Tác giả |
|
Caytre Hội viên


Đă tham gia: 22 January 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1441
|
Msg 1 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 12:17am | Đă lưu IP
|
|
|
Mệnh Mộc Cục Mộc sinh phùng tuyệt địa
Thế Âm Dương
Tử Vi: Thìn bị Tuần
Phá Quân: Tuất đồng cung Thái Tuế
Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi tại Nô nhưng Nguyệt hóa Quyền tự Khoa lại nằm trong chính vị của Tam Hóa Liên Châu
Triệt: Trường hợp này tác dụng yếu (TBCT06) (kiểm nghiệm)
Phân Kim:
Mệnh Liêm Trinh, Thân Tử Vi đới Thiên Tướng, nằm trong Tam Hợp Tử Vũ Liêm nên vị trí của Thái Dương đóng phần quyết định. Thái Dương trong thế tranh huy, nhưng Nguyệt hóa Quyền trong thế Tam Hóa Liên Châu, thành ra sự thành bại của cuộc đời lại nằm ở Nô Cung vậy.
Mệnh Cách:
Liêm Trinh miếu địa, Mã Khốc Khách, Hợp Lộc Củng Lộc, Khoa Lộc, Tả Hữu, Long Phượng, Thai Tọa, Thiên Mã Tam Thai, Lộc Mã Giao Trì.
Quan Cách:
Phủ Vũ sáng đẹp, Xương Khúc chiếu thêm Lưỡng Khúc Trùng Phùng
Thân Cách:
Tử Tướng lạc Thiên La bị Đà La vây hãm tiếp, may có Tuần phá giải và làm Mộc cục không thực Suy để thân vượng lên.
Nếu xem mệnh Thân như trên thì ít ra cũng làm Thượng Thư, vì Liêm Trinh rất sáng và Thiên Mã đắc lực.
Người Lưỡng Khúc trùng phùng nên Nguyễn Tướng Công văn võ song toàn. Quan có Vũ Phủ thì tài kinh bang tế thế có thừa. Nhưng tiếc thay, Liêm Trinh không nên gặp Văn Khúc, dù là miếu địa thì khó tránh khỏi cái họa do tài hoa. Quả vậy, dù được triều đình trọng dụng bằng chứng là vì tài giỏi quá nên dù cách chức rồi nhưng cuối cùng khi cần vua cũng phải dùng đến, nhưng có bao giờ vua tin đâu, nên đâu có được vào nội các hay cơ mật viện. Tài của Nguyễn Công Trứ, thượng thư Trương Đăng Quế, Phạm Đăng Hưng làm sao sánh nổi. Vậy mà
Đây với Đó tuy đai tuy mão
Đó với Đây khác chức khác tài
Đây hãn mã công dày xã tắc
Đó ngồi trên Đây có tức không? hehehe
Thêm Mã Khốc Khách Song Lộc Tam Thai thì uy danh lừng lẫy dẹp Phan Bá Vành, phá Nông Văn Vân, bình Cao Miên, công hãn mã từng ấy nhưng tiếc thay tuy uy danh lừng lẫy nhưng phóng túng khinh mạn cũng mấy ai hơn khi Song Hao Dần Thân dẫu đắc nhưng cũng khiến Mã giãm bao phần uy nghi lẫm liệt.
Cái chất vừa tài hoa nặng nợ tang bồng nhưng không kém phần khinh mạn thể hiện rất rõ qua bộ "Liêm Khúc và Tuấn Mã gặp Hao", khi khoa trường lận đận thì
"Có trung hiếu nên sống trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây"
Đến tóc pha sương mới đặng chút danh, đường hoạn lộ bao phen voi chó, sống sân rồng phải xét mặt rồng, nghe tiếng sấm vô thường quở phạt, chút danh tàn theo cánh vạc bay. Chi bằng tiêu thú qua ngày, thông rừng đâu sợ chút oai của trời.
"Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông"
hahahahaha
Cách lận đận khoa trường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ thể hiện ở điểm Lưỡng Khúc phùng Kỵ. Vũ Khúc tại cung Quan tự Kỵ nên mới thành cách Văn Khúc phùng Kỵ "Văn nhân bất nại". Chứ sinh phùng Tuyệt địa thì chỉ liên quan đến bổn mạng lận đận thôi, không phản ánh đầy đủ cái nét học giỏi mà thi rớt hoài, làm quan thì bị lắm người ghét, xuống chó lên voi. Thói thường làm quan thời nào cũng phải có phe cánh, ông bị Vũ tự Kỵ tại cung Quan nên trong quan trường bị ghét thì làm sao có phe mạnh để hậu thuẫn. Chứ nếu NCT có phe trong triều thì đâu có thể thăng trầm vô độ như vậy.
Điểm Vũ tự Kỵ này năm ở Cung Tý nên hơi khó xem trong cách sao Tự Hóa. Vì tính theo lịch kiến dần thì chỉ tới 10 cung thôi, còn 2 cung Tí Sửu thì không biết phải căn cứ vào con giáp trước hay sau. Nếu tính theo con giáp trước trong lá số NCT thì 2 cung này là Nhâm Tí, Quý Sữu rồi đến Giáp Dần. Nếu tính theo con Giáp sau thì 2 cung này là Giáp Tí và Ất Sữu.
Nhưng nhờ lá số này mà CT đặt giả thuyết là nên căn cứ vào con giáp trước tức là Nhâm Tí Quý Sữu vì vị trí của Triệt Không là Nhâm Quý và theo cách của Kỳ Môn thì 2 cung này nên là Nhâm Quý. Tạm thời như vậy trước đi, sau này từ từ nghiệm nhiều số rồi mới kết luận.
Và theo TBCT thì Triệt trong trường hợp này tác dụng rất yếu nên Hóa Kỵ mới có tác dụng dữ dội làm 1 anh học trò nghèo tài hoa dâng "Thái Bình Thập Sách" tức là 10 kế sách làm đất nước thái bình lại quá sức lận đận trong đường hoạn lộ như vậy.
May là Kỵ có Khoa đồng cung nên không đến nổi ôm hận quan trường như Trần Tế Xương.
Cung Nô: Quyết Định đường Công Danh
Tử Vi Tối Trọng Âm Dương
Cung Nô vừa là Lính của ta mà cũng là Vua của Ta. Cung Nô quá sức sáng đẹp, Nhật Nguyệt Đồng Lâm Tam Hóa Liên Châu, Giáp Tả Hữu, Phượng Long, Thai Tọa lại nằm trong tam hợp Lộc Tướng Ấn thì mạnh hơn Mệnh Thân rất nhiều. Một cung lẻ ra nên Không Vong mà sáng đẹp như vậy thì làm sao là lính ta được mà phải là xếp, là vua là người ban ơn mưa móc cho ta thôi.
Thêm vào cái thế Âm Dương này, mệnh thuộc dòng Tử Vi thuộc Dương mà Dương thì yếu hơn Âm, Âm đang ở thế bá chủ thì Dương phải tòng Âm, Thái Âm biểu trưng cho chính nghĩa của dòng Phá Quân, nay Thái Âm sáng rực như vậy mà Phá Quân lại nắm quyền Thái Tuế thì mệnh muốn suông sẽ phải Tòng theo cung Nô vậy.
Thân sinh của Nguyễn Công Trứ là cụ Nguyễn Công Tấn vốn làm quan dưới đời Lê Chiêu Thống, ơn vua lộc nước bao đời đã gởi nơi họ Lê, nay thời thế thay đổi nhưng cái tâm trạng Hoài Lê "Thăng Long Hoài Cổ" của kẻ sĩ Bắc Hà vẫn còn mang mác lòng người.
"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nay thời thế thay đổi, Nguyễn triều kế truyền quốc tộ, kẻ sĩ Bắc Hà tuy thân nương cửa Phú Xuân, nhưng tránh sao cho khỏi lòng hoài niệm đất Thăng Long. Triều đình còn nghi kỵ Kẻ Sĩ Bắc Hà, nên nhiều người phải thể hiện mình "Thức thời giả vi tuấn kiệt", Nguyễn Công Trứ nằm trong số kẻ sĩ thức thời đó.
Khi vào vận 43-52 tại cung Quan có Khoa, chịu nương nhờ ánh sáng của cung Nô là tâm điểm của Tam Hóa, thể hiện một sự thức thời rất rõ ràng, nên trong suốt 10 năm này đường công danh tuy mới khởi đầu nhưng rất suôn sẽ, chỉ có thăng mà không có giáng.
Còn tiếp (xin đừng chen vô giữa chừng)
Sửa lại bởi Caytre : 25 June 2004 lúc 2:01am
__________________ Vinh danh Như Ư phù suy bất phù thịnh
(Vinh danh một tuần)
|
Quay trở về đầu |
|
|
VDTT Thượng Khách

Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 2 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 2:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Anh Cây Tre thân,
Đừng quên rằng ḍng tháng trôi liên miên bất tuyệt.
Lịch kiến Dần không hề có vấn đề với hai cung Tí Sửu.
Can Tí = Can Dần
Can Sửu = Can Măo
Ngoài ra, Tử Vi bắt buộc phải dùng lịch kiến Dần. Bởi đây là cái lư toàn bộ của cặp sao Âm Dương (Âm khởi Dần, Dương khởi Tư).
Vài ḍng chia sẻ.
Sửa lại bởi VDTT : 25 June 2004 lúc 2:03am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Caytre Hội viên


Đă tham gia: 22 January 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1441
|
Msg 3 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 2:03am | Đă lưu IP
|
|
|
Chú VDTT kính
Từ từ ạh, chưa xong đâu.
Kính
CT
__________________ Vinh danh Như Ư phù suy bất phù thịnh
(Vinh danh một tuần)
|
Quay trở về đầu |
|
|
Caytre Hội viên


Đă tham gia: 22 January 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1441
|
Msg 4 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 2:37am | Đă lưu IP
|
|
|
Mệnh Mộc Cục Mộc sinh phùng tuyệt địa
Thế Âm Dương
Tử Vi: Thìn bị Tuần
Phá Quân: Tuất đồng cung Thái Tuế
Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi tại Nô nhưng Nguyệt hóa Quyền tự Khoa lại nằm trong chính vị của Tam Hóa Liên Châu
Triệt: Trường hợp này tác dụng yếu (TBCT06) (kiểm nghiệm)
Phân Kim:
Mệnh Liêm Trinh, Thân Tử Vi đới Thiên Tướng, nằm trong Tam Hợp Tử Vũ Liêm nên vị trí của Thái Dương đóng phần quyết định. Thái Dương trong thế tranh huy, nhưng Nguyệt hóa Quyền trong thế Tam Hóa Liên Châu, thành ra sự thành bại của cuộc đời lại nằm ở Nô Cung vậy.
Mệnh Cách:
Liêm Trinh miếu địa, Mã Khốc Khách, Hợp Lộc Củng Lộc, Khoa Lộc, Tả Hữu, Long Phượng, Thai Tọa, Thiên Mã Tam Thai, Lộc Mã Giao Trì.
Quan Cách:
Phủ Vũ sáng đẹp, Xương Khúc chiếu thêm Lưỡng Khúc Trùng Phùng
Thân Cách:
Tử Tướng lạc Thiên La bị Đà La vây hãm tiếp, may có Tuần phá giải và làm Mộc cục không thực Suy để thân vượng lên.
Nếu xem mệnh Thân như trên thì ít ra cũng làm Thượng Thư, vì Liêm Trinh rất sáng và Thiên Mã đắc lực.
Người Lưỡng Khúc trùng phùng nên Nguyễn Tướng Công văn võ song toàn. Quan có Vũ Phủ thì tài kinh bang tế thế có thừa. Nhưng tiếc thay, Liêm Trinh không nên gặp Văn Khúc, dù là miếu địa thì khó tránh khỏi cái họa do tài hoa. Quả vậy, dù được triều đình trọng dụng bằng chứng là vì tài giỏi quá nên dù cách chức rồi nhưng cuối cùng khi cần vua cũng phải dùng đến, nhưng có bao giờ vua tin đâu, nên đâu có được vào nội các hay cơ mật viện. Tài của Nguyễn Công Trứ, thượng thư Trương Đăng Quế, Phạm Đăng Hưng làm sao sánh nổi. Vậy mà
Đây với Đó tuy đai tuy mão
Đó với Đây khác chức khác tài
Đây hãn mã công dày xã tắc
Đó ngồi trên Đây có tức không? hehehe
Thêm Mã Khốc Khách Song Lộc Tam Thai thì uy danh lừng lẫy dẹp Phan Bá Vành, phá Nông Văn Vân, bình Cao Miên, công hãn mã từng ấy nhưng tiếc thay tuy uy danh lừng lẫy nhưng phóng túng khinh mạn cũng mấy ai hơn khi Song Hao Dần Thân dẫu đắc nhưng cũng khiến Mã giãm bao phần uy nghi lẫm liệt.
Cái chất vừa tài hoa nặng nợ tang bồng nhưng không kém phần khinh mạn thể hiện rất rõ qua bộ "Liêm Khúc và Tuấn Mã gặp Hao", khi khoa trường lận đận thì
"Có trung hiếu nên sống trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây"
Đến tóc pha sương mới đặng chút danh, đường hoạn lộ bao phen voi chó, sống sân rồng phải xét mặt rồng, nghe tiếng sấm vô thường quở phạt, chút danh tàn theo cánh vạc bay. Chi bằng tiêu thú qua ngày, thông rừng đâu sợ chút oai của trời.
"Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông"
hahahahaha
Cách lận đận khoa trường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ thể hiện ở điểm Lưỡng Khúc phùng Kỵ. Vũ Khúc tại cung Quan tự Kỵ nên mới thành cách Văn Khúc phùng Kỵ "Văn nhân bất nại". Chứ sinh phùng Tuyệt địa thì chỉ liên quan đến bổn mạng lận đận thôi, không phản ánh đầy đủ cái nét học giỏi mà thi rớt hoài, làm quan thì bị lắm người ghét, xuống chó lên voi. Thói thường làm quan thời nào cũng phải có phe cánh, ông bị Vũ tự Kỵ tại cung Quan nên trong quan trường bị ghét thì làm sao có phe mạnh để hậu thuẫn. Chứ nếu NCT có phe trong triều thì đâu có thể thăng trầm vô độ như vậy.
Điểm Vũ tự Kỵ này năm ở Cung Tý nên hơi khó xem trong cách sao Tự Hóa. Vì tính theo lịch kiến dần thì chỉ tới 10 cung thôi, còn 2 cung Tí Sửu thì không biết phải căn cứ vào con giáp trước hay sau. Nếu tính theo con giáp trước trong lá số NCT thì 2 cung này là Nhâm Tí, Quý Sữu rồi đến Giáp Dần. Nếu tính theo con Giáp sau thì 2 cung này là Giáp Tí và Ất Sữu.
Nhưng nhờ lá số này mà CT đặt giả thuyết là nên căn cứ vào con giáp trước tức là Nhâm Tí Quý Sữu vì vị trí của Triệt Không là Nhâm Quý và theo cách của Kỳ Môn thì 2 cung này nên là Nhâm Quý. Tạm thời như vậy trước đi, sau này từ từ nghiệm nhiều số rồi mới kết luận.
Và theo TBCT thì Triệt trong trường hợp này tác dụng rất yếu nên Hóa Kỵ mới có tác dụng dữ dội làm 1 anh học trò nghèo tài hoa dâng "Thái Bình Thập Sách" tức là 10 kế sách làm đất nước thái bình lại quá sức lận đận trong đường hoạn lộ như vậy.
May là Kỵ có Khoa đồng cung nên không đến nổi ôm hận quan trường như Trần Tế Xương.
Cung Nô: Quyết Định đường Công Danh
Tử Vi Tối Trọng Âm Dương
Cung Nô vừa là Lính của ta mà cũng là Vua của Ta. Cung Nô quá sức sáng đẹp, Nhật Nguyệt Đồng Lâm Tam Hóa Liên Châu, Giáp Tả Hữu, Phượng Long, Thai Tọa lại nằm trong tam hợp Lộc Tướng Ấn thì mạnh hơn Mệnh Thân rất nhiều. Một cung lẻ ra nên Không Vong mà sáng đẹp như vậy thì làm sao là lính ta được mà phải là xếp, là vua là người ban ơn mưa móc cho ta thôi.
Thêm vào cái thế Âm Dương này, mệnh thuộc dòng Tử Vi thuộc Dương mà Dương thì yếu hơn Âm, Âm đang ở thế bá chủ thì Dương phải tòng Âm, Thái Âm biểu trưng cho chính nghĩa của dòng Phá Quân, nay Thái Âm sáng rực như vậy mà Phá Quân lại nắm quyền Thái Tuế thì mệnh muốn suông sẽ phải Tòng theo cung Nô vậy.
Thân sinh của Nguyễn Công Trứ là cụ Nguyễn Công Tấn vốn làm quan dưới đời Lê Chiêu Thống, ơn vua lộc nước bao đời đã gởi nơi họ Lê, nay thời thế thay đổi nhưng cái tâm trạng Hoài Lê "Thăng Long Hoài Cổ" của kẻ sĩ Bắc Hà vẫn còn mang mác lòng người.
"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nay thời thế thay đổi, Nguyễn triều kế truyền quốc tộ, kẻ sĩ Bắc Hà tuy thân nương cửa Phú Xuân, nhưng tránh sao cho khỏi lòng hoài niệm đất Thăng Long. Triều đình còn nghi kỵ Kẻ Sĩ Bắc Hà, nên nhiều người phải thể hiện mình "Thức thời giả vi tuấn kiệt", Nguyễn Công Trứ nằm trong số kẻ sĩ thức thời đó.
Khi vào vận 43-52 tại cung Quan có Khoa, chịu nương nhờ ánh sáng của cung Nô là tâm điểm của Tam Hóa, thể hiện một sự thức thời rất rõ ràng, nên trong suốt 10 năm này đường công danh tuy mới khởi đầu nhưng rất suôn sẽ, chỉ có thăng mà không có giáng.
Khi vào vận 53-62 tại cung Nô, công danh thăng giáng thất thường nhưng những công nghiệp lớn lao thành tựu trong vận này khi Khốc Quyền Minh Danh Vụ Thế. Vì tuy là vận tốt nhưng không phải mình cầm vận mà phải nương theo dòng Phá Quân mà biểu trưng là Thái Âm. Tử Vi tối trọng âm dương chắc là ở những điểm này, sự thăng giáng của mình do mình làm chủ hay theo cái buồn, vui, yêu, ghét của người ta? Hơn nữa, Văn Khúc vào vận tuy gặp Thái Âm nhưng ở gặp Thiên Thương thì tránh sao cho khỏi sự bất đắc chí. Thân ôm Đà La thì tránh sao cho khỏi đôi lần phạm lỗi với Thái Âm.
Vào vận 63-72: Gặp ngay Song Hao. "Song Hao tối hiềm Hóa Lộc", ôm lấy Quan Phù nên có phen thất lộc bị án "Trảm Giam Hậu" nhưng dù sao toàn cảnh vẫn là một vận tốt vì tuy mắc nạn Thái Tuế nhưng vận có Long Trì chứng tỏ dù sao cũng là đài các chi nhân nên Tứ Linh ủng hộ không đến nổi nào. Khi cáo quan về ở ẩn dưới triều 2 triều Thiệu Trị, Tự Đức. Nguyễn Công phải xin cáo quan đến 3 lần mới được vua cho trí sĩ hồi hưu, quả là cáo quan ở cái vận có Thái Tuế Tứ Linh có khác người thường xin cáo quan là được duyệt cái rẹt cho đỡ tốn lương nhà nước.
Vận chết 73-82 thì rõ ràng rồi: Già mà vào vận Đế Vượng gặp Đào Hoa và một đống sát tinh, Cơ hóa Kỵ nữa. Có 1 điều cần lưu ý trong vận này là có Thiên Quan, Thiên Phúc nên chết rất vẻ vang, được người đời sau lập đền thờ, phong thần thánh là "Uy Viễn Tướng Công". Năm 75 tuổi, cũng trong vận này. Nhân dân 2 huyện Kim Sơn, Tiền Hải nhờ ơn của ông mà có hạnh phúc ấm no nên họ lập sinh từ (Đền thờ, thờ ngay lúc còn sống) thờ ông và mời ông ra Bắc. Ông ra Bắc không bao lâu thì triều đình sợ ở lâu có loạn nên triệu về kinh ngay, như thế đủ biết cái uy danh của Uy Viễn Tướng Công lừng lẫy như thế nào.
Sinh vi nhân, Tử vi thần
Hết
__________________ Vinh danh Như Ư phù suy bất phù thịnh
(Vinh danh một tuần)
|
Quay trở về đầu |
|
|
Caytre Hội viên


Đă tham gia: 22 January 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1441
|
Msg 5 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 2:48am | Đă lưu IP
|
|
|
VDTT đă viết:
Anh Cây Tre thân,
Đừng quên rằng ḍng tháng trôi liên miên bất tuyệt.
Lịch kiến Dần không hề có vấn đề với hai cung Tí Sửu.
Can Tí = Can Dần
Can Sửu = Can Măo
Ngoài ra, Tử Vi bắt buộc phải dùng lịch kiến Dần. Bởi đây là cái lư toàn bộ của cặp sao Âm Dương (Âm khởi Dần, Dương khởi Tư).
Vài ḍng chia sẻ. |
|
|
Cám ơn chú VDTT
CT đồng ý với chú về tháng chảy liên tục, nhưng cũng cần đặt vấn đề ngược lại, và dành thời gian để kiểm chứng.
Ngoài chuyện can tháng, còn 1 chuyện nữa. Đó là Tuần Triệt hóa giải nhau.
Nếu theo thuyết của cụ Thiên Lương thì Thân Tuần giải hạn Triệt như trong lá số cụ NCT. Nhưng thuyết Tuần Triệt tháo gỡ nhau, có lúc lại không đúng.
Một cách giải thích khác về Triệt có tác dụng yếu trong trường hợp lá số NCT theo TBCT mà CT thấy cũng cực kỳ hợp lí.
Lá số này rơi vào cả 2 cách giải thích đều đúng, có thể cả 2 cùng đúng, 1 đúng-1 sai và cả hai cùng sai vì có yếu tố mà mình chưa biết. Nên CT thấy còn phải kiểm chứng nhiều. Những bài đại loại như vậy chỉ để thí nghiệm thôi.
Kính
CT
__________________ Vinh danh Như Ư phù suy bất phù thịnh
(Vinh danh một tuần)
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
VDTT Thượng Khách

Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 6 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 3:00am | Đă lưu IP
|
|
|
Anh Cây Tre thân,
Về gịng tháng, muốn đặt ngược lại tôi e không hợp luận lư học.
Lịch kiến Dần nghĩa là tháng Dần khởi năm mới.
Lịch kiến Tí nghĩa là tháng Tí khởi năm mới.
Muốn nói rằng lịch kiên Tí đúng th́ sinh tháng 11, 12 phải lấy là năm trước. Người xưa đă thử qua rồi và phải bỏ (ngay cả Tử B́nh cũng thế; chỉ có khoa tam trụ tiền thân của Tử B́nh là dùng lich kiên Tí thôi.)
Ta phải chọn 1 trong 2, kiên Dần hoặc kiên Tí. Nếu kiên Tí nhiều sao của Tử Vi sẽ phải an khác hẳn. Ngay cả 14 chính tinh cũng thế (tôi sẽ chứng minh sự liên hệ giữa hai cung Tí Dần và cặp sao Âm Dương trong sách "Tử Vi hoàn toàn khoa học" tập 1. Cách an sao Âm Dương đă giả sử lịch là kiên Dần rồi.)
Thiết nghĩ ta chẳng thể nào lúc chọn theo kiên Dần, lúc chọn theo kiên Tí; bởi như vậy là phản lại tiêu chuẩn đồng nhất của khoa học.
C̣n khi kiểm chứng với lá số. Dùng sự thật của một lá số để nghiệm lại cái lư của tử vi tôi e không ổn (không hợp luận lư học). V́ Tử Vi tôi nghĩ chỉ chính xác khoảng 70-80 phần trăm trường hợp thôi. Biết đâu trường hợp ḿnh dùng để kiểm chứng ở trong 20-30% kia?
Nên theo tôi phải khởi từ một lư nhất quán.
Vài ḍng chia sẻ.
T.B. Chú ư rằng nếu dùng lịch kiến Tí th́ ngay cả cách an Triệt cũng đổi khác đi.
Sửa lại bởi VDTT : 25 June 2004 lúc 3:04am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Caytre Hội viên


Đă tham gia: 22 January 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1441
|
Msg 7 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 4:02am | Đă lưu IP
|
|
|
Chú VDTT kính
Kiến Dần hay Kiến Tí bản chất nếu tính theo ngũ thử hoặc ngũ hổ đều là một, chỉ khác là lấy tháng dần hay tí làm đầu thôi. Đời Hạ lấy Kiến Tí nhưng ăn tết bất tiện nên đời Chu dời lên tháng Dần. Nhưng nguyên thủy vẫn là Kiến Tí. Ngày giờ đầu tiên của lịch pháp phải là Năm Gíap Tí, Tháng Gíap Tí, Ngày Gíap Tí, Gìơ Gíap Tí. Tiết Đông Chí cũng nằm trong Tháng Tí theo lý Nhất Dương Sinh. Chuyển sang Kiến Dần là cho hợp với sinh hoạt dân gian.
Nếu xét về tính luận lí thì Triệt nếu theo Kiến Dần thì sai logic ở 2 can Mậu Quý, nhưng tính theo Kiến Tí thì không có vấn đề gì hết. Trong diễn đàn này có 1 vị chuyên gia về tử vi, tử bình, kỳ môn, lịch pháp học đã kiến giải vấn đề này từ lâu, tuy nhiên vì ý tưởng đó không phải của CT và cũng chưa được xuất bản, CT nghe qua nhưng cũng không dám mang ra tranh luận khi chưa có sự đồng ý của vị đó. Chú viết sách thì chú biết cái vụ này rồi.
Caytre hoàn toàn đồng ý là lí luận của Tử Vi đặt trên cơ sở lịch kiến Dần kết hợp đủ lý âm dương "Tháng thuận ngày nghịch".
Tuy nhiên CT hoàn toàn cám ơn thuyết Tử Vi Biệt Cách của chú, nó giải quyết được rất nhiều bế tắc hiện nay.
Hy vọng là sẽ có ngày chú và đại sư huynh gặp mặt để tranh luận về vấn đề này, ổng có nhiều vấn đề muốn tranh luận với chú lắm nhưng chưa có duyên.
Kính
CT
Sửa lại bởi Caytre : 25 June 2004 lúc 4:04am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Caytre Hội viên


Đă tham gia: 22 January 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1441
|
Msg 8 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 4:15am | Đă lưu IP
|
|
|
Nghĩ cũng xấu hổ, học hàm thụ với chú đã lâu nhưng không trả nghĩa lại được, hy vọng có ngày sẽ làm được cầu nối cho chú và đại sư huynh gặp nhau, 2 người ngang sức ngang tài một đằng Tử Vi Quốc Tế, một đằng Tử Vi Trần Thị Việt Nam, nên sẽ cùng nhau giải quyết được nhiều vấn đề trong Tử Vi hiện nay.
Kính
CT
|
Quay trở về đầu |
|
|
VDTT Thượng Khách

Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 9 of 9: Đă gửi: 25 June 2004 lúc 9:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
Caytre đă viết:
Chú VDTT kính
Kiến Dần hay Kiến Tí bản chất nếu tính theo ngũ thử hoặc ngũ hổ đều là một, chỉ khác là lấy tháng dần hay tí làm đầu thôi. Đời Hạ lấy Kiến Tí nhưng ăn tết bất tiện nên đời Chu dời lên tháng Dần. Nhưng nguyên thủy vẫn là Kiến Tí. |
|
|
Rất đúng. Nhưng h́nh như anh quên mất một điểm hết sức quan trọng trong bài toán mệnh lư (khác với bài toán lựa ngày ăn tết của các ông vua).
Tôi xin dùng cái lư của Tử B́nh để giải thích nguyên nhân.
Nếu kiên tí th́ như sinh tháng 12 (tính theo tiết khí) năm Quư Mùi (theo lịch treo tường hiện tại) chẳng hạn.
Theo lịch kiên Dần trụ tháng là Ất Sửu, trụ năm là Quư Mùi (hiển nhiên).
Theo lịch kiên Tí trụ tháng vẫn là Ất Sửu (v́ ḍng tháng đă cố định, không cần biết ta chọn lịch kiên Tí hay kiên Dần); nhưng chú ư: Tính theo cách này trụ năm là GIÁP THÂN (thay v́ Quư Mùi).
Hai trụ năm Quư Mùi và Giáp Thân hoàn toàn khác nhau, không thể lẫn lộn vào nhau; lời giải bài toán Tử B́nh sẽ khác nhau hoàn toàn.
Chi tiết hơn:
Như người sinh năm Quư Mùi (theo lịch treo tường, tức là lịch kiên Dần).
Lịch kiên Dần th́ can chi của 12 tháng trong năm là: Giáp Dần, Ất Măo, Bính Th́n, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhậm Tuất, Quư Hợi, Giáp Tí, Ất Sửu.
Lịch kiên Tí th́ can chi của 12 tháng trong năm là: Nhâm Tí, Quư Sửu, Giáp Dần, Ất Măo, Bính Th́n, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhậm Tuất, Quư Hợi.
Cho nên khi đến tháng Giáp Tí lịch kiên Dần vẫn c̣n trong năm Quư Mùi, nhưng lịch kiên Tí đă sang năm kế tiếp, tức năm Giáp Thân.
Nay xét địa bàn 12 chi (là một bài toán khác hẳn, không liên hệ ǵ đến bài toán trên):
Lịch kiên Tí th́ hai cung Tí Sửu trên địa bàn ứng với hai tháng một chạp(chữ một chạp là tàn dư của lịch kiên Tí); nghĩa là hai tháng đầu của lịch kiên Tí.
Lịch kiên Dần th́ hai cung Tí Sửu ứng với hai tháng một chạp của năm hiện tại. Nghĩa là hai tháng sau cùng của lịch kiên Dần (và sau hai tháng Tí Sửu của lịch kiên Tí đúng 12 tháng).
Hoàn cảnh khác hẳn nhau.
Tóm lại khi luận mệnh không thể tùy hứng chọn lịch kiên Dần hay kiên Tí, mà phải chọn một trong hai để xét những trường hợp có liên hệ đến đơn vị năm.
Vài ḍng chia sẻ.
TB: v/v Triệt và lịch kiên Dần:
Thực ra cách an hiện tại (Mậu Quư ở Tư Sửu) mới là hợp lô gích với lịch kiên Dần (và sai lô gích với lịch kiên Tí). Nhưng lư lẽ phức tạp; đợi sách tôi ra anh sẽ thấy lư do tại sao. Lúc ấy phê b́nh chưa muộn.
Sửa lại bởi VDTT : 26 June 2004 lúc 2:02am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|