ngocnguyet Hội viên

Đă tham gia: 11 December 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 04 January 2006 lúc 7:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bất khả thuyết
. Nghĩa là cái “không thể nói được.” Như tất cả những Thánh nhân của các thời đại, các nền văn hoá khác nhau, đạo Phật – nhất là Thiền tông – nhấn mạnh rằng, các kinh nghiệm Giác ngộ (Kiến tính) vượt qua mọi ngôn ngữ, văn tự. Người đă kiến tính tương tự một “người câm nằm chiêm bao” – như Thiền sư Vô Môn Huệ Khai b́nh giảng trong Công án thứ nhất của tập Vô môn quan – không thể tŕnh bày giấc mộng của ḿnh cho người khác. Cũng v́ lí do này nên các vị Thiền sư thường khuyên đệ tử không nên bám chặt vào văn tự trong kinh sách, cho rằng, kinh sách chỉ là “ngón tay chỉ mặt trăng, không phải chính là mặt trăng.”
V́ thế, các vị Thiền sư thường sử dụng bốn câu sau để diễn tả phương pháp tu tập của Thiền tông (theo truyền thuyết th́ Bồ-đề-đạt-ma khởi xướng thuyết này nhưng các học giả cho rằng, sư Nam Tuyền Phổ Nguyện chính là người sử dụng đầu tiên):
Cái “không thể diễn bày” của kinh nghiệm giác ngộ là lí do chính v́ sao chư vị Thiền sư thường sử dụng những dấu hiệu thân thể như vặn mũi, dựng Phất tử… thay v́ dùng lời để trả lời trong những buổi Độc tham, những cuộc Vấn đáp, Pháp chiến. Tuy nhiên, Thiền chính là tông phái lưu lại nhiều văn tự nhất trong các tông phái Phật giáo tại Trung Quốc. Điều đó cho thấy rằng, cái hữu ích của văn tự không hoàn toàn bị bác bỏ; nhưng các tác giả lại thường nhấn mạnh rằng, không một loại văn tự nào có thể chứa đựng hoặc tŕnh bày trọn vẹn Chân như. Chỉ người nào đă tự chứng ngộ chân lí mới có thấu suốt được huyền nghĩa nằm trong văn tự.
2. Chỉ cách tŕnh bày một Bổ-đặc-già-la của Độc Tử bộ, nói Tự ngă chẳng đồng nhất chẳng khác biệt với ngũ uẩn.
|