Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 202 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 1 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:11am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Trong các bài viết Luật Nhân Quả, bác Tranngocai đă đăng tải hầu hết các bài về Nhân quả thế gian và một số các bài viết về Nhân Quả Xuất Thế Gian trong các tác phẩm của tỳ kheo Thích Chơn Quang nhưng chưa được đầy đủ. Nay xin đăng phần c̣n lại là NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN.

Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 2 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:13am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy


B/ NHÂN QUẢ XUẤT THẾ GIAN

Chúng ta đă bàn về Nhân Quả thế gian của cá nhân và của đất nước, bây giờ sẽ bàn qua Nhân Quả xuất thế gian, con đường của những người muốn vượt ngoài tam giới. Nhiều người cho rằng một vị đă giải thoát th́ không c̣n bị luật Nhân Quả chi phối, có làm ǵ cũng không tạo thành nghiệp. Đây là một kiến chấp thiên không sai lầm. Ông già chồn mang kiến chấp này mà phải đọa thân chồn năm trăm đời.
Có những học giả lư luận rằng:
Do HOẶC đưa đến tạo NGHIỆP. Do NGHIỆP đưa đến thọ BÁO.
HOẶC ==> NGHIỆP ==> BÁO.
Chúng sinh do si mê lậu hoặc nên tạo nghiệp, và có tạo nghiệp nên phải thọ báo.
Chúng sinh bị lậu hoặc che phủ nên không biết rơ hậu quả của nghiệp như thế nào, để rồi tạo những ác nghiệp đưa đến đau khổ. Bậc Alahán trái lại, v́ hết lậu hoặc nên biết rơ đường đi của luật Nhân Quả Nghiệp báo, đă tạo những Bồ tát nghiệp để gieo duyên giáo hóa chúng sinh và được viên măn Phật quả. Nếu hết hoặc là hết nằm trong luật Nhân Quả th́ Bồ Tát vĩnh viễn không thành tựu Phật quả dù có giáo hóa chúng sinh trong vô lượng kiếp. Nhưng chính v́ hết lậu hoặc nghĩa là biết rơ Nhân Quả Nghiệp báo hơn bao giờ hết nên bậc Bồ Tát chọn những nhân thích hợp để đi về quả cần thiết. V́ thế, Tổ Bá Trượng đă trả lời cho ông già chồn rằng bậc đại tu hành là người:
“Không c̣n mơ hồ về Nhân Quả”
Câu trả lời ngắn gọn cô đọng này đă chuyển hẳn ư thức hệ chấp không từ bao đời qua của ông già chồn và trong chớp mắt đó ông nhận ra Bản thể trí tuệ lương tâm sẵn có rất là linh hoạt hiện hữu.
Chúng ta nghiên cứu Nhân Quả xuất thế gian để xét xem do những nhân nào đă tạo ra sự thuận tiện hay trở ngại cho một người muốn đi đến giải thoát.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 3 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:13am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

1– NGUYÊN NHÂN CỦA ĐAU KHỔ

(Trích Tương Ưng Bộ kinh 4, tr 328)

Bhadra.

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:

“Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và chấm dứt của khổ.”

“Này thôn trưởng, nếu y cứ vào quá khứ hay vị lai để nói về nguyên nhân (Sự tập khởi) và sự chấm dứt của đau khổ, ông sẽ có phân vân nghi ngờ. Nhưng ngay chính tại đây, với sự có mặt của ông, ta sẽ thuyết về nguyên nhân và sự chấm dứt của đau khổ. Hăy lắng nghe và suy nghiệm, ta sẽ nói.”

“Ôâng nghĩ thế nào, này thôn trưởng, nếu ở tại Uruvelakapapa này có những người bị giết, hoặc bị tù, bị thiệt hại, bị chỉ trích, ông có khởi lên lo lắng buồn khổ không?”

“Bạch Thế Tôn, với những người này con có khởi lên lo lắng buồn khổ và với những người khác con không có khởi lên lo lắng buồn khổ.”

“V́ sao có sự sai khác như vậy?”

“Bạch Thế Tôn, với những người mà con không có thương mến th́ dù họ có bị giết... con không có khởi lên lo lắng sầu muộn. Nếu với người mà con có thương mến th́ khi họ bị giết... con có khởi lên lo lắng sầu muộn.”

“Như vậy, chính ông đă xác định do có thương mến mới có lo lắng sầu muộn. Cũng vậy, dù quá khứ hay vị lai, nếu có khổ năo khởi lên, đều từ ái dục làm căn bản, từ ái dục làm sở nhân. Ái dục là căn bản của khổ.”




NHẬN XÉT:

Bài kinh này có vẻ triết lư hơn là Nghiệp báo. Tuy nhiên nó cũng là chuỗi Nhân Quả có liên quan với nhau. Thay v́ giảng Tứ Diệu Đế cho thôn trưởng Bhadraka, Đức Phật đặt vấn đề thực tế hiện tại để ông tự xác nhận bằng suy nghiệm của chính ḿnh rằng v́ có ái dục nên có đau khổ. Phật đă hệ thống điều này trong giáo lư Tứ Diệu Đế – Bốn sự thật mầu nhiệm – rằng có khổ với tám loại và ái là nguyên nhân của khổ, có Niết Bàn chấm dứt khổ và ái, và có con đường đưa đến Niết Bàn đó. Trong giáo lư Mười hai nhân duyên, ái là một mắc xích quan trọng tác động đến ṿng luân hồi vô tận.

V́ thương con mà cha mẹ phải lo lắng đủ cách cho đời sống và tương lai của nó. Nếu sau này nó tỏ vẻ ruồng rẫy sơ sài, cha mẹ sẽ thất vọng đau khổ vô cùng.

Ai cũng biết t́nh yêu đưa đến hôn nhân và hôn nhân đưa đến vô số trách nhiệm, bất an và phiền muộn.

Thật ra, Ái không đơn giản là t́nh thương yêu giữa người này với người kia, nó c̣n là ḷng ham muốn đối với ngũ dục người tham sắc, kẻ ham danh, người ưa ăn, kẻ thích ngủ, người tham tiền, kẻ lụy t́nh... Nếu có thương yêu ai, tất cả đều bắt nguồn từ ham muốn khoái lạc của chính ḿnh.

Chúng ta chỉ yêu mến người nào đem lại vui thú cho chúng ta, và chúng ta sẽ oán hận kẻ nào đem lại đau khổ cho chúng ta. T́nh yêu thương chỉ là chiêu bài che đậy cho sự ham muốn của tự kỷ. Không có ham muốn của tự kỷ, t́nh yêu thương biến mất.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 4 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:14am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Bạn sẽ nêu lên rằng đau khổ không chỉ đơn thuần là nỗi lo lắng, phiền muộn, băn khoăn, thất vọng... nghĩa là những trạng thái của tâm, nhưng nó c̣n là những hoàn cảnh bất như ư như đói kém, tai nạn, bị nhục mạ, làm ăn thất bại... Thật ra người không ham giàu th́ nghèo không là nỗi khổ; không thương yêu th́ xa nhau không tiếc nhớ; không ghét nhau th́ gần nhau không bực bội; không tự ái th́ bị nhục mạ không khó chịu; không cần danh vọng th́ mất chức không là nỗi bận tâm. Có câu chuyện về người lạc quan (của Mỹ) như sau:

– A cheerful man – Người lạc quan.

Có một người tài xế lái xe lửa lạc quan đến kỳ lạ, bất cứ một sự kiện ǵ xảy ra, anh đều nh́n thấy khía cạnh tốt của nó để vui mừng mà không bao giờ quan tâm đến khía cạnh xấu của nó. Bạn bè anh vừa ngạc nhiên vừa thán phục đặc tính lạ lùng này.

Một hôm xe lửa đi trật đường rầy, xe cứu thương đưa anh vào bệnh viện. Cuối cùng anh bị cưa mất một chân, bạn bè anh đến thăm, sau khi an ủi chia buồn xong họ nói:

“Chúng tôi nghĩ rằng trong trường hợp này anh không thể t́m thấy một khía cạnh tốt nào cả, phải không, người bạn thân mến của chúng tôi?”

Anh cười bảo:

“Có chứ, từ nay tôi chỉ tốn tiền mua một chiếc giày mà thôi!”

Rơ ràng đối với người như thế này, tai nạn cũng không là nỗi khổ. Anh không quá yêu thân thể của ḿnh nên khi bị hư hao, anh không tiếc rẻ. Đối với mọi sự kiện linh tinh khác, v́ không bao giờ buồn nên anh mới b́nh tâm nh́n ra khía cạnh tốt của nó để chỉ cho mọi người cùng thấy. Nếu buồn khổ v́ những khía cạnh xấu, chúng ta không bao giờ nh́n ra khía cạnh tốt của chính sự kiện ấy. Tuy nhiên ở đây chúng ta không đi t́m khía cạnh tốt của vấn đề để bù đắp cho khía cạnh xấu, chúng ta chỉ đoạn trừ được ái dục th́ đau khổ sẽ vắng bóng.

Lơa thể ngoại đạo Kasspa đến hỏi Phật về nguyên nhân của đau khổ theo quan niệm Nghiệp báo, rằng khổ do chính người ấy gây ra (thân đời trước và thân đời này là duy nhất).

Hoặc khổ do người khác gây ra (Thân đời trước và thân đời này khác hẳn).

Hoặc khổ vừa do người ấy vừa do người khác gây ra (kết hợp cả hai).

– Hoặc không có khổ.

– Hoặc có khổ mà Phật không thấy.

Trường hợp nào Đức Phật cũng không đồng ư.

Cuối cùng ngoại đạo Kasspa yêu cầu Phật nói về nguyên nhân của đau khổ.

Phật bảo:

“Ta nói đến con đường trung đạo rằng do vô minh duyên hành... do ái duyên thủ... nên thành toàn bộ đại khổ ấm này”
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 5 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:15am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Nguyên nhân của đau khổ là ái dục, một nguyên nhân tâm lư hơn là Nghiệp báo. Tuy nhiên nó cũng có ảnh hưởng Nghiệp báo. Nếu chúng ta đă từng ràng buộc người khác trong t́nh yêu và t́nh dục của chúng ta, nghĩa là gây cho họ ô nhiễm trong ái dục, th́ duyên ái dục này sẽ trở lại trói buộc chúng ta trong vị lai, khiến cho chúng ta khó có một đời sống thanh thản giải thoát v́ thế một người muốn giải thoát th́ không được quan hệ ái dục với bất cứ chúng sinh nào, và cũng không được làm mai mối tác hợp cho những chúng sinh khác quan hệ ái dục với nhau. Nếu có điều kiện chỉ nên cởi mở làm nhẹ bớt ái dục của chúng sinh, khuyên họ t́m hạnh phúc trong những mục tiêu cao thượng hơn là đắm ḿnh măi trong vũng bùn ái dục mà không có ngày ra khỏi. Chúa Jésus bảo:

“Đừng tưởng ta đến để kết hợp thế gian, trái lại, ta đến để vợ phải xa chồng, con phải xa cha, người thân mến phải chia cắt”

Chính chúa Jésus cũng muốn giải tỏa ái dục của cuộc đời để cho mọi người t́m thấy hạnh phúc cao cả của “Thiên quốc”.

Dĩ nhiên trong vô lượng kiếp quá khứ, chúng ta đă từng là vợ, là chồng với biết bao người. Nếu Nghiệp báo này cố định th́ chắc chắn chúng ta phải bị ái dục kéo níu và không thể giải thoát. Nhưng may mắn thay, Thế Tôn đă có con đường Bát thánh đạo để đoạn trừ mọi ái dục mà chánh định là cốt tủy. Người quyết tâm tu Bát thánh đạo, thành tựu chánh định th́ ái dục biến mất mọi khổ năo sụp đổ, những duyên nợ quá khứ cắt đứt.

Tổ Sư Tử thản nhiên đưa đầu cho vua chém. Thiền sư Tâm Đạo (ở Văn thù) ngồi chờ giặt đến lấy giáo đâm vào tim, máu chảy ra thành ḍng sữa trắng. Khai ngộ xong cho Thiện Hội (ở Giáp Sơn), thiền sư Hoa Đ́nh Thuyền Tử lật úp thuyền ra đi... Những vị thành tựu chánh định, đoạn dứt ái dục th́ không c̣n cái ǵ khiến cho các ngài đau khổ. Nếu chúng ta quan niệm đau khổ là những hoàn cảnh bất như ư do Nghiệp báo đem lại, chúng ta sẽ rơi vào tà kiến của ngoại đạo.

Một lần Thế Tôn đi đến những ngoại đạo khổ hạnh, trong thấy họ hành khổ hạnh bằng nhiều cách quái lạ, như đứng một chân, phơi nắng chống tay chỏi chân lên trời, ăn cỏ, ḅ lết như chó, nằm trên tro và gai... Phật hỏi họ làm như thế đưa đến mục đích ǵ. Họ đáp:

“Thưa hiền giả Gotama, tôn sư của chúng tôi tự xưng là người có tri kiến trong lúc ngủ cũng như lúc thức. Người bảo rằng do nghiệp quá khứ nên có đau khổ. Có đau khổ tức là không giải thoát. Nếu ai thực hành khổ hạnh viên măn, nghiệp quá khứ hết, sẽ được giải thoát an vui.”

“Nhưng các ông có tự biết quá khứ đă tạo nghiệp nhiều ít mà mỗi người phải thực hành khổ hạnh loại nào trong bao lâu mới đủ?”

“Thưa hiền giả Gotama, chúng tôi không biết!”

“Các ông thực hành dựa trên sự không biết, làm sao các ông có thể biết kết quả sẽ ra sao?”

“Thưa, c̣n hiền giả nói thế nào về nguyên nhân của đau khổ và sự chấm dứt của đau khổ?”

“Ta nói có tham, có sân, có si là có đau khổ. Không tham, không sân, không si th́ không có đau khổ.”

Ngoại đạo quan niệm đau khổ là hoàn cảnh bất như ư do nghiệp quá khứ đem lại, họ tự nguyện trả trước bằng cách tự đày đọa thân xác ḿnh cho đến cùng cực của đau khổ. Trong ư chí chịu đựng khổ hạnh đó, đôi khi họ xem thường đệ tử Phật, không thực hành khổ hạnh như họ, có vẻ sống dễ dăi hơn. Họ không nh́n thấy bản chất giả dối của đau khổ chỉ là những tâm trạng phù ảo được xây dựng từ điều kiện tham sân si. Đấng Chánh Đẳng Giác nh́n thấy rơ đau khổ chỉ là một ảo tưởng có điều kiện, khi những điều kiện này bị đoạn trừ, đau khổ biến mất. Do nh́n rơ điều này nên đường lối tu hành của đạo Phật không thiên về khổ hạnh hay hưởng thụ, chỉ sống thế nào để thuận tiện cho việc đoạn trừ tham sân si, họ phải giữ giới và sống đời đơn giản để không tăng trưởng ḷng tham, nhưng họ cũng cần ăn uống đủ sức khỏe để trợ giúp cho việc tọa thiền khuya sớm, và chính nơi công việc Thiền Định này họ đoạn trừ được tham ái.

Tóm lại, nguyên nhân của đau khổ có vẻ thuộc về triết lư hơn là thuộc về Nghiệp báo, tuy nhiên, Nghiệp báo cũng dự phần rất nhiều trong đời sống tu hành của một người, mà nếu họ không thấu đáo về Nghiệp báo loại này, họ sẽ gặp nhiều trở ngại.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 6 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:24am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

3 – CÚNG HOA THÁP PHẬT

(Trích Trưởng Lăo Tăng Kệ, tr 65)

Khandasumana

Trong thời Đức Phật tại thế, Ngài tái sinh trong gia đ́nh của vua Malla, làm vị hoàng tử. Ngài được đặt tên là Khandasumana. (Bông lài), v́ khi Ngài sanh, bông lài quanh vườn trổ hoa rực rỡ thơm ngát. Lớn lên, Ngài t́m đến Đức Phật thuyết pháp tại rừng xoài của Cunda ở Rava, bèn xuất gia và chứng được sáu trí thánh. Với túc mạng minh, Ngài nhớ đến công đức quá khứ khi cúng một nhánh bông lài tại tháp của Đức Phật Kassapa. Trong khi tất cả bông hái được đều thuộc về của Vua. Nhận thấy bởi hành động này giúp Ngài chứng được quả Niết Bàn, Ngài nói lên bài kệ như sau:

“ Do một bông từ bỏ

Được hưởng tám ức năm

Sống trong cảnh cơi trời

C̣n số năm c̣n lại

Ta được sống tịch tịnh”




NHẬN XÉT:

Khi nói đến đạo quả thành tựu, ai cũng thấy ngay bởi do sự tinh tấn tu tập mạnh mẽ trước đó. Bát chánh đạo là đường đưa đến Niết Bàn, Tứ Thiền Cửu Định là phương tiện cốt lỏi, Thất giác chi là những giai đoạn cần thiết. Nhưng nguyên nhân nào đă đưa đến sự khát khao giải thoát để rồi từ sự khát khao này vị Tỳ Kheo tinh tấn vĩ đại đến khi chứng Niết Bàn?

Chính tâm trạng cung kính bậc giải thoát đă biến thành tâm trạng khát khao giải thoát cho chính chúng ta. Thật vậy, chúng ta đă kính phục phong cách điềm đạm vô biên của bậc giải thoát, chúng ta đă xúc cảm trước ḷng từ vô hạn, ngưỡng mộ trước trí tuệ sâu thẳm, nghiêng ḿnh trước sự vô nhiễm thuần tịnh của bậc thánh nào đó. Chính sự kính trọng tột độ này đă xuất khởi thành sự khát khao giải thoát tha thiết cho chúng ta. Nếu mức độ kính trọng đạt đến tuyệt đối, nghĩa là không c̣n chút nghi ngờ, chúng ta sẽ thành tựu quả vị Alahán viên măn. Nếu mức độ kính trọng vừa phải, trong cái tin c̣n có chút nghi, chúng ta sẽ thành tựu những quả vị thấp hơn là A Na Hàm, Tư Đà Hàm và Tu Đà Hoàn. Rồi từ ba quả vị này chúng ta mới đạt được niềm kính tin tuyệt đối bất thối chuyển nơi Tam Bảo, và niềm tin tuyệt đối này hứa hẹn quả vị Alahán ở vị lai.

Nhưng nếu thật sự là niềm kính ngưỡng, tất nó sẽ biểu hiện ra ngoài bởi bốn hành vi:

– Đảnh lễ.

– Tán thán.

– Cúng dường.

– Làm theo lời dạy.

Đầy đủ bốn hành vi công đức này, sự kính tin được gọi là viên măn. Hành vi cúng hoa nơi tháp Phật Kassapa, của tiền thân Ngài Khandasumana là một trong bốn hành vi công đức. Chúng ta sẽ ngạc nhiên tại sao hành vi cúng hoa b́nh thường dễ làm như vậy lại được công đức quá lớn lao, tám ức năm nơi cơi trời và quả vị Alahán sau đó! Điều chắc chắn là Khandasumana đă thuần thục trong thiện nghiệp, như một ly đầy nước chỉ nhỏ thêm ít nước vào lập tức tràn ra ngoài, cũng vậy Ngài chỉ thêm một công đức nhỏ liền thành tựu đại phước báo. Hơn nữa, Ngài gan dạ bất chấp lệnh cấm của Vua không cho ai hái hoa, đă hái cành hoa lài cung kính đặt nơi tháp Phật. Sự gan dạ này nói lên ḷng kính trọng tột độ của Ngài đối với Đấng Chánh Giác Kassapa. Niềm kính trọng tuyệt đối đó quả thật đă hứa hẹn quả vị Alahán cho Ngài vào hôm nay. Hơn nữa, một phước báo phụ đă bày tỏ khi Ngài sinh ra là hoa lài quanh vườn trổ rực rỡ thơm ngát!

Đảnh lễ là hành vi công đức đơn giản đầu tiên nói lên ḷng kính trọng. Chúng ta quỳ xuống cúi đầu dưới chân bậc giác ngộ để tỏ ra rằng vị ấy là đấng cao cả c̣n chúng ta th́ nhỏ bé như cát bụi ở dưới chân. Nơi hành vi này chúng ta xuất hiện được hai lợi ích. Một là sự khát khao giác ngộ, hai là diệt trừ được ngă mạn. Ngoài phước báo tâm linh, ở đời sau chúng ta sẽ được thân tướng cao ráo.

Tán thán là dùng lời nói, văn chương, hoặc âm nhạc để ca ngợi sự cao cả của Đấng giác ngộ cho những người khác được biết. Qua hành vi này, chúng ta lan truyền niềm kính trọng của ḿnh sang những chúng sinh khác. Và khi niềm kính tin Đấng giác ngộ đă gieo vào ḷng họ, sự bất hạnh của họ sẽ được đẩy lùi để nhường chỗ cho phúc lạc hiện hữu. C̣n nơi chúng ta xuất hiện một đức tính quư báu: Tâm tùy hỷ. Kẻ biết tán thán tức là biết vui mừng trước sự thành tựu của người khác. C̣n kẻ tật đố sẽ im lặng khi nghe người khác thành công. Ngoài phước báo tâm linh, ở đời sau chúng ta sẽ được những nét khả ái nơi miệng và nơi lời nói.

Không c̣n gọi là kính trọng nếu chúng ta không tuân thủ triệt để những lời dạy của chân sư. Tất cả những nghiệp công đức từ trước như đảnh lễ, tán thán, cúng dường chỉ để chuẩn bị cho nghiệp công đức thứ tư: Làm theo lời dạy. Và chính hành vi thứ tư này quyết định đạo quả của chúng ta. Trong một pháp hội, người đệ tử làm đúng hoàn toàn theo lời dạy của chân sư rất ít, đa số sơ sót điểm này điểm khác. Nếu ai gắng làm tṛn lời dạy của chân sư, đạo quả thù diệu là kết quả gần kề.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 7 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:25am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

4 – THỐI THẤT ĐẠO QUẢ
(Trích sử 33 vị Tổ Thiền Tông, tr. 111)
Tổ Xà Dạ Đa (Lajarta) thống lănh đồ chúng du hóa các nước, lần lượt đến thành La Duyệt, gặp số tăng chúng học đạo với sự lănh đạo của Ngài Bà Tu Bàn Đầu (Vasubandhu). Ngài Bàn Đầu tu khổ hạnh rất chuyên cần vất vả. Tổ biết nhân duyên, muốn khai thị nên nói lời chê bai sự tu hành của Ngài. Cuối cùng qua một bài kệ, Ngài ngộ đạo, tŕnh kệ tán thán Tổ. Tổ hỏi:
“Ta nói trái ư ông, tâm ông được chẳng động chăng?”
Bàn Đầu thưa:
“Đâu dám động tâm. Con nhớ bảy đời về trước sanh cơi an lạc, v́ mộ đạo nên thờ trí giả Nguyệt Tịnh làm thầy.Thầy Nguyệt Tịnh dạy con: “Không bao lâu nữa, ngươi sẽ chứng quả Tư Đà Hàm, nên siêng năng tinh tiến. Phàm tu hành như trèo lên cao, phải cố gắng tiến dần lên không cho sụt xuống. Nếu lở có sụt, muốn trèo lên lại cũng khó”. Lúc đó con đă 80 tuổi, nương gậy mới có thể đi được. Khi ấy gặp Bồ Tát Đại Quang Minh xuất thế, con muốn đến lễ Ngài, bèn đi đến Tinh Xá, lễ bái xong trở về chợt gặp thầy Nguyệt Tịnh quở trách: “ Dốt quá, tại sao ông lại khinh cha trọng con? Hôm trước ta thấy ông sắp được chứng quả, hôm nay đă mất”. Con nghe ngơ ngác cầu xin Thầy Nguyệt Tịnh chỉ lỗi. Thầy Nguyệt Tịnh dạy: “Vừa rồi ngươi đến đảnh lễ Bồ Tát Đại Quang Minh, tại sao lại dựng cây gậy vào mặt Phật vẽ trên vách, ngươi do lỗi này nên sụt quả vị”. Con nhớ kỹ lại, thật đúng như lời thầy Nguyệt Tịnh quở. Từ đó về sau, phàm có nghe lời nào chẳng dám không tin”...
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 8 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:26am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

NHẬN XÉT:

Chúng ta không t́m thấy nước An Lạc là chỗ nào và Bồ Tát Đại Quang Minh là ai, chỉ biết rằng bảy đời trước Ngài Vasubandhu ở trong một xứ sở có Phật giáo. Có lẽ Ngài gặp Phật Pháp đă đứng tuổi nên đến tám mươi mới được hứa khả sắp chứng Tư Đà Hàm. Tiếc thay, do một hành vi sơ xuất bất kính nơi h́nh tượng Phật bằng cách dựng cây gậy vào đấy nên Ngài tổn phước, đạo quả sắp đến liền biến mất.
Qua câu chuyện này chúng ta thấy tội và phước ảnh hưởng rất lớn đến đạo quả, không phải là chuyện tầm thường. Nếu ngài Khandasumana thành tựu Niết Bàn bởi hành vi cúng hoa cung kính nơi tháp Phật th́ tiền thân Ngài Vasubandhu đă thối thất đạo quả bởi hành vi tựa gậy có vẻ bất kính nơi h́nh tượng Phật. Sự bất kính đối với thánh tượng, tháp miếu khiến cho một người sắp chứng đạo quả bị thối thất, c̣n nói ǵ đến việc bất kính đối với thánh thể của bậc giác ngộ khi c̣n tại thế.
Trong giới và luật của người xuất gia có răn chế rất kỹ lưỡng những hành vi tỏ vẻ bất kính nơi thánh tượng và tháp miếu. Chúng ta không được tiểu đại; không được khạc nhổ; vất rác rưởi xung quanh tháp miếu và thánh tượng. Không nên đội nón đi ngang tượng tháp; nên khẻ cúi đầu khi đi ngang tượng tháp; không nên ngồi nằm đưa chân về tượng tháp; không nên ăn mặc hở hang nơi tượng tháp; không nên bài trí thánh tượng quá thấp; nên giữ oai nghi nghiêm chỉnh nơi tượng tháp. Nói chung chúng ta phải thể hiện sự kính trọng nơi tượng tháp, dè dặt những hành vi vô lễ đối với nơi tượng tháp để giữ ǵn phước đức trợ giúp cho sự tu hành về sau.
Ngoài tội do sự bất kính đối với tượng tháp, kinh điển, c̣n có những tội thuộc về thế gian cũng khiến ngăn trở đạo quả. Trong lần đầu đến gặp Đức Phật, Vua Ajatasattu (A Xà Thế ) đă được Đức Phật ưu ái dành cho một thời pháp dài (Kinh Sa Môn Quả) sau khi ông đảnh lễ lui ra, Đức Phật nói với chúng Tư Kheo rằng:
“ Này các Tỳ Kheo, tâm của vị vua ấy rất ăn năn, tâm của vị vua ấy rất hối quá. Nếu vị Vua ấy không hại mạng của Vua cha, một vị vua rất chân chánh, th́ ngay tại chỗ này, vua ấy đă chứng được pháp nhăn không triền cấu, không cấu uế.”
Như thế tội giết cha đă đánh mất cơ hội chứng đạo quả Tu Đà Hoàn của Vua A Xà Thế.
Chúng ta đă biết pháp nhăn khai mở do triền cái tan vỡ, mà triền cái là duyên hợp giữa si mê và tội lỗi. Muốn triền cái tan vỡ phải do công năng đối trị của trí tuệ và phứơc đức. Trí tuệ đối trị si mê, phước đức đối trị tội lỗi. Đủ hai điều kiện này, triền cái sụp đỗ, cơi tâm mở ra thênh thang khoáng đạt sáng tỏ. Người thường tạo tội tức là triền cái tham dục và sân nhuế được duy tŕ củng cố. Sự giết hại vua cha của A Xà Thế xuất phát bởi ḷng tham địa vị quá độ và tâm địa ác độc thù hận. Bởi hai triền cái này kiên cố nên dù được Thế Tôn đánh thức trí tuệ, nó vẫn không tan để cho vua chứng đạt Pháp nhăn Tu Đà Hoàn ngay lúc ấy. Chúng ta cũng dễ thấy người thường tạo nghiệp nhiều quá rất khó tiến tu Thiền Định, v́ triền cái hiện hữu tức là hôn trầm tán loạn hiện hữu. Thế nên trong phần nói về tu tập Từ tâm Đức Phật cho biết với phương pháp quán tưởng phát triển Từ tâm trợ giúp rất nhiều cho Thiền Định giải thoát là ư này. Khi Từ tâm được khởi xuất, được duy tŕ, được thắp sáng th́ tham dục và sân nhuế bị đẩy lùi và tiêu diệt. Tham dục và sân nhuế vắng bóng th́ ba triền cái c̣n lại hôn trầm, trạo cử, nghi – rất dễ bị phá vỡ bởi sức quán chiếu của trí tuệ. Nếu vừa tu tập Từ tâm vừa làm lợi ích chúng sinh THEO CHÁNH PHÁP th́ phước đức đủ để đối trị với tội lỗi quá khứ, người này chỉ c̣n tiến hành dụng công thiền quán để đi hết con đường c̣n lại.
Nhưng trường hợp Angulimala th́ thế nào, một kẻ mượn tạm ngón tay út gần ngh́n người bộ hành, tại sao lại chứng được Niết Bàn viên măn của Alahán?
Dĩ nhiên chỉ dựa vào những sự kiện trong một đời th́ không thể đánh giá Nghiệp báo Nhân Quả của một người. Chúng ta không nghe nhắc đến những công hạnh quá khứ của Tôn Giả Angulimala chỉ biết về tôn giả với những nét trong đời cuối cùng ấy như sau.
Thuở chưa gặp Phật, Tôn Giả theo học đạo với một người Bà La Môn. Tôn giả là người đệ tử thông minh, nghiêm nghị, giới hạnh đầy đủ, dung mạo đẹp đẽ khôi ngô, và những yếu tố này đă làm thổn thức trái tim người vợ của ông thầy. Sau một lần gạ gẫm tỏ t́nh và bị từ chối dứt khoát, tự ái bị va chạm nặng nề, ḷng say mê biến thành niềm thù hận, bà thỏ thẻ với chồng rằng Angulimala đă lén tán tỉnh bà và bị cự tuyệt. Bà yêu cầu chồng đừng nóng nảy tỏ thái độ và kêu la chất vấn, hăy tương kế tựu kế đưa Angulimala vào cực h́nh và tù tội. Ông thầy Bà La Môn giận tím gan nhưng nén xuống, ân cần gọi chàng đến khen ngợi đủ điều.Cuối cùng ông cho biết có một bí quyết tu tập mầu nhiệm cần phải truyền dạy cho Angulimala nếu chàng t́m đâu được một ngàn ngón tay út bên phải. Nghe nói chàng choáng váng, nhưng ông thầy đă trấn an, giải thích, hứa hẹn mọi việc tốt đẹp vinh quang của bí quyết về sau để thúc đẩy chàng hành động. Tà kiến c̣n vây phủ, chánh kiến chưa trổi dậy, tâm mến đạo tha thiết, và thế là Angulimala vâng lời cầm gươm ra đi. Phần sau câu chuyện rất cảm động mà có lẽ ai cũng đă biết qua.
Như thế Angulimala hoàn toàn không phải là người ác độc, chỉ v́ ḷng mến đạo quá tha thiết nên Tôn Giả đă trở thành tên tướng cướp kỳ cục, không lấy bất cứ tài vật nào, chỉ xin đỡ ngón tay út bên phải của kẻ lữ hành nào đi ngang, kết thành xâu chuỗi đeo quanh cổ. Tôn giả đă trả báo rất nhẹ trong một lần đi khất thực, và tâm thiết tha mến đạo đă đưa Tôn giả đến giây phút vinh quang khi mọi vô minh lậu hoặc hoàn toàn chấm dứt.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 9 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:27am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

5 – QUẢ VỊ DỰ LƯU
(Trích Tương Ưng Bộ kinh 5, tr 398)
Lúc bấy giờ Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavathu, khu vườn cây bàng.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y cầm bát, đi đến nhà của Thích nữ Kàligodhà và ngồi trên chỗ đă soạn sẵn.
Rồi Thích Nữ Kàligodhà đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn bảo với Thích nữ Kàligodhà:
“Thành tựu bốn pháp, này Godhà, vị nữ Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không c̣n bị thối đọa, quyết chắc chứng đạo quả giác ngộ. Thế nào là bốn?
“Ở đây, này Godha, vị nữ thánh đệ tử thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với Đức Phật: Đây là Thế Tôn, bậc Alahán, Chánh đẳng giác, bậc Minh hạnh túc, Thiện thệ, Hiểu biết thế gian, bậc Vô thượng, bậc Điều ngự những ai đáng được điều ngự, bậc Đạo sư loài trời và loài người, Phật Thế Tôn.
“Vị ấy có ḷng tin bất động đối với pháp. Pháp do Thế tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ được người thấy tự ḿnh giác hiểu.
“Vị ấy có thành tựu ḷng tin bất động đối với chúng Tăng. Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lư hạnh là đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời.
(“Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị vết dơ, không bị ái nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền Định.”)
“Vị này trú ở gia đ́nh, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí, không có đôi bàn tay nắm lại.”
“Này Godhà, thành tựu bốn (hoặc năm) pháp này, một nữ thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không bị thối đọa, quyết chắc chứng quả Bồ đề”
“Bốn (hoặc năm) Dự Lưu phần được Thế Tôn thuyết giảng này, bạch Thế Tôn, chúng đều có trong con. Con thực hiện đầy đủ những pháp này. Bạch Thế Tôn. Con thành tựu ḷng tịnh tín bất động đối với Phật, Thế Tôn,... đối với Pháp... đối với chúng Tăng....Phàm những vật ǵ của gia đ́nh dành cho việc bố thí, tất cả đều được phân phát cho những người có giới và những người làm thiện!”
“Lợi đắc thay cho ngươi, này Godha! Thật khéo lợi đắc thay cho ngươi, này Godha! Godha, ngươi đă tuyên bố về Dự lưu quả”
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 10 of 49: Đă gửi: 09 April 2005 lúc 7:35am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

NHẬN XÉT:

Dự lưu nghĩa là dự vào ḍng Thánh. Đây là tầng bậc Thánh đầu tiên của bốn Thánh vị giải thoát. Người đến được quả vị này sẽ không c̣n thối đọa vào ba ác đạo, sẽ tăng tiến măi cho đến khi chứng đạo quả Niết Bàn Alahán.
Hệ thống Bắc Tông, Ahàm cho quả Dự Lưu là Thất Lai, bảy lần tái sinh cơi người sẽ chứng Alahán. Hệ Nam Tông Nikaya không kỳ hạn thời gian, chỉ định nghĩa rằng:
“Không c̣n đọa ác đạo, nhất định đi đến giải thoát”
Và sự thật th́ hệ Nam Tông Nikaya đúng hơn. Có người chứng quả Dự Lưu từ thời Đức Phật rồi măi đến nay, qua rất nhiều lần tái sinh, vẫn chưa chứng Alahán. Có người c̣n phải đi măi đến đời Phật Di lặc sau mới chứng Alahán. Nhưng cũng có người chứng quả Dự Lưu xong rồi chứng Alahán không bao lâu. Tùy nhân duyên và sức tinh tấn của mỗi người.
Nói đến quả vị là nói đến tŕnh độ của tâm linh. Phải ở mức độ tâm linh nào đó một vị mới được gọi là Tu Đà Hoàn. Mức độ đó, ở bài kinh khác, Phật gọi là được Pháp nhăn thanh tịnh, không trần cấu. Nhưng ở bài kinh này, Phật đưa ra bốn (hoặc năm) biểu hiện bên ngoài để đánh giá một người đă vào quả vị Dự Lưu. Những quả vị này xuất phát từ một sở đắc tâm linh thật sự, không phải xuất phát từ h́nh thức hời hợt bên ngoài. Do có sở đắc tâm linh đó, vị này tin được Đức Phật là Đấng Chánh Đẳng Giác. Thật vậy, ai cũng cúi đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhưng niềm kính tin vẫn khác nhau. Người chưa đạt được lợi ích thiết thực của tâm linh sẽ có một mức độ kính tin vừa phải. Chỉ có người đạt được lợi ích thiết thực mới có niềm kính tin Đức Phật một cách trọn vẹn v́ thấy rằng quả thật chỉ có Đấng giác ngộ tối thắng trên đời mới đem đến ích lợi vi diệu của sự giải thoát vượt hơn mọi tṛ vui cấu uế của thế gian.
Lại nữa, sở đắc tâm linh khiến cho vị này nhận thấy rằng lời dạy của Thế Tôn không hứa hẹn một viễn ảnh mơ hồ nào, rất là thiết thực trong từng phút giây hiện tại, đến để thấy biết chứ không phải tin suông, và người có trí đều có thể giác hiểu không khác nhau dù họ ở khác nhau mọi thời và mọi xứ.
Từ chỗ an lạc của ḿnh, vị này tin được rằng chúng Tăng theo sự hướng dẫn của Thế Tôn đă đạt quả vị theo bốn đôi tám chúng đều là những bậc có đức hạnh thanh tịnh, chơn chánh, chất trực, đúng pháp, là phước điền vô thượng cho chúng sinh gieo trồng thiện căn lên đó. Thật vậy, người gian trá th́ hay nghi ngờ kẻ khác, người nói dối th́ ít tin lời của ai, tâm lư khách quan là như vậy. C̣n người chân thật th́ dễ tin. Chúng ta vẫn thường suy bụng ta ra bụng người. Bồ Tát Thường Bất Khinh sau khi đốn ngộ được tri kiến Phật, tự thấy ai cũng có Phật tánh, nếu khéo tu tập đều có thể trở thành Phật, nên Ngài có niềm tin tưởng mănh liệt rằng:
“Tôi không dám khinh các Ngài v́ các Ngài đều sẽ thành Phật.” (Kinh Pháp Hoa)
Trong một đoạn văn đăng trên báo giác ngộ, sư cô Thuần Chánh diễn tả ư này rất khéo rằng thuở nhỏ cô không tin ai v́ chính cô thường hay qua mặt người lớn. Sau này lớn lên, một lần người chị nhờ cô lấy giùm cuốn nhật kư và dặn đừng xem. Cô giữ lời hứa, trao tập nhật kư cho người chị với đôi mắt nh́n thẳng không hổ thẹn “Từ đó tôi tin cuộc đời”.
Khi chính ḿnh được pháp nhăn thanh tịnh, những tham, sân bắt đầu được kiểm soát (chứ chưa hết) vị này tin nơi chính ḿnh và tin những vị có thực hành như ḿnh hoặc hơn ḿnh rằng họ cũng là những người thanh tịnh trong giới đức. C̣n tâm trạng hồ nghi đủ thứ phải biết nó được xuất phát từ nội tâm phiền động bất an.
Lại nữa, sở đắc tâm linh này đủ để vị ấy phân biệt thiện ác rơ ràng, thấy được sự cần thiết của giới cấm và kỹ lưỡng ǵn giữ. Thật ra không phải ngoại đạo không có sở đắc tâm linh, nhưng sở đắc của họ không đủ và không đúng khiến cho họ xem thường giới luật. Họ thường tự cho dù có phá giới vẫn không lay động đến chỗ tâm chứng của họ. Quan niệm này giúp chúng ta không lẫn lộn giữa ngoại đạo và đạo Phật. Vị Dự lưu này giữ đủ những giới mà chư Thánh ái kính, giữ một cách hoàn hảo không tỳ vết v́ thấy ích lợi của nó rơ ràng. Do thành tựu giới pháp nên vị này vĩnh viễn không đọa vào ác đạo và đủ công đức để tiến sâu vào Thiền Định.
Lại nữa, mức độ tâm linh của vị Dự Lưu khiến vị này xa rời tâm bỏn xẻn, chất chứa, ích kỷ, trở nên rộng răi, khoáng đạt, cởi mở và vị tha. Vị này thấy rơ tính cách tạm bợ của thế gian, tài vật không c̣n đáng quí như trước khi mà niềm vui của tâm bắt đầu tỏa sáng. Do không c̣n ích kỷ, không c̣n xem nặng tài vật, vị này bỗng nhiên mở rộng bàn tay, “không có đôi bàn tay nắm lại”. Không thể nào tưởng tượng một bậc Thánh thiện lại không thuần thục trong hành vi bố thí. Bố thí là phước nghiệp của thế gian, cũng là công đức xuất thế gian, và cũng là mật hạnh của Bồ Tát đạo. Bố thí là cánh cửa mở ra khỏi ngục tù tam giới. Do sự khoáng đạt của tâm nên vị Dự Lưu dễ dàng bố thí, nhưng cũng chính hành vi bố thí – buông xả – này giúp cho vị ấy sớm buông xả những vọng chấp trong tâm. Người bỏn xẻn, không xả tài vật một cách khó khăn cũng là người buông xả vọng tưởng một cách cực khổ.
Năm điều trên – kính Phật, tin Pháp, tin Tăng, tŕ giới và bố thí – là năm biểu hiện của một vị đă vào quả Dự Lưu, là năm tia sáng xuất phát từ Pháp nhăn thanh tịnh không trần cấu.
Nhưng đặc điểm nào đă khiến cho một người đă có sở đắc tâm linh như vậy phải trở lại nhiều lần (Tu Đà Hoàn) hoặc một lần (Tư Đà Hàm) hoặc không trở lại cơi người (A Na Hàm) hoặc ngay đây được Niết Bàn viên măn (Alahán)?
Chúng ta có thể tự xem nhân ra sao sẽ đưa đến quả vị như vậy.
Không phải được Pháp nhăn rồi là trần cấu hoàn toàn không c̣n rơi vào tâm. Trần cảnh rơi vào tâm có nghĩa là những h́nh ảnh c̣n đọng lại kéo dài trong tâm, nhưng cũng có nghĩa là mắt tai có phần nào chú ư khi nh́n, khi lắng nghe. Khi nh́n, khi nghe chúng ta c̣n có chút phần chú ư mà chưa thể hoàn toàn b́nh thản lạnh nhạt th́ phải biết rằng duyên với trần gian này chưa hết. Chúng ta c̣n thấy trần gian có phần quan trọng. Nhân như thế là kết quả là sự c̣n trở lại trần gian của chúng ta. Bậc A Na Hàm th́ cắt hẳn duyên với trần cảnh, tâm tại tâm, cảnh tại cảnh, cảnh không đến tâm, tâm không đến cảnh. Nhân như thế là kết quả là sự không c̣n trở lại trần gian này nữa.
Riêng bậc Alahán th́ siêu thoát hẳn cả tâm và cảnh, trần gian không c̣n là chỗ để đắm luyến hay rời bỏ, sở đắc chấm dứt, thật sự vô ngă, mà thật sự vô ngă tức là tâm vị tha viên măn hiện bày. Vị này thành tựu đại bi tâm và diệu thắng trí. Tam giới không c̣n ràng buộc được nữa, trừ phi vị này khởi nguyện lực vào sanh tử hóa độ chúng sinh.
Chúng ta cũng nên biết vô ngă cũng chính là vô pháp. Ngă và pháp do đối nhau mà lập, ngă không th́ pháp cũng mất. Nếu ai nói, tuy vô ngă mà vẫn c̣n pháp, phải biết là không đúng. Pháp c̣n th́ ngă c̣n. Ngă hoàn toàn hết th́ pháp hoàn toàn không.
Ở một định nghĩa khác của hệ phái Bắc Tông, quả vị Dự Lưu được xem là phá xong ba kiết sử: giới thủ, nghi và thân kiến.
– Giới thủ là giữ giới mà tách rời giới khỏi ư nghĩa giải thoát, nên trở thành cố chấp kỳ lạ. C̣n một định nghĩa khác là chấp vào sự kiêng cử của ngoại đạo.
– Nghi là chưa trọn tin Tam Bảo.
– Thân kiến là ích kỷ.
Người vào quả vị Dự Lưu có cuộc sống rất vị tha từ ái mặc dù chưa chấm dứt được các phiền năo ái nhiễm khác.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 11 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:38am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

6 – HAI HẠNG NGƯỜI SAI KHÁC
(Trích Tăng Chi Bộ kinh 2A, tr 164)
“Có bốn hạng người có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?”
“Ở đây này các Tỳ Kheo, có hạng người ly dục, ly pháp, bất thiện, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm, có tứ. Vị ấy nếm được vị ngọt của thiền ấy, ái luyến thiền ấy và do vậy t́m được an lạc. Vị ấy an trú trên ấy, chú tâm trên ấy, sống phần lớn với thiền ấy, không có thối đọa. Khi thân hoại mạng chung được sinh cộng trú với chư thiên ở Phạm chúng thiên. Tuổi thọ vô lượng của Chư Thiên Phạm Chúng là một kiếp (theo chu kỳ tăng giảm của địa cầu). Tại đấy kẻ phàm phu sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư thiên ấy, đi đến địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. C̣n đệ tử Như Lai tại đấy, sau khi an trú cho đến hết tuổi thọ ấy, sau khi sống trọn vẹn tuổi thọ của chư thiên ấy, nhập Niết Bàn trong hiện hữu ấy. Này các Tỳ Kheo, đây là sự đặc thù, đây là sự thù thắng, đây là sự sai khác giữa Thánh đệ tử có nghe Pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp về vấn đề sanh thú.
“Lại nữa, này các Tỳ Kheo, ở đây có hạng người làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy... sinh về cơi Quang Âm Thiên thọ hai kiếp...
“Có hạng người ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, cảm thọ diệu lạc... của thiền thứ ba... sinh về Biến Tịnh Thiên... sống bốn kiếp...
“Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh... sinh về Quảng Quả Thiên... sống năm kiếp...”
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 12 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:38am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Những tầng bậc Thiền Định từ Sơ thiền đến Phi phi tưởng không phải chỉ riêng của đạo Phật mà ngoại đạo cũng đến rất nhiều. Bài kinh này đưọc Đức Phật dẫn riêng bốn bậc thiền đầu để so sánh sự sai khác về sau của hạng đệ tử Phật và phàm phu bên ngoài. Nếu một vị giữ ǵn rất kỹ không cho gián đoạn mức thiền đă chứng đạt, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về các cơi trời tương ưng sống hết tuổi thọ nơi đó. Tuy nhiên, v́ lư do nào đó, kẻ không phải đệ tử Phật, khi hết thọ mạng tại cơi trời sẽ trở lại, không được làm thân người, lại đọa vào ba ác đạo. Chỉ duy đệ tử Như Lai, khi hết thọ mạng cơi trời, liền thể nhập Niết Bàn. Sự sai biệt quá lớn lao đến kỳ lạ khiến chúng ta ngạc nhiên nếu không t́m thấy manh mối.
Chúng ta sẽ đối chiếu sự sai khác về nhân để có thể t́m thấy sự sai khác về quả.
Người đệ tử Như Lai là người có quy y Tam Bảo, có cúi đầu quư kính trước Đấng Chánh Đẳng Giác. Mà như đă nói, kính tin bậc giải thoát là chánh nhân để thành tựu sự giải thoát cho chính ḿnh. Đệ tử Phật là người có được chánh nhân như thế mà ngoại đạo không có.
Rồi khi đă quư kính Như Lai, người này sẽ lắng nghe học hỏi giáo lư do Như Lai tuyên thuyết, một giáo lư không phiếm diện một chiều, không lạc vào tà kiến, không dừng ở giữa đường, chỉ đưa đến tận cùng mục tiêu giải thoát, những thần thông phép lạ được từ chối, mục đích trường sinh mạnh khỏe được bỏ lại, những ái kiến ngă chấp được dứt sạch. Nương nơi giáo lư tối thượng này, vị Thánh đệ tử xa ĺa những tà kiến thế gian, không nắm giữ những nhân sinh quan, vũ trụ quan một cách lệch lạc, không tự măn với những thành quả giữa đường, thấy rơ Khổ và Nguyên nhân của Đau khổ, tin hiểu Niết Bàn vượt khổ và Con đường đưa đến Niết Bàn vượt khổ ấy.
Dù khi được sinh về cơi trời tương ưng, vị Thánh đệ tử không xem đấy là cứu cánh, không KIÊU MẠN nơi cảnh giới ấy, không thành lập ngă chấp nơi cảnh giới ấy, tiếp tục tu tập thuần thục những giai đoạn c̣n lại. Và như vậy, sau khi măn tuổi thọ của thiên giới, vị ấy nhập Niết Bàn trong hiện hữu ấy.
Ngược lại, kẻ ngoại đạo phàm phu dùng những phương tiện để nhiếp tâm rồi cũng chứng được những tầng bậc Thiền Định tương tự, sau khi thân hoại mạng chung cũng sinh về những cơi trời tương tự nhưng tác ư ban đầu khác hẳn.
Họ không biết rơ thế nào là khổ. Có khi họ cho ác báo là khổ nhưng thiện báo là vui, hoặc cho cơi này là khổ và cơi khác là vui, hoặc cho xúc năo thế gian là khổ những cảm thọ trong Thiền Định là vui. Họ dựng lập những quan niệm về vũ trụ một cách sai lầm thiên lệch, hoặc do Thượng đế sinh ra vũ trụ, hoặc cho tự nhiên sinh ra, hoặc cho hữu biên, vô biên, thường, đoạn... Họ không có nhận thức về hang ổ ngă chấp sâu kín. Họ dễ có những mục đích về thần thông phép lạ, về trường sinh mạnh khoẻ. Do thiếu chánh kiến nên họ không hướng về mục đích Niết Bàn cứu cánh. Hơn nữa họ thường kiêu mạn nơi cảnh giới chư thiên. Không ǵ tổn phước cho họ hơn tự cho ḿnh đă giải thoát Niết Bàn trong khi thật sự họ chưa hề đưọc giải thoát Niết Bàn.
Với những tà kiến lệch lạc như vậy, với mục tiêu hạn hẹp như vậy, với sự kiêu mạn như vậy, chẳng những họ không đến được Niết Bàn lại c̣n đọa trở vào ba ác đạo sau khi hưởng hết phước báo cơi trời do Thiền Định đem đến.
Chúng ta phải phân biệt sự sai khác giữa tầng bậc Thiền Định và thứ bậc đạo quả. Những tầng bậc Thiền Định được đánh giá theo mức độ lắng sâu của niệm tưởng. Niệm tưởng lắng sâu chừng nào, từng bậc Thiền Định tăng theo chừng nấy. C̣n thứ bậc của đạo quả được đánh giá theo mức độ đoạn tận kiết sử. Trong bài kinh “Được ngă tánh” – Tăng Chi1 – tr 207 – Đức Phật cũng phân biệt hai hạng người cùng đạt Phi phi tưởng định. Một người chưa dứt năm hạ phần kiết sử th́ chưa phải đạt quả vi Anahàm, c̣n phải trở lại cơi người. Một người dứt được năm hạ phần kiết sử, đạt quả vị Anahàm, không trở lại cơi người, sẽ thành tự Niết Bàn trong cảnh giới đó.
Chúng ta cũng thường nghe thấy các Yogi, Fakir (thuật sĩ), thầy phù thủy, có định lực rất sâu, có thể khởi phát thần thông phép lạ, nhưng họ vẫn là những ngoại đạo không đạt một Thánh quả nào cả. Thế nên những tầng bậc Thiền Định và những đạo quả Sa Môn khác hẳn với nhau, tuy có tương quan.
Tứ thiền là nơi rất gần với Bản thể Niết Bàn. Nếu vị này phát khởi Tam minh, thấy được Tứ diệu đế, liền thành tựu quả vị Alahán.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 13 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:39am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

7 – XUẤT GIA
(Lấy ư trong Pháp Cú truyện tích)
Sumangala, là một nông dân nghèo khổ cô độc. Tài sản của chàng chỉ là cây cuốc ṃn, manh áo và chiếc cḥi với ít vật dụng sơ sài. Có những lần trông thấy các Tỳ Kheo đi khất thực được sự đối xử ưu ái của các cư sĩ, chàng có ư định đổi nghề, bèn gần gũi t́m hiểu và xin xuất gia. Chàng được Trưởng lăo chấp nhận cho vào Tăng đoàn và được thọ giới. Nhưng không ngờ đời sống xuất gia quá nhiều giới luật ràng buộc, vật thực xin được bữa nhiều bữa ít thất thường, những cơn tọa thiền đằng đẵng đau chân quá độ. Sau nhiều lần chán nản, chàng hoàn tục.
Đời sống cư sĩ nghèo khổ trở lại với chàng cũng những nỗi lo âu tính toán bất an khiến chàng nhớ đến đời sống xuất gia tuy thanh bần nhưng mà thư thái. Chàng xin xuất gia như trước.
Các tâm trạng mâu thuẫn cứ kéo chàng vào rồi lại kéo chàng ra đến lần thứ sáu. Sau khi nhận thức nỗi khổ của trần gian, tính cách vô thường của dục lạc, chàng t́m trở lại Tinh Xá, vừa đi vừa tư duy về giáo lư. Vừa đến cổng Tinh xá th́ chàng đắc Pháp nhăn thanh tịnh, chứng quả Dự Lưu. Trong lần xuất gia thứ sáu này, chàng chuyên cần tinh tấn tọa thiền, nương theo sức ngộ, chàng đạt được tam thiền. Thích thú với thánh quả, chàng thường xen vào lư luận về sự tu tập với các vị trưởng lăo. Các trưởng lăo có ư trách chàng th́ các Tỳ Kheo trẻ khác bênh vực.
“Tôn giả Sumangala có quyền tŕnh bày những kinh nghiệm đă có.”
Một trưởng lăo lên tiếng:
“Những sở đắc của Sumangala chưa hẳn đă giữ người này ở lại đây lâu.”
Quả nhiên trong một lần biến động, Tôn Giả Sumangala lại hoàn tục. Nhưng rồi Tôn Giả cũng trở lại Tăng đoàn đến lần thứ bảy, và nơi lần cuối cùng này, Tôn Giả chứng quả Alahán. Khi Thế Tôn xác nhận về thắng trí của Tôn Giả, các Tỳ Kheo khác ngạc nhiên hỏi Phật về nguyên cớ. Đức Phật cho biết, đời Đức Phật Kassapa, Sumangala cũng đă là người xuất gia. Một huynh đệ chán nản muốn hoàn tục đến tâm sự, Tôn Giả đă đồng ư khuyến khích cho người kia hoàn tục. V́ thế trong đời sống cuối cùng này, trước khi chứng đạt Niết Bàn, Tôn Giả phải chịu hơn sáu lần hoàn tục.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 14 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:41am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

NHẬN XÉT:
Theo lời Phật, đời sống xuất gia là điều kiện thù thắng nhất để một người có thể chứng đạt quả vị Alahán. Đời sống các Tỳ Kheo thời Đức Phật tại thế rất là đơn giản và thánh thiện, đẹp như chuyện thần thoại và cao cả như trăng mùa thu. Những giới luật được giữ ǵn chu đáo đă bảo vệ các Tôn Giả ra ngoài những bận tâm lo lắng. Điều kiện vô tư lư tưởng đó không làm cho những kiết sử trổi dậy và phát triển. Kiết sử đă thúc đẩy chi phối chúng sinh tạo nghiệp, nhưng cũng chính những tác nghiệp trở lại củng cố và phát triển cho kiết sử. Đời sống gia đ́nh với vô số ràng buộc về ái trước, với vô số trách nhiệm phải lo âu, với vô số bất an và phiền muộn, khiến cho kiết sử một người có điều kiện khởi lên và phát triển. C̣n đời sống xuất gia thời Đức Phật được qui định sắp xếp cặn kẻ để giữ một vị Tỳ Kheo trong thênh thang trơ trọi với tấm y hoại sắc phất phơ bay theo gió sớm, với đôi tay ôm b́nh bát nhỏ bé đơn sơ, với bước đi giữa trần gian ung dung phơi phới. Kiết sử của vị này không bị khơi động, trái lại, công năng của thiền quán sâu xa từng bước phá tan những rớt rơi c̣n lại.
Đời sống xuất gia lư tưởng như vậy, tuy nhiên không phải ai cũng đủ duyên để có được đời sống đó. Đời sống xuất gia được thành tựu bởi hai điều kiện, phước duyên từ quá khứ và nguyện lực của hiện tại.
Thật vậy, nếu không có duyên phước từ quá khứ, một người không thể được xuất gia làm Tăng. Và nếu đời này thiếu nguyện lực mạnh mẽ, việc xuất gia cũng không thành tựu.
Có người đời trước làm Tăng, không phạm giới trọng, những giới khinh có phạm đều được sám hối, th́ đời này sẽ được làm Tăng trở lại. Nhưng thân Tăng đời này là cao Tăng hay liệt Tăng th́ tùy theo công năng tu hành của đời trước. Nếu người, ngoài việc tŕ giới chu đáo, có tu định, tu huệ, tu phước, th́ thân sau là vị Tăng có uy đức lớn. Ngược lại nếu người tuy có tŕ giới nhưng thiếu tu định, tu huệ, tu phứớc th́ thân sau làm Tăng tầm thường. Đó là nói theo phương diện làm Tăng nối tiếp.
Có người chưa từng làm Tăng, nhưng do biết kính trọng Chư Tăng, biết giữ năm giới chu đáo, cũng có phước sẽ được làm Tăng. Nhưng muốn cho khi đă đủ phước làm Tăng, người này sẽ là vị Tăng khả kính, có uy đức th́ những khi c̣n là cư sĩ họ phải tu thêm về Thiền Định, trí tuệ, thân cận cúng dường học hỏi với những vị Thánh Tăng. Không ǵ thành tựu Tăng phước nhanh chóng và lớn lao bằng thân cận cúng dường học hỏi với bậc chân sư đạt đạo. Người nào đă từng có cơ duyên hội ngộ với bậc Thánh và biết đem trọn ḷng tin kính, người này sẽ nhanh chóng được phước làm Tăng.
Do giới hạnh trong hiện tại nên một vị xuất gia được sự cung kính cúng dường của cư sĩ. Tuy nhiên địa vị khả kính đó cũng xuất phát từ công đức cung kính mọi người, cung kính bậc Thánh nào đó trong quá khứ. Do phước phổ kỉnh đó nên người này thành tựu vị trí của vị Tăng đáng kính. Nhưng nếu ai chỉ lo gieo phước phổ kỉnh mà thiếu giới hạnh chân thật sẽ chỉ được phước mà kém đức. Đức của vị Tăng chính là giới hạnh trong đời sống hiện tại.
Khi đă được làm Tăng rồi, nếu vị này vuông tṛn giới hạnh, tiến tu định huệ sâu xa, những cấu uế của tham, sân, tật đố, kiêu mạn, ích kỷ,... được kiểm soát để từ bỏ dần dần, vị này là vị Tăng sáng chói uy đức, đạo quả đang đợi chờ, nẻo ác đă đóng lại, lối thiện rất thênh thang.
Ngược lại, nếu đang được làm Tăng, nhưng vị này không học tập giới hạnh kỹ lưỡng, không kiểm soát để từ bỏ những cấu uế của tham, sân... lại có thói quen công kích kẻ này, chỉ trích kẻ kia, có khi chủ quan đả phá luôn những bậc tu hành chân chính. Người như vậy có thể mất phước làm Tăng trong hiện đời, bỗng nhiên tự khởi ư niệm hoàn tục.
Khi hỏi về B́nh thị giả, Thiền sư Minh An (Đồng thời với Ngài Phần Dương Thiện Chiêu.) chỉ vào tim nói:
“V́ trong này không tốt – rồi lấy tay chỉ vào hổ khẩu ḷng bàn tay – nên về sau sẽ chết tại chỗ này.”
Trước khi tịch, Minh An lại nói:
“Ta mất đến mười năm không có việc ǵ, qua mười năm sẽ có Thái Dương Sơn đánh ta.”
Minh An mất, Thái Dương B́nh thị giả kế tiếp trụ tŕ. Mười năm sau, B́nh đ̣i quật mồ Minh An lên. Chúng hết sức ngăn cản, B́nh quyết thực hiện. Khai quan tài ra th́ thi thể Minh An tươi tắn hồng hào như c̣n sống, dầu và củi đốt măi không cháy. B́nh tự tay cầm búa chẻ vỡ đầu Minh An, đổ thêm dầu vào đốt cho kỳ được. Chúng phẩn uất đến báo quan trấn sở tại. Quan truyền đuổi B́nh ra khỏi viện, cởi pháp phục bắt làm người thường. B́nh đổi tên là Hoàng Tú Tài, đi đâu cũng không được ai trọng dụng. Một hôm B́nh đến ngă ba đường bị cọp vồ chết đúng như lời Minh An sấm kư.
B́nh thị giả có kiến giải về thiền đạo rất sắc bén khiến cho các bạn đồng môn phải nễ phục và cả về sau đủ uy tín để nối tiếp trụ tŕ. Nhưng B́nh không biết dùng sức sáng tỏ tỉnh giác của tâm để xoay lại trừ diệt những cấu uế của tâm. Trái lại, đă dùng sở đắc của tâm để tranh hơn với mọi người. Tâm trạng tranh hơn đó càng dữ dội khi B́nh muốn gạt bỏ tháp của Minh An ra khỏi tự viện. Ác tâm quá mạnh khiến B́nh đang tâm cầm búa chém vỡ đầu của thầy ḿnh khi mà thân thể của Ngài Minh An sau mười năm vẫn tươi tắn không hoại.
Ngài Minh An đă thấy trước sự kiện này mấy mươi năm và đến khi xảy ra mọi người mới hiểu rơ.
B́nh thị giả đă làm việc tổn phước nặng nề nên phước làm Tăng bị đoạn dứt liền ngay sau đó. Quảng tháng ngày c̣n lại là cô độc thất thời bị cọp vồ chết nơi đầu đường cuối ngơ.
Có một số người tu thiền được một chút phần triền cái tan vỡ, ngộ được một chút phần tâm sáng tỏ rỗng rang. Nhưng họ không khéo dùng sức tỉnh giác đó để kiểm soát những tập khí tham lam, sân hận, hơn thua và đoạn trừ hết hẳn, trái lại, họ dùng sức tỉnh giác đó để phô bày, để đối đáp thiền ngữ tranh hơn, tranh thua. Chưa có sở đắc th́ c̣n dễ thương, khi có chút sở đắc rồi th́ ngă mạn không ai chịu nổi người như vậy, sẽ không được làm Tăng, và nếu đă được làm tăng có khi phải lui lại thế tục.
Riêng Ngài Sumangala đă chứng quả Dự Lưu, đă đạt đến tam thiền, thế mà vẫn thêm một lần hoàn tục. Tôn giả không rơi vào trường hợp đă nói, chỉ bị một quả báo từ quá khứ xa xôi là đă tán đồng khi một huynh đệ muốn từ bỏ Tăng đoàn trở về thế tục. Để trả quả báo này, trong đời sống cuối cùng Tôn giả phải hơn sáu lần hoàn tục. Qua sự kiện này chúng ta thấy chẳng phải nghiệp chỉ đơn thuần chi phối hoàn cảnh hoặc thân thế, mà c̣n chi phối hướng dẫn cả tâm niệm của chúng ta. Một người đă chứng Dự Lưu, đă đạt Tứ Thiền mà c̣n khởi niệm hoàn tục là điều ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, thế mà điều đó vẫn có.
Nếu chúng ta đă tạo ác nghiệp th́ bây giờ phải chịu hậu quả, điều đó ai cũng chấp nhận. Nhưng do đâu chúng ta lại khởi tâm niệm muốn tạo ác? Do thói quen tạo ác đời trước chăng? Do mối thù với đối tượng thuở xưa chăng? Có thể như vậy, nhưng c̣n một nguyên nhân không kém phần quan trọng, đó là chỉ trích kẻ ác quá đáng! Thật vậy, nếu chúng ta chỉ trích lỗi lầm của ai một cách quá đáng, về sau chúng ta sẽ mắc phải những lỗi lầm giống hệt như thế. Ông Edgar Casey đă t́m thấy nguyên nhân của bệnh đồng tính (Homo sexuel) nơi một người chỉ v́ trong quá khứ, khi làm họa sĩ, người này đă vẽ những bức tranh khôi hài để châm biếm những kẻ bị bệnh đồng tính.
Ngược lại cũng vậy, nếu chúng ta thường tán thán ca ngợi sự cao thượng Thánh thiện của bậc vĩ nhân nào đó, chúng ta sẽ lần lượt thành tựu những đức tính đáng quí kia. Tôn Giả Sumangala đă tán đồng hành vi hoàn tục của người huynh đệ nên đời này tự ḿnh khởi niệm hoàn tục. Nhưng cũng do công đức tu tập sâu dày của quá khứ nên Tôn Giả chiến thắng được ư niệm trước và... xuất gia đến bảy lần để lần cuối cùng đoạn tận khổ đau.
Tuy nhiên vấn đề cần phải đặt lại, đạo Phật không bao giờ cố định một chiều. Nếu mọi tâm niệm đều là sản phẩm của nghiệp quá khứ mà hiện tại chúng ta đành xuôi tay chấp nhận th́ không thể có sự tu hành giải thoát. Aùi quá khứ sẽ tiếp tục sinh ra ái hiện tại và nối tiếp măi đến vị lai. Những duyên nợ vợ chồng ràng buộc, những thù hận đấu tranh sẽ măi măi tái diễn để chúng ta phải ch́m sâu trong vũng bùn sinh tử. Nhưng may mắn thay, nguyên nhân của đau khổ thuộc về triết lư chứ không (hẳn) thuộc về Nghiệp báo. Nghiệp quá khứ có thể trổi dậy để chi phối tâm niệm chúng ta, nhưng chúng ta có sức mạnh của giáo lư, có sức mạnh của chánh tư duy, của chánh kiến, chánh định... để có thể TỰ TẠI làm chủ tâm niệm đó. Gặp lại kẻ thù tiền kiếp, tâm niệm sân hận và ganh ghét sẽ trổi dậy ngự trị tâm ư chúng ta, nhưng công năng của Thiền Định khiến chúng ta đủ sức chế ngự nó, kiểm soát nó và hóa giải nó. Gặp lại người mến thương nhiều đời tâm chúng ta sẽ trổi dậy niềm ưu ái quyến luyến khó xa. Nhưng sức mạnh của chánh kiến, chánh tinh tấn, chánh định, sẽ đủ sức giúp chúng ta vượt bỏ nó, chiến thắng nó. Như thế, nơi tâm niệm, giáo lư có thể thắng được Nghiệp báo, và phải như vậy mới có sự tu hành giải thoát.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 15 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:42am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

8 – H̉A HỢP TĂNG
(Trích Tăng Chi 33, tr 76)
“Bạch Thế Tôn, phá hoại ḥa hợp Tăng đem lại kết quả ǵ?”
“Này Ananda, đem lại tội ác kéo dài đến một kiếp.”
“Bạch Thế Tôn, Tội ác ǵ kéo dài một kiếp?”
“Này Ananda. bị nung nấu trong địa ngục một kiếp.
– Kẻ phá ḥa hợp Tăng
Bị rơi vào đọa xứ
Bị rơi vào địa ngục
Kéo dài đến một kiếp
Ưa thích sự bất ḥa
An trú trên phi pháp
An ổn các khổ ách
Lại xa ĺa, từ bỏ
Ai phá sự ḥa hợp
Của Tăng chúng Tỳ Kheo
Trong một kiếp người ấy
Bị nung nấu địa ngục.”
“Bạch Thế Tôn, với chúng tăng bị phá, làm cho ḥa hợp lại, đem đến kết quả ǵ?”
“Này Ananda, đem đến Phạm công đức!”
“Bạch Thế Tôn thế nào là Phạm công đức?”
“Này Ananda, trong một kiếp, được sống hoan hỷ ở thiên giới.
“Sống an lạc là người
Làm ḥa hợp chúng Tăng
Sống an lạc là người
Giúp chúng Tăng ḥa hợp
Ưa thích sự ḥa hợp
An trú trên chánh pháp
Ai khiến cho chúng Tăng
Được sống trong ḥa hợp
Trong một kiếp người ấy
Sống hoan hỷ Thiên giới.”
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 16 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:50am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

NHẬN XÉT:

Tăng là đoàn thể đệ tử xuất gia trong đạo Phật. Cùng quy y Phật pháp, cùng giữ chung giới bổn và sống theo tinh thần lục ḥa.
Thân ḥa đồng trú
Khẩu ḥa vô tránh
Ư ḥa đồng duyệt
Giới ḥa đồng tu
Kiến ḥa đồng giải
Lợi ḥa đồng quân
Từ những nguồn gốc sai biệt về giai cấp, ḍng dơi, gia đ́nh,... nhưng khi đă bước vào đời sống xuất gia, các Tỳ Kheo đều phải ḥa hợp với nhau như nước với sữa. Sự ḥa hợp của chúng Tỳ Kheo là điều kiện vô cùng quan trọng để Tăng bảo tồn tại lâu dài trong thế gian, mà Tăng bảo tồn tại tức là Tam bảo tồn tại. Như thế, sự phá ḥa hợp Tăng đồng nghĩa với phá hoại Tam bảo, và quả báo của việc phá hoại Tam bảo th́ khó lường hết nổi thê thảm của nó.
Kẻ phá ḥa hợp Tăng có thể dùng thủ đoạn nói hai luỡi, đến nơi này nói thế này, đến nơi kia nói thế khác để gây sự hiểu lầm ác cảm giữa chúng Tăng với nhau.
Rất nhiều những thủ thật để gây ly gián chia rẻ nơi một đoàn thể đông người. C̣n Đề Bà Đạt Đa đă công kích Phật, tôn xưng ḿnh để lôi kéo một số Tỳ Kheo về phe của ḿnh. Cộng với tội làm thân Phật chảy máu, Devadatta bị đọa địa ngục ngay trong hiện đời.
Tuy nhiên tất cả những lối chia rẻ chúng Tăng như thế không có nguy hại và ảnh hưởng lâu dài bằng sự độc tôn về pháp môn. Thời Đức Phật tại thế, nhiều pháp môn tu hành được chính Phật hướng dẫn nên sự sai khác về pháp môn, không đưa đến sự chia rẻ. Sau khi Phật nhập diệt, tệ độc tôn pháp môn càng lúc càng trở nên gay gắt. Ai sở trường pháp môn nào th́ chỉ tán dương pháp môn ḿnh và cực lực bài xích pháp môn của nơi khác. Ḿnh chống báng người th́ người chống báng ḿnh, cuối cùng Tăng đoàn chia năm xẻ bảy với sự ác cảm đối với nhau. Quần chúng phật tử bênh vực theo thầy tổ của ḿnh nên cũng chia rẻ chống báng lẫn nhau. Sự chia rẻ bởi độc tôn pháp môn để lại nguy hại và ảnh hưởng lâu dài hơn cả.
Nếu chúng ta trách họ tại sao độc tôn pháp môn th́ họ sẽ chứng minh đủ cách về sự hợp lư cao siêu của họ và về sự vô lư kém cơi của các pháp môn khác. Ngày nay đọc lại các luận bản của các vị đại sư của một số tông phái, chúng ta cũng c̣n thấy lối lập luận khen ḿnh chê người như thế. Phật giáo v́ thế nhuốm màu sắc chia rẻ phân hóa lâu dài. Đây cũng rơi vào lỗi phá ḥa hợp tăng mà không hay biết.
Chúng ta sở trường pháp môn tu hành của ḿnh nhưng phải cố gắng thông cảm các pháp môn khác, t́m ra điểm tương đồng với các pháp môn khác để giữ ǵn sự ḥa hợp đoàn kết trong chúng tăng Phật giáo với nhau. Nếu ngay trong Phật giáo mà sự đoàn kết c̣n lỏng lẻo rời rạc th́ làm sao chúng ta có thể tự cho ḿnh là con đường cứu độ tất cả chúng sinh.
Tuy chủ trương ḥa hợp và thông cảm pháp môn, nhưng không có nghĩa chúng ta chấp nhận những pháp môn của tà giáo ngoại đạo xen lẫn vào làm mất đi tính cách giải thoát của đạo Phật.
“Đại dương chỉ có một vị duy nhất là vị mặn.
Chánh pháp của Như Lai chỉ có một vị duy nhất là vị giải thoát”
Tất cả pháp môn nào thực tế, đặt trên căn bản giới định huệ, không mang vẽ thần bí huyền hoặc, hướng về sự giải thoát, đều được chúng ta chấp nhận là của đạo Phật. C̣n những pháp môn nào bộc lộ rơ tính chất mê tín, không đặt trên nền tảng giới định huệ, không chú trọng giải trừ tham sân si, không hướng về sự giải thoát, chúng ta không xem đó là của đạo Phật. Những pháp môn tu hành trong đạo Phật rất nhiều, thích hợp với các căn cơ sai biệt của chúng sinh, ưu về khía cạnh này mà khuyết ở khía cạnh khác. Không bao giờ có một pháp môn đầy đủ mọi ưu điểm. Ai xưng tán một pháp môn nào đó là toàn vẹn về mọi công năng, đó là kẻ cạn cợt thô thiển. Đừng áp đặt người khác, với căn cơ sai biệt của họ, lại phải thực hành theo pháp môn của ḿnh.
Chẳng những chúng ta không chống báng mà cần phải có tâm tùy hỉ với pháp môn khác khi thấy họ giáo hóa được thịnh hành. Sự chia rẻ đa số đều bắt đầu bằng sự ganh tỵ. Nếu ít người nghe theo sự giáo hóa của ta th́ chúng ta phải xét lại ḿnh. Có khi v́ đức độ ḿnh chưa đủ. Có khi v́ trong nhiều đời chúng ta ít duyên với chúng sinh. Tuy chúng ta không có duyên giáo hóa chúng sinh, nhưng người khác làm được việc đó th́ cũng quá tốt rồi. Tại sao chúng ta phát nguyện độ tất cả chúng sinh để cho chúng sinh bớt khổ, mà không vui vẽ khi chúng sinh được hóa độ dù bởi bất cứ vị Tăng nào khác? Đâu phải sự giáo hóa là độc quyền của chúng ta. Nếu chúng ta không gạn lọc bản chất anh hùng cá nhân th́ thế nào chúng ta cũng sẽ trở thành thủ phạm chia rẻ trong Phật giáo.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 17 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:51am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Đất nước Việt Nam đang có sự đối diện của hai hệ thống lớn: Nguyên thủy và Đại thừa. Nguyên thủy công kích Đại thừa là ngoại đạo Bà La Môn, Đại thừa công kích nguyên thủy là tiểu thừa, là hạt giống lép. Sự phân hóa lớn lao này kéo dài ngót mấy ngh́n năm lịch sử mà chưa được giải quyết. Hiện nay nhiều học giả Phật giáo đang t́m cách hàn gắn lại sự phân hóa này. Thật ra đầy dẫy những bằng chứng để chúng ta có thể chứng minh sự duy nhất của hai hệ thống nếu chúng ta có thực hành tu tập, có cố gắng khách quan thông cảm lẫn nhau. Các vị Nguyên thủy trung thành với kinh điển chánh thống từ thời Phật tại thế cũng nên khách quan thông cảm những đóng góp của giáo lư Đại thừa như là sự phát triển về lư luận của Phật giáo. Có những sự thật mà Phật không cần nói trước, chỉ ai chứng đến sẽ tự biết, ví dụ như tâm Đại bi của vị giải thoát, hoặc như công hạnh đi vào sanh tử để giáo hóa chúng sinh sau khi việc ḿnh đă xong... Sau này các tổ Đại thừa tiết lộ và tán dương cực lực những nét tích cực của một vị đă đạt đến Niết Bàn. Nét tích cực của kinh điển Đại thừa và phong thái trầm mặc ung dung của kinh điển Nguyên thủy chỉ là hai khía cạnh của một vấn đề duy nhất: Niết Bàn! Chỉ có người chưa thực chứng mới phản đối để thấy có sai biệt mà thôi. Nếu ai cố gắng ủng hộ sự thống nhất của hai hệ thống này, người đó có được công đức vĩ đại về việc làm thành ḥa hợp Tăng.
Sự đoàn kết ḥa b́nh luôn luôn được những người có lương tâm ca ngợi trên khắp thế giới. Chẳng riêng ǵ đạo Phật mà cả loài người đều cần được đoàn kết ḥa hợp với nhau. Người nào đoàn kết mọi người với nhau sẽ cảm báo quyến thuộc đông vầy, niềm vui thường hiện hữu. Phật biểu tượng niềm vui đó là sống ở Thiên xứ lâu dài. Những người đấu tranh t́m ḥa b́nh cho thế giới, dù thất bại hay thành công, cũng đều là những người đáng kính.
Sự phân biệt chủng tộc cũng là điều chia xẻ lớn lao của loài người, và những kẻ có lương tâm đều đau ḷng v́ việc này. “Stop apartheid” (Chấm dứt phân biệt chủng tộc) là tiếng kêu gọi thống thiết từ lâu.
Rồi các tôn giáo và ḷng cuồng nhiệt với niềm tin nơi giáo chủ của ḿnh cũng từng là nỗi đau đớn cho lịch sử nhân loại. Nhân danh tôn giáo họ đă giết hại đồng loại không thương tiếc. Họ bảo vệ cái thiện “của tôn giáo họ” bằng cách làm việc cực ác. Ngày nay chúng ta cần b́nh tĩnh khách quan nh́n lại mọi vấn đề, đừng quá độc tôn nơi tôn giáo ḿnh và mạt sát tôn giáo người. Bên nào cũng có những điểm dễ thương của nó. Ngày xưa nhóm Soufi của đạo Hồi t́m cách nối giáo lư đạo Hồi với giáo lư đạo Phật. Ông Eckhart người Đức t́m cách giải thích Thiên Chúa theo quan điểm Tự Tánh của Đông phương. Thiền tông Trung Hoa Việt Nam cố gắng dung ḥa Phật, Lăo, Khổng. Nói chung những ai có lương tâm đều yêu quí sự đoàn kết của con người. Sự chia rẻ đă gây ra đau thương mất mát nhiều quá.
Ác báo chờ đợi cho những ai muốn tiếp tục đào thêm hố sâu chia rẻ giữa nhân loại, và ngược lại, hạnh phúc đă sẵn cho những ai hàn gắn được t́nh thân ái giữa mọi người.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 18 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:52am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

9 – DỄ NGỘ
(Trích Tùng Lâm tuyển tập)
Dưới pháp hội của Ngài Trí Khải có một vị cư sĩ công quả nấu cháo cho đại chúng. Một hôm ngồi nh́n lửa cháy bập bùng và củi tàn lụi dần dần, ông suy nghiệm về lư vô thường, thoát nhiên ông đốn ngộ và ngồi nhập định luôn tại đấy ngót hai ngày. Sau khi xuất định ông đến tŕnh sở đắc với Ngài Trí Khải. Trong khi đang tŕnh bày th́ sở chứng lại vượt cao hơn trước đó. Ngài Trí Khải bảo:
– Ông nói đoạn đầu th́ giống chỗ ta đến. C̣n phần sau th́ ta không biết. Nhưng hăy gác lại, ông có được túc mạng chăng?
– Bạch Ḥa Thượng, có mà không sâu.
– Ông có biết v́ túc duyên nào mà đời này dễ ngộ nhưng lại phải hầu chúng chăng?
– Bạch Ḥa Thượng, đời trước con lấy rau của chúng Tăng đem cho khách, nên đời này phải làm người hầu chúng đền trả. Nhưng công phu tu hành luôn gắng giữ ǵn không để mất, nên đời này con dễ ngộ.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 19 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:52am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

NHẬN XÉT:
Nơi ông cư sĩ này chúng ta bắt gặp hai nhân duyên đi theo hai hướng khác nhau. Một thuộc về Nghiệp báo thế gian, hai thuộc về nhân duyên xuất thế gian.
V́ ông lấy đồ trong chúng Tăng đem cho khách nên trở lại làm người thấp kém hầu hạ chúng Tăng để đền trả quả trước. Chúng ta không biết rơ ông đă làm việc này rất nhiều lần hay chỉ một lần, chỉ biết rằng xâm phạm tài vật của chúng Tăng th́ bị tổn phước rất nhiều. Có người thiếu công đức Thiền Định trí tuệ, xâm phạm tài vật chúng Tăng liền đọa vào ác đạo mất hẳn thân người. Ông cư sĩ này có công đức Thiền Định trí tuệ nên không bị đọa vào ác đạo.
Riêng ông cư sĩ đă thúc liễm tu hành không để lơi lỏng nên nhân duyên Thiền Định rất sâu dày, đời này chỉ qua một lúc quán vô thường liền có sở đắc sâu xa. Với sự kiện này chúng ta cũng giải đáp được v́ sao măi đến thế kỷ thứ 6 (Hơn một ngàn năm sau Phật Niết Bàn) mới bắt đầu thịnh hành lối trực chỉ của Thiền tông Trung Hoa. Các thiền khách là những người đă từng có sở đắc nhiều đời, đời này gặp thiền sư gợi ư chớp nhoáng liền thấy lại tŕnh độ quá khứ. Từ đây chỉ việc tinh tấn đi tiếp đoạn đường c̣n lại. Chẳng những Thiền tông có phương tiện hay hơn các tông phái khác, chỉ v́ người học đă thuần thục nhiều đời. Nếu lối trực chỉ là hay th́ tại sao áp dụng cho người này có kết quả mà áp dụng cho người khác lại không có kết quả? Cũng cùng một vị thầy, nhưng đệ tử th́ người ngộ người không. Nếu đời này chúng ta tu tập dễ dàng, tâm sớm vào định được ngộ, th́ phải biết do nhân duyên tinh tấn của đời quá khứ và những thiện nghiệp trong lành. Chúng ta đừng theo đoạn kiến (thấy có một khúc ngắn) rồi cho rằng phương tiện này hơn, phương tiện kia kém, độc tôn nơi ḿnh mà chống báng nơi người. Dù chúng ta thành tựu nhờ pháp môn này, nhưng cũng đừng cho đó là tuyệt đối. Pháp môn chúng ta tu tập là nhân duyên riêng của chúng ra, không phải của tất cả mọi người.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 20 of 49: Đă gửi: 10 April 2005 lúc 2:55am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Sự độc lập về Nghiệp báo thế gian và Nghiệp báo xuất thế gian được thể hiện rơ nơi trường hợp ông cư sĩ này. Có thể có người phước tướng đẹp đẽ trang nghiêm, đạt được những danh vọng địa vị đáng kể, nhưng chưa chắc là sẽ dễ dàng thành tựu Thiền Định trí tuệ. Ngược lại, người dung mạo tầm thường xoàng xĩnh, danh vọng uy quyền ít ỏi, nhưng vẫn có thể là người mau chóng vào sâu các tầng bậc Thiền Định và quả vị. Và khi người này đạt được quả vị th́ bất hạnh cho những kẻ nào lấy dung mạo bên ngoài để xem thường vị ấy.
Người ở trong chúng Tăng được giữ địa vị lớn tức là người đă từng làm lợi ích cho chúng Tăng với nhiều cách thức của vật chất và tinh thần. Ngược lại người làm tổn hại chúng tăng th́ sẽ trở thành kẻ có địa vị nhỏ. Nhưng địa vị lớn hay nhỏ của người này không liên hệ ǵ đến công phu Thiền Định bên trong. Nếu chúng ta biết kính trọng một đại đức với phước và uy quyền của vị ấy th́ chúng ta cũng phải biết kính trọng một vị khác với công đức tu hành ẩn một bên trong. Chúng ta dễ bị h́nh tướng chinh phục để đạt đến niềm kính trọng nông nổi hơn là t́m hiểu công phu nội tại để gởi gấm một niềm tin bền vững lâu dài.
Tuy nhiên trong tất cả, chúng ta khéo léo vừa làm lợi ích chúng Tăng, vừa tinh tấn Thiền Định th́ phước huệ cùng thành, thân sau ra đời dễ giáo hóa chúng sinh. Đức Phật là một tấm gương tiêu biểu về sự cụ túc viên măn cả phước và huệ.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

Trang of 3 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.0664 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO