Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 166 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Linh Tinh (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Linh Tinh
Tựa đề Chủ đề: TỪ HOA LƯ ĐẾN THĂNG LONG Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 1 of 8: Đă gửi: 05 April 2005 lúc 6:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

     Trên báo Nguồn Sáng số tháng 8 năm 1999, có bài “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” của ông Trần Quốc Vượng. Đọc qua cái tựa, người đọc hy vọng t́m thấy những dấu ấn lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt trong giai đoạn đầu giành lại độc lập sau hơn 1000 năm chịu ách đô hộ của các triều đại phong kiến Bắc phương. Nhưng toàn bộ bài viết là một sự phủ định giá trị lịch sử dân tộc qua cái nh́n của một người được coi là Giáo sư sử học.
     Mặc dù với tựa đề là “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” nhưng để dễ dàng chứng minh những luận điểm của ḿnh, tác giả bài báo đă bắt đầu từ thời Hùng Vương là một thời kỳ khuyết sử của dân tộc Việt Nam. Thời Hùng Vương chính là khởi điểm quan trọng để dẫn đến sự khẳng định hoặc phủ định giá trị lịch sử Việt. Cho nên ngay những ḍng đầu tiên của bài báo, ông Trần Quốc Vượng đă viết:
     “Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (Thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII - IX). Tôi đă chứng minh rằng vua Hùng là một P̣ Khun - thủ lĩnh mạnh nhất của một phức thể Khun (Vua = Bua = P̣, Hùng = Khun) tức hệ thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu thổ sông Hồng (Việt Tŕ) đến các vùng băi biển. Theo truyền thuyết và sử cũ th́ lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith - Taylor đă dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord””.

     Đối với An Dương Vương và Âu Lạc, ông Trần Quốc Vượng chỉ cho rằng đó là:
     “Một tổ chức nhà nước Âu Lạc sơ khai”.

     Để chứng minh cho luận điểm của ḿnh, ông Trần Quốc Vượng viết:
     “Tôi và Cẩm Trọng đă chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ chức năng - “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”.

     Những luận điểm trên đây của ông Trần Quốc Vượng chính là cơ sở để từ đó dẫn đến sự phủ định hàng loạt những giá trị lịch sử dân tộc. Bởi v́, một khi đă coi thời Hùng Vương không phải là một vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là một nhà nước sơ khai (tức là chưa đủ tư cách là một quốc gia) th́ toàn bộ diễn biến lịch sử đầy máu và nước mắt của người Lạc Việt khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc trong con mắt của ông Trần Quốc Vượng chỉ c̣n là những cuộc nổi dậy và phản ứng của dân chúng với vương triều Hán. Do đó, về cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng, ông Trần Quốc Vượng viết:

     “Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ư thức đ̣i cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”.

     Đây là một đoạn văn gây xúc phạm mạnh mẽ trong tâm linh ḍng dơi Lạc Việt. Cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng trong lịch sử dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa vẫn được coi là biểu tượng của ư chí quật cường, sự trỗi dậy đầy khí phách của người Lạc Việt.
Chưa hết, ông Trần Quốc Vượng c̣n đặt cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ với cục diện “Ngũ Đại Thập Quốc” của Trung Hoa vào cuối đời Đường. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn nói rằng cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ tạo nên nền tảng đầu tiên của nền độc lập Việt Nam chỉ là một cuộc ly khai may mắn hơn các thủ lĩnh của Trung Hoa cùng thời kỳ?
     Những ư tưởng lạc lơng của ông Trần Quốc Vượng không chỉ dừng lại ở đấy mà có thể khẳng định rằng: toàn bộ nội dung của bài báo là một sự bôi nhọ trắng trợn giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc. Về văn hoá, Trần Quốc Vượng cho rằng hầu hết huyền thoại cổ tích liên quan đến thành Thăng Long - miền đất đế đô đầu tiên khi phục hồi nền độc lập quốc gia của người Lạc Việt - chỉ là sự vay mượn ư tưởng của nước ngoài. Ông đă lấy huyền thoại Rồng bay - Thăng Long - niềm tự hào về kinh đô chính thức và lâu đời của dân tộc, ông Trần Quốc Vượng cũng cho rằng huyền tích này mượn ư của văn hoá Trung Hoa cổ bằng cách viện dẫn Dịch học nói về quẻ Càn. Ông Trần Quốc Vượng viết:
     “Huyền tích Rồng bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên của một dân tộc th́ cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời th́ theo tôi cần giải mă quẻ Càn (Trời vua) của Dịch học.
     Tiềm Long vu Thuỷ
     Hiện Long tại Điền
     Phi Long tại Thiên


     Đến đây ông Trần Quốc Vượng bỏ lửng coi như là đoạn kết của bài báo. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn chứng tỏ rằng - mặc dù với sự kiện thành lập kinh đô, sự khẳng định một quốc gia độc lập vững chắc của người Lạc Việt; đối với Trần Quốc Vượng th́ nước Đại Việt vẫn nô lệ về văn hoá?
     Để có cớ dẫn đến sự phản bác giá trị lịch sử văn hoá truyền thống của dân tộc, tất nhiên vị giáo sư khả kinh - vốn được một số người xếp vào hàng tứ trụ trong giới sử học Việt và dài phát thanh có tên tuổi BBC phỏng vấn – ông Trần Quốc Vượng phải nhân danh khoa học. Chúng ta xét xem những chứng cứ gọi là “khoa học” của ông Trần Quốc Vượng trong bài báo được thực hiện như thế nào? Căn cứ cụ thể trên bài báo mà ông Trần Quốc Vượng dựa vào bắt đầu từ danh xưng của vua Hùng và Thục Phán theo cách gọi của đồng bào các dân tộc. Đương nhiên, để phủ nhận những giá trị lịch sử dân tộc Việt Nam, Trần Quốc Vượng không thể chỉ căn cứ vào cách gọi và nội dung danh từ chỉ vua Hùng và Thục Phán; mà có thể c̣n phải căn cứ vào rất nhiều hiện tượng lịch sử khác. Nhưng việc đưa lên báo cách gọi vua Hùng và Thục Phán của đồng bào các dân tộc – để dẫn đến sự khẳng định thời Hùng Vương không phải là vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai theo quan niệm của ông Trần Quốc Vượng – th́ tất yếu đó phải là luận cứ quan trọng nhất. Đă có nhiều bài báo, công tŕnh nghiên cứu liên quan đến danh xưng của vua Hùng và Thục Phán. Trước đây, ông Đào Duy Anh có quan điểm ngược lại với Trần Quốc Vượng về Thục Phán. Ông Đào Duy Anh cho rằng: Thục Phán là một từ nhân danh (Trần Quốc Vượng cho là một từ chức năng), là Thục Vương Tử và cố chứng minh rằng Thục Phán là con vua nước Ba Thục. Cho rằng Trần Quốc Vượng đă đúng so với Đào Duy Anh, tức là vua Hùng được gọi là P̣ Khun và đúng luôn cả cái nghĩa là thủ lĩnh mạnh nhất; Thục Phán là Túc Phắn, là thủ lĩnh mở đất mở mường th́ điều đó cũng không thể coi là luận cứ có sức thuyết phục để phủ nhận thời Hùng Vương là một vương triều và cho rằng Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai. Ngược lại; hiện tượng mà chính ông Trần Quốc Vượng đưa ra lại có thể giải thích ngược lại rằng: Chính sự tồn tại của từ P̣ Khun trong đồng bào các dân tộc để chỉ vua Hùng; đă chứng tỏ quyền lực của các vua Hùng không phải chỉ ảnh hưởng đến chủng tộc Lạc Việt, mà c̣n bao trùm trên các chủng tộc khác trên đất nước Văn Lang. Sự ảnh hưởng này chắc chắn phải rất mạnh; nên 2000 năm sau h́nh ảnh vua Hùng vẫn tồn tại trong lịch sử phát triển của đồng bào các dân tộc để ông Trần Quốc Vượng biết được P̣ Khun là vua Hùng, là thủ lĩnh mạnh nhất. Ông Trần Quốc Vượng c̣n căn cứ vào sử sách của người Hoa hạ để chứng minh rằng quốc hiệu Văn Lang của Việt Nam xuất hiện vào đời Đường. Như vậy ông Trần Quốc Vượng gián tiếp phủ nhận luôn nội dung truyền thuyết cổ nhất của dân tộc Việt Nam - truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, niềm tự hào của người Lạc Việt; khi truyền thuyết này khẳng định thời Hùng Vương quốc hiệu là Văn Lang. Nếu vậy - theo ông Trần Quốc Vượng – th́ sẽ phải đặt lại vấn đề: Truyền thuyết này có từ bao giờ? Và tiếp theo đó sẽ là việc đặt lại thời điểm xuất hiện của hàng loạt những truyền thuyết lịch sử thời Hùng mà tuần tự thời gian được xác nhận ngay trong các truyền thuyết đó đều có sau truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên; như: Bánh Chưng , bánh Dầy; Trầu cau.... Đây là một việc mà khả năng của ông Trần Quốc Vượng và tất cả những học giả chung quan điểm với Trần Quốc Vượng - kể cả trong và ngoài nước (không loại trừ Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Taylor) không bao giờ có thể làm được; để phủ nhận giá trị lịch sử của những truyền thuyết đó. Tổ tiên người Lạc Việt đă để lại một tổ hợp truyền thuyết lịch sử về thời Hùng Vương có một kết cấu chặt chẽ với những di ấn không thể phủ định. Đó là sức mạnh của nền văn hiến Việt Nam được chứng tỏ qua bao thăng trầm của lịch sử. Chỉ cần một hiện tượng đó cũng đủ chứng tỏ thời Hùng Vương là một quốc gia có tổ chức với một nền văn minh rực rỡ. Thời Hùng Vương không thể phủ định th́ giá trị lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam thể hiện trong các cuộc khởi nghĩa đầy khí phách dành độc lập của dân tộc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc không thể phủ định. Tiêu biểu cho khí phách và tinh thần anh dũng đó chính là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Để chứng minh điều này; tôi trở lại với vấn đề quốc hiệu Văn Lang của các vua Hùng – nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt và các dân tộc anh em. Hiện nay có không ít những nhà nghiên cứu cho rằng các truyền thuyết về thời Hùng Vương là nguỵ tạo từ thế kỷ XV. Họ căn cứ vào cuốn ”Lĩnh Nam trích quái “ được viết vào thế kỷ XV. Đúng là cuốn sách này được viết vào thế kỷ XV thật. Nhưng điều đó không có nghĩa những truyền thuyết này chỉ xuất hiện vào thời kỳ đó. Chính tác giả của cuốn sách cũng thừa nhận chỉ sư tầm chép lại từ dân gian. Ông Vũ Quỳnh - viết trong lời tựa:
Ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá; viết vào tre mới là quí hơn bia miệng đâu? Từ đứa trẻ hoi sữa đến các cụ già tóc bạc đều truyền tụng để tỏ ḷng yêu dâu..”
Nhưng chuyện tiêu biểu về thời Hùng Vương trong Lĩnh Nam trích quái chúng ta cũng thấy rằng: Truyện lập quốc Văn Lang là sớm nhất. Sau đó mới đến Trầu Cau Bánh Chưng – Bánh Dầy . Ông Trần Quốc Vương và một số không ít các nhà nghiên cứu ủng hộ ông có thể chứng minh được tục làm bánh chưng bánh dầy trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc vào thế kỷ XV chăng? Hay họ có thể chứng minh tục ăn trầu có từ thời Lư - Trần chăng? Ăn trầu là phong tục của người Trung Quốc chăng? Như vậy; chính những giá trị văn hoá phi vật thể là chiếc bánh chưng – bánh dầy trong ngày lễ Tết của dân tộc Việt và tục ăn trầu phổ biến khắp miền năm sông Dương Tử – và ngay bây giờ ở Đài Loan (vốn có vị trí vĩ tuyến ngang Đông Đ́nh Hồ là biên giới Văn Lang xưa) – đă chứng tỏ tính thống nhất về văn hoá trong một cộng đồng sinh sống ở một vùng lănh thổ rộng lớn Nam Đông Đ́nh Hồ. Sự thống nhất về văn hoá này chứng tỏ đă có một quyền lực bảo trợ cho những giá trị văn hoá ấy . Đó là triều đại các vua Hùng mà chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại đă thừa nhận; họ gọi là nước Ba. Các truyền thuyết sau – “Trầu Cau” và “Bánh Chưng – Bánh Dầy” lại là sự bảo chứng cho truyền thuyết trước về một nước Văn Lang ở Nam Động Đ́nh Hồ với những dấu ấn văn hoá phi vật thể tồn tại từ hàng ngàn năm trước.
Cho dù có một văn bản nào đấy nhắc tới một địa danh Văn Lang vào thời nhà Đường th́ điều đó cũng không có nghĩa danh từ Văn Lang chỉ xuất hiện vào thời kỳ này.
     Ông Trần Quốc Vượng muốn chứng minh rằng nước Đại Việt dù độc lập về chính trị nhưng vẫn lệ thuộc về văn hoá, bằng cách đưa lời Hào Từ của quẻ Thuần Càn trong Kinh Dịch về con Rồng trong văn hoá Han để liên hệ với Thăng Long trong chiếu dời đô của Hoàng đế Lư Thái Tổ. Nhưng Kinh Dịch vốn được người Hoa Hạ coi là sản phẩm của ḿnh lại có nguồn gốc hết sức mơ hồ, cứ như từ trên trời rơi xuống. Đó là một cuốn sách không đầu không đuôi, ai muốn hiểu thế nào th́ hiểu. Người coi Kinh Dịch là sách bói, người coi là sách triết và lịch sử Kinh Dịch th́ đầy mâu thuẫn. Cho đến ngày nay, cả thế giới hiện đại xúm vào nghiên cứu Kinh Dịch vẫn c̣n ngơ ngác; thậm chí Kinh Dịch bí ẩn ngay cả với các học giả Trung Hoa hiện đại vốn tự nhận là hậu duệ của nền văn minh sản sinh ra Kinh Dịch.
     Đă có những học giả Việt Nam khả kính đặt vấn đề cho rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch liên quan đến nền văn minh Bách Việt; đó là Giáo sư Bùi Văn Nguyên với tác phẩm “Kinh Dịch Phục Hy” và Lê Văn Sửu với tác phẩm “Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành”. Đây là một giả thuyết rất có cơ sở khoa học.
     Như vậy, nếu đứng về góc độ của khoa học và thực tiễn th́ lư luận của ông Trần Quốc Vượng chưa đủ sức thuyết phục. Nhưng ông Trần Quốc Vượng đă vội vàng khẳng định quan điểm của ḿnh có tính áp đặt; khi đề nghị:
“Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ư thức đ̣i cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”.

Chính lời đề nghị này đă chứng tỏ một tư duy phi khoa học, khi khoa học cần có sự đối thoại để t́m chân lư. Sự đề nghị có tính áp đặt của ông Trần Quốc Vương sẽ không cho phép những tư duy phản biện xuất hiện. Đấy không phải là tinh thần khoa học.
     Không xuất phát từ một tư duy khoa học th́ ông Trần Quốc Vượng nhân danh cái ǵ để phủ định những giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam? Nếu có sự nói thẳng ra điều này dưới bất cứ h́nh thức nào th́ Thiên Sứ tôi sẽ im lặng. V́ Thiên Sứ tôi chỉ nhân danh khoa học.
     Sắp tới ngày tưởng niệm hai vị liệt nữ anh hùng của dân tộc Việt. Hai vị đă giải phóng 64 thành tŕ và giành độc lập; ǵn giữ lại những bản sắc văn hiến của dân tộc Việt. Xin có lời nhắc nhở đến những ai có quan niệm phủ định công lao của Hai Bà trong lịch sử dân tộc bằng cách cho rằng:

Lănh thổ của nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở đồng bằng Bắc bộ; nên làm ǵ có 64 thành để Hai Bà Trưng giành lại.

Nhưng chính Tô Đông Pha đă viết:

” ...Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại t́nh trạng man di. B́ Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đă mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mă Viện) chịu khó đánh dẹp th́ dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ.(*)
-----------------------
* Chú thích: An Nam chí lược: Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục “Cổ Tích”. Viện ĐạI hoc Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận.

Qua đoạn trích dẫn trên th́ dân Chín quân sẽ không thể chỉ là Nhật Nam và Cửu Chân; mà là bao trùm nam sông Dương Tử. Chính với vùng lănh thổ rộng lớn này sẽ giải thích hơn 60 thành mà ông Tô Đông Pha nói tới.
Cảm ơn sự quan tâm của quư vị.


Thiên Sứ   
----------------------------
Ta về giữa cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa



Sửa lại bởi ThienSu : 05 April 2005 lúc 6:28pm
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
VDTT
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2675
Msg 2 of 8: Đă gửi: 05 April 2005 lúc 7:17pm | Đă lưu IP Trích dẫn VDTT

     Chỉ việc đọc sử liệu do chính người Tàu viết lại th́ biết cuộc nổi dậy của hai bà Trưng vĩ đại thế nào. Ngay cả những sách dă sử (bịa tha hồ) rơ ràng muốn miệt thị hai bà Trưng như "Đông Hán diễn nghĩa" mà vẫn phải nh́n nhận đây là một cuộc nổi dậy sâu rộng và to lớn.
     Chuyện 65 thành đâu phải do ta bịa ra đâu, mà là sử Tàu công nhận đấy. Sự thực họ không gọi là thành, mà là "huyện". Nói chung chung "huyện" của Tàu bao gồm một diện tích lớn hơn chữ huyện của ta nhiều. Như bây giờ lớn nhất là quốc gia, dưới là tỉnh (như Tứ Xuyên, Quảng Đông), kế là huyện. (Xưa đại để cũng thế, chỉ khác là hay dùng đơn vị "quận" ở trên huyện.)
     Như Đài Loan bây giờ vẫn gọi là tỉnh Đài Loan. Thủ đô Đài Bắc to lớn thế mà chỉ là một phần của huyện Đài Bắc.
     Tôi đọc những bài "khiêm nhượng hóa" thành tích tiền nhân của các vị "thâm cứu" của VN cận đại cũng như hiện đại, thỉnh thoảng thấy buồn cười. Tôi không theo chủ nghĩa quốc gia cuồng tín, nhưng tôi thấy chẳng có lư do ǵ để phủ nhận những cái mà chính sử gia phía bên kia đă phải công nhận.
     Nhưng thiết nghĩ, họ (các sử gia "thâm cứu") cũng phải viết để kiếm miếng ăn. Chỉ buồn là họ mang tiếng "thâm cứu" mà h́nh như đọc không đủ, nên kiến thức nghèo nàn.

Sửa lại bởi VDTT : 05 April 2005 lúc 7:34pm
Quay trở về đầu Xem VDTT's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi VDTT
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 3 of 8: Đă gửi: 05 April 2005 lúc 9:37pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Tôi xin góp lời theo từng "mẩu bài" ngắn riêng.

Về Ngôn Ngữ:

Chính tôi và một số nhà ngôn ngữ học VN đă phản đối tính thiếu thận trọng khi suy luận về ngôn ngữ, đúng hơn là so sánh ngôn ngữ của Trần Quốc Vượng. Chúng ta biết: Ciao (phát âm rất giống Chào) trong Tiếng Ư rất giống Chào Tiếng Việt, nhưng chúng không có liên hệ ǵ với nhau. Suy diễn ngôn ngữ từ chỗ phát âm na ná không phải khi nào cũng đúng.

1 số tên gọi cổ như Hùng, Lạc... hiện nay các giải mă mới chỉ ở mức độ giả thiết.
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 4 of 8: Đă gửi: 05 April 2005 lúc 10:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Về:

Ông TQV viết:
     “Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ư thức đ̣i cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”.

- Trong luận điểm này ông TQV tự mâu thuẫn: bởi v́, rất đơn giản, "không chấp nhận lối sống Hán Hoa" chính cũng là biểu hiện của "tinh thần dân tộc". Một dân tộc biết không để cho 1 dân tộc khác áp đặt cách sống lên ḿnh th́ đă có tinh thần dân tộc. Tất nhiên mức độ của tinh thần dân tộc phát triển đến đâu th́ lại chuyện khác, và sẽ không bàn ở đây. Chỉ nói qua để thấy cuộc khởi nghĩa 2 Bà là biểu hiện không thể lảng tránh của tinh thần dt.

- Nhưng, nếu cắt xén ra câu này của ông Trần QV th́ đúng: "không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa" và "khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị" (tôi lưu ư: đây là tôi nói nó đúng nếu tôi cắt xén nó ra khỏi context của bài viết ông TQV).

+ Không chấp nhận lối sống dt khác áp đặt lên ḿnh cũng là một động lực của đấu tranh giải phóng, bên cạnh những động lực to lớn như độc lập, chủ quyền ... th́ c̣n có yêu cầu "đc sống như văn hoá của dt ḿnh" như ông Quang Trung nói:

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng

(tất nhiên, nó chưa phải tất cả, v́ sau đấy ông Quang Trung viết "Nam quốc sơn hà vi hữu chủ", đấy mới là lí do cao cả nhất).

+ Khi TQ đặt ách đô hộ VN 1000 năm, thật ra, họ không phải ban đầu đă đặt được ngay chế độ trực trị, đồng hoá gắt gao (về lối sống, quản lí hành chính, luật pháp...) lên nhân dân Việt, một phàn v́ đội ngũ quan lại cử sang cai trị không đủ, thứ đến là họ rất sợ động chạm quá mạnh đến dân bị trị, đặc biệt là tầng lớp "quí tộc Việt". V́ vậy ban đầu chế độ cai trị quản lí lỏng lẻo, dùng nhiều các Lạc tướng, Hào trưởng người Việt làm cán bộ quản lí (như Thi Sách), trong dân gian nhân dân vẫn được sống với phong tục tập quán của ḿnh, và xử sự theo luật tục người Việt... Như vậy chưa phải chế độ trực trị. Một phần bộ máy quản lí và quân sự của kẻ thống trị chưa đủ, một phần là "sự cục bộ hoá" của các quan được cử sang trấn nhậm.

càng về sau, nhất là sau cuộc kinh lí của Mă Viện th́ người Tàu càng cố thắt chặt ḱm kẹp, đồng hoá, thực thi chế độ trực trị. Những khi như vậy, th́ dân Việt phản ứng ngay bằng các cuộc khởi nghĩa. T́nh h́nh yên ắng hơn khi các quan lại cai trị "thả lỏng" cho dân Việt, sự cai trị chỉ nộp thuế và h́nh thức, nghĩa là các quí tộc Việt vẫn thực sựu là những người lănh đạo dân chúng trong các địa phương về thực chất, và cũng về thực chất, nguời Việt được sống khá tự do đằng sau các luỹ tre, trong đó có quyền tự do sinh hoạt theo phong tục và luật tục của chính ḿnh.

sử sách có thể cho thấy, mỗi khi Tàu thắt chặt sự quản lí cai trị gắt gao, gạt bỏ uy tín các tù trưởng, hào trưởng địa phương người Việt, th́ sự phản ứng của dân Việt trỗi dậy ngay.

Cũng như vậy, khi họ Khúc thực chất nắm quyền tự chủ dưới danh nghĩa là "tiết độ sứ" cho Tàu th́ t́nh h́nh nước ta cũng yên ắng.

Không có sự khẳng định, trước khi thoát khỏi ách thống trị 1000 năm của Tàu th́ dt ta chưa có tinh thần dân tộc. Nhưng có thể nói tinh thần đó không ngừng phát triển, trui rèn, ngày càng mạnh mẽ qua các thời đại, từ bị trị 1000 năm cho đến các triều phong kiến VN.

Tôi cho rằng quá khứ 1000 năm bị trị không thật sự "dài" và "u ám" như nhiều người vẫn tưởng.


Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 5 of 8: Đă gửi: 05 April 2005 lúc 10:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Về các giá trị văn hoá phi vật thể, tôi có bất đồng với cả 2 ông (TQV và NVTA) nhưng xin phép chưa nói v́ rất nhạy cảm, người viết ư thức rằng rất dễ bị mang tiếng là "thiếu tinh thần dân tộc" mặc dầu tinh thần dân tộc của một người là thiêng liêng và không ai có quyền qui chụp suy diễn cho anh ta.

Tôi chỉ xin nói là vấn đề xác định niên đại các di sản phi vật thể tương đối khó và dung sai rất cao. Nhất là truyền thuyết, truyền thuyết nào cũng tự nhận là ghi lại sự thật lưu truyền, nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Tôi chưa thể nói những truyền thuyết Trầu Cau, Bánh Chưng Bánh Tầy .... đc dân ta bắt đầu truyền tụng khi nào (sách ghi lại khi nào lại là chuyện khác), nhưng tôi xin phép nghi ngờ chúng ở một mức độ. tôi nghĩ không thể có chuyện nguồn gốc tục ăn trầu là do câu chuyện 2 anh em và 1 người vợ được, đó chỉ là một lối "giả giải nguyên" trong folklore học, tất nhiên câu chuyện này sẽ ra đời muộn hơn (chưa biết muộn hơn đến mức nào) so với thời gian bắt đầu có tục ăn trầu.

Dân Nhật Bản tin rằng họ là con cháu Thái Dương Thần Nữ, rất khó xúc phạm họ, nhưng chắn chắn truyền thuyết này không có cơ sở, họ là Người như tất cả các dt khác, tiến hoá cũng theo thuyết Đác Uyn, không có nguồn gốc thần linh ǵ hết.

Tôi chỉ có thể nói thế, để tránh những hiểu nhầm bất lợi cho ḿnh, v́ đây là vđ nhạy cảm.
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 6 of 8: Đă gửi: 06 April 2005 lúc 12:27am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Quí vị thân mến.
Bài viết của ông Trần Quốc Vượng đă công khai trên báo chí tất nhiên nhiều người biết - có thể kể cả những nhà nghiên cứu nước ngoài - Tôi không cắt trích từng câu theo ư riêng mà là một đoạn đủ ư; câu đủ ư. Trong phản biện học thuật việc cắt trích từng câu là thủ đoạn tranh biện học thuật.
Tôi thường chép nguyên văn và chứng minh phản biện từng đoạn.Nhưng v́ bài báo viết đă lâu và sự phản biện cũng từ lâu; nên ko thể đưa toàn bộ bài viết lên đây.
Quí vị có thể tham khảo toàn bộ bài viết này trong bài báo nói trên.
Nếu tôi t́m lại được bài viết này sẽ đưa lên toàn bộ để quí vị tham khảo.
Thiên Sứ
----------------
Ta về giữa cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa


Sửa lại bởi ThienSu : 06 April 2005 lúc 12:29am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 7 of 8: Đă gửi: 18 April 2005 lúc 7:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Kính thưa quí vị quan tâm.
Dưới đây là toàn văn bài viết của ông Trần Quốc Vương về văn hoá sử Việt trên báo Nguồn Sáng số tháng 8 năm 99. Quí vị tham khảo bài viết của ông ta và so sánh với những ư tưởng của ông ta mà tôi đă diễn đạt trong tựa này. (Những phần in nghiêng và làm đậm là do Thiên Sứ thực hiện; để quí vị tiện tham khảo).

TỪ HOA LƯ ĐẾN THĂNG LONG
                                                                                     Gs. Trần Quốc Vương

Những thủ lĩnh địa phương và lănh địa.

        Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các Vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII đến thứ IX). Tôi đă chứng minh rằng Vua hùng là một Po Khun – thũ lĩnh mạnh nhất cũa một phức thể Khun (Vua = Bua = P̣; Hùng = Khun) tức hệ các thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu Thổ sông Hồng (Việt Tŕ) đến các vùng băi biển. Theo truyền thuyết và theo sử cũ th́ lúc bấy giờ có 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith Taylor đă dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord”.
        Cuối đời Hùng nổi lên nhân vật Thục Phán (An Dương Vương) và nước Âu Lạc, thành Cổ Loa.
Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội)nằm gần ngă ba Dâu Canh, được giới địa lư học coi là đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ, sau cái đỉnh thứ nhât là ngă ba Hạc - Việt Tŕ.
Sự dịch chuyển đỉnh châu thổ sông Cái (Nhị - Hồng) từ trung du tới vùng châu thổ cao (địa) khéo theo sự chuyển di trung tâm phức thể Việt với một tổ chức nhà nước Âu Việt sơ khai (Chính tri). Điều đó là đúng với quy luật địa chính trị, địa chiến lược, địa văn hoá.
Tôi và Cầm Trọng đă chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ - chức năng : “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”.
Đất nước trải ngàn năm Bắc thuộc. Nhưng Nam Việt Triệu Đà (180-137tr.CN) rồi Tây Hán Vũ Đế (111tr.CN-8 năm sau CN) cũng chỉ phái “sứ giả” (Triệu) hay thứ sử , thái thú (Hán) cùng một số đạo quan binh sang đóng giữ các miền ở Mê Linh, ở Luy Lâu rồi Long Biên……(tại xứ Đoài, xứ Bắc ngày sau) và thu cống nạp chứ bên dưới vẫn “để Lạc tướng trị dân như cũ”, “dĩ kỳ cố tục trị” (Tiền Hán thư). Và Hai bà Trưng vẫn được ghi là “con gái Lạc tướng Mê Linh” và Thi (hay Thi Sách) là “con trai Lạc tướng Chu Diên”. Thái thú Tô Định tàn ngược định dùng pháp chế Hán thắt buộc hạn chế thế lực thủ lĩnh địa phương cũ (“dĩ pháp thằng chi”- Hậu Hán thư) th́ lập tức con cái Lạc tướng và các thủ lĩnh cổ truyền đă v́ oán giận, nổi dậy chống Hán. Không nên xem Khởi Nghĩa Bà trưng là biểu hiện cũa sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên xem đó là một ư thức đ̣i cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán- Hoa, làm một khuôn mẫu phổ biến. Tôi đề nghị giới khảo cổ sử học Việt Namnên coi khởi nghỉa Hai Bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị.
Dù sau năm 43-44, Mă Viện và chính quyền Đông Hán có can thiệp sâu hơn xuống cấp huyện (vùng), nhưng cuối thời Đông Hán đầu thời Tam quốc, đất Việt - với Sĩ Nhiếp và các em ông, tuy tổ tiên 6 dời là ở nước Lỗ (Sơn Đông) nhu8ng7 sang Nam Việt – Giao Chỉ đă lâu và đă nhiều phần bản địa hoá - về thực chất vẫn là một dất tự trị, tự quản.

Thời Lục triều (Nguỵ Tấn Nam Bắc triều) cũng như vậy. Triều đ́nh trung ương Trung Hoa th́ suy yếu, các thế lực địa phương vẫn mạnh mẽ. Nhiều quan lại Tống, Tề, Lương, Trần (Nam triều Trung Hoa, mà phần Hoa bắc đă bị Ngũ Hồ loạn Hoa chiếm giữ) cử sang Giao Châu chỉ là “hữu danh vô thực”, rất chông chiêng. Chúng ta, giới sử học Việt Nam nên đặt cuộc khởi nghĩa Lư Bí giữa thế kỷ VI và việc thành lập nước Vạn Xuân với danh hiệu Lư Nam Đế (Tiền, Hậu) trong bối cảnh đó.
Nên chăng cần ghi nhận, với Lư Nam Đế và nước Vạn Xuân, người Việt sau 600 năm Hán hoá đă bắt đầu có ư thức quốc gia và tinh thần “vô tốn (không thua kém, không lùi bước) Trung Hoa”. (Kháiniệm “vô tốn” và “ bất dị” (không khác) Trung Hoa là do Lê Quư Đôn khái quát lại về sau, ở thế kỷ XVIII). Đằng sau Lư Nam Đế là thế lực tinh thần Phật Giáo , thế cho nên lột Lư Xuân nào đó của tịch thư Trung Hoa th́ lại tự xưng là Lư Phật Tử (Con Phật).

Cuối đời Tuỳ (605-617), đế quyền Trung Hoa suy yếu th́ các thế lực địa phương lại trỗi lên, diển h́nh là cha con Lê Cốc (Lê Ngọc) ở Ái Châu (Thanh), và Hoan Châu (Nghệ An) - tức là vùng ngoại biên của không gian xă hội Việt – mà nàh Đường tuy lên ngôi ở Trường An năm 618 nhưng phải đến 622 mới tạm dẹp yên được để có được một An Nam đô hộ phủ với trung âm là Tống B́nh – Hà Nội ngày nay.
Từ Cổ Loa xuống Luy Lâu – Long Biên nửa đầu thời thuộc Bắc 600 năm là sự dịch chuyển từ vùng cao xuống vùng thấp châu thổ sông Hồng và (sông Thái B́nh) đă khẩn trương hơn do áp lực dân số ngày càng tăng và cũng do kỹ thuật đồ sắt hậu Đông Sơn, kỹ thuật thuỷ lợi tưới tiêu nước ruộng đồng Lạc điền ngày càng tiến bộ và phát huy rộng răi (Phong Khê; vùng Cổ Loa – Đông Ngàn cũ đă có đê) (Hậu Hán thư) , một phần do hội nhạp kỹ thuật thuỷ lợi và trị thuỷ Trung Hoa vùng ven biển từ Phúc Kiến đến Quảng Đông ngày nay ( Mă Viện do sử chép ( Hậu Hán thư) đă đào sông khơi ng̣i …sinh lợi cho dân”). Đấy vẫn là những hệ thuỷ lợi và trị thuỷ cổ truyền của người Bách Việt cũ được người Hán tiếp thu và truyền dạy lại. Và Luy Lâu là trung tâm buôn bán, trung tâm truyền bá Phật giáo, Nho Giáo, Đạo giáo. Ở thời đó Phật giáo c̣n nhiều chất pha trộn Bà-la-môn giáo .
Sử sách nhà Đường và nhà Tống chép hồi cố về nhà Đường như Cựu Đường thư, Tân Đường thư và Man thư, Nguyên Hoà quận huyện chí, Thái B́nh hoàn vũ kư , Đường hội yếu ..v…v .. kể cả Tuỳ thư cho ta biết nhà Đường và nhà Tuỳ đă từng bước đổi mới cơ cấu chính trị - hành chính ở đất Việt khá ổn định. Với các cấp An Nam đô hộ phủ, Châu (12 châu như Giao, Trường, Ái, Hoan, Lục (Hoàng) và kể cả các châu “ki mi” (ràng buộc lỏng lẻo ở miền núi Việt Bắc và một phần Tây Bắc hiện nay) rồi xuống Huyện, Hương và Xă nữa (đơn vị xă có ở đất Việt từ thời thuộc Đường (VII - đầu X), rất nhiều quan cấp sử An Nam đô hộ, Tiết độ sứ…) là người phi Hoa hay chỉ nửa Hoa như Khang Thái. Y như thời Tam Quốc Nam Bắc triều, có rất nhiều thái thú Cửu Chân ( Thanh Nghệ) có họ Mạnh của Mạnh Hoạch hay họ Thoán người gốc Di (Tạng Miến) Vân Nam như Thoán Cốc, Mạnh Thống v..v.. Đây là vấn đề rất lư thú để hiểu thêm về ảnh hưởng Tạng Miến, ảnh hưởng thảo nguyên trung Á đến nền văn hoá việt nam như MậtGiáo , Sa Man giáo… Đồ làng Vạc Đông Sơn muộn cũng như trống đồng Hưng Yên , Quảng Trị có nhiều mô típ trong trang trí kiểu Điền (Vân Nam) . Song, Tuỳ Đường thư vẫn không chối căi được một sự thật là chính quyền Trung ương Trung Hoa chỉ cử quan được đến cấp châu “c̣n ở bên dưới, cấp huyện, th́ tuỳ tiện tuyển bổ “bọn cừ suư Lư Lăo Man” làm huyện quan và ràng buộc chúng lỏng lẻo mà thôi”
       Cho nên ta đừng nh́n thấy cơ cấu chính trị - tư tưởng Trung Hoa quá mạnh xuống tới cơ sở. Nó chỉ là một lớp sơn mỏng – dày tuỳ nơi, tuỳ lúc phết lên cái lơi văn hoá Việt. Và thật chính xác, khi nói cái làng Việt luôn là cứ điểm chống Hoa hoá cả về chính trị và văn hoá. Làng Việt là nơi lưu giữ bản sắc dân tộc và dân gian lâu dài nhất.
        Từ Lục triều Tuỳ Đường trở đi, sư săi đă trở thành lớp trí thức Việt đầu tiên (chứ không phải là nho sĩ, c̣n lẻ tẽ lắm và thiếu tổ chức lại, ưa vọng ngoại “Nam nhân Bắc hướng”). Và trớ trêu thay, hay nghịch lư thay, thực ra là thuận lư khi lớp sư săi Việt bản địa và cả gốc Hoa lâu đời, nhiều người đă đi hành hương sang Thiên Trúc, nhiều bậc cao tăng đă sang tận kinh đô Trường An giảng kinh cho vua Đường, có người sang cả kinh đô Nara (Nại Lương) của Nhật Bản nữa, họ đủ chất kinh lịch, từng trải vượt lên trên lớp tiểu nông Phật tử “sống ở làng”, họ hội tụ và kết tinh tinh hoa đất thần linh - người Việt và họ trở thành đại diện của tinh thần quốc gia dân tôc Việt, họ trở thành kẻ tiên tri của nền tự chủ Việt và bằng thế lực tinh thần - vật chất của tự viện, họ trở thành người lănh đạo tinh thần cho phong trào tự chủ Khúc – Ngô – Đinh – Lê ở thế kỷ thứ X,cái “I An Mil” làm bước ngoặt lịch sử cho cả nước ta, nước Tàu và thế giới Phương Tây.

12 sứ quân:
Sự hoài cổ tiền Bắc thuộc:
       Thế kỷ X là một sự đảo lộn chính trị, một sự lộn xộn nữa, nhưng khuynh hướng chính là tiến bộ, tiến tới nền tự chủ của nước nhà.
       Tôi rất thích thú về lời ca thán của nhiều sử sách Trung Hoa: “Dân Việt rất khó cai trị, rất thích làm loạn”. Tiếp cận văn hoá học th́ “thông điệp” đó có nghĩa là người Việt thích lối sống riêng, không thích sự áp đặt chuyên quyền độc đoán của khuôn mẫu Trung Hoa. Đấy là quan điểm đầy nhân tính, cận nhân t́nh và do vậy cũng là một số hằng số văn hoá rất hiện đại và luôn có tính thời sự. Quan điểm đó được kết tinh ở tầng lớp Thiền sư và hào trưởng địa phương.
        Chính quyền trung ương quân chủ nhà Đường suy yếu và chết hẳn vào năm 907 để Trung Hoa mở ra cục diện “Ngũ đại thập quốc” kéo dài hơn nửa thế kỷ X. Đấy là thời cơ thuận tiện để dân ta nổi dậy dành chính quyền tự chủ.
        Sự nghiệp xây dựng tự chủ đầu tiên là họ Khúc ở Hồng Châu (B́nh Giang, Hải Dương) vốn là một hào trưởng địa phương. Lợi dụng sự trống chỗ của Tiết độ sứ cai quản an toàn An nam, Khúc Thừa Dụ đă nổi dậy kéo quân về đô hộ phủ (An Nam, Tống B́nh, Hà Nội) và tự xưng Tiết độ sứ năm 905. Đấy là một mưu mẹo chính trị hay và mềm dẻo. Ông đă vạch ngay được một phương hướng chiến lược chính trị mà mấy trăm năm sau vua chúa Đại Việt c̣n áp dụng:
        “Chính sự cốt chuộng Khoan Dung - Giản Dị để cho dân chúng được An Cư - Lạc nghiệp” (Cương Mục). Khúc Thừa Dụ mất năm 907, con ông là Khúc Hạo chỉ để tang cha có 7 ngày (một ứng sử phi Nho) đă bắt tay cầm quyền trị nước , cải cách hành chính, đổi hương làm xă và đặt chức xă quan (củng cố chính quuyền cơ sở ), giảm tô thuế (so với định mức tô – dung - điệu của nhà Đường trước) để sinh lợi cho dân. Nhưng con ông, Khúc Thừa Mỹ hèn yếu, bất lực và thần phục nhà Hậu Lương là một trong ngũ đại ở Trung Hoa (do bị áp lực của Nam Hán, bấy giờ là Nam Hán chứ không c̣n là Nam Việt thời Triệu Đà nữa, có sự bàn bạc của triều đ́nh Quảng Châu ngàn năm sau Triệu Đà, trải Hán - Đường thống trị và di dân đồng bào hoá đă hoàn toàn Hán hoá rồi, c̣n Giao Chỉ - Cửu Châu, mức độ Hán hoá thấp, vẫn là đất Việt, dân Việt tuy sống lối sống đă khác với người Việt cổ Đông Sơn)
        Khúc Thừa Mỹ đă đi bước lùi của lịch sử hẳn v́ dù đă có Đại La (Hà Nội) vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện ngoại viện (nhà Lương). Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem về Quảng Châu. Ông này chết mất tích ở Quảng Châu.
        Nhưng lại có hào trưởng ở Ái Châu là Dương Đ́nh Nghệ (nha tướng cũ của Khúc Hạo) diệt tướng nam Hán , xung Tiết độ sứ. Xứ Thanh bước vào vũ đài lịch sử là bắt đầu từ đây, cho dù, hay chính v́, xứ Thanh là miền “ngoại biên” của đất Việt.
       Hào trưởng Châu Phong (mạn Phúc Thọ) là một thế lực lớn ngoại biên gần châu thổ sông cái đă kéo quân giết Dương Đ́nh Nghệ. Ngô Quyền – con Ngô Mân tướng quân “Thứ sử châu Phong đời đời là nhà quư tộc quê Đường Lâm”, và là con rể Dương Đ́nh Nghệ - đă kết liễu Kiều Công Tiễn rồi dẹp giặc bên Nam Hán ở Bạch Đằng, dựng lại quyền từ chủ (châu Thao gồm 2 nửa ở hai bên sông Thao,hữu ngạn (Sơn Tây sau) là phạm vi thế lực của Ngô, tả ngạn (Vĩnh Phúc, Phú Thọ sau) là phạm vi thế lực của họ Kiều.
        Sử cũ ghi chép chuyện đánh lẫn nhau rồi bên yếu cầu ngoại viện.Thực chất của cuộc nội chiến này, theo tôi, là sự đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Việt của các thủ lĩnh địa phương (mà GS O.W. Woleters gọi là các “man of proess” = người dũng mănh)
        Chính quyền quân chủ Trung ương Đường suy tàn rồi biến mất tạo ra một khoảng trống quyền lực ở đất Việt (An Nam đô hộ phủ), một cái “hẫng hụt trung ương” mà nhiều hào trưởng địa phương có tham vọng điền vào chỗ trống ấy.
        Do vậy theo tôi không nên nh́n thời kỳ “Thập nhị sứ tướng quân” chỉ như một cuộc loạn sau thời Ngô Vương Quyền mất.

“Hoạ    phúc hữu môi phi nhất nhật”
 (Hoạ  phúc có mầm đâu chốc lát)
                                                                                                                                    Ức   Trai
        Cái “loạn” ấy có mầm mống ngay sau năm 905, hay c̣n từ trước đó nữa như tôi đă dẫn giải ở trên và không nên lấy làm lạ là trong số 12 sứ quân mà sử cũ chép theo nhau ta thấy đến 2 ông sứ quân họ Kiều là cháu nội của Kiều Công Tiễn ở Phong Châu, 2 ông sứ quân họ Ngô thuộc ḍng dơi Ngô Quyền, và ông sứ quân họ Đỗ - Đỗ Cảnh Thạc – th́ từ đời Đỗ Viện - Đỗ Tuệ Độ thế kỷ thứ IV đă là một thế lực lớn ở Đỗ Động Giang (Thanh Oai – Hà Tây) ..v…v..
        Họ Đinh ở Hoa Lư mà một thế lực thủ lĩnh địa phương ở ngoại biên châu thổ sông Cái, nơi ấy sự phân hoá Mường - Việt chưa diễn ra mạnh mẽ. Dễ hiểu là cho đến nay vùng sát dải núi 99 ngọn dọc sông Đáy th́ sườn phía Đông dải núi này là Việt c̣n sườn phía Tây dải núi này (mạn Hoà B́nh nay) vẫn là Mường và ḍng họ Đinh quư tộc Mường vẫn tự nhận ḿnh là gốc gác Đinh Tiên Hoàng “nhất thế vi vương, vạn đại phi nhất vương tù trưởng” (nhà Đang mường Động). Hoa Lư – sau đổi thành Trường Yên là đất Trường Châu cũ của An Nam đô hộ phủ đời Đường kéo dài hai bên bờ sông Đáy từ Hà Nam tới Ninh B́nh nay (Hà Nam là quê Lê Hoàn, Ninh B́nh là quê Đinh Bộ Lĩnh). Trong viên gạch có in chữ “Giang tây quân” là một phiên hiệu của quân sĩ phong thu, phong đông ở thời Đường. Ở đôi bờ sông Cái mạn Nam Định- Thái B́nh nay (bố hải Khẩu nay là vùng Cầu Bo, Vũ Thư, Thái B́nh) là thế lực của sứ quân Trần Lâm - Gốc Mông Phúc Kiến đă sang khai thác miền ven biển rồi Việt hoá. Hai thế lực Đinh - Trần liên kết với nhau, chiếm cứ cả dải phù sa mới ven biển từ cửa sông Đáy (Độc bộ) đến cửa sông Cái Đại Hoàng Giang - tiểu Hoàng Giang là sông Châu - sông Đáy. Vùng ấy có đất đai ph́ nhiêu, lại có buôn bán bằng đường biển, có đánh cá, tài lực dồi dào, Phật Giáo pha trộn với Thần Giáo cũng phát triển ở vùng Giao Thuỷ (Giao Thuỷ là vùng nước ngọt - nước mặn giao nhau mà theo luật địa - kinh tế, địa - văn hoá là nơi thuyền bè tụ họp chờ nước triều lên xuống để ngược sông ra biển) nên thường h́nh thành các thị tứ như vùng non nước Đáy – Vân Sàng (Ninh B́nh), vùng giao nước Châu Giang – sông Cái Tức Mặc (Nam Định), vùng giao nước sông Cái – sông Trà Lư (Trà Lư là một địa danh gốc Melayu – Trà = Ea = nước, sông nước) (Thái B́nh nay). Hai thế lực liên kết Đinh – Lê đó đă ngược sông dần dà chinh phục hay khống chế được các sứ quân khác từ Hưng Yên (Đằng Châu - Phạm Pḥng Át, Tế Giang (Văn Giang) Lă Đường), Bắc Ninh (Siêu Loại Lư Khuê, Tiên Du Nguyễn Thủ Tiệp, Phù Liệt - Nguyễn Siêu (Phù Liệt – vùng Sét – Thanh tŕ nay) rồi Đỗ Động Giang - Đỗ Cảnh Thạc (Thanh Oai), Đường Lâm (Sơn Tây) Ngô Nhật Khánh, rồi anh em họ Kiều (Cẩm Khê - Bạch Hạc Phú Thọ) Nguyễn Khoan - Nguyễn Gia Loan – Yên lạc – Vĩnh Phúc). Nghĩa là kiểm soát được toàn vùng tam giác châu sông Cái - Nhị - Hồng). Cái lănh thổ cốt lơi của nước Đại Việt ta thời Đinh – Lê là đó. Song Đinh Lê chưa thể ra đóng đô ở thành Đại La cũ “giữa cơi bờ đất nước” được, mà vẫn thủ thế ở vùng Hoa Lư - Trường Yên “quê nhà”. Nhà Đinh nên được xem là một nhà vua quân chủ tập quyền.
        Sao chăng nữa, cũng đă có một h́nh mẫu quôc gia ở Hoa Lư, giới khảo cổ Việt Nam đă phát hiện được ngày càng nhiều viên gạch xây thành, xây cung điện có in ḍng chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây thành của vua nước Đại Việt – Do vậy cần xem lại cái quốc hiệu “Đại Cồ Việt”của sử cũ. Nhiều nhà nghiên cứu ngờ Cồ Việt là tên nôm : Kẻ chỉ Việt, Không gian xă hội văn hoá của người Việt)
       Theo tôi nh́n, cái nh́n địa - văn hoá th́ Hoa lư – Trường Yên nghĩa hẹp là một bồn địa giữa núi được lấp đầy dần bởi phù sa sông biển (qua các bài thơ của Nguyễn Trăi th́ cho đến thế kỷ XV Thần Phù (Yên Mô – Ninh B́nh nay) vẫn là vùng “hải khẩu” và vùng non nước (thị xă Ninh B́nh ) vẫn rất gần cửa biển.
C̣n Hoa lư nghĩa rộng là một vùng tứ giác nước bao bọc bởi các sông Hoàng Long, Đáy, Vân Sàng.
        Từ Hoa Lư thế lực Đinh Lê vươn tới được Cửu Châu = Kẻ (xứ) Thanh nhưng vẫn phải nhân nhượng các thế lực địa phương như Lê Lương ở Đông Sơn chẳng hạn. Và nên chú ư tới thế lực họ Dương ở vùng ngă ba Dàng (Dương Xă). Dương Đ́nh Nghệ không c̣n như Dương Tam Kha c̣n “quậy” dưới thời Ngô. Và trong năm bà hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng (và cả họ Lê - Lư sau này) vẫn có bà hoàng hậu (sau là thái hậu) họ Dương. Sau lưng mỗi bà hậu là một thế lực địa phương. Hôn nhân cung đ́nh thực chất là một cuộc liên minh chính trị, nhà Nho sau không hiểu cho là Đinh – Lê – Lư làm trái lễ Nho, chỉ một “hậu” thôi chứ! Thế lực sĩ phu Nho gia thời đó đâu đă mạnh bằng thế lực Phật giáo.
       Lê Hoàn sau khi phá tan Tống B́nh Chiêm, uy danh có lớn hơn song biên niên sử chép đầy dẫy việc ông phải đi đánh “giặc”, “kẻ làm loạn” ở các xứ Ái, Hoan, Diễn (có vai tṛ kích động của họ Dương – Dương Tiến Lộc 989), Đỗ Động Giang, Phong Châu… và phải chia đất cho các con cai quản ở các vùng trọng yếu: Đằng Châu (Hưng Yên), Phong Châu (Sơn Tây – Phú Thọ - Vĩnh Phúc), Ngũ huyện giang (xứ Thanh), Đỗ Động (Hà Đông), Cổ Lăm (Bắc Ninh), Phù Đái Hải Dương)… Lại đến lượt các con ông trở thành các thế lực địa phương, sau khi ông mất (1005), lại đánh lẫn nhau trong 8-9 tháng trời để tranh lập các thế lực địa phương khác.

Nhà Lư lên ngôi và dời đô ra thành Đại La cũ (Thăng Long)
       Ông Nguyễn Thiệu Lâu đă nêu một ư tưởng địa lư rất hay: Hà Nội là thủ đô thiên nhiên của Đại Việt: trăm núi, trăm sông đều hội tụ về đây, rồi từ đây lan toả.
        Sau này theo thuyết phong thuỷ người ta nói đến thế long bàn (rồng cuộn - bên tả, tả thanh long là dải Tam Đảo), hổ cứ (hổ ngồi – bên hữu - hữu bạch hổ - là dải 99 ngọn) với cái chẩm (Gối – Ba V́) ở sau cái đai (dải nước Nhị Hà) ở trước và trung tâm là Long đồ, (rốn rồng) nơi có trục trung tâm nối trời với đất, rồi sông Tô Lịch với thần Long Đỗ, thần Tô Lịch v..v.. Đặc biệt Hà Nội là xứ sở của rất nhiều huyền thoại - huyền tích, huyền tích bản địa và huyền tích vay mượn và biến đổi từ Trung Hoa, từ Ấn Độ:
                         - Nào là huyền tích “Cửu vĩ hồ tinh” với Long Vương dâng nước phá hang cáo, tạo ra đầm xác cáo (làng Cáo đỉnh bên bờ Hồ Tây – Xuân Đỉnh nay).
                         - Nào là huyền tích hồ Trâu Vàng và sông Kim Ngưu - mượn từ huyền tích Hồ Tây bên Hàng Châu, Trung Quốc.
                         - Nào là huyền tích hồ trả Gươm với nghi thức thần thoại nhúng thanh gươm (dương - lửa sấm sét) xuống nứơc (âm – lũ lụt) được lịch sử hoá thành thanh thần kiếm “Thuận Thiên” thần ban cho Lê Lợi chống giặc Minh, thắng lợi rồi Trời sai thiên sứ Rùa Vàng - một hoài cố thần Kim Quy với thành cổ Loa hay Quy thành ở xứ Tứ Xuyên Trung Quốc - xuống xin lại thanh gươm (Hồ Hoàn Kiếm).
                         - Nào là huyền tích đức thánh Chèm – ông Khổng Lồ xoạc chân đôi bờ sông Cái giết giải - thuồng luồng trả thù cho mẹ bị thuỷ quái nuốt ở thời sơ cổ (Lư Ông Trọng).
                        - Rồi đến huyền tích Khổng Lồ - Không Lộ - Minh Không, đi thuyền như bay về Kinh sư chữa bệnh hoá hổ của vua Lư Thần Tông bằng việc nhúng tay vào vạc dầu sôi sùng sục rồi tắm vuốt cho thân thể nhà vua (đây là ma thuật chữa trị của các nhà Yoga).
                        - Và trước đó Từ Đạo Hạnh vứt gậy ở Yên Quyết (Cót). Gậy trôi ngược ḍng đến cầu Tây Dương (Cầu Giấy) mới dứng lại và thiền sư (kiêm một pháp sư) dùng gậy đó đập chết pháp sư Đại Điên, trả thù cho bố… Sau đó là chuyện Từ Đạo Hạnh đập dầu vào đá hang núi chùa Thầy đầu thai làm Lư Thần Tông.
      Trước đó là huyền tích Pháp sư Đại Điên xui Nguyễn Bông nấp trong buồng tắm Ỷ Lan nguyên phi để đầu thai làm Lư Nhân Tông v..v. và v..v..
Kho di sản văn hoá vô thể đó của Hà Nội cần được nghiên cứu, giải mă, giữ ǵn và phát huy.
       Để kết thúc bài viết này, tôi xin quay trở lại với bài văn thường được gọi là Chiếu dời đô của Lư Công Uẩn. Chiếu là một thể văn của Trung Hoa chỉ một người (Vua) được dùng và nhằm hạ lệnh. Bài Chiếu của Lư Công Uẩn (do ai đó soạn thảo, có thể là theo ư tưởng của thiền sư Vạn Hạnh). Theo tôi là một tuyên ngôn địa – chính trị, địa chiến lựơc về vùng đất Đại La “ở giữa Đông Tây Nam Bắc, tiện h́nh thế núi sau, sông trước, xứng đáng là thượng đô của muôn đời” và Lư Công Uẩn bày tỏ khát vọng “Đóng nơi trung tâm, mưu toan việc lớn cho muôn đời con cháu mai sau”. Bài chiếu lại kết thúc bằng một câu phá cách văn chiếu Trung Hoa mang đậm đà bản sắc văn hoá Việt “Trẫm nghĩ như vậy, nhưng ư các khanh thế nào?”. Tôi đă nói nhiều lần đây là bài chiếu hỏi ư kiến quần thần về việc dời đô đầy ư vị Việt Nam. Được viết ở Hoa Lư vào tháng 2 và tới tháng 7 mới bắt đầu cuộc dời đô bằng thuyền, từ Hoa Lư theo ḍng Hoàng Giang ra sông Đáy, sông Nhị để tiến lên Đại La.
      Huyền tích Rồng Bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên mới của dân tộc th́ cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời th́ theo tôi cần giải thích theo Quẻ Càn (Trời – Vua) của Dịch học:
                         T iem long vu thuỷ
                         H ien   long tại điền
                         P hi   long tại thiên


Theo báo Nguồn Sáng: Tháng 8 năm 99.

Thiên Sứ trích dẫn.

Sửa lại bởi ThienSu : 18 April 2005 lúc 8:14pm
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 8 of 8: Đă gửi: 16 May 2005 lúc 10:38am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Kính thưa quí vị quan tâm!

Thiên Sứ tôi thấy bài viết này có ư tưởng nên xin đưa lên đây để quí vị tham khảo.



NỖI L̉NG THỊ MẸT AI TỎ, AI HAY
THƯ NGỎ CÙNG CÁC ĐẤNG MÀY RÂU!

(Trích đoạn cuối)

        Vào đầu tháng 3 năm 2005 này, trong một cuộc phỏng vấn của đài B.B.C một vị giáo sư sử học hữu danh đă nói (đại khái): Dân tộc Việt ngày nay không c̣n thuần chủng, ngựi phụ nữ Việt Nam có thể “chở” được mọi hạng người. Mà với ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm Pháp thuộc, và trong những ngày gần đây có Nhật, Đài Loan, Mỹ, Âu, Phi đủ cả. Vậy th́ ông phóng viên B.B.C thử tính xem “c̣n ǵ” ....     
        Người đàn bà Việt nam đang được người đàn ông Việt Nam đánh giá như thế chăng? Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam nghĩ sao về vấn đề này? Phần tôi trước khi bày tỏ nỗi ḷng ở các bài kế tiếp, xin hỏi nhỏ trước vị giáo sư này là :”Khám phá vĩ đại và cao quư này là do ngài khổ công t́m hiểu ra hay chỉ là học lỏm của mấy ông Tây (thường chẳng coi trọng ǵ dân mũi tẹt, da vàng) và theo ngài th́ : Chính ngài là người Việt lai giống nào?”

LÊ THỊ MẸT                                                       (31/3/2005 – Kiến thức Gia Đ́nh/ Số 13-368)

Thiên Sứ giới thiệu.
--------------------------
Ta về giữa cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa


Sửa lại bởi ThienSu : 16 May 2005 lúc 10:44am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.0449 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO