Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 196 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Bói Dịch (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Bói Dịch
Tựa đề Chủ đề: TĂNG SAN Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 1 of 10: Đă gửi: 01 June 2005 lúc 10:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Động tịnh âm dương, phản phúc biến thiên:
Âm dương động tịnh, biển đời tráo trở.
Thái quá giả, tổn chi tư thành:

Lời giải xưa: Hào chủ sự trùng địêp, nhiều quá, việc không nguyên nhất, nên phải rong bớt đi.
Tỉ như Thổ hào là chủ sự. Trong các hào khác, lại c̣n gặp Sửu, Tuất, Th́n, Mùi nên gọi là nhiều quá.
Phải chờ ngày, tháng Dần Mẹo, khắc chế hào Thổ, rồi việc mới thành. Họăc chiêm thời, gặp ngày tháng Dần, có cũng tốt
Dă hạc nói: chẳng những sau khi gặp ngày, tháng Dần Mẹo, đặng gặp ngày tháng Th́n, cũng cho là thành việc. Tại sao?.
Th́n là mộ khố của Thổ. Có câu nói: "Đụng hào trùng điệp, phải Mộ khố để thân tàng", là vậy. Kỳ dư, cứ đó mà suy.
Bất cập dă, ích chi tấc lợi: cái chi không đủ th́ thêm vào đặng lợi.
Sao gọi là không đủ? Nếu hào chủ sự chỉ có một ngôi, lại chẳng là vượng tướng, gọi là không đủ, th́ việc khó thành.
Tỉ như Kim là hào chủ sự. Nếu chiêm mùa Hạ, th́ là hưu, tù, vô khí. Nếu đặng Nhật thấn, động hào sanh nó, hoặc chờ ngày sau gặp ngày tháng sanh trợ, đều có lợi ích, th́ việc cũng sẽ thành.
Tôi cho cách suy luận như vậy là phải. Nhưng hào chủ sự cần phải có căn lề. Suy mà gặp sanh, như mạ đang hạn mà gặp mưa phát lớn sân san. Cho nên nói: có pḥ, có trợ, hào suy nhược, hưu tù cũng kiết. Chỉ sợ hào suy nhược mà vô lực. Hưu tù c̣n thất hạn, tuy gặp chỗ sanh hạp, cũng là khó sống. Há không nghe nói: "Chế ........" hào chủ sự mà yếu mà c̣n bị chế, th́ khó mà bảo tồn mọi việc.
Sanh pḥ cũng hạp, thời vụ tự liệu. Khắc hại h́nh xung, thu sương sát thảo: Dụng Thần được sanh pḥ, cũng hạp, cũng như mùa mưa mùa tươi mạ mộng. C̣n nó bị khắc hại h́nh xung, chẳng khác sương thu giết cỏ cây.
Trước kia có chương ngủ hành sanh khắc, tam hạp, lục hạp, nguyệt tướng, nhựt thần, tam h́nh, lục hại chú giải rất rơ.
Trường sanh đế vượng tranh như kim cốc chi viên, Tử, Mộ, Tuyệt Không, hải thị nê lệ chi địa. Trường sanh đế vượng tỉ như chỗ có mỏ vàng. Tử mộ tuyệt không là chỗ bùn lầy, thấp ướt.
Nhựt thần vi lục hào chi tể. Nguyệt tướng vạn bốc chi đề cang. Nhựt thần là chủ tể của 6 hào. Nguyệt tướng vốn giềng bấu của muôn quẻ.
Tối ác gia tuế quân, nhi tịnh nhi bất nghi động. Rất dữ là ngôi tuế quân, hào ấy nên tịnh, không nên động.
Tuế quân là vị Thái tuế đương niên, hoặc minh động, ám động xung khắc Thế hào.
Chiêm niên vận, th́ một năm bị rắc rối. Chiêm quan sự, th́ sẽ tới chốn trào đ́nh.
Chiêm ứng th́ sĩ họan, hay là diện thanh thượng thơ, khấn hôn gia tránh, cầu phong, cầu âm, mọi việc ...đều phải Thái tuế sanh hạp Thế hào, động mà sanh Thế lại càng tốt. Rất kị h́nh xung khắc thế.
Trừ ra mấy việc chiêm đó, đều là đồng đẳng với các hào khác. Tại sao?
Thái tuế tuy nắm quyền lệnh một năm, tôn mà chẳng gần, cao mà khó thấy, kiết hung đều không bằng ngày tháng. Người xưa nói Thái tuế chẳng xét đến gia đ́nh, việc vặt, là vậy. Cho nên hào xung với Thái Tuế, làm Tuế hạp, mà chẳng cho là kiết.
Hào nào suy, Thái tuế chẳng sanh nó được. Hào nào vượng Thái Tuế cũng chẳng chế nó được. Gặp Nguyệt phá t h́ phá, gặp Tuần không th́ không, mà không bằng sức nguyệt kiến, nhật kiến.
Dă hạc nói: làm ra họa phước trong năm, chẳng kể là trọng. Làm ra kiết hung về sau (hậu thời), mới không thể khinh.
Lại hào chủ sự thuộc Mộc, trong quẻ có Thân, Dậu kim động, gọi là Mộc bị Kim thương. Nếu Mộc vượng Kim suy th́ có thể giữ vô sự. Sau gặp năm Thân kim, khó tranh tai ương.
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 2 of 10: Đă gửi: 02 June 2005 lúc 11:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Như tháng Tị, ngày Nhâm Tư, chiêm hương thí. Đặng quẻ Thủy Địa Tỷ.

     亥.......財
     丑.......兄
應     卯.......官 ;
     未.......兄
     巳.......父
世     卯.......官 ;

Hào tị hỏa Phụ đương nguyệt kiến, văn tinh cương. Hiềm v́ quan tinh tŕ thế,, Mẹo mộc Tuần không.Hứa đến khoa Mẹo mới đặng tọai ư.
Năm Tí chiêm, qua tới năm Mẹo mới đăng khoa. Ứng vào năm Mẹo, là v́ Thái tuế được điềm thiệt mà hết Không.
Đều không ứng nghiệm ngôi thân, nên bỏ ra mà chẳng nên để.
Xưa, thuộc về câu: tối yếu giả thân vị, hỉ pḥ phi bất hỉ thương, lời nguyên chú có nói: xưa dùng thế thân mà không nghiệm nên dùng quái thân.
Dă hạc nói: Quái thân cũng là không nghịêm, chỉ dùng thế hào.
Có kẻ hỏi: cũng có khi ứng nghiệm.
Tôi đáp: sao bằng dùng thế hào, bá phát bá trúng, hoặc óc khi ứng nghiệm, đó là th́nh ĺnh mà gặp gỡ đó thôi. Dầu có đủ ǵ làm phép tắc.
Thế vi kỷ, ứng vi nhân, đại nghi sanh hạp: Thế là ḿnh ứng là người ta, rất nên sanh hạp.
Phàm gặp việc gồm luôn hai đàng (ta và họ), th́ gồm luôn Thế Ứng mà dùng. Muốn cho họ pḥ trợ ta, th́ Ứng hào sanh hạp, Thế hào là tồt. Ta muốn thay mặt cho họ mà tính việc, th́ Thế nên sanh Ứng.
Nếu không, chiêm cho hai đằng, th́ chẳng nên dùng cách này. Quẻ Hằng biến ra Thăng.

應     戌.......財 ;
     申.......官
     午.......子
世     酉.......官 ;
     亥.......父
     丑.......財

Tôi nói: Dậu quan tŕ thế, phá mà lại không . lại thêm hào động mà Ngọ hỏa tương khắc, chẳng những mất chức, mà phải pḥng tháng 5, 6 c̣n gặp hung tai.
Có kẻ nói: Nay được Thế Ứng tương sanh, lại biến quẻ Thăng, chắc sẽ được cứu giăi nhau.
Tôi nói: Tự ḿnh chiêm và tự trần. Đối với Ứng có ăn thua ǵ đâu. Đó là luận sai.
Sau, quả tới tháng 5 bị hạ ngục.
Động vi thỉ, biến vi chung, tối phạ giao tranh. Động hào là đầu việc. Biến hào là cuối việc, nên sanh hạp, chẳng nên xung khắc.
Ứng vi tao thương, bất lợi tha nhân chi sự. Thế hào thọ chế, khởi nghi tự kỷ chi mưu. Ngôi Ứng bị thương, bất lợi cho việc của người. Thế hào bị chế, không hạp cho việc của ḿnh.
Về việc của ḿnh, cần phải Thế hào vượng tướng, hoặc trúng ngày, tháng, hoặc ngày ngày tháng, hào động pḥ trợ, hoặc động và hóa kiết, th́ chiêm việc chi cũng tốt.
Chiêm dùm cho người th́ lấy Ứng hào làm Dụng Thần. Hào này cần phải vượng, th́ n ên trúng chỗ vượng tướng, lại nên ngày tháng động hào sanh pḥ. Hào này cần phải suy, th́ nên trúng nơi Mộ, tuyệt, Không, Phá, cùng là ngày tháng hào động xung khắc.
Thế Ứng cụ không, nhơn vi6 chuẩn thật. Thế hào, Ứng hào đều gặp không, th́ người không biết tin chắc vào đâu.
Thế không th́ tự ḿnh không chơn, Ứng không th́ người ta không thiệt. Thế Ứng đều không th́ hai đàng hết biết tin vào đâu, tính việc có trở ngại, sự thiệt hoang đường.
Nội ngọai cạnh phát, sự tất nhiên đặng. Quẻ trong, quẻ ng̣ai đều tranh nhau mà động, việc sẽ sanh ra tráo trở.
Trong quẻ mà ít có hào động, sự kiết hung tự nhiên có điều lư, phán đóan dễ dàng. Nếu quẻ trong, quẻ ng̣ai đều có động, hổn tạp lộn xộn, th́ sự kiết hung khó định một bề. Nhơn t́nh bất thường, sự thể phản phúc, đó là cái dáng không có định luận. Vậy phải xin một quẻ khác. Hiệp lại mà bàn.
Thế hoặc giao trùng, lương mục cố chiêm ư ma thủ. Ứng như phát động, nhứt tâm tợ thác vu viên phan. Thế nếu động, hai mắt phải chăm chú vào đầu ngựa, c̣n Ứng phát, một tâm như cậy vào tay vượn.
Lời chú giải xưa: Thế Ứng đều chẳng nên động, động th́ phản phúc bất thường, như đầu con ngựa không định, như tay con vượn (hay ư con vượn không yên).
Dă hạc nói: tôi chẳng dám cho lời nói này là phải, cũng chẳng dám cho là quấy. Đó là dụng thân chẳng vượng, là thuyết một tượng không thành.
Nếu dụng hào đắc địa, đại tượng sẽ thành, thế động chẳng bị khắc chế, Ứng động tam hạp thế hào,th́ tính việc chi cũng thành mau lẹ.
Dụng hào hữu khí, vô tha cố sở tạc giai thành. Chủ tượng đề tốn, cánh bị thương, phàm mưu bất tọai.dụng hào có sức, không có chi khác, các việc làm sẽ thành. Chủ tượng tuy có, mà bị thương, phàm tính chi cũng bại .
Dụng hào và chủ tượng đều là hào chủ sự. Hào này hoặc vượng tướng, hoặc sanh pḥ, hoặc hữu khí, mà không có hào khắc chế th́ việc tất nhiên thành. Thảng như nó suy nhược, vô lực, lại bị khắc chế, tuy là xuất hiện (có mặt) mà là vô dụng.
Không phùng xung nhi hữu dụng. Hào gặp tuần không, không mà gặp xung, th́ hữu dụng. Đặng Nhựt thân xung, gọi là xung không, th́ được thiệt ngay, chẳng những hết không , trở lại làm hữu dụng. Tháng động mà không nhựt thần th́ cao nó th́ ra thiệt.
Hạp tạo phá,dỉ vô công: Hạp mà gặp phá, cũng là không dụng vào đâu.
Lời chú xưa: Hào gặp tượng hạp, như hai người đồng tâm, th́ việc chắc thành. Nếu ngày, tháng, hào động xung khắc, đóan là hạp xứ phùng xung, phải pḥng tiểu nhơn xúi dục, trong chỗ hiệp hào lại sanh ra nghi kị. Như việc của tự ḿnh làm, cung bị kẻ xung quanh ḿnh gàn trở, th́ việc ḿnh khó thành.
Tôi đặng ứng nghiệm như sau: phạm tam hạp, lục hạp; tuy chẳng nên, trong lúc hiện thời, ngày tháng hào động xung khắc, mà ngày tháng hậu lai xung khai, chánh là chỗ gọi: như phùng hạp trụ, xung phá thành công.
Tỉ như trong hào, Dần với Hợi hạp. Nếu chiêm nhằm ngày tháng Thân, Tị th́ Thân xung Dần, Tị xung Hợi, gọi là: hạp xứ phùng xung. Nếu không phải chiêm nhằm người tháng Thân Tị, th́ chờ ngày sau, gặp ngày tháng Thân Tị, mới nên việc , kỳ dư, cứ đó mà suy.
Người xưa cho bất động cũng có thể hạp, đó là sai. Hai hào động mới gọi là hạp.
Động không hóa không, giai thành hung kiết: Động không, Hóa không đều thành ra hung và kiết.
Người xưa nói: tất thành hung cựu.
Tôi đặng ứng nghiệm như sau: động chẳng phải là không, động mà hóa không, cũng không phải là Không, Kiết Hung đều Ứng vào ngày xung không, thiệt không. Nên tôi chửa lại.
H́nh hạp, Khắc hạp, chung kiến quai dâm: H́nh hạp, Khắc hạp, sau sẽ thấy trái hư.
Lời chú xưa: Hạp là ḥa hạp, gặp nó th́ kiết. Sao chẳng biết: trong hạp có h́nh, có khắc, rốt cuộc công dụng chẳng hạp.
Chữ Ngọ là tài hào, chữ Mùi là phước thần. V́ chữ Ngọ có dính tự h́nh, hạp chẳng kể là hạp, mà kể là khắc.
Dă Hạc nói: Ngọ đă tự h́nh, ấy là tự ḿnh có cái họa gây tự h́nh hại. Đặng phước thần mà hạp hảo, đó là người giải cứu hết họa. Trái lại, không gọi là kiết th́ là sai.
Tôi thường được ứng nghiệm: thế hào Ngọ hóa, hóa Mùi tương hạp. Trọng đă định, sau mộng ơn được xá.
Động phùng hạp nhi bạn trụ: Động mà gặp hạp, th́ bị trói chặt.
Lời chú xưa: Kị thần động gặp ngày tháng tượng hạp, th́ chẳng thành hung. Nguyên thần động, gặp ngày tháng hạp trụ, th́ chẳng thành việc. Đó cũng là có lư, nhưng theo chỗ tôi được ứng nghiệm, sau gặp ngày tháng xung khai, chiêm vận mạng cho quan chỗ quan trường, đặng quẻ Cách biến Kư Tế.
應     未.......官 ;
     酉.......父
     亥.......兄
世     亥.......兄 ;
     丑.......官
     卯.......子

Đóan rằng: Thế là Hợi Thủy, năm nay là năm Tí, Thái Tuế cũng pḥ, Ngôi cửu ngũ Dậu kim, tuy chẳng phát động, cũng có ư xă sanh (tiết khí). Thế hào lại hóa hồi đầu sanh, lại được Nhật thần tương hạp. Hào thứ sáu, Mùi Thổ, quan tinh đương quyền đắc lệnh. Đường sĩ họan thẳng bằng, như đi ghe xuôi nước.
Duy nghi cầm quyền hai tỉnh, chẳng phải là không giàu, mà sao Huynh hào tŕ thế, Tài phục bị khắc, đó là tốt, mà không ḥan ṭan tốt.
Ông nói: ngày sau sẽ ra thế nào?
Tôi đáp: pḥng năm Tị Thái Tuế xung Hợi, h́nh Thân, chẳng khỏi hồi thất thế. Ngày vinh quy, chỉ có một túi lớn trống không mà thôi.
Quả tới năm Tị, bị luận tội, họan nam tiêu sách (tiền lương tiêu sạch). Đó là thế gặp hạp mà bị trói chặt khi gặp năm tháng xung th́ khai mở.
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 3 of 10: Đă gửi: 05 June 2005 lúc 12:56am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Tịnh đắc xung nhi ám hưng: Tịnh mà xung th́ ám động.
Nhập mộ nan khắc: Nhập mộ khó khắc.
Lời chú xưa: Mộ nghĩa là ngưng trệ. Kị thần nhập Mộ th́ không khắc Dụng Thần.
Tỉ như Lộc là Dụng Thần, Kim là Kị thần, nếu chiêm ở ngày Sửu, Kim nhập Mộ, th́ làm sao khắc được Mộc. Trong quẻ thấy động hào Sửu, th́ cũng bàn theo trên. Hào Kim động mà hóa Sửu, cũng vậy, Kỳ dư cứ vậy mà suy.
Dă Hạc nói: phải th́ có phải, thường gặp ngày xung khai Mộ khố, th́ mộc y nhiên bị Kim khắc.
Đái vượng phi không: Hào có vượng th́ chẳng phải không.
Vượng là nói hào vượng tướng, mà gặp tuần không th́ chẳng luận theo không. Thảng gặp nhật thần, trong ngày đó, xung nó, th́ gọi là: không phùng xung, th́ hữu dụng.
Sau gặp nhật thần xung, gọi là xung khởi. Qua khỏi tuần đó th́ ra khỏi không, gợi là điền thiệt.
Theo mấy trường hợp đó, th́ chẳng phải là không. Thảng như phát động, càng lại chẳng phải là không hơn nữa.
Hữu trợ hữu pḥ, suy nhược hưu tù diệc kiết: Như gặp có hào trợ và pḥ, tùy suy nhược hưu tù, chớ cũng là kiết.
Đây là nói về hào chủ sử. Giả như hào củ sự vô khí, vốn không phải tốt, nếu đặng nhật thần hay là động hào sanh pḥ, cũng hạp, tức là được trợ, đồng với câu trước : "Bất cập giả ích c hi tắc lợi".
Tham sanh tham hạp, h́nh xung khắc hại giai vong: Ham sanh, ham hạp, mà quên h́nh xung khắc hại.
Đây cũng là trỏ vào chủ tượng mà nói. Tỉ như chủ tượng là hào Mẹo mộc, gặp hào Thân động và khắc nó. Trong quẻ, nếu có hào lợi thủy động lên, Thân kim ham thủy sinh, chẳng hại khắc Mộc.
Lại như chủ sự hào ở Tí thủy, gặp Mẹo mộc động mà tương h́nh. Nếu có chỗ nào khắc kế bên động lên là Tuất, th́ Mẹo với Tuất hạp, chẳng lại khắc Tí. Đó là ham hạp mà quên h́nh.Lại như thế là hào Tị, trong quẻ chữ Dần động lên th́ Dần lại h́nh Tị, mà được Dần mộc sanh Tị hỏa, gọi là ham sanh quên h́nh.
C̣n như dụng hào ở chữ Tị, trong quẻ Hợi thủy động lên, xung khắc Tị hỏa. Nếu được Mẹo Mùi đồng động, Hợi, Mẹo, Mùi hiệp thành Mộc cục, trở lại sanh hỏa, cũng gọi là ham hạp quên khắc, quên xung. Kỳ dư theo lọai mà suy.
Biệt suy vượng di minh khắc hạp, biến động tỉnh dĩ định h́nh xung: Phân biệt suy vượng, để chỉ rơ khắc hạp, phân biệt động tịnh để định h́nh xung.
Bốn chữ Suy Vượng Khắc Hạp, trước có chương "Ngu hành sinh khắc" và "Tứ Thời Vượng Tướng" đă chú giải rơ rồi. C̣n động tịnh h́nh xung cũng có nói rơ trong chương "Động tịnh".
Tính bất tính, xung bất xung, nhân đa tự nhăn. H́nh phi h́nh ha 5p phi hạp, vị thiểu chi thành. Tỉnh (đứng chung) không tỉnh, xung không xung, v́ nhiều chữ cái. H́nh chẳng h́nh, hạp chẳng hạp, bởi thiếu chữ Địa chi làm thân.
Lời xưa chú: quái hào đa thành, chẳng khỏi có h́nh xung, tính hạp. Nhưng thêm một chữ hay thiếu một chữ cũng không thành cái tên h́nh xung tính hạp được.
Giả như, ngày Tí chiêm quẻ. Trong quẻ có một chữ Tí (đồng chi với ngày) th́ gọi là Tính. Nếu có hai c hữ tí th́ phần khai thành ra thái quá. Tên tuy là tính (đứng chung) kỳ thiệt không đặng tính.
Hai Ngọ th́ không xung, hai Sửu th́ không hạp, hai Mẹo th́ không h́nh, hai Tị th́ không khắc. Đó là t hêm một chữ, th́ chẳng thành cái tên: H́nh, Hạp, Khắc, Hại.
Dă hạc nói: nếu trong hào có hai Tí, chẳng hạp hai Sửu, gọi là Đố (Kỵ). Nói hạp chẳng thành hạp cũng là có lư. C̣n nếu cho Nhật thần không thể tính với hai chữ Tí ở trong hào, chẳng xung được hai chữ Ngọ ở trong hào ra, là sai.
Ngày tháng như trời, không có chỗ nào là chẳng gội nhuần mưa móc. Bằng chẳng vậy sao gọi là "Tuần sát lục hào chi thiện ác".
Ngày tháng Sửu, ngày Nhâm tí, chiêm Tụng, được quẻ Độn.


Đóan rằng: thế là Ngọ hỏa, ngày Tí xung nó, hưu tù là bị phá, chớ không phải phiên động. Nếu thẩm xét ngày nay, chắc sẽ bị trách phạt.
Quả trong ngày, bị quan phạt hai mươi trượng. Đó là trong quẻ hiện hai Ngọ. Há có thể gọi được là: một tí không xung hai Ngọ chẳng ?
Lại nói: dần Tị Thân là tam h́nh nếu có hai chữ là Dần Tị mà không có chữ Thân, hoặc có hai chữ Dần Thân, mà không có chữ Tị, thiếu một chữ không thành tam h́nh.
Lại nói: Hợi Ngọ Mùi là tam hợp, trong quẻ có 2 thiếu 1 chữ chẳng thành tam hợp.
Dă hạc nói: hai điều này không trúng thuyết. Sao không rơ câu "Hư nhất đăi dụng" phải chờ ngày sau, gặp ngày tháng có thể điền thiệt nó.
Như tháng Tị, ngày Kỷ mùi, chiêm bệnh đau lâu, được quẻ Kiền ra Đ̣ai.


Đóan rằng: Thế hào Dần mộc, hóa xuất Tị hào. Dần hay h́nh Tị tam h́nh thiếu chữ Thân, pḥng ngày Thân rất nguy.
Quả chết nhằm ngày Thân, giờ Thân. Đó là thiếu một chữ, được ngày Thân sau này bổ vào, có thể gọi là "thiếu một chữ không thành tam h́nh chăng?"
Lại như tháng Dậu, ngày Ất tị, chiêm thăng chức đổi chỗ. Được quẻ Trạch Địa Tụy, biến ra Thiên Địa Bĩ.



Tị hỏa quan tinh th́ Thế, lại trúng nhằm Nhật kiến. Sách bói nói: "Quan lâm Nhật Nguyệt tức thăng".
Vả lại ngày Tị xung động hào Hợi, muốn cùng hào Mùi phát động, thành ra tam hạp, nhưng c̣n thiếu Mẹo.
Qua sang năm, tháng Mẹo sẽ thăng chức. Đó là "Hư nhứt đăi dụng"
Quả tới tháng Mẹo được thăng. Há gọi được là "Thiếu một chữ, không thành tam hạp chăng?"
Hào ngộ linh tinh, vật nan ngă hại: Hào gặp nguyệt kiến, vật (hào khắc) khó hại ta được.
Phục cư không địa, sự dữ tâm vi: Núp ở chỗ không, việc ǵ cũng trái tâm.
Phục là Phục thần. Núp mà lại không, là dáng mọi việc khó thành.
Xưa để lại chiêm nghiệm, ngày Bính Thân, chiêm văn thư.
Lấy hào phụ mẫu làm Dụng Thần. Trong quẻ này, 6 hào không có phụ mẫu. Tị hỏa, phụ mẫu núp ở dưới Dần mộc, lại gặp Tuần không, cho nên văn thơ không thành được.
Dă hạc nói: Núp mà lại không, sự không thành là vậy đó. Nhưng theo quẻ này, văn thư chẳng thành chẳng phải phải tại không. Đó là bởi Phi thần tại Dần, phục thần ở Tị, cùng ngày Thân, thành ra tam h́nh đó. Tại sao?
Ngày Thân xung động Dần mộc, để sanh Tị hỏa, gọi là: "Phi lai sanh phục đắc trường sanh" : Phục thần đă được trường sanh, th́ là hữu khí, hết không. Chẳng vậy, sao gọi : "Phi bất xung khai, diệc uổng nhiên". Cho nên tôi nói: Chẳng phải tại không mà tại tam h́nh.
Phục vô đề khiết, chung đồ nhỉ, Phi bất thôi khai. Diệc uổng nhiên: Phục thần mà không ai kéo lên, th́ rốt cuộc như không. Phi thần mà chẳng xung khai, th́ cũng là vô ích.
Phàm Dụng Thần chẳng hiện,núp ở trong quẻ, cần phải có nguyệt kiến, nhật thần xung khai Phi thần, sanh hạn pḥ khởi Phục thần, th́ Phục thần mới được hữu dụng.
Không hạ Phục thần, dị ư dân bạt. Phục thần núp ở dưới hào không, rất dễ kéo lên.
Phục thần chẳng không, mà Phi thần không, th́ Phục thần xuất hiện rất dễ. Tại sao?
Phi thần ở trên đă không, th́ chẳng có ai đè nén nữa. C̣n Phục thần lại đặng Nguyệt kiến, Nhật thần sanh pḥ, cũng hạp, tự nhiên xuất hiện.
Chế trung nhược chủ, nan dĩ duy tŕ: Hào suy nhược, lại bị khắc chế, khó mà bảo vệ.
Dụng hào hưu tù, lại bị Nguyệt kiến, nhật thần chế phục, dầu có sanh pḥ, cũng không thành sự.
Như tháng Th́n, ngày Bính Thân, chiếm dưới đất bổng phát khởi ánh quang ngũ sắc, nghi có hầm chôn đồ xưa.
Tôi nói: tài phục mà không, ṭan không có ảnh hưởng ǵ hết.
Họ nói: dù không có tài, sao lại có ánh sáng ngũ sắc.
Tôi nói: đó là yêu khí.
Lúc ấy, người nào cũng hy vọng có tài, nghị luận phân vân
Có kẻ nói: tử động ở trong quẻ, hào huynh đệ cũng động, có chút hy vọng.
Trong quẻ này, huynh đệ sanh tử, tử động sanh tài. Lại trong nội quái, hiệp thành kim cục, kim sanh thủy vượng, sao lại nói không tài.
Tôi nói: anh biết một mà không biết hai. Hào tử tôn tuy vượng mà khó sanh hào tài không căn. Tư thủy đă núp mà lại không bị Nhật Nguyệt Phi thần khắc chế. Tài mới do đâu lại.
Sau đào đất, chỉ đặng một cái lu bể, đầy những miếng ngói đất bùn.
Nhật thượng hào, chọn di kỳ họa. Hào thương Nhật, đồ thọ kỳ danh: nghĩa là: ngày khắc hào th́ chắc phải mang tai. C̣n hào khắc ngày chỉ nghe tên chứ không thiệt.
Ngày tháng như Trời như Chúa, 6 hào như tôi dân, muôn vật. Nhật thần hay h́nh xung khắc hăi đặng quái hào, mà quái hào không h́nh xung khắc hăi được ngày tháng.
Mộ trung nhân, bất xung bất phát. Người ở dưới mồ, không xung tới nó th́ nó chẳng dậy nổi.
Lời xưa chú: đại để dụng hào nhập Mộ th́ bị ngăn trở, mọi việc làm ra hao sức, mà không thành. Phải có nhật thần, động hào xung phá, hoặc khắc phá cái mộ, th́ Dụng Thần mới là có sức.

Như ngày Dậu Dần chiêm tài, được quẻ Đồng nhân biến ra Kiền.


Dụng hào nhập Mộ, mừng được nhật thần khắc phá.
Sau quả được tài. Nếu v́ lẻ hào dụng không mà nhập Mộ, nên đóan là vô tài, th́ sai. Sao chẳng rơ: tuy không mà gặp xung, gặp xung th́ không hóa ra thiệt. Tuy Mộ mà có khắc phá, mộ phá th́ phải vở tan.
Dă hạc nói: chỗ này rất hữu lư, mỗi lần thử th́ mỗi lần thấy ứng nghiệm, nhưng Dụng Thần phải có sức mới có thể đóan như thế. Thảng như Dụng Thần hưu tù, không có tiếp viện, tuy gặp ngày xung khai, cũng là khó phát.
Như tháng Mùi, ngày Mậu th́n chiêm niên vận. Được quẻ Địa Lôi Phục biến ra Khiêm.


Hào thế Tí thủy, tuy là có Thân Tí Th́n, tam hạp thủy mộc, mà chẳng nên có ngày , tháng khắc Thế. Hào Thế hóa mộ,lại hóa, hồi đầu khắc. Hào động Th́n thổ lại khắc hào này nữa. Đó là Thế hào hưu tù vô khí.
Năm Mẹo chiêm, chết ở năm Ngọ. Ứng vào năm Ngọ là năm Thế gặp Tuế phá, há có thể gọi là "Mộ trung nhân, bất xung phi bất phát"
Thân thương quỉ, bất khử bất an. Quan quỉ tŕ thế (thân có nghĩa là thế) chẳng trừ đi th́ không yên.
Chiêm việc chi cũng rất sợ khắc Thế. Chỉ có quan quỉ tŕ thế, nếu không phải là người chức dịch, rất nên có ngày tháng hào động tương xung khắc phản mới là tốt.
Tại sao? Chẳng phải khắc thế hào. Ấy là khắc trừ quỉ ở bên ḿnh (Quỉ tại thân, tại Thế).
Như tháng Ngọ, ngày Quư Sửu, chiêm vợ bệnh, được Tụy ra Tí.
Tôi hỏi người lại chiêm: bệnh này đau đă lâu chưa?
Đáp: tháng ba bệnh khởi.
Mẹo Mộc tài không, ngày mai ra khỏi không, tâTôi hỏi người lại chiêm: bệnh này đau đă lâu chưa?
Đáp: tháng ba bệnh khởi.
Mẹo Mộc tài không, ngày mai ra khỏi không, tất nhiên bệnh sẽ khỏi.
Thầy thuốc không cho thuốc. Khách nói.
Không ngại


Quẻ này Hợi Thủy Tử bên Mộc phát. Khắc trừ quỷ ở Thế hào: ứng tại ngày mai là ngày Dần. Dần với Hợi hạp, ngày hạp khởi Tử lên. Th́ anh hết lo.
Ngày sau quả nạn thối, chẳng có t huốc mà bệnh mạnh. Chẳng phải một cớ đó mà thôi. Lại về Mẹo Mộc tài không, ngày kể ra khỏi không th́ bệnh khỏi.
Như tháng Th́n, ngày Mậu Tí. Chiêm ghe nhỏ qua cửa ải, e có trở ngại ư, được Thủy Địa Tỉ biến hào.


Thề hào có quỉ là trong bụng rất lo rầu, ........

Ngày Mẹo quả qua cửa ải không trở ngại
Đức phận quải phi vô ưu bất tọai: tức là hào hạp, vào trong quẻ, hỏi có tính việc chi là không vừa ḷng.
Lời xưa chú: Đức là đắc (được). Đối với trời đất, th́ hạp với Đức của trời đất. Hào chủ sự và hào Thế. Thiên can và địa chi dưới trên tương hạp. Cho ghi chiêm nghiệm như sau:
Tháng Tuất, ngày Kỷ Dậu, chi6m về văn thư (giấy tờ). Được quẻ Tiểu súc biến cổ.



Nói rằng: .....


Dă hạc nói: quỉ cốc luận về tam tài, bỏ hào từ lấy ngũ hành, mà định họa phước, là dùng địa chỉ. D; dùng địa chỉ th́ không thể chẳng lấy thiên can mà định cát hung. Lấy thiên can mà phối địa chi, là muốn dùng ṭan châu thiên Giáp Tí.
Quẻ lại có 48 hào, không lẻ chẵn phân rơ ràng. Cho nên quẻ Càn nội quái dùng Giáp, quẻ Khôn nội quái dùng Ất. Giáp Ất là hai ngôi đầu trong mười Can. Quẻ Càn ngọai quái dùng Nhâm, quẻ Khôn ngọai quái dùng Quư. Nhâm Quư là hai ngôi đuôi trong mười Can.
Quẻ Càn nội quái dùng Tí, tương hạp với quẻ Khôn ngọai quái. Quẻ Khôn nội quái dùng Mùi, tương hạp với quẻ Càn ngọai quái. Hai lăo, trên dưới tương cấu, âm dương tương phối. Giũa âm có Tí.
Kế Giáp Ất là Bính Đinh, dùng theo thiếu nam, thiếu nữ, là Khảm và Ly. Canh Tân dùng theo trưởng nam, trưởng nữ, là Chấn và Tốn.
Đây là phép phối ngẫu ṭan hết can chi ở trên dưới. Cho nên gọi là hồn thiên Giáp Tí. Họa phước cát hung đều do địa chi sanh, khắc chế, hóa, hạp, h́nh, xung mà định.
Nay lại dùng thiên can mà định hưu tù, mỗi quẻ đều cần phải dùng nó. Nào phải chừng ấy thôi đâu?
Trong quẻ Tiểu súc, biến cổ này, hào thứ 6 Châu Tứơc làm văn thơ, động ở Tị hỏa biến ra Tí thuỷ văn thơ. Thế hào cũng ở Tí thủy phụ mẫu, lại cũng là văn thơ. Ngày Dần sanh nó, hóa ra Sửu hạp, khó nói là không thành. Cho nên nói là luận đêm dài.
Kị lâm thân nhi đa trở vô thành: Kị thân ở nuôi thân (thế) th́ gặp nhiều trở ngại khó thành.
Bất cầu chiêm việc chi, không nên thấy Kị thân tŕ thế. Như chiêm quan, th́ tử tôn là kỵ thân. Nếu tử tôn tŕ thế, cầu danh chẳng thành. Chiêm tài th́ huynh đệ là kị thần. Nếu huynh đệ tŕ thế, cầu tài không có.
Dă hạc nói: luận như vậy là phải. Tôi cũng có thử, được ứng nghiệm là : huynh đệ hào tŕ Thế, hóa ra tài hào th́ đặng tài. Thế ở tài hào, hóa ra phụ mẫu th́ thấy cha.
Như tháng Tị, ngày Bính Thân, chiêm tài. Được quẻ vị tế, biến ra Đỉnh.



Trên là Kị thần ở ngôi Thế, hóa tài, Dậu tài th́ ngày Dậu được tài.
Lại như tháng Thân, ngày Mậu Ngọ, chiêm lănh văn bằng. Được Phong Lôi Ích biến ra gia nhân.

Đây cũng là vị thần ở ngôi Thế, mà ngày Hợi th́ được văn thơ. Cũng là ngày đó, con chiêm cho cha, cũng được quẻ này, ngày Hợi gặp cha. Tại cớ sao?
Nghi cho là động hào chẳng khác biến hào mà ra. Nhưng cũng không thấy được nhiều như vậy. Tôi đă thấy ứng nghiệm, chẳng lẻ không nói ra, chớ chẳng biểu người sau lấy đó làm phép tắc.
Chiêm mỗi việc, gặp Kị thần tŕ thế. Gặp nhiều trở ngại khó thành, ấy là quẻ đó gặp hung tinh, tránh đi th́ cát.
Lời chú xưa: phàm gặp Dụng Thần không vong, mà có ngày, tháng hào động xung khắc, nên nói: núp trốn chỗ Không, th́ trái lại không bị cái hại về xung khắc
Xưa có ghi lại chiêm nghiệm này: tháng 6, ngày Giáp Tí, chiêm con bệnh, được quẻ Cấn biến ra Đại quá.

Bàn rằng: phụ mẫu vượng động, dụng hào Hợi Thủy tử tôn lại vô khí. Đó là điều hung. Nay được dụng hào gặp Tuần không , là núp biến. Tới ngày Bính Tư th́ mạnh, v́ tới Bính Tí, th́ phía trước đă qua rồi . Lại v́ cớ Hợi Thủy Tử tôn gặp ngày Tư, là nhằm Đế Vượng (Trường sanh).
Dă hạc nói: bàn cách đó không đúng lư. Trong các việc chiêm hung hơn hết là Kỵ thần. Kỵ thần đă động ở trong quẻ rồi, th́ họa đă thấy vơi.
Dụng Thần tịnh gặp ngày xung th́ mang hại, Dụng Thần động gặp ngày hạp, th́ bi thương. Dụng Thần phá, ngày Thiệt phá mà gặp Dụng Thần không, đến ngày ra khỏi không, th́ tương phùng. Đó là chưa t́m ra khỏi cái nào mà có khe ẩn tránh bi được. Hể ra khỏi không, th́ gặp hại. Nếu nói rằng : ra khỏi không , th́ phía trước đă qua rồi, trái lại chẳng chịu h ọa, là trái. Là lầm đó.
Tôi đă thí ngiệm: nguyên thần động trong quẻ mà Dụng Thần bị không, tới ngày ra khỏi không, th́ được việc. Kị thần dol ở trong quẻ, mà Dụng Thần bị không, tới ngày ra khỏi không , th́ phải mang tai. Đă mấy phen chiêm, lần nào cũng ứng nghiệm , chỉ không luận về bệnh mới đau mà gặp không.
Phàm chiêm cho bệnh mới đau, Dụng Thần mắc phải Tuần Không th́ bất câu ngày , tháng , hào động kh8ác hại Dụng Thần, hễ tới ngày qua khỏi không th́ mạnh. Chỉ có coi việc này, luận không mà chẳng luận khắc. Chiêm về việc khác th́ đều kị.
Cái quẻ Cấn, biến ra Đại quá này, định chiêm cho con mới đau, gặp không th́ mạnh. Nói: mọi việc đều phải ẩn tránh nó, đó là làm cho kẻ sau lầm lạc. Nên bỏ ra.
Hào phùng kị sát, địch chi vô thượng: Dụng Thần gặp Kỵ sát, chống lại với nó th́ vô hại.
Lời chú xưa: Kị hào phát động việc chi cũng bốt lợi. Nếu có ngày, tháng, hào động tương trợ dở dụng hào, mới có thể chống lại với nó, không bị thương, th́ công việc cũng có thể thành tựu. Tôi cho luận như vậy là đúng, chỉ y theo quẻ đă chiêm nghiệm sau này:
Tháng Thân ngày Ất Mùi, chiêm thóat dịch (tranh công sưu). Đặng quẻ Tốn biến ra Tiết.


Thế ở Sửu Thổ, Tư thủy tài động, sanh trợ Dần Mộc Quỷ. Dần Mộc quỷ động và khắc Thế. May đặng ra nhật thần Mùi Thổ, hào thứ 3 lại biến ra Tuất Thổ pḥ trợ hào Thế. Có thể chống lại với Dần Mộc quỷ, th́ quỷ không thể hại đến thân.
Dă hạc nói: lấy đó mà làm kiểu mẫu cho hậu nhân, là làm cho họ lầm lạc. Tại sao?
Một từng Mùi Thổ pḥ THế, há có thể chống lại ác sát là Dần quỷ thương hại đến thân chăng? Sao chẳng rơ: Dần Mộc Quỷ động bị Nguyệt kiến phá, bị ngày Mùi mô. Đó là Dần mộc quỷ đă phá, mà lại nhập mộ.
Tư thủy tương sanh, mà chẳng sanh thứ Mộc không căn. Huống Tí thủy lại hóa hồi đầu khắc. Thủy mộc đều khô, nên sau không có sự chi xảy ra hết.
Nói Tuất, Mùi hai Thổ trợ dở là sai lầm. Huống biến hào Tuất Thổ không ..........mà giúp đỡ hào......trong quẻ chánh được. Tôi có một lệ. Có thể coi ra mà so sánh.
Tháng Th́n, ngày Ất Mùi chiêm nguyệt tịnh. Được quẻ Thái ra Phong.


Thế hào Th́n Thổ, nhờ có Nguyệt kiến trợ. Sửu Thổ động, là hóa hồi dau sanh, lại đến pḥ trợ hào Thế. Tuy là Dần Mộc quỷ động, mà Thế hào vượng, có thể chống lại được.
Nhưng sau rồi tới ngày Tân Sửu, cũng c̣n thấy hung ...........
Ứng giải cứu là nhờ có Thổ trong ngày và tháng giúp đở.
Chủ tượng hưu tù, pha kiến h́nh xung khắc hại: Hào chủ sự bị hưu tù, rất sợ thấy h́nh, xung, khắc, hại.
Chủ tượng vượng tướng, c̣n khó chống nỗi với hào h́nh xung khắc hại, huống chi là bị hưu tù. Thiên trước có nói: "Khắc hại h́nh xung, thu sương sát thảo " là vậy.
Dụng hào biến động, kị tại Tử Mộ Tuyệt Không. Hào Dụng thần biến động kỵ gặp Từ Mộ Tuyệt Không.
Lời xưa chú: Từ Mộ Tuyệt Không là chỗ hăm sâu. Nếu dụng hào động, mà hoá Mộ, hoá Tuyệt, hoá Tử, hoá Không. Chẳng cần hỏi việc công tư, lớn nhỏ mọi việc đều là chẳng thành.
Chiêm bệnh mà gặp nó, th́ chắc phải chết, hết nghi.
Tôi thí nghiệm chắc như vậy: hoá Mộ, Tuyệt, nếu dụng hào vượng tướng, hoặc đồng với ngày tháng hoặc ngày tháng giúp sức th́ không đến nỗi đại bại.
Hóa Mộ: ngày tháng xung, khai nó. Th́ thành. Hóa Tuyệt, gặp ngày tháng sinh vượng nó, th́ xong. C̣n về thuyết hóa không, lại được nhiều chiêm nghiệm:
Chiêm mưu sự: tới ngày Thiệt Không th́ thành.
Chiêm bệnh mới đau: ngày nào ra khỏi không th́ mạnh.
Dụng hóa dụng, hữu dụng vô dụng: Dụng Thần hóa ra Dụng Thần, có thứ hữu dụng, có thứ vô dụng.
Lời xưa chú: Đă có Dụng hào th́ nó chẳng khá động rồi lại hóa xuất. Gọi là hóa khứ hoặc là bằng phát xuất, nếu không giúp nên việc, cho nên tuy hữu dụng, mà như là hào vô dụng, chẳng khác. Chiêm bệnh, lại càng kỵ
Dă hạc nói: cách luận này phi lư, Dụng hào hóa ra dụng hào, nếu hóa tiến thân th́ mọi việc chiêm đều kiết. Đó là làm cho cái hào kia động xuất, được giúp thêm sức. Th́ sao gọi là vô dụng?
Lại há không biết câu: "Thái quá giả tổn chi hư thành" và câu "Dụng hào trùng điệp, hỉ Mộ khổ dĩ thâu tàng" sao?. Như quả Dụng Thần thái quá, chờ tới ngày xung khắc Mộ khổ, th́ ngày đó thành ra yên ổn. Trở lại nói vô dụng là sai.
Điều này cũng nên bỏ ra.
Không hóa không, tuy không bất không. Phàm động hào gặp không, hoặc động hào biến không, đều chẳng phải là chân không.
Tôi có kinh nghiệm như vầy: chẳng những hào không hóa không, là chẳng phải không, mà động nó tức là chẳng phải không. Làm hoạ làm phước, tới ngày tháng xung không. Thiệt không, th́ sẽ thấy ứng.
Dưỡng chủ hồ nghi, mộ đá ám muội: Dưỡng chủ về sự hồ nghi, mộ thường nói về sự ám muội, Dưỡng và Mộ là hai ngôi ở trong thập nhị trường sanh.
Tôi chỉ dùng trường sanh, Vượng, Mộ, Tuyệt. Kỳ dư chẳng thấy ứng nghiệm. Nay nói về hóa xuất, th́ cũng chỉ thấy ứng nghiệm ở sanh Vượng, Mộ, Tuyệt.
Mộ: nghĩa là trở trệ. Hễ Dụng Thần mà hóa Mộ, bệnh mới đau, hoặc đau lâu gặp nó th́ đều chủ về hôn mê. Dụng Thần Vượng tới ngày xung khai Mộ khổ, th́ yên, Dụng Thần hưu tù, lại bị h́nh xung khắc hại, tuy có gặp không, bệnh mới đau th́ mạnh, bệnh lâu th́ hung.
Người đi kiếm bắt bớ gặp nó, th́ họ ẩn kín khó gặp mặt.
Chiêm thân mạng, gặp nó, th́ ngu nên khó phát.
Mất đồ, gặp nó th́ dấu kín khó biết.
Hôn nhân gặp nó, th́ đều là có dấu mờ ám, chẳng rơ ràng.
Nếu như hào động hóa Mộ, mà Mộ thần hóa hồi đầu khắc hào động, th́ đừng luận về ám muội, trở trệ, đó là điều hung, gọi là :"Kị hồi đầu khắc ngă" là vậy. Nếu Mộ là Quỷ hồi đầu khắc dụng, lại càng hung.
Hóa dương, hóa bệnh... đều là chẳng ứng nghiệm, bỏ hết ra ngoài.
Hóa sanh Vượng hề, hoạ phước hữu tam. Hào động hóa Sanh, Vượng th́ hoạ phước có ba.
Sanh là hào động hóa trường sanh. Như Hợi Thuỷ động hóa xuất Thân kim. Đă hóa trường sanh, lại nói: hóa hồi đầu sanh. C̣n hóa Dậu kim, không nói hóa Mộc dục, mà chỉ nói: hóa hồi đầu sanh. Đó là hai cái sanh, là hào động hữu khí và hào hóa vượng tướng. Chiêm mọi việc đều thấy cát.
Vượng là ngôi thứ 5 của trường sanh. Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa đều hóa Vượng, tức hóa tiến thần... chiêm mọi việc đều cát.
Duy Thổ gá ở ngôi trung, Vượng ở Tí thuỷ là Tấn thần. Th́n Tuất Mùi Thổ động mà hóa ra hào Tư, là hóa Vượng. Sửu Thổ hóa xuất hào Tư, đă là hóa Vượng là hóa hạp. Mọi việc chiêm đều kiết.
Hóa quan quí hề, kiết trung hữu nhị: Nghĩa là: hào động hóa quang quư, th́ kiết hung có hại.
Chiêm công danh, hào thế vượng tướng, hoặc đồng với ngày tháng, hoặc ngày tháng sanh pḥ, động mà biến ra quan tinh, lại không phá tồn. Đó là triệu chứng được làm quan.
Nếu hào thế hưu tù, thọ khắc, động mà biến ra quan tinh, ấy là biến ra quư. Chẳng những khó bề vương gia thực lộc, tua pḥng thấy mộng huỳnh lương trong giấc ngủ mê.
Như tháng Tuất, ngày Giáp Dần, chiêm coi chừng hào được tuyển dụng. Được quẻ Ích Biến Kiển.

Hào Thê bị nguyệt phá, bị ngày dần thương khắc. Lại hào thứ 6 là Mẹo mộc, động khắc nó. Có khắc mà không sanh, hào Thế biến ra quan tinh, đó là biến Quỷ.
Quả năm sau tháng Dần, chưa có khuyết, rốt cuộc dường như thần dạy: số mạng đương lúc phải nguy, đừng mong tới công danh vô ích.
Lại như tháng Tị, ngày Nhâm Thân, chiêm khai tiệm buôn bán được quẻ không biến bác.


Đoán rằng:chiêm sanh ư th́ coi hào tài. Trong quẻ này, tài trung nguyệt phá. Tuy là tử động sanh tài mà sanh không nỗi.
Huống Thế và Tử tôn đồng biến quỷ, chẳng những khó mông mân ân, mùa Thu này, v́ con cái mà sẽ sanh chuyện đến quan.
Qua tới tháng 8, người con chơi cờ bạc bị bắt đến quan, bị trượng h́nh mà chết, đó là ứng Dậu kim tử tôn biến quỷ.
Kị hồi đầu, chi khắc ngă: Kị động biến hồi đầu khắc ḿnh.
Hào động mà hóa khắc, là như hào kim động biến hỏa khắc kim. Hào mộc động biến kim khắc mộc. Kỳ dư cứ đó mà suy.
Giác Tử nói: Tôi có ghi chiêm nghiệm: phàm thấy hồi đầu khắc chiêm bệnh, chiêm thọ, chiêm niên vận, gặp nó th́ 10 phần hết 9 phần chết. Cũng có chiêm danh lợi, gia đ́nh việc nhỏ mà được nó cũng là nguy vong. Tại sao?
Người đó đại hạn đă tới nơi rồi, mà ḿnh chưa biết, c̣n đi cầu danh lợi. Dường như thần cho biết rằng: số người đă gần hết. Có khỏi sa vào lưới trời. Dầu không tránh được cũng giữ được chánh .......(chết ở giữa nhà). Tôi nghi cho thần dạy là có ư vậy.
Vật phản đức, dỉ pḥ nhân: chớ có đem sức sanh hạ mà pḥ người ngoài (tức là những hào khắc hơn là hào Thổ, Thân).
.................
Ác diệu cô hàn, phụ Nhật Thần chi tính khởi: nếu kị thần (tức là ác diệu) không sanh pḥ cung hạn (cô), suy nhược vô khí (hàn), sợ có Nhật thần ổi lên giúp nó.
Hào nào h́nh xung khắc hại. Tức là ác diệu, chớ không phải các vị tinh tú gọi là hung sát.
Phàm gặp hào này động, mà xung khắc dụng thần, nếu v́ sao đó cô lập vô trợ, hoặc hưu tù vô lực, tuy là không hại dụng thần, mà dụng thần Vượng tướng có thể địch nổi, tức nhiên vô hại. Dầu gặp hoạ cũng nhỏ, duy sợ Nhật thần, động hào trợ nó làm hại, cũng như cáo mượn oai hùm làm dữ, th́ hoạ chẳng phải nhỏ.
Trong chương Nguyệt tướng, Nhật thần phía trước, có nói: rất sợ hào khắc thêm khắc chế, là động một ư này.
Dụng hào trùng điệp, hỉ nộ Khố thâu tàng: Dụng hào có nhiều chỗ trùng nhau. H́nh gặp Mộ khổ để thâu bớt.
Lời xưa chú: dụng hào có nhiều chỗ trùng nhau, nếu không có Nhật thần động hào tổn bớt nó, th́ cầm được mộ khổ thâu bớt lực lượng, rồi sau mới nên việc.
Xưa có để lại chiêm nghiệm sau này: ngày Đinh Sửu, chiêm tài được quẻ Ích Biến Tuỵ:
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
Thai Hien
Học Viên Lớp Dịch Trung Cấp
Học Viên Lớp Dịch Trung Cấp


Đă tham gia: 10 November 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 182
Msg 4 of 10: Đă gửi: 05 June 2005 lúc 5:56am | Đă lưu IP Trích dẫn Thai Hien




ThaiHien xin cám ơn Bác Thiện Nhân


Chúc Bác vui khoẻ

TH

Quay trở về đầu Xem Thai Hien's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Thai Hien lần thăm Thai Hien's Homepage
 
UT NHO.
Trợ Giáo
Trợ Giáo
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 February 2004
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 621
Msg 5 of 10: Đă gửi: 05 June 2005 lúc 11:07am | Đă lưu IP Trích dẫn UT NHO.



UN cũng xin được cảm ơn bác Thiennhan.


Kính chúc Bác luôn sức khoẻ.

UN
Quay trở về đầu Xem UT NHO.'s Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi UT NHO.
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 6 of 10: Đă gửi: 06 June 2005 lúc 5:02am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Họ đoán rằng: quẻ có 2 tài: hào đầu và hào trên lại hóa ra 2 tài. Nhật thần cũng là tài. Đó là thái quá. Nay được chữ Thần ở Thế hào. Là tài khổ, gọi là "tài hỉ thế dử thâu tàng" sau sẽ được tài.
Tôi c ho lời bàn đó rất là đúng lư, nhiều phen thử, đều thấy ứng nghiệm. Nhưng chẳng cần phải trong quẻ có khố, hay là không có khố. Sau hồi gặp ngày tháng khố, cũng là nên việc
Như tháng Ngọ, ngày Mậu Ngọ, chiêm coi ngày nào mưa, được quẻ Địa Phong Thần biến H......






Một người bạn cầm quẻ này mà hỏi tôi rằng: ngày nay chiêm mưa, hào phụ mẫu không động, là hào Sửu thế tài lại hóa ra Mẹo hỏa hồi đầu sanh. Vậy là năm đại hạn.
Tôi nói: ngày Nhâm Tuất sẽ mưa,
Bạn nói: phụ trúng nguyệt kiến, th́ mưa dầm luôn mấy tuần.
Nay tử tôn trúng, nguyệt kiến, th́ cũng vậy hay sao? Làm sao mưa được ?
Tôi nói: hóa tử tôn trúng ngày tháng, th́ cương hết sức, đó là dụng hào trùng điệp, gặp Mộ Khổ th́ thâu tàng. Cho nên biết ngày Mậu Tuất sẽ mưa.
Quả tới ngày Tuất, giờ Thân th́ mưa.
Sự trở cách hề, gián phát. Sự bị trở cách, là phát hào ở giữa thế ứng.
Lời chú xưa: hai hào ở giữa khoảng thế ứng, gọi là gián hào. Hễ nó động th́ công việc hay bị trở cách, gọi là "lưỡng hào tại Thế Ứng, chi trung động, trở lưỡng giả chi sự", khiến cho hai đàng chẳng tương thông.
Lại nói: Thế Ứng trung gian lưỡng hào phát động, sở cầu đa trở cách.
Giác tử nói: lấy hai hào đó là, gián hào mà thí nghiệm, th́ quả thấy ứng nghiệm. Nhưng phải coi chiêm về việc chi? như phải việc dính líu hai nhà, th́ mới nên dùng.
Hôn nhân cho nó là mai chước.
Kiện thưa cho nó trung chứng.
Mua bán cho nó là nha hàng (cơ quan giới thiệu về việc mua bán).
Vay mượn cho nó là trung bảo (người bảo lănh)
Ghe thuyền cho nó là phụ tai.
Giao du cho nó là bang gian.
Thai sản cho nó là thâu sanh, bảo mẫu (bà mụ và vú nuôi).
Tâm thối hối hề, Thế không: Hể ḷng người thối hối, giăi đăi, đó là Thế bị Tuần không.
Lời xưa chú: tự chiêm ḿnh th́ thế là chủ tượng. Nếu không có ngày tháng, hào động tương khắc, thế hào vô cố tự không, th́ tầt nhiên tâm ư giăi đại, không thể đi tới được.

Dă Hạc nói: luận như vậy là phải. Trước nói: vô cố tự không, như vào vực sâu hang thẳm, mọi việc chiêm đều đại hung, th́ không đúng.
Dịch lâm bổ di có nói:Thế ứng đều không, cho nên không đi tới được, thối hối chủ tâm, hai bên đều động, sau tới ngày sẽ phát trương. Cho nên chẳng những Thế Không, ứng hào cũng chẳng nên gặp Không.
Nói rằng: “Thế Ứng Không, việc không chắc chắn”. nếu động mà Không, th́ chẳng phải luận như thế được.
Qui hỗ phát động, tu khn giao trng:
Hổ trong quẻ, có hào phát động, th́ phải coi chừng giao trng.
Lời xưa chú: giao động chủ về việc sẽ tới, trùng động chủ về việc qua rồi. Tôi có thí nghiệm nhiều lần, cũng có khi thấy ứng nghiệm.
Đại phần hào tượng có nhất định mà không đổi dời, nói có thể lầy làm kiểu mẫu. Nếu khi có, khi không, đó là thờ ơ mà gặp, không nên câu chấp.
Động biến Tỉ ḥa, đương minh tấn thối. Nghĩa là mà biến tị ḥa phải phân biệt chỗ tấn thối.
Trong chương tiến thần có nói rơ rồi.
Sát sanh thân mạc tương kiết đóan, Dụng khắc Thế, vật tác hung khan. Cái sanh trung hữu h́nh hại chi lương pḥng, hạp xứ hưu biệt thương chi nhất lự. Nghĩa là: Hào sát (Kỵ thần khắc Dụng thần) sanh hạp với thân (tự chiêm tức là Thế hào), chớ đóan theo lẽ kiết. Hai mặt phải pḥng là h́nh, hại. Trong chỗ hạp, e c̣n một ḷng lo chỗ khác, thương khác.
Sát sanh Thế là ngày, tháng, hào động làm kỵ thần mà sanh Thế chẳng phải là hung sát. Mà sao chẳng đóan theo lễ kiết.
Đây nói kỵ thần đa vượng, dụng thần suy rồi, Thế dầu có gặp sanh có ích chi đâu?
Như tháng Tuất ngày Bính Tư, chiêm coi cha nhậm ở Vân Nam, chừng nào mới được tin. Đặng quẻ Địa Trạch Lâm.






Chiêm về tin tức, th́ lấy hào châu tước, hóa Phụ mẫu làm Dụng Thần, Nhật Thần Tư thủy khắc Tỵ Hỏa, tức là Kỵ Thần. Tháng Tuất là mộ của Tỵ hỏa cũng là kỵ thần.
Vậy th́ tỵ hỏa này bị nguyệt mộ, nhật khắc, là bặt dạng âm tín.
C̣n Thế hào Mẹo Mộc, tuy có ngày sanh tháng hạp, mà ích ǵ cho việc đương cầu. Sát sanh thần chớ đoán theo lễ kiết, là vậy đó.
Sau que, không có thơ từ, bốn năm sau mới biết cha bị hại.
Dụng khắc Thế, vật tác hung khan, là nói Dụng thần lại khắc Thế ta, th́ việc đó sẽ thành. Ta tuy bị khắc mà không thương hại ǵ hết. Cho nên nói: Khắc thế dă bất di vi hung.
Giác Tử nói: cách luận này không phải toàn trúng theo chỗ tôi đặng thấy ứng nghiệm. Như chiêm cầu Tài, tài làm Dụng thần, hào tài khắc Thế chắc sẽ đặng. Chiêm hành nhân dụng thần khắc Thế th́ hành nhân tới. Chiêm y được tử tôn làm dụng thần, tử tôn khắc Thế th́ mạnh.
Ngoài ra mấy việc chiêm đó đều chẳng nên Dụng thần Khắc Thế. Nếu chiêm công danh Quan quỉ khắc thế, chẳng có tai th́ có hoạ, há có thể nói: vật tác hung khan.
Như tháng Sửu, ngày Canh Tư, chiêm quan sai có đặng chăng! Được Thái biến Minh Di.






Chiêm quan sai, lấy hào Quan quí làm Dụng thần. Trong quẻ này, Th́nThổ tŕ Thế. Dần mộc Quan quí khắc Thế.
Đoán rằng: Thế hào Không, tức là ngày Nhâm Dần đặng sai.
Năm kế, tháng 3, chết ở trung đồ, há có thể nói: “Dụng khắc Thế, Vật tác hành khan” chăng?
H́nh hại chẳng nên phạm đến Dụng. Dụng thần, Thế hào chẳng nên tương h́nh với Nhựt thần.
Hào chủ sự với ngày tháng, hào động gặp nhau thành tam h́nh, th́ chiêm việc không thành, chiêm vật không tốt, chiêm bệnh phải chết, chiêm nhân có ưu hoạn, chiêm phụ nhân chẳng tinh khiết, chiêm văn thơ có rách hư, chiêm tụng có tội trách.
Động mà hóa h́nh cũng vậy.
Tử tuyệt khởi khă tŕ Thế. Hào Tử tuyệt ở Nhật thần, có thế hào đồng với Thế, Thân, Dụng thần.
Dụng hào, Thế hào Tuyệt ở Nhật thần, hoặc là hóa Tuyệt, th́ theo lời chú xưa, mọi việc bất lợi.
Tôi cho là hưu tù, bị khắc mà con Tuyệt nữa, mới là vậy. Vượng tướng không hại.
Động phùng xung nhi sự tán. Động gặp xung th́ sự phải Tán.
Tuyệt phùng sanh, th́ sự thành. Tuyệt gặp sanh th́ việc sẽ thành.
Đại phàm, Thế và Dụng thần gặp Tuyệt trở ngày, hoặc hóa Tuyệt nếu có ngày tháng, hào động sanh nó, th́ gọi là “Tuyệt xứ phùng sanh”.
Tỉ như ngày Dần, chiêm quẻ, Dậu làm Dụng thần. Dậu tuyệt ở Dần. Nếu nhằm tháng Th́n Tuất Sửu Mùi, hoặc có hào Th́n Tuất Mùi động, có thể sanh Dậu kim, đều gọi là Tuyệt xứ phùng sanh.
Kỳ dư cứ đó mà suy.
Như phùng hạp trụ. Tu xung phá dỉ thành công. Nếu gặp hạp trụ, phải có xung phá mới nên việc.
Nhược ngộ hưu tù, tất Vượng tướng nhi thành sự. Nếu gặp hưu tù, cần có Vượng tướng mới thành công.
Tốc tắc động nhi khắc Thế, hưỡn tắc nhi sanh thân. Gấp th́ động mà khắc Thế, c̣n hưỡn th́ tịnh mà sanh thân. ( Đây cũng là phép đoán Nhật thần).
Điều này chỉ nói về hành nhân mới dùng. C̣n chiêm việc khác th́ không dùng.
Y nói: Dụng thần động mà khắc Thế th́ hành nhân về rất lẹ. Động mà sanh Thế th́ h́nh nhân về chậm hơn. Dụng thần tịnh mà sanh Thế th́ hành nhân về chậm lắm.
Tỉ như chiêm cha mẹ chừng nào về, nếu phụ mẫu động mà khắc Thế, th́ hứa sẽ về mau.
Kỳ dư, cứ đó mà suy.
Phụ vong nhi sự vô đầu tự, phứơc ẩn nhi sự bất xứng t́nh. Phụ mất (không có hào Phụ, chủ về việc công), th́ việc không có mối mang, Phước ẩn (không có hào tử, chủ về việc tư) th́ việc không thể vừa ư.
Người xưa nói: “Quái vô phụ mẫu, sự vô đầu. Quái vô tử tôn, bất hỉ duyệt”. Tôi cho luận như vậy là dông dài quá.
Phàm chiêm sự, Dụng thần, Nguyên thần, Kị thần, Cừu thần, khắc h ại h́nh xung phá mộ không tuyệt nhựt nguyệt phi phục mấy cớ sự đó c̣n chưa định luận có lẽ nào lại dám đi t́m cái hào không dùng chăng? Tôi sợ chồi nhánh mọc ra nhiều, trở lại làm mất hết mối mang.
Quỷ tuy hoạ tai, phục du vô khí. Quỷ tuy làm hoạ tai, mà núp th́ vô khí. (Tuy quỷ là thần làm họ tai, mà trong quẻ phải có nó, nhưng quỷ phải an tịnh chẳng nên phục tàng).
Trong thiên huyền phú, không có quỷ luận. Tuy là có lư. Mà thiệt cũng dông dài.
Tôi b́nh sinh, chiêm quan quỷ, chiêm bệnh tật, cái nào nên dùng th́ dùng, không nên dùng th́ chẳng dùng.
Tử tuy phước đức đa phản vô công. Tử tôn tuy ban phước, mà nhiều khi trái lại thấy vô ích.
Giác tử nói: lấy nó làm kỵ thần, th́ thiệt là không nên. Lấy nó làm dụng thần, nhiều th́ có hại ǵ? Há không nghe câu: :”Tốn chi tư thành, pàhm mộ Khố dỉ thân bằng” sao?
(Bỏ mấy câu: Cứu phụ mẫu, suay vi thể thống, luận quan quỷ đoán tác hoạ ương. Thài năi lộc thần. Tử vi phước đức. Huynh đệ giao trùng, tất chí mưu vi đa trở trệ. Quái thân trùng điệp, tu tŕ sự thể lưỡng giao quan).
Hổ hứng phi n gộ kiết htần bất hại kỳ vi kiết. Long động phi phùng hung diệu nan yểm kỳ vi hung. Hổ dấy lên mà gặp cát thần, th́ cát vẫn có cát. Long phát động mà gặp hung sát t h́ hung cũng là hung.
Nói như vậy là trúng lư.
Huyền vũ vi đạo tặc chi sự, diệc tấc quan hào. Châu tước vi khẩu thiệt chi thần, tất tu huynh đệ. Huyền vũ thuộc về nạp tặc. Cần phải có hào quan. Châu tước thuộc về việc khẩu thiệt, cần phải có hào huynh đệ.
Cách luận như vậy là khiếm lư. Huyền vũ, châu tước, câu trân, màng xà động mà chẳng khắc Thế th́ vô ngại. Động mà khắc Thế, th́ đều cho là hung. Chớ không phải phản tại huynh đệ, quan quỷ.
Cát hung thần sát chi đa đoan, hà như sanh khắc chế hóa chi nhứt lư. Theo thần sát mà cát mà luận cát hung đa đoan, sao bằng do một lư sanh khắc chế hóa.
Đó là lời chí ngôn. Kẻ học giả khá nềm mùi lai của nó.
Trừ ác vi tận, tử khôi tu pḥng phục viên. Trừ ác chưa hết, tro tàn phải pḥng có ngày phát lửa.
Những thần khắc hại lại h́nh xung, nếu đặng ngày tháng động hào khắc chế phải diệt cho tới rễ. Nếu diệt không hết, về sau gặp năm tháng sanh pḥ sẽ trở lại làm hoạ.
Như tháng Mẹo, ngày Giáp thân, chiêm bịnh. Đặng quẻ Địa Sơn Khiêm biến Thuỷ Sơn Kiển.






Đoán rằng: Hợi thuỷ tử tông tương sanh ở ngày thân, Thế nhờ có nhựt kiến sanh, tuy hóa Tuất thổ hồi đầu khắc, gặp xuân lịnh thổ suy tháng Mẹo khắc chế, có sát cũng vô hại.
Quả đến ngày Đinh hợi, thiệt mạnh.
Nào dè Mẹo mộc tuy khắc Tuất Thổ, mà có chái ư tương hợp. Hợi thuỷ tuy được trường sanh, tuất thổ cùng đặng Trường Sanh ở thân. Sau tới tháng Tỵ Hợi, gặp nguyệt Phá Tỵ hóa sanh trợ Tuất Thổ.
Lời ngạn ngữ có nói: Trảm thảo bất trừ căn, manh nha y cựu sanh. Người bịnh đau trở lại mà chết.
Thương hại bất trùng, khô mộc du hưu phùng xuân, nghĩa là: thương khắc chẳng nhiều cây khô c̣n có thuở gặp mùa xuân.
Thế và Dụng thần hữu khí, nếu bị ngày khắc gặp sanh th́ sẽ phát.
Thủy Mộc tu nghi tầm căn. Nghĩa là: nước hay là cây, cần phải t́m biết cái nguồn gốc.
Phàm chiêm thân mạng, gia trạch công danh, phần mộ buôn bán, các việc ....muốn cho được lâu dài, Dụng thần tuy là trọng, mà phải co luôn tới nguyên thần.
Dụng thần là cái thế của mọi việc, ngươn thần mới là gốc sanh. Dụng thần tuy vượng, nếu bị thương khắc, tức là như nước không có nguồn cây không có rễ.
Về kim hỏa thổ th́ cứ theo đó mà suy.
Như tháng Ngọ, ngày Canh Dần, chiêm bắt thăm đặng bổ đi xứ nào. Được quẻ Đại Súc biến Trung Phu.

================================
Tôi nhờ typing, chưa có thời gian xem lại
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 7 of 10: Đă gửi: 06 June 2005 lúc 5:04am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Đoán rằng Thế Dần mộc quan tinh, chắc sẽ bổ về Đông, chẳng phải Quảng Đông th́ là Sơn Đông. Hiềm v́ Tư Thuỷ Nguyệt Phá, động hóa Tuyệt e chẳng đi tới chỗ nhậm.
Khách hỏi tại sao?
Tôi đáp: tài là nguồn dương mạng, lại là lộc của triều đ́nh. Nay tài lâm Tuyệt địaa, đó là vô tài vô lộc rồi. Thế Dần mộc không có thuỷ tư nhuần sanh sản, đó là điềm hung.
Khách nói: Để ngày khác, ḷng khiết thành sẽ chiêm lại.
Ngày Giáp Ngọ được quẻ Lâm Biến Tiết.


Tôi nói quẻ này với quẻ trước, tuy khác nhau mà lư vẫn đồng một. Cũng là Hợi Thuỷ Tài bị hồi đầu khắc. Chẳng những khó đi tới chỗ nhậm lại pḥng mùa thu có tai nguy.
Sau tới tháng 7, trước bị bệnh tả, uống thuốc vừa hơi mạnh. Kế uống thuốc bổ nhiều quá, mỗi lần uống theo thuốc tới 1 lượng sâm, mà tưởng là uống nước. Thầy thuốc và người nhà không cho tới một nhiễu nước. Người bịnh hết sức khát và đau ran trong ngực, rốt cuộc bị khát chết.
Trong quẻ không nước ứng nghiệm đến thế là cùng.
Như tháng Tuất,ngày Kỷ Tỵ tôi chiêm Nam hành, được Đại hữu biến Đại Tráng.


Tôi cho ứng hào quan tinh sanh Thế, là bực quan quỷ tương sanh, tuy là đáng mừng, mà Tỵ hóa mộ ở tháng Tuất và lại hóa Mộ.
Vậy th́ cái hào quan sanh ta đă nhập mộ rồi, làm sao mà sanh ta được huống chi đó là quẻ lục xung, tôi nghi chẳng đặng kiết.
Tới tháng Hợi ngày Giáp th́n, lại chiêm nữa. Được Đại hữu biến Đại Súc


Tôi nghi là đặng quẻ này nữa, tuy Tỵ hỏa sinh Thế, mà bị nguyệt phá đă phá th́ không sanh ta được, có đi ích ǵ.
Huống gián hào Dậu Kim huynh động. Đó là thần trở cách hao tài. V́ nghi nên không đi.
Đến ngày Giáp Dần lại chiêm nữa. Được Đại Hữu biến Đại tráng.


Chiêm đặng quẻ này luôn 3 lần, tôi mới hiểu: việc đi đó tới sang năm, tháng 3, 4, sẽ đặng như tâm nguyện.
Tự Hỏa quan động mà sanh Thế. Hiện giờ tuy bị Phá suy, nhập mộ sang năm tháng 3 xung khai, tuất mộ. Tỵ hỏa tới tháng Tỵ, đắc lịnh đương thời, chẳng c̣n bị Phá, bị không, được Vượng tướng mà sanh Thế.
Tới ngày Tỵ khởi tŕnh. Đi tới nửa đường gặp 1 người quen trước, mẹ vừa qua đời, lại bị hỏa tai, trong ḷng muốn đi chung với tôi, ngặt thiếu tiền phi lộ. Tôi mới hiểu quẻ thứ 2, Đại hữu biến Đại súc, hào động Dậu Kim huynh là chỉ người phụ tải động hành. Số trời đă định, tôi bằng ḷng đi chung.
Đi đâu được vài ngày, lại gặp 1 người tri kỷ nói ở chỗ kia có một bộ Kỳ môn, chữ sao, biểu tôi cùng đi mua bộ sách ấy.
Chúng tôi cùng đi được 2 ngầy. Tôi bói quẻ, lại Đại hữu biến Đại tráng nữa.
Tôi nói với bạn rằng: tôi được quẻ này là lần thứ tư, chẳng phải thiệt kêu mua sách, ấy là bạn muốn thúc cho tôi đi.
Sau tới nơi địa đầu mất 2 tháng trời.
Một ngày kia ở trong Phủ tướng quân, tướng quân hỏi : ở Giang Nam công danh của Phủ quân tương lai ra sao?
Lúc trước nhằm năm Dậu, chiêm được cấu biến Quan, hứa sau này đi nhậm (không c̣n ở chỗ nhậm đó nữa). Lại hứa năm nay, tháng 3, 4, sẽ đặng phục Nguyên Phẩm, mà làm việc lại như xưa.
Liền khi ấy có 1 người lại chiêm.
Tháng Mẹo, ngày Dậu Tuất, chiêm coi hiện giờ đường công danh có thăng chức không. Được Ly biến Chấn.


Ly biến Chấn, Lục xung biến xung Thế hóa Mộ, nhập Mộ. Hợi thuỷ quan tinh bị hồi đầu khắc. Đó là điềm đại hung.
Chớ mong thăng chức, đổi chỗ, phải pḥng h́nh ngục.
Tướng quân nói: nó là cháu tôi: Hồi 29 tuổi, nó ở kinh đô có đến thầy coi quẻ, hứa rằng: 49 tuổi gặp nguy hiểm, nay 49 tuổi rồi. Vậy chớ hiểm là hiểm chỗ nào?
Tôi nói: quẻ trước và quẻ sau đă chiêm ứng với nhau. Hiện thời mọi việc ǵ nên cẩn thận.
Một ngày kia, ở trong dinh thự của phan tư ( tức là bố chánh tư). Ngày Phan đài nói với tôi rằng: đây là bổn phủ phủ tôn (quan phủ ở đây), v́ có việc phạt lầm, đài (quan tự xưng) có xin phục chức, anh coi ra thế nào?
Tháng Mẹo, ngày Canh tư, chiêm được quẻ Tiệm.


Đoán rằng: tử tôn tŕ thế, quan ở hào ứng, lộc ngôi đă về tay người khác rồi, rất khó bề phục chức.
Phan đài nói: kêu anh tới báo tin lành, mà sao lại nói như thế?
Tôi nói: có tin lành mới nói được. Trong quẻ này không thấy có tin lành, mới làm sao báo được.
Phủ tôn nói: ngày nay không được thành tâm. Sáng mai, thỉng tới tệ tự thự thành ư bói giùm.
Tháng Mẹo, ngày Tân Sửu, lại chiêm. Được quẻ Hỏa Địa Tấn.
Tôi nói: cái quẻ ngày nay động với quẻ hôm qua. Thế hào phá mà nhập Mộ. Quan tinh hiện hai chỗ, đều không.
Họ chẳng vừa ḷng.
Tôi nói: Hăy chiêm lại một quẻ nữa vô hại.
Lại được quẻ Hằng, biến ra Đại quá.


Tôi nói: cung Lữ. Ơ chỗ này tuy chức vụ đă mất. Mau mau viện lệ xin tái phận ở phương tây.
Khách hỏi: làm sao mà biết được?
Tôi đáp: tŕ thế quan tinh Phá và Nhập Mộ, cho nên biết cái mất là thiệt mất.nay có hào thứ 5, quan hóa tiến thần, đó là chỉ quan tái nhiệm.
Tôi ở chỗ đó 2 tháng, chiêm thêm một ít quẻ mà chưa thấy ứng nghiệm. Đến tháng 3, cháu của tướng quân, v́ năm xưa ra trận mà không lướt xông tới, có người chạy vây bắt hỏi.
Lại thấy trong quan báo, phủa quan ở Giang Nam quả được bổ dụng lại với chức cũ, mà bổn phủ phủ tôn truyền lệnh không cho phục chức. Sau viện lệ, quả tới năm Tị, được bổ ở Thiểm Tây.
Tôi ở xứ đó 5 tháng mà không có ngày nào yên, mới hiểu cái quẻ Hỏa thiên Đại Hữu trước chiêm được luôn luôn tới 4 lần, đều là Tị hỏa quan sanh Thế hào. Ưng tháng Tị quan quỷ là bởi tương sanh.
Phải biết thần linh báo cáo ngày tháng cát hung. Chẳng khá bàn một kiểu hoài, như vẽ phù t heo kiểu nhất định. Đó là toàn ở nơi người thông biến mới trúng.
Đại tượng hối nhân, tất dỉ quy củ. Bốc gia quyết đoán, toàn tại linh cơ. Tạo hóa dạy người phải có quy củ. Con người chiêm quẻ quyết đoán, trọn nhờ ở nơi linh tâm thông biến.
Cổ thanh tiên h iền dạy người chiêm quẻ, trước dạy người biết động tịnh, suy, vượng, sanh pḥ, cũng hạp, h́nh xung, khắc hại, phá hội, tuyệt không, các thư quan tiết đó chẳng khó không để ư.
Phải đọc nằm ḷng các sách, rồi gặp cảnh th́ rơ thông, tuỳ cơ ứng biến...
Phệ tất thanh tâm, Tư nhật bất kỵ. Bói th́ phải thành tâm, đầu ngày tư cũng không kỵ.
Chiêm vật nhị niệm. Tăo văn hà phương. Khi bói th́ trong ḷng chớ tưởng hai việc, c̣n sớm hay tối, không hại chi. Một niệm được thành, có thể động trời đất. Một quả đố cúng đủ dâng quỉ thần.
Trước, có người chiêm cầu tài, sau chiêm bệnh của cha vợ (tượng nhân).
Tháng Th́n. Ngày At Sửu, chiêm được quẻ Tuỳ ra.....


Lại chiêm bệnh cho cha vợ, được quẻ Thuỷ Sơn Kiến.


Nếu theo lời đăo cáo của người mà đoán, th́ trước chiêm cầu tài, trong quẻ đây là tài tinh, sẽ được tài. Sau chiêm cho cha vợ đau, phụ mẫu đồng với ngày tháng, th́ không chết.
Nào dè, 2 việc đều do một người niệm tưởng mà ra. Thần lấy quẻ trước ứng việc bệnh của cha vợ. Tài động khắc phụ. Cha vợ bệnh nhằm ngày Th́n. Ưng ngày Th́n, là tài hào thuộc thổ. Th́n là Mộ của thổ.
Quẻ sau ứng việc cầu tài. Huynh hào tŕ Thế, nên không được tài.
Nếu chẳng để ư, lấy quẻ trước mà đoán cầu tài, lấy quẻ sau mà đoán cầu bệnh cho cha vợ, th́ sẽ làm cho người ta tức cười. Cho nên tôi nói: một niệm chỉ chiêm một việc, dầu chiêm ban mai hay là ban chiều, cũng là vô hại. Trong ḷng 2, 3 việc , dầu nửa đêm cầu thần cũng là có chỗ sai.
Ngă sự bất khả mạng nhân. Chuyện của ḿnh th́ đừng có mượn người ta chiêm.
Ta có tâm sự, chẳng khá biểu người khác đi chiêm thế cho ḿnh. Ta có một niệm tượng, họ có một niệm tượng, đó là hai niệm rồi.
Khi trước có quan phủ đương nghiệm, sai gia nhân chiêm thế, vô việc pḥng sự thiệt hại.
Tháng Mẹo, ngày Mậu tuất, chiêm coi chủ nhân hiện giờ có tai hối chăng? Được quẻ Tỉ biến hàm.


Theo quẻ này, nếu lấy theo niệm tưởng của chủ nhân chiêm pḥng hại mà đoán, th́ rất mừng được tử tôn khắc thế, khắc trừ quỷ ở bên ḿnh, không chỗ mà ẩn, c̣n kể là gia nhân chiêm cho chủ nhà, phải lấy phụ mẫu làm Dụng thần và dùng luôn hào quan. Mộ ở ngày tuất, Mẹo quan tuy đồng với nguyệt kiến, khó chống nỗi với kim trùng điệp, hiện giờ tuy khắc mà vô hại. Mùa Thu đến, sao khỏi nguy hiểm được.
Nào dè cái quỷ này là ứng với niệm tượng của quan phủ. Thế hào là Dụng thần, Tử tôn khắc Thế để giải ưu hoạn.
Tới ngày Thân, nghe tin có người đến Thượng tư đầu cáo, nhờ người khuyên can, mà tụng sự bất thành. Nếu kể cho gia nhân chiêm cho chủ nhà mà đoán, th́ xa như trời vực.
Nhưng không nên chấp quẻ này mà làm kiểu mẫu, mà có khi lại không ứng cho niệm tượng chủ nhà, mà ứng cho niệm tượng quả gia nhân. Cho nên nói: việc ḿnh th́ phải tự ḿnh chiêm, mượn người ta chiêm giùm, khó t́m Dụng thần, chắc không ứng nghiệm.
Ngă cụ thành tâm. Đắc dục vấn thần, nhượng tha tiên chiếm, khủng thần bất hứa.ta đủ thành tâm, sẵn muốn hỏi thần. Nếu ta nhượng cho họ chiêm trước, th́ e thần chẳng cho họ.
Ta đủ thành tâm, đă sớm cữ niệm. Nếu ta nhượng cho họ chiêm, thần chắc ứng cho ta.
Như tháng Th́n, ngày Quư Mùi, tôi muốn chiêm công danh, nhưng trước, tôi phải thay mặt cho tôn trưởng, chiêm coi con đau (tử bệnh), được quẻ Cấu biến Hoán.
Cấu biến Hoán: người này chiêm công danh được quẻ Lư:


Nếu lấy quẻ trước mà đoán con bệnh,th́ con phải chết. Tại sao?
Hào Hợi thủ Tử tôn bị ngày, tháng thương khắc. Thế hào là Sử Phụ ám mộng. Lại thương khắc Tử tôn. Nguyên thần Dậu Kim lại bị Ngọ Hỏa khắc hoại, gọi là kỵ thần. Theo quẻ này, nguyên thần suy nhược. Thế th́ phải chết.
Nào dè, người chiêm khởi niệm công danh trước, nên quẻ trước ứng công danh, Ngọ hỏa quan động mà sanh Thế. Th́ động quan hưng, tháng năm cao thăng.
Quẻ sau ứng cha chiêm con bệnh. Thân Kim tử tôn, nhờ có ngày tháng sanh, th́ ngày kế sẽ mạnh.
Tha sự do tha động niệm, thân vật đề tha. Việc của họ th́ để họ động kiện ra, đừng có bảo người ta chiêm. Tâm sự của người chưa động niệm muốn chi, ta nhắc nhở họ, nếu họ chiêm, đó là niệm tưởng của ta.
Một khi có cha kêu con lại chiêm công danh.
Tháng Ngọ, ngày Tân Dậu, chiêm công danh. Được quẻ Tuỳ biến Độn.


Đứa con này có 16 tuổi. Người cha kêu nó lại chiêm quẻ coi sau này có công danh không ?
Nếu lấy Tị hỏa quan tinh tŕ Thế, hạ hỏa đương lịnh. Mùi thổ phụ hào là văn chương, phụ hóa tiến thần, công danh có nhiều hy vọng. Nào dè, cha kêu con chiêm, đó là niệm tưởng của cha. Quẻ này là quẻ cha chiêm cho con.
Phụ động khắc tử, huynh động thương thê. Đứa con này năm Mùi sẽ chết. Tử bị Mùi thổ phụ động, gặp năm Mùi cũng khắc tử nữa. Ưng tháng 7 thương Thê là Mẹo Mộc Tài hào Tuyệt ở Thân.
Tôi nay cũng thường kêu người chiêm, có một phép riêng là trước ngó người ấy mà rằng : “Anh có việc chi th́ chiêm một quẻ?”.
Hiện giờ tôi mới khởi niệm, anh khoan chiêm đă. Hăy đợi một chút cho quên hết đi. Anh đừng nghĩ đến việc đó nữa, chỉ khởi niệm về việc ḿnh chiêm mà thôi.
Làm vậy th́ thấy ứng nghiệm luôn.
Ngă chiêm tất dĩ trực các, thiết mạc muội kỷ. Ta chiêm quẻ th́ phải n ói ngay việc ḿnh muốn hỏi, chẳng nên dấu diếm, khi tâm.
Những việc như vậy rất nhiều, khó mà kể hết từng đ́êu. Có kẻ v́ hôn nhân mà chiêm nguyệt lịnh. Có người v́ công danh mà chiêm lưu niên. Có quan phủ đương nhiệm, thấy chỗ người khác khuyết muốn xin bổ vào, mà chẳng tiện nói ra, bèn chiêm coi ở tại nhậm bây giờ được kiết hung. Có vị hiếu liêm chẳng nói rơ chiêm hội thí, hỏi chung về công danh. Có kẻ bị cách chức, hỏi chung về công danh. Có kẻ sanh con mà hỏi có con không/
Như tháng Mùi, ngày Quư Hợi, chiêm lưu niên, được quẻ Cấn.
Người này đă đến trước nhà binh mà viện lệ, nên chiêm lưu niên. Họ nói: mạng ḿnh có công danh th́ trong lưu niên sẽ có hiện ra, mà không biết rằng: chiêm công danh th́ phải lấy hào Quan làm quan mà đoán, rất mừng có quan tinh tŕ Thế, c̣n chiêm lưu niên lấy hào quan quư, chẳng nên có quan tinh tŕ Thế. Tôi đem cái lư đó mà nói cho khách biết.
Họ nói: xin cảm ph́ên coi về viện lệ có được thành chăng?
Tôi nói: trong quẻ này, quan tịnh tŕ Thế, trường sanh ở ngày Hợi, th́ việc đă thành rồi. Hợi Thủy là tài, rơ ràng tài Vượng sanh quan.
Quả tới ngày thân, có tin nhận viện lệ đến. Ưng ngày Thân là ngày mà Dần Mộc quan tinh tŕ thế tịnh gặp xung. Nếu theo lưu niên, lấy quỷ mà đoán th́ xa biết mấy.
Chiêm viện ứng cận, vụ tất lưu tâm. Chiêm xa ứng gần, cần phải để ư.
Cái lư trong trời đất sanh nơi chỗ động. Có cơ (có vợi, có vào) th́ động. Phàm người đi tới chiêm, việc ở trước mắt, ḷng thiệt t́nh bức, hai cái tâm tương cảm. Người làm quẻ, tinh thần cũng tự, cát hung thấy ngay.
Việc chưa có cơ, hoặc hiếm hậu vận, hoặc chiêm những việc không quan thiết, thậm chí hỏi chuyện chơi, người làm quẻ bầt đắc dỉ, phải làm theo. Nhưng hai cái tâm chẳng một mảy tương tiếp, th́ quẻ cũng lờ mờ.
Cái quẻ chiêm ra đó, hoặc lấy việc xa mà nói gần, hoặc lấy việc gần mà nói xa.
Như tháng Mùi, ngày Bính Th́n, chiêm cầu tài. Được Hàm Biền Đại Quá.


Người này hỏi chơi: trong nhà thường thấy người mặc áo trắng, chắc ở đó có hầm chôn đồ xưa. Bao giờ mới được tài.
Tôi nói: trong quẻ, Quỷ biến Tử tôn. Hiện giờ con trai, con gái chẳng lợi.
-     Đứa gái nhỏ mới lên trái,
-     Phải pḥng ngày Hợi
Khách hỏi chừng nào được tài, mà thần báo cho việc nhăn tiền, là con gái chết, ứng vào ngày Hợi, là v́ Ngọ hỏa Quỷ hóa Hợi Thủy tử.
Lại như tháng Dậu, ngày Giáp Th́n, chiêm nguyệt lệnh trong tháng. Được quẻ Độn ra Cấu.


Thế hào Ngọ Hỏa, Hợi Thuỷ hồi đầu khắc Thế. Năm Th́n chiêm quẻ, tới năm Ngọ tháng Tỵ th́ chết. Chiêm nguyệt lịnh mà hiện thọ ngươn. Đó cũng là chiêm gần mà ứng xa.
Chiêm thử ứng bí, tất du tường sát. Chiêm việc này mà ứng việc khác phải cần xét lại kỹ lưỡng.
Đại phàm đă chiêm ra quẻ rồi, th́ phải xét coi kỷ lưỡng, có khi không ứng việc của ḿnh cần, mà lại ứng việc chưa hỏi. Duyên cớ bởi đâu?
Thần hay bỏ việc nhỏ mà mách việc lớn, hay bỏ việc cát nhỏ mà mách việc đại hung, có khi bỏ việc này mà ứng việc kia, bỏ việc kia mà ứng việc này, chiêm ḿnh ứng họ, chiêm họ ứng ḿnh.
Đó là hoạ phước gần đến, trong đầu hôm sớm mai. Hể cơ vừa động, th́ quẻ phải hiện. Cho nên nói: tri cơ, kỳ thần hổ, nghĩa là: biết cơ có phải là thân không. Là ư vậy.
Như tháng Tỵ, ngày Kỷ Mùi, chiêm cho đứa nhỏ bị bệnh.


-     Cái quẻ này chẳng ứng đứa nhỏ ở bị bệnh, mà ứng mùa Thu tới đường công danh có trở ngại. Tôi nói:
-     Tại sao? Khách hỏi.
-     Thế ở Mẹo Mộc quan, hóa Thân Kim tử tôn hồi đầu khắc, nên biết được.
-     Tôi hỏi về đứa ở, sao lại ứng công danh?
-     Cơ của thần linh, thường thường có vậy, là bỏ việc nhỏ mà mách bảo việc đại hung. Thần dặn ngài mỗi việc phải cẩn thận.
Quả tới tháng bẩy bị luận tội cách chức. Đây là chiêm cho họ mà ứng cho ta.
Lại như tháng Thân, ngày Mậu Dần, chiêm bệnh cho ḿnh.
Đoán rằng: Thế hào Dậu Kim tuy Tuyệt ở ngày Dần, mà may được Vượng tướng ở Mùi Thu, th́ bệnh ḿnh chẳng có chi ngại.
Nhưng phải pḥng tháng 9, lo vợ hầu gặp nguy. Hợi thuỷ tài hào hóa Tuất Thổ, hồi đầu khắc.
-     Bệnh tôi rất nặng. Khách nói.
-     Tử tôn tŕ Thế. Không cần phải uống thuốc cũng mạnh. Tôi nói.
Quả nhiên bệnh người ấy được mạnh. Tháng 9 vợ chết.
Lại như tháng Mùi, ngày Đinh Hợi chiêm mẹ bệnh. Được quẻ khôn ra Bác.

Đoán rằng: trong quẻ này không có hiện hào mẹ bệnh, mà hiện con có nạn.
-     Tại sao? Khách hỏi.
-     Lệnh đường mới đau, quẻ được Lục xung th́ sẽ mạnh. Nhưng chẳng nên có hiện ra trong quẻ, hào tử tôn biến ra quỷ ./.
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
vdss
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 June 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 8 of 10: Đă gửi: 20 June 2005 lúc 4:30am | Đă lưu IP Trích dẫn vdss

Kính gửi bác thiennhan

nếu được xin bác đăng tiếp cuốn sách này - rất mong chờ đó bác ạ

Xin cảm ơn v́ thịnh t́nh của bác

vdss
Quay trở về đầu Xem vdss's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vdss
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 9 of 10: Đă gửi: 22 June 2005 lúc 1:45am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Chào Vdss
Bản Tăng San chỉ mới dịch và gơ ra được bấy nhiêu thôi, tôi chưa có thời gian tổng hợp được nhiều, mong thông cảm
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
vdss
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 June 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 10 of 10: Đă gửi: 22 June 2005 lúc 2:39am | Đă lưu IP Trích dẫn vdss

Cảm ơn bác Thiennhan

vdss
Quay trở về đầu Xem vdss's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vdss
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.7100 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO