Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 195 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Bói Dịch (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Bói Dịch
Tựa đề Chủ đề: Lạc Thư Hoa Giáp Tiếp Theo Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 1 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:47am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Anh Thiên Sứ thân,

Để cho anh thấy rơ về luận cứ Ngũ Hành Nạp Âm Cổ Nhân để lại, tôi xin trích lại phần tóm tắt mà tôi đă viết cho Báo Xuân năm Canh Th́n. (Bài này đă đăng lại trong Mục của Không Kiếp Minh Tâm trên Diễn Đàn)

LUẬN CAN CHI NGŨ HÀNH NẠP ÂM

Thiết tưởng người Việt Nam hầu như ai cũng biết Hành tuổi của năm Mệnh ḿnh sinh. Thế nhưng số người biết được 12 con vật, Can Chi và Nạp Âm (tức Hành Mệnh) của tuổi ḿnh do đâu mà có th́, toàn nước Việt Nam (luôn cả những nhà chuyên môn nghiên cứu bói toán) có thể đếm được trên đầu ngón tay hoặc ít hơn.

Tại sao vậy?
Điều nầy cũng không trách được v́ những sách vỡ quư báu của nước ta đă bị người Tàu mang đốt sạch c̣n đâu. Đến như cụ Lê Quư Đôn là người tài ba lỗi lạc và cũng là một trong những vị Tổ của môn Tử Vi ở nước ta mà c̣n truy nguyên chưa được lựa là hậu thế. Mặt khác, cũng có thể là người Việt Nam cho rằng việc ấy không quan trọng chăng?! Thiển nghĩ, biết được căn nguyên của Can Chi và Hành Mệnh xuất phát từ đâu cũng là việc chẳng phải hoàn toàn vô bổ, nên nhân dịp Tết Không Kiếp Minh Tâm xin chia xẻ để quư vị độc giả tham khảo vậy.
Bắt đầu, xin tuần tự giải thích như sau:

Sách Chu Lễ nói về: “danh hiệu của 10 Nhật, danh hiệu của 12 Thời, danh hiệu của 12 Nguyệt, danh hiệu của 12 Tuế, danh hiệu của 28 Tinh Tú” mà về sau Trịnh Huyền giải thích rằng: “Nhật bảo rằng từ Giáp đến Quư; Thời bảo rằng từ Tí đến Hợi; tháng bảo rằng từ Châu đến Đồ; Tuế bảo rằng từ Nhiếp Đề Cách đến Xích Phấn Nhược; Tinh Tú bảo rằng từ Giác đến Chẩn”. Thời xưa người ta dùng đó để mà ghi chép năm tháng ngày giờ thành lịch.

Sách Nhĩ Nhă giải thích rộng thêm rằng: “Nguyệt Dương (biệt danh của lịch xưa dùng 10 Can để ghi chép tháng), nguyệt tại Giáp gọi là Tất, tại Ất gọi là Quất, tại Bính gọi là Tu, tại Đinh gọi là Ngữ, tại Mậu gọi là Lệ, tại Kỷ gọi là Tắc (quy tắc), tại Canh gọi Trất, tại Tân gọi là Tắc (bít, lấp), tại Nhâm gọi là Chung, tại Quư gọi là Cực. Nguyệt Danh (biệt danh để ghi chép tháng trong nông lịch—vụ mùa) tháng Giêng là Châu, tháng Hai là Như, tháng Ba là Mị, tháng Tư là Trừ, tháng năm là Niết, tháng Sáu là Thả, tháng Bảy là Tương, tháng Tám là Tráng, tháng Chín là Nguyên tháng Mười là Dương, tháng Mười Một là Cô, tháng Chạp là Đồ. Tuế Dương (biệt danh của lịch xưa lấy 10 Can để ghi chép năm) Thái Tuế tại Giáp gọi là Phùng Át, tại Ất gọi là Chiêu Mông, tại Bính gọi là Nhu Triệu, tại Đinh gọi là Cường Ngữ, tại Mậu gọi là Trước Ung, tại Kỷ gọi là Đồ Duy, tại Canh gọi là Thương Chương, tại Tân gọi là Trùng Quang, tại Nhâm gọi là Huyền, tại Quư gọi là Chiêu Dương. Tuế Danh (biệt danh của lịch xưa lấy 12 Địa Chi phối với Thái Tuế để ghi năm) Thái Tuế tại Dần gọi là Nhiếp Đề Cách, tại Măo gọi là Đơn Át, tại Th́n gọi là Chấp Từ, tại Tỵ gọi là Đại Hoang Lạc, tại Ngọ gọi là Đơn Ưu Tường, tại Mùi gọi là Hiệp Hiệp, tại Thân gọi là Quân Than, tại Dậu gọi là Tác Ngạc, tại Tuất gọi là Yên Mậu, tại Hợi gọi là Đại Uyên Hiến, tại Tí gọi là Khốn Đôn, tại Sửu gọi là Xích Phấn Nhược”.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 2 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:48am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Sách Thái Ung “Độc Đoán” nói rằng: “Can là cán (thân) vậy, tên nó có mười ấy là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỹ Canh Tân Nhâm Quư. Chi là cành nhánh vậy, tên nó có mười hai ấy là Tí Sửu Dần Măo Th́n Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi”.
Sách Lễ Kư “Nguyệt Lệnh” nói rằng: “Tháng Xuân lấy Giáp Ất làm đại biểu; tháng Hạ lấy Bính Đinh; tháng Tứ Quư (3,6,9,12) lấy Mậu Kỷ làm đại biểu; c̣n tháng Thu lấy Canh Tân; tháng Đông th́ lấy Nhâm Quư”.
Sách Sử Kư “Luật Thư” nói rằng: “Thất chính 28 xá luật lịch trời v́ thế thông khí của ngũ hành bát chính, trời v́ thế thành thục vạn vật. Xá nầy chỗ của nhật nguyệt trú. Xá nầy là khí thư dăn ra”.

Chỗ mà sách Sử Kư gọi Bát Chính là khí của tám Tiết đem ứng với gió của tám phương. Gió của tám phương là: Bất Chu Phong, Quảng Mạc Phong, Điều Phong, Minh Thứ Phong, Thanh Minh Phong, Cảnh Phong, Lương Phong, và Xương Hạp Phong.
- Điều Phong đóng ở Đông Bắc, chủ xuất ra vạn vật, hướng về Nam đến ở Tú Cơ. Ở mười hai luật là Thái Thốc, ở thời lệnh là tháng Giêng, ở mười hai chi là Dần. Vạn vật tranh nhau nẫy mầm. Lại hướng Nam đến ở Vĩ, ở Pḥng. Vạn vật sinh sớm nay đă đến kỳ có hoa như vậy có thể xem thấy được.
- Minh Thứ Phong đóng ở phương Đông. Ở mười hai luật là Giáp Chung, ở thời lệnh là tháng Hai, ở mười Can là Giáp Ất, ở mười hai chi là Măo. Thời đó vạn vật xuất ra hết tận, mười phần sum sê tươi tốt. Minh Thứ Phong hướng Nam đến ở Tú Đê, lại đến ở Tú Cang, Tú Giác. Ở mười hai luật là Cô Tẩy, ở thời lệnh là tháng Ba, ở mười hai Chi là Th́n. Thời đó vạn vật bỏ cũ, theo mới, tươi sáng, cao vút, rắn rỏi.
- Thanh Minh Phong đóng ở góc Đông Nam, thúc đẩy vạn vật hướng Tây phát triển. Đầu tiên đến ở Chẩn của phương Tây, lại đến ở Dực. Ở mười hai luật là Trọng Lữ, mười hai Chi là Tỵ. Thời đó vạn vật vượng thịnh, lớn mạnh, Dương khí phát triển đạt đến cực điểm. Thanh Minh Phong lại hướng Tây đến ở bảy sao của tú Tinh, Liễu. Ở mười hai luật là Nhuy Tân, ở thời lệnh là tháng Năm. Thời đó vạn vật từ thịnh chuyển thành suy, Dương khí trú xuống bên dưới.
- Cảnh Phong đóng ở Phương Nam. Ở mười hai Chi là Ngọ, Mười Can là Bính Đinh. Âm Dương giao nhau, Dương khí giáng xuống, Âm khí thăng lên, vạn vật sắp thành thục.
- Lương Phong đóng ở góc Tây Nam, chủ về đất. Ở mười hai luật là Lâm Chung, ở mười hai Chi là Mùi. Thời đó vạn vật thành thục, giàu có, vị ngon. Hướng Bắc tiến đến Phạt, lại đến ở Sâm. Ở mười hai luật là Di Tắc, ở thời lệnh là tháng Bảy, ở mười hai Chi là Thân. Thời đó, Âm khí dần dần thịnh, mở đầu. Thân là giặc của vạn vật, lại lớn mạnh đến Trọc, kế đến ở Lưu. Ở thời lệnh là tháng Tám, mười hai luật là Nam Lữ, mười hai Chi là Dậu. Thời đó vạn vật đều tiếp xúc với đất chết, Dương khí càng suy, mở đầu phục tàng.
- Xương Hạp Phong đóng ở phương Tây. Ở mười Can là Canh Tân. Hướng Bắc đến ở Vị, lại đến ở Lâu, đạt tới Khuê. Ở mười hai luật là Vô Sạ, ở thời lệnh là tháng Chín, ở mười hai Chi là Tuất. Thời đó vạn vật tận diệt, thu tàng nhập vào khố, Âm khí vượng thịnh, Dương khí không dư. Nhưng vạn vật theo Dương đến hết, lại thuận theo âm mà khởi, không hết hẳn, không dừng hẳn, không đứng lại.
- Bất Chu Phong đóng ở Tây Bắc chủ sát sinh, nhưng hướng về phương Đông hành tiến th́ chủ mở đầu sinh khí. Nó hướng Đông đến ở Tú Thất lại đến ở Tú Nguy (chủ đổ nát). Ở mười hai luật là Ứng Chung. Ở thời lệnh là tháng Mười. Ở mười hai con là Hợi. Thời đó Dương khí đă bắt đầu sinh nhưng lại là mười phần c̣n nhỏ yếu, không kham nổi dùng vào việc, v́ vậy nên vẫn c̣n phục tàng ở dưới.
- Quảng Mạc Phong đóng ở phương Bắc, hướng Đông đến ở Hư, lại đến ở sao Vụ Nữ. Ở mười hai luật là Hoàng Chung, ở thời lệnh là tháng Mười Một, ở mười hai Chi là Tí, ở mười Can là Nhâm Quư. Thời đó Dương khí lớn lên, vạn vật nhận sự nuôi dưỡng ở dưới giống như tháng Mười hoài thai, giáng sinh cũng có thể phán đoán được. Quảng Mạc Phong lại hướng Đông đến ở Khiên Ngưu lại đến ở Kiến. Ở thời lệnh là tháng Chạp, ở mười hai luật là Đại Lữ, ở mười hai Chi là Sửu. Thời đó vạn vật đă tự dưỡng thành h́nh, nhưng vẫn c̣n chưa phá đất mà xuất ra.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 3 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:49am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Trên đây là nghĩa lư và nguyên lư mà người ta cho rằng mười Thiên Can và mười hai Địa Chi từ đó lưu hành. C̣n mười hai con vật tượng của Tí là chuột, Sửu là trâu, Dần là cọp, Măo là mèo, Th́n là rồng, Tỵ là rắn, Ngọ là Ngựa, Mùi là Dê, Thân là khỉ, Dậu là gà, Tuất là chó, Hợi là heo, th́ được giải thích như sau.

“Tinh Lịch Khảo Nguyên” nói rằng:
- Thuyết nói về 12 con vật Cầm Tinh đă có từ rất lâu rồi, không rơ từ đâu lại (sự thật đến từ Tây Vực). Theo từ sự lưu truyền chép lại ở Tí sử khảo xét vễ văn hiến, th́ từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đă có thuyết nầy. Cho đến 28 tú phối với cầm tượng th́ là từ Nguyên Minh về sau mới có việc đó. Quan sát về việc chọn “tượng” đó, chẳng qua là nhân 12 con vật cầm tinh mà khuếch rộng ra thôi. Tại sao mà biết được? Phép nầy lấy Tí Ngọ Măo Dậu làm bốn trọng cung, mỗi cung quản ba tú, được 12 tú.
Như cung Tí là 3 tú Nữ Hư Nguy, tú Hư đóng ở giữa v́ vậy lấy chuột làm tượng của ḿnh. Nữ là bức (con dơi), Nguy là yến th́ chọn nó tựa giống chuột đem phối vào.
Cung Măo là Đê Pḥng Tâm, Đê là lạc (con chồn), Tâm là hồ (cáo), Phong ở giữa là thỏ nên lấy thỏ làm tượng của ḿnh (nhưng Việt Nam để mèo v́ gần cọp vậy).
Cung Ngọ là Liễu Trinh Trương. Liễu là chương (con hoẵng), Trương là lộc (hươu), Trinh ở giữa là ngựa nên lấy ngựa làm tượng của ḿnh.
Cung Dậu là Vị Măo Tất. Vị là con trĩ, Tất là con quạ, Măo ở giữa là con gà nên lấy gà làm tượng của ḿnh.
Qua đến 8 cung Dần Thân Tỵ Hợi, Th́n Tuất Sửu Mùi th́ mỗi cung quản 2 tú, mà lấy tú ở gần cung giữa làm chủ, đóng ở bên th́ chọn loài nào tương tự phối vào.
Như cung Th́n, Cang gần giữa cung v́ vậy lấy rồng làm tượng của ḿnh. Giác đóng ở bên nó th́ chọn Giao (thuồng luồng) là loại rồng đem phối vào.
Cung Dần, vĩ ở gần giữa cung v́ vậy lấy hổ làm tượng của ḿnh. Cơ đóng ở bên nó th́ chọn con báo là loài của hổ đem phối vào.
Cung Sửu, Ngưu ở gần giữa cung v́ vậy lấy trâu làm tượng của ḿnh. Đẩu ở bên nó th́ chọn Hải là loại của trâu đem phối vào.
Cung Hợi, Thất ở gần giữa cung v́ vậy lấy lợn làm tượng của ḿnh, Bích đóng ở bên nó th́ chọn Dữ là loài của lợn đem phối vào.
Cung Tuất, Lâu ở gần giữa cung v́ vậy lấy cẩu làm tượng của ḿnh, Khuê ở bên nó th́ chọn lang (chó sói) là loài của chó đem phối vào.
Cung Thân, Chủy ở gần giữa cung v́ vậy lấy hầu (con khỉ) làm tượng của ḿnh, Sâm đóng ở bên nó th́ chọn viên (con vượng) là loài của khỉ đem phối vào.
Cung Mùi, Quỷ ở gần giữa cung v́ vậy lấy dê làm tượng của ḿnh, Tỉnh đóng ở gần bên nó th́ chọn ngạn là loại của dê đem phối vào.
Cung Tị, Dực ở gần giữa cung v́ vậy lấy xà (rắn) làm tượng của ḿnh, Chẩn đóng ở bên nó th́ chọn dẫn (con giun đất) là loài của rắn đem phối vào vậy”.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 4 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:50am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Theo “Tinh Lịch Khảo Nguyên” th́ thuyết 12 con vật tượng trưng cho 12 Địa Chi (tuổi) thật là hết sức sáng tỏ vậy! Tuy nhiên, đây chỉ là bước thứ hai, v́ vẫn chưa giải quyết được Nạp Âm của tuổi, tức là Ngũ Hành của 60 hoa Giáp. Tỷ như Giáp Tí là Hải Trung Kim, v́ sao Giáp là Mộc mà hợp với Tí là Thủy lại trở thành Hải Trung Kim?!

Nạp Âm là ǵ mà người Việt Nam ta xưa nay vẫn xem là điều huyền bí không thể giải thích vậy nhỉ? Nạp Âm theo như đại đa số cho rằng một Thiên Can mang một Hành, một Địa Chi mang một hành, nhưng hai cái hợp lại th́ trở thành một Hành khác. Thế nhưng hầu như từ xưa đến nay không có sách Việt Nam nào dám nhắc tới nguyên lư của sự h́nh thành Nạp Âm cả. Trong "Vân Đài Loại Ngữ" cụ Lê Quư Đôn cũng chỉ dẫn được sách "Thụy Quế Đường Hạ Lục" là hết. May thay, trong “Hiệp Kỷ Biện Phương Thư” lại thấy tra xét căn nguyên của Nạp Âm rơ ràng mạch lạc làm sao. Nay xin chép lại nguyên văn để đọc giả cùng khảo cứu vậy.

Thẩm Quát nói: “Nạp Âm lục thập Giáp Tí, rất ít người biết nguyên lư của nó. Sự thực là phép của 60 luật lữ cung nhằm làm cung pháp. Một luật hàm 5 âm, 12 luật tức nạp 60 âm. Phàm Dương ‘Khí’ bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, Âm ‘Khí’ khởi từ phương Tây mà đi về bên trái, Âm Dương đan xen nhau mà sinh biến hóa. Chỗ gọi là khí bắt đầu ở phương Đông nầy là bốn mùa bắt đầu ở Mộc, đi về bên phải chuyển tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Thổ, Thổ chuyển tới ở Kim, Kim chuyển tới ở Thủy. Chỗ bảo rằng Âm bắt đầu ở phương Tây nầy là Ngũ Âm bắt đầu ở Kim, chuyển xoay về bên trái tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Mộc, Mộc chuyển tới Thủy, Thủy chuyển tới Thổ (Nạp Âm với Nạp Giáp của Dịch cùng một phương pháp, Càn nạp Giáp mà Khôn nạp Quư, bắt đầu ở Càn mà chung hết ở Khôn. Nạp Âm bắt đầu ở Kim – Kim là Càn vậy, chung ở Thổ – Thổ là Khôn vậy). Phương pháp cơ bản của Nạp Âm là cùng loại với ‘thú thê’ (lấy vợ) cách tám sinh con. Thứ tự của Ngũ Hành Nạp Âm là trước trọng sau mạnh, mạnh rồi mới đến quư. Tam nguyên của Độn Giáp đă ghi chép như thế vậy. Giáp Tí là trọng của Kim (Thương của Hoàng Chung), lấy vợ cùng vị tức là Ất Sửu (Thương của Đại Lữ cùng ngôi vị). Bảo rằng là loại của Giáp với Ất, Bính với Đinh. Ở dưới đều phỏng theo thế. Cách tám sinh ra Nhâm Thân ở dưới là mạnh của Kim (Thương của Di Tắc), cách tám đó là Đại Lữ sinh ra Di Tắc vậy. Ở dưới đều phỏng theo thế. Nhâm Thân lấy vợ cùng một ngôi vị là Quư Dậu (Thương của Nam Lữ). Cách tám, Canh Th́n sinh ra ở trên quư của Kim (Thương của Cô Tẩy), như thế tam nguyên của Kim hết.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 5 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:51am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Nếu chỉ lấy thời Dương mà nói th́ dựa vào Độn Giáp chuyển thuận: trọng-mạnh-quư. Nếu kiêm nói về vợ th́ nghịch chuyển : mạnh-trọng-quư. Canh Th́n lấy vợ Tân Tỵ cùng ngôi vị (Thương của trọng lữ), cách tám ở dưới sinh Mậu Tí, trọng của Hỏa (Chủy Kim của Hoàng Trung). Tam nguyên hết th́ đi về bên trái chuyển tới phương Nam, Hỏa Mậu Tí - Kỷ Sửu (Chủy của Đại Lữ) sinh ra Bính Thân, mạnh của Hỏa (Chủy của Di Tắc) Bính Thân lấy vợ Đinh Dậu (Chủy của Nam Lữ) sinh Giáp Th́n, quư của Hỏa (Chủy của Cô Tẩy), Giáp Th́n lấy vợ Ất Tỵ (Chủy của Trọng Lữ) sinh Nhâm Tí, trọng của Mộc (Giác của Hoàng Chung). Tam nguyên Hỏa hết th́ đi về bên trái chuyển tới phương Đông Nam – Mộc. Như đi về bên trái đến Đinh Tỵ là Cung của Trọng Lữ ngũ âm hết lần một. Quay lại từ Giáp Ngọ, trọng của Kim, lấy vợ Ất Mùi, cách tám sinh Nhâm Dần. Giống như phép của Giáp Tí th́ hết ở Quư Hợi (gọi là Nhuy Tân lấy vợ Lâm Chung, trên sinh ra loại của Thái Thốc). Tí đến Tỵ là Dương, v́ vậy từ Hoàng Chung đến Trọng Lữ, đều là hạ sinh. Từ Ngọ đến Hợi là Âm, v́ vậy từ Lâm Chung đến Ứng Chung đều thượng sinh”.

“Lăi Hải Tập” nói: “Cho nên vạn vật mới sinh nở tất nguồn gốc ở “Khí”, khí tức Kim. Kim thụ khí, thuận hành th́ là Thể của Ngũ Hành, nghịch hành th́ là Dụng của Ngũ Hành. Thuận hành là Thể của Ngũ Hành, lấy tương sinh làm thứ tự v́ vậy dựa theo thứ tự làm Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ. Nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành, đem phù trợ làm gốc. Như Kim nhân Hỏa bắt đầu mà có thể thành hữu dụng, Hỏa tất bắt đầu từ Mộc mới có thể phát sinh, Mộc không có Thủy tức không đước phong phú tốt tươi, Thủy hẳn thác gửi vào Thổ mới có thể dừng mà tích giữ được thành sông nước, v́ vậy thứ tự đó là Kim Hỏa Mộc, Thủy Thổ. Cho nên Đại Náo (sau cuộc đại tạo) tạo ra Giáp Tí, tức lấy như thế làm thứ tự của Nạp Âm Ngũ Hành. Đại để như vậy v́ Kim có thể thu nhận tiếng mà truyền bá khí ra. Phép nầy là: Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám sinh con, con sinh cháu mà đi tiếp về sau, kế tục ngôi vị của nó ở đời tiếp. Như Giáp Tí là Kim, Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám sinh Nhâm Thân là con. Nhâm lấy Quư làm vợ, cách tám là Canh Th́n tức là cháu. Canh lấy Tân làm vợ, cách tám là Mậu Tí đời Hỏa ngôi vị Kim. Thứ hai nói về Hỏa, Mậu kế tục nó về sau. Mậu lấy Kỷ làm vợ, cách tám là Bính Thân, ấy là con vậy; Bính lấy Đinh làm vợ, cách tám là Giáp Th́n, tức là cháu. Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám là Nhâm Tí, đó là ngôi vị đời Mộc. Thứ ba gọi là Mộc, Nhâm kế tục đời nó. Nhâm lấy Quư làm vợ, cách tám làm Canh Thân, ấy là con vậy. Canh lấy lấy vợ Tân, cách tám là Mậu Th́n, ấy là cháu vậy. Mậu lấy vợ Kỷ cách tám là Bính Tí, đó là ngôi vị đời Thủy. Thứ tư gọi là Thủy, Bính kế tục sau nó, Bính lấy vợ Đinh, cách tám là Giáp Thân, ấy là con vậy. Giáp lấy vợ Ất, cách tám là Nhâm Th́n, ấy là cháu vậy. Nhâm lấy vợ Quư, cách tám là Canh Tí, đó là ngôi vị đời Thổ. Thứ năm gọi là Thổ. Canh lấy vợ Tân, cách tám là Mậu Thân, ấy là con vậy. Mậu lấy vợ Kỷ, cách tám là Bính Th́n, ấy là cháu vậy. Bính lấy vợ Đinh, cách tám là Giáp Tí, đó là ngôi vị đời Kim quay trở về. Giáp Ngọ, Ất Mùi khởi như phép trước. Đúng là v́ vậy mới có thuyết ngũ Tí quy Canh, Đạo gia lưu truyền chọn nghĩa nầy dùng để phối ngôi vị của ngũ phương, tự số đầu Can Tí đến chữ Canh th́ là số đó. Giáp Tí Kim, từ số Giáp đến bảy th́ gặp Canh, nên phương Tây Kim được thất (7) khí. Mậu Tí là Hỏa, từ Mậu Tí đến ba số th́ gặp Canh, nên phương Nam Hỏa được tam (3) khí. Nhâm Tí là Mộc, từ Nhâm đến chín số th́ gặp Canh, nên phương Đông Mộc được cửu khí. Bính tí là Thủy, từ Bính đến năm số th́ gặp Canh, nên phương Bắc Thủy được ngũ khí. Canh Tí là Thổ, th́ tự được một là nhất khí ở phương giữa. Ấy là ngũ Tí quy Canh. Chính là biết Kim nầy thụ khí trước tiên, thuận hành th́ là Thể của Ngũ Hành, nếu nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành. V́ vậy 60 Giáp Tí Nạp Âm nầy, lấy làm Dụng của vạn vật”.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 6 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:55am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

"Khảo Nguyên" nói rằng: "Ngũ Hành thứ tự lấy bắt đầu là khí, cuối cùng là h́nh th́ "Hồng Phạm" là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ quả là vậy. Lấy làm thứ tự đem trải ra ở bốn mùa tương sinh, th́ 'Nguyệt hội' ở Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy quả là vậy. Đem chỉnh đốn trị lư Ngũ Tài (giống như Ngũ Hành) tương khắc làm thứ tự th́ "Ngũ Mộ" là Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ quả là vậy. Nạp Âm Ngũ Hành bắt đầu Kim, thứ đến Hỏa, thứ đến Mộc, thứ đến Thủy, thứ đến Thổ, đă không có gốc đầu - cuối của nó, lại không dùng sinh khắc, v́ vậy thuyết nầy chẳng biết nó ở đâu đến. Khảo sát rơ nghĩa của nó, đại để là theo lời dạy của tổ tiên lấy ư của Dịch tượng, tức là lư của Tiên Thiên – Hậu Thiên Bát Quái vậy.
Giáp Tí, Ất Sửu là Kim thượng nguyên; Nhâm Thân, Quư Dậu là Kim trung nguyên; Canh Th́n, Tân Tỵ là Kim hạ nguyên, tức Tam Nguyên th́ đủ một ṿng. Sau đó chuyển tới ở Mậu Tí, Kỷ Sửu là Hỏa thượng nguyên; Bính Thân Đinh Dậu là Hỏa trung nguyên, Giáp Th́n Ất Tỵ là Hỏa hạ nguyên. Từ đó về sau đều dựa vào thứ tự Kim, Hỏa, Mộc, Thủy, Thổ mà dùng nhạc luật cùng ngôi vị với thú thê (lấy vợ), phép cách bát sinh con, cuối cùng đến Đinh Tỵ mà nạp Âm tiểu thành vậy. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi là Kim thượng nguyên khởi như phép trước, đến cuối cùng ở Đinh Hợi, mà nạp Âm đại thành vậy.

Theo 10 Can, 12 Chi đan xen nhau là 60, năm âm (âm thanh), 12 luật nhân với nhau cũng là 60. Giáp Tí Kim, Ất Sửu cũng là Kim, lấy vợ cùng ngôi vị vậy. Ất Sửu Kim mà Nhâm Thân lại là Kim, cách bát sinh con vậy. Một lần đi tất cả Tam Nguyên mà sau chuyển sang đi tiếp, giống như Xuân có ba tháng mạnh-trọng-quư mà sau chuyển sang Hạ vậy. Từ Giáp Tí đến Đinh Tỵ mà Tam Nguyên Ngũ Hành được một ṿng. Giống như Dịch đi ba vạch là tiểu thành vậy. Từ Giáp Ngọ đến Đinh Hợi mà Tam Nguyên Ngũ Hành lại được một ṿng nữa, giống như Dịch đi sáu vạch là đại thành vậy. Cách lập phép đó đều ứng với luật lữ”.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 7 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:58am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

KHỞI SỐ NẠP ÂM
CAN CHI HỢP NGŨ HÀNH

Số của Nạp Âm: Giáp Kỷ, Tí Ngọ trị số là 9; Ất Canh, Sửu Mùi trị số là 8; Bính Tân, Dần Thân trị số là 7; Đinh nhâm, Măo Dậu trị số là 6; Mậu Quư, Th́n Tuất trị số là 5; Tỵ Hợi trị số là 4. Điều nầy trong “Vân Đài Loại Ngữ” thấy cụ Lê Quư Đôn có nhắc đến, nhưng không hề cho biết trị số của nó do đâu mà có. Nay lại thấy “Hiệp Kỷ Biện Phương Thư” giải thích hết sức rơ ràng nên xin chép lại nguyên văn để độc giả tham khảo.

“Lăi Hải Tập” nói: “Hoặc hỏi: Số của Tiên Thiên duyên theo đâu mà khởi? Tạ đáp rằng: Số cực ở 9, từ 9 lui ngược lại dùng, v́ vậy Giáp Kỷ, Tí Ngọ 9; Ất Canh, Sửu Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm, Măo Dậu 6; Mậu Quư, Th́n Tuất 5; Thiên Can đă hết mà Địa Chi một ḿnh c̣n thừa ra Tỵ Hợi, lấy Tỵ Hợi được 4 là hết ở đó. Hơn nữa, Hợi là thiên môn, Tỵ là địa hộ, ngôi vị của thuần Dương, là then chốt của việc đóng mở cho nên là mấu chốt của Ngũ Hành”.
"Thụy Quế Đường Hạ Lục" nói rằng: "Nạp Âm của 60 Giáp Tí lấy âm (thanh) của Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà sáng tỏ vậy. 1-6 là Thủy, 2-7 là Hỏa, 3-8 là Mộc, 4-9 là Kim, 5-10 là Thổ. Như vậy trong Ngũ Hành, duy Kim Mộc có Âm của tự nhiên, Thủy Hỏa, Thổ hẳn là mượng nhau mà sau thành âm. Đại thể Thủy mượng Thổ, Hỏa mượn Thủy, Thổ mượn Hỏa, v́ vậy âm Kim 4-9, âm Mộc 3-8, âm Thủy 5-10, âm Hỏa 1-6, âm Thổ 2-7. (Như thế càng khó luận bàn và xác định nên Mai Cốc Thành chê). Giáp Kỷ, Tí Sửu 9; Ất Canh, Sửu Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm, Măo Dậu 6; Mậu Quư, Th́n Tuất 5; Tỵ Hợi 4. Căn cứ như thế th́ Giáp Tí Ất Sửu hợp lại thành 34 số, 4 là số của Kim v́ vậy Giáp Tí Ất sửu Nạp Âm là Kim. Mậu Th́n Kỷ Tỵ hợp số là 23, 3 là số của Mộc. Canh Ngọ Tân Mùi hợp số là 32, 2 là số của Hỏa, Thổ mượn âm của Hỏa, v́ vậy Canh Ngọ, Tân Mùi Nạp Âm là Thổ. Giáp Thân Ất Dậu hợp số 30, 10 là Thổ, Thủy mượn âm của Thổ, v́ vậy là Thủy. Mậu Tí Kỷ Sửu hợp số 31, 1 là Thủy, Hỏa mượn âm của Thủy, v́ vậy là Hỏa. Phàm 60 Giáp Tí chẳng cái nào không như thế. Dó chính là Nạp Âm 60 Giáp Tí từ đó lại”.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 8 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:59am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

“Tinh Lịch Khảo Nguyên” nói: “Chỗ nói ở trên là Dương Hùng luận ‘Thái Huyền’ thanh luật chỗ chép về số. Phàn hai Can, hai chi hợp nhau, ngoài ra số được 49 là Kim được 16 là Hỏa, được 38 là Mộc, được 50 là Thủy, được 27 là Thổ. Như Giáp Tí đều 9, được số 18; Ất Sửu đều được số 16; hợp lại là 34, v́ vậy là Kim. Nhâm 6 – Thân 7, được số 13; Quư 5 – Dậu 6 , được số 11; hợp lại được 24, v́ vậy cũng là Kim. Ngoài ra theo số mà suy ra, không trường hợp nào mà không như vậy. Nhưng chỗ phối 1 với 6, 2 với 7, các hạng số với số của Hà Đồ không giống nhau. Nay theo số Đại Diễn là 50 chỉ dùng 49 lấy hợp số của hai Can, hai chi lại. Trong 49 giảm bớt đi, số thừa đủ 10 trở đi dư 1, 6 là Thủy; dư 2, 7 là Hỏa; dư 3, 8 là Mộc; dư 4, 9 là Kim; dư 5,10 là Thổ, đều dùng chỗ Ngũ Hành sinh làm Nạp Âm, như thế th́ giống với Hà Đồ. Lại như phép đếm cỏ thi dùng sách thừa để định cơ (lẻ) ngẫu (chẵn), như thế dùng số thừa để định Ngũ Hành, lư đó đúng và hợp nhau vậy. Như Giáp là 9, Tí là 9; Ất là 8, Sửu là 8, tổng cộng là 34, lấy 49 trừ cho 34 dư ra 15, bỏ 10 không dùng, lấy 5 là Thổ mà Thổ sinh Kim, v́ vậy đặt là Kim. Bính Dần, Đinh Măo hợp số là 26, lấy 49 trừ cho 26 dư ra 23, bỏ 20 không dùng, lấy 3 là Mộc mà Mộc sinh Hỏa, v́ vậy đặt là Hỏa. Mậu Th́n, Kỷ Tỵ hợp số là 23, lấy 49 trừ cho 23 dư ra 26, bỏ 20 không dùng, lấy 6 là Thủy mà Thủy sinh Mộc, v́ vậy đặt là Mộc. Canh Ngọ, Tân Mùi hợp số là 32, lấy 49 trừ đi cho 32 dư ra 17, bỏ 10 không dùng, lấy 7 là Hỏa mà Hỏa sinh Thổ, v́ vậy đặt là Thổ. Ngoài ra phỏng theo như thế”.

Theo Dương Hùng “Thái Huyền Kinh” nói rằng: “Số 9 của Tí Ngọ, Sửu Mùi 8, Dần Thân 7, Măo Dậu 6, Th́n Tuất 5, Tỵ Hợi 4, v́ vậy Luật 42, Lữ 36, gộp số của Luật Lữ hoặc Hoàn, hoặc Phủ, hễ là số của 78 là số của Hoàng Chung lập ở đó. Lấy nó làm độ, đều sinh Hoàng Chung”. Lại nói rằng: “Số 9 của Giáp Kỷ, Ất Canh 8, Bính Tân 7, Đinh Nhâm 6, Mậu Quư 5. Thanh sinh ở nhật, luật sinh ở thời. Thanh lấy tính chất, luật lấy ḥa thanh, thanh luật hợp với nhau mà bát âm sinh”. Tông phái trải qua nhiều đời đến nay, đến đó là số của thiên nhiên. Nh́n lại chỗ Giáp Kỷ, Tí Ngọ tại sao lại lấy là 9; Ất Canh, Sửu Mùi tại sao lại lấy là 8, th́ hiếm có việc luận b́nh chính xác ở đó. Nay xét Tí Ngọ này là chỗ Càn Chấn nạp vào; Sửu Mùi này là chỗ nạp vào của Khôn Tốn; Dần Thân nầy là chỗ Khảm nạp vào; Măo Dậu nầy là chỗ Ly nạp vào; Th́n Tuất nầy là chỗ Cấn nạp vào; Tỵ Hợi nầy là chỗ Đoài nạp vào. Số Dương cực ở 9, số Âm cực ở 8, v́ vậy Càn Khôn được vậy. Chấn Tốn trưởng mà thống quản ở phụ mẫu, ngoài ra theo thứ tự trở xuống. Nhị Đại (cha mẹ), lục tử (6 con), thứ tự của nam nữ trưởng thiếu (lớn, nhỏ). Trật tự như vậy không rối loạn thật không ai có thể cưởng ép làm được. Nếu lấy thứ tự 10 ngày, th́ lại tùy theo hóa khí thọ yểu của số mà cũng không tạo tác một chút nào ở trong đó. Giáp Kỷ là Thổ, Thổ hết, từ cổ xưa không bị hủy, tự tách rời ra là vi trần, rong chơi trống trải láng giềng mà chất của nó vốn tại ở đó là rất thọ, v́ vậy số là 9. Chỗ tiếp theo th́ là Kim, tuy hỏa rèn nung cũng có thời là khí tán ra của chất tro mà kiên cố là vạn vật vương vậy. Ất Canh là Kim vậy, v́ vậy tiếp theo Giáp Kỷ. Lại tiếp nữa là Thủy. Gió nóng ban ngày mà Hỏa nung nấu cũng có thời khô cạn hết mà chẳng bằng Kim, nó nhu nhược chuyển vận mới có thể thọ lâu dài mà chẳng bằng vật vậy. Bính Tân Thủy vậy, v́ vậy tiếp theo Ất Canh, lại tiếp theo nữa là Mộc. Trong một năm tươi tốt hay héo rụng có trong định kỳ. Đinh Nhâm là Mộc vậy, v́ vậy tiếp theo Bính Tân, lại theo nữa th́ là Hỏa. Khoảng một ngày một đêm hiển lộ ra hay u ám cũng có định kỳ, Mậu Quư là Hỏa vậy, v́ vậy tiếp theo là Đinh Nhâm. C̣n Giáp Kỷ Thổ sinh Ất Canh Kim, Kim sinh Bính Tân Thủy, Thủy sinh Đinh Nhâm Mộc, Mộc sinh Mậu Quư Hỏa. Chồng chất mà xuống dưới. Lại là số tự nhiên như vậy. Nhưng tại sao không có 10 và 1, 2, 3? Nói rằng số hết ở 9, 10 tức là 1 vậy. Ví bằng 1, 2, 3 chính là đại số của Thiên-Địa-Nhân, không được cố ư kư gửi ở khoảng của một ngày, một thời. C̣n nói 9-8-7-6-5-4, th́ 1-2-3 ở tại gốc của chúng. V́ vậy Hoàng Chung là 81, 12 thời chỉ được 78, mà Dương Tử nói rằng số của Hoàng Chung lập ở đó. Đại để đă hư hàm ba số mà thành 81 vậy.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 9 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 6:00am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

NGŨ HÀNH NGŨ ÂM

thuộc Thổ Giáp Tí-Ất Sửu, Nhâm Thân-Quư Dậu,Canh Th́n-Tân Tỵ
Cung
sinh Kim Giáp Ngọ-Ất Mùi, Nhâm Dần-Quư Măo, Canh Tuất-Tân Tỵ

thuộc Kim Bính Tí-Đinh Sửu, Giáp Thân-Ất Dậu, Nhâm Th́n-Quư Tỵ Thương
sinh Thủy Bính Ngọ-Đinh Mùi, Giáp Dần-Ất Măo, Nhâm Tuất-Quư Hợi
thuộc Mộc Mậu Tí-Kỷ Sửu, Bính Thân-Đinh Dậu, Giáp Th́n-Ất Tỵ
Giác
sinh Hỏa Mậu Ngọ-Kỷ Mùi, Bính Dần-Đinh Măo, Giáp Tuất-Ất Hợi

thuộc Hỏa Canh Tí-Tân Sửu, Mậu Thân-Kỷ Dậu, Bính Th́n-Đinh Tỵ
Chuỷ
sinh Thổ Canh Ngọ-Tân Mùi, Mậu Dần-Kỷ Măo, Bính Tuất-Đinh Hợi
thuộc Thuỷ Nhâm Tí-Quư Sửu, Canh Thân-Tân Dậu, Mậu Th́n-Kỷ Tỵ

sinh Mộc Nhâm Ngọ-Quư Mùi, Canh Dần-Tân Măo, Mậu Tuất-Kỷ Hợi
Xưa nay chúng ta thường nghe nói đến như Giáp Tí là Hải Trung Kim, Ất Mùi là Sa Trung Kim, nhưng thực chất chưa có sách nào của Việt Nam giải thích nổi do đâu mà có.

Chu Tử nói rằng: “Thanh nhạc là Thổ sinh Kim Mộc Hỏa Thuỷ”. “Hồng Phạm” là Thuỷ Hỏa Mộc Kim Thổ. Đại để nạp âm là lấy Can Chi phân phối ở ngũ âm mà bản âm nơi sinh của Ngũ Hành, tức là chỗ nạp âm của Can Chi của nó. Bắt đầu là cung Thương Giác Chuỷ Vũ, nạp Giáp Bính Mẫu Canh Nhâm vào, lấy hệ ngũ Tí mà tuỳ theo đó ngũ Sửu, Cung được Giáp Tí, Thương được Bính Tí, Giác được Mậu Tí, Chuỷ được Canh Tí, Vũ được Nhâm Tí. Cung là Thổ, Thổ sinh Kim, v́ vậy Giáp Tí-Ất Sửu nạp âm Kim. Thương là Kim, Kim sinh Thuỷ, v́ vậy Bính Tí-Đinh Sửu nạp âm là Thuỷ. Giác là Mộc, Mộc sinh Hỏa, v́ vậy Mậu Tí, Kỷ Sửu nạp âm Hỏa. Chuỷ là Hỏa, Hỏa sinh Thổ, v́ vậy Canh Tí-Tân Sửu nạp âm Thổ. Vũ là Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, v́ vậy Canh Tí, Quư Sửu nạp âm Mộc. Thứ hai tiếp Thương Giác Chuỷ Vũ Cung, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là hệ ngũ Dần mà tuỳ theo lấy ngũ Măo. Thương Kim với Giáp Dần-Ất Măo, nạp âm Thuỷ. Giác Mộc được Bính Dần-Đinh Măo nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Mậu Dần-Kỷ Măo nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Canh Dần-Tân Măo nạp âm Mộc. Cung Thổ được Nhâm Dần-Quư Măo nạp âm Kim. Thứ ba tiếp là Giác Chuỷ Vũ Cung Thương, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Th́n mà tuỳ theo lấy ngũ Tỵ. Giác Mộc được Giáp Th́n-Ất Tỵ nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Bính Th́n-Đinh Tỵ nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Mậu Th́n-Kỷ Tỵ nạp âm Mộc. Cung Thổ được Canh Th́n-Tân Tỵ nạp âm Kim. Thương Kim được Nhâm Th́-Quư Tỵ nạp âm Thuỷ. Ở trên lục Giáp mới được một nữa, nạp âm tiểu thành.
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 10 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 6:01am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Thứ tư, quay trở lại lấy Cung Thương Giác Chuỷ Vũ, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm. Lấy ngũ Ngọ mà tuỳ theo lấy ngũ Mùi. Cung Thổ được Giáp Ngọ-Ất Mùi nạp âm Kim. Thương Kim được Bính Ngo-Đinh Mùi nạp âm Thuỷ. Giáp Mộc được Mậu Ngọ-Kỷ Mùi nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Canh Ngọ-Tân Mùi nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Nhâm Ngọ-Quư Mùi nạp âm Mộc. Thứ năm quay lại lấy Thương Giác Chuỷ Vũ Cung nạp Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Thân mà tuỳ theo lấy ngũ Dậu. Thương Kim được Giáp Thân-Ất Dậu nạp âm Thuỷ. Giác Mộc được Bính Thân-Đinh Dậu nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Mậu Thân-Kỷ Dậu nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Canh Thân-Tân Dâu nạp âm Mộc. Cung Thổ được Nhâm Thân-Quư Dậu nạp âm Kim. Thứ sáu tiếp quay lại lấy Giác Chuỷ Vũ Cung Thương nạp Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Tuất mà tuỳ theo lấy ngũ Hợi. Giác Mộc được Giáp Tuất-Ất Hợi nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Bính Tuất-Đinh Hợi nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Mậu Tuất-Kỷ Hợi nạp âm Mộc. Cung Thổ được Canh Tuất-Tân Hợi nạp âm Kim. Thương Kim được Nhâm Tuất-Quư Hợi nạp âm Thuỷ. Ấy là toàn bộ lục Giáp mà âm đại thành vậy. Dương sinh ở Tí, từ Giáp Tí lấy đến Quư Tỵ. Âm sinh ở Ngọ, từ Giáp Ngọ lấy đến Quư Hợi. V́ vậy 30 mới quay lại lấy Cung khởi Cung là quân. Thương là thần, Giác là dân, đều nhập vào đạo (đường) vậy. V́ thế đều có thể lấy làm đầu. Chuỷ là việc, Vũ là vật, đều nhập vào chỗ dùng v́ vậy không thể lấy làm đầu. Ấy là lấy hết ba Giáp mà quay lại bắt đầu ở Cung. Can là thiên, Chi là Địa, âm (nạp âm Ngũ Hành) là người Ngũ Hành của tam tài đủ vậy”.

Đào Tông Nghi nói rằng: “Giáp Tí-Ất Sửu là Hải Trung Kim. Tí thuộc Thuỷ lại là cái hồ, lại là đất vượng của Thuỷ, kiêm Kim tử ở Tí, Mộ ở Sửu, Thuỷ vượng mà Kim tử Mộ, v́ vậy đặt là Hải Trung Kim (vàng dưới biển).

Bính Dần-Đinh Măo là Lô Trung Hỏa, Dần là tam Dương, Măo là tứ Dương (thuộc quẻ Đại Tráng của 12 quẻ tiêu tức) nên Hỏa đă đắc địa, lại được Mộc của Dần Măo mà sinh ra như thế thời đó trời đất như mở ḷ ra, vạn vật bắt đầu sinh v́ vậy gọi là Lô Trung Hỏa (lửa trong ḷ).

Mậu Th́n-Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc. Th́n là chốn thôn dă. Tỵ là lục Dương (thuần Dương, Tỵ là quẻ Càn của 12 quẻ tiêu tức), Mộc đến lục Dương th́ cành tốt tươi, lá rậm rạp phong phú. Lấy sự tốt tươi thịnh vượng của Mộc mà vốn ở chốn thôn dă, v́ vậy đặt là Đại Lâm Mộc (cây rừng lớn).
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 11 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 6:03am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Canh Ngọ-Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ, Mộc ở trong Mùi (v́ Mùi tàng Can Ất) mà sinh vượng Hỏa của ngôi vị Ngọ. Hỏa vượng th́ Thổ bị đốt khô đi, Mùi có thể nuôi nấng vạn vật, giống như lộ bàng thổ, v́ vậy đặt là Lộ Bàng Thổ (đất bên đường).
Nhâm Thân-Quư Dậu là Kiếm Phong Kim. Thân Dậu là chính vị của Kim, Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đă sinh vượng th́ thành cương (là thép) vậy, cương th́ vượt hơn ở kiếm phong, v́ vậy đặt là Kiếm Phong Kim (kim mũi kiếm).

Giáp Tuất-Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa. Tuất Hợi là thiên Môn, Hỏa chiếu thiên môn, ánh sáng của nó lên rất cao, chí cao vô thượng, v́ vậy đặt là Sơn Đầu Hỏa (lửa đầu núi).
Bính Tí-Đinh Sửu là Giản Hạ Thuỷ. Thuỷ vượng ở Tí, suy ở Sửu, vượng mà lật lại là suy th́ không thể là giang hà (sông lớn) được, v́ vậy đặt là Giản Hạ Thuỷ (nước dưới khe).

Mậu Dần-Kỷ Mào là Thành Đầu Thổ. Thiên Can Mậu Kỷ thuộc thổ của Dần là Cấn sơn, thổ tích lại mà thành núi, v́ vậy đặt là Thành Đầu Thổ (đất đầu thành).
Canh Th́n-Tân Tỵ là Bạch Lạp Kim (hợp Kim của thiết và ch́), Kim Dưỡng ở Th́n, Sinh ở Tỵ h́nh chất mới sơ thành, chưa thể vững chắc ích lợi được, v́ vậy đặt là Bạch Lạp Kim (kim trong nến).

Nhâm Ngọ-Quư Mùi là Dương Liễu Mộc. Mộc Tử ở Ngọ, Mộ ở Mùi, Mộc đă Tử Mộ tuy được Thuỷ của Thiên Can Nhâm Quư sinh để sống, chung lại là nhu nhược, v́ vậy đặt là Dương Liễu Mộc (cây dương liễu).

Giáp Thân-Ất Dậu là Tỉnh Tuyền Thuỷ. Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đă vượng th́ Thuỷ do đó sinh ra, như vậy là mới đang lúc sinh ra, lực lượng chưa lớn, v́ vậy đặt là Tỉnh Tuyền Thuỷ (nước dưới suốâi).

Bính Tuất-Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Tuất Hợi là thiên môn, Hỏa đốt cháy ở trên th́ Thổ không ở dưới mà sinh ra được, v́ vậy đặt là Ốc Thượng Thổ (đất trên nóc nhà).
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 12 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 6:18am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Mậu Tí-Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa. Sửu Tí thuộc Thuỷ, Thuỷ cư ở chính vị mà nạp âm chính là Hỏa, Hỏa ở trong Thuỷ nếu không phại là Thần Long th́ không thể làm được, v́ vậy đặt là Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét).
Canh Dần-Tân Măo là Tùng Bách Mộc. Mộc Lâm Quan ở Dần, Đế Vượng ở Măo, Mộc đă vượng th́ không thể nhu nhược được, v́ vậy đặt là Tùng Bách Mộc (gổ cây tùng, bách).

Nhâm Th́n-Quư Tỵ là Trường Lưu Thuỷ. Th́n là Mộ của Thuỷ, Tỵ là nơi Kim Sinh, Kim sinh th́ Thuỷ tính đă giữ lại, lấy Mộ Thuỷ mà gặp sinh Kim th́ nguồn suối không cạn, v́ vậy đặt là Trường Lưu Thuỷ (nước nguồn).

Giáp Ngọ-Ất Mùi là Sa Thạch Kim. Ngọ là đất Hỏa Vượng, Hỏa vượng th́ Kim chảy ra, Mùi là đất Hỏa Suy, Hỏa suy th́ Kim Quan Đái. Hỏa Suy mà Kim Quan Đái th́ Mùi có thể thịnh măn, v́ vậy đặt là Sa Thạch Kim (kim trong cát).
Bính Thân-Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa. Dậu là cửa nhập của nhật (mặt trời lặn), nhật đă đến ở thời đó th́ ánh sáng tàng ẩn, v́ vậy đặt là Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi).
Mậu Tuất-Kỷ Hợi là B́nh Địa Mộc. Tuất nguyên là chốn thôn dă, Hợi là đất Mộ sinh ra, Mộc sinh ra ở chốn thôn dă th́ không thể là một rễ cây, một gốc cây, v́ vậy đặt là B́nh Địa Mộc (cây ở đồng bằng).

Canh Tí-Tân Sửu là Bích Thượng Thổ. Sửu tuy là chính vị nhà của Thổ, mà Tí là đất của Thuỷ vượng, Thổ gặp Thuỷ nhiều thành là bùn, v́ vậy đặt là Bích Thượng Thổ (đất trên vách).

Nhâm Dần-Quư Măo là Kim Bạc Kim. Dần Măo là đất của Mộc vượng, Mộc vượng th́ Kim gầy yếu; lại nữa, Kim Tuyệt ở Dần, Thai ở Măo. Kim đă vô lực v́ vậy đặt là Kim Bạc Kim (kim pha bạc).

Giáp Th́n-Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa. Th́n là thực thời (giờ ăn), Tỵ là ở trong khu vực, trong tướng của nhật, Dương rực rỡ, thế sáng sủa, phong quang ở thiên hạ, v́ vậy đặt là Phú đăng Hỏa (lửa đèn lồng).
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 13 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 6:24am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Bính Ngọ-Đinh Mùi là Thiên Hà Thuỷ. Bính Đinh thuộc Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, mà nạp âm chính là Thuỷ, Thuỷ từ Hỏa xuất ra, nếu không phải là ngân hà th́ không thể có nước nầy, v́ vậy đặt là Thiên Hà Thuỷ (nước trên ngân hà, nước sông trên trời).
Mậu Thân-Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ. Thân là Khôn, Khôn là địa, Đậu là Đoài, Đoài là trạch (đầm). Thổ của Mậu Kỷ gia lên trên địa trạch nầy chẳng phải cái nào khác là Thổ phù bạc, v́ vậy đặt là Đại Dịch Thổ (khu đất rộng lớn).

Canh Tuất-Tân Hợi là Thoa Xuyến Kim. Kim đến Tuất mới Suy, đến Hợi mới Bệnh th́ đúng thật là như vậy, v́ vậy đặt là Thoa Xuyến Kim (kim trâm thoa hay vàng trang sức).

Nhâm Tí-Quư Sửu là Tang Chá Mộc. Tí thuộc Thuỷ, Sửu thuộc Kim, Thuỷ sinh Mộc c̣n Kim khắc Mộc (Mộc mới sinh th́ yếu giống như cây tang chá), v́ vậy đặt là Tang Chá Mộc (gỗ cây dâu).

Giáp Dần-Ất Măo là Đại Khê Thuỷ, Dần là góc Đông Bắc, Măo là chính Đông, Thuỷ chảy chính Đông (“chúng thuỷ triều Đông” – muôn nhánh sông đều chảy về phương Đông) th́ thuận tính nó, nên sông suối, khe, ao, đầm, hồ đều hợp với nhau mà quay trở về, v́ vậy đặt là Đại Khê Thuỷ (nước ở khe lớn, nước lũ).

Bính Th́n-Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ. Thổ Mộ ở Th́n, Tuyệt ở Tỵ mà Hỏa của Thiên Can Bính Đinh đến Th́n là Quan Đái, đến Tỵ là Lâm Quan, Thổ đă Mộ Tuyệt, vượng Hỏa quay lại sinh Thổ, v́ vậy đặt là Sa Trung Thổ (đất lẫn trong cát).

Mậu Ngọ-Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, Mộc ở trong Mùi lại phục sinh, tính Hỏa cháy ở trên, lại gặp sinh địa, v́ vậy đặt là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời).

Canh Thân-Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc. Thân là tháng 7, Dậu là tháng 8, thời ấy th́ là Mộc tuyệt vậy, duy mộc của thạch lựu, trái lại bền chắc, v́ vậy đặt là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây thạch lựu).

Nhâm Tuất-Quư Hợi là Đại Hải Thuỷ. Thuỷ Quan Đái ở Tuất, Lâm Quan ở Hợi, Thuỷ vượng th́ lực hậu (dầy), kiêm Hợi là giang (sông lớn) nên lực mạnh thế tráng, không phải Thuỷ ấy th́ không thể như thế, v́ vậy đặt là Đại Hải Thuỷ (nước trong biển lớn).

Đến đây có lẽ độc giả đă hiểu được nguyên lư sáng tỏ Nạp Âm Ngũ Hành và 12 con vật của tuổi do đâu mà có vậy. Rơ ràng Cổ Nhân đă suy diễn có phương pháp hẳn ḥi, thế th́ không phải do người đời sau cố t́nh gượng ép bày đặt ra được. Dĩ nhiên trong Mệnh Lư Học Nạp Âm Ngũ Hành có giá trị chắc thật, không thể thiếu. Song những thuật sĩ đời sau, có lẽ hiếm người biết được nguyên lư của Nạp Âm Ngũ Hành 60 Hoa Giáp, nên đă bịa đặt ra đủ thứ luận giải chăng. Xin độc giả cần phải thận trọng!

KHÔNG KIẾP MINH TÂM
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
QuangDuc
Thầy Giáo
Thầy Giáo
Biểu tượng

Đă tham gia: 16 March 2003
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3946
Msg 14 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 1:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangDuc

Mạch lạc - Rơ ràng .
Cám ơn bạn ThienKyQuy .
Quay trở về đầu Xem QuangDuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangDuc lần thăm QuangDuc's Homepage
 
ThienKyQuy
Ban Chấp Hành
Ban Chấp Hành
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1501
Msg 15 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 5:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienKyQuy

Anh Quảng Đức thân,

Viết như vậy theo tôi mới gọi là dẫn chứng. Tuy nhiên, đối với những kẻ cố chấp c̣n chưa chịu chấp nhận, lựa là nói vài câu, không có nguồn gốc, ai chịu tin phải không thưa anh. Chưa kể là c̣n bao nhiêu lời phản bác.

Thân
Quay trở về đầu Xem ThienKyQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienKyQuy
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 16 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 6:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Rất cảm ơn bạn Thiên Kỳ Quư!
Đúng là bạn nói có sách ; mách có chứng.Tôi đă chép lại và sẽ t́m hiểu kỹ. Chắc là phải vài ngày nữa tôi mới có thể tường với anh em sở ngộ của tôi về bài viết của bạn.
Tuy nhiên tôi cũng xin lưu ư anh em và anh TKQ là: Trong Lạc Thư Hoa Giáp; Qui luật "Cách bát sinh tử" là một chu kỳ liên tục không hề đứt đoạn.Tôi xin tường như sau:
Giáp Tư-Ất Sửu (Kim)=>+8Nhâm Thân - Quí dậu=>+8Canh Th́n-Tân Tỵ =>+8Mậu tư - Kỷ Sửu (Thuỷ = Con do Kim sinh). Nhưng trong Lục thập hoa giáp th́ đây lại là hành Hoả.
Tuy nhiên tôi hy vọng trong thời gian ngắn nhất sẽ trao đổi với anh em về những dẫn chứng của TKQ trong sách cổ.
Thân - Thiên Sứ
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
QuangDuc
Thầy Giáo
Thầy Giáo
Biểu tượng

Đă tham gia: 16 March 2003
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3946
Msg 17 of 35: Đă gửi: 01 June 2003 lúc 7:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangDuc

Quư Vị đă trao đổi với nhau trong tinh thần cầu học - Hoà nhă như vậy th́ không ǵ quư hơn.

Tôi kính phục lắm.

- Về Nạp Âm th́ Bác ThiênkyQuy đă dẫn chứng chi tiết, rơ ràng .
- Bác ThiênSứ có thể dẫn chứng thêm vài chổ nữa xem T/g NVTA có thể đưa ra vài luận cứ mới có tính Quy Luật để khả năng thay thế được Ngũ Hành nạp Âm trước nay chúng ta học được hay không ? - H́nh như bác ThienKyQuy cũng chưa đọc được sách của NVTA - Tôi cũng chẳng hơn ǵ bác- cho nên phải cầu cạnh bác ThiênSứ mà thôi .
Kính.
Quay trở về đầu Xem QuangDuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangDuc lần thăm QuangDuc's Homepage
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 18 of 35: Đă gửi: 02 June 2003 lúc 7:54am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Kính Bác Quảng Đức!
Cao nhân quá lời! Quá lời! Bỉ nhân không dám mạn ngạo.Chỉ xin được biết đến đâu tường đến đó. Mong được sự quan tâm của anh em là quí lắm rồi.
Kính thân - Thiên Sứ
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
TYPN
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 29 August 2002
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1125
Msg 19 of 35: Đă gửi: 02 June 2003 lúc 10:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn TYPN

chào mọi người,
hôm nay typn mới có thể lên Net được v́ hôm qua là ngày lễ, trường đóng cửa
coi đến đây th́ chắc bác TS cũng chẳng c̣n nghi ngờ một chút nào nữa về vấn đề đúng sai cổ nhân làm ǵ cũng có lư do, chứ chẳng phải hứng lên th́ cho cái này là đúng rồi lập ra bắt mọi người phải theo.
C̣n cổ nhân lập ra rồi, quy luật ḿnh có thể nhận thấy (dựa trên 1 cái đă có để t́m ra quy luật). Tuy nhiên nó không thể nào bvao trùm hết tất cả mọi quy luật trong vũ trụ được. Nên nếu t/g NVTA thấy nó không có 1 quy luật như ḿnh mong muốn, th́ chẳng qua, đó không thể áp dụng cho cái mà t/g đặt ra.
c̣n những điều anh TKQ viết ở trên, typn cũng muốn nói, đó không là chứng minh mà chính là "nguyên lư v́ sao" cổ nhân đặt ra những điều như vậy.
thân chào mọi người

__________________
không nên đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa.
Quay trở về đầu Xem TYPN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi TYPN
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 20 of 35: Đă gửi: 03 June 2003 lúc 6:03am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Anh Thiên Kỳ Quư và anh em thân mến!
Bài “Luận Can Chi Ngũ hành nạp âm” được tổng kết từ những cổ thư có giá trị tham khảo rất cao trong việc t́m hiểu về nguyên lư nạp âm ngũ hành trong Hoa giáp. Nhưng vớI thiển kiến của tôi: Những bài viết từ sách cổ - những bài có giá trị lạI lạI không có ư nghĩa trực tiếp liên quan đến nạp âm – c̣n lạI chỉ mang tính lư giảI một hiện tượng đă có sẵn (Tức là bảng Lục Thập Hoa giáp trong sách chữ Hán) bằng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành; hay tường theo lẽ khác: đây là một sự giảI thích nhằm minh chứng một hiện tượng đang tồn tạI trên thực tế chứ không phảI là một khám phá nguyên lư. Một ví dụ gần giống là: Nó giống như bài viết của ông Đằng Sơn giảI thích Tử Vi cho ngài TT Bus thôi. Luận điểm này của tôi xin được minh chứng như sau:
Trong ba bài dẫn chứng đầu chưa bàn tớI Nguyên lư nạp âm mà có một giá trị t́m hiểu và tiếp cận cách nh́n và phương pháp luận của ngườI xưa mà thôi. BởI vậy; sự minh chứng của tôi bắt đầu từ đoạn sau đây từ bài thứ 4

Trích: [Thẩm Quát nói: “Nạp Âm lục thập Giáp Tí, rất ít người biết nguyên lư của nó. Sự thực là phép của 60 luật lữ cung nhằm làm cung pháp. Một luật hàm 5 âm, 12 luật tức nạp 60 âm. Phàm Dương ‘Khí’ bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, Âm ‘Khí’ khởi từ phương Tây mà đi về bên trái, Âm Dương đan xen nhau mà sinh biến hóa. Chỗ gọi là khí bắt đầu ở phương Đông nầy là bốn mùa bắt đầu ở Mộc, đi về bên phải chuyển tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Thổ, Thổ chuyển tới ở Kim, Kim chuyển tới ở Thủy. Chỗ bảo rằng Âm bắt đầu ở phương Tây nầy là Ngũ Âm bắt đầu ở Kim, chuyển xoay về bên trái tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Mộc, Mộc chuyển tới Thủy, Thủy chuyển tới Thổ (Nạp Âm với Nạp Giáp của Dịch cùng một phương pháp, Càn nạp Giáp mà Khôn nạp Quư, bắt đầu ở Càn mà chung hết ở Khôn. Nạp Âm bắt đầu ở Kim – Kim là Càn vậy, chung ở Thổ – Thổ là Khôn vậy). Phương pháp cơ bản của Nạp Âm là cùng loại với ‘thú thê’ (lấy vợ) cách tám sinh con. Thứ tự của Ngũ Hành Nạp Âm là trước trọng sau mạnh, mạnh rồi mới đến quư. Tam nguyên của Độn Giáp đă ghi chép như thế vậy.] (Hết trích).
Đoạn trích dẫn trên có thể nói rằng đây là nguyên lư nạp âm của ông Thẩm Quát đưa ra.Bây giờ chúng ta kiểm chứng nguyên lư này xem có nghiệm vớI chính nó không: Trích: [Giáp Tí là trọng của Kim (Thương của Hoàng Chung), lấy vợ cùng vị tức là Ất Sửu (Thương của Đại Lữ cùng ngôi vị). Bảo rằng là loại của Giáp với Ất, Bính với Đinh. Ở dưới đều phỏng theo thế. Cách tám sinh ra Nhâm Thân ở dưới là mạnh của Kim (Thương của Di Tắc), cách tám đó là Đại Lữ sinh ra Di Tắc vậy. Ở dưới đều phỏng theo thế. Nhâm Thân lấy vợ cùng một ngôi vị là Quư Dậu (Thương của Nam Lữ). Cách tám, Canh Th́n sinh ra ở trên quư của Kim (Thương của Cô Tẩy), như thế tam nguyên của Kim hết.
Trích: [Nếu chỉ lấy thời Dương mà nói th́ dựa vào Độn Giáp chuyển thuận: trọng-mạnh-quư. Nếu kiêm nói về vợ th́ nghịch chuyển : mạnh-trọng-quư. Canh Th́n lấy vợ Tân Tỵ cùng ngôi vị (Thương của trọng lữ), cách tám ở dưới sinh Mậu Tí, trọng của Hỏa (Chủy Kim của Hoàng Trung). Tam nguyên hết th́ đi về bên trái chuyển tới phương Nam, Hỏa Mậu Tí - Kỷ Sửu (Chủy của Đại Lữ) sinh ra Bính Thân, mạnh của Hỏa (Chủy của Di Tắc) Bính Thân lấy vợ Đinh Dậu (Chủy của Nam Lữ) sinh Giáp Th́n, quư của Hỏa (Chủy của Cô Tẩy), Giáp Th́n lấy vợ Ất Tỵ (Chủy của Trọng Lữ) sinh Nhâm Tí, trọng của Mộc (Giác của Hoàng Chung)] (Hết trích)
Qua đoạn trên th́ các bạn cũng thấy sự lúng túng của ông Thẩm Quát v́ khi hết hành Kim th́ Thuỷ chính là con của Kim th́ ông phảI chấp nhận là Hoả. (Trong Lạc Thư Hoa Giáp Mậu Tư - Kỷ Sửu là Trường Lưu Thuỷ). Nhưng v́ nó vẫn phù hợp vớI nguyên lư từ Càn Kim chuyển nghịch tớI Hoả; nên đến đây vẫn đúng vớI nguyên lư được đặt ra. Chúng ta xem tiếp đoạn tiếp theo:
Trích: [ Tam nguyên Hỏa hết th́ đi về bên trái chuyển tới phương Đông Nam – Mộc.] (Hết trích)
Đến đây không thấy ông Thẩm Quát diễn giảI tiếp. BởI vậy tôi xin tường tiếp là: Bắt đầu từ Nhâm Tư – Quư Sửu (Mộc) =>+8 Canh Thân-Tân Dậu (Mộc) =>+8 Mậu Th́n -Kỷ Tỵ =>+8 Bính Tư – Đinh Sửu (Thuỷ =Theo sách Hán) =>+8 Giáp Thân Ất Dậu =>+8 Nhâm Th́n Quư Tỵ. Đến đây vẫn phù hợp vớI nguyên lư: Mộc chuyển trái đến Thuỷ. Chúng ta lạI tiếp tục nguyên lư của chính ông Thẩm Quát. Cách 8 năm của hành Thuỷ đến Canh Tư Tân Sửu (Thổ) +8 =Mậu Thân - Kỷ Dậu +8 = Bính Th́n Đinh Tỵ (Thổ). Thổ lạI tiếp tục sinh Kim…
Đến đây; anh em cũng thấy ông Thẩm Quát dựa trên chu kỳ quay ngược của Hậu thiên bát quái làm nguyên lư giảI thích hiện tượng nạp âm trong bảng lục thập hoa giáp. Bắt đầu từ Càn Kim (TạI sao không từ Đoài Kim?) Đến thẳng Ly Hoả theo thuyết quái rồI Tốn Mộc Đông Nam theo thuyết quái . Nhưng nguyên lư này không giảI thích được theo đúng thuận tự Hậu thiên và cách hiểu từ trước đến nay về tính chất các quái là:
Bắt đầu từ Càn Kim đến Đoài Kim => thay v́ phảI đến Khôn Thổ th́ ông bỏ qua . Từ Tốn Mộc Đông Nam - mà ông nhắc đến - đến Chấn Mộc. Đáng nhẽ đến Cấn Thổ (Theo cách hiểu từ sách Hán) th́ ông cũng bỏ qua. Đặc biệt sự sai lệch về nguyên lư của chính ông Thẩm Quát đưa ra th́: Trong bát Quái Hậu thiên từ sách Hán chỉ có hai quái được coi là Thổ: Đáo là Khôn Thổ và Cấn Thổ. C̣n khi đến hết chu kỳ Khảm Thuỷ th́ muốn có Thổ th́ phảI nhập Trung Cung. Nhưng nếu nhập Trung Cung th́ nguyên lư dựa vào Bát quái Hậu thiện lạI không thực hiện được. V́ chính ông đă bỏ qua hai hành Thổ này. Như vậy chứng tỏ ông Thẩm Quát chỉ cố gắng t́m một sự trùng hợp để giảI thích hiện tượng đă có sẵn. Ngay cả vớI chính nguyên lư của nó cũng mâu thuẫn. Chưa nói đến sách Hán dùng Hậu thiên liên hệ vớI Lạc thư th́ cũng không thể giảI thích được dộ số của Cục. BởI v́; vớI Lạc thư Đoài (Kim) Càn (Kim – theo sách Hán) trên Lạc Thư có độ số là 6 (Càn) và 7(Đoài). Như vậy muốn có cục số 4 của Kim th́ lạI phảI áp dụng một cách giảI thích khác. Hoặc như Ly Hoả trên Lạc thư lạI có độ số 9 (?). Bây giờ anh em xem tiếp đoạn sau đây:
Trích: [“Lăi Hải Tập” nói: “Cho nên vạn vật mới sinh nở tất nguồn gốc ở “Khí”, khí tức Kim.] (Hết trích].
TạI sao khí lạI là Kim?
Trích: [ Kim thụ khí, thuận hành th́ là Thể của Ngũ Hành, nghịch hành th́ là Dụng của Ngũ Hành.Thuận hành là Thể của Ngũ Hành, lấy tương sinh làm thứ tự v́ vậy dựa theo thứ tự làm Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ. Nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành, đem phù trợ làm gốc.] (Hết trích)
Có thể coi phần trên đây là nguyên lư do Lă HảI Tập.
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 

Trang of 2 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.3633 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO