nhoccon1412 Hội viên


Đă tham gia: 15 March 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 329
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 07 October 2005 lúc 8:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỒI DƯƠNG NHƠN QUẢ
SỰ TÍCH LÂM TỰ KỲ
BỊ QUỶ BẮT LẦM , SỐNG LẠI THUẬT CHUYỆN ÂM PHỦ
VUA NHỨT ĐIỆN XỬ 43 ÁN , NHỜ UỐNG PHÁT HUỆ MỚI NHỚ
Trong tỉnh Hồ Quảng có huyện Hiếu Cảm , tại làng Lê Thọ có một người học nho , họ Lâm tên Tự Kỳ , thuở nay ăn chay cữ sát sanh , hôm mai thường tung kinh Kim Cang , song không hiểu nghĩa lư trong kinh cho hết . Tánh ở công b́nh hiền hậu . Xóm làng đều kính trọng người.
Nhằm bữa mồng hai tháng ba , năm Mậu-ngũ , trào vua Gia-Khánh , Lâm Tự Kỳ dậy sớm thắp hương cúng lạy . Xảy đâu mấy con quỉ vật Tự Kỳ mà bắt hồn dẫn đi ; đem đến miểu ông Địa sở tại xem xét rồi . Qua bữa sau giải tới miểu Thành Hoàng ( là ông thần đ́nh sở tại ) xem xét nữa , nội ngày ấy giải đến đền vua Tây Nhạc , là chỗ hội các hồn mới chết , phỏng là ba bốn trăm hồn , vua Tây Nhạc phê nhận các tờ rồi giải qua Đô-thống-ti xử đoán . Bữa thứ ba mới tới Đô thống ti đủ mặt Lâm Tự Kỳ , thấy các hổn đều mang gông xiếng áo quần rách rưới . Quỉ xứ lùa hết vào dinh Chưỡng án phán quan ( ông phán quan coi các án ) mà phát đính bài mỗi hồn , đeo trên cổ , có đề phạm những tội ǵ . Tới phiên kêu tên Lăng Sỉ Kỳ ở làng Lư Thọ , huyện Hiếu Cảm đeo đính bài bốn chữ " ác phạm ngưu đồ " ( nghĩa là tên tội phạm hàng trâu ) , quĩ dẫn hồn Lâm Tự Kỳ vào hầu tra . Phán quan xem thấy trên đầu Lâm Tự Kỳ có chiếu hào quang nhấp nháng . Phán quan hỏi : " Người làm hàng bấy lâu , giết bao nhiêu trâu ? " . Tự Kỳ bẩm rằng : " Mô Phật tôi thuở nay không giết trâu nào hết . Phán quan nói : ngươi không giết trâu sao đeo đính bài , trên tên họ ngươi có bốn chữ " ác phạm ngưu đồ ? " . Mà ngươi phải ở làng Lư Thọ chăng ? " . Tự Kỳ bẩm : " Tôi ở làng Lê Thọ , chớ không phải làng Lư Thọ " . Phán quan hỏi : " Ngươi mấy mươi tuổi ? " . Bẩm rằng : " Tôi đă bốn mươi mốt tuổi . " Hỏi : " Sanh tháng ngày giờ nào ? " Bẩm : " Sanh nhằm giờ Th́n , mồng ba tháng giêng . " Phán quan tra bộ rồi nói : Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ số tới 78 tuổi , cớ nào bắt tới làm chi ! Vả lại : họ tên trong bộ tuy trùng tiếng trên đính bài , mà chữ không trùng , tên làng cũng đồng âm mà bất đồng tự . Huống chi chi ngày sanh tháng đẻ khác nhau . Nhà ngươi là Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ , c̣n ta sai bắt tên hàng trâu là Lăng Sỉ Kỳ ở làng Lư Thọ ḱa . Bởi nó mới 36 tuổi , làm hàng giết trâu chó phỏng vài trăm con . Hỡi c̣n tội khác kể không xiết , nên đáng đoạ tam đồ , là hành h́nh ba cách : trấn nước , đốt nấu dầu , đâm chém bằm xắt , kêu là thuỷ đồ , hoả đồ , đao đồ . C̣n ngươi có chiếu hào quang trên đầu , chắc là ngươi làm lành tụng kinh kệ . " Bẩm rằng : " Tôi thuở nay không làm điều chi lành lắm , song chẳng dám làm việc dữ . Từ mười bảy tuổi ăn chay , đến nay đă hai mươi mấy năm , thường ngày dầu mắc việc chi gấp lắm , cũng lo tụng cho rồi một cuốn kinh Kim Cang , và niệm Di Đà vài trăm câu , rồi mới làm công việc . " Phán quan nói : " Như vậy th́ là người lành : quỉ xứ bắt lầm một người thường cũng có tội , huống chi là người lành ! Vả lại Thổ địa sở tại , với các vị thần xem xét đều sơ lầm , cũng có lỗi nữa , việc nầy quan hệ , chẳng phải nhỏ đâu ! Vậy thời thiện-nhơn hăy ngồi đỡ mái tây , đợi tôi tâu cho vua hay , rồi sẽ đưa về dương thế ." ( Nghĩa là hườn hồn sống lại ) . Xảy có hai người đồng tử mặc áo xanh dắt hồn Tự Kỳ đến nhà khách mái tây . Thấy trên tấm biển đề bốn chữ " Tây Phương chú tiết " : ( Nghĩa là chỗ ở tạm mà đợi rước về Tây phương cho rơ ràng tiết nghĩa ) , lại có đối liễn cột cái như vậy :
Đại trượng phu , thủ bất khai sanh tử lộ .
Kỳ nam tử , song mi số phá lợi danh quan .
THÍCH NÔM : Đứng bực trượng phu chí cả , thông hiểu sự sống làm th́ thác có báo ứng vầ phần hồn , nên không dám làm dữ , mà lại làm lành nhờ thần sau . C̣n nam nhi cao kỳ thông thái ấy , sự danh lợi th́ mất đức hạnh nên không ḷng tham danh lợi , lo tu nhơn tích đức cho phần hồn .
Khi ấy , Tự Kỳ vào trong nhà khách , thấy có ba người ; một gái , hai trai , đều ăn mặc theo đạo sĩ ( thầy pháp tàu ) tay cầm xâu chuỗi lần , đồng đứng dậy , chắp tay mời ngồi . Đồng tử nói : " Thiện sĩ ngồi chờ một chút , đợi vua ngự sẽ vời " . Giây phút nghe ba tiếng trôngmở cửa đền . Đồng tử đến vời Tự Kỳ đến cửa đền , thấy trên cửa ngơ có treo tấm biển ngang , đề mười một chữ :
Kinh châu đẳng xứ sanh hồn thiện ác đô thống ti.
NGHĨA LÀ : Sở đô thống ti coi xử hồn dữ lành Kinh châu .
Cửa ngơ đề đôi liễng rằng :
Âm dương bổn vô dị lư . Cảm ứng xát hữu minh trưng.
NÔM : Âm dương vốn không khác lư . Cảm ứng thiệt có quả tang .
Đối liễng trên cột như vầy :
Gian hùng đáo thử , năng bất tâm hàn .
Thiện sĩ lâm tư , tự nhiên khí tráng .
NÔM :Gian hùng đến đó sao khỏi ḷng nao .
Lương thiện vào đây tự nhiên hơi khoẻ .
Vảo cửa trong , thấy treo tấm biển bốn chữ .
Phước thiện hạo dâm .
NGHĨA LÀ :Thưởng người lương thiện , phạt tội tà dâm .
Và đôi liễng như vầy :
Nghiệt cảnh phân minh xảo kế thiên ban nam tế yểm .
Dạ đài thê sở công hầu cực phẩm bất tương nhiên .
NÔM : Gông báu sáng loà , xảo kế nhiều bề không thể giấu .
Để cầm thảm khổ , công hầu tột bực chẳng hề dung .
Đôi liễng nữa rằng :
Thiên đường hữu lộ chi tu ốc lậu đổ thanh nhiên .
Địa ngục vô nôm chỉ vị thốn tâm da ám địa .
NÔM :Thiên đường có nẻo thẳng , cho hay nhà kín thấy trời xanh .
Địa ngục không ngơ ra , cũng bởi tấc ḷng theo đất tối .
NGHĨA LÀ : Trong nhà kín nhà tối , coi như ban ngày , không dám làm quấy th́ đặng lên Thiên đường . Nếu không ḷng tối tăm , hay tính mưu thầm kế trộm , cơ xăo độc ác , th́ sa địa ngục .
Vào tới đơn tŕ ( sân sơn son ) , trên treo bốn biểu chữ Tam vô tư đường ( nhà ba đều không tư ) .
Kinh Lễ Kư nói : Thiên vô tư phúc , địa vô tư tải , nhựt nguyệt vô tư chiếu . Nghĩa là : Trời không che riêng , đất không chỗ riêng , nhựt nguyệt không chiếu riêng ).
Đôi liễng như vầy :
Sanh b́nh nhứt vị hồ hành , kham thán tín tâm bất cập tảo .
Kim nhựt thiên ban thọ khổ , cự tư hồi thủ khước hiềm tŕ .
NÔM : Bấy lâu một thói làm hồ , tiếc nhẻ ḷng tin khôn kịp sớm .
Thuở nay nhiều bề chịu khổ , thương ôi dạ tũi khiến ra chầy !
Trông xa , đôi liễng trên cột như vầy :
Đối Quỉ sát , Dạ xa , mạc quái đương tiền nhan diệc ác .
Thượng đao sơn , kím thọ , phương tŕ tích nhựt niệm đầu sai .
( Kím thọ là cây có buộc gươm trên nhánh nhiều quăng tội lên ) .
NÔM : Ngó Quỉ xứ Dạ xa , chớ trách cơi nầy nhiều mặt dữ .
Lên đào sang , kím thọ mới hay thuở trước tấc ḷng sai .
Trên cao có treo tấm biển bốn chữ :
Thưởng khách h́nh oai .
( Thưởng người lành , phạt kẻ oai dữ ) .
Phía Đông treo tấm biễn bảy chữ :
Tân thiết vô gian Tăng nho ngục .
NGHĨA LÀ : Mới lập thêm địa ngục hành không hở , là hành rồi cách nầy , dạy hành cách khác , để trị tội săi tu giả , sĩ hại đời .
Đôi liễng dài hai bên như vầy :
Thọ Bồ tát giái âm tá môn không ngu ḱ , vương pháp nhiêu Phật , pháp bất nhiêu .
Độc Thánh hiền thơ phản tương nho thuật sát nhơn thê vỏng lậu , thiên vỏng bất lậu .
THÍCH NÔM : Đọc kinh Bồ tát thầm ẩn chùa chiên dối thế , phép vua dung phép Phật chẳng dung .
Học sách Thánh hiền , dám đem chữ nghĩa hại người , lưới đời lọt , lưới trời không lọt .
Ấy là hành tội săi tu dối , và kẻ học hay đặt đơn hại người ).
Thuở ấy , các hồn đều qú dưới thềm . Phán quan thâu giấy tờ tâu rành sự bắt lầm v.v... Tần Quảng vương xem rồi , phán rằng : " Người nầy quả thiệt hiền lành , lại ăn chay tụng kinh , vả lại chưa tới số , đáng cho hườn hồn . C̣n 4 quỉ Dạ xa bắt lầm , xử trượng mỗi tên tám chục roi , rồi giam lại sẽ kêu án . Lỗi Thổ Địa tại làng chỉ đi bắt lầm , ta cũng dâng sớ cho Ngọc đế phạt tội . Rồi phán hơi Tự Kỳ rằng : " Người bấy lâu tụng Kinh chi ? " . Tự Kỳ tâu : " Tụng kinh Kim Cang " . Phán : Hay lắm ! Mà tụng bao nhiêu cuốn ? ". Tâu : " Tôi không nhớ , song tôi ăn chay hăm mấy năm , c̣n tụng kinh mới 7 năm . " Vua truyền Phán quan tra coi tụng đặng bao nhiêu cuốn . Phán quan giở bộ đếm cọng đặng 3503 cuốn . Phán rằng : " Số ngươi c̣n nhiều , ước tụng cũng dư một tạng ( một tạng là 5848 cuốn ) . Mà ngươi có rơ nghĩa lư trong kinh chăng ? Tâu : " Tôi khong hiểu cho hết . " Phán : " Nếu hiểu nghĩa kinh mà ở theo , và khuyên người nữa , th́ công đức lường không xiết . Chớ như tụng không , th́ công đức mười phần , đặng có ba phần . " . Tự Kỳ tâu : " Mướn người tụng kinh thế cho ḿnh có đặng phước chăng ? " . Phán : " Mướn người tụng mười phần , đặng một phần phước . Nhưng mà c̣n hơn kẻ không tụng . Khi trước người tụng kinh Kim Cang , chưa khỏi sai siển . Lúc đương tụng trong ḷng không thanh tịnh hoăc nhớ mấy việc nầy việc kia . Ấy là miệng tụng láy có , mười phầm được phước không đặng hai ba phần . Vậy từ rày sắp sau phải rán sức suy cho thông nghĩa lư , miệng niệm , ḷng tưởng . Gặp ai cũng giảng bốn câu kệ trong kinh Kim Cang , th́ mới có trông về Tây phương đặng ." Phán quan tâu : " Người nầy cách thế gian đă năm ngày , trái tim phải lạnh , chắc trong nhà liệm rồi , e khó sống lại . Nếu Ngọc đế tra ra , ắt không tiện lắm . Xin vương gia cho hườn hồn lập tức ." Vua phán rằng : " Không hề chi . Ngày mồng 2 , 12 , 22 , ngày mồng 5 , rằm , 25 , mồng tám , 18 , 28 đều là ngày lệ xử các phạm hồn tại đây . Nay là ngày số 8 ( mồng 8 ) cũng nhằm kỳ sữ . Ta thấy người đời không tin nhơn quả báo ứng , dễ khinh lời thánh , chê bai Tam Bảo ( là Phật , Pháp , Tăng : Phật , kinh luật thầy tu ), các tội ấy rất nhiều . Nay cầm thiện sĩ một ngày , xem ta xử đoan lành dữ , nữa sống lại , thuật chuyện cho người đời nghe . Mau cho thiện sĩ uống một hườn thuốc Noản Tâm nầy th́ trái tim ấm tới bảy ngày ." Rối phán rằng : " Phàm các hồn đến cửa nhứt nầy , quá bảy ngày mới giải qua chín vua Thập điện , th́ sống lại không đặng . " Tự Kỳ tâu : " V́ cớ nào mái tây có nhà khách gọi là : Tây phương chú tiết , người phàm đến đó đặng chăng ? " . Vua phán : " Không phải đến đặng . Phàm người thác , đem hồn tới vua Tây Nhạc xem xét , phê rối mới giải đến đây . Trẩm xét rơ đáng luân hồi mới phê vào tờ , rồi gởi qua vua Đông Nhạc xem rơ mới phát một tờ cho đi đầu thai , hồn ấy mới đặng đầu thai . C̣n trừ ra ai trọn lành không dữ , hoặc ăn chay tụng kinh chơn tu , th́ trẩm không phép xử đoán , nên cho ở tạm mái tây , đợi trẫm viết điệp triệu Kim đồng Ngọc nữ , đem tàng phương báu , rước hồn lên Thiên đường . Tâu : " Sao gọi là Thiên đường ? " . Phán : " Cơi thiên đường sáng láng rộng ngay . Nếu ḷng ai sáng láng , ở rộng răi ngay thẳng , th́ hồn lên Thiên đường ." Tâu : " C̣n địa ngục thế nào ? " . Phán : " Chốn địa ngục thấp dơn đen tối . nếu ai ḷng ở hèn hạ , nhơ nhớp , xấu xa , mê muội , th́ hồn sa địa ngục " . Tâu : " Những hồn lên Thiên đường hoặc sa địa ngục có luân hồi ( đầu thai ) chăng ? " Phán : " Đă lên thiên đường , hoặc sa địa ngục , đâu c̣n đầu thai , song cũng có khi chưa đứng bực cũng c̣n đầu thai nữa " . Tâu : " Như vậy bực nào phải luân hồi ? " . Phán : " Trong một ngàn người , may một hai người lên Thiên đường . C̣n ngàn người phỏng vài trăm người bị cầm địa ngục , . C̣n bao nhiêu (800) đều luân hồi hết . Bởi v́ ai trọn lành không phạm một điều dữ , mới đặng lên Thiên đường . Nếu ai trọn dữ , không làm một điều lành , mới bị cầm địa ngục . C̣n ai không lành không dữ , hoặc nữ lành nửa dữ đều phải đầu thai . " Tâu : " Hoặc kẻ trước làm lành , sau làm dữ , hoặc người trước làm dữ sau làm lành , có kẻ dữ nhiều lành ít , kẻ th́ dữ ít lành nhiều , vương gia mới xử làm sao ? " Phán : " Trước làm lành , sau sanh dữ , th́ ghi dữ , chẳng ghi lành . Trước làm dữ , sau chừa lỗi làm lành , th́ ghi lành , chẳng ghi dữ . C̣n dữ nhiều lành ít , đem lành trừ dữ , c̣n dư bao nhiêu dữ , th́ hành mà trả họa . Dữ ít lành nhiều , th́ đem dữ trừ lành , c̣n dư bao nhiêu lành th́ trả phước . " Tâu : " Nếu ghi dữ chẳng ghi lành , th́ những kẻ trước làm lành , sau làm dữ cũng như trọn dữ một thứ . C̣n ghi lành chẳng ghi dữ , th́ những kẻ trước làm dử sau làm lành , cũng như người trọn lành một thế , không phải chẳng chia nặng nhẹ sao ? " Phán : " Chẳng phải nói như vậy ! Bởi người làm lành chẳng trọn , th́ Ngọc Đế ghét lắm , cho nên ghi dữ , chẳng ghi lành , song không phải chẳng kể sự lành của nó đâu , nhưng tính giảm hết phân nửa việc lành . C̣n kẻ ăn năn chừa lỗi , th́ Ngọc Đế thương lắm , nên ghi lành chẳng ghi dữ , song chẳng phải không ghi dữ một chút nào , nhưng mà giảm phân nửa việc dữ . " Tâu : " Tôi thường thấy người làm lành mà bị nghèo nàn . C̣n kẻ dữ lại đặng giàu sang . Trời báo ứng không rơ ràng , nên hiểu chẳng thấu ! " . Phán : " Người lành mắc hoạ , e mặt lành mà ḷng chẳng lành . Kẻ dữ mà đặng phước , e mặt dữ mà torng ḷng không dữ . Thượng đế trong thiệt t́nh , chớ không cần sự làm mặt bề ngoài . Bởi làm mặt bề ngoài th́ dối người đặng , chớ ḷng dối trời sao đặng . Xưa nay quả báo chắc không lầm . Song việc nhơn quả báo ứng có nhiều cách . Có khi dữ lành kiếp trước mới trả đời nay . Lành dữ đời nầy , kiếp sau mới trả . Hoặc đời nào trả theo đời ấy , có khi mới làm lành mà dữ trả lập tức nhăn tiền . C̣n như người nói : " Dữ đặng phước , lành mắc hoạ " . Là bởi lâm lành , làm dữ đời nay chưa bao nhiêu mà mắc trả lành lớn dữ lớn , kiếp trước chưa rồi , làm sao người hiểu thấu . Bởi v́ trả kiếp trước của chúng nó , lành cho hưởng phước , dữ cho mắc hoạ , cho dứt nợ kiếp trước . Rồi mới xét lành dữ đời nay thiệt giả , nhiều ít , lớn nhỏ , trừ cấn , hoặc trả lại đời nay , hoặc để dành kiếp sau hoặc trả cho con cháu nó . Việc báo ứng theo luật âm , hoặc sớm muộn , hoăc kín đáo , hoặc rơ ràng ; chắc không sai một mảy . Cái ư nhiệm mầu , người biết sao thấu ? " Tâu : " Sao gọi là đời nay mà chịu trả nhơn quả kiếp trước ? " Phán : " Như con nít mà bị té sông , lửa cháy , bị đâm chém , bị tật bịnh , hoặc cọp ăn , rắn cắn , ngựa đạp , xe cán , trâu báng , hoặc các việc rủi ro v.v... th́ đời nay nó đă biết làm điều chi dữ đâu , mà bị trả hoạ , là v́ trả hoạ kiếp trước . Lại c̣n học tṛ mới đôi mươi , mà đi thi đỗ , hoặc là con ḍng mà đặng thế chức , hoăc hưởng tổ ấm , phụ ấm , hoặc các việc may mắn thinh không , v.v... th́ đời nay tuy chưa làm lành , mà đặng hưởng phước , ấy là trả lành kiếp trước . Coi đó mà suy , th́ hiểu lành mà mắc hoạ , dữ mà đặng phước là tại cớ ấy . " Tâu : " Nếu người lành lên Thiên đường hết , cũng không luân hồi , th́ trong đám đầu thai chẳng là không có người lành sao ? C̣n kẻ dữ đều cầm địa ngục , cũng không luân hồi , th́ trong đám đầu thai không có kẻ dữ rồi ! " . Phán : " Người lành cũng có khi luân hồi một hai , là v́ mười phần lành , c̣n chưa trọn lành một phần , th́ cũng cho đầu thai xuống cơi trần chịu cực một phen , cũng như tu thêm cho trọn lành , rồi mới được về Thiên đường , ấy là trời lấy ḷng tốt mà bó buộc người lành đó . C̣n kẻ dữ có khi một đôi người đặng luôn hồi , là v́ mười phần dữ chưa trọn , nên cùng dung chế , cũng cho luân hồi , chịu cực trăm bề , hành phạt một phen cho đến thế , làm cho biết ăn năn chửa lỗi , ấy cũng nhơn từ của Thượng đế như ḷng mẹ thương con không nỡ giết đứa dữ . " Tâu : " Bắt người lành đi đầu thai , th́ người lành khổ lắm , ! C̣n kẻ dữ cũng được đầu thai , th́ kẻ dữ rất may chăng ? Sao trời không phân biệt ? " Phán : " Không phải vậy đâu ! Cho người lành đầu thai hưởng giàu sang vinh hiển , là Thiên đường tại đời , sao gọi chịu khổ ? C̣n cho kẻ dữ đầu thai , chịu khó hèn , tai nạn , cũng như địa ngục tại dương gian , sao gọi rất may ? Huống chi người lành hưởng cảnh thuận , nếu tu nhơn tích đức thêm , th́ lên Thiên đường . Nếu hưởng phước giàu sang mà làm dữ quá , trừ hết phước dư tội th́ cũng không siêu được . Nếu kẻ dữ bị cảnh nghịch tai nạn mà biết ăn năn v́ lỗi trước , lo tu đền tội , th́ cũng hết khổ , bằng không tu th́ đoạ địa ngục Đả ưng , hết trông đầu thai nữa . Coi đó th́ đủ biết sự hoạ phước tuy là trời định , song ḷng người lành dữ cũng đổi dời , việc may rủi tuy ở số phần , mà ḷng ngưởi ở dữ lành cũng đổi số mạng . Cho nên hoạ phước số mạng không chắc ǵ , do tại làm lành làm dữ mà đổi dời hoài . " Tâu : " Như vậy Thiên đường Địa ngục siêu-đoạ là tại ḷng người muốn tự do làm chủ .Nếu tôi là người không làm chủ cái tâm tôi , ấy là : Thiên đường nọ , có đàng chẳng bước ; Địa ngục kia không cửa lại t́m ! . Phán : " Phải , xét lại người là người sẽ lên Thiên đường , nên ḷng mau tỉnh như vậy . " Nói chuyện dứt rồi , Phán quan tâu : " Các phạm hồn tựu đủ hầu tra . " Vua xem lời phê của vua Tây Nhạc rằng : " Bọn Từ Húc , cộng 752 hồn , đang đầu thai . " Vua đều phê cho chúng nó được giải qua vua Đông Nhạc lănh tờ đầu thai hưởng phước . Coi qua lời phê trọn lành ba hồn được siêu , kể ra sau nầy :
1)Một nàng thiên nữ là Liễu thị , chí hiếu với mẹ chồng nuôi con đau cực khổ , lại hay bố thí , cho kẻ tù ăn : xuất tiền sửa cầu đắp đường , làm nhiều việc lành , không nói một lời tổn đức , chẳng làm một điều chi hung dữ . Lại ăn thâp trai đă mười năm và hay tụng kinh Phổ Môn nữa .
2)Một tên thiện dân là Dương Thăng , thảo cha mẹ , thương anh em chị em , cung kính kẻ lớn , ở nhơn từ rộng răi , hay thương người . Không ănn gian một đồng tiền , chẳng tham lam ngân lượng bạc . Cứu người ngặt nghèo , giúp người gấp rút . Vài trăm người nhờ ơn giúp giùm , mấy chục nhà nhờ tay cứu sống . Công ơn bố thí lớn lắm .
3) Một vị thiện sĩ là Trương Quan Diện ở huyện Vơ Lăng , tuy nhà nghèo , mà thủ phận , cực khổ mà bền ḷng . Đặt sách vài trăm cuốn , đều nói chuyện khuyên đời . Dạy học tṛ giữ nhơn nghĩa làm đầu , kết bạn hữu ngay tín làm gốc . Tuy chẳng an lạt mà ḷng lành như ăn chay . Tuy chẳng niệm Kinh , mà lời hiền như niệm kệ , ḷng ḿnh sạch sẽ , lời nói chẳng dữ hung .
Ba vị ấy đều đáng đầu thai về Tây Phương , được liên-hoa hoá thân bực thượng ( như Na Tra khỏi cha mẹ sanh nữa ).
Vua xem lời phê của vua Tây nhạc rồi , phán rằng : " Mau vời Kim đồng Ngọc nữ đem tàng phướn báu , xuống rước ba hồn qua Tây phương ( Kim đồng rước hồn nam ) . Ngọc nữ rước hồn nữ ), c̣n tại ti nầy , phải nổi trống trổi nhạc , thắp hương , chưng hoa , sắp đặt bạc -tiền mà đưa ba vị ấy . C̣n các hồn phạm tội , chiếu y theo số thứ tự trong đinh bài , dẫn vào trẫm xử . "
Phán quan tâu rằng : " Hồn phạm số thứ 1 là họ Dư , ở huyện Huỳnh châu , tú tài thi đỗ cử nhơn , hai khoá đậu tấn sĩ , đặng bổ chức tri huyện , huyện Tú thuỷ , trào Thanh , lên lần tới chức chủ sự sở h́nh bộ , sau làm chức lang trung sở công bộ ; lại sang qua chức thị lang sở hộ bộ , rồi qua sở lại bộ đặng năm tháng mới thác . Tra án tên phạm nầy , từ ngày đỗ tú tái tới làm huyện , không làm một măi lành , đến làm sở h́nh bộ , giết oan 13 mạng . Làm sở công bộ , ăn hối lộ rất nhiều . Làm sở hộ bộ , ăn hối lộ nhiều bạc lắm . Sau lên sợ lại bộ càng dạn hơn nữa , bán chức quan mà ăn , miễn đầy túi ḿnh , không cần ai khóc . Tội nầy đáng đoạ Địa ngục A T́ , không đặng đầu thai . " Họ Dư đứng dậy bái và tâu rằng : " Tôi đă làm quan lớn , xin Vương gia châm chế cho tôi c̣n thể diện " . Vua nạt và phán rằng : " Khốn kiếp ! Dương gian trọng người chức lớn , tại Âm phủ trọng đức chớ chẳng trọng tước quờn ; kẻ đức hạnh lớn , dầu ăn mày trẫm cũng kính nể . Nay ngươi c̣n ỷ thế làm quan mà cự với trẫm sao ? quỉ Dạ xa lấy chùi sắt mà đập đứa nầy cho chí tử. " Họ Dương tâu rằng : " Tôi có ăn thập trai , tụng kinh Chuẩn đề . " Phán rằng : " Ngươi ăn thập trai niệm chú Chuẩn đề , mà cầu công danh bền bỉ . Ngươi phải hiểu nghĩa hai chữ Chuẩn đề . Phàm ngừơi muốn cầu giàu sang công danh , hoặc cầu con , cầu trường thọ , th́ phải chừa mười điều dữ là : chẳng kính trời đất , chằng kính tam quan , chẳng thảo cha mẹ , chẳng thuận anh em , chẳng ngay vua chủ , chẳng tin thiệt , chẳng lễ nghi , chẳng xử nghĩa phải , chẳng thanh liêm trong sạch , chẳng biết hổ thẹn . Đă chừa mười điều dữ ấy , lại c̣n ở theo luậ Công-quá-cách , mổi ngày tụng kinh Cảm ứng cho nhớ mà sửa ḷng , không dám hở một bữa , chẳng dám tính một điều trái lẽ . Như vậy th́ ăn thập trai , niệm chú Chuẩn đề cảm động ḷng trời . C̣n ngươi bầy lâu làm dữ nhiều điều , cứ bia tiếng Chuẩn đề , mà trông trả phước , là theo ngọn , chẳng giữ gốc , mà cảm động vào đâu ? Nhằm ngày thập trai , ngươi quên ăn mặn lỡ , bữa khác ăn tray mà trừ , hoặc đám tiệc chúng ép , th́ ngươi đ́nh ngày chay mà ăn mặn . Theo phép đă ăn chay , th́ không lẽ ăn bữa khác mà thế ngày quên , cũng không đặng xả đỡ ngày chay mà ăn mặn . Nếu thế hoặc xả th́ không phải ḷng thành , c̣n kể chi nữa ? Ăn chay thập như ngươi đó , lại càng thêm tội , đừng căi nhiều lời ! Mau dẫn nó qua A T́ địa ngục
- - - - - - -
Kếu số thứ nh́ họ Tần , ở huyện Hớn Dương , Tú tài thi đậu tấn sĩ , làm quan tri phủ , phủ Thái Nguyên , ba năm mới thác . Phạm nầy khinh dễ bực thiên đ́nh , không kể mạng người , trấn nhậm ba năm , ăn hối lộ tới mười mấy muôn trượng , không cần việc nước . Đời nay ngươi đặng thi đỗ làm quan , là v́ kiếp trước là thầy chùa , có công dọn đường núi và đắp lề vài trăm trượng ( vài ngàn thước mộc ) . Nào hay đời nay đổi ḷng tới thế , mà phụ ơn Ngọc Đế ban thưởng !
Phán quan đọc án rồi . Họ Tần tâu : " Tôi khi sống mê muội không dè có việc Địa phủ xự tội như vậy . Nay mới ăn năn tỉnh lại . Trong nhà tôi c̣n vài muôn lượng bạc . Nay thấy đền vua hư cũ , dưới đền nhiều hồn đói rách . Tôi t́nh nguyện dưng hết bạc mà tu bổ đền vua , c̣n dư th́ bố thí cho hồn đói mà đền tội chẳng biết ư vua định thế nào ? " Phán rằng : " Nay ngươi ăn năn đă muộn quá ! Đền Âm phủ của trẫm , há dùng của vạy-vọ mà tu bổ sao ? C̣n ngạ quỉ ( ma đói ) là tại chúng nó khi sống làm dữ nay phải chịu khổ , ai cần bố thí cho nhọc công . Huống chi lúc người c̣n sống , hay kiếm mưu nầy thế kia mà thâu của cho nhiều , nào có thương ai đói mà bố thí . Phải chi người làm phước cho sớm , th́ đă tiêu hết tội rồi , đâu có ngày nay mắc án . Mà lại vài muôn trượng đó , có phải của ngươi sao ? Mười mầy năm trước , trẫm đă cho oan gian đầu thai làm bốn trai hai gái của ngươi , ngươi thác chưa đầy hai tháng , chúng nó theo đàng điếm bài bạc đă phá hết ráo sự sản rồi ; ít lâu đây con trai ngươi sẽ đi trộm cướp , con gái ngươi sẽ vào lầu xanh , làm hư tiếng tông môn không tốt ! " Họ Tần nghe qua động ḷng khóc ngất , tiếng rống ồ ồ ! Quỉ sứ lấy chùi đồng đập đùa , té xĩu tại đất . Giây phút tỉnh hồn , bị dẫn qua Địa ngục .
- - - - - - -
Phán quan truyền dẫn hồn kế đó vào nữa , đọc án rằng : " Phạm hồn họ Triệu ở huyện Quỳnh Châu , trước làm thơ lại ( thơ kư ) , sau lên chức huyện thừa tại huyện Vĩnh B́nh mới chết . Hồi 18 tuổi làm dữ rất nhiều . Đến làm quan , ăn của chúng , hại mạng dân . Sai thâu thuế kẹp khảo dân nghèo . Lo vừa ư quan trên , khắc bạc dân dưới . Đáng ghét hai khoản nầy : Đi xét án nhơn mạng , cứ theo tiền mà làm thiệt giả , nghĩa là lo bạc th́ quả bị giết cụng gọi là tự vận , không lo bạc th́ tự vận cũng vu là giết . C̣n xứ điền thổ hễ ai lo nhiều bạc th́ đặng ruộng đất . Nên trong túi tham , đựng vài ngàn lựơng vàng . Bởi thế , khi c̣n sống đă phạt tuyệt tự , mà chưa hết tội . Nay trước nấu dầu , mà rửa hờn cho dân , rồi sẽ cầm địa ngục A Tỳ không đặng đầu thai nữa .
Họ Triệu tâu : " Lời xưa nói : " V́ nghèo mới làm quan . Như vậy ăn của dân cũng là phải . Nếu buộc sự ăn hối lộ mà làm tội , th́ kẻ làm quan lấy chi mà nuôi gia quyến và đăi quan khách , của đâu mà đi lễ quan trên ? " Phán : " Như minh oan cho người , hoặc lấy lẽ ngay mà xử cho trúng phép công b́nh theo luật . Kẻ khỏi hàm oan , người ngay khỏi bị hại , người cám ơn v́ xử công minh , nếu chúng nó giàu có cảm ơn , nên vui ḷng mà cho tới bạc ngàn , ḿnh cũng không lỗi . Chớ như không lợi ích cho người chút nào , lập thế bày mưu mà ăn tiền , th́ oan ức người ngay lắm tội biết bao nhiêu . Ngươi nghĩ thử , những của ngươi ăn đó , có phải nghĩa công b́nh chăng ? Người ta có vui ḷng t́nh nguyện đền ơn cho ngươi chăng . Có đáng công ơn theo lẽ minh oan , tự nhiên mà người cho chăng ? Phải là kiếm cơ lập thế mà cướp của người chăng ? Ngươi c̣n già miệng chữa ḿnh sao ? " Họ Triệu tâu : " Tôi có ăn chay vía tam quan ( là ba rằm lớn , tam ngươn : rằm Tháng giêng vía Thiên quan , rằm tháng bảy vía Địa quan , rằm tháng mười vía Thuỷ quan ) thiệt là trong ba vị tam quan đại đế bảo hộ . Nào hay bây giờ bị hoạn nạn nầy , ba vị tam quan đại đế , sao chẳng đến mà cứu tôi ! " Phán rằng : " Lời nói dữ ấy , tội đáng bằng hai , lấy bàn sắt vă miệng nó mười cái ? Ba vị tam quan đại đế là Thiên quan , Địa quan , Thuỷ quan , ba vị thần ngay thẳng , pḥ hộ ngừơi lành . Người làm lành , tuy chẳng ăn vía ba rằm lớn ngàu cũng thêm phước , há bảo hộ ngươi là bọn không nhơn nghĩa sao ? Nếu người làm lành mà ăn chay , th́ chay ấy giúp thêm việc lành . Nếu làm dữ mà ăn chay , là giới việc an chay mà làm dữ , sao dám nói hồ đồ ? Truyền dẫn qua ngục " .
- - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Châu ở huyện Đông Thành , qua ngụ đất Hớn Khẩu , nổi ḷ thợ bạc , hay chế bạc thấp , bạc giả mà hại người mất t́nh nghĩa , hư thể diện ; làm tội nhiều lắm . Trừ ra một tội đáng giết là : Một người buôn bán ở huyện Kỵ Thuỷ đem một trăm ba chục lượng bạc lọc có dư , mướn y nấu ra bạc chín ( nghĩa là bạc mười nấu ra bạc chín , chín chỉ bạc pha một chỉ đồng ). Nó lấy hết phân nửa bạc lọc pha đồng phân nữa , nầu ra bạc năm , kẻ buôn bán lầm sau buôn bán nửa đường mới hay bạc năm bị lỗ tức ḿnh mà chết . Tuy ngươi ăn gian sáu chục lượng bạc lọc , bị thời khi uống thuốc đă hết tiền hết bạc , mà c̣n hỡi c̣n . Tra bộ trơn đời ngươi , không có điều lành mà trừ cấn ; nên truyền dẫn qua hoả thành ( thành lửa ) mà thiêu trọn một tháng , cho người bớt tức . Rồi giam vào địc ngục , không đặng luân hồi .
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Tiền , ở huyện Ma Thành , xóm Trịnh Gia , làm cai trong huyện ấy . Cả đời hay xúi chúng kiện thưa mà ăn chia của đem lo . Nó có xúi người cháu chồng , kiện thiếm dâu va thủ tiết , đoạt sự sản của thiếm dâu , mà ăn lo lót ( ăn chia ) hơn năm trăm lượng bạc . Tiết phụ bị hiếp , tức ḿnh phải bịnh mà chết ! Huống chi c̣n nhiều tội dữ khác , có lẽ nào mà đặng đầu thai , dẫn nó quăn lên núi đao mà trị tội " . Họ Tiền tâu : " Tôi có cử sát sanh sáu bảy năm , nhờ ơn vua dung chế " . Phán : " Người đừng nói khào ! Đă biết cử sát sanh là việc lành , sao ngươi biết tiếc mạng vật , mà chẳng thương biết mạng người ? Ngươi thuở nay xúi kiện cáo , tranh đua việc quấy , lại chẳng biết mấy mạng . Cứu sống mạng vật mà giết chết mạng người , ấy là không phân gốc ngọn lớn nhỏ Thương Đế có v́ sự nhỏ mọn ấy , mà tha tội lớn hay sao ? Huống chi ngươi cử sát sanh mà làm mặt tốt , mua danh lành , chớ không phải lương tâm chẳng hở . Song ngươi kêu nài lắm , trẫm tha khỏi cầm ngục đao sơn , cho được đầu thai mà phải làm con nhà nghèo , mang hai tật câm và quáng , đi ăn mày trọn đời , nếu biết thân mà giữ bổn phận đền tội măn đời , sau sẽ nghĩ lại " .
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Thơ ở phủ Thừa Thiên , con chức Điển sử , bổ làm thơ lại ( thơ kư ) tại phủ . Ba mươi tuổi mà chết . Hồi xuân xanh đánh bóng quến người , phá của chúng , hại mạng người , không biết bao nhiêu tuy tại chúng nó đắm sa , song cũng tại ngươi tham của mà quyến luyện ; không thể nào dung tội ngươi được .
Huống chi ngươi trưởng thành lại càng đắm sa tửu sắc lấy vợ con người , chẳng biết bao nhiêu mà kể . Nếu nàng nào không thuận , th́ lấy thế quan , mà vu hoạ hại người ! Cho nên vào nhà nào , phụ nữ cũng sợ oai mà chịu hiếp . Tội dâm ác thái quá , giết cũng chưa vừa , đáng giam vào trong ngục đao kiếm " . Phán quan tâu : " Tên tội này có hiếu với mẹ lắm . Mẹ ngoài sáu mươi tuổi đau nặng . Y sắc thuốc nếm rồi mới dâng , đêm nằm không cổi dây nịt . Vài tháng như vậy con mẹ bịnh ngặt , ăn không đặng , y cắt thịt bắp vế nấu cho mẹ uống đỡ nước cho bổ , sống rán vài ngày như vậy cũng nên rộng dung chút đỉnh " .Phán : " Thượng Đế tuy ghét tội dâm ác lắm , mà rất trọng con thảo . Bởi nó biết nuôi cha mẹ là hiếu , mà chẳng biết giữ ḿnh mới trọn hiếu . Trẫm tha cầm ngục đao kiếm , lại đặng luân hồi , song làm điếm lầu xanh mà đền tội dâm ác . Nếu sau biết ăn năn sẽ nghĩ lại " . Phán rồi cấp điệp ( giấy ) qua cho vua Đông Nhạc mà đầu thai .
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Tôn ở huyện Vơ Xương , 19 tuổi cải họ Trương đi lính hầu tại phủ . Đă hay bợ đỡ quan phủ , lại thạo bua việc . Lớn mật dạn dĩ , gian hùng hẳn hoi . Hầu việc các dinh , ông quan nào cũng bị y nói gạt hết . Đến đổi mạng người sống thác , đều tại tay y ; việc phải quất đặng thất , đều tại miệng nó . Sự dữ đă đầy , tội đếm không hết . Luận tội dương gian khó thứ , luật h́nh âm phủ không dung . Mau dẫn qua địa ngục Đao san " . Họ Tôn tâu : " Tôi có dùng năm chục lượng băc mà thếp vàng cho Phật tại chùa Báo Ân . Lại cúng bạc dầu thắp đèn ăn chay , niệm Phật Di Đà một ngàn câu " . Phán : " Đờ khốn nà ! Nếu làm dữ , sau biết ăn năn chừa lỗi , làm phước niệm Phật , trời th́ trời tha tội . Có đâu mượn tiếng cúng chùa niệm Phật , mà làm dữ thẳng tay , Phật Di Đà há giúp sức cho người làm dữ sao ? Ví dụ : Kẻ v́ tửu sắc sanh bịnh , uống thuốc bổ dưỡng lại . Nếu cử tữu sắc , th́ uống mới hay . Nếu mê sa tữu sắc như xưa , thuốc bổ sao cho lại tửu sắc ? Lẽ nào thuốc giúp sức cho kẻ tữu sắc nỗi ? Dẫn nó qua ngục cho mau , đừng để căi rán ?
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Ngô , ở huyện Huỳnh Cang hồi nhỏ đi học , thi khoa tú tài không đậu , học qua nghề viết đơn mướn " . Vua phán : " Xưa nay kẻ viết đơn thưa kiện , không có ai hiền lành bao giờ . : Họ Ngô tâu : " Tôi là kẻ đại thơ cứ viện cho kẻ dốt , chớ không làm điều chi dữ ." Phán : " Kẻ bố thí chẳng phải tại của mà tại ḷng ; kẻ chém giết , tội chẳng tại gươm mà tại ư .Người đă viết đơn kiện cáo , trong ư tính nói bó buộc cho gắt như muôn ngọn lửa cháy lau khó dụt . Nghiên mực độc hơn ao huyết , ng̣i viết bén quá lưỡi gươm . Đặt một chữ , phá nhà người rất dễ ; sửa một nét , giết mạng chúng như chơi. Dưới lửa độc , đủ đồ roi kẹp ; trên tờ đơn , đều cửa ngục h́nh . Sưa đi c̣n sửa cho hay , buộc trước lại buộc sau cho gắt ! Kẻ quả tang muốn bắt cho mau người không tội quyết gài cho chắc . Có khi trợ tiên-cáo mà nói gián , gặp lúc binh bị cáo mà hại tiên-cáo ( nguyên cáo ) . Nhiều lúc lời mà làm bộ giết tiên-cáo mà hại bị-cáo . Ḷng độc như yêu khôn độ , mưu său tợ quỉ khó ḍ . Kể sao cho xiết sự tội ác của ngươi , mau dẫn qua mổ bụng rút ruột , hành cho đủ tam đồ , rồi sẽ giam hóa nơi địa ngục . "
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Trần ở huyện Ky Thuỷ , bị án ăm trộm. Vua xem án rồi , phán rằng : " Người may đặng làm người , sao theo trộm cướp ?" Họ Trần tâu : " Tôi hồi nhỏ thiếu ăn thiếu mặc , cha mẹ , em út , kêu đói như bộng , vă lại năm thất mùa , lúa gạo mắc , xâu gao thuế nặng , cũng chẳng đă mới đi trộm cướp !" Vua ngó phán quan mà phán rằng : " Người nầy tuy là ăn trộm , song nói cũng phải lẽ . Hăy tra bộ sổ cho kĩ , coi lám các an ra thể nào ? " Phán quan tra bộ rồi tâu rằng : " Họ Trần có giựt đồ của kẻ buôn bán , đi ngang núi Mai Lảnh tại huyện Ky Thuỷ. Sau bị bắt nguội , giải đến quan họ Từ , vốn là người ở huyện Ngô , phủ Tô Châu , truyền y viết lời khai . Họ Trần viết bài thơ như vầy :
Bất tu hiệp bát , bất tu xao ,
Nể tỉ xuyên du , thuật tánh cao !
Xa thủ , thù nhơn can dữ nảo ,
Măn xang đô thị sát nhơn đao!
THÍCH NÔM :
Lựa là kẹp khảo , lựa là tra ,
Chước niệm nhà ngươi , xảo quá ta .
Tay xá móc gan , rồi lấy huyết ,
Gươm đao đầy bụng mổ hằng hà .
Quan huyện họ Từ xem thơ , rồi mới nói với các thơ lại rằng : " Chúng ta thiệt cũng như ăn cướp , c̣n muốn xử tội ăn cướp sao ? Các thơ lại cai bếp quân lính đều đi bắt đầu này đầu kia , mà kiếm chác cho ta , th́ cũng như bọn lâu la kiếm của tang cho chủ trại ! Chi bằng ăn năn cho sớm , lo tu nhơn tích đức mà nhờ thân sau , cho khỏi mắc đoạ " . Các người nha dịch đều bẩm rằng : " Chúng tôi đă tập quen thói dữ rồi , và lại bị nuôi gia quyến , khó nỗi ăn năn chừa lỗi ! " Họ Trần tâu : " Có khó chi ! Kẻ tu thân phải có can đảm trí huệ khác hơn người thường , cũng sấn sướt manh mẽ như ḷng đứa ăn cướp , th́ mới nên việc . Đứa trộm cướp dạn dĩ không sợ mới dám phá cửa mà giựt của người , dễ như trở tay , muốn làm sao th́ làm vậy . Nếu quyết hồi tâm đi tu , th́ cũng phải can đảm sấn sướt như vậy , th́ dữ nào mà bỏ không rồi , lành nào mà làm không đặng ! " Nói rồi ngâm bài kệ như vầy ( nho kêu thi , Phật kêu kệ ) :
Cang đao bổn bất dẫn nhơn hung ,
Pháp khánh bất hội giáo nhơn thiện ,
Cang đao pháp khánh lưỡng bô t́nh ,
Chỉ thử nhứt tâm phân lưỡng nguyện .
Hướng lai thất cước tự du du ,
Kim nhựt hồi đầu giai chiên chiến .
Cải ác tùng thiên hữu hà nan ,
Tác đạo vi quan cu mạc luyến .
THÍCH THƠ NÔM :
Gương trừng bá giục ngực người làm dữ ,
Chuông tự nào khuyên thế ở lành ?
Chuông kiếm vốn không hiền mới độc ,
Tánh t́nh sẵn có trược cùng thanh .
Xưa mê ngủ gục say vô độ ,
Nay tỉnh ăn năn sợ thất thanh ,
Chừa lỗi hồi tâm tu dễ quá ,
Ăn lo , ăn cướp bỏ th́ thành .
Khi ấy , nội nha môn : nhiều kẻ hồi tâm , từ chức đi tu mười mấy người . Phán : " Quả có công đức ấy , đủ chuộc tội trước : huống chi lấy của , chớ chưa hại mạng người , đáng giảm tội phân nửa . Đáng ghét tội giam dâm , v́ no ấm mà sanh sự . Phải suy phần đạo tặc , bởi đói nghéo không đủ mà liều thân . Sự cùng mà biến , tội cũng đáng dung . Tha tội họ Trần , cho giấy qua vua Đông Nhạc lănh phần đầu thai làm thầy chùa du phương tại núi Thiên Thai . Nếu chịu khổ hạnh tu hành , sau sẽ diêu độ ."
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Trần ở huyện Viên Dương tự hồi nhỏ hoang đàng , làm biếng , làm cho cha mẹ lạnh đói khổ , ưu phiền sanh bịnh mà thác , v́ con không cần kiếm mà dưỡng nuôi . C̣n nó tới 49 tuổi cũng chết đói " . Phán : " Tuy nó không làm điều chi dữ lắm . nhưng mà làm biếng lại xài lớn . Những đứa trộm cướp , chẳng phải ham giết người lại đốt nhà làm dữ , đều bởi làm biếng lại xài to , túng cùng mới biến ra nghề ấy . Cho nên siêng làm và tiện tặn , thiệt là cội rễ nên nhà , mà cũng là gốc trau ḿnh sửa nết nữa . Kẻ có nhơn , người quân tử , ai cũng cần kiệm . Tại người không siêng làm mà chẳng tiết kiệm , để cho cha mẹ đói lạnh mà thác . Như vậy không cần kiệm tuy là lỗi nhỏ mà tội không nuôi cha mẹ là bất hiếu khó dung . Dẫn nó qua pháp trường , mổ bụng lắc bao tử và móc ruột mà trị tội xài lớn . Rút cho hết các sợi gân làm biếng , mà trị tội bất cần . Nay cha nó đă đầu thai làm chức thơ lại tại huyện Thường Châu , ở sau Tây-môn , cho nó đầu thai làm heo của cha nó đặng bán lấy tiền mà đền tội bất hiếu đời trước. "
- - - - - - -
--c̣n tiếp
|