Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 197 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: LƯỚI NGHIỆP VÀ 12 NHƠN DUYÊN Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
saohom
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 1 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 4:37am | Đă lưu IP Trích dẫn saohom

LƯỚI NGHIỆP VÀ 12 NHƠN DUYÊN   :

Chúng sinh vùng vẫy trong lưới nghiệp, hết đời sống này qua đời sống khác, không thoát ra được lưới nghiệp đó chính là 12 nhơn duyên:

1. Vô minh: (Các phiền năo tham, sân, si)
2. Hành: tạo các nghiệp tức là nghiệp nhân quá khứ
3. Thức: Kiết sanh thức tức là thức nhập thai.
4. Danh sắc: Bào thai h́nh thành trong bụng mẹ.
5. Lục nhập: sáu căn h́nh thành đầy đủ.
6. Xúc: sau khi lọt ḷng mẹ, sáu căn tiếp xúc với sáu trần.
7. Thọ: Cảm thọ vui, khổ.
8. Ái: đam mê năm món dục.
9. Thủ: bám cảnh năm dục.
10. Hữu: tạo ra nhơn hữu lậu và chịu quả báo tái sanh.
11. Sanh: tái sanh với thân năm uẩn.
12. Lăo tử: (già chết).

Xúc thọ, ái, thủ, hữu là năm chi thuộc nghiệp nhân của đời sống hiện tại. Sanh, già, chết là quả vị lai. 12 nhơn duyên là nguyên động lực, lôi kéo chúng sanh ra vào ba cơi, tạo ra các nghiệp.

Muốn thoát khỏi lưới nghiệp phải dùng gươm trí tuệ đoạn trừ vô minh, phiền năo (phiền năo chướng), không c̣n tạo nghiệp và tái sinh nữa: đó là giải thoát. Giá trị và ư nghĩa của nhân sinh đối với đạo Phật như vậy là khá rơ. Con đường thoát khổ cũng được Đức Phật vạch ra minh bạch. Nhưng ngoại đạo lại bị tà kiến che mờ, cho nên họ không hiểu được ư nghĩa của nhân sinh và con đựng thoát khổ. Kinh Tăng Chi của Phật giáo Nam phương có trích lời Phật như sau: "Này, các tỷ kheo, các ngoại dạo có ba loại tà kiến, nếu tin theo th́ phước đức sẽ bị tiêu tan, bại hoại. Ba tà kiến đó là ǵ?"

Thứ nhất là tà kiến về mạng vận. Đời này được vui hay chịu khổ là do mạng vận quyết dịnh trước. Thứ hai là tà kiến về Thần. Mọi việc đều do ư chí của Thần, Thượng đế an bài, con người không thể làm ǵ để tránh khỏi được. Thứ ba là cho rằng, mọi việc xảy ra ở đời này đều là ngẫu nhiên, t́nh cờ, do đó mà con người sống rồi thác đi buông trôi. Ta gặp nhĩmg người đó và hỏi: "những diều ấy đáng tin chăng?". Họ đáp: "Đáng tin". Ta bèn hỏi: "thế th́ các tội sát, đạo, dâm, vọng... cũng đều do thần an bày cả chăng? Đều do mạng vận sắp đặt cả chăng? Hay đều là do ngẫu nhiên chăng?" Thế nhưng hành vi của ḿnh sai th́ tự ḿnh phải sửa chữa, theo thiện, bỏ ác. Con người phạm sai lầm th́ phải trách ḿnh, và tự hối, đoạn trừ lỗi lầm cũ th́ mới tạo ra được mạng vận mới cho ḿnh. Ngoại đạo nghe lời dạy bảo của Phật, không trả lời được câu nào bèn bỏ đi nơi khác.

8. PHÂN LOẠI NGHIỆP

Có nhiều cách phân loại:

I- Một cách là phân loại theo thân, khẩu, ư:

- Thân: thân nghiệp gồm có thân biểu nghiệp và thân vô biểu nghiệp.

* Biểu nghiệp là nghiệp biểu hiện thành hành vi cụ thể, nhưng có dấu vết lưu lại của nó trong nội tâm.
* Vô biểu nghiệp là nghiệp tiềm ẩn sẽ sinh quả trong tương lai, khi có đủ nhơn duyên chín mùi.

- Khẩu: ngữ nghiệp gồm có ngữ biểu nghiệp và ngữ vô biểu nghiệp.

- Ư: ư nghiệp gồm mọi ư nghĩ có tạo nghiệp.

II- Cách thứ hai là phân loại theo thiện, ác, vô kư (3 tánh)

1) Thiện nghiệp: (cũng gọi là an ổn nghiệp)

Phóng sanh, không sát sanh.
Bố thí, không lấy của không cho.

* Thân thiện nghiệp:

Sống trong sạch, không tà dâm.
Nói thực, không nói dối.
Nói lời có ích, không nói lời uế tạp, vô nghĩa.

* Ngữ thiện nghiệp:

Nói lời dịu hiền, không nói lời cay độc
Nói lời đoàn kết, ḥa hợp, không nói lời chia rẽ, ly tán.
Giữ tâm xả, không tham.
Giữ tâm từ bi, không giận.

* Ư thiện nghiệp:

Giữ vững niềm tin nhơn quả, không có tà kiến.

2) Ác nghiệp:

Thân ác nghiệp: sát sanh, lấy của không cho, tà dâm.

Ngữ ác nghiệp:

Nói dối
Nói lời vô ích
Nói ác
Nói y gián, chia rẻ. (lưỡng thiệt)

Ư ác nghiệp:

Tham
Sân
Si
Tà kiến

3) Vô kư nghiệp: Không thiện, không ác. Do sức nghiệp yếu, cho nên không sinh quả.

III- Cách thứ ba là phân loại theo giá trị đạo đức, phúc đức, hay không phải phúc đức:

1) Phúc nghiệp: Làm các thiện nghiệp, lợi cho chúng sanh.

2) Phi phúc nghiệp: Làm các nghiệp ác, có hại cho chúng sanh.

3) Bất động nghiệp: Tu thiền định, dẫn tới tái sanh ở các cơi trời sắc giới và vô sắc giới; ở cơi này chỉ có bất động nghiệp.

IV- Phân loại nghiệp theo đen trắng, đen trắng lẫn lộn, và không đen, không trắng:

Đen có nghĩa nhơ bẩn, trắng là sạch, thanh tịnh.

1) Hắc nghiệp: (nghiệp đen) Làm ra các nghiệp bất thiện, làm dơ bẩn thân, tâm.

2) Bạch nghiệp: (nghiệp trắng) Làm nghiệp thiện, thanh tịnh, cho nên gọi là trắng.

3) Nghiệp đen trắng lẫn lộn: Làm nghiệp thiện nhưng có yếu tố ác xen lẫn, gọi là tạp nghiệp, hay nghiệp đen trắng lẫn lộn, pha tạp.

4) Nghiệp không đen không trắng: Là nghiệp vô lậu, dẫn tới quả vô lậu của hàng Thánh, cho nên gọi là "không đen", lại cũng không tạo ra quả dị thục, dù là thiện cho nên gọi là không trắng.

V- Phân loại nghiệp theo phạm vi tác dụng của nghiệp: cá nhân hay tập thể.

1) Cọng nghiệp: Thuộc nhiều người cùng tạo và cùng chịu quả.

a) Cọng trung cọng: như núi, sông, đất, không khí. Nhiều người thọ dụng.
b) Cọng trung bất cọng: như nhà cửa, ruộng vườn, do cá nhân tự thọ dụng.

2) Bất cọng nghiệp:

a) Bất cọng trung cọng: như thân người, tuy do cá nhân ḿnh sử dụng nhưng cũng có những người khác nương tựa vào như con cái nương tựa vào cha mẹ.
b) Bất cọng trung bất cọng: như tai, mắt trên thân người, th́ chỉ có người đương sự mới thọ dụng được mà thôi.

VI- Phân loại nghiệp theo năng lực của nghiệp:

1) Năng sanh nghiệp: Nghiệp dẫn tới tái sanh, cũng có nghĩa nghiệp tạo ra quả vị lai (sinh ra quả vị lai).

2) Năng tŕ nghiệp: (A. Supporting karma) Đă sinh ra làm người rồi tạo các nghiệp duy tŕ cái thân người này.

3) Năng tiêu nghiệp: (A. Counteractive karma) Thí dụ, đối với gnhiệp ác đă làm, chúng ta tạo ra các nghiệp thiện để tiêu nghiệp ác đó.

4) Năng hủy nghiệp: (A. Destructive Karma, Supplanting Karma) Đang chịu nghiệp làm người, nhưng phạm tội ác trầm trọng, hủy ngihệp được làm người đó. Như Đề Bà Đạt Đa, tuy mang thân người, nhưng nuôi ác tâm hại Phật, phải đọa địa ngục A Tỳ.

VII- Phân loại nghiệp theo tính chất nặng nhẹ của nghiệp:

1) Cực trọng nghiệp: Nghiệp lực rất mạnh, quyết định hướng tái sinh, lấn át các nghiệp khác. Có thể thiện, có thể ác. Nói về ác th́ tội ngũ nghịch: giết cha, mẹ, A la hán, làm chảy máu Phật và phá ḥa hợp Tăng.

2) Cận tử nghiệp: (A. Death proximate Karma) - Nghiệp lực tạo ra khi lâm chung, cũng quyết định hướng tái sinh nếu không có cực trọng nghiệp.

3) Tập quán nghiệp: Nghiệp thân, khẩu, ư làm măi thành thói quen, cũng quyết định hướng tái sinh, nếu không có sự hiện diện các nghiệp khác, mạnh hơn.

4) Tích lũy nghiệp: Nghiệp dự trữ, chưa thành quả. Nếu không có nghiệp mới, quyết định hướng tái sanh, th́ vai tṛ này thuộc về nghiệp lực tích lũy, từ vô thỉ đến nay.

VIII- Phân loại nghiệp theo hiệu lực đối với tái sanh:

1) Dẫn nghiệp: Nghiệp lực dẫn tới tái sanh ở cơi này, cơi khác, cơi người, cơi súc sanh, cơi quỷ đói, cơi trời...

2) Măn nghiệp: Nghiệp hỗ trợ cho dẫn nghiệp, "nối tiếp và hoàn thành dẫn nghiệp", như cùng sinh ra làm người (là cọng nghiệp), nhưng có người mạnh, yếu, sống lâu, chết yểu, giàu, nghèo.. Đó là loại nghiệp dẫn tới quả báo riêng biệt của mỗi người, gọi là biệt báo.

IX- Phân loại nghiệp theo sự lănh thọ:

1) Tâm thọ nghiệp: Tức là tâm thức của người cảm nhận quả báo buồn vui, ưu năo...Tâm thức này là ư thức là thức thứ sáu.

2) Thân thọ nghiệp: Tức là năm thức đều cảm thọ, khác với tâm thọ là thức thứ sáu cảm thọ. Năm căn gắn liền với năm thức đầu, cùng cảm thọ cho nên gọi là thân thọ nghiệp.

X- Phân loại nghiệp theo thời gian chịu báo

Có hai nhóm lớn:

1) Định nghiệp:

a) Nghiệp nhứt định đem lại quả báo trong đời này. Quả báo và thời điểm chịu báo đều được xác định. Hoặc là thời điểm chịu báo là xác định, nhưng quả báo chưa xác định như thế nào. Thường được gọi là hiện báo.

b) Nghiệp đem lại quả báo ở đời sau: quả báo và thời gian chịu báo đều xác định. Hoặc là thời điểm chịu báo xác định, nhưng quả báo chưa xác định. Thường được gọi là sanh báo.

c) Nghiệp đem lại quả báo ở các đời sa u nữa. Quả báo và thời điểm chịu báo đều xác định. Hoặc là quả báo chưa xác định, nhưng thời điểm đă xác định, thường sách Phật gọi là hậu báo.

2) Bất định nghiệp:

Thời điểm thọ báo chưa xác định, quả báo đă xác định, nhưng thời điểm chịu báo chưa xác định, hay là quả báo và thời điểm chịu báo đều chưa xác định.

XI- Phân loại nghiệp theo quả báo:

1) Nghiệp địa ngục: làm cả 10 nghiệp ác (loại tội ác nặng nhứt).

2) Nghiệp súc sanh: làm 10 nghiệp ác (loại tội ác trung b́nh).

3) Nghiệp quỷ đói: làm 10 nghiệp ác (loại tội ác tương đối nhẹ so với nghiệp địa ngục và nghiệp súc sanh).

4) Nghiệp người: tạo thiện nghiệp với tâm tán loạn (hạ cấp).

5) Nghiệp loài Trời: tạo thiện nghiệp với tâm phân tán (thượng cấp), tâm loài Trời dục giới chưa phải là định tâm.

6) Nghiệp bất định: làm đôi chút thiện, xen lẫn tội ác nhỏ nên chưa xác định là sanh ở cơi nào.

9. TỔNG KẾT BÀI NGHIỆP – TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHIỆP VÀ BÀI HỌC NGHIỆP

Nghiệp chính là nguyên động lực khiến cho chúng sanh luân hồi trong ba cơi. V́ vậy mà trong kinh nói: "Thế gian dựa vào nghiệp mà chuyển, chúng sanh dựa vào nghiệp mà chuyển, chúngsanh bị nghiệp ràng buộc, giống như bánh xe dựa vào trục mà quay" (chuyển dẫn từ cuốn "Câu xá luân tụng giảng kư" tr. 215: Thế gian y nghiệp nhi chuyển, hữu t́nh y nghiệp nhi chuyển, hữu t́nh vi nghiệp sở triền, như xa y trục nhi hành.)

Cũng về tầm quan trọng của nghiệp, Kinh "Tiểu nghiệp phân biệt" (Trung bộ Kinh III.) viết như sau:

"Các loài hữu t́nh là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, Nghiệp phân chia các loài hữu t́nh, nghĩa là có liệt có ưu".

Đoạn trên của bản Hán dịch viết như sau:

"Hữu t́nh dĩ nghiệp vi tự thể, vi nghiệp chi sở tương tục giả, dĩ nghiệp vi mẫu thai, dĩ nghiệp vi quyến thuộc, dĩ nghiệp vi sở vi giả. Phàm thử thượng hạ chi khu biệt, quân vi nghiệp sở chi phối". (Chuyển dẫn từ cuốn "Câu xá luân giảng kư" quyển trung tr. 125)

Tuy nội dung hai bản có khác nhau đôi chút, nhưng đều nhất trí về tầm quan trọng của nghiệp. Cái gọi là sinh mạng của chúng ta, kể cả chúng ta là loài người, chủ thể của nó chính là nghiệp. Nghiệp mới là cái bào thai đích thực sinh ra loài hữu t́nh. Tinh trùng của người cha, trứng của người mẹ bất quá chỉ là cái môi vật chất của nghiệp. Chính cái thần thức mang theo nghiệp (v́ vậy mà cũng gọi là nghiệp thức hay kiết sanh thức) đă đi vào bụng người mẹ. Loài hữu t́nh là chủ nhân của nghiệp, v́ chính ḿnh đă tạo ra nghiệp, nhưng cũng là kẻ thừa tự, chịu kết quả của nghiệp nhân đă tạo ra. Nghiệp không bao giờ tách rời chúng sanh, cho nên gọi là quyến thuộc. Chính do nghiệp tạo ra có thiện có ác, mà chúng sanh cũng có sự phân biệt kẻ sung sướng, kẻ đau khổ, người bần tiện, người giàu sang.

Chính sự khác biệt về nghiệp giữa các loài hữu t́nh, cũng như giữa loài người với nhau tạo ra sự khác biệt về thân phận cũng như cảnh ngộ trên thế gian này. Luận Câu Xá viết: "Thế biệt do nghiệp sanh" (Thế gian có sự khác biệt là do nghiệp)

Sự khác biệt đó không phải là do số phận, cũng không phải là do Thần hay Thượng Đế định đoạt, càng không phải do ngẫu nhiên, mà chính là do nghiệp nhân của mỗi chúng sanh tạo ra từ trong các đời trước có khác nhau.

Trong Kinh có câu: "nghiệp hữu thiện ác, quả phân tịnh uế". Nghĩa: nghiệp có thiện ác, th́ quả báo có chia ra thanh tịnh hay là nhơ bẩn khác biệt nhau.

Điều nên chú ư là, mọi nghiệp đều phải qua một thời gian nhất định, có đủ nhân đủ duyên th́ nghiệp mới chín mùi: Có người đời trước tạo nghiệp nhân ác, đời này tuy tu tỉnh tạo nhiều nghiệp thiện, nhưng cảnh ngộ vẫn bất hạnh, nhưng v́ hiện tại biết tu tỉnh, thường xuyên làm thiện cho nên nội tâm vẫn an lạc. Trường hợp trái ngược với trường hợp trên là có người, do đời trước tạo nghiệp thiện cho nên đời này gặp cảnh ngộ sung sướng, nhưng lại không biết tu tập, hiện tại chuyên tạo nghiệp ác, th́ nội tâm anh ta vẫn đau khổ, không an lạc. Chính hai trường hợp trái ngược nhau trên khiến cho người b́nh thường không hiểu, cho nên không tin ở thuyết nghiệp. C̣n tất nhiên, có người đời trước tạo nghiệp ác, đời này có cuộc sống bất hạnh, lại không tu tỉnh, cứ tiếp tục theo đà tạo nghiệp ác, cho nên cả cảnh ngộ bên ngoài và nội tâm bên trong đều đau khổ. Lại có người, đời trước tạo nghiệp thiện, đời này tiếp tục tạo nghiệp thiện, cho nên cả cảnh ngộ bên ngoài và đời sống nội tâm bên trong đều an lạc, sung sướng.

Thuyết nghiệp của Phật giáo không phải là thuyết định mệnh:

Khi khẳng định nghiệp không phải là định mệnh, Phật giáo mặc nhiên chủ trương, người tuy tạo ra nghiệp, là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nhưng quyết không phải là nô lệ của nghiệp. Đối với nghiệp quá khứ đă tạo ra, con người quyết không có thái độ tiêu cực như Kiều, trong truyện thơ của Nguyễn Du:

"Đă mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa".

Nhờ hiểu rơ nghiệp là ǵ, cơ chế vận hành của nghiệp ra sao, con người có thể chuyển nghiệp quá khứ, hạn chế nó, thậm chí triệt tiêu nó.


Tất cả vấn đề là ở chỗ chúng ta có hay không tu tập tâm, mở rộng tâm từ vị kỷ đến vị tha, từ nhỏ hẹp đến rộng lớn, nghĩa là như lời Phật dạy, phải tự tịnh kỳ ư, làm cho tâm ḿnh trở thành thuần tịnh, trongsáng, cỡi mở thực sự, rộng lớn thực sự. Như trong các kinh Nguyên thủy, khuyến cáo tu tập bốn vô lượng tâm: từ bi, hỷ xả, hay như trong kinh Kim Cang, Phật khuyến cáo các vị Bồ Tát hăy lấy cái tâm không trú tướng để thực hành bố thí, v́ bố thí như vậy, sẽ có công đức vô lượng.

Phật giáo Đại thừa sở dĩ có sức hấp dẫn mạnh mẽ chính v́ nó khuyến cáo mọi người phát tâm bồ đề rộng lớn, phát hạnh nguyện rộng lớn, độ cho tất cả chúng sanh cùng với ḿnh trọn thành quả giác ngộ và giải thóat vô thượng tức là quả Phật. Với tâm bồ đề rộng lớn đó, với hạnh nguyện to tát vĩ đại đó, như các hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng và Bồ Tát Phổ Hiền, th́ sẽ không có sự nghiệp ǵ dù khó khăn đến đâu mà Bồ Tát không thành tựu được viên măn. Chứ đừng nói ǵ những nghiệp thân ác đă làm từ trước, chúng cũng sẽ ḥa tan vào cái tâm vô lượng đó, như nhúm muối bị ḥa tan vào nước sông Hằng.

Nghiệp không phải là định mệnh nếu hiểu biết cơ chế của nghiệp, và với tâm được tu tập, trở thành cao cả rộng lớn, con người hoàn toàn có thể hạn chế tiến tới triệt tiêu nghiệp quá khứ. Tôi nghĩ rằng, một số kinh luận đă quá nhấn mạnh tính bất khả kháng của nghiệp, với mục đích răn dạy chúng sanh đừng có tạo nghiệp ác, khiến cho một số người hiểu lầm, tưởng rằng đạo Phật chủ trương thuyết định nghiệp. Như câu trích dẫn sau đây, của cuốn "Đại trí độ luận":

"Nghiệp lực là lớn hơn cả, không ǵ so sánh được trong thế giới, như người chủ nợ, đeo đuổi người không tha, quả báo của các nghiệp, không có người nào chuyển biến được, cũng không nơi nào trốn tránh được".

(Nghiệp lực vi tối đại, thế giới trung vô tỉ, thí như trái vật chủ, truy trục nhân bất trí, thị chư nghiệp quả báo, vô hữu năng chuyển giả, diệc vô đào tỵ xứ).

Bài học của nghiệp:

Càng học hiểu thuyết nghiệp, chúng ta càng thấy rơ hơn nhiều vấn đề trong cuộc sống, xảy ra cho chúng ta, cho mọi người, cho đất nước, cho thế giới, mà trước kia vốn đă từng làm chúng ta phân vân, không lư giải được.

Vâng, tất cả đều do biệt nghiệp (đối với ḿnh), hay cộng nghiệp (đối với xă hội, quốc gia và thế giới). Thế giới xă hội có muôn vàn sai biệt, giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, sung sướng hay đau khổ, văn minh tiên tiến hay lạc hậu, tất cả đều do nghiệp, đúng như câu tụng mở đầu phẩm nghiệp của Luận câu Xá:

"Thế biệt do nghiệp sanh". Nghĩa là thế giới có sai biệt là do nghiệp sanh ra.

Từ đó, bài học thứ nhứt mà thuyết nghiệp của đạo Phật dạy chúng ta là bài học nhẫn nại và b́nh thản. Một việc ǵ không may xảy ra cho ḿnh đều chỉ là một sự trả giá công bằng cho một nghiệp nhân bất thiện mà chúng ta đă làm từ trước. Ta đă làm th́ ta chịu. Trả xong th́ hết nợ, cả thân và tâm đều thanh thản. Gặp việc may mắn, chúng ta cũng khhông vui mừng thái quá đến mất tỉnh táo. Bất quá, cũng như chúng ta tiêu xài một số tiền đă dành dụm được từ trước. Nếu chúng ta không siêng năng tiếp tục làm điều thiện, th́ sẽ có ngày kết vốn, và sự đau khổ sẽ chờ đợi chúng ta. Gọi là vào cầu, vận đen hay đỏ, chỉ là sự vận hành của cơ chế nhân quả nghiệp báo mà thôi, một cơ chế tuyệt đối công bằng. Đúng như câu của Lăo Tử:

"Thiên vơng khôi khôi, sơ nhi bất lậu"
Lưới trời mang mang, tuy thưa mà không bỏ sót

Bài học thứ hai là bài học của niềm tin và nỗ lực tối đa. Tin chân chánh là gốc của mọi điều thiện, v́ vậy mà sách Phật gọi là tín căn (gốc tin). Tin chân chánh là sức mạnh, giúp làm mọi điều thiện, v́ vậy sách Phật nói tín lực (sức mạnh của tin). Niềm tin chân chính vào thuyết nghiệp của đạo Phật thúc đẩy chúng ta làm việc hết ḿnh, sống hết ḿnh v́ lư tưởng cao cả độ ḿnh, và độ người, và làm tất cả mọi việc có thể làm được v́ lư tưởng cao cả đó. Một khi đă phát tâm bồ đề vô lượng, th́ mọi việc làm của chúng ta đều có giá trị vô lượng, đối vi cả hai mặt biệt nghiệp và cộng nghiệp, đối với bản thân, cũng như đối với xă hội quốc gia dân tộc, và nhân loại thế giới.

Bài học thứ ba là bài học về tỉnh giác và tinh thần trách nhiệm. Chỉ có người không hiểu thuyết nghiệp của đạo Phật mới sống buông thả, phóng dật, không tỉnh giác đối với mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của ḿnh, không biết rằng mỗi suy nghĩ, lời nói và hành vi của ḿnh, đều có tác động đến bản thân, gia đ́nh, xă hội hoặc là ngay trong hiện tại, hoặc là về sau này.

Người có hiểu biết về thuyết nghiệp của đạo Phật, sẽ luôn luôn tỉnh giác và có ư thức trách nhiệm cao đối với mọi hành vi của ḿnh, đến ảnh hưởng lớn hay nhỏ, trực tiếp hay gián tiếp, hiện nay hay về sau của những hànhvi đó, đối với bản thân và đối với xă hội.

Trên đây là bài học của thuyết nghiệp của đạo Phật. Đây không phải là lư thuyết, mà là bài học của cuộc sống, bài học có giá trị thiết thực hiện tại đối với cuộc sống của mỗi chúng ta.







__________________
Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
Quay trở về đầu Xem saohom's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saohom
 
kimlong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 21 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 2 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 4:42am | Đă lưu IP Trích dẫn kimlong

DUYÊN KHỞI

Từ Pàli là Pratiya-samutpada, từ Sanskrit là Paticca-samuppada. Nghĩa là y duyên mà sanh khởi lên. Duyeân là nhân duyên, cũng như hiện nay nói điều kiện. Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện tượng, sự vật ở thế gian này sở dĩ tồn tại như vậy diễn biến như vậy là do có những điều kiện nhứt định.

Trong sách Phật, thường có những câu hay đoạn câu: mọi pháp đều nhơn duyên sanh, đều có tính duyên khởi, đều là y tha khởi; ư nói, mọi pháp (tức mọi sự vật, mọi hiện tượng và quá tŕnh) trong thế gian này không thể tự ḿnh tồn tại được mà dựa vào nhiều nhơn, nhiều duyên để tồn tại. Từ y tha nghĩa là dựa vào y vào nhân duyên.

Mọi sự vật ở thế gian này đều biến động vô thường, nhưng sự biến động vô thường ấy không phải là tự nhiên, hay ngẫu nhiên mà theo quy luật, tức là quy luật nhơn duyên sinh. Đó là một sự biến động có điều kiện (nhơn duyên).

Bậc Thánh giác ngộ là giác ngộ về những điều kiện diễn biến của sự vật, hiện tượng và quá tŕnh trên thế gian này. Bậc Thánh chỉ bày cho chúng ta thấy rơ những điều kiện ấy, để chúng ta có thể chủ động đối với chúng, chi phối chúng, thay v́ để chúng chi phối ta, sai sử chúng ta.

Ư nghĩa cơ bản của duyên khởi:

Ư nghĩa cơ bản của duyên khởi ở trong câu:

"Cái này có cho nên cái kia có,
Cái nàysinh, cho nên cái kia sinh,
Cái này không có cho nên cái kia không có,
Cái này diệt cho nên cái kia diệt".

Hay là trong câu:

"Các pháp do nhơn duyên sinh mà sinh, cũng do nhơn duyên diệt mà diệt".

Thuyết duyên khởi có tầm quan trọng hàng đầu đối với Phật Pháp cho nên có đoạn kinh đồng nhứt thuyết duyên khởi với Phật Pháp: "Thấy Phật Pháp tức là thấy duyên khởi, thấy duyên khởi tức là thấy Phật Pháp".

Thuyết duyên khởi dù là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Ấn Độ hay Phật Giáo Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, được xem như tư tưởng cơ bản của Phật giáo, là chủ thuyết khu biệt Phật giáo với các tín ngưỡng khác, hệ tư tưởng khác.

Thuyết duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị:

Quan hệ duyên khởi là quan hệ thời gian, không gian và quan hệ logic của mọi hiện tượng, sự vật trong thế giới, vũ trụ. Phật giáo, khi khảo sát những mối quan hệ đó, không ở ngoài mục đích t́m hiểu ư nghĩa cứu kính của nhơn sinh, nhằm trả lời câu hỏi: "V́ sao con người lại tồn tại trên thế gian này, v́ sao con người phải già, bịnh và chết, chịu nhiều đau khổ? Khi nói thuyết duyên khởi giá trị là nói thuyết Duyên khởi nhằm t́m hiểu giá trị của nhân sanh, cũng gọi là thuyết Nội duyên khởi.

C̣n thuyết Duyên khởi nói chung có tính chất bao trùm hơn, phổ quát hơn. Nó không những áp dụngcho vấn đề nhân sinh, mà cả cho toàn bộ hiện tượng, sự vật và quá tŕnh xảy ra trên thế gian và trong vũ trụ này. Định đề cơ bản của nó, như đă nói trên là:

Cái này có th́ cái kia có,
Cái này sinh th́ cái kia sinh,
Cái này không có th́ cái kia không có,
Cái này diệt th́ cái kia diệt...

Thuyết duyên khởi nói chung:

Cái này sinh th́ cái kia sinh: quan hệ thời gian
Cái này diệt th́ cái kia diệt (các hạnh vô thường)
Cái này có th́ cái kia có: quan hệ không gian logic
Cái này không có th́ cái kia không có

* Thuyết duyên khởi giá trị: Cũng gọi là nội duyên khởi (12 nhơn duyên và bốn đế)

Duyên vô minh, có hành (khổ quả)
Duyên hành có thức lưu chuyển (tất cả các hành là khổ [nhân] tập)
Duyên sanh có già chết... với tất cả mọi khổ năo kèm theo.
Vô minh diệt cho nên hành diệt
Hành diệt nên thức diệt (Diệt [quả] Niết bàn vắng lặng)
Sanh bị diệt cho nên già chết cũng diệt: (Đạo [nhân])

Qua biểu trên, thấy: Vế "cái này sinh th́ cái kia sinh, cái này diệt th́ cái kia diệt"... nói lên quan hệ thời gian trước sau. C̣n, vế: "cái này có th́ cái kia có, cái này khỏng có th́ cái kia không có", nói lên quan hệ không gian và quan hệ logic.

"Các hành đều là khổ" nói lên mặt trái của giá trị, mặt mê vọng luân hồi. "Niết bàn vắng lặng", nói lên mặt phải, mặt chính diện của giá trị, mặt giác ngộ và an lạc.

Các câu "duyên vô minh có hành, duyên hành có thức... duyên sanh, có già chết..." đó là chuỗi duyên khởi của mê vọng luân hồi.

Các câu "vô minh diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt..." là chuỗi duyên khởi của giác ngộ và giải thoát.

Trong bốn đế th́ hai đế khổ và tập là quan hệ nhơn quả dẫn tới lưu chuyển trong ṿng mê vọng luân hồi. Hai đế diệt và đạo là quan hệ nhơn quả dẫn tới giác ngộ và giải thoát. Do dó, bốn đế eũng thuộc phạm vi thuyết duyên khởi: lưu chuyển duyên khởi và giải thoát duyên khởi.

Thuyết 12 nhơn duyên:

Trong kinh Nguyên thủy thuộc văn hệ Pàli, có đoạn văn giới thiệu 12 nhơn duyên như sau:

"Này các tỷ kheo! Thế nào là duyên khởi? Này các tỷ kheo! Duyên vô minh mà có hành, duyên hành mà có thức, duyên thức mà có danh sắc, duyên danh sảc mà có sáu xứ, duyên sáu xứ mà có xác, duyên xúc mà có thọ, duyên thọ mà có ai, duyên ái mà có thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có sinh, duyên sinh mà có già chết, sầu bi khổ năo sinh ra. Như vậy, là duyên khởi của tất cả mọi đau khổ.

Ngược lại, vô minh diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt, thức diệt cho nên danh sắc diệt... sáu xứ... xác... thọ.. ái... thủ... hữu... Hữu diệt nên sinh diệt sinh diệt nên già chết, và mọi sầu bi khổ năo đều diệt. Như vậy, tất cả mọi đau khổ đều diệt."

Trong 12 chi nhơn duyên, hai chi đầu vô minh và hành thuộc về nhân của thời quá khứ, năm chi thức danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, là năm quả thuộc thời hiện đại. Đó là lớp nhơn quả quá khứ và hiện tại (hai nhơn quả quá khứ và năm quả hiện tại).

Ái, thủ, hữu là ba nhân thuộc thời hiện tại. Sinh và già chết là hai quả thuộc thời vị lai. Đó là một lớp nhân quả nữa: ba nhân hiện tai và hai quả vị lai. Đó là lớp nhân quả thứ hai hiện tại và vị lai.

Biểu sau đây minh họa hai lớp nhân quả quá khứ hiện tại và hiện tại vị lai như sau:

Mười hai duyên khởi

Vô minh tức là hoặc hai nhân thời quá khứ
Hành tức là nghiệp
Thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ.... năm quả thời hiện tại.
Trên đây là lớp nhân quả quá khứ hiện tại.
Ái thủ, hữu... Ba nhân thời hiện tại.
Sinh, già, chết... hai quả thời vị lai.
Là lớp nhân quả thứ hai: nhơn hiện tại quả vị lai.

Cho nên gọi thuyết 12 nhơn duyên gồm hai lớp nhơn quả, thuộc ba đời. Trong biểu,

1) Vô minh tức là phiền năo thuộc đời trước;
2) Hành là các nghiệp thiện ác tạo ra trong thời quá khứ.
3) Thức: Là dạng đầu tiên nhứt (sát na dầu tiên) của thân năm uẩn trong thai mẹ.
4) Danh sắc: là tổ hợp thân tâm bắt đầu h́nh thành trong thai mẹ, trong bốn tuần dầu tiên.
5) Sáu xứ (cũng gọi là lục nhập) là sáu căn năng. Đến tuần thứ năm th́ bào thai đă có sáu căn đầy đủ.
6) Xúc: thai nhi lọt ḷng mẹ, bắt đầu tiếp xúc với ngoại cảnh.
7) Thọ: là cảm xúc, vui, không vui...
8) Ái: thích thú đồ vật hoặc người thuộc giới tính khác.
9) Thủ: là vơ lấy nắm lấy làm của ḿnh.
10) Hữu: cũng gỉống nghĩa chữ Hành, tức là tạo ra các nghiệp thiện hay ác, dẫn tới quả vị lai.
11) và 12) Sinh và Già chết: do tạo nghiệp ở đời trước mà sinh ra ở đời này, với cái thân sẽ già, bịnh, chết với mọi khổ năo kèm theo.

Quan niệm của phái Du Già tức học phái Duy Thức:

Phái Du Già xem 10 chi từ vô minh cho đến hữu là thuộc đời hiện tại. Hai chi sau, sinh và già chết là thuộc đời vị lai. Đó là thuyết một lớp nhân quả trải qua hai đời.

Quan niệm của Hữu bộ:

Phái Hữu bộ (Sarvastivada) quan sát lư 12 nhơn duyên theo 4 loại duyên khởi:

1/ Sát na duyên khởi: tức trong một sát na (đơn vị thời gian ngắn nhứt có thể tưởng tượng được) cả 12 chi nhơn duyên cùng tồn tạỉ một cách logic.

2/ Liên phược duyên khởi: khi quan sát 12 nhơn duyên được thể hiện cụ thể trong thân tâm con người, hàng giờ phút biến đổi, và cả hoạt động b́nh thường của con người hằng ngày cũng dựa vào 12 nhơn duyên đó.

3/ Phân vị duyên khởi: tức là 12 nhơn duyên chia thành hai lớp nhơn quả trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.

4/ Viên tục duyên khởi: viễn tức là tiếp tục măi, cho tới khi con người chứng được Niết bàn. Chuỗi 12 nhơn duyên này nối tiếp măi không ngừng đời này sang đời khác cho tới khi đương sự chứng Niết bàn, không c̣n luân hồi sanh tử nữa.




__________________
Muốn kiếp phù sinh sau khỏi luỵ .Quyển kinh câu kệ chớ nài công
Quay trở về đầu Xem kimlong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kimlong
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 3 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 4:45am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

Giải thích các chi trong 12 nhơn duyên

1/ Vô minh: S. Avidya; P. Avijja, tức là không biết, không hiểu đối với nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn, đối với thuyết boán đế. Trái với vô minh là mục chánh kiến trong Bát chánh đạo.

2/ Hành: S. Samskara; P. Pankhara, tức ba hành nghiệp ư, lời nói, thân. Do vô minh mà có hành động tạo nghiệp thiện, ác nơi ư nghĩ, lời nói và thân. Những nghieäp thiện ác này đều lưu lại dấu vết trong con người dưới dạng hạt giống, h́nh thành nhân cách, tập quán của con người đó.

3/ Thức: S. Vijinana, P. Vinnana, thức là tâm thức phân biệt. Kinh A Hàm khi nói về "duyên thức mà coù danh sắc", phân biệt có: 1. Thức nhập thai; 2. Thức trong bào thai; 3. Thức sau khi lọt thai. Thức nhập thai kinh Pàli gọi là: Kiết sanh thứe.

4/ Danh sắc: S. và P. Namarupa, danh là các hành tướng của tâm như thọ, tưỏng, hành... sắc chỉ sắc thân. Cũng có sách giải thích sắc là năm ngoại trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhưng có thể giải thích sắc là sắc thân th́ đúng lư hơn.

5/ Sáu xứ: S. Sad-ayatana; P. Salayatana, cũng gọi theo chữ Hán là luïc nhập hay lục nhập xứ: Tức là sáu căn năng, qua đó, thân tâm tiếp xúc với ngoại cảnh.

6/ Xúc: S. Aparsa; P. Phassa, tức là sự tiếp xúc của ba yếu tố căn, cảnh, và thức.

7/ Thọ: S. và P. Vedana, tức là cảm thọ vui, buồn hay không vui, không buồn.

8/ Ái: S. Trsna, P. Tanha, tức là sự thèm khát, cũng như khát thèm nước vậy. Như thấy cảnh vui, th́ thèm muốn, gặp cảnh nghịch th́ xa tránh.

9/ Thủ: S. và P. Upadana, sau khi trong tâm khởi lên ḷng thèm khát, th́ ở nơi ư, lời nói và thân, cũng khởi lên hành vi cụ thể bám lấy, vơ lấy, và đó chính là tạo nghiệp.

Có thể phân biệt có:

- Dục thủ: là thèm muốn, bám vào năm đối tượng của dục vọng như sắc đẹp, của cải, danh vọng, ăn, ngủ.
- Kiến thủ: tức là bám lấy kiến giải mà ḿnh vốn thích thú, dù là kiến giải sai.
- Giới cấm thủ: Tức là bám vào những giới diều vô lư, sai trái, như một số ngoại đạo cho rằng tắm nước sông Hằng th́ được xóa sạch mọi tội lỗi, sống ép xác khổ hạnh cũng xóa bỏ được mọi tội lỗi quá khứ.

10/ Hữu: S. và P. Bhava, tức là sự tồn tại. V́ tạo nghiệp trong quá khứ cho nên con người mới tồn tại, mới có thân năm uẩn, trong các cơi sống khác nhau. Nếu ở cơi Dục giới th́ gọi là Dục hữu. Nếu là ở cơi Sắc giới th́ gọi là Sắc Hữu, và nếu ở cơi Vô sắc th́ gọi là Vô Sắc hữu.

11/ Sinh: S. và P. Jati, tức là loài hữu t́nh, do nghiệp tạo ra trong quá khứ mà sanh trong các cơi sống khác nhau, thành các loại chúng sinh khác nhau.

12/ Già chết: S. và P. Jara-marana. Trong kinh nguyên thủy, sau già, chết c̣n thêm Sầu P. soka, Bi P. parideva, Khổ P. dukkha, Năo P. upayasa, Ưu P. domanassa.

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 4 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 4:51am | Đă lưu IP Trích dẫn saodem

DIỆT THÁNH ĐẾ, TỨC NIẾT BÀN:


Diệt thánh đế, từ Sanskrit là Dukkhamrodha ariyasacca, nghĩa là cảnh giới đă diệt trừ mọi khổ năo. Một tên gọi khác là Niết Bàn. Từ Sanskrit là Nirvana. Từ Pàli là Nibbana, với các nghĩa dập tắt, thổi tắt. (Thổi tắt, dập tắt ngọn lửa phiền năo).

Niết Bàn là mục tiêu tối hậu của đạo Phật. Nhưng Niết Bàn là ǵ? Không thể lấy tư duy và ngôn ngữ b́nh thường để mô tả trực tieáp được. Do đó mà sách Phật thường dùng các từ ngữ phủ định hay phản diện để nói về Niết Bàn như: Diệt tham, vô vị tịch diệt, vô tử... Niết Bàn đă là cảnh giới siêu thời gian và không gian, c̣n chúng ta th́ dùng tư duy và ngôn ngữ thế gian, tất nhiên không thể nào dùng tư duy và ngôn ngữ đó để trực tiếp miêu tả Niết Bàn được


Luôn luôn giữ chánh niệm, quan sát rơ ràng, (thấy) bất cứ lúc nào, các pháp đều là không, nếu có quyết tâm, dựa vào (quan điểm) các pháp đều là không, th́ có thể vượt qua biển lớn sanh tử. Đoạn trừ mọi dục lạc, không nói như câm, ngày đêm sáu thời, yên lặng nội quán, phát tâm dũng mănh, đoạn trừ tham dục, công phu như vậy, tất yếu sẽ thoát khỏi sanh tử."


1/ Niết Bàn không phải là hư vô, mà là một sụ tồn tại tích cục, siêu việt mọi nghĩ bàn: Về sự tồn tại của Niết Bàn, Phật đă nhiều lần khẳng dịnh Phật nói: "Này các Tỷ Kheo, có pháp vô vi, bất sanh bất biến; nếu như không có pháp vô vi bất sanh bất biến này, thời các pháp có sanh có biến đổi và nhơn duyên sanh không thể nào giải thoát được".

Đó là những lời khẳng định tích cực và chánh diện đối với Niết Bàn. Trong các kinh điển Phật giáo khác, Niết Bàn thường được gọi là bất tử (amrta). Bất tử không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một sự thực sống động. Cũng không phải là một ư niệm chủ quan mà là một sự thực tồn tại khách quan. Trong kinh Phật, Ma Vương (Mara - Ba tuần) biểu trưng cho sự chết. C̣n Niết Bàn là không chết, là bất tử, là sự chiến thắng và chinh phục cái chết. Trong các sách sanskrit, amrta c̣n có nghĩa là thuốc tiên, với nghĩa Niết Bàn là thuốc tiên, đem lại sự bất tử cho người nào có được thuốc tiên ấy. Niết Bàn là sự tồn tại vĩnh hằng. Người tu đạo, sau khi chứng ngộ Niết Bàn, trong sanh lư eủa họ, cũng có một sự thay đổi nhứt định. Trong kinh Phật bổn dưyên (Mahavastu), ghi lại sự kiện tôn giả Xá Lợi Phất, sau khi ngộ đạo, gặp tôn giả Mụe Kiền Liên trên đựng đi. Tôn giả Mục Kiền Liên thấy ngài Xá Lợi Phất dung mạo khác thường, bèn hỏi:

"Này tôn giả Xá Lợi Phất! Người bạn của tôi! Dung mạo ông thanh tịnh, thần thái ông trang nghiêm, an ổn, khiến mọi người đều tôn kính. Này tôn giả Xá Lợi Phất! Phải chăng tôn giả đă uống được nước cam lồ bất tử (amrta), đă t́m được con đường lớn dẫn tới sự bất tử? Dung mạo tôn giả giống như là bậc đắc dạo, nó trong sáng như hoa sen nở, thần thái của tôn giả an tường và trang trọng. Tôn giả t́m dược ở đâu đạo bất tử khiến cho thần thái của tôn giả trong sáng như thế này?"

Ngài Xá Lợi Phất trả lời: "Này tôn giả Mục Kiền Liên, đúng vậy, tôi đă có được nước cam lồ bất tử, đă t́m ra đường lớn dẫn tới bất tử. (Mahavastu, 3,68 "Buddhist thought in India" )

2/ Bất tử: V́ là một thuộc tính quan trọng của Niết bàn, cho nên có đến 15 h́nh dung từ, có ư nghĩa tương tợ, cũng dùng cho Niết Bàn như:

(1) Vĩnh hằng.
(2) Kiên cố.
(3) Bất biến.
(4) Vô hoại (A-cyuta)
(5) Không biên giới (vô tế-an-anta)
(6) Vô chỉ (aty-antam)
(7) Vô sanh.
(8) Vô diệt .
(9) Vô khởi.
(10) Bát dị hoại diệt, không dễ bị hoại diệt.
(11) Phi sanh pháp, Apalokina-a-bhutam- không phaûi là pháp có sanh.
(12) Vô hành - không có tác nghiệp,
(13) Vô bịnh - không bịnh,
(14) Vô lăo - không già.
(15) Vô tử (a-maranam) không chết.

3/ Niết Bàn là an toàn và không có điều ác

Niết Bàn là cảnh giới an toàn và không có điều ác. Có thể kể những h́nh dung từ có ư tứ an toàn như:

(1) An toàn (A secure)
(2) Nơi trở về để tránh khổ (A refugee) - quy cứu.
(3) Nơi ẩn náu (A shelter) tị sở.
(4) Nơi tránh nạn (A. asylum) tỵ nạn xứ,
(5) Ḥn đảo (A. island)
Các h́nh dung từ khác có ư từ bỏ điều ác gồm có:
(1) Đoạn diệt khổ (khổ chi chỉ diệt),
(2) Dập tắt khổ (khổ chi chỉ tức),
(3) Không thể gây thương hại,
(4) Không có tai họa (an-itikam)
(5) An thích, an toàn thích thú (sukha)
(6) Cát tường - tốt lành (sivan)
(7) Vô ưu
(8) Tịch an (santi), yên lặng, vắng lặng.
(9) Thanh tịnh, trong sạch,
(10) Vô nhiễm (asankihttha) không bị nhơ bẩn,
(11) Vô nhiễu - không có phiền.nhiễu.

4/ Niết Bàn là cảnh giới siêu việt

Sau đây là một số từ ngữ, nói lên tính siêu việt của Niết Bàn, phủ định mọi thuộc tính thế gian này của Niết Bàn, đồng thời khẳng định Niết Bàn là chơn lư tối hậu, là mục đích tối cao:

(1) Giải thoát
(2) Xuất ly,
(3) Vứt bỏ (khí xả)
(4) Không chấp thủ (vô thủ)
(5) Không rơi vào ba hữu
(6) Siêu thế,
(7) Siêu tuyệt,
(8) An tức (an nghỉ)
(9) Duy nhứt,
(10) Thế gian tận,
(11) Tham diệt.
(12) Phiền năo diệt,
(13) Vô lậu,
(14) Vô vi,
(15) Phi sở tác, không phải do làm ra,
(16) Không thể thấy - bất khả kiến,
(17) Kinh lạ (ascaryam)
(18) Kỳ diệu (adbhutam)
(19) Vi tế, nhỏ nhiệm,
(20) Bất khả thuyết ,
(21) Bất khả lường,
(22) Không có ǵ sánh bằng (vô khả luân tỉ)
(23) Chân đế,
(24) Chân như Bhutta-tathata.
(25) Thắng nghĩa Paramarttha.
(26) Tối thượng,
(27) Chí thiện (seyyo)
(28) Vô thưọng (an-uttaram)
(29) Duy nhứt viên măn ekamttha (cái hoàn thiện duy nhứt).
(30) Giải thoát tối hậu (apa-vagga).

5/ 66 từ ngữ định nghĩa Niết Bàn theo cuốn "Bàn về Bốn Đế"

Sau đây chúng tôi liệt kê có 66 tên gọi khác của Niết Bàn kèm theo giải thích gọn:

(1) Vô vi: V́ Niết Bàn là không sanh, không diệt, không phải là nhơn duyên sanh. Mọi pháp "bị làm ra", không thể so với Niết Bàn được.
Nguyên văn: Niết Bàn là vô sanh, không lớn lên, không diệt, không do nhơn duyên làm ra, trái ngược với hữu vi, cho nên gọi là vô vi.
(2) Vô hạ: Niết Bàn siêu việt ba giới, không có ǵ so sánh với Niết Bàn được, cho nên gọi là Vô hạ.
Nguyên văn: Cao vượt ba giới? xa ĺa mọi thấp hèn, không có ǵ so sánh được cho nên gọi là vô hạ.
(3) Vô lưu: Niết Bàn vĩnh viễn xa ĺa mọi ḍng sanh tử, không c̣n thuộc phạm vi sanh tử luân hồi, nên gọi là Vô lưu.
Nguyên văn: Vĩnh viễn xa ĺa mọi ḍng chảy, các ḍng (sanh tử) không c̣n sinh ra nữa, không phải là nơi có vết tích ḍng chảy, cho nên gọi là Vô lưu
(4) Chân đế: Niết Bàn không phải là hư vọng, không phải là điên đảo, sai lầm, cũng không trái ngược chơn lư, cho nên gọi là Chơn đế.
Nguyên văn: Không hư vọng, không điên dảo, không tương vi, cho nên gọi là chân đế.
(5) Bỉ ngạn: Bờ bên kia. Niết Bàn là cảnh giới không c̣n nghi hoặc và sợ hăi nữa, siêu việt 3 hữu [*], xa ĺa mọi công dụng, vượt qua biển lớn sanh tử, v́ vậy gọi là bỉ ngạn.
Nguyên văn: Không bị rắn độc của ba giới làm cho sợ hăi, vượt qua ba hữu, bỏ mọi công dụng, vượt biển sanh tử, cho nên gọi là bỉ ngạn.

[*] Tam hữu: có hai nghĩa,
A. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
B. Sanh hữu, tử hữu, trung hữu, sanh hữu là sự tồn tại của sự sống, tử hữu là sự tồn tại của sự chết, trung hữu là sự tồn tại giữa thời điểm chết và thời điểm tái sinh.

(6) Thính tế: (nghe được cái nhỏ nhiệm) Niết Bàn là cảnh giới chỉ có thể đạt tới với trí tuệ cao nhứt, v́ vậy mà gọi là thính tế, tức là nắm bắt được cảnh giới của diệu lư, cực kỳ thâm sâu.
Nguyên văn: là chỗ hiểu biết của trí tuệ cao tột, cho nên gọi là thính tế.
(7) Khó thấy: (Nan kiến) Niết Bàn không khác ǵ hoa ưu đàm, rất khó gặp.
Nguyên văn: Như hoa Ưu đàm, thế gian khó gặp v́ vậy gọi Nan kiến.
(8) Vô hoại: Nguyên văn: không già, không bị phá hoại do đó gọi là vô hoại.
(9) Hàng tại vô tranh: Không tranh giành (với ai) thường hằng như vậy:
Nguyên văn: Vốn là không giao động, cho nên gọi là hằng tại vô tranh.
(10) Vô thất: không mất. Niết Bàn không phải v́ đối trị và đoạn trừ các phiền năo, mà bản thân bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất.
Nguyên văn: Đối trị, đoạn trừ các pháp, mà thể không bị suy giảm, cho nên gọi là vô thất.
(11) Vô thí (dụ) Niết Bàn vượt tất cả những ǵ chúng ta thấy được trên thế gian này, không có cái ǵ ngang bằng với nó được, không thể dùng ví dụ dể h́nh dung ra Niết Bàn, cho nên gọi là vô thí (dụ).
Nguyên văn: Niết Bàn vượt quá cảnh giới của mắt thấy, không có cái ǵ ngang bằng được, cho nên gọi là vô thí (dụ).
(12) Không có hư luận: Niết Bàn không có các kiến giải sai lầm, nảy sinh từ tham ái, cũng không có kiêu mạn và chấp thủ, v́ vậy gọi là không hư luận.
Nguyên văn: không có các kiến giải nảy sinh từ tham ái, không có kiêu mạn và chấp thủ, cho nên gọi là không có hư luận.
(13) Tịch tịnh: vắng lặng.
Nguyên văn: lửa si hoặc bị dập tắt, cho nên gọi là tịch tịnh vắng lặng.
(14) Cam lộ: Niết Bàn là cảnh giới bất tử mà chư thiên không thể chi phối được, cho nên gọi là cam lộ.
Nguyên văn: Vượt qua cơi chết và thiên giới, cho nên gọi là cam lộ.
(15) Cực diệu:
Nguyên văn: rất là đẹp đẽ vắng lặng, đáng thích thú, cho nên gọi cực diệu.
(16) Chỉ: là ngưng chỉ.
Nguyên văn: vắng lặng, khoâng khổ cho nên gọi là ngưng chỉ.
(17) An: Nguyên văn: Pháp thiện chân thực cho nên gọi là An.
(18) Ái tận: hết ái dục. Không c̣n bị sự thèm khát thiêu cháy, cho nên gọi là ái tận.
(19) Hy hữu: Niết Bàn khiến cho nhiều người phải kinh ngạc ngợi
khen, cho nên gọi là hy hữu.
Nguyên văn: Làm cho người khác kinh lạ, cho nên gọi là hy hữu.
(20) Chưa từng được như vậy: Vị tằng đắc.
Trên con đường sanh tử, không thể đạt tới Niết Bàn, v́ vậy nói chưa tưøng được như vậy.
Nguyên văn: trong sanh tử, chưa từng được công đức ấy, cho nên gọi là vị tằng đắc.
(21) Vô uổng: Người (được Niết Bàn), không c̣n bị hại, cho nên gọi là vô uổng.
(22) Vô tai: Không c̣n tai nạn, trong th́ không thiếu ǵ, ngoài th́ không bị ác chướng, cho nên gọi là vô tai.
(23) Niết Bàn: Sau khi chứng Niết Bàn, từ nay về sau không c̣n bị nỗi thống khổ của sanh tử nữa, được sự an lạc cứu kính, đó là ư nghĩa chơn chính của Niết Bàn.
Nguyên văn: không c̣n phải tái sinh và chịu khổ nữa, được an lạc cứu kính, cho nên gọi là Niết Bàn.
(24) Nan tư: nghĩa là khó suy nghĩ tới. Niết Bàn không thể nói là có, không thể nói là không, khó suy nghĩ tới đươïc, cho nên gọi là nan tư.
Nguyên văn: khác với tướng có, không cho nên gọi là nan tư.
(25) Bất sanh: Đă có sanh th́ có tử, già, lo buồn... Niết Bàn siêu việt mọi khuyết điểm liên quan đến sinh tử, và đem lại niềm vui kỳ diệu của giải thoát, cho nên gọi là bất sanh.
Nguyên văn: ĺa khuyết điểm của tái sinh và hưởng niềm vui tương ứng cho nên gọi là bất sinh.
(26) Không dấu tích: Các loại ma như phiền năo ma, tử ma, ngũ ấm ma, tự tại thiên ma, bốn loại ma này đều không quấy nhiễu được cảnh giới Niết Bàn, cho nên gọi là Vô tích, Niết Bàn không có dấu vết để cho các loại ma có thể theo dơi được.
Nguyên văn: Tứ ma bất chí, cố thuyết vô tích.
Nghĩa: bốn loại ma không đến được cho nên gọi là vô tích.
(27) Phi tác: Bản thân Niết Bàn không thể do nhơn duyên nào làm ra được cho nên gọi là phi tác.
Nguyên văn: không do nhơn nào tạo ra, cho nên gọi là phi tác.
(28) Vô ưu: Không c̣n lo phiền, người chứng được Niết Bàn, không c̣n bị lo phiền, cho nên gọi là Vô ưu.
Nguyên văn: Không c̣n bị khổ, nên gọi là Vô ưu.
(29) Trú: Người chứng Niết Bàn an trú ở cảnh giới Niết Bàn không c̣n thoái chuyển.
Nguyên văn: Người chứng Niết Bàn, vĩnh viễn không c̣n thối lui, cảnh giới chứng ngộ là kiên cố, vững chắc.
(30)Vô đẳng: Không có pháp nào có thể so sánh được với Niết Bàn.
Nguyên văn: vô pháp năng tợ, cố thuyết vô đẳng (không có pháp nào có thể giống như Niết Bàn).
(31) Vô cầu: Người chứng Niết Bàn không c̣n ham muốn cầu mong ǵ nữa. Nguyên văn: Vĩnh ly thủ dục, cố thuyết vô cầu.
Nghĩa là: Vĩnh viễn xa ĺa mọi ham muốn về chấp thuû, cho nên gọi là vô cầu.
(32) Vô biên: Cảnh giới Niết Bàn siêu việt thời gian, không biến động, không c̣n có trước và sau.
Nguyên văn: Vô tiền hậu tế, cố thuyết vô biên.
Nghĩa là: Không c̣n có trước và sau, cho nên gọi là vô biên.
(33) Vi tế: Không thể dùng tri thức thế tục để t́m hiểu Niết Bàn.
Nguyên văn: Nan khả thông đạt cố thuyết vi tế.
Nghĩa là: khó chứng đạt tới cho nên gọi là vi tế.
(34) Vô tổn: Không tổn hại.
Nguyên văn: Vô hữu bức cố thuyết vô tổn.
Nghĩa là: không c̣n bị bức bách cho nên gọi là vô tổn.
(35) Ly dục: xa ĺa dục vọng.
Nguyên văn: Không c̣n bị ô nhiễm bởi mê hoặc, cho nên gọi ly dục.
(36) Tịnh: trong sạch.
Nguyên văn: Vô chư quá thất, cố thuyết danh tịnh.
Nghĩa là: không c̣n có lỗi lầm khuyết điểm, cho nên gọi là tịnh.
(37) Giải thoát: Nguyên văn: kết phước giai đoạn, cố danh giải thoát.
Nghĩa là: mọi ràng buộc đều đoạn trừ, cho nên gọi là giải thoát.
(38) Phi trú: cảnh giới Niết Bàn không c̣n nương tựa vào một pháp nào hết.
Nguyên văn: Ly y chỉ cố thuyết phi trú.
(39) Phi đối: Niết Bàn là cảnh giới chơn thực duy nhứt, thoát khỏi ṿng đối đăi. Nguyên văn: Vô hữu nhị pháp, cố thuyết phi đối.
(40) Đẳng: Niết Bàn ngang bằng với cái tuyệt đối vô thượng.
Nguyên văn: Vô đẳng đẳng cố thuyết vi đẳng.
Nghĩa là: v́ là ngang bằng với cái vô đẳng cho nên gọi là đẳng.
(41) Vô hại: Niết Bàn siêu việt mọi cảm quan và tri giác.
Nguyên văn: Chư nhập một xứ, cố thuyết vô hại.
Nghĩa là: v́ các cảm quan (chư nhập) không c̣n nữa cho nên gọi là vô hại.
(42) Thậm thâm: rất sâu sắc.
Nguyên văn: Ngoại nhân bất đắc, cố danh thậm thâm, người ở bên ngoài không thể có được, cho nên gọi rất sâu sắc.
(43) Nan giải: khó lư giải.
Nguyên văn: tách khỏi chánh giáo của Phật th́ khó hiểu biết được cho nên gọi là nan giải.
(44) Năng độ: Nguyên văn: nhờ quán công đức (của Niết Bàn) mà khiến cho có thể vượt qua sanh tử, cho nên gọi là năng độ.
(45) Vô thượng: Nguyên văn: là vô thưọng pháp không có ǵ ở trên nữa cho nên gọi là vô thượng.
Nghĩa câu này không được rơ. Có thể có nghĩa: Niết Bàn đứng đầu hết thảy các pháp thù thắng, cho nên gọi là vô thượng.
(46) Thắng: Nguyên văn: t́m trong biển pháp, nắm bắt được cái chân thực nhứt, là sở đắc của thưọng nhân cho nên gọi là vô thắng.
(47) Thánh quả: Nguyên văn: nhờ tu vạn hạnh mới có được, là cái tối thượng vô giá cho nên gọi là thánh quả.
(48) Vô úy: không sợ hăi.
Nguyên văn: ĺa các nhân làm cho sợ hăi cho nên gọi là vô úy.
(49) Bất xá: Nguyên văn: sự yêu chuộng đối với quả thánh kiên cố, cho nên gọi là bất xả.
(50) Biến măn: khắp cả.
Nguyên văn: Phàm Thánh đều vốn có (khả năng đạt Niết Bàn) như nhau.
(51) Vô lượng: Nguyên văn . Công đức của Niết Bàn không thể tán thán hết được.
(52) Vô số: Nguyên văn: không thuộc về sáu cơi, cho nên gọi là vô số.
(53) Bất phá: Nguyên văn: Thể của Niết Bàn hết sức kiên cố cho nên gọi là bất phá.
(54) Tôn: Nguyên văn: không có pháp nào tôn quư hơn.
(55) Ứng thán: Xứng đáng được tán thán.
Nguyên văn: Trong sạch hết sức, xứng đáng nhứt được ca ngợi.
(56) Xá: nơi ở.
Nguyên văn: là nơi ở của các bậc Thánh.
(57) Quy y: Nguvên văn: có thể cứu mọi khổ nạn, cho nên gọi là quy y.
(58) Vô tranh: Nguyên văn: gọi là vô tranh v́ mọi đấu tranh mâu thuẫn đều ngưng chỉ.
(59)Vô cấu: không cấu bẩn.
Nguyên văn: xa ĺa tham, sân, si cho nên gọi là vô cấu.
(60) Vô giả: Nguyên văn: vốn có, không bị làm ra cho nên gọi là vô giả.
(61) Đăng: đèn.
Nguyên văn: trừ bóng tối vô minh, cho nên gọi là đèn.
(62) Lạc: Các cảm thọ đều vắng lặng, cho nên gọi là lạc
(63) Vô đọa: không đọa.
Nguyên văn: không đọa vào các cảnh sắc...
(64) Châu: ḥn đảo.
Nguyên văn: bốn ḍng chảy (sinh, lăo, bịnh, tử) không nhận ch́m được.
(65) Bất động: Không thể chứng đạt Niết Bàn với tâm tán loạn được.
Nguyên văn: tán tâm bất chứng, cố thuyết bất động.
(66) Vô sở hữu: không có ǵ riêng tây.

Qua 66 tên gọi khác nhau của Niết Bàn, chúng ta thấy rơ, ngay trong kinh sách Phật giáo Nguyên thủy, Niết Bàn không phải là cảnh giới hư vô, mà là một cảnh giới thực tại, bao hàm vô lượng công đức. Đến kinh sách Phật giáo Đại thừa, tính tích cực của Niết Bàn càng được bộc lộ rơ hơn nữa. (66 thuộc tính Niết Bàn rút trong Đại Chính 1647- P. 390, 391 "Tứ Đế Luận").

6/ Niết Bàn của Đại Thừa:

Đối với Đại thừa, Niết Bàn chính là Chân Như, là Thực tướng, là Pháp thân. Luận khởi tín viết: "Thể bổn giác của Chân Như toàn hiện tức là Niết Bàn. Thể bổn giác đó chính là trí tuệ sáng suốt. Theo Đại Thừa, thể bổn giác đó chính là trí tuệ Bát nhă, hay trí tuệ Ba La Mật. Thể bổn giác đó có hai tướng:

1. là trí tịnh tướng, là tướng trí tuệ thanh tịnh.
2. là bất tư ngh́ nghiệp tướng, tưùc là thể bổn giác đó hàm chứa vô vàn công đức không thể bàn xiết, phục vụ cho sự nghiệp độ sanh của chư Phật Bồ Tát.

Kinh Luận Đại Thừa thường nói tới bốn loại Niết Bàn là: (trích dịch Thành Duy Thức Luận):

a. Bổn lai tự tánh thanh tịnh Niết Bàn:

Tức lư chơn như của tất cả mọi pháp tướng, tuy về khách quan có bị nhiễm ô, nhưng tự tánh của nó vẫn thanh tịnh, có đầy đủ vô lượng công đức, vi diệu, không sanh không diệt, trong suốt như hư không, là sỡ hữu b́nh đẳng và vốn có của tất cả mọi loài hữu t́nh, cùng với tất cả các pháp không phải một, không phải khác, xa ĺa mọi tướng, mọi phân biệt, mọi tư duy, mọi ngôn ngữ, chỉ có bậc Thánh chơn chính mơùi chứng được từ nội tâm, tự tánh nó vốn vắng lặng cho nên gọi là Niết Bàn.

b. Hữu dư y Niết Bàn:

Là Chân Như đă thoát ĺa phiền năo, nhưng sở y c̣n có đôi chút khổ vi tế, tuy là mọi chuớng ngại đă đoạn tận cho nên gọi là Niết Bàn.

c. Vô dư y Niết Bàn:

Tức là Chân Như đă thoát ĺa mọi nỗi khổ sanh tử, không c̣n phiền năo nữa, mọi dư y cũng không c̣n, mọi khổ đau đều chấm dứt, cho nên gọi là Niết Bàn.

d. Vô trụ xứ Niết Bàn:

Tức là Chân Như đă thoát khỏi sở tri chướng, có đầy đủ ḷng đại bi và trí tuệ lớn, phát huy tác dụng hóa độ chúng sanh với số lượng không kể xiết tuy phát huy tác dụng như vậy nhưng vẫn vắng lặng, cho nên gọi là Niết Bàn.

Trong bốn loại Niết Bàn nói trên, th́ Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo bộ phái đă từng nói đến Hữu dư y Niết Bàn và Vô dư y Niết Bàn rồi. Nhưng tự tính Niết Bàn và Vô trụ xứ Niết Bàn th́ chưa nói tới.

Một trong những điểm mới của các bộ kinh Bát Nhă, xuất hiện trong thời kỳ hưng khởi của Phật giáo Đại Thừa là tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tính, là cái mầm giác ngộ sẵn có trong tất cả mọi chúng sanh, là cái khả năng thành Phật của tất cả mọi loài hữu t́nh. Phật tính đó chính là Bổn lai tự tính Niết Bàn được nói tới trong Thành Duy Thức Luận, cũng chính là trí tuệ Bát Nhă vậy.

Nhân vật tiêu biểu của Đại Thừa giáo là Bồ tát mà nhân cách phi thường được thể hiện trong lời nguyện của Bồ tát Địa Tạng "Địa ngục bất không, thệ bất thành Phật...". Ư nói, nếu trong địa ngục c̣n có chúng sanh, th́ thề không thành Phật. Hạnh Bồ tát là hạnh lợi tha triệt để. Vị Bồ tát cho rằng, c̣n một chúng sanh chưa được giải thoát th́ bản thân ḿnh cũng chưa được thực sự giải thoát, c̣n một chúng sanh c̣n đau khổ, chưa được an lạc th́ bản thân ḿnh cũng đau khổ chưa được thực sự an lạc. V́ có trí tuệ Bát Nhă cho nên vị Bồ Tát không trụ ở sinh tử, v́ có ḷng đại bi cho nên vị Bồ tát cũng không trụ ở Niết Bàn, v́ vậy mà gọi là Vô trụ xứ Niết Bàn.






__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 5 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 4:57am | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

Niết Bàn của Đại Thừa giáo: (Niết Bàn của Tông Duy Thức)

Đại Thừa tự cho là hơn Tiểu thừa ở chỗ, không phải chỉ cầu giải thoát khỏi sinh tử luân hồi là xong mọi trách nhiệm, c̣n Đại thừa th́ cầu chứng quả Phật và nguyện độ cho tất cả chúng sanh cùng chứng quả Phật. Như vậy, Đại Thừa cho rằng đứng về mặt tự độ và độ tha, hạnh nguyện của Đại Thừa đều hơn Tiểu Thừa một bậc.

Tuy nhiên, theo tôi, nói hơn kém là c̣n chấp ngă. Như trong kinh Kim Cang nói, Bồ Tát c̣n thấy ḿnh độ chúng sanh tức là c̣n chấp ngă tướng và chúng sanh tướng. Tiểu Thừa chứng quả A La Hán rồi th́ không c̣n chấp ngă, không c̣n tư tưởng hơn thua. Theo tôi, trong đạo Phật, không nên bàn chuyện hơn thua, cũng không nên bàn chuyện lớn nhỏ. V́ căn cơ chúng sanh sai biệt nhiều, cho nên phép tu cũng lắm. Đại thừa vẫn nói có vô lượng pháp môn. Pháp môn nào thích hợp với căn cơ, th́ đó là pháp môn ưu việt nhứt, đối với trường hợp cụ thể đó.

Đại Thừa không gọi Niết Bàn là chơn như, thực tướng với bốn đức là Thường, lạc, ngă, tịnh. Nếu chúng ta hiểu lạc, ngă, tịnh, là tối thiện, th́ định nghĩa Niết Bàn của Luận Bà Sa dẫn chứng trên đây có khác ǵ định nghĩa Niết Bàn của Đại Thừa.

Đại Thừa cũng gọi Niết Bàn là pháp thân, là Bát Nhă, là đệ nhất nghĩa đế, là Nhất Như...

Đại Thừa lập bốn loại Niết Bàn: (Tông Duy Thức)

1) Bổn lai tự tánh thanh tịnh Niết Bàn: là thể tánh vốn vắng lặng, thanh tịnh của tất cả các pháp, tất cả mọi loài hữu t́nh.

2) Hữu dư y Niết Bàn: là cảnh giới Niết Bàn cuûa các bậc Thánh, khi đang c̣n sống, khi vẫn c̣n thân năm uẩn.

3) Vô dư y Niết Bàn: là cảnh giới của bậc Thánh đă giác ngộ và giải thoát, sau khi họ qua đời, không c̣n mang cái thân năm uẩn này nữa.

4) Vô trụ xứ Niết Bàn: là cảnh giới Niết Bàn của Chư Phật, Bồ Tát, tuy đă ra khỏi cảnh sinh tử luân hồi, nhưng v́ lợi lạc chúng sanh, mà không trú ở Niết Bàn, vẫn ra vào cơi sanh tử, để độ thoát các loài hữu t́nh.

Tư tưởng Niết Bàn trong kinh Niết Bàn:

Kinh Niết Bàn (Nam Bổn - chữ Hán 36 quyển) có hai định nghĩa về Niết Bàn:

- Theo định nghĩa thứ nhứt, Niết Bàn của Phật giống như chữ Y, có ba đức cùng tồn tại là: giải thoát, pháp thân và Bát Nhă. Trước đây, nói Niết Bàn mà chỉ nói giải thoát mà thôi là chưa đầy đủ, viên măn. Cả ba đức trên là cùng một thể. Nói một đức là đủ cả ba đức.

- Theo dịnh nghĩa thứ hai, Niết Bàn là thường, lạc, ngă, tịnh.

"Chư Phật đoạn trừ hết phiền năo cho nên gọi là Niết Bàn. Niết Bàn tức là thường, lạc, ngă, tịnh" (quyển 23, t.13).

Điều chúng ta suy nghĩ, tức là 4 đức của Niết Bàn trong kinh Niết Bàn của Đại Thừa phải chăng là nhằm đối trị cái gọi là bốn pháp ấn trong Phật giáo Nguyên thủy: vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh? Bốn pháp ấn này là đặc điểm nổi bật của nhân sinh, mà các bộ kinh A Hàm thường xuyên nói tới.

Trên đây là hai nghĩa chính của Niết Bàn Đại Thừa, như có thể thấy trong kinh Niết Bàn
Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 6 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 4:59am | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

ĐẠO ĐẾ

Đạo đế là chơn lư về con đường đạo dẫn tới Niết Bàn, dập tắt mọi khổ đau, thoát khỏi ṿng sanh tử luân hồi, giác ngộ và giải thoát tối hậu.

Sách Phật nói 37 phương pháp, cấu thành con đựng đạo này, gọi là 37 đạo phẩm, cũng gọi là 37 phần Bồ đề (Bồ đề phần). Cụ thể là Bốn niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ư túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám con đường đạo (Bát chánh đạo). Nay sơ lược giải thích như sau:

1. Bốn Niệm xứ:

Cũng gọi là bốn niệm trú, tức là mục chánh niệm trong Bát chánh đạo, Bốn niệm xứ là bốn đối tượng của tư duy và quan sát không bao giờ quên. Đó là thân (kaya), thọ (vedana), tâm (citta), và pháp (dhamma). Luôn luôn nhớ thân, cảm thọ, tâm và các pháp đều là vô thường, khổ và vô ngă. Nếu phân biệt th́ quan sát thân là không trong sạch, mọi cảm thọ là khổ, tâm là vô thường, và mọi pháp là vô ngă, không thực thể.

Theo kinh tạng nguyên thủy, th́ bốn niệm xứ là con đường độc nhứt (ekayana magga), đưa người tu hành đến sự giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.

2. Bốn chánh cần:

Trong Bát chánh đạo, gọi là Chánh tin tấn (sách Hán c̣n gọi là Tứ chánh đạo, tứ chánh thắng, tứ ư đoạn). Gồm có bốn mục là:

a. Đoạn trừ điều ác đă khởi lên.
b. Gắng sức để cho điều ác mới không sinh ra.
c. Gắng sức để cho điều thiện mới được sinh ra.
d. Nổ lực để cho điều thiện đă khởi lên được tăng trưởng.

Thiện ở đây là mọi cái ǵ lợi cho lư tưởng tu đạo, và ác là mọi cái ǵ trở ngại cho lư tưởng tu đạo. Cho nên, theo quan niệm đạo Phật mà nói nỗ lực làm ác, chính là lười biếng chứ không phải là tinh tấn siêng năng.

3. Bốn thần túc:

Sách Hán cũng gọi là tứ như ư túc, là bốn điều như ư được đầy đủ. Ư tứ là muốn có phép thần thông đầy đủ, th́ học tập bốn phương pháp này, tức là:

a. Dục thần túc: tức là ḷng muốn có được thiền định.
b. Tinh tấn thần túc: nỗ lực để có được thiền định.
c. Tâm thần túc: tức là nhiếp tâm đầy đủ để có được thiền định.
d. Tư duy thần túc: tức là để có thiền định, phải biết tư duy quan sát.

(Có sách gọi tứ như ư túc hay tứ thần túc là: a. Dục thần túc, b. Niệm thần túc, c. Tinh tấn thần túc, d. Tuệ thần túc. )

4. Năm Căn:

Tức là Tín, ḷng tin. Cần là tinh tấn, Niệm là nghĩ nhớ điều phải (chơn lư), như lư vô thường, vô ngă... Định và Tuệ. Gọi năm mục này là năm căn tức là năm cái gốc để cho người tu tiến tới mạnh mẽ trên con đường đạo. Trong năm cái gốc này th́ tín (S. Saddha; P. Sraddha) đứng hàng đầu, v́ ḷng tin chân chánh và chân thành là động lực của mọi nỗ lực tu đạo và hướng thiện tránh ác.

Nên phân biệt năm căn tín ... với năm căn mắt, tai,.. (năm căn này thường gọi là năm căn năng).

5. Năm Lực:

Năm căn nói treân, khi dược phát huy th́ biến thành năm sức mạnh, tức năm lực.

6. Bảy giác chi:

Thất giác chi, sách Hán cũng dịch là Thất Bồ Đề phần, bảy phần Bồ đề, hay Thất giác phần, tức là bảy chi phần của giác ngộ.

a. Niệm giác chi: sati-samboijhanga

b. Trạch pháp giác chi: dhammavicayasamb jjhanga, tức là biết lựa chọn phải, trái, chân ngụy, thiện ác...

c. Tinh tấn giác chi s. viriya s. nỗ lực hướng tới giác ngộ.

d. Hỷ giác chi s.piti. ḷng hoan hỷ (trong tu đạo và độ sanh).

e. Khinh an giác chi s. passaddhi. Kinh A Hàm gọi là Ỷ giác chi, tức thân tâm nhẹ nhàng, khinh khoái.

f. Định giác chi s. samadhi.

g. Xả giác chi s. upekkha.

Trên đây là bảy hạng mục tu hành, có liên hệ đến thiền dịnh. Trong kinh tạng Nguyên thủy, sau khi thực hành phép anapanasati (niệm hơi thở ra vào) để thành tựu sự thống nhứt nội tâm, hành giả tu sang phép bốn niệm xứ, và bảy giác chi mà được giác ngộ, giải thoát. Như vậy, có thể thấy bảy giác chi là những mục tu hành cao cấp trên con đường tu đạo.

7. Bát chánh đạo:

Bát chánh dạo tức là tám con đường đạo hay là con đường đạo tám nhánh.

a. Chánh kiến: samma-ditthi, tức là kiến giải chính xác, tín ngưỡng chính xác.

b. Chánh tư duy: samma-sankappa. Tư duy và lập chí chính xác đúng đắn.

c. Chánh ngữ: samma-vaca, tức không nói dối, không nói lời ác, không nói chia rẽ, không nói lời vô nghĩa. Trái lại, chỉ nói lời chơn thực, lời dịu hiền, lời đoàn kết, lời có ích đối với người nghe.

d. Chánh nghiệp: samma-kammanta, tức là các hành vi không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm.... thực hành việc tôn trọng sự sống, bố thí, sống trong sạch không trái đạo lư.

e. Chánh mạng: samma-ajiva, tức là sống bằng nghề nghiệp chính đáng lương thiện. Nói rộng ra, tức là theo một nề nếp sinh hoạt lành mạnh, giúp cho sức khỏe, tăng năng suất lao dộng, khiến thân tâm luôn được thư thái, nhẹ nhàng.

g. Chánh tinh tấn: samma-viriya, nỗ lực chính đáng, hướng tới lư tưởng của đạo, siêng làm điều thiện, siêng trừ bỏ ác.

h. Chánh niệm: samma sati, nghĩ nhớ không quên, lư tưởng tu đạo, tỉnh táo, cảnh giác dù là trong những việc nhỏ, đừng để phạm lỗi, v́ những lỗi nhỏ có thể đem lại hậu quả tai hại lớn. Luôn luôn nghĩ nhớ: các pháp là vô thường, vô ngă, mọi cảm thọ đều là khổ, không được mê đắm.

i. Chánh định: samma-sammadhi, người tu đạo hằng ngày có gắng giữ tinh thần an tịnh, tư tưỏng tập trung không tán loạn th́ mọi việc làm mới mong có kết quả như ư. Ngoài ra, người tu đạo cũng tu tập thiền định, mong đạt tới một nội tâm trong sáng thuần tịnh như gương, không c̣n niệm, không c̣n tưởng.

BÁT CHÁNH ĐẠO VÀ BA MÔN HỌC GIỚI, ĐỊNH, TUỆ

Bát chánh đạo thực ra là một thể thống nhứt, sở dĩ chia ra tám hạng mục là để cho tiện thuyết minh, giảng giải mà thôi. Phật giáo Nam phương thuyết minh mọi quan hệ giữa Bát chánh đạo và ba môn học như sau:

Chánh kiến và Chánh tư duy: Tuệ học
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, chánh mạng: Giới học.
Chánh tinh tấn: thông cả ba môn học.
Chánh niệm, Chánh định: Định học.

Về chánh tinh tấn, có sách quy về định học, có sách quy vào tuệ học- Thứ tự tu học các hạng mục trong Bát chánh đạo như thế nào?

Theo logic, th́ phải là thứ tự giới, định, tuệ. Thế nhưng trong bát chánh đạo, lại sắp xếp: tuệ - giới - định, v́ sao?

Thực ra sau tám mục c̣n có hai hạng mục nữa là Chánh trí và Chánh giải thoát, tổng hợp lại thành 10 pháp vô lậu học.

Chánh trí và Chánh giải thoát thuộc về tuệ học. Như vậy, thứ tự logic của 10 pháp vô lậu học là tuệ - giới - định - tuệ.

Hai mục chánh tri kiến và chánh tư duy thực ra là chánh tín đối với những người mới nhập môn. Do đó, toàn bộ thứ tự sẽ là: Tín - Giới - Định - Tuệ.

Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
saokhue
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 34
Msg 7 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 5:06am | Đă lưu IP Trích dẫn saokhue

Tín căn và tín lực không cho cả ba môn giới, định, tuệ. V́ tất cả mọi pháp tu hành đều xuất phát từ niềm tin (tín) dựa vào chánh tri kiến và chánh tư duy. Niệm căn, niệm lực, niệm giác chi đều thông cả định học và tuệ học.

Giới: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Định: Bốn như ư túc, định căn, định lực, định giác chi, xả giác chi, chánh định.

Tuệ: Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, tinh tấn cán, tuệ căn, tinh tấn lực, tuệ lực, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn


GIỚI HỌC:

Giới học tức là môn học đạo đức Phật giáo, hay là luân lư Phật giáo.

Nghĩa từ Giới: Giới, chữ Sanskrit là Sila. Giới là các khuôn mẫu ứng xử, pḥng sai, tránh ác của đạo Phật.

Các loại giới: giới ngăn điều ác gọi là Chỉ ác giới. Chỉ có nghĩa là ngăn chặn. Cũng gọi là luật nghi Samvara.

Có hai loại giới: Giới hữu lậu thế gian và giới vô lậu xuất thế.

Bộ phận hữu lậu giới gọi là Biệt giải thoát luật nghi, giúp cho người tu hành hướng thiện, tránh ác ở cơi Dục giới, đồng thời cũng hướng tới giải thoát.

Bộ phận hữu lậu giới, gọi là Tĩnh lự luật nghi, giúp cho hành giả mau chứng các cấp thiền thuộc sắc giới.

Giới xuất thế gọi là luật nghi vô lậu.

Biệt giải thoát luật nghi lại chia thành giới tại gia và giới xuất gia. Giới tại gia gồm có 5 giới ưu bà tắc và ưu bà đi, hằng ngày cần giữ ǵn không phạm, và tám giới cần giữ, trong các ngày gọi là Bát trai.


Thế nhưng, tác dụng của giới cũng không phải chỉ là tránh ác, mà c̣n là hành thiện nữa. Giới làm điều thiện c̣n goïi là tác tŕ giới, hay tác thiện giới.

Giới và Luật:

Giới tương đương với đạo đức. Luật tương đương với pháp luật. Giới có ư nghĩa rộng hơn, so với luật Giới là những điều ḿnh giữ cho bản thân ḿnh, nó thuộc về tinh thần, về nội tâm. C̣n luật là điều ḿnh giữ v́ người khác, v́ xă hội. Tuy nhiên trong sách thựng dùng hai từ này đi kèm với nhau, như trong hợp từ quen thuộc Giới Luật, v́ không có ranh giới phân biệt rơ ràng giữa hai từ.


Giới thể, giới tướng và giới hạnh

Giới thể là chủng tử lưu lại trong tạng thức của người thọ giới, sau khi được truyền giới. Chủng tử đó có tác dụng bảo vệ người thọ giới cho khoûi phạm giới. Có sách gọi đó là vô biểu sắc.

Giới hạnh: là hành vi theo đúng giới luật được thọ tŕ.

Giới tướng: do có giới thể, giới hạnh mà biểu hiện ra ngoài thành giới tướng thanh tịnh, tốt đẹp. Vị tăng sĩ giữ giới, nói năng hành xử, đi đứng nằm ngồi đều uy nghi mực thước.

Tông Chân Ngôn (Mật giáo) ở Nhật riêng lập ra hệ thống giới gọi là "Tam muội gia", lấy ba loại bồ đề tâm làm giới. Nhưng đó chỉ là sự khác biệt về danh từ mà thôi. C̣n về nội dung th́ cũng không khác ǵ mười giới thiện (thập thiện giới). Chân Tông ở Nhật Bản (một nhánh của Tông tịnh dộ) th́ không có bàn ǵ tới giới luật cả.

Tín và giới:

Vào thời đại Kamakura (Kiếm Thuơng) ở Nhật, các tông như Nhật Liên Tông, Chân Tông, Thiền Tông đều không chú trọng nhiều tới giới luật. Nhưng theo sự nhận định của nhà Phật học nổi tiếng Nhật Bản là Thủy Giả (xem cuốn Phật giáo yếu ngữ đích cơ sở tri thức tr 233) Phật giáo Nhật Bản thời đại Kiếm Thương rất coi trọng đức tin, và cho rằng đức tin triệt để, bao hàm đầy đủ giới luật rồi. Thí dụ, chuyên tâm niệm Phật, chuyên tâm ngồi thíền, th́ ngay từ ở trong ư nghĩ và lời nói, mọi nghiệp đều đă được thanh tịnh rồi.

Đây là do giới và tín vốn có quan hệ rất mật thiết. Tăng sĩ trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, có câu: "Nếu có đức tin triệt để, th́ tự nhiên có được giới". (tín nhược triệt để, tự khả hoạch đắc giới).

Trong kinh Phật nguyên thủy, có khái niệm "Tứ bất hoại tính" tức là bốn niềm tin trong sạch, không mất tức là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin ở Giới luật.

Trong kinh Phật nguyên thủy, có bài kệ nổi tiếng là:

Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ư,
Thị chư Phật giáo

Nghĩa là:

Mọi điều ác đều không làm,
Làm mọi điều thiện
Tự làm trong sạch tâm ư
Là lời dạy của các Đức Phật

Bài kệ này được gọi là bài kệ của bảy vị Phật (gồm cả Phật Thích Ca), cho nên cũng gọi là thất Phật thống giới kệ (bài kệ răn dạy chung của bảy vị Phật). Tinh thần của giới luật là tránh mọi điều ác, làm mọi điều thiện. Làm được như vậy là giới. Tâm ư trong sạch là định và tuệ. Bởi v́ tâm có lặng (định) mới sáng (tuệ).

Giới đại thừa:

Đặc điểm của giới đại thừa là cường điệu tính lợi tha. Đại thừa có khái niệm ba nhóm giới trong sạch:

1. Nhiếp luật nghi giới.
2. Nhiếp thiện pháp giới.
3. Nhiếp chúng sanh giới (cũng gọi nhiêu ích hữu t́nh giới).

V́ cả ba nhóm giới này, cả đại và tiểu thừa đều tôn trọng cho nên gọi là thông giới.

Nhiếp luật nghi giới:

S samvarsa-sila. Gọi tắt là luật nghi giới tương đương với các giới tại gia, xuất gia của Phật giáo Nguyên thủy, nhưng theo Đại Thừa giáo th́ là Thập thiện giới, hay là thập trọng cấm giới và 48 khinh giới.

Nội dung của Nhiếp luật nghi giới, chủ yếu là ngăn chặn mọi điều ác.

Nhiếp thiện pháp giới:

S. kusala-oharma-samgraha-sila. Chỉ riêng cho 10 giới thiện.

Nhiếp chúng sanh giới:

S. sattrarthakriya-sila. Chỉ mọi việc làm, có ư nghĩa từ bi và lợi lạc đối với chúng sanh.

Ba nhóm giới này được các kinh như "Anh lạc bổn nghiệp kinh",... nói tới, và thường được gọi là ba nhóm giới thanh tịnh (tam tụ tịnh giới).

Thập thiện (10 thiện) và ba nhóm giới:

Các kinh Bát Nhă (kể cả Đại phẩm và tiểu phẩm) đều lấy 10 thiện làm giới đại thừa, kinh Hoa Nghiêm cũng theo thuyết này.

Trong kinh Bát Nhă, giới Ba La Mật tức là Bồ tát tự ḿnh làm 10 thiện, và khuyến khích người khác cũng làm 10 thiện thực hành đầy đủ cả hai mặt nhiếp luật nghi giới và nhiếp thiện pháp giới.

Kinh Hoa Nghiêm th́ thêm Nhiếp chúng sanh giới thành có ba nhóm giới đầy đủ.

Bộ luận Du Già sư địa nói cả ba nhóm giới Nhiếp luận nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu t́nh giới, đầy đủ như kinh Hoa Nghiêm. Ba nhóm giới này cũng gọi là Du Già giới.

Mười thiện giới:

1. Không sát sanh,
2. Không trộm cắp,
3. Không tà dâm,
4. Không nói dối,
5. Không nói ác,
6. Không nói chia rẽ ,
7. Không nói phù phiếm,
8. Không tham,
9. Không sân,
10. Chánh kiến.

Mười cấm giới nặng (trọng giới)

Bồ tát nếu phạm mười giới nặng này, vi phạm tội nặng gọi là Ba La di. Điều này được ghi trong kinh Phạm Vơng, cho nên cũng gọi là Phạm Vơng giới.

Mười cấm giới nặng là:

1. Không sát sanh,
2. Không trộm cắp,
3. Không phạm dâm (tà dâm)
4. Không nói dối,
5. Không bán rượu,
6. Không nói lỗi người khác,
7. Không tự khen ḿnh và vùi dập người,
8. Không keo kiệt đối với Pháp và tài sản,
9. Không giận,
10. Không phỉ báng Tam bảo.



ĐỊNH HỌC

Nghĩa của từ Định: Định nghĩa là tâm không tán loạn, là nhất tâm.

Bốn cảnh giới định của Phật giáo Nguyên thủy:

Phật giáo Nguyên thủy nói về 4 cảnh giới định (gọi là bốn cấp thiền) như sau:

- Cấp thiền thứ nhứt: (Sơ thiền) xa ĺa dục vọng, xa ĺa mọi pháp bất thiện, có tầm và tứ, Hỷ lạc nhờ xa ĺa dục vọng và pháp bất thiện mà có.

- Cấp thiền thứ hai: (Nhị thiền) ngưng chỉ tầm và tứ, nội tâm an tịnh, hỷ lạc nhờ định tâm mà có.

- Cấp thiền thứ ba: (Tam thiền) xa ĺa tâm hỷ, trú ở xả, thân trú ở lạc

- Cấp thiền thứ tư: (Tứ thiền) bỏ khổ lạc, bỏ hỷ ưu, xả niệm thanh tịnh.

Các loại định: định là tâm an tịnh, thống nhất. Người c̣n ở Dục giới, thành tựu được tâm định tạm thời gọi là Dục giới định.

Các cảnh giới định ở sắc giới và Vô sắc giới mới gọi là Căn bổn định.

Cần nhắc lại ở đây các khái niệm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Dục giới: (S. Kama dhatu) là cơi sống trong đó cảm quan có nhiều dục vọng, hướng tới sắc, thinh, hương, vị, xúc pháp, tức sáu ngoại trần.

Sắc giới (S. Rupa dhatu): là cơi sống mà dục vọng của cảm quan không c̣n nữa, nhưng thân vật chất vẫn c̣n. Chúng sanh ở đây, luôn ở trong trạng thái thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền.

Vô sắc giới (S. Arupa dhatu): là cơi sống ở đây chúng sanh không c̣n có thân vật chất nữa mà chỉ sống cuộc sống thuần túy tinh thần mà thôi.

Cũng như Sắc giới, Vô sắc giới có 4 cấp thiền, gọi theo thứ tự từ thấp đến cao:

1. Không Vô biên xứ,
2. Thức Vô Biên xứ.
3. Vô sở hữu xứ
4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.


1/ Năm duyên:

- Giữ giới thanh tịnh.
- Thức ăn, áo mặc đầy đủ,
- Nơi ở yên tịnh,
- Dẹp các duyên vụ (bỏ bớt các việc không cần thiết)
- Gần gũi thiện tri thức.

2/ Bỏ năm dục (vọng)

- Sắc
- Thanh,
- Hương,
- Vị
- Xúc

3/ Bỏ năm triền cái (tức năm cái ngăn che vưóng mắc)

- Tham,
- Sân,
- Hôn trầm thụy miên,
- Trạo cử (lăng xăng)
- Nghi.

4/ Điều ḥa năm sự:

- Ăn uống,
- Ngủ nghỉ,
- Thân,
- Hơi thở,
- Tâm.

5/ Thực hành năm pháp

- Mong muốn thực tiễn.
- Tinh tấn.
- Niệm,
- Trí huệ thiện xảo,
- Nhứt tâm.

Mục đích tu tập thiền định: Phật giáo Nguyên thủy nói tới năm công đức của việc tu tập thiền định:

(1) Có sức khỏe, thân tâm an vui.
(2) Có trí tuệ giác ngộ, tức trí tuệ vô lậu.
(3) Có thần thông: thiên nhỉ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhăn thông...
(4) Khi mệnh chung, tái sanh lên các cơi Trời Sắc giới và Vô sắc.
(5) Chứng diệt tận định: (nirodha-samapatti), cấp định này cao hơn cấp tứ thiền của Vô sắc giới, và chỉ có hàng Thánh mới chứng được.

Kinh A Hàm có nói tới 10 công đức của người tu tập phép quán Tứ vô lượng tâm: (tức là bốn tâm vô lượng từ bi hỉ xả)

1. Ngủ yên,
2. Không có ác mộng,
3. Được mọi người yêu mến,
4. Được loài phi nhân yêu sủng,
5. Được thần phù hộ,
6. Không bị hại bởi lửa, đao kiếm và thuốc độc
7. Nhanh chóng vào định,
8. Dung mạo sáng đẹp,
9. Khi lâm chung không hôn mê,
10. Nếu chưa giác ngộ th́ ít nhứt cũng được tái sanh lên các cơi Trời Phạm Thiên.

Các phép tu từ định vào tuệ:

1. Quán năm uẩn,
2. Quán bốn đế,
3. Quán ba tam muội và quán không, quán vô tướng, quán vô nguyện (vô nguyện là không c̣n mong cầu ǵ bên ngoài).
4. Tám phép giải thoát.
5. Tám thắng xứ.









__________________
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
Quay trở về đầu Xem saokhue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saokhue
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 8 of 12: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 9:01am | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

Bài viết LƯỚI NGHIỆP & 12 NHÂN DUYÊN này thật hay có ư nghĩa ,rất căn bản , rất nền tảng cho những người bắt đầu bước vào con đường Phật học không phải sợ lầm đường lạc lối . V́ những lời giảng này do chính ĐỨC PHẬT tuyên thuyết sau khi đắc đạo chánh đẳng chánh giác dưới cội bồ đề . Các hệ phát triển sau này khi học đạo hay đi tắt hoặc do xa rời nền tảng này từ Đức Phật chia các tông phái khác nhau mà gây nên sự phân biệt . Chứ thực gốc chỉ có một Đạo Phật mà thôi . Ngựi học đạo khi nắm vững giáo lư từ gốc này rồi sẽ tùy duyên thuận khế ước theo căn cơ mà phối hợp hành các tông phái khác nhau mà về bến giác . Đây là lời dạy của thầy tôi chỉ bảo cho tôi trên đường học đạo san sẻ lại với các bạn đồng tu .

Vũ Ḥang Nguyên

Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 9 of 12: Đă gửi: 15 February 2006 lúc 2:28am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

KINH NHÂN QUẢ BA ĐỜI

Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm




Lời Nói Đầu



Thuở xưa, có người đến hỏi một vị Thiền sư: "Bậc tu hành đă ngộ lư Chân Không, có lạc vào ṿng Nhân Qủa đặng?". Thiền sư đáp: "Bậc đại tu hành chẳng lạc vào ṿng nhân qủa".

V́ câu trả lời này mà khiến cho Thiền Sư phải đọa làm kiếp chồn năm trăm năm, sau gặp ngài Bá Trượng mới được giải thoát.

Cũng do câu chuyện trên đây, nên các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh nói về nhân qủa tội phước, chú trọng phần giới hạnh, cùng hiểu biết sự luân hồi trong ba cơi sáu đường, sau mới nghiên cứu qua kinh cao. Nếu trái thứ tự, bước đầu tiên đọc những kinh như: Kim Cang, Pháp Bảo Đàn...nếu không phải là người có nhiều căn lành, tất dễ sinh ḷng khinh mạn và lạc vào lối chấp không?. Thật ra, nhân qủa không phải là chuyện thấp nhỏ, v́ từ chúng sinh đọa tam đồ cho đến chư Phật thành Chính Giác đều không ngoài nhân qủa. Do sự kiện trên bút giả mới phiên dịch quyển kinh nầỵ

V́ kinh Nhân Qủa nói tóm tắt không mấy trang nên bút giả lại phụ thêm một ít câu chuyện tạm gọi là "Nhân Qủa Luân Hồi Tạp Lục".

Về việc luân hồi nhân qủa ở Việt Nam ta cũng có nhiều, tiếc v́ không ai ghi chép thành sách, nên tản mác đi. V́ thế, bút giả đành t́m dịch các câu chuyện bên Trung Hoa, và những việc này đều có thật. Cái thông bệnh của người tu Phật, là hay luận huyền nói diệu, mà việc thường nhỏ lại ít khi làm được. Nhớ lại hồi xưa sư cụ Khánh Ḥa c̣n tại thế, có một Phật tử hỏi về đạo lư "vô thỉ vô chung". Sư Cụ mỉm cười đáp: "Hỏi chi xa vời vậy? Gắng ăn chay và niệm Phật cho đều đều là tốt lắm rồi!", Đại để, người đă lăn lội trong nhiều giáo điển, lại không muốn nói diệu huyền mà chỉ chú trọng đến sự thật hành thông thường, là như thế.

Kinh Hoa Nghêm nói: "Ḷng tin là bước đầu của đạo, và mẹ của tất cả công đức". Mong những vị hữu duyên, khi xem đến quyển sách này, bắt đầu tu niệm tin có linh hồn ma qủy, đến tin có tội phước báo ứng, việc chuyển kiếp luân hồi, cũng sự linh hiển của Phật Pháp. Do đó, lần lượt tiếp tục xem những kinh cao hơn. Chừng ấy, lẽ không không sắc sắc, đường thị thị phi phi, sẽ hỏi Phật đà mà tỉnh ngộ.

Thích Thiền Tâm


Kinh Nhân Quả Ba Đời
Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm

Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội.

Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba ṿng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng:

- Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cơi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo ǵ khiến nên như thế?

Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, v́ chúng con giải thích mọi sự việc.

Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử: ! Lành thay ! Lành thay ! Các ông hăy lắng nghe! Ta sẽ v́ các ông mà giải thích rành rẽ".

Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo.

Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau.

Phật liền nói bài kệ nhân qủa rằng:

Giàu sang đều bởi mạng

Đời trước có tu nhân

Ai thọ tŕ kinh nầy,

Đời đời hưởng phước lộc.

Thiện nam, tín nữ nghe ta nói:

Suy nhớ kinh Nhân Qủa ba đời

Nhân qủa ba đời việc chẳng nhỏ,

Phật nói lời Phật chớ chê khinh.

1. Đời nay làm quan do nhân ǵ?
Kiếp trước vàng ṛng thếp tượng Phật
Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa
Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật.
Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm ḿnh.
Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân.
Đừng bảo làm quan là chuyện dễ,
Không tu phước ấy đến từ đâu?

2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân ǵ?
Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ.

3. Do nhân duyên ǵ mặc gấm vóc?
Đời trước thí áo giúp Tăng Ni.

4. Có ăn, có mặc do nhân ǵ?
Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống.

5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi?
Kiếp trước một nửa không xả thí.

6. Lầu cao nhà lớn do nhân ǵ?
Xưa lên chùa am cúng thí gạo.

7. Phước lộc đầy đủ cho nhân ǵ?
Xưa lập chùa am cất nhà mát (1)

8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân ǵ?
Đời trước hoa tươi cúng dường Phật.

9. Thông minh trí tuệ do nhân ǵ?
Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật.

10. Người thấy vui mừng do nhân ǵ?
Xưa kết duyên lành cùng đại chúng.

11. Chồng vợ bền lâu do nhân ǵ?
Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật.

12. Cha mẹ song toàn do nhân ǵ?
Đời trước kính trọng người cô độc.

13. Không cha mất mẹ do nhân ǵ?
Kiếp trước là người đánh bẫy chim.

14. Con cháu đông nhiều do nhân ǵ?
Đời trước mở lồng thả chim thú.

15. Nuôi con không được do nhân ǵ?
Xưa sinh con gái d́m cho chết? (2)

16. Đời nay không con do nhân ǵ?
Kiếp trước bẻ găy hại trăm hoa.

17. Đời nay sống lâu do nhân ǵ?
Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều.

18. Đời nay mạng yểu do nhân ǵ?
Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh.

19. Đời nay không vợ do nhân ǵ?
Kiếp trước tham mưu gian vợ người.

20. Đời nay ở góa do nhân ǵ?
Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng.

21. Làm thân tôi đ̣i do nhân ǵ?
Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa.

22. Đời nay mắt sáng do nhân ǵ?
Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật.

23. Đời nay đui mù do nhân ǵ?
Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh.

24. Môi miệng sứt thiếu do nhân ǵ?
Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật.

25. Đời nay câm điếc do nhân ǵ?
Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ.

26. Đời nay lưng gù cho nhân ǵ?
Kiếp trước chê cười người lễ Phật.

27. Tay bị cong quẹo do nhân ǵ?
Đời trước đều là người tạo nghiệp.

28. Chân bị co rút do nhân ǵ?
Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người.

29. Làm thân trâu ngựa do nhân ǵ?
Xưa thiếu nợ người không chịu trả.

30. Đọa làm heo chó do nhân ǵ?
Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người.

31. Đời nay nhiều bệnh do nhân ǵ?
Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật.

32. Đời nay không bệnh do nhân ǵ?
Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân.

33. Hằng bị lao tù do nhân ǵ?
Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người.

34. Đời nay chết đói do nhân ǵ?
Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột

35. Bị thuốc độc chết do nhân ǵ?
Kiếp trước đăng lưới giết hại cá.

36. Nổi trôi cơ khổ do nhân ǵ?
Ác tâm lấn hiếp mưu hại người.

37. Đời nay lùn bé do nhân ǵ?
Kiếp trước xem kinh để dưới đất. (3)

38. Nay thường thổ huyết do nhân ǵ?
Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. (4)

39. Đời nay ngu điếc do nhân ǵ?
Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe.

40. Ghẻ lác phong điên do nhân ǵ?
Xông hơi thịt cá trước bàn Phật.

41. Thân có mùi hôi do nhân ǵ?
Xưa bán hương thơm trọn dối gian.

42. Đời nay chết treo do nhân ǵ?
Kiếp trước đem dây săn bẫy thú.

43. Quan, qủa, cô độc do nhân ǵ?
Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người.

44. Sét đánh lửa thiêu do nhân ǵ?
Cân non, già, thiếu ḷng gian xảo.

45. Rắn cắn cọp ăn do nhân ǵ?
Kiếp trước gây oan tạo đối đầu.
Muôn việc ḿnh làm lại ḿnh chịu
Thọ khổ địa ngục oán trách ai?
Đừng nói nhân qủa người không thấy.
Xa trả con cháu, gần trả ḿnh.

46. Chỉ nh́n trước mắt người hưởng phước.
Sẽ tin bố thí với tŕ trai.
Kiếp trước tu nhân nay hưởng qủa.
Đời nầy tu tích để về sau.
Nếu ai hủy báng kinh Nhân Qủa
Kiếp sau đọa lạc mất thân người.
Kẻ nào thọ tŕ kinh Nhân Qủa.
Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh.
Kẻ nào biên chép kinh Nhân Qủa,
Truyền đời tu học đạo nhà hưng.
Ai mà mang đội kinh Nhân Qủa,
Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân.
Nếu người giản nói kinh nhân qủa
Đời đời kiếp kiếp được thông minh
Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Qủa
Đời sau người thấy sinh cung kính.
Người nào ấn tống kinh Nhân Qủa.
Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương.
Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời trước.
Chính sự thọ hưởng của đời nay.
Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời sau.
Chính sự gây nhân của kiếp này,
Nếu như nhân qủa không cảm ứng,
Do đâu Mục Liên cứu được mẹ?
Người nào tin sâu kinh Nhân Qủa.
Đồng sinh Tây phương cơi Cực Lạc.
Nhân qủa ba đời nói không hết.
Thiên long chẳng bỏ ư người lành.
Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn,
Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn.
Gởi kho bền chắc không hư mất, (5)
Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng.
Muốn biết nhân đời trước,
Xem sự hưởng đời nay,
Muốn biết qủa đời sau,
Xem việc làm kiếp này.

(1) Nhà dưỡng Lăo, cô nhi
(2) Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên d́m cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra.
(3) Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn.
(4) Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi: Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Um Soa Pha Va Suưt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suưt đa hàm (7 biến) Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma.
(5) Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ư nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho.



Kinh Nhân Quả

Bài giảng của HT Thanh Từ

Một hôm Phật ở nước Xá Vệ rừng Kỳ Đà vườn ông Cấp Cô Độc, tôi nghe như vầy:

Khi ấy vua Ba Tư Nặc đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, lui ngồi một bên, bạch Phật:
-- Thế nào Thế Tôn! Bà La Môn chết rồi trở lại sanh trong ḍng Bà La Môn chăng? Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà la cũng thế chăng?

-- Đại Vương! Đâu được như vậy. Đại Vương nên biết có bốn hạng người:

1. Có người từ tối vào tối.

2. Có người từ tối vào sáng.

3. Có người từ sáng vào tối.

4. Có người từ sáng vào sáng.

Đại Vương! Thế nào là hạng người từ tối vào tối?

- Có những người sanh ra trong nhà ty tiện hoặc nhà Chiên Đà La (Candala), nhà làm lưới bẫy, nhà đương lát, nhà thợ mộc và các nghề nghiệp hạ tiện, nghèo cùng, chết yểu, thân thể xấu xa, mà lại làm những nghề hạ tiện, cũng bị người sai làm những việc hạ tiện, ấy gọi là tối.

Ở trong chỗ tối, người kia lại thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác, do nhơn ấy thân hoại mạng chung sẽ sanh cơi ác đọa địa ngục. Ví như có người từ tối vào tối, từ nhà xí vào nhà xí, dùng máu rửa máu, xả ác thọ ác, người từ tối vào tối cũng như thế.

Thế nào là người từ tối vào sáng?

- Có những người sanh trong gia tộc ty tiện, cho đến làm nghề hạ tiện, ấy gọi là tối. Nhưng người kia ở trong chỗ tối này, thân hành thiện, khẩu hành thiện, ư hành thiện, do nhân duyên ấy thân hoại mạng chung, sanh vào cơi lành, được hóa sanh lên cơi trời. Ví như có người bước lên chơng từ chơng cưỡi ngựa, từ ngựa lên voi, từ tối vào sáng cũng như thế.

Thế nào là người từ sáng vào tối?

- Có những người sanh trong gia tộc giàu sang hoặc nhà Sát Lợi giàu sang, hoặc nhà Bà La Môn giàu sang, nhà trưởng giả và các gia đ́nh giàu sang nhiều tiền của, tôi tớ, nhiều trí thức, thân tốt đẹp, thông minh trí tuệ, ấy gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, thân hành ác, khẩu hành ác, ư hành ác, do nhân duyên ấy thân hoại mạng chung sanh cơi ác, đọa địa ngục. Ví như có người từ lầu cao xuống cưỡi voi, từ voi xuống lưng ngựa, từ ngựa xuống xe, từ xe xuống chơng, từ chơng xuống đất, từ đất rơi xuống hầm, từ sáng vào tối cũng như thế.

Thế nào là người từ sáng vào sáng?

- Có những người sanh trong gia tộc giàu sang cho đến h́nh tướng tốt đẹp. Ở trong chỗ sáng này tâm hành thiện, khẩu hành thiện, ư hành thiện, do nhân duyên này thân hoại mạng chung sanh cơi lành được hóa sanh cơi trời. Ví như có người từ lầu đẹp đến lầu đẹp, như thế cho đến từ chơng đến chơng, người từ sáng vào sáng cũng như thế. Khi ấy Thế Tôn nói bài kệ:

Người bần cùng khốn khổ
Không tin thêm sân hận
Sân tham tưởng ác tà
Si mê không cung kính
Thấy Sa Môn, Đạo Sĩ
Người tŕ giới, đa văn
Chê bai, không khen ngợi
Chướng người trí kẻ thọ
Kẻ sĩ phu như thế
Từ đây đến đời sau
Sẽ đọa trong địa ngục
Từ tối vào nơi tối.
Nếu có người bần cùng
Tín tâm ít sân hận
Thường sanh tâm tàm quí
Bố thí ĺa xan tham
Thấy Sa Môn, Phạm chí
Người tŕ giới, đa văn
Thấp ḿnh và thăm hỏi
Tùy nghi khéo giúp đỡ
Khuyên người khiến bố thí
Khen thí và người thọ
Người tu thiện như thế
Từ đây đến đời sau
Cơi lành sanh lên trời
Từ tối vào nơi sáng.
Có sĩ phu giàu vui
Không tin nhiều sân hận
Sân tham, tật tưởng ác
Tà si không cung kính
Thấy Sa Môn, Phạm chí
Chê bai không khen ngợi
Chướng ngại người bố thí
Cũng đoạn người thọ thí
Sĩ phu ác như thế
Từ đây đến đời sau
Sẽ sanh địa ngục khổ
Từ sáng vào trong tối.
Nếu có sĩ phu giàu
Tín tâm không sân hận
Thường khởi tâm tàm quí
Huệ thí ĺa sân đố
Thấy Sa Môn, Phạm Chí
Người tŕ giới, đa văn
Trước kính đón thăm hỏi
Tùy nghi cấp chỗ cần
Khuyên người khiến cúng dường
Khen thí và thọ thí
Kẻ sĩ phu như thế
Từ đây đến đời sau
Sanh tam thập tam thiên
Từ sáng vào nơi sáng.

Phật nói kinh này rồi, vua Ba Tư Nặc nghe Phật nói hoan hỷ tùy hỷ làm lễ rồi lui đi.

B́nh:

Đọc qua bài kinh Nhân Quả trên, chúng ta thấy lư nhân quả của đạo Phật rất rộng răi và phóng khoáng. Bởi một số đông người trong thế gian lầm chấp: Hể người chết sanh cơi người, trời chết sanh cơi trời, thú vật chết sanh thú vật v.v... Họ đâu biết cuộc sống của chúng ta là một ḍng chuyển biến, chuyển biến liên tục từng sát na. Từ khi chào đời đă chịu quả báo nghiệp nhân của quá khứ. Dần dần thành một con người là nó đă tạo thêm nghiệp mới. Nếu gặp duyên lành ở trong hoàn cảnh tốt, gần thiện tri thức dạy điều lành, điều tốt th́ nó sẽ tiến lên các cơi lành. Trái lại gần người ác, hoàn cảnh xấu xa nhiễm theo nghiệp ác, nó sẽ đọa xuống các cơi dữ. Như thế cứ tiếp tục thăng trầm từ đời này sang kiếp khác, không bao giờ dứt (gây nghiệp trả quả báo, trả quả báo rồi gây nghiệp v.v...)

V́ thế ở đây Phật nêu lên bốn hạng người:

- Người từ tối vào tối.
- Người từ tối vào sáng.
- Người từ sáng vào tối.
- Người từ sáng vào sáng.

Hạng người thứ nhất là người kém phước đức. Đời trước đă gieo nhân bất thiện, nên hiện nay gặp quả báo sanh chỗ xấu ác. Thế mà cũng chẳng biết làm thiện để chuyển đổi nghiệp nhân đau khổ, họ đành chịu quả khổ măi măi (như từ tối vào tối).

Hạng người thứ hai, cũng ở trong hoàn cảnh xấu ác (của nghiệp qua khứ), nhưng họ biết chuyển nghiệp dữ thành nghiệp lành, tức họ hết khổ đau (như từ tối vào sáng).

Hạng người thứ ba là hạng người có phước đức, do đời trước tạo nhân tốt, đời này hưởng quả lành, nhưng họ không biết tu tiến, cứ tha hồ thụ hưởng dục lạc, gây tạo ác nghiệp để rồi phải gặt hái quả khổ đau (như từ sáng vào tối).

Hạng người thứ tư, người này vừa có phước đức lại biết huân tu nghiệp lành, tránh xa nghiệp ác. Người này mỗi ngày một tiến lên, tâm trí sáng ngời, tương lai họ sẽ lên quả giải thoát (như từ sáng vào sáng).

Tóm lại trong bốn hạng người nói trên, có hai hạng biết cầu tiến (hạng thứ hai và thứ tư) và hai hạng không biết cầu tiến (hạng thứ nhất và thứ ba). Như thế việc tu hành có tiến hay thối đều do chúng ta có chịu chuyển đổi nghiệp nhân hay không, chứ không phải do ai định đoạt. Và nghiệp nhân cũng không phải cố định thiện ác, mà tùy chúng ta chuyển đổi đó thôi.

Biết được lẽ này, chúng ta mới nỗ lực tu thiện, đoạn ác, và không kẹt vào hai chấp "thường" và "đoạn" của ngoại đạo.

_/|\_ NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT _/|\_

_/|\_ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT _/|\_
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
saohom
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 10 of 12: Đă gửi: 15 February 2006 lúc 2:29am | Đă lưu IP Trích dẫn saohom

                  Kính !
     Lâu qua rồi không thấy Bác Vũ Ḥang Nguyên ghé thăm diển đàn vậy ?
Chúc Bác vạn sự cát tường

__________________
Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
Quay trở về đầu Xem saohom's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saohom
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 11 of 12: Đă gửi: 15 February 2006 lúc 2:32am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

KINH NHÂN QUẢ BA ĐỜI

Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm




Lời Nói Đầu



Thuở xưa, có người đến hỏi một vị Thiền sư: "Bậc tu hành đă ngộ lư Chân Không, có lạc vào ṿng Nhân Qủa đặng?". Thiền sư đáp: "Bậc đại tu hành chẳng lạc vào ṿng nhân qủa".

V́ câu trả lời này mà khiến cho Thiền Sư phải đọa làm kiếp chồn năm trăm năm, sau gặp ngài Bá Trượng mới được giải thoát.

Cũng do câu chuyện trên đây, nên các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh nói về nhân qủa tội phước, chú trọng phần giới hạnh, cùng hiểu biết sự luân hồi trong ba cơi sáu đường, sau mới nghiên cứu qua kinh cao. Nếu trái thứ tự, bước đầu tiên đọc những kinh như: Kim Cang, Pháp Bảo Đàn...nếu không phải là người có nhiều căn lành, tất dễ sinh ḷng khinh mạn và lạc vào lối chấp không?. Thật ra, nhân qủa không phải là chuyện thấp nhỏ, v́ từ chúng sinh đọa tam đồ cho đến chư Phật thành Chính Giác đều không ngoài nhân qủa. Do sự kiện trên bút giả mới phiên dịch quyển kinh nầỵ

V́ kinh Nhân Qủa nói tóm tắt không mấy trang nên bút giả lại phụ thêm một ít câu chuyện tạm gọi là "Nhân Qủa Luân Hồi Tạp Lục".

Về việc luân hồi nhân qủa ở Việt Nam ta cũng có nhiều, tiếc v́ không ai ghi chép thành sách, nên tản mác đi. V́ thế, bút giả đành t́m dịch các câu chuyện bên Trung Hoa, và những việc này đều có thật. Cái thông bệnh của người tu Phật, là hay luận huyền nói diệu, mà việc thường nhỏ lại ít khi làm được. Nhớ lại hồi xưa sư cụ Khánh Ḥa c̣n tại thế, có một Phật tử hỏi về đạo lư "vô thỉ vô chung". Sư Cụ mỉm cười đáp: "Hỏi chi xa vời vậy? Gắng ăn chay và niệm Phật cho đều đều là tốt lắm rồi!", Đại để, người đă lăn lội trong nhiều giáo điển, lại không muốn nói diệu huyền mà chỉ chú trọng đến sự thật hành thông thường, là như thế.

Kinh Hoa Nghêm nói: "Ḷng tin là bước đầu của đạo, và mẹ của tất cả công đức". Mong những vị hữu duyên, khi xem đến quyển sách này, bắt đầu tu niệm tin có linh hồn ma qủy, đến tin có tội phước báo ứng, việc chuyển kiếp luân hồi, cũng sự linh hiển của Phật Pháp. Do đó, lần lượt tiếp tục xem những kinh cao hơn. Chừng ấy, lẽ không không sắc sắc, đường thị thị phi phi, sẽ hỏi Phật đà mà tỉnh ngộ.

Thích Thiền Tâm


Kinh Nhân Quả Ba Đời
Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm

Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội.

Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba ṿng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng:

- Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cơi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo ǵ khiến nên như thế?

Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, v́ chúng con giải thích mọi sự việc.

Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử: ! Lành thay ! Lành thay ! Các ông hăy lắng nghe! Ta sẽ v́ các ông mà giải thích rành rẽ".

Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo.

Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau.

Phật liền nói bài kệ nhân qủa rằng:

Giàu sang đều bởi mạng

Đời trước có tu nhân

Ai thọ tŕ kinh nầy,

Đời đời hưởng phước lộc.

Thiện nam, tín nữ nghe ta nói:

Suy nhớ kinh Nhân Qủa ba đời

Nhân qủa ba đời việc chẳng nhỏ,

Phật nói lời Phật chớ chê khinh.

1. Đời nay làm quan do nhân ǵ?
Kiếp trước vàng ṛng thếp tượng Phật
Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa
Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật.
Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm ḿnh.
Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân.
Đừng bảo làm quan là chuyện dễ,
Không tu phước ấy đến từ đâu?

2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân ǵ?
Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ.

3. Do nhân duyên ǵ mặc gấm vóc?
Đời trước thí áo giúp Tăng Ni.

4. Có ăn, có mặc do nhân ǵ?
Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống.

5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi?
Kiếp trước một nửa không xả thí.

6. Lầu cao nhà lớn do nhân ǵ?
Xưa lên chùa am cúng thí gạo.

7. Phước lộc đầy đủ cho nhân ǵ?
Xưa lập chùa am cất nhà mát (1)

8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân ǵ?
Đời trước hoa tươi cúng dường Phật.

9. Thông minh trí tuệ do nhân ǵ?
Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật.

10. Người thấy vui mừng do nhân ǵ?
Xưa kết duyên lành cùng đại chúng.

11. Chồng vợ bền lâu do nhân ǵ?
Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật.

12. Cha mẹ song toàn do nhân ǵ?
Đời trước kính trọng người cô độc.

13. Không cha mất mẹ do nhân ǵ?
Kiếp trước là người đánh bẫy chim.

14. Con cháu đông nhiều do nhân ǵ?
Đời trước mở lồng thả chim thú.

15. Nuôi con không được do nhân ǵ?
Xưa sinh con gái d́m cho chết? (2)

16. Đời nay không con do nhân ǵ?
Kiếp trước bẻ găy hại trăm hoa.

17. Đời nay sống lâu do nhân ǵ?
Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều.

18. Đời nay mạng yểu do nhân ǵ?
Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh.

19. Đời nay không vợ do nhân ǵ?
Kiếp trước tham mưu gian vợ người.

20. Đời nay ở góa do nhân ǵ?
Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng.

21. Làm thân tôi đ̣i do nhân ǵ?
Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa.

22. Đời nay mắt sáng do nhân ǵ?
Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật.

23. Đời nay đui mù do nhân ǵ?
Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh.

24. Môi miệng sứt thiếu do nhân ǵ?
Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật.

25. Đời nay câm điếc do nhân ǵ?
Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ.

26. Đời nay lưng gù cho nhân ǵ?
Kiếp trước chê cười người lễ Phật.

27. Tay bị cong quẹo do nhân ǵ?
Đời trước đều là người tạo nghiệp.

28. Chân bị co rút do nhân ǵ?
Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người.

29. Làm thân trâu ngựa do nhân ǵ?
Xưa thiếu nợ người không chịu trả.

30. Đọa làm heo chó do nhân ǵ?
Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người.

31. Đời nay nhiều bệnh do nhân ǵ?
Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật.

32. Đời nay không bệnh do nhân ǵ?
Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân.

33. Hằng bị lao tù do nhân ǵ?
Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người.

34. Đời nay chết đói do nhân ǵ?
Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột

35. Bị thuốc độc chết do nhân ǵ?
Kiếp trước đăng lưới giết hại cá.

36. Nổi trôi cơ khổ do nhân ǵ?
Ác tâm lấn hiếp mưu hại người.

37. Đời nay lùn bé do nhân ǵ?
Kiếp trước xem kinh để dưới đất. (3)

38. Nay thường thổ huyết do nhân ǵ?
Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. (4)

39. Đời nay ngu điếc do nhân ǵ?
Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe.

40. Ghẻ lác phong điên do nhân ǵ?
Xông hơi thịt cá trước bàn Phật.

41. Thân có mùi hôi do nhân ǵ?
Xưa bán hương thơm trọn dối gian.

42. Đời nay chết treo do nhân ǵ?
Kiếp trước đem dây săn bẫy thú.

43. Quan, qủa, cô độc do nhân ǵ?
Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người.

44. Sét đánh lửa thiêu do nhân ǵ?
Cân non, già, thiếu ḷng gian xảo.

45. Rắn cắn cọp ăn do nhân ǵ?
Kiếp trước gây oan tạo đối đầu.
Muôn việc ḿnh làm lại ḿnh chịu
Thọ khổ địa ngục oán trách ai?
Đừng nói nhân qủa người không thấy.
Xa trả con cháu, gần trả ḿnh.

46. Chỉ nh́n trước mắt người hưởng phước.
Sẽ tin bố thí với tŕ trai.
Kiếp trước tu nhân nay hưởng qủa.
Đời nầy tu tích để về sau.
Nếu ai hủy báng kinh Nhân Qủa
Kiếp sau đọa lạc mất thân người.
Kẻ nào thọ tŕ kinh Nhân Qủa.
Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh.
Kẻ nào biên chép kinh Nhân Qủa,
Truyền đời tu học đạo nhà hưng.
Ai mà mang đội kinh Nhân Qủa,
Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân.
Nếu người giản nói kinh nhân qủa
Đời đời kiếp kiếp được thông minh
Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Qủa
Đời sau người thấy sinh cung kính.
Người nào ấn tống kinh Nhân Qủa.
Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương.
Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời trước.
Chính sự thọ hưởng của đời nay.
Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời sau.
Chính sự gây nhân của kiếp này,
Nếu như nhân qủa không cảm ứng,
Do đâu Mục Liên cứu được mẹ?
Người nào tin sâu kinh Nhân Qủa.
Đồng sinh Tây phương cơi Cực Lạc.
Nhân qủa ba đời nói không hết.
Thiên long chẳng bỏ ư người lành.
Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn,
Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn.
Gởi kho bền chắc không hư mất, (5)
Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng.
Muốn biết nhân đời trước,
Xem sự hưởng đời nay,
Muốn biết qủa đời sau,
Xem việc làm kiếp này.

(1) Nhà dưỡng Lăo, cô nhi
(2) Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên d́m cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra.
(3) Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn.
(4) Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi: Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Um Soa Pha Va Suưt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suưt đa hàm (7 biến) Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma.
(5) Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ư nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho.



Kinh Nhân Quả

Bài giảng của HT Thanh Từ

Một hôm Phật ở nước Xá Vệ rừng Kỳ Đà vườn ông Cấp Cô Độc, tôi nghe như vầy:

Khi ấy vua Ba Tư Nặc đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, lui ngồi một bên, bạch Phật:
-- Thế nào Thế Tôn! Bà La Môn chết rồi trở lại sanh trong ḍng Bà La Môn chăng? Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà la cũng thế chăng?

-- Đại Vương! Đâu được như vậy. Đại Vương nên biết có bốn hạng người:

1. Có người từ tối vào tối.

2. Có người từ tối vào sáng.

3. Có người từ sáng vào tối.

4. Có người từ sáng vào sáng.

Đại Vương! Thế nào là hạng người từ tối vào tối?

- Có những người sanh ra trong nhà ty tiện hoặc nhà Chiên Đà La (Candala), nhà làm lưới bẫy, nhà đương lát, nhà thợ mộc và các nghề nghiệp hạ tiện, nghèo cùng, chết yểu, thân thể xấu xa, mà lại làm những nghề hạ tiện, cũng bị người sai làm những việc hạ tiện, ấy gọi là tối.

Ở trong chỗ tối, người kia lại thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác, do nhơn ấy thân hoại mạng chung sẽ sanh cơi ác đọa địa ngục. Ví như có người từ tối vào tối, từ nhà xí vào nhà xí, dùng máu rửa máu, xả ác thọ ác, người từ tối vào tối cũng như thế.

Thế nào là người từ tối vào sáng?

- Có những người sanh trong gia tộc ty tiện, cho đến làm nghề hạ tiện, ấy gọi là tối. Nhưng người kia ở trong chỗ tối này, thân hành thiện, khẩu hành thiện, ư hành thiện, do nhân duyên ấy thân hoại mạng chung, sanh vào cơi lành, được hóa sanh lên cơi trời. Ví như có người bước lên chơng từ chơng cưỡi ngựa, từ ngựa lên voi, từ tối vào sáng cũng như thế.

Thế nào là người từ sáng vào tối?

- Có những người sanh trong gia tộc giàu sang hoặc nhà Sát Lợi giàu sang, hoặc nhà Bà La Môn giàu sang, nhà trưởng giả và các gia đ́nh giàu sang nhiều tiền của, tôi tớ, nhiều trí thức, thân tốt đẹp, thông minh trí tuệ, ấy gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, thân hành ác, khẩu hành ác, ư hành ác, do nhân duyên ấy thân hoại mạng chung sanh cơi ác, đọa địa ngục. Ví như có người từ lầu cao xuống cưỡi voi, từ voi xuống lưng ngựa, từ ngựa xuống xe, từ xe xuống chơng, từ chơng xuống đất, từ đất rơi xuống hầm, từ sáng vào tối cũng như thế.

Thế nào là người từ sáng vào sáng?

- Có những người sanh trong gia tộc giàu sang cho đến h́nh tướng tốt đẹp. Ở trong chỗ sáng này tâm hành thiện, khẩu hành thiện, ư hành thiện, do nhân duyên này thân hoại mạng chung sanh cơi lành được hóa sanh cơi trời. Ví như có người từ lầu đẹp đến lầu đẹp, như thế cho đến từ chơng đến chơng, người từ sáng vào sáng cũng như thế. Khi ấy Thế Tôn nói bài kệ:

Người bần cùng khốn khổ
Không tin thêm sân hận
Sân tham tưởng ác tà
Si mê không cung kính
Thấy Sa Môn, Đạo Sĩ
Người tŕ giới, đa văn
Chê bai, không khen ngợi
Chướng người trí kẻ thọ
Kẻ sĩ phu như thế
Từ đây đến đời sau
Sẽ đọa trong địa ngục
Từ tối vào nơi tối.
Nếu có người bần cùng
Tín tâm ít sân hận
Thường sanh tâm tàm quí
Bố thí ĺa xan tham
Thấy Sa Môn, Phạm chí
Người tŕ giới, đa văn
Thấp ḿnh và thăm hỏi
Tùy nghi khéo giúp đỡ
Khuyên người khiến bố thí
Khen thí và người thọ
Người tu thiện như thế
Từ đây đến đời sau
Cơi lành sanh lên trời
Từ tối vào nơi sáng.
Có sĩ phu giàu vui
Không tin nhiều sân hận
Sân tham, tật tưởng ác
Tà si không cung kính
Thấy Sa Môn, Phạm chí
Chê bai không khen ngợi
Chướng ngại người bố thí
Cũng đoạn người thọ thí
Sĩ phu ác như thế
Từ đây đến đời sau
Sẽ sanh địa ngục khổ
Từ sáng vào trong tối.
Nếu có sĩ phu giàu
Tín tâm không sân hận
Thường khởi tâm tàm quí
Huệ thí ĺa sân đố
Thấy Sa Môn, Phạm Chí
Người tŕ giới, đa văn
Trước kính đón thăm hỏi
Tùy nghi cấp chỗ cần
Khuyên người khiến cúng dường
Khen thí và thọ thí
Kẻ sĩ phu như thế
Từ đây đến đời sau
Sanh tam thập tam thiên
Từ sáng vào nơi sáng.

Phật nói kinh này rồi, vua Ba Tư Nặc nghe Phật nói hoan hỷ tùy hỷ làm lễ rồi lui đi.

B́nh:

Đọc qua bài kinh Nhân Quả trên, chúng ta thấy lư nhân quả của đạo Phật rất rộng răi và phóng khoáng. Bởi một số đông người trong thế gian lầm chấp: Hể người chết sanh cơi người, trời chết sanh cơi trời, thú vật chết sanh thú vật v.v... Họ đâu biết cuộc sống của chúng ta là một ḍng chuyển biến, chuyển biến liên tục từng sát na. Từ khi chào đời đă chịu quả báo nghiệp nhân của quá khứ. Dần dần thành một con người là nó đă tạo thêm nghiệp mới. Nếu gặp duyên lành ở trong hoàn cảnh tốt, gần thiện tri thức dạy điều lành, điều tốt th́ nó sẽ tiến lên các cơi lành. Trái lại gần người ác, hoàn cảnh xấu xa nhiễm theo nghiệp ác, nó sẽ đọa xuống các cơi dữ. Như thế cứ tiếp tục thăng trầm từ đời này sang kiếp khác, không bao giờ dứt (gây nghiệp trả quả báo, trả quả báo rồi gây nghiệp v.v...)

V́ thế ở đây Phật nêu lên bốn hạng người:

- Người từ tối vào tối.
- Người từ tối vào sáng.
- Người từ sáng vào tối.
- Người từ sáng vào sáng.

Hạng người thứ nhất là người kém phước đức. Đời trước đă gieo nhân bất thiện, nên hiện nay gặp quả báo sanh chỗ xấu ác. Thế mà cũng chẳng biết làm thiện để chuyển đổi nghiệp nhân đau khổ, họ đành chịu quả khổ măi măi (như từ tối vào tối).

Hạng người thứ hai, cũng ở trong hoàn cảnh xấu ác (của nghiệp qua khứ), nhưng họ biết chuyển nghiệp dữ thành nghiệp lành, tức họ hết khổ đau (như từ tối vào sáng).

Hạng người thứ ba là hạng người có phước đức, do đời trước tạo nhân tốt, đời này hưởng quả lành, nhưng họ không biết tu tiến, cứ tha hồ thụ hưởng dục lạc, gây tạo ác nghiệp để rồi phải gặt hái quả khổ đau (như từ sáng vào tối).

Hạng người thứ tư, người này vừa có phước đức lại biết huân tu nghiệp lành, tránh xa nghiệp ác. Người này mỗi ngày một tiến lên, tâm trí sáng ngời, tương lai họ sẽ lên quả giải thoát (như từ sáng vào sáng).

Tóm lại trong bốn hạng người nói trên, có hai hạng biết cầu tiến (hạng thứ hai và thứ tư) và hai hạng không biết cầu tiến (hạng thứ nhất và thứ ba). Như thế việc tu hành có tiến hay thối đều do chúng ta có chịu chuyển đổi nghiệp nhân hay không, chứ không phải do ai định đoạt. Và nghiệp nhân cũng không phải cố định thiện ác, mà tùy chúng ta chuyển đổi đó thôi.

Biết được lẽ này, chúng ta mới nỗ lực tu thiện, đoạn ác, và không kẹt vào hai chấp "thường" và "đoạn" của ngoại đạo.

_/|\_ NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT _/|\_

_/|\_ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT _/|\_
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
saokhue
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 34
Msg 12 of 12: Đă gửi: 15 February 2006 lúc 2:38am | Đă lưu IP Trích dẫn saokhue

           Thân chào !
   
Xin cám ơn bạn nhoccon1412 đă post bài này rất có ư nghĩa về phật pháp saokhue đang cần t́m đọc đấy
Chúc bạn thân tâm an lạc


__________________
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
Quay trở về đầu Xem saokhue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saokhue
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 4.2305 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO