Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 173 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Pháp Phật là thuốc trị tâm bệnh của chúng sanh Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 1 of 5: Đă gửi: 30 January 2006 lúc 7:33am | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

Pháp Phật là thuốc trị tâm bệnh của chúng sanh


Trong kinh Phật dạy pháp của Phật là những phương thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh. Chúng sanh có tám muôn, bốn ngàn phiền năo, th́ Phật có tám muôn, bốn ngàn pháp môn. Như vậy mỗi pháp của Phật trị mỗi bệnh của chúng sanh. Nếu chúng sanh có bệnh, biết rơ bệnh của ḿnh,lấy pháp của Phật trị th́ bệnh sẽ lành. C̣n người có bệnh mà không biết th́ chịu thua, hoặc biết bệnh nhưng không biết thuốc cũng không dùng được.
Như vậy, pháp Phật là pháp trị bệnh cho chúng sanh. Thế nhưng, pháp Phật đă có hai ngàn năm trăm mấy chục năm rồi, mà bệnh chúng sanh cũng không hết, bởi v́ chúng sanh nhiều bệnh quá.

Như chúng ta đă biết khi Đức Phật giác ngộ dưới cội Bồ đề rồi, Ngài t́m đến năm anh em ông Kiều Trần Như để hoá độ. Bài pháp đầu tiên Phật nói là Tứ diệu đế. Tứ diệu đế chia ra hai phần, một phần chỉ ra sự đau khổ, một phần dạy cách diệt đau khổ.

Về phần đau khổ, Phật chỉ thân này chứa đựng bao nhiêu sự đau khổ, nên có thân là có khổ. Vậy cái khổ đó ai đặt ra, từ đâu đến? Đức Phật bảo cái khổ đó có nguyên nhân. Nguyên nhân đó gọi là ǵ? Gọi là tập. Như vậy khổ là một lẽ thật, nguyên nhân tạo khổ cũng là một lẽ thật. V́ vậy nên nói khổ đế, tập đế.

Khổ đă không phải ngẫu nhiên đến mà có nguyên nhân. Vậy khi biết nguyên nhân rồi muốn cho hết khổ th́ phải tiêu diệt nguyên nhân gây khổ. Tiêu diệt được nguyên nhân gây khổ th́ sẽ hết khổ. Nhưng muốn tiêu diệt nguyên nhân đau khổ, không thể nói suông, mà phải có phương pháp. Cũng như thầy thuốc biết bệnh đang hành, bệnh nhân đang khổ, th́ phải truy nguyên t́m ra vi trùng gây bệnh. Biết chính xác vi trùng rồi th́ phải diệt vi trùng, diệt vi trùng xong mới hết bệnh. Nhưng nói diệt vi trùng suông thôi th́ không được, phải có phương thuốc cụ thể, mới diệt hết vi trùng.

Cũng vậy, Phật dạy tất cả khổ của chúng sanh đều có nguyên nhân. Nếu chúng ta tra cứu biết rơ nguyên nhân rồi th́ phải tiêu diệt nó, muốn tiêu diệt nó phải có phương pháp. Nên Phật nói khổ đế là quả, tập đế là nhân. Diệt đế là diệt hết nhân khổ. Muốn diệt hết nhân khổ phải có phương pháp, phương pháp đó là đạo đế. Có phương pháp mới dùng phương pháp ấy diệt hết nguyên nhân đau khổ. Do đó, diệt đế là quả giải thoát, c̣n nhân của quả giải thoát là đạo đế, tức phương pháp diệt khổ.

Đức Phật dạy chúng sanh đâu khác ǵ việc của các thầy thuốc đang làm. Nên Đạo Phật rất thực tế, không nói chuyện viển vông xa vời ǵ hết. Ai có bệnh chỉ cần dùng thuốc đúng th́ trị lành bệnh. Trị lành bệnh là hết khổ, nên nói đạo Phật là đạo cứu khổ chúng sanh.

Ở thế gian, thầy thuốc trị về thân bệnh. Trong đạo, Phật trị tâm bệnh. Giữa hai việc điều trị đó, việc nào quan trọng hơn? Điều trị tâm bệnh quan trọng hơn. Bởi v́ dù thầy thuốc hay mấy biết bệnh nhân đang bị đau tim hay đau phổi. Thầy thuốc có thuốc, nhưng người bệnh cứ rầu, cứ buồn, th́ trị nổi không? Không nổi, v́ tâm người bệnh không an, không vui th́ điều trị khó lành. V́ vậy, nên tâmbệnh rất là hệ trọng. Nếu thầy thuốc có được hai phương thuốc, một trị thân bệnh, một trị tâm bệnh th́ hay biết mấy. Trị như vậy mới toàn hảo, c̣n chỉ một phần th́ chưa được.

Để trị tâm bệnh, Phật dạy những pháp để tiêu trừ nguyên nhân sanh ra bệnh. Bệnh của chúng sanh tới tám muôn, bốn ngàn, Pháp của Phật cũng có tới tám muôn, bốn ngàn. Nhưng nói về cội gốc của bệnh, th́ có sáu món căn bản phiền năo. Trước khi nói pháp trị bệnh, chúng ta cần phải biết các thứ bệnh. Bệnh t́nh đó đang thế nào, muốn giới thiệu thuốc th́ phải biết hậu quả hay hiện trạng bệnh đang hoành hành ra sao.

Bây giờ thử nghiệm lại tất cả chúng ta trong hiện đời khổ hay vui? Nếu vui th́ không có bệnh, không bệnh th́ cần ǵ thuốc. Nếu có bệnh mới t́m nguyên nhân gây bệnh và trị bằng cách nào. Trong nhà Phật nói con người bị bốn, hoặc tám thứ khổ vây hăm, không ai thoát khỏi. Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, có ai khỏi đâu? Như vậy quả thật chúng ta là bệnh nhân rồi. Ngoài ra c̣n ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Nghĩa là thương yêu xa ĺa khổ, oán thù mà gặp mặt hoài khổ, mong muốn không được khổ, thân này tự bại hoại không an khổ. Kiểm lại trong tám thứ khổ, chúng ta đều có đủ. Rơ ràng xác định được chúng ta là bệnh nhân rồi, th́ mới nói tới trị liệu.

Muốn trị bệnh th́ phải phăng t́m nguyên nhân. Nguyên nhân nào sanh ra những thứ khổ đó. Phật nói nhiều lắm nhưng ở đây tôi chỉ kể sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. V́ có nhân này nên có quả kia. Thí dụ như tham, căn bản là tham sống. Có người nào không tham sống sợ chết đâu? Nhưng rồi cũng phải chết, bởi vậy nên khổ. Bây giờ ḿnh hết tham sống th́ không sợ chết. Mà không sợ chết th́ đâu c̣n khổ.

Từ tham sanh bao nhiêu thứ khổ. Đức Phật chia ra hai thứ: một là tham về ngũ dục, hai là ngũ trần. Tham ngũ dục là: tài, sắc, danh, thực, thụy. Tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh vọng, thực là ăn uống, thụy là ngủ nghỉ ; năm cái này để cho ḿnh tham. Từ những tâm tham này sanh ra các thứ khổ kia. Vậy chúng ta phải lấy thuốc ǵ để trị vi trùng tham?

Tham tài phải lấy hai thứ thuốc hoà hợp vào trị. Thuốc thứ nhất là bố thí, thuốc thứ hai là vô thường. Phật dạy tất cả tài sản của chúng ta bị năm nhà cướp lấy. Năm nhà là ǵ? 1. Nước lụt. 2. Trộm cướp. 3. Con bất hiếu. 4. Lửa cháy. 5. Vua chúa hay quan quyền t́m cách cưỡng đoạt.

Như chúng ta chứng kiến nạn lụt miềnTrung vừa rồi, bao nhiêu năm dành dụm chỉ một cơn lũ là cuốn sạch, không c̣n ǵ cả. Như vậy tài sản của chúng ta có bảo đảm đâu, nên Phật nói nó thuộc về năm nhà. Nếu không bị lụt, có khi bị cháy cũng rụi. Không cháy th́ bị trộm cướp, không bị trộm cướp th́ con bất hiếu phá hết sự nghiệp. Không bị con cái th́ gặp những thế lực bên ngoài cưỡng bức cướp lấy.

Tuy nói tiền bạc của cải của ḿnh nhưng không bảo đảm giữ được lâu dài, như vậy tham để làm ǵ? Nghĩ đến lư vô thường chúng ta bớt tham. Bớt tham th́ bớt khổ. Con người thường có bệnh, hễ tiền của trong tay th́ được một đ̣i hai, được hai đ̣i bốn, muốn thêm hoài. Ở đây Phật dạy phải xả, phải bố thí. Nên nghĩ chúng ta có bao nhiêu đủ ăn rồi, phần dư bố thí cho người. Như vậy là bớt ḷng tham. Nếu người dư dả đem bố thí, v́ biết rằng của cải giữ không được, không có tâm gom góp, keo xẻn là đă trị được bệnh tham tài. Rơ ràng có bệnh th́ có thuốc. Biết được nguyên nhân v́ tham tài, mà cầu bất đắc nên khổ. Muốn nhiều của nhưng muốn hoài không được th́ khổ. Bây giờ ḿnh đem ra bố thí tức không cần giữ ǵn nữa th́ đâu c̣n ḷng tham. Mà không tham th́ đâu có khổ.

Đối với người tham sắc, Phật dạy dùng thuốc quán bất tịnh để trị. Bởi v́ khi tham sắc th́ thấy người đẹp, tự nhiên chúng ta nghĩ ngợi người đó đẹp thế này, người đó quư, sang thế nọ v.v... Ngược lại, nếu chúng ta quán thân ḿnh bẩn thỉu không ra ǵ, thân mọi người cũng vậy, quán đến khi ḿnh gớm thân ḿnh, th́ thân người khác ḿnh cũng gớm luôn. Mà gớm th́ hết ham. Đó là cách trị bệnh tham sắc.

Đến tham danh phải dùng pháp quán vô thường. Bởi v́ mọi thứ trên đời này được rồi sẽ mất. Thí dụ như người ứng cử tổng thống được đắc cử, th́ bốn năm năm cũng hết nhiệm kỳ, có c̣n măi đâu. Bởi nó không bền, v́ vậy phải quán vô thường, quán nó là khổ. Khi chưa được danh v́ lo lắng chạy chọt đủ thứ đă là khổ. Khi được rồi lo nó mất lại khổ nữa. Nếu thật sự nó mất th́ càng buồn. Cho nên quán tham danh gốc là khổ đau. Người không hiếu danh dù được mời gọi cũng không muốn. Nếu có làm việc ǵ th́ v́ tất cả lợi ích chung chớ không v́ danh vị của ḿnh. Đă v́ tất cả lợi ích chung th́ được không mừng, mất cũng không lo, như vậy mới không khổ.

Đến việc ăn (thực) cũng là gốc của khổ. Phải dùng hai thứ thuốc vô thường và bất tịnh hoà lại. Thức ăn khi c̣n ở miệng th́ quư, nhưng nuốt qua khỏi cổ rồi th́ hết quư. Giả sử nó không chịu vào mà ụa ra th́ có gớm không? Rất gớm. Như vậy nó quư khi c̣n ở ngoài. Nuốt vô rồi nó trở thành dơ, đâu phải là quư. Tại v́ chúng ta cứ mê say nên cho là quư. Nếu thấy nhơ nhớp th́ đâu có tham. Lại một điều nữa, thức ăn ngon được bao lâu? Chỉ một hai phút ở trong lưỡi trong miệng thôi, qua khỏi cổ th́ hết ngon rồi, nên nó tạm bợ vô thường, tham lam ǵ. Xét như vậy th́ bớt được tham ăn.

Tới bệnh tham ngủ. Nhà Phật dạy muốn trừ bệnh tham ngủ phải dùng thuốc vô thường, thuốc tinh tấn hoà lại. Nên nghĩ mạng sống này không bao lâu, không có ǵ bảo đảm. Giờ nào c̣n sống th́ mừng giờ đó, qua giờ khác th́ không thể biết được. V́ thân này rất mỏng manh, rất tạm bợ. Nên chúng ta hiện sống, có những việc nên đáng làm, mà không lo làm cứ nằm ngủ hoài. Nhà Phật có câu:"Cần tu như lửa cháy đầu", nếu đóm lửa rơi trên đầu th́ chúng ta chần chờ hay phủi ngay? Vô thường đến bất kể lúc nào, chúng ta không thể lường trước được. V́ vậy giờ nào c̣n sống c̣n khỏe th́ nên làm tất cả những ǵ có thể làm, chớ không bỏ trôi ngày giờ lăng phí một cách vô ích.

Như vậy vừa quán vô thường, vừa tinh tấn th́ trừ được bệnh tham ngủ. Nên tôi thường nói với Tăng Ni muốn trị bệnh tham ngủ th́ dùng cây roi tinh tấn mà đánh cho nó thức.

Như vậy là trị năm thứ ngũ dục bằng năm thứ thuốc rồi. Ở đây, tôi không nói ngũ trần v́ ngũ trần cũng anh em với ngũ dục vậy thôi.

Qua sáu thứ căn bản phiền năo: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Bệnh tham đă có mấy bài thuốc ở trên rồi, đến đây khỏi phải nhắc lại. Kế bệnh sân, th́ trị bằng hai thứ thuốc từ bi và nhẫn nhục. Nhẫn nhục là giải quyết cấp thời, khi người ta làm trái ư, ḿnh nổi sân lên liền phải nhẫn, buông xả đi th́ gọi là nhẫn nhục. Buông xả dừng được cơn thịnh nộ rồi, nhưng lâu lâu nhớ lại cũng tức. Nghĩ rằng người ta nói bậy, làm bậy, ḿnh mới giận. Nhưng nếu chúng ta biết nghĩ lại, tại v́ ngu si nên họ làm quấy thật đáng thương. Nghĩ như vậy mới hết giận luôn, chớ c̣n đè nén mai sau nhớ lại giận nữa th́ không được. Cho nên có thuốc nhận nhục mà không có thuốc từ bi th́ cũng dễ tái phát. Có nhẫn nhục rồi phải có từ bi quán theo sau đó. Bởi v́ nếu chúng ta có t́nh thương th́ lỗi nhiều thấy ít, nếu không thương th́ lỗi ít thấy nhiều, không thể tha thứ được. V́ vậy, phải vừa nhẫn nhục, vừa quán từ bi mới trị hết bệnh nóng giận.

Đến si, tức si mê. Si mê có hai tầng bậc. Thứ nhất, không biết ǵ là tôi, ǵ là phước, ǵ là tà, ǵ là chánh, không phân biệt rành rẽ. Đó là si mê hạng thấp. Tuy nhiên, quư Phật tử thử xét lại xem thiện, ác chúng ta đă phân biệt rành chưa? Đôi khi chúng ta tưởng như ḿnh đă biết rành về thiện ác nhưng có nhiều cái thiện mà thành ác, ngược lại ác thành thiện. Thí dụ cô giáo phạt học tṛ lười, trốn học hoài th́ thấy như ác. Nhưng nhờ phạt nó sợ cố gắng học, như vậy th́ ác hay thiện? C̣n giả sử như kẻ ghiền áphiện bị ụa mửa, có người thấy vậy mua á phiện đưa cho họ hút, như vậy thiện hay ác?

Mới nh́n như thiện v́ kẻ đang khổ, cho hút th́ họ đỡ khổ, nhưng sự thật th́ ác v́ làm cho họ ghiền hoài. Nên nhiều việc mới nh́n thấy thiện, mà hậu quả lại ác, hoặc ngược lại mới nh́n thấy ác nhưng hậu quả lại thiện. V́ vậy phân biệt thiện ác cũng không phải dễ, phải có trí tuệ mới có thể phân biệt được. Phân biệt được thiện ác mới phân biệt được tội phước. Cái ǵ tội, cái ǵ phước? Nếu việc làm giúp ích được người lâu dài th́ có phước. C̣n việc làm trước mắt thấy như thiện mà tạo thành cái khổ cho người lâu dài th́ trở thành ác. Như vậy thiện ác thật khó xử, khó giải quyết. Nhưng nếu chúng ta phân biệt được thiện ác th́ tội phước mới không lầm lẫn. Cũng vậy, đối với tà chánh, rất khó phân biệt. Có những trường hợp mới nghe như phải, như chánh, nhưng mà rốt cuộc lại tà.

Như có người trong đạo Phật, rất cung kính Phật. Bởi quá cung kính nên tin Đức Phật có đầy đủ vạn năng, xin cái ǵ cũng được. V́ vậy mỗi khi có tai nạn hoặc gặp vui buồn ǵ đó cứ đến xin Phật cầu Phật. Quan niệm như vậy là đă thành tà. Cung kính Phật tại sao lại tà, đó là vấn đề mà đôi khi Phật tử chúng ta không nhận ra. Đức Phật từng tuyên bố ta không có quyền ban phước giáng hoạ cho ai. Vậy chúng ta xin Phật cho hết tai họa th́ có ngược lại lời Ngài nói không? Phật dạy một đằng, chúng ta làm một ngả, không phải tà là ǵ? Trong đạo người mắc kẹt bệnh này rất nhiều. Tu th́ không chịu tu mà cứ xin. Phật dạy dùng pháp để trị tâm bệnh mà chúng ta cứ xin là sao? Có nhiều Phật tử nói "tôi theo đạo Phật 10 năm rồi" mà động tới th́ phiền năo đủ thứ hết. Tu mà không hết khổ th́ đạo Phật vô hiệu, không giá trị. Như vậy kẻ ấy làm tăng giá trị đạo Phật hay làm giảm giá trị đạo Phật? Việc này thật tế nhị. Nên quư Phật tử phải hiểu tin Phật là nên tin điều ǵ và không nên tin điều ǵ. Người ta cứ ỷ lại vào Phật, cầu mong Phật cho cái này cái nọ. Được như ư th́ nói Phật linh quá rủ nhau đi chùa, nếu không được như ư th́ sao? Phật bây giờ không linh, Bà Chúa Xứ linh hơn đi xin Bà Chúa Xứ, thế là đă lạc vào đường tà.

Phật dạy chúng ta phương pháp tu, nếu có nóng giận nên tu pháp ǵ, đâu có cầu ai. ng dụng pháp Phật để tu th́ phiền năo giảm, đau khổ bớt. Như vậy Phật cứu khổ cho ḿnh rồi. Cũng như thầy thuốc khám bệnh , cho thuốc, nhưng bệnh nhân không chịu uống, vậy làm sao hết bệnh. Kẻ ấy thầy thuốc cũng chịu, không có cách khác. Phật là thầy thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh. Nhưng chúng sanh không chịu dùng thuốc th́ làm sao hết bệnh, nên theo đạo Phật mà vẫn tà như thường. Hiện nay có rất đông người theo đạo Phật như vậy. Nhiều huynh đệ than phiền nói tôi tu mà cứ chỉ trích người này chỉ trích người kia. V́ tôi thấy việc tà mà không xây dựng, không chỉ dạy th́ đối với Phật pháp tôi đă có tội rồi. Do đó muốn phân biệt tà chánh rất là khó.

Đó là chưa kể nhiều người tuyên bố ḿnh là Bồ tát tái thế để độ chúng sanh, hay họ tuyên bố có câu chú lá bùa trị lành tất cả bệnh. Quư Phật tử nghĩ sao, điều đó chánh hay tà? Trong nhà Phật dạy không có vị Bồ tát nào hiện thân ra đời mà vẫn vỗ ngực xưng tên là Bồ tát cả.

Bồ tát đi lẫn trong quần chúng hành mật hạnh Bồ tát. Nếu nói ta là Bồ tát để được người cung kính lễ lạy th́ làm sao hành hạnh Bồ tát? Chỉ như có người bệnh phải cơng đi bệnh viện th́ Bồ tát làm. Người gặp cảnh nghèo đói cần giúp th́ Bồ tát giúp thầm lặng, không hiện tướng khác người. Đôi khi v́ thử người, Bồ tát hiện thân thấp kém để thử người mến đạo. Nếu xưng Bồ tát, mọi người đều quư kính hết th́ làm được ǵ. Tự xưng Bồ tát c̣n phải hạnh Bồ tát, huống nữa tự xưng Phật th́ chúng ta bái, không nên lại gần, v́ đó là tà rồi.

Điểm kế nữa, người dạy tu mà bảo phải thề độc, nếu bỏ đạo sẽ bỏ đọa địa ngục v.v... Như vậy tà hay chánh? Chắc chắn là tà rồi. Bởi tà nên họ sợ ḿnh bỏ. V́ vậy, bắt thề độc, lỡ vào rồi phải trung thành. Đó là tà giáo, nhiều Phật tử bị lầm đáng thương lắm.

Đức Phật dạy chúng ta quy y Phật thề tránh điều dữ nguyện làm việc lành chứ không thề thốt ǵ hết. Lúc nào không muốn tu nữa th́ thôi, không có chuyện hăm dọa bỏ đạo bị đọa địa ngục. Phân biệt tà chánh phải dùng trí tuệ. Muốn trị bệnh si mê th́ vận dụng trí tuệ quán chiếu mới trị được. Bởi v́ từ si mê người tatạo đủ thứ nghiệp, chịu đủ thức khổ. Nay muốn có trí tuệ chúng ta phải học chánh pháp (hữu sư trí) và tu thiền định (vô sư trí). Lấy trí tuệ dẹp si mê.

Phần thứ nhất tôi nói về si mê cạn, phần thứ hai tôi nói về si mê sâu. Si mê sâu là giả mà tưởng là thật, cái thật lại không biết. Như thân này giả mà chúng ta tưởng thật. Đó là si mê. Si mê sâu này rất nguy hiểm v́ chấp gỉa làm thật, nên không bao giờ biết được cái thật. Rồi đến tâm cũng chấp cái giả của tâm cho là tâm thật. Trong kinh Lăng Nghiêm, phần bảy, chỗ hỏi tâm, Phật hỏi Ngài A Nan: cái ǵ là tâm của ông? Ngài A Nan trả lời:Bạch Thế Tôn cái hay suy nghĩa là tâm con. Phật quở: Cái đó không phải tâm ông.

Ngài hoảng hốt quá, tưởng ḿnh không có tâm sao? Phật nói: Ông có tâm, nhưng cái suy nghĩ đó không phải là tâm ông. Phật liền dùng thí dụ chàng diễn Nhă Đạt Đa đứng trước mặt gương soi mặt, thấy đầu mặt rơ ràng trong gương; khi úp gương xuống đầu mặt mất. Ông ôm đầu chạy nói:"Tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi". Tại sao ông ôm đầu chạy lại la mất đầu? Tại chấp bóng cho là đầu thật, nên mất bóng liền ôm đầu thật chạy la mất đầu. Chúng ta cũng vậy, suy nghĩ phân biệt mà cho là tâm ḿnh. Thật ra đó là duyên theo bóng, nghĩ về người th́ có bóng người, nghĩ về vật có bóng vật. Nó lăng xăng nhưng t́m lại th́ mất dạng. Không phải bóng là ǵ?

Khi không suy nghĩ, không tính toán ǵ hết, lặng yên lúc đó có tâm ḿnh không? Tâm là cái biết, mắt thấy biết, tai nghe biết. Vậy mà chúng ta không bao giờ nhận cái đó, cứ nhận bóng dáng cho là ḿnh. Như vậy chúng ta cũng giống Diễn Nhă Đạt Đa, cứ chấp bóng là tâm ḿnh. Chấp bóng là ḿnh tức chấp tâm giả cho là thật, th́ không bao giờ thấy được tâm thật. Nên biết tại sao chúng ta phải tu thiền, là để cái tâm tạm bợ bóng dáng đó lặng xuống, chớ nếu theo nó liên tục th́ làm ǵ thấy cái thật. Tôi thường ví dụ như cái gương, nh́n vào thấy có bóng người, bóng vật. Lúc đó chúng ta thấy mặt gương rơ không? Bởi măi lo thấy bóng mà quên gương. Nếu khi không thấy bóng mới nhận ra mặt gương luôn trong sáng. Cũng vậy, tâm chúng ta luôn hiện tiền trong sáng. Nhưng chạy theo vọng tưởng th́ quên tâm. Khi dừng được vọng tưởng th́ cũng như gương không có bóng, mặt gương hiện rơ ràng. Chúng ta tu thiền chủ yếu là v́ thế.

Tâm theo cảnh là tâm tạo nghiệp, buồn thương giận ghét là mầm tạo nghiệp. Nếu không nghĩ ngợi lăng xăng th́ có buồn thương giận ghét không? Tâm không buồn thương giận ghét đâu có sanh diệt. Không sanh diệt mới thật là cái chân thật của ḿnh. Do đó si mê tầng thứ hai này rất sâu. Tầng thứ nhất vừa nói có thể biết liền, c̣n thứ si mê này thật thâm trầm, Phật gọi đó là vô minh.

Đối với si mê cạn th́ chúng ta dùng trí tuệ hữu học phân biệt chánh, tà. Đối với si mê sâu chấp giả làm thật th́ phải có công phu tu. Từ trí do huân tu mới nhận chân được lẽ thật. Đây là nhân giải thoát sanh tử.

Tóm lại muốn trị bệnh si mê phải dùng thuốc trí tuệ và thiền định. Trí tuệ là trí hữu học, c̣n thiền định để tăng trí vô sư. Như chỉ thắp đèn mới phá được bóng tối. Nếu không như thế th́ làm sao phá được phiền năo. Cho nên người học Phật không có trí tuệ th́ không làm sao phá được phiền năo. V́ trí tuệ phá si mê, mà si mê sanh ra phiền năo. Si mê chấp thân, si mê chấp tâm v.v... Bao nhiêu khổ đau theo đó mà ra.

Đến bệnh mạn, tức ngă mạn, tại sao chúng ta có bệnh khinh mạn hay ngă mạn này? V́ một là chấp thân, hai là chấp tâm. Thí dụ người đẹp và sang th́ thấy ta hơn thiên hạ, hoặc người thông minh học giỏi cũng thấy ta hơn người. Từ hai thứ chấp thân chấp tâm, thân đẹp th́ cho là quư, tâm lanh lợi th́ cho là khôn ngoan, đó là bệnh ngạo mạn.

Bệnh này phải dùng phá ngă để trị. Phá ngă có hai: về thân th́ do tứ đại hoà hợp, về tâm th́ tất cả suy nghĩ đều là vọng tưởng hư dối, có ǵ thật đâu mà chấp, ta đă không thật mà trọng ḿnh khinh người là điều vô lư, nên dùng pháp quán vô ngă, thân tứ đại duyên hợp nên không có ngă thật, tâm cũng là bóng dáng của ngoại trần nên cũng không thật, có ǵ là khôn, có ǵ là hơn. Lấy vô ngă để phá ngă mạn, đó là thuốc trị bệnh mạn.

Đến nghi, thường nghi có hai loại: Trong nhà thiền hay nói đa nghi đa ngộ th́ cái nghi này là nghi quư. C̣n nghi bệnh như: một là nghi ḿnh, hai là nghi Tam bảo, nghi không biết Phật có thật không, pháp Phật dạy có đúng không, các thầy tu có thật không. Do nghi như vậy nên đối với Tam bảo mất hết ḷng tin, kế đến nghi ḿnh tu không nổi, đă nghi ḿnh, nghi Tam bảo th́ làm sao tiến được. Cho nên muốn hết nghi phải lấy thuốc chánh tín để trị, tức là lấy ḷng tin, ḷng tin ở đây là từ trí tuệ mà có, chứ không phải tin mù quáng. Bởi tin có hai: Tin do trí tuệ gọi là chánh tín. Tin một cách một mù quáng goị là mê tín. Chữ tin này cần phải hiểu cho rơ ràng.

Dùng chánh tín tức là ḷng tin chân chánh để dẹp cái nghi. Chánh tín là tin thế nào? Một là tin Tam bảo bằng trí tuệ, Đức Phật có thật hay không, chúng ta phải tra khảo t́m hiểu cho rơ. Khi nào biết thật có Đức Phật là con người tu hành thành đạo th́ đó mới gọi là tin Phật. Thứ hai là tin pháp của Phật, pháp này đúng sự thật hay huyền hoặc sai với chân lư. Nếu đúng th́ chúng ta mới tin pháp. Thứ ba là tin Tăng, những vị xuất gia tu theo Phật gồm có Tăng Ni. Các vị này có tu chân chánh hay không? Nghiệm xét thấy hoàn toàn chân chánh đúng với chánh pháp của Phật mới tin. Nhờ biết nhận định từ trí tuệ nên goị là chánh tín. V́ vậy, Phật dạy phải văn, tu, tư. Xét đủ th́ mới đủ ḷng tin Tam bảo. Tin Tam bảo là tín tha, kế đến phải tự tín, tức là tin nơi ḿnh. Tin chắc rằng ḿnh có thể tu được. Nhờ tin như vậy nên mới cố gắng tu, nếu không chúng ta sẽ sợ ḿnh ăn chay không nổi, ngồi thiền không nổi. Không tin ḿnh th́ không thể làm ǵ được, mặc dù tin Tam bảo. Cho nên tin Tam bảo c̣n phải tự tin nữa. Những việc Phật làm được chúng ta cũng làm được. Ḿnh sẽ tu được, không thua ai. Ḷng tự tín phải mănh liệt như vậy. Tóm lại lấy thuốc chánh tín để trị bệnh nghi ngờ.

Cuối cùng là ác kiến. Trong phần ác kiến có: thân kiến, biến kiến, kiến thủ. Giới cấm thủ, tà kiến. Ôủ đây, tôi chỉ nhấn mạnh phần tà kiến, bởi v́ phần này rất tế nhị. Thường người ta nói tà tà lệch, là nghiêng. Kiến ở đây không phải thấy mà nhận định. Tà kiến nghĩa là nhận định một cách sai lầm. Thí dụ như nói chết là hết, hoặc cho rằng chết rồi, linh hồn vẫn c̣n hoài. A trở lại làm A, muôn kiếp vẫn là A thôi, đây là tà kiến một bên chấp đoạn kiến, một bên chấp thường kiến. Ngoài ra, như chuyện đến núi Sam xin vay tiền Bà Chúa Xứ về làm ăn v.v... là vừa thuộc về mê tín, vừa là tà kiến.

Nếu nói Bà Chúa Xứ linh thiêng, ai vay tiền Bà đều phát đạt hết th́ từ Long Xuyên lên Châu Đốc mọi người phải giàu hết v́ họ ở gần, dễ chạy lên vay, nhưng thực tế xét kỹ từ Long Xuyên lên Châu Đốc hay vùng lân cận được bao nhiêu người giàu? Lẽ ra từ gần tới xa, nhưng ở gần đă không ra ǵ th́ ở xa làm sao xin được. Tin như vậy là tin nhảm nhí, tin tà kiến. Tà kiến ngay con người ḿnh, cứ nghĩ ḿnh có linh hồn, ḿnh chết rồi linh hồn c̣n nguyên trở lại làm người. Nhà Phật gọi như thế là tà kiến, v́ chấp thường kiến. c̣n cho rằng chết là hết, không có nhân quả báo ứng ǵ cả th́ thuộc về đoạn kiến, cũng là tà kiến.

Trong đạo Phật không nói c̣n măi, cũng không nói chết là hết. Quan trọng là phải làm sao nhận ra nơi con người ḿnh phần nào sanh diệt, phần nào không sanh diệt. Nhận được như vậy rồi phải làm sao cho phần không sanh diệt không bị che phủ. C̣n trên mặt sanh diệt, nói c̣n hoài là sai, nói hết cũng sai. Bởi v́ lâu nay người ta hay nói cái ǵ mất rồi là hết, nhưng sự thật không hết. Tất cả đều là một ṿng chuyển biến tụ tán, tụ tán. Kể cả các h́nh thức nhỏ nhất như bụi đất, cục đất to đập nát thành bụi nhỏ, nh́n cục đất th́ thấy mất, nhưng nó thành cát bụi chớ không mất, chỉ chuyển biến đổi h́nh đổi dạng thôi. Thân này cũng vậy, khi hoại đất trả về đất, nước trả về nước, gió trở về gió, lửa trả về lửa chớ không mất, không hết. Vậy mà chúng ta thường nhận định sai lầm, chết là hết. Đó là tà kiến, nên người Phật tử phải biết từ thể xác đến tinh thần đều tùy duyên. Chúng luân chuyển tụ nơi này tan nơi kia chớ không hết. Tùy duyên luân chuyển tức là luân hồi.

Biết rơ nguyên nhân tạo thành luân hồi như vậy mới có thể chận đứng nó lại. Hiểu thế mới tu giải thoát sanh tử. Nhiều người nói tu để giải thoát sanh tử nhưng hỏi giải thoát cái ǵ, làm sao giải thoát th́ không biết. Nếu chấp thân sanh diệt là thân ḿnh, chấp tâm sanh diệt là tâm ḿnh, đó là tiếp tục tạo nghiệp luân hồi, không bao giờ dừng. C̣n không chấp hai thứ đó mà sống được với cái chân thật không sanh diệt của ḿnh th́ không tạo nghiệp. Đó là giải thoát, không bị lôi cuốn đi trong sanh tử nữa.

Có người hiểu lầm đạo Phật, nói đạo Phật là đạo cứu khổ, nhưng sao quư Thầy ít làm việc từ thiện hơn người tu đạo Thiên Chúa. Thầy chỉ giảng kinh như vậy th́ cứu khổ chúng sanh chỗ nào? Bởi v́ cái nh́n của đạo Phật khác đạo Thiên Chúa, thí dụ như thấy đứa bé ra băi biển vun cát làm núi non chơi, một lát sóng biển ào lên cuốn trôi mất hết, rồi nó tiếp tục làm nữa, cũng bị cuốn trôi măi, như vậy tội nghiệp nó tốn công vô ích, sao không làm ǵ khác hay hơn.

Đây cũng vậy, nếu chúng ta c̣n luân hồi, bỏ thân này tụ lại thân khác kiếp kiếp đời đời không ra khỏi. Nên Phật nói không có khổ nào lớn bằng khổ luân hồi. Cuộc sống mấy chục năm ra ǵ, có thiếu, có đói cũng là tạm thời. Dài th́ chết muộn, ngắn th́ chết sớm, tất cả cũng phải chết, không ai thoát được. Như vậy điều đáng lo nhất là làm sao ngay nơi thân này đừng tiếp tục làm việc vô ích nữa. Chúng ta xét xem cứ mỗi lần sanh ra chết đi ta làm được những ǵ cho người cho ḿnh, hay sanh ra lớn lên rồi già chết, đời này qua đời khác, cứ như vậy hoài thật là vô lư. Nên Phật nói đi trong luân hồi không có khổ nào bằng. Cứu khổ chúng sanh là làm sao cho họ thoát khỏi luân hồi. Đó là gốc của đạo Phật, điều này chỉ có Phật thấy chứ chúng ta đâu thấy. Con người chỉ thấy đói rách và những thứ cần thiết trong cuộc sống. Mà thân này đă tạm bợ th́ những thứ phụ thuộc trong cuộc sống càng tạm bợ hơn. V́ vậy Phật nói khổ từ đời này sang đời khác liên tục không biết khi nào dừng.

Trong kinh đức Phật dạy rằng: cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phaỉ là khổ, cái khổ làm ngạ quỷ đói khát chưa phải là khổ, cái khổ làm trâu ngựa kéo cày kéo xe chưa phải là khổ, mà chỉ si mê không biết lối đi mới là khổ, cho nên đức Phật nói vô minh mê lầm là khổ nhất. Bởi v́ nó dẫn ḿnh đi trong luân hồi vô số kiếp. Phá được nó không c̣n lầm lẫn nữa, gọi là giải thoát sanh tử. Được vậy mới thực sự hết khổ. Đạo Phật hết sức thâm sâu, chỉ v́ người ta không biết nên mới phê phán thế này thế nọ.

V́ đạo Phật đưa chúng ta đi quá cái tầm thường của con người nên con người khó tin khó nhận. Đức Phật thấy tột cội nguồn nên Ngài thường chỉ dạy cho chúng ta đến chỗ đó mới là cứu kính. Không phải tu chút ít được phước sanh cơi lành mà cho là đủ.

Sợi dây xích dù bằng vàng nhốt chúng ta trong nhà lầu cũng bằng vàng, nhưng chúng ta vẫn thấy khổ như thường. Bởi v́ c̣n dây xích là c̣n khổ, dù xích vàng hay sắt ǵ cũng đều khổ hết, khi nào thoát khỏi dây xích mới hết khổ. Giải thoát là như vậy. Cho nên đạo Phật không khuyên chúng ta tu để đời sau được sanh lên cơi trời, mà phải giải thoát sanh tử. Đó mới là cội gốc.

Thế nên chúng ta phải biết những ǵ đức Phật dạy là những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh hết khổ. Từ bệnh tham, bệnh sân, bệnh si v.v... những bệnh đó bớt được là bớt khổ. Nếu được hết sạch th́ sẽ đi đến chỗ giải thoát sanh tử. Những phương pháp Phật dạy gọi là đạo đế. Dứt được mầm đau khổ là diệt đế, là giải thoát sanh tử.

Như vậy, học Phật tu Phật là ứng dụng phương pháp Phật dạy. Thầy thuốc cũng vậy, chẩn bệnh, cho thuốc bệnh nhân phải uống thuốc mới lành bệnh. Nếu cứ xin thầy cho tôi hết bệnh mà không chịu uống thuốc th́ có lành bệnh không? Đạo Phật v́ thế rất thực tế chớ không phải huyền hoặc như người ta tưởng.

Hiểu được vậy mới thấy giá trị đạo Phật rất chân thật. Người Phật tử không hiểu, vô t́nh làm cho đạo Phật trở thành mê hoặc. Lỗi đó tại ai? Cũng tại một phần ở nhà chùa. Giáo lư Phật dạy quá rơ ràng mà người tu không áp dụng, không đem ra dạy lại dạy những chuyện đâu đâu, rốt cuộc nh́n đạo Phật có khác ǵ ngoại đạo. Những ǵ ưu, những ǵ quư của đạo Phật cũng không biết. Cứ nói đạo nào cũng dạy ăn hiền ở lành thôi, mà không biết gốc của đạo Phật là thế nào. V́ không thấy được điều đó nên bữa nay theo đạo Phật, mai mốt theo đạo khác, miễn đạo nào cũng ăn hiền ở lành là được. Như vậy là không hiểu đạo Phật.

Hôm nay nhân gặp gỡ quư vị thầy thuốc nên tôi nói về thuốc của đạo Phật, bởi v́ bác sĩ, thầy thuốc là thực tế khoa học, th́ đạo Phật cũng thực tế khoa học, không có ǵ huyền bí hết, chỉ tại người không hiểu và nhận định sai lầm thôi.

Mong quư vị suy gẫm kỹ và ứng dụng tu hành cho có kết quả.



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 2 of 5: Đă gửi: 30 January 2006 lúc 7:36am | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc



Về hạnh Bố Thí



Bố Thí là một đức hạnh cao quí thường được đề cập đến trong cuộc sống tu tập của người con Phật, tu sĩ lẫn cư sĩ, trong mọi tông phái Phật Giáo.
Có lẽ đa số Phật tử chúng ta đều nghe biết nhiều về các lời giảng trong kinh điển Bắc truyền, đều quen thuộc với các khái niệm hành tŕ như Lục độ Ba-la-mật và Tứ nhiếp pháp của hàng Bồ-Tát. Về lục độ Ba-la-mật th́ gồm có 6 đức hạnh: Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, và Trí tuệ. Về Tứ nhiếp pháp th́ gồm có: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, và Đồng sự.

Trong kinh điển nguyên thủy, Bố Thí là một đức hạnh tối quan trọng mà Đức Phật thường giảng dạy và khuyên nhủ chúng ta nên cố gắng tu tập. Tứ nhiếp pháp cũng được ghi lại trong Tăng Chi Bộ, kinh tạng Pàli. Thêm vào đó, trong khi kinh điển Bắc truyền có ghi 6 pháp Ba-la-mật, kinh điển nguyên thủy đề cập đến 10 pháp Ba-la-mật của hàng Bồ Tát, gồm: Bố thí, Tŕ giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Kiên nhẫn, Chân thật, Chí nguyện, Từ tâm, và Xả ly. Cho nên, khái niệm về các hạnh Ba-la-mật trong tất cả các tông phái đều rất giống nhau, đều đề cao Bố Thí như là đức hạnh đầu tiên cần phải được tu tập.

Ở đây, chỉ xin tŕnh bày tóm tắt, giới hạn trong phạm vi pháp bố thí trong thế gian, về các lời dạy của Đức Phật cho hàng đệ tử cư sĩ tại gia chúng ta, như đă ghi lại trong Kinh Tạng Nikàya nguyên thủy.

* * *

"Bố Thí" là chữ Hán Việt, gồm chữ "Bố" và chữ "Thí". "Bố" là bày ra, ban rộng ra, trải đều ra; như trong những chữ: ban bố, phân bố, tuyên bố, công bố, bố trí, bố cục, bố cáo, bày binh bố trận. "Thí" c̣n đọc một âm khác là "Thi", nghĩa là thực hiện, áp dụng, làm ra; như trong những chữ: thí nghiệm, thí điểm, thí công (thi công)

"Bố thí" có nghĩa là làm cho rộng ra, trải rộng ra, phân chia cùng khắp. Từ đó, Bố Thí mang một ư nghĩa là: chia xẻ, san sẻ. Tiếng Anh thường dịch là: Giving, Donating, Sharing. Trong tiếng Phạn Pàli, Bố Thí là: Dàna, hay Càga.

"Dàna" thường được phiên âm là "Đàn-na", có khi chỉ gọi tắt là "Đàn", như trong cụm từ "Đàn Ba-la-mật", có nghĩa là "Đàn-na Ba-la-mật", "Dàna Pàrami", hay là hạnh Ba-la-mật về sự Bố Thí.

Trong kinh sách, đôi khi chúng ta thấy có sự dùng chữ kết hợp âm tiếng Phạn và tiếng Hán. Thí dụ như chữ "Đàn chủ": Đàn là từ chữ Phạn "Dàna", Chủ là tiếng Hán. Đàn Chủ là người đứng ra thực hiện việc bố thí cúng dường, tiếng Pali là "Dànapati".

"Đàn chủ" cũng c̣n được gọi là "Thí Chủ". Chữ "Thí" ở đây là nói tắt từ chữ "Bố Thí". Trong thuật ngữ Phật học, chữ "Thí" không c̣n mang nghĩa đen là "làm, thực hiện, hành động", mà thường được hiểu như là chữ tắt của "Bố Thí". Ngoài chữ "Thí Chủ", chúng ta thường thấy các chữ khác như là: Đàn-na tín thí, nhà thương thí, thí thực, thí cô hồn, tài thí, pháp thí, niệm thí, v.v. Tất cả đều có hàm chứa ư nghĩa "Bố Thí".

*

Trong Trường Bộ, kinh 33; trong Kinh Phật Thuyết Như Vậy, Chương 3 Pháp; và trong Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phật có dạy 3 pháp hành để tạo căn bản phước báu trên đường tu tập. Đó là: Bố thí (Dàna), Tŕ giới (Śla), và Tu thiền (Bhàvanà): "Này các Tỳ-khưu, có ba phước nghiệp sự này. Đó là: Phước nghiệp sự do bố thí tác thành, phước nghiệp sự do giới tác thành, và phước nghiệp sự do tu thiền tác thành".

Bố thí là một trong 3 hạnh kiểm được người hiền trí, bậc thiện nhân tán thán. Đó là: Bố thí, Xuất gia, và Phụng dưỡng cha mẹ. "Xuất gia" (pabbajjà) ở đây có ư nghĩa là sự thiểu dục, sự thoát ly điều bận rộn phiền năo, thọ tŕ pháp không năo hại, sống chế ngự, điều phục và ḥa hợp. Trong Tăng Chi Bộ, Chương Ba Pháp, Đức Phật dạy: "Này các Tỳ-khưu, có ba pháp được người Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Đó là: Bố thí, Xuất gia, và Hầu hạ cha mẹ."

Bố thí cũng là một trong bốn pháp để thu phục nhân tâm, chung sống hài ḥa trong gia đ́nh cũng như trong Tăng chúng và trong xă hội. Tăng Chi Bộ, Chương 4 Pháp, có ghi lại lời khuyên của Đức Phật như sau:

- Này các Tỷ-kheo, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn?

Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và đồng sự
Hỡi các vị Tỷ-kheo,
Đây là bốn nhiếp pháp.

Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và đồng sự,
Đối với những pháp này,
Ở đời đối xử nhau,
Chỗ này và chỗ kia,
Như vậy thật tương xứng.

Và bốn nhiếp pháp này,
Như đỉnh đầu trục xe,
Nếu thiếu nhiếp pháp này,
Thời cả mẹ lẫn cha
Không được các người con
Tôn trọng và cung kính.

Do vậy bậc Hiền trí,
Đồng đẳng nh́n nhiếp pháp
Nhờ vậy họ đạt được,
Sự cao lớn, tán thán.

Trong truyền thống Nam tông, một trong những bài kinh mà chúng ta thường được nghe tụng đọc là kinh Đại Hạnh Phúc (Mahà-Mangala Sutta), thuộc Kinh Tập, Tiểu Bộ. Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Bố thí là một trong 38 điều mang lại hạnh phúc tối thượng cho người cư sĩ tại gia chúng ta. Đức Phật c̣n cho biết rằng Bố thí là một trong ba yếu tố để biết được một người có ḷng tin trong sạch nơi Chánh Pháp, như đă ghi lại trong Tăng Chi Bộ, Chương 3 Pháp:

"Do ba sự kiện, này các Tỳ-khưu, một người được biết là có ḷng tin. Thế nào là ba? (1) Ưa thấy người có giới hạnh, (2) ưa nghe diệu pháp, (3) với tâm ly cấu uế của xan tham, sống trong nhà, bố thí rộng răi với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, thích phân phát vật bố thí."

Một người bố thí trong sạch như thế, theo lời Đức Phật, sẽ tạo được một tài sản rất lớn, không bao giờ bị lửa đốt cháy, lụt làm trôi mất, bị ăn trộm, bị chánh quyền tịch thu, hay bị kẻ thù địch lấy đi mất. Tài sản phước báu do hạnh Bố Thí tạo ra là một trong 7 loại tài sản cao quí nhất - gọi là thánh tài - mà chúng ta có thể tích lũy được. Đức Phật dạy trong Tăng Chi Bộ, Chương 7 Pháp:

Này các Tỳ-khưu, có bảy tài sản này. Thế nào là bảy? Tín tài, giới tài, tàm tài, quư tài, văn tài, thí tài, tuệ tài. (...) Và này các Tỳ-khưu, thế nào là thí tài? Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử với tâm từ bỏ cấu uế của xan tham, sống tại gia phóng xả, với bàn tay rộng mở, ưa thích xả bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa thích san sẻ vật bố thí. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là thí tài.

Bố Thí cũng được xem là một loại hương thơm cao quư, tỏa ra cùng khắp, theo mọi hướng, tạo ra nhiều tiếng lành, danh thơm cho xóm làng hay cộng đồng nơi chúng ta sinh hoạt. Trong Tăng Chi Bộ, Chương 3 Pháp, Ngài Ananda hỏi Đức Phật:

- "Bạch Thế Tôn, loại cây hương ǵ có mùi hương bay thuận gió, có mùi hương bay ngược gió, có mùi hương bay thuận gió lẫn ngược gió?

Đức Phật trả lời:

- "Ở đây, này Ananda, tại làng nào hay tại thị trấn nào, có nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, tuân giữ 5 giới, tâm tánh hiền lương, sống trong nhà với tâm không nhiễm xan tham, bố thí không luyến tiếc với tay rộng mở, thích thú từ bỏ, sẵn sàng được yêu cầu, ưa thích chia xẻ đồ bố thí. Người như vậy, được các Sa-môn, Bà-la-môn, Chư Thiên và các phi nhân đều tán thán. Và như thế, người đó là loại cây hương quư. Cây hương đó, này Ananda, có mùi hương bay thuận gió, có mùi hương bay ngược gió, có mùi hương bay thuận gió lẫn ngược gió".

*

Tuy nhiên, hạnh Bố Thí không phải là một điều dễ thực hiện như nhiều người thường hiểu lầm. Đây là một pháp môn tu tập đ̣i hỏi chúng ta phải tinh tấn, có chánh niệm và trí tuệ.

Trước hết, Đức Phật dạy rằng khi bố thí, chúng ta phải biết nhận thức rơ ràng về vật cho, cách cho, và tâm ư cho. Trong Tăng Chi Bộ, Chương 8 Pháp, Ngài dạy:

"Này các Tỳ-khưu, có tám sự bố thí của bậc chân nhân. Thế nào là tám? Cho vật trong sạch; cho vật thù diệu; cho đúng thời; cho vật thích ứng; cho với sự cẩn thận; cho luôn luôn; khi cho, tâm tịnh tín; sau khi cho, tâm luôn hoan hỷ".

Như thế, khi bố thí, vật cho phải là vật trong sạch, vật thù diệu, vật thích ứng; cách cho phải là cho đúng thời, cho với sự cẩn thận, cho luôn luôn; và tâm ư cho phải là tâm tịnh tín khi cho, tâm luôn hoan hỷ sau khi cho.

Trong Tăng Chi Bộ, Chương 5 Pháp, Đức Phật dạy: "Có năm loại bố thí xứng đáng bậc chân nhân: bố thí có ḷng tin; bố thí có kính trọng; bố thí đúng thời, bố thí với tâm không gượng ép; bố thí không làm thương tổn ḿnh và người." Ngài cũng dạy về năm loại khác là: "Có năm loại bố thí xứng đáng bậc chân nhân: bố thí có ḷng cung kính; bố thí có suy nghĩ; bố thí tự tay ḿnh; bố thí đồ không quăng bỏ; bố thí có suy nghĩ đến tương lai".

Về bố thí cho đúng thời, Đức Phật nêu rơ có 5 loại:

- Bố thí cho người mới đến trú xứ của chúng ta.
- Bố thí cho người sắp ra đi, rời khỏi trú xứ của chúng ta.
- Bố thí cho người đau bệnh.
- Bố thí trong thời đói.
- Phàm những hoa quả ǵ mới gặt hái được, dành chúng đầu tiên để cúng dường các bậc giữ giới hạnh.

Nếu được như thế, hạnh Bố Thí sẽ mang lại các lợi ích: "Tùy theo vật bố thí, tùy theo cung cách bố thí, kết quả sẽ đưa đến cho người bố thí với tài sản sung măn, với dung sắc thù thắng như hoa sen, với vợ con, các người làm công tận tụy phục vụ tuân hành, với các vật dụng đến đúng thời, đúng lúc, với năm dục công đức được thọ hưởng đầy đủ, và với các tai nạn không hề xảy đến."

Trong các đoạn kinh khác, Đức Phật dạy thêm về các lợi ích khác:

" Này các Tỳ-khưu, có năm lợi ích này của bố thí. Thế nào là năm?
- Được nhiều người ái mộ, ưa thích;
- Được bậc thiện nhân, chân nhân thân cận;
- Tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi,
- Không có sai lệch khi thuyết pháp;
- Khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cỏi lành thiên giới.

Về lợi ích của bố thí thực phẩm: "Người bố thí bữa ăn, này các Tỳ-khưu, sẽ được hưởng năm kết quả: sống thọ, sắc diện tươi đẹp, sống an lạc, có sức khỏe, có biện tài".

Thêm vào đó, theo Chú Giải, để có kết quả to lớn, sự bố thí phải hội đủ 3 điều kiện thành tựu:

1. Thành tựu ruộng phước (khettasampatti), tức là nói đến đối tượng thí, người thọ thí là bậc chánh hạnh, bậc hội đủ các ân đức đặc biệt.
2. Thành tựu vật thí (deyyadhammasampatti), tức là có vật thí đầy đủ, hợp pháp, thanh tịnh và thích hợp lợi ích cho người nhận.
3. Thành tựu tâm ư (cittasampatti), tức là tác ư bố thí có đầy đủ, có tâm tịnh tín, có tâm hoan hỷ trong ba thời: trước khi làm, đang khi làm và sau khi làm.

*

Có 2 loại bố thí: bố thí tài vật (tiền bạc, thức ăn, vật dụng) và bố thí pháp (giáo pháp, các điều hay, lẽ phải). Trong 2 loại nầy, bố thí pháp là cao quư và có nhiều lợi lạc hơn, như đă dạy trong Kinh Pháp cú (354): "Bố thí Pháp là cao thượng hơn tất cả các pháp bố thí khác".

Trong Kinh Phật Tự Thuyết (Iti 98), Đức Phật dạy: "Có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là bố thí tối thượng. Có hai sự phân phát: Phân phát tài vật và phân phát Pháp. Trong đó, phân phát Pháp là phân phát tối thượng. Có hai loại giúp đỡ: giúp đỡ bằng tài vật và giúp đỡ bằng Pháp. Trong đó, giúp đỡ bằng Pháp là giúp đỡ tối thượng."

Trong Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp: "Có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là tối thắng."

Trong Tương Ưng Bộ, Tập I, Chương I, có ghi lại câu chuyện trong một đêm nọ, một vị thiên tử đến hỏi Đức Thế Tôn:

Cho ǵ là cho lực?
Cho ǵ là cho sắc?
Cho ǵ là cho lạc?
Cho ǵ là cho mắt?
Cho ǵ cho tất cả?
Xin đáp điều con hỏi?

Đức Thế Tôn trả lời:

Cho ăn là cho lực,
Cho mặc là cho sắc,
Cho xe là cho lạc,
Cho đèn là cho mắt.
Ai cho chỗ trú xứ,
Vị ấy cho tất cả.
Ai giảng dạy Chánh Pháp,
Vị ấy cho bất tử.

Cũng cần ghi nhận ở đây là có nhiều người thường than phiền rằng v́ điều kiện sinh hoạt làm ăn khó khăn, hay v́ hoàn cảnh gia đ́nh, nên họ không có dư tiền của để thực hiện hạnh bố thí. Tuy nhiên, đó chỉ là các bố thí tài vật. Đức Phật có dạy rằng nếu người nào giữ ḷng tịnh tín, quy y Tam Bảo và giữ tṛn 5 giới căn bản, th́ đó là đại bố thí, và là nguồn công đức vô lượng cho chúng sinh, v́ người ấy mang lại sự an vui, thương yêu hài ḥa đến cho mọi người, mọi loài sống chung quanh người ấy. Trong Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phật dạy:

"Có tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhân sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cơi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ư, hạnh phúc, an lạc. Đó là:

- Quy y Phật, Pháp, Tăng là 3 nguồn nước đầu;
- 5 nguồn nước kế là giữ tṛn 5 giới căn bản. Đó cũng là 5 đại bố thí, bởi v́ làm được như thế, sẽ đem cho sự không sợ hăi (vô úy) cho vô lượng chúng sanh, đem cho sự không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho sự không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh, không sợ hăi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hăi, không hận thù, không hại."

Cũng xin ghi nhận thêm là trong vài tài liệu kinh sách phát triển về sau nầy, ngoài Bố thí Tài và Bố thí Pháp, c̣n có đề cập đến một loại thứ ba là Bố thí Vô úy, tức là mang đến, san sẻ sự không sợ hăi, không hận thù, không hại. Theo thiển ư, có thể xem Bố thí Vô úy là kết quả của Tài thí và Pháp thí, không cần phải tách ra thành một phân loại riêng biệt.

*

Nếu chỉ thực hành hạnh Bố Thí không thôi th́ cũng chưa tṛn đủ. Trong Tăng Chi Bộ, Chương 5 Pháp, Ngài Xá Lợi Phật có dạy ông Cấp Cô Độc rằng cúng dường, bố thí tứ vật dụng, tuy tạo nhiều phước báu, nhưng cũng chưa đủ. Người cư sĩ c̣n phải gắng tu tập thiền định, để được hỷ lạc do tâm xả ly sinh ra. Lời khuyên nầy được Đức Phật đồng ư và khen ngợi.

Do đó, kinh điển nguyên thủy c̣n ghi lại việc thực hành pháp quán niệm về ḷng Bố Thí, hay "Niệm Thí", như là một trong 6 pháp tùy niệm cần phải tu tập. Trường Bộ, kinh 34, có ghi:

"Thế nào là sáu pháp cần phải tu tập? Đó là sáu tùy niệm xứ: Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, Giới tùy niệm, Thí tùy niệm, Thiên tùy niệm. Đó là sáu pháp cần phải tu tập."

Và Đức Phật giải thích thêm cho ông Mahànàma về niệm Thí như sau (Tăng Chi Bộ, Chương 11 Pháp):

"Này Mahànàma, Ông hăy niệm Thí như sau: "Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta! V́ rằng với quần chúng bị cấu uế xan tham chi phối, ta sống trong gia đ́nh, với tâm không bị cấu uế của xan tham chi phối, bố thí rộng răi, với bàn tay sạch sẽ, ưa thích từ bỏ, sẵn sàng, để được yêu cầu, ưa thích phân phát vật bố thí".

Này Mahànàma, trong khi vị Thánh đệ tử tùy niệm Thí, tâm của vị ấy không bị tham ám ảnh, tâm không bị sân ám ảnh, tâm không bị si ám ảnh; trong khi ấy, tâm được chánh trực nhờ duyên Thí. Vị Thánh đệ tử, này Mahànàma, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân khinh an, cảm giác lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Này Mahànàma, như vậy gọi là bậc Thánh đệ tử sống đạt được b́nh đẳng với chúng sanh không b́nh đẳng, sống đạt được vô sân với chúng sanh có sân, nhập được ḍng lưu của Chánh Pháp, và tu tập tùy niệm Thí."

Trong Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp, ngoài 6 đề mục quán niệm nêu trên, c̣n ghi thêm 4 đề mục khác là niệm Hơi thở, niệm Chết, niệm Thân, và niệm Tịch tịnh, như sau:

"Có một pháp, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là ǵ? Chính là niệm Phật... niệm Pháp... niệm Tăng... niệm Giới... niệm Thí... niệm Thiên... niệm Hơi thở... niệm Chết... niệm Thân... niệm Tịch tịnh. Chính một pháp này, này các Tỳ-khưu, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến nhất hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn".

Xin giải thích tóm tắt:

1. Niệm Phật (buddhànussati) là niệm tưởng mười ân đức của Phật.
2. Niệm Pháp (dhammànussati) là niệm tưởng sáu ân đức của Giáo pháp.
3. Niệm Tăng (sanghànussati) là niệm tưởng chín ân đức của Tăng chúng.
4. Niệm Giới (ślànussati) là niệm tưởng giới thanh tịnh của ḿnh.
5. Niệm Thí (càgànussati) là niệm tưởng hạnh bố thí xả tài của ḿnh.
6. Niệm Thiên (devatànussati) là niệm tưởng các công hạnh tác thành chư thiên và xét lại công hạnh ḿnh có.
7. Niệm Chết (maranasati) là suy niệm sự chết đă, đang và sẽ đến với chúng sanh luôn cả ta, để làm cho tâm không dể duôi.
8. Niệm Thân hành (kàyagatàsati) là suy niệm thân này cho thấy rằng bất tịnh, uế trược, ổ bệnh tật, khả ố, thực tính thân này là như vậy, v.v. để từ bỏ sự luyến ái.
9. Niệm Hơi thở (ànàpànàsati) là niệm về hơi thở vô, hơi thở ra, để trừ sự phóng tâm.
10. Niệm Tịch tịnh (upasamànussati) là suy niệm trạng thái Niết-bàn, nơi không c̣n phiền năo và đau khổ, một trạng thái vắng lặng tuyệt đối.

Để tu tập về pháp quán niệm ḷng Bố Thí, có thể xem thêm các hướng dẫn chi tiết của ngài Luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) trong bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-magga), do Ni sư Trí Hải dịch Việt, ở Chương VII, đoạn viết về Niệm Thí.

* * *

Tóm lại, Bố Thí là một đức hạnh cao quư mà Đức Phật khuyên tất cả Phật tử chúng ta cần phải tu tập. Bố thí có 2 loại: Bố thí Tài và Bố thí Pháp, trong đó, Bố thí Pháp là cao thượng hơn. Khi bố thí, chúng ta phải có chánh niệm và trí tuệ để nhận thức rơ ràng về vật bố thí, cách thức bố thí, đối tượng nhận bố thí, và tâm ư của chúng ta khi làm chuyện bố thí. Bố thí cần phải phát nguồn từ ḷng tịnh tín nơi Tam Bảo và tṛn đủ giới hạnh để đem lại sự an vui đến cho muôn loài. Cuối cùng, chúng ta cần phải hành thiền, trong đó, quán niệm về ḷng Bố thí là một pháp môn quan trọng cần phải được tu tập.



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 3 of 5: Đă gửi: 11 February 2006 lúc 11:12am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Cám ơn bài đăng của bạn.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
kemmayman
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 23 July 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 144
Msg 4 of 5: Đă gửi: 12 February 2006 lúc 6:59am | Đă lưu IP Trích dẫn kemmayman

bachngoc đă viết:
Pháp Phật là thuốc trị tâm bệnh của chúng sanh



Qua sáu thứ căn bản phiền năo: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.

Đến nghi, thường nghi có hai loại: Trong nhà thiền hay nói đa nghi đa ngộ th́ cái nghi này là nghi quư. C̣n nghi bệnh như: một là nghi ḿnh, hai là nghi Tam bảo, nghi không biết Phật có thật không, pháp Phật dạy có đúng không, các thầy tu có thật không. Do nghi như vậy nên đối với Tam bảo mất hết ḷng tin, kế đến nghi ḿnh tu không nổi, đă nghi ḿnh, nghi Tam bảo th́ làm sao tiến được. Cho nên muốn hết nghi phải lấy thuốc chánh tín để trị, tức là lấy ḷng tin, ḷng tin ở đây là từ trí tuệ mà có, chứ không phải tin mù quáng. Bởi tin có hai: Tin do trí tuệ gọi là chánh tín. Tin một cách một mù quáng goị là mê tín. Chữ tin này cần phải hiểu cho rơ ràng.




Kính chào bạn bachngoc,

Nhân dịp đọc đến căn bản phiền năo, tôi có vài điều muốn thỉnh giáo bạn:

Kiến hoặc và tư hoặc

Kiến hoặc có thể thông và hành được
Song đối với Tư hoặc rất khó đối trị, nhất là con người chúng ta đều phải do 5 thứ chi phối: Tài, Sắc, Danh, Thực, Thuỳ. 5 thứ này hạng phàm phu của chúng ta ai cũng phải có cả. Nếu bạn có thời gian xin viết lên diễn đàn để mọi người, nhất là tôi, có thể học và thực hành dần

Cám ơn trước rất nhiều
KMM

__________________
Tiếng Gọi Thanh Niên
Quay trở về đầu Xem kemmayman's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kemmayman
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 5 of 5: Đă gửi: 14 February 2006 lúc 4:24am | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

            Kính !

    Kiến Hoặc là do bản thân chọn sai lầm về con đường tu, lư luận hay kiến giải đều không đến nơi đến chốn,v́ vậy chúng ta phải t́m đến chánh pháp từ đó mới dứt bỏ được Kiến Hoặc theo đúng chánh pháp mà đi

C̣n riêng về Tư Hoặc là do bẩm sinh rất khó mà đoạn trừ dù biết nó sẽ đưa đến khổ năo.Khi nó đă thành 1 thói quen thi muốn dứt bỏ được chúng th́ phải kiên định , tinh tấn mới loại bỏ nó được

Chúng ta có đến 6 loại phiền năo sau đây :
/ Tham; 2/ Sân; 3/ Si (vô minh); 4/ Mạn; 5/ Nghi; 6/ Kiến

Kiến được phân chia thành 5 mục sau :

Thân kiến, Biên kiến,Tà kiến ,Kiến thủ,Giới cấm thủ





__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 8.5859 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO