi tâm b́nh đẳng,” xem muôn loài chúng sanh đều như nhau.
“Thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn.” Chúng ta cần phải tụng Chú Đại Bi thật đều đặn, liên tục, không được gián đoạn. Nếu quư vị tùy tiện chỉ tụng một chốc lát rồi nghỉ, nghỉ ngơi chán rồi mới tụng tiếp, như thế là làm cho Chú bị gián đoạn, không được liên tục.
“Lại nên ở chốn tịnh thất.” Lại nữa, người tŕ tụng Chú Đại Bi cần phải sống ở nơi thanh tịnh, chẳng có pháp nhiễm ô; đồng thời phải thường xuyên “tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết.”
Do đó, chúng ta tốt nhất là đừng mặc những y phục và giày vớ dành cho lúc tụng Kinh lạy Phật khi vào nhà vệ sinh. Tuy rằng nhà vệ sinh cũng rất sạch sẽ, nhưng dù sao th́ đó cũng là nơi để phóng uế; cho nên đến nhà vệ sinh th́ phải cởi áo Giới và áo tràng ra, và thay giày dép khác nữa. Trước đây tôi đă kể cho quư vị nghe rồi: Ấn Quang Lăo Pháp Sư mỗi lần vào nhà vệ sinh là Ngài đều thay quần áo và giày vớ khác; rồi khi dùng nhà vệ sinh xong th́ Ngài lại thay đồ, mặc lại y bào. Trong suốt mười tám năm sống ở núi Phổ Đà, Ngài luôn luôn giữ nếp hành tŕ như thế. Người chân chánh tŕ giữ Giới Luật th́ ngay cả những sai trái nhỏ nhặt nhất, vi tế nhất, họ cũng không hề vi phạm. V́ thế, quư vị cần phải nhớ kỹ: Phải cởi y bào và thay giày dép khác trước khi vào nhà vệ sinh—tuyệt đối không được mặc Giới y và áo tràng mà vào nhà vệ sinh!
“Treo phướn, đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường.” Kế đến, người thiện nam tín nữ đó nên treo phướn lên cao và thắp đèn cho sáng; đồng thời sắm sửa hương thơm, các loại hoa muôn màu muôn sắc, cùng đồ ăn thức uống đủ mùi đủ vị để cúng dường Tam Bảo.
“Kềm tâm ở một chỗ, chớ theo dị duyên.” Quư vị phải kiềm giữ cái tâm ḿnh ở một chỗ, trong ḷng không sanh vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm, và cũng đừng xen vào những duyên sự khác. “Chớ theo dị duyên” tức là không phan duyên, tâm trí không vướng mắc, không nghĩ ngợi những sự việc khác nữa.
“Tŕ tụng đúng Pháp.” Nếu người thiện tín đó y chiếu theo phương pháp và những chỉ dẫn trên đây mà tụng tŕ Chú Đại Bi, th́ “lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.”
Nhật Quang Bồ-tát và Nguyệt Quang Bồ-tát là hai vị Bồ-tát phát nguyện hộ tŕ Chú Đại Bi đắc lực nhất—hễ người nào tŕ niệm Chú Đại Bi th́ hai vị Bồ-tát này sẽ phù hộ, che chở người đó từng giây từng phút. Bấy giờ, ngoài hai vị Bồ-tát Nhật Quang và Nguyệt Quang ra, c̣n có vô lượng vô biên thần tiên khác cũng đến để chứng giám cho người thiện tín đó: “Ừ, có người đang tŕ tụng Chú Đại Bi ở đây, vậy ta phải đến phù hộ cho người đó mới được!”; và khiến cho những mong cầu của người tụng Chú đều được hiệu nghiệm.
“Hiệu nghiệm,” cũng gọi là “ứng nghiệm,” hoặc “linh nghiệm,” tức là đạt được sự linh ứng thiêng liêng, mầu nhiệm.
Kinh Văn:
“NGĂ THỜI ĐƯƠNG DĨ THIÊN NHĂN CHIẾU KIẾN THIÊN THỦ HỘ TR̀, TÙNG THỊ DĨ VĂNG SỞ HỮU THẾ GIAN KINH THƯ TẤT NĂNG THỌ TR̀, NHẤT THIẾT NGOẠI ĐẠO PHÁP THUẬT, PHỆ-ĐÀ ĐIỂN TỊCH, DIỆC NĂNG THÔNG ĐẠT.
TỤNG TR̀ THỬ THẦN CHÚ GIẢ, THẾ GIAN BÁT VẠN TỨ THIÊN CHỦNG BỆNH TẤT GIAI TRỊ CHI, VÔ BẤT SI GIẢ; DIỆC NĂNG SỬ LỆNH NHẤT THIẾT QUỶ THẦN, HÀNG CHƯ THIÊN MA, CHẾ CHƯ NGOẠI ĐẠO.”
Nghĩa: “Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ tŕ, làm cho người ấy từ đó về sau có thể thọ tŕ tất cả sách vở thế gian, thông đạt tất cả điển tịch Phệ-đà cùng pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng tŕ Thần Chú này th́ có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không khỏi; lại cũng có thể sai khiến được tất cả quỷ thần, hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo.”
Lược giảng:
“Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ tŕ.” Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Lúc ấy, Ta sẽ dùng một ngàn con mắt để dơi theo và duỗi một ngàn cánh tay ra để che chở, hộ tŕ người tụng Chú Đại Bi đó. Chẳng những thế, Ta c̣n làm cho người ấy từ đó về sau có thể thọ tŕ tất cả sách vở thế gian, thông đạt tất cả điển tịch Phệ-đà —kinh điển của ngoại đạo—cùng pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng tŕ Thần Chú này th́ có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không khỏi.”
Thế gian này có tới tám vạn bốn ngàn thứ bệnh mà Chú Đại Bi đều có thể trị lành được tất cả. Bất luận là bị cancer hoặc mắc phải bệnh ǵ đi nữa, nếu quư vị thành tâm thiết tha tụng niệm Chú Đại Bi th́ đều được khỏi bệnh. Những bệnh nan y, bất cứ thuốc men ǵ cũng không chữa trị được, th́ Chú Đại Bi đều có thể trị lành được; v́ thế mà nói là “vô bất si giả” (chẳng bệnh nào không khỏi.)
Trong câu “vô bất si giả,” chữ “si” hàm ư lành bệnh, khỏi bệnh. Theo Hán tự, chữ “si” này nếu có thêm chữ “bệnh” đứng bên cạnh th́ thành ra chữ “sái,” có nghĩa là lành bệnh, hết bệnh. Như vậy, câu trên sẽ là “vô bất sái giả,” và ngụ ư là chẳng có bệnh nào mà không thuyên giảm, chẳng có bệnh nào mà không trị lành cả!
Ngoài ra, người tŕ tụng Chú Đại Bi “lại cũng có thể sai khiến được tất cả quỷ thần.” “Sai khiến được tất cả quỷ thần” là thế nào? Tức là người ấy bảo làm việc ǵ th́ các quỷ thần liền răm rắp làm việc đó, bảo đi đâu th́ lập tức đi đấy. Chẳng những thế, người ấy c̣n có thể “hàng phục thiên ma, chế phục ngoại đạo” nữa.
Kinh Văn:
NHƯỢC TẠI SƠN DĂ, TỤNG KINH TỌA THIỀN, HỮU CHƯ SƠN TINH TẠP MỊ VỌNG LƯỢNG QUỶ THẦN, HOẠNH TƯƠNG NĂO LOẠN, TÂM BẤT AN ĐỊNH GIẢ, TỤNG THỬ CHÚ NHẤT BIẾN, THỊ CHƯ QUỶ THẦN TẤT GIAI BỊ PHƯỢC DĂ.”
Nghĩa: “Nếu ở chốn sơn dă tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng lượng, quỷ thần, hoành hành năo loạn làm cho tâm không được an định, tụng Chú này một biến th́ các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.”
Lược giảng:
“Nếu ở chốn sơn dă tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng lượng, quỷ thần, hoành hành năo loạn làm cho tâm không được an định...” Giả sử quư vị sống ở chốn núi non vắng vẻ, không người lai văng, mà tụng Kinh hay ngồi Thiền, th́ thường có các quỷ thần như sơn yêu thủy quái, ly mị vọng lượng đến quấy nhiễu, tác oai tác quái, khiến cho quư vị bị loạn tâm. Bấy giờ, nghĩ đến việc tụng Kinh th́ quư vị cảm thấy rất phiền muộn, chán chường: “Tụng Kinh để làm ǵ kia chứ?”; hoặc muốn ngồi Thiền nhưng vừa ngồi xuống th́ vọng tưởng lại mon men dấy lên: “Ngồi thế này thật không thoải mái chút nào. Hết đau chân th́ lại mỏi lưng mỏi cổ, ê ẩm cả người. Ui chao, thôi đứng dậy quách cho rồi!”
V́ sao lại như thế? Đó là v́ quư vị bị chúng ma tới quấy nhiễu, chọc phá, làm cho quư vị thấy trong ḷng bứt rứt xốn xang, không thể nào ngồi yên được. Chúng lại tỉ tê dụ dỗ: “Ngồi Thiền để làm ǵ? Thôi, đừng tu hành nữa, theo bọn tôi đi chơi đi, ngoài kia có nhiều tṛ vui chơi náo nhiệt lắm! Bạn ở đây th́ phải nào là tụng Kinh, nào là ngồi Thiền, lại c̣n phải tuân theo đủ các thứ quy củ luật lệ rắc rối nữa, chẳng thú vị ǵ cả! Hăy mau mau nhập bọn làm quyến thuộc với chúng tôi đi! Xem ḱa, thế giới của chúng ta thật là nhộn nhịp v.v...”
Ma Vương c̣n có thể xui khiến quư vị sanh khởi những vọng tưởng như: “Nam nữ hành dâm là không thành vấn đề.” Chúng ma là những kẻ phá hoại, chúng đến cốt để phá hoại Định tâm, phá hoại Giới tâm và phá hoại Huệ tâm của quư vị, làm cho Giới Định Huệ của quư vị đều tiêu tan.
Muốn tu hành theo Bồ-tát Đạo th́ quư vị cần phải có mười thứ tâm; thế nhưng hễ bị Ma Vương quấy phá th́ mười thứ tâm ấy liền bị lung lay, không thể an trụ vững vàng được nữa! Bấy giờ, tâm quư vị vốn “trụ” ở đức Tín song nay th́ tín tâm không c̣n nữa; mà không có tín tâm th́ sẽ sanh ḷng “bất tín.”
Quư vị muốn giữ tâm tŕ niệm, nhớ nghĩ—muốn chuyên chú tụng Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng—th́ Ma Vương lại xui khiến quư vị trở nên ngần ngừ do dự: “Thôi, đi ngủ một giấc cho khỏe!” Và như thế là cái ḷng niệm tưởng của quư vị cũng tiêu tan.
“Niệm tâm” không có th́ ḷng tinh tấn cũng chẳng c̣n, quư vị không c̣n hăng hái tu học nữa: “Có chắc là tu hành th́ sẽ thành Phật được hay không? Biết đâu đó chỉ là chuyện hoang đường, không đáng tin?” Và thế là cái tâm tinh tấn này cũng chẳng “trụ” được nữa.
Tâm Tinh Tấn không “trụ” th́ không có tâm trí huệ—Huệ Tâm cũng chẳng “trụ” được.
Huệ Tâm không “trụ” th́ không có Định Tâm—Định Tâm cũng chẳng “trụ” được.
Định không “trụ” th́ không có Tâm Bất Thối—“bất thối tâm” liền biến thành “thối tâm.” Hễ sanh tâm thối chuyển th́ sẽ không c̣n ḷng hộ tŕ Phật Pháp; bấy giờ quư vị sẽ khởi những vọng tưởng như: “Ḿnh cần ǵ phải cúng dường Tam Bảo? Để Tam Bảo cúng dường cho ḿnh chẳng tốt hơn ư?” Như có những cư sĩ đ̣i hỏi Tam Bảo phải hộ pháp cho họ, đó cũng là điển h́nh của trường hợp tâm Hộ Pháp không “trụ” vậy.
Tâm Hộ Pháp không “trụ” th́ tâm hồi hướng cũng không “trụ”—không có tâm hồi hướng.
Tâm Hồi Hướng không có th́ Giới Tâm cũng chẳng “trụ,” quư vị cũng chẳng c̣n chú ư thọ tŕ Giới Luật nữa.
Và cuối cùng là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa; thế th́ c̣n phát nguyện ǵ nữa? Bấy giờ quư vị sẽ nghĩ ngợi lẩn thẩn: “Tôi không phát nguyện, không hứa hẹn điều ǵ cả. Tôi muốn thế nào th́ cứ thế ấy, tự do biết bao! Tội ǵ lập nguyện rồi chính ḿnh lại bị ràng buộc bởi lời nguyện đó? Như thế th́ g̣ bó quá, mất tự do nhiều quá!” Thế là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa.
Như vậy, mười “trụ tâm” biến thành mười “bất trụ tâm.” V́ sao quư vị lại có mười “bất trụ tâm” ư? Đó là do sự phá hoại của Ma Vương! Ma Vương chui luồn len lỏi vào mọi ngỏ ngách trong tâm quư vị, khiến tư tưởng của quư vị có sự biến chuyển.
“Tụng Chú này một biến th́ các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.” Nếu quư vị gặp phải t́nh trạng như trên, trong ḷng cảm thấy phiền năo, bứt rứt rối loạn, đó là bởi Ma Vương muốn phá hoại quư vị; bấy giờ, quư vị hăy tụng Chú Đại Bi một biến, tức th́ các quỷ thần và Ma Vương sẽ bị tóm bắt và trói gô lại.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 8 of 8: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 9:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kinh Văn:
“NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP TỤNG TR̀, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI TỪ BI TÂM GIẢ, NGĂ THỜI ĐƯƠNG SẮC NHẤT THIẾT THIỆN THẦN, LONG VƯƠNG, KIM CANG MẬT TÍCH, THƯỜNG TÙY VỆ HỘ, BẤT LY KỲ TRẮC, NHƯ HỘ NHĂN TINH, NHƯ HỘ KỶ MẠNG.”
Nghĩa: “Nếu người ấy có thể tụng tŕ đúng pháp, đối với chúng sanh khởi ḷng từ bi, th́ lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên ḿnh, như ǵn giữ tṛng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát dạy tiếp: “Nếu người ấy có thể tụng tŕ đúng pháp... ” Thứ “pháp” mà Quán Thế Âm Bồ-tát nói đến ở đây là pháp ǵ? Đó là pháp “Tứ Thập Nhị Thủ Nhăn”—pháp môn Bốn Mươi Hai Bàn Tay! Quư vị phải biết rằng: Hiện tại tôi giảng Kinh Đại Bi bởi v́ quư vị cần phải hiểu rơ mọi chỉ dẫn để có thể tu tập cho đúng pháp.
“Y pháp thọ tŕ” tức là tu tập và hành tŕ đúng theo những ǵ đă dạy trong pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhăn, và đó không phải chỉ tụng làu làu một mách từ “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da. Nam Mô A Lị Da...” cho đến hết bài Chú Đại Bi là đủ. Không phải đơn thuần như thế! Cho nên, đối với pháp môn này, quư vị cần phải được “chân truyền,” tức là phải được chính thức và thật sự truyền dạy một cách đúng đắn th́ mới được; bằng không, nếu không được chân truyền, mà chỉ toàn là nói suông và xem kinh nghĩa thôi, th́ chẳng thể nào hiểu nổi!
Vậy, nếu người tŕ tụng Chú Đại Bi chẳng những tŕ tụng đúng theo giáo pháp mà c̣n có thể “đối với chúng sanh khởi ḷng từ bi, th́ lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên ḿnh.” Ở đây, “Ta” tức là tiếng tự xưng của Quán Thế Âm Bồ-tát; Ngài nói rằng: “Lúc bấy giờ, Ta—Quán Thế Âm Bồ-tát—sẽ ra lệnh cho chư vị Thiện Thần, Long Vương, Hộ Pháp Kim Cang, Mật Tích Bồ-tát, phải luôn luôn theo sát bên ḿnh người tŕ tụng Chú Đại Bi ấy.” Như vậy tức là có tám vạn bốn ngàn vị Kim Cang Tạng Bồ-tát thường xuyên sát cánh, kề cận bên ḿnh người đó để bảo vệ.
Do đó, những người tụng tŕ Đại Bi Chú, tu tŕ Đại Bi Pháp, cần phải nhớ là không nên sanh dục niệm, chớ khởi những vọng tưởng về desire; bởi chư Hộ Pháp Thiện Thần đều theo sát bên quư vị, mà nếu tâm trí quư vị cứ lởn vởn thứ vọng tưởng đó, th́ các ngài nhận thấy: “Tên này thật là tệ, chẳng giữ ǵn quy củ ǵ cả! Thôi, ta không muốn che chở, bảo vệ hắn nữa!”
Cho nên, quư vị tu pháp th́ không được sanh vọng tưởng, không được mơ mộng nhớ nhung cô girlfriend này hay cậu boyfriend nọ! Nếu quư vị cứ mơ tưởng vẩn vơ như thế, Kim Cang Tạng Bồ-tát sẽ phải lấy bảo chùy đánh cho quư vị thức tỉnh, và quư vị nếu không đau đầu th́ cũng nhức ḿnh nhức mẩy. Cho nên, nếu quư vị bị nhức đầu hoặc cơ thể cảm thấy đau đớn khó chịu, đó có thể là do bị Kim Cang Tạng Bồ-tát trừng phạt đấy; Ngài bảo: “Nhà ngươi thật là tồi tệ, chẳng tuân giữ quy củ ǵ cả! Hư hỏng quá sức!”
Cho nên, quư vị cần phải thận trọng hơn, đừng bê bối cẩu thả nữa—không được một mặt th́ tụng Chú Đại Bi, mặt khác lại khởi tà tri tà kiến, dấy sanh vọng tưởng! Hễ tâm quư vị vừa dấy động th́ chư Bồ-tát Hộ Pháp lập tức biết được ngay; bởi các Ngài có Ngũ Nhăn Lục Thông, có thể thấy tường tận được con người của quư vị từ ngoài vào trong như nh́n xuyên qua lớp thủy tinh trong suốt vậy!
Quư vị chớ tưởng rằng: “Vô lư, các Ngài làm sao biết được những ư nghĩ thầm kín của tôi?” Nếu các Ngài không biết, th́ các Ngài đă không được tôn xưng là Phật, là Bồ-tát, là Hộ Pháp! Thế nên, quư vị chớ hoài công đánh lừa các ngài vô ích. Quư vị không được có ḷng cầu may hoặc lừng khừng: “Không sao đâu! Chỉ là vọng tưởng trong đầu mà thôi, đâu thành vấn đề!” Quư vị phải biết, cái vọng tưởng này vừa dấy khởi th́ tâm quư vị liền trở thành tâm nhiễm ô chứ không phải là tâm Đại Bi nữa!
“Như ǵn giữ tṛng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ vậy.” Chư vị Hộ Pháp sẽ che chở bảo vệ người tŕ Chú Đại Bi chẳng khác nào bảo vệ đôi mắt hoặc sanh mạng của chính các Ngài vậy.
Kinh Văn:
THUYẾT KỆ SẮC VIẾT:
“NGĂ KHIỂN MẬT TÍCH KIM CANG SĨ,
Ô SÔ QUÂN TRÀ ƯƠNG CÂU THI,
BÁT BỘ LỰC SĨ THƯỞNG CA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN MA HÊ NA LA DIÊN,
KIM TỲ LA ĐÀ CA TỲ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN BÀ CẤP TA LÂU LA,
MĂN THIỆN XA BÁT CHÂN ĐÀ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN TÁT GIÁ MA H̉A LA,
CƯU LAN ĐAN TRA BÁN CHỈ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN TẤT BÀ GIÀ LA VƯƠNG,
ƯNG ĐỨC TỲ ĐA TÁT H̉A LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.”
Nghĩa:
Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng:
“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,
Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi,
Bát Bộ Lực sĩ Thưởng Ca La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Ma Hê Na La Diên,
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La,
Măn Thiện Xa Bát Chân Đà La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Tát Giá Ma Ḥa La,
Cưu Lan Đan Tra Bán Chỉ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Tất Bà Già La Vương,
Ưng Đức Tỳ Đa Tát Ḥa La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.”
Lược Giảng:
Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng: ... Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói một bài kệ, ra lệnh cho tất cả các Thiện Thần đều phải che chở, ủng hộ người thọ tŕ Chú Đại Bi.
“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,/ Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi.” Đây là tên của các vị Kim Cang Hộ Pháp. Mỗi vị Kim Cang đều có thần lực riêng của ḿnh. Có câu “ai có sở trường nấy”—chư vị Hộ Pháp cũng vậy, vị nào cũng có sở trường hoặc đặc điểm của vị ấy.
Thí dụ, có vị Hộ Pháp th́ phát nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng Chú Đại Bi được một trăm lẻ tám (108) biến, th́ tôi sẽ thường xuyên túc trực để ủng hộ người đó; cho dù phải hy sinh tánh mạng, tôi cũng quyết bảo vệ người tŕ Chú ấy cho bằng được!”
Trong khi đó, có vị lại nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng được dù chỉ một chữ hoặc một câu của Chú Đại Bi, th́ tôi sẽ vĩnh viễn ủng hộ và bảo vệ người đó!”
Cũng có vị Hộ Pháp nguyện rằng: “Nếu có người nào, đừng nói là tụng Chú Đại Bi, cho dù chỉ nghe được danh hiệu ‘Chú Đại Bi’ thôi, th́ tôi nguyện sẽ bảo vệ và khiến cho mọi điều mong cầu của người đó đều được thành tựu, muốn ǵ được nấy.”
Tuy rằng mỗi vị Kim Cang Hộ Pháp đều lập một lời thệ nguyện khác nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều cùng chung một mục đích—đó là ǵ? Đó là ủng hộ người tŕ Chú Đại Bi, ủng hộ người nghe Chú Đại Bi, ủng hộ người có tín tâm chân chánh đối với Chú Đại Bi.
Trong Kinh có nói rằng, nếu chúng ta “c̣n sanh chút ḷng nghi, ắt không được kết quả toại nguyện”; cho nên, nếu quư vị không có tín tâm đối với Chú Đại Bi, th́ quư vị sẽ không thể có được sự thành tựu.
Có người nói rằng: “Tôi tụng Chú rất nhiều mà sao chẳng thấy linh nghiệm, chẳng thấy công hiệu ǵ cả?” Đó không phải là do Chú không công hiệu, mà là v́ quư vị thiếu đức tin, thiếu thành khẩn, đầu óc lúc nào cũng lởn vởn những ư tưởng hoài nghi: “Tại sao không linh nghiệm? Tại sao không thấy có công hiệu ǵ cả?”; v́ thế mà công hiệu ǵ, linh nghiệm ǵ cũng đều không xảy ra cả! Cho nên, nếu muốn có được sự cảm ứng chân chánh th́ thâm tâm quư vị phải hoàn toàn không c̣n mảy may hoài nghi.
Đúng ra, nếu tụng Chú Đại Bi mà không thấy hiệu nghiệm th́ quư vị phải hồi quang phản chiếu, tự hỏi chính ḿnh: “Ồ! Phải chăng v́ ḿnh thiếu thành tâm, nên mới không đạt được sự tương ưng với năng lực bất khả tư ngh́ của Chú?”
Quư vị không được nói rằng: “Chú Đại Bi không linh nghiệm, những điều giảng nói trong Chú đều là hoang đường, không có thật!” Chúng ta tuyệt đối không được có ḷng hoài nghi như thế!
Quán Thế Âm Bồ-tát nói rằng: “Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ.” “Sai” tức là sai khiến, ra lệnh. Gọi là “mật tích” (hành tung bí mật, kín đáo) bởi lẽ cho dù những vị Kim Cang Hộ Pháp này đứng ngay bên cạnh quư vị, quư vị cũng không nh́n thấy được và cũng chẳng hề hay biết. Tất cả các vị Kim Cang Lực Sĩ đều có sức mạnh phi thường.
“Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi” là tên của các vị Hộ Pháp phiên âm từ tiếng Phạn và vẫn được giữ nguyên như thế trong bài Chú chứ không phiên dịch ra, cho nên bây giờ chúng ta cũng không cần phải giải thích ư nghĩa của những tên gọi đó. Quư vị chỉ cần nhớ rằng đó là các vị Kim Cang Hộ Pháp đến để bảo vệ người tŕ tụng Chú Đại Bi, như vậy là đủ rồi! Bởi Kim Cang Tạng Bồ-tát có tới tám vạn bốn ngàn vị, rất đông đảo chứ không phải chỉ có mấy vị trên đây mà thôi đâu! Cho nên, những tên gọi này, nếu quư vị không hiểu th́ cũng không sao!
“Bát Bộ Lực Sĩ Thưởng Ca La.” “Bát Bộ” tức là Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, cùng tám bộ chúng. “Thưởng Ca La” là tên của một vị Lực-sĩ thuộc Bát Bộ.
“Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” Những vị Hộ Pháp kể trên đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải luôn luôn bảo vệ, trợ giúp những người tŕ tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Ma Hê Na La Diên.” “Ma Hê Na La Diên” chính là thiên chúng của cơi trời Ma Hê Thủ La. “Na La Diên” có nơi dịch là “đại măng xà”; tuy nhiên, bất kể đó là ai, nói chung th́ tất cả đều cùng một mục đích là hộ Pháp mà thôi.
Quán Thế Âm Bồ-tát cũng phái Ma Hê Na La Diên, cùng với các vị Hộ Pháp như “Kim Tỳ La Đà, Ca Tỳ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.”
“Ta sai Bà Cấp, Ta Lâu La.” Quán Thế Âm Bồ-tát lại nói tiếp: “Không phải chỉ có các Kim Cang Lực-sĩ nói trên mà thôi đâu, Ta c̣n ban sắc lệnh, khiến các Kim Cang Lực-sĩ, Thiện Thần Hộ Pháp là Bà Cấp, Ta Lâu La, Măn Thiện, Xa Bát, Chân Đà La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ. Họ sẽ luôn luôn kề cận để bảo vệ và giúp đỡ những người tŕ Chú Đại Bi.”
“Ta sai Tát Giá Ma Ḥa La,/ Cưu Lan, Đan Tra, Bán Chỉ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” “Đan Tra” chính là vị “Ca Tra” được nhắc đến ở câu “Ca Tra Bổ Đan Na” trong Chú Lăng Nghiêm. Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải theo dơi để bảo vệ kẻ tŕ Chú Đại Bi.
“Ta sai Tất Bà, Già La Vương,/ Ưng Đức, Tỳ Đa Tát Ḥa La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ,.” Đây là tên của các vị quỷ vương hoặc thần vương. Các vị này cũng được lệnh phải thường xuyên kề cận để che chở cho những kẻ thọ tŕ, tụng niệm Chú Đại Bi.
Kinh Văn:
“NGĂ KHIỂN PHẠM MA TAM BÁT LA,
NGŨ BỘ TỊNH CƯ DIÊM MA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN THÍCH VƯƠNG TAM THẬP TAM,
ĐẠI BIỆN CÔNG ĐỨC BÀ ĐÁT NA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN ĐỀ ĐẦU LẠI TRA VƯƠNG,
THẦN MẪU NỮ ĐẲNG ĐẠI LỰC CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
Nghĩa:
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,
Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,/ Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.”
“Phạm Ma Tam Bát La” là tên của một vị Hộ Pháp ở cơi trời; c̣n “Diêm Ma La” là tên của vị Hộ Pháp thuộc Ngũ Bộ ở cung trời Tịnh Cư. Các vị Hộ Pháp này được lệnh phải luôn luôn theo bảo vệ kẻ tụng tŕ Chú Đại Bi.
“Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,/ Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.”
“Thích Vương” tức là vua Đế Thích, Thiên Chủ của cơi trời Ba Mươi Ba.
“Đại Biện Công Đức Bà Đát Na” tức là vị Hộ Pháp có tài biện luận và công đức rộng lớn tên Bà Đát Na.
Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được Quán Thế Âm Bồ-tát phái đi phù hộ những người thành tâm tŕ tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,/ Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.”
“Đề Đầu Lại Tra Vương” là một trong bốn vị Tứ Đại Thiên Vương.
“Thần Mẫu Nữ” tức là “Quỷ Tử Mẫu” (mẹ của những quỷ con), thống lănh bộ chúng Đại Lực—các quỷ thần thuộc hạ của bà đều có sức mạnh phi thường, riêng bản thân bà th́ không.
V́ sao gọi là “Quỷ Tử Mẫu”? Ban đầu, đáng lẽ bà có thể được gọi là “Thần Tử Mẫu,” nhưng v́ bà có hành vi giống như loài quỷ—cứ đi bắt cóc con của người ta để ăn thịt—nên mới bị gọi là “Quỷ Tử Mẫu.” Nhà nào có trẻ sơ sinh là Quỷ Tử Mẫu liền tới bắt về ăn; cả trẻ con chừng hai, ba tuổi cũng bị bà bắt ăn thịt nữa. Bà Quỷ Tử Mẫu có một ngàn (1.000) đứa con trai; những đứa con nít mà bà đi khắp nơi để lùng bắt và mang về không phải chỉ một ḿnh bà mà cả bầy quỷ con cùng xúm lại chia nhau ăn.
Một hôm, chư Hộ Pháp Thiện Thần thấy hành vi của Quỷ Tử Mẫu càng ngày càng quá đáng và không đúng với giáo pháp, bèn quyết định đến bạch với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Bạch Đức Thế Tôn! Hiện nay trẻ con ở thế gian bị Quỷ Tử Mẫu bắt ăn thịt gần hết, chỉ c̣n lại một số rất ít! Nhân loại ở thế gian sắp bị tuyệt chủng tới nơi rồi; vậy chúng con phải làm ǵ bây giờ?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Không sao, việc này không phải là một vấn đề to tát lắm! Ta đă có cách giải quyết rồi!” Và thế là Đức Phật phái Mật Tích Kim Cang đi bắt đứa nhỏ nhất trong bầy quỷ con một ngàn đứa của Quỷ Tử Mẫu về và đem bỏ vào trong b́nh bát của Phật. Đức Phật lật úp cái bát lại, khiến đứa nhỏ bị nhốt trong bát, không thoát ra được.
Chú quỷ con bị nhốt một ḿnh trong bát th́ sợ hăi khóc ̣a, Quỷ Tử Mẫu nghe tiếng khóc liền nhận ra đó là tiếng đứa con út của ḿnh, bèn ra lệnh cho chín trăm chín mươi chín (999) đứa con c̣n lại đến hè nhau nhấc cái bát lên cho chú quỷ út chạy ra, nhưng không thể nào nhấc lên nổi. Thấy thế, Quỷ Tử Mẫu bèn dùng sức thần thông để lật ngửa cái bát lên, song cái bát vẫn chẳng chịu nhúc nhích.
Ban đầu Quỷ Tử Mẫu chỉ nghĩ là lén cướp lại đứa con mà thôi, nhưng bây giờ thấy cướp không được th́ chỉ c̣n cách tới hỏi thẳng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: “Tại sao Ngài lại bắt cóc con tôi và nhốt nó dưới b́nh bát của Ngài như thế? Chao ôi! Nó khóc lóc thảm thiết thế kia mà Ngài chẳng động chút ḷng từ bi nào cả ư?”
Quư vị xem, bà Quỷ Tử Mẫu này dám chỉ trích người khác là không có ḷng từ bi; thế c̣n bà ăn thịt con của người ta th́ thử hỏi bản thân bà có được chút ḷng từ bi nào chăng?
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới từ tốn hỏi lại: “À! Ngươi có đông con thế kia th́ mất đi một đứa cũng chẳng hề chi! Ngươi có tới một ngàn đứa con lận, nếu bớt đi một đứa bé này th́ có sao đâu?”
Quỷ Tử Mẫu đáp: “Không được! Tôi th́ một đứa cũng không thể thiếu được!”
Đức Phật ôn tồn hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta, thế th́ ngươi có ḷng từ bi chăng?”
Quỷ Tử Mẫu phân trần: “Tôi nào muốn như thế đâu! Ngài cho rằng tôi thích ăn thịt con nít lắm sao? Nếu không ăn th́ cái thân già nua này chịu đói không nổi! Bởi thịt trẻ con th́ mềm mại, thơm ngon vô cùng, mà răng của tôi th́ cũng không c̣n tốt cho lắm, cho nên tôi mới phải ăn thịt của chúng đấy thôi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta th́ được, c̣n Ta mới bắt một đứa con út của ngươi thôi mà ngươi đă đau khổ, cuống quưt đến thế kia! Vậy th́ ngươi nghĩ tâm trạng của những kẻ làm cha làm mẹ trong thiên hạ mà bị mất con là như thế nào?”
Quỷ Tử Mẫu vẫn bướng bỉnh: “Tôi đâu cần phải bận tâm về họ nhiều như thế! Tôi chỉ lo ăn cho no bụng ḿnh là đủ rồi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nghiêm giọng phán: “Thế ư? Nếu thế th́ Ta cũng chẳng bận tâm về chuyện của ngươi nữa! Ta chẳng cần biết là ngươi có bị mất con hay không! Ngươi có bản lănh th́ cứ đem nó về đi!”
Quỷ Tử Mẫu nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế th́ lại t́m cách lật bát, nhưng không tài nào lật lên được. Chẳng c̣n cách nào khác, Quỷ Tử Mẫu bèn đến quỳ trước mặt Đức Phật mà khóc lóc năn nỉ, thỉnh cầu Ngài mở ḷng từ bi mà thả con bà ra.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Được! Ngươi muốn Ta trả đứa con lại cho ngươi, th́ cũng được thôi! Ta không ăn thịt con của ngươi đâu, bởi v́ Ta không giống như ngươi—Ta chỉ ăn chay, cho nên, đừng nói là thịt người lớn hay con nít, bất cứ loại thịt nào Ta cũng không ăn cả!”
Quỷ Tử Mẫu nghe nói như thế th́ tự nghĩ: “Ồ! Th́ ra người này không ăn thịt!”; và thắc mắc: “Thế th́ Ngài làm sao sống được?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: “Ta đi hóa duyên các nơi, xin thức ăn chay.”
Quỷ Tử Mẫu nói: “Thế nhưng tôi biết đi đâu để hóa duyên? Ngài là Phật nên có thể đi hóa duyên; c̣n tôi th́ đâu làm như thế được. Tôi nào phải là người xuất gia!”
Đức Phật nói: “Thôi được! Nếu từ rày về sau ngươi sẵn sàng không ăn thịt trẻ con nữa, th́ Ta sẽ bảo các đệ tử của Ta mang thức ăn chay bố thí cho ngươi—miễn sao ngươi không ăn thịt trẻ con nữa là được.”
Quỷ Tử Mẫu hớn hở thưa: “Nếu tôi có thức ăn đầy đủ th́ đương nhiên là tôi khỏi ăn thịt trẻ con cũng được.”
Thế là, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thả chú quỷ con ra và trả lại cho Quỷ Tử Mẫu. Do nhân duyên này mà những người xuất gia khi thọ trai đều có lệ “thí thực.” “Thí” là bố thí, ban phát; “thực” là phạn thực, cơm ăn. Lúc thí thực, quư Thầy, Cô dành ra một ít thức ăn và xướng rằng:
Đại bàng kim xí điểu,
Khoáng dă quỷ thần chúng,
La-sát Quỷ Tử Mẫu,
Cam-lồ tất sung măn.
(Chim đại bàng cánh vàng,
Quỷ thần nơi khoáng dă,
Mẹ con quỷ La-sát,
Đầy đủ nước cam-lồ.)
Rồi họ tụng một bài Chú và mấy mẹ con của bà Quỷ Tử Mẫu thảy đều có được thức ăn no đủ, không c̣n bị đói khát và do đó không phải ăn thịt con nít nữa.
Cho nên, chúng ta nhờ không bị Quỷ Tử Mẫu ăn thịt nên bây giờ mới c̣n sống và lớn lên cao ráo, khỏe mạnh, lại có được cơ hội học hành, làm việc. Nếu không nhờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa được Quỷ Tử Mẫu, th́ e rằng nhân loại trên thế giới sẽ không được đông đúc như hiện nay. Ngoài ra, từ đó Quỷ Tử Mẫu chẳng những không ăn thịt con nít mà c̣n trở thành kẻ hộ Pháp đắc lực cho Phật Giáo nữa.
Vậy, khi có người chuyên tâm và theo đúng như giáo pháp mà tŕ tụng Chú Đại Bi, th́ Quán Thế Âm Bồ-tát gọi Quỷ Tử Mẫu và bảo rằng: “Này Quỷ Tử Mẫu, đă đến lúc ngươi có thể tạo đôi chút công đức rồi đó. Có người đang thọ tŕ Chú Đại Bi này của Ta, vậy ngươi hăy mau mau đi bảo vệ người ấy.” Thế là Quỷ Tử Mẫu liền thống lănh một ngàn đứa con trai lực lưỡng, khỏe mạnh, cùng nhau đi hộ Pháp, cho nên nói là “cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.”
Kinh Văn:
“NGĂ KHIỂN TỲ LÂU LẶC XOA VƯƠNG,
TỲ LÂU BÁC XOA TỲ SA MÔN.
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN KIM SẮC KHỔNG TƯỚC VƯƠNG,
NHỊ THẬP BÁT BỘ ĐẠI TIÊN CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN MA-NI BẠT ĐÀ LA,
TÁN CHI ĐẠI TƯỚNG PHẤT LA BÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN NAN ĐÀ, BẠT NAN ĐÀ,
BÀ GIÀ LA LONG Y BÁT LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN TU LA, CÀN THÁT BÀ,
CA LÂU, KHẨN NA, MA HẦU LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.
NGĂ KHIỂN THỦY HỎA LÔI ĐIỆN THẦN,
CƯU BÀN TRÀ VƯƠNG, TỲ XÁ XÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TR̀ GIẢ.”
Nghĩa:
“Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương,
Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương,
Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La,
Tán Chi Đại Tướng, Phất La Bà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà,
Bà Già La Long, Y Bát La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà,
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.
Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần,
Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” Đây đều là tên của các vị Hộ Pháp Thần Vương của Tứ Đại Thiên Vương. Các vị này từng giây từng khắc theo bảo vệ người tŕ tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng, Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” “Khổng Tước Vương” chính là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng). “Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng” tức là “nhị thập bát tú”—hai mươi tám v́ tinh tú. Lúc giảng Kinh Lăng Nghiêm tôi đă giảng cho quư vị nghe cả rồi.
“Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái Ma Ni Bạt Đà La cùng Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, vốn là những vị Kim Cang Hộ Pháp, đến ủng hộ người tŕ Chú Đại Bi.
“Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, Bà Già La Long, Y Bát La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” Nan Đà và Bạt Nan Đà đều là những vị Long Vương; c̣n Bà Già La Long và Y Bát La là Hộ Pháp của Long Vương.
“Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái A Tu La cùng với Nhạc Thần Càn Thát Bà của Ngọc Đế, và luôn cả Ca Lâu Na, Khẩn Na La, Ma Hầu La thuộc Thiên Long Bát Bộ, tất cả phải thường xuyên theo phù hộ người tŕ tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà, Thường theo ủng hộ kẻ thọ tŕ.” “Thủy, hỏa, lôi điển thần” tức là thủy thần (thần nước), hỏa thần (thần lửa), lôi thần (thần sấm) và điển thần (thần sét). Cưu Bàn Trà và Tỳ Xá Xà vốn là quỷ, nay đều biến thành kẻ hộ pháp và cùng nhau bảo vệ người tŕ Chú. Cho nên, quư vị chỉ cần niệm Chú Đại Bi th́ ngay cả ma cũng đến hộ pháp cho quư vị.
Kinh Văn:
“THỊ CHƯ THIỆN THẦN, CẬP THẦN LONG VƯƠNG, THẦN MẪU NỮ ĐẲNG, CÁC HỮU NGŨ BÁCH QUYẾN THUỘC ĐẠI LỰC DẠ XOA, THƯỜNG TÙY ỦNG HỘ TỤNG TR̀ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ.”
Nghĩa: “Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người tŕ tụng Thần Chú Đại Bi.”
Lược giảng:
“Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc.” Tất cả các vị thiện thần hộ Pháp kể trên—Thiên Long Bát Bộ, Tứ Thiên Vương, cùng hết thảy long chúng, quỷ chúng, thần chúng, và hết thảy Kim Cang Lực Sĩ, thần Long Vương, thần Mẫu Nữ, ...—mỗi một vị đều có năm trăm quyến thuộc. Những quyến thuộc ấy toàn là quỷ Đại Lực Dạ Xoa và tất cả đều “thường theo ủng hộ người tŕ tụng Thần Chú Đại Bi.”
Kinh Văn:
“KỲ NHÂN NHƯỢC TẠI KHÔNG SƠN KHOÁNG DĂ, ĐỘC TÚC CÔ MIÊN, THỊ CHƯ THIỆN THẦN, PHIÊN ĐẠI TÚC VỆ, TÍCH TRỪ TAI CHƯỚNG.
NHƯỢC TẠI THÂM SƠN, MÊ THẤT ĐẠO LỘ, TỤNG THỬ CHÚ CỐ, THIỆN THẦN LONG VƯƠNG, HÓA TÁC THIỆN NHÂN THỊ KỲ CHÁNH ĐẠO.
NHƯỢC TẠI SƠN LÂM KHOÁNG DĂ, PHẠT THIỂU THỦY HỎA, LONG VƯƠNG HỘ CỐ, HÓA XUẤT THỦY HỎA.”
Nghĩa: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dă ngủ nghỉ một ḿnh, các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ, ngăn trừ tai chướng; nếu ở nơi thâm sơn quên đường lạc lối, tụng tŕ Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về; nếu ở nơi núi rừng khoáng dă, thiếu thốn nước lửa, Long Vương v́ ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dă ngủ nghỉ một ḿnh...” “Không sơn” tức là nơi vắng vẻ, không có người ở. “Khoáng dă” là nơi rất hoang vu, rất ít người lai văng. Như vậy, giả sử người tŕ Chú Đại Bi đó sống đơn độc một ḿnh ở chốn núi rừng hoang vắng để tu hành, th́ “các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ.”
“Thay phiên (phiên đại)” tức là luân phiên, lần lượt thay phiên nhau. Chẳng hạn vị thiện thần này tức trực bảo vệ trong hai tiếng đồng hồ, sau đó có vị khác đến thay thế; vị mới đến này canh gác được hai tiếng đồng hồ th́ lại có một vị khác nữa đến gác thay. Hoặc là, vị rồng này đến túc trực bảo vệ được hai giờ đồng hồ th́ có vị thần đến bảo: “Hết phiên của ngài rồi, ngài hăy về nghỉ đi. Bây giờ đến lượt tôi bảo vệ người này!” Rồi hai tiếng đồng hồ sau th́ có thể là đứa con trai lớn của Quỷ Tử Mẫu xuất hiện và nói: “Hết phiên trực của ngài rồi đấy, chắc ngài cũng tired lắm rồi. Ngài hăy về nghỉ ngơi đi, tôi sẽ ở đây tiếp tục bảo vệ người này!” Đó gọi là “phiên đại túc vệ,” tức là thay phiên nhau túc trực để sẵn sàng bảo vệ người tŕ Chú Đại Bi.
“Ngăn trừ tai chướng.” Người tŕ Chú Đại Bi đó nếu có tai nạn ǵ th́ đều được tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, b́nh an vô sự; nếu có chướng ngại ǵ th́ cũng được hóa giải, không thể xảy ra.
“Nếu ở nơi thâm sơn mà quên đường lạc lối, tụng tŕ Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về.” Giả sử quư vị đi vào sâu trong núi và bị lạc đường, mất phương hướng, không phân biệt được đông tây nam bắc là đâu với đâu; lại thêm cây cối um tùm rậm rạp che khuất ánh sáng mặt trời, khiến cho quư vị càng thêm hoang mang bối rối, không biết phải theo hướng nào mà đi cho đúng. Bấy giờ, nếu quư vị có thể tụng niệm Chú Đại Bi th́ chư thiện thần cùng Long Vương sẽ biến thành người để chỉ đường cho quư vị: “Hăy đi về phía này!” và dẫn đường cho quư vị.
“Nếu ở nơi núi rừng khoáng dă, thiếu thốn nước lửa, Long Vương v́ ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.” Giả sử người tŕ tụng Chú Đại Bi phải ở chốn thâm sơn cùng cốc, hoang vu vắng vẻ, chịu thiếu thốn mọi bề, hoàn toàn không có nước và cũng chẳng có lửa, th́ Long Vương v́ muốn bảo vệ và giúp đỡ người đó, sẽ biến hóa ra nước và lửa cho người đó dùng.
Bây giờ tôi tổng hợp bài Chú Đại Bi, tóm tắt ư nghĩa toàn bài bằng bốn câu kệ như sau:
Đại Bi Đại Chú thông địa thiên,
Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan,
Đại bi đại từ năng khử bệnh,
Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.
(Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất,
Ngàn ngày trăm biến, mười vua vui,
Đại từ đại bi trừ bệnh tật,
Gương nghiệt soi tới, biển treo cao!)
“Đại Bi Đại Chú thông địa thiên” (Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất). Ở đây có Đại Chú đại từ đại bi, vốn là “Chú trung chi vương” (vua trong các loại Chú), thông thiên triệt địa, suốt trời thấu đất. Một khi quư vị niệm Chú Đại Bi th́ các vị thần ở cơi trời đều kính cẩn đến lắng nghe. Cả các loài quỷ cũng vậy, ai nấy đều cung kính chắp tay và quỳ xuống yên lặng lắng nghe quư vị tụng Chú Đại Bi. V́ sao Chú Đại Bi có công năng hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại đạo? Bởi v́ bè lũ thiên ma ngoại đạo hễ nghe tới Chú Đại Bi th́ chẳng khác nào nhận được hiệu lệnh, tất cả đều phải răm rắp y theo mệnh lệnh mà thi hành.
“Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan” (ngàn ngày trăm biến, mười vua vui). Một ngàn ngày tức là ba năm. Nếu quư vị mỗi ngày có thể tụng Chú Đại Bi đủ một trăm lẻ tám (108) biến, và cứ đều đặn tụng niệm như thế trong ba năm—hoặc là mỗi ngày tụng một ngàn biến và tụng suốt ba năm th́ càng tốt hơn nữa—th́ Thập Điện Diêm Quân (mười vua Diêm La cai quản mười điện) ở địa ngục sẽ sanh ḷng hoan hỷ, và bảo rằng: “Hay lắm! Người này đang tu Chú Đại Bi!” Nếu có thể tu pháp Đại Bi, niệm Chú Đại Bi một trăm lẻ tám biến, đồng thời lại có thể tu pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhăn nữa, th́ sẽ được rất nhiều lợi ích, công hiệu gấp bội,
“Đại bi đại từ năng khử bệnh” (đại từ đại bi trừ bệnh tật). Như tôi đă nói ở phần trước, trên thế gian này có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh, nếu quư vị thành tâm tŕ niệm Chú Đại Bi th́ đều trị lành được cả.
“Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền” (gương nghiệt soi tới, biển treo cao). Trong địa ngục, ở chỗ của Thập Điện Diêm Quân có một đài gương, trên đó đặt một tấm gương soi, gọi là “nghiệt kính đài” (đài gương soi tội). V́ sao gọi là “nghiệt kính đài”? Khi đọa địa ngục, nh́n vào gương soi tội này th́ quư vị sẽ thấy hiện lên tất cả những tội nghiệt mà ḿnh đă gây tạo lúc c̣n sống. Mọi hành vi, việc làm của quư vị đều hiện ra trong gương—rơ ràng từng cảnh mục, từng chi tiết, chẳng khác nào trên màn ảnh xi-nê vậy. Chẳng hạn trước kia quư vị đă từng giết người, th́ trong gương sẽ hiện rơ cảnh giết chóc đó. Quư vị hoặc là đă từng ăn trộm ăn cướp, làm điều bất chánh, ăn gian nói dối, rượu chè cờ bạc... nhất nhất mọi hành vi của quư vị trước đây đều hiện ra đầy đủ trong tấm “nghiệt kính,” chẳng sót điều ǵ.
Nếu quư vị là người tŕ tụng Chú Đại Bi th́ khi dùng nghiệt kính để soi sẽ không thấy hiện lên ǵ cả, bởi mọi tội nghiệt mà quư vị gây ra đều đă tiêu tan, không c̣n nữa. Bấy giờ, trong địa ngục sẽ treo cho quư vị một tấm biển, trên đó có viết rằng: “Tất cả quỷ thần đều phải cung kính, tôn trọng người này. Đây là một người thọ tŕ Chú Đại Bi.” Và đó là ư nghĩa của câu “nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.”
____________Chinese version, page 150-157******
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|