Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 97 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Văn Hiến Lạc Việt (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Văn Hiến Lạc Việt
Tựa đề Chủ đề: Vị Thiền sư và những phát hiện lịch sử Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 1 of 20: Đă gửi: 27 February 2008 lúc 7:23pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động (trích từ báo Thanh niên)

 

Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tư liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước...

Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng Thượng tọa Thích Trí Siêu (tức giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát) vẫn để tóc. Thú thật là quá ṭ ṃ về chuyện đó, tôi mạnh dạn hỏi ông v́ sao như vậy. Ông cười phá lên, chỉ vào bức ảnh Đức Bồ đề Đạt Ma: "Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi c̣n thua ông ấy một bộ râu". Tôi ngộ ra rất nhiều điều trong tiếng cười của ông.

 Tôi đă gặp ông nhiều lần, trước hết là để viết bài về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) được tổ chức tại Việt Nam sắp tới mà ông là Chủ tịch Ủy ban quốc tế (IOC) đồng thời là Tổng thư kư Ủy ban điều phối quốc gia Đại lễ này. Tôi cũng đă đọc nhiều sách ông viết. Nhưng với tŕnh độ nông cạn của tôi, hiểu về con người cùng sở học mênh mông vi diệu của vị cao tăng này thật không dễ chút nào.

Ông không chỉ là một thiền sư, là nhà khoa học có nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ...), ông c̣n là một người Việt Nam "nguyên chất" với tất cả ḷng tự trọng tự hào về dân tộc ḿnh, thể hiện một cách lạ lùng ngoạn mục ở tất cả các công tŕnh khoa học của ông.

Trước khi nói về VESAK, tôi xin ghi lại một vài điều tâm đắc sau khi đọc, sau khi nghe ông nói và hỏi lại thật rơ những khám phá của ông về cội nguồn dân tộc, về nhiều sự thật của lịch sử nước nhà hàng ngàn năm bị che lấp hoặc bị hiểu sai lệch.

"Ông Lê Quư Đôn mà cũng lôi thôi quá !"

Xin chép ở đây hai bài thơ chữ Hán, theo tôi bài nào cũng hay đến "lạnh cả người":

   Nhị bát giai nhân thích tú tŕ

   Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly

   Khả liên vô hạn thương xuân ư

   Tận tại đ́nh châm bất ngữ th́

(Tạm dịch nghĩa: Người đẹp mười sáu tuổi nhẹ tay thêu trên gấm

Dưới khóm hoa tử kinh con chim hoàng ly đang chuyền

Thật đáng thương nỗi ḷng vô hạn đối với mùa xuân

Ngưng đọng nơi mũi kim, lặng lẽ không nói)

Đó là bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quư Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đă dẫn giải, b́nh luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đă đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc.

Một bài khác:

Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô di tích chi ư

Thủy vô lưu ảnh chi tâm

(Tạm dịch nghĩa: Chim nhạn bay dài qua không trung

Ảnh ch́m dưới ḍng sông lạnh

Nhạn không có ư để lại dấu tích

Sông không có ḷng lưu lại bóng h́nh)

Bài thơ này cũng được Lê Quư Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục,  ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công tŕnh nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đă “trả" bài thơ này lại cho tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. Nhưng không chỉ có vậy. Giáo sư Thát c̣n liệt kê trong số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học tṛ của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư. Từ đó, Lê Quư Đôn đă chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, cả 43 bài đều của các thiền sư Trung Quốc. Ông đă chỉ rơ từng bài, là của ai, ở trong tài liệu nào, tờ số mấy. "Ông Lê Quư Đôn mà cũng lôi thôi quá!", ông cười cười nói với tôi. Là ông nói đùa thôi, chứ ông biết rơ Lê Quư Đôn là người rất cẩn trọng. Ông bảo sở dĩ có sai sót này là do Lê Quư Đôn chắc chắn không biết, tức không có dịp đọc các bộ chính sử thiền tông Trung Quốc. "Hơn nữa, Lê Quư Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đă quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là đúng của Minh Châu Hương Hải, v́ chúng đă được môn đồ của vị thiền sư này cho khắc in, nên đă không tiến hành kiểm tra, t́m hiểu và so sánh", ông viết.

Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong rất nhiều công tŕnh sử học của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong khi sưu tầm, đối chiếu, xác minh và giới thiệu những cống hiến quan trọng về lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư lỗi lạc này, ông đồng thời đă cẩn trọng "trả lại cho người khác" những ǵ không phải của thiền sư, dù đó là những viên ngọc quư (như bài thơ nói trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng làm tương tự. Ông bảo những nhầm lẫn trong các công tŕnh sử học kiểu đó không những không làm vinh dự thêm cho dân tộc mà c̣n rất tai hại, nó khiến cho người ta nghi ngờ chính những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử nước ta, đặc biệt khi các bậc thức giả nước ngoài tiếp cận những tài liệu này.

Dẫn ra chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự nghiêm cẩn trong nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Nhưng ngoài sự nghiêm cẩn, ông c̣n có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Là một thiền sư, ông đă đọc hết những bộ kinh sách đồ sộ như Đại tạng kinh Tục tạng kinh chữ Hán, ông đọc trước hết là "để thưởng thức". Chính v́ vậy mà chẳng hạn như đối với trường hợp hai bài thơ nói trên, ông đă biết đến khi đọc bộ sử thiền tông Trung Quốc (trong Tục tạng kinh), nên khi nghiên cứu về Huyền Quang và Hương Hải ông đă phát hiện ngay sự nhầm lẫn.

Lịch sử dân tộc bảo tồn trong kinh Phật

Lục độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới. Tập kinh này được dịch ra chữ Hán vào thế kỷ thứ 2, truyền bản của nó đến ngày nay gồm 8 quyển, 91 truyện, tŕnh bày sáu hạnh vượt bờ của Bồ tát gồm bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các vị cao tăng đông tây kim cổ đều biết đến tập kinh này và từ lâu nó đă được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Nhật.

Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm lưu truyền của Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát có những phát hiện cực kỳ quan trọng từ tập kinh này. Ông khẳng định tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch ra chữ Hán từ một bản tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn; Tăng Khương Hội, người dịch bản kinh đó, người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là "bậc thánh hiền", là một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học hành, theo đạo Phật, hành đạo và trước tác đều tại Việt Nam). Bằng kiến thức uyên bác về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đă truy tận gốc tất cả những tài liệu cổ xưa nhất có liên quan, tiến hành khảo sát, đối chiếu, giám định và đưa ra một loạt những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác. Ông bảo tập kinh đó chứa đựng "một lượng bất b́nh thường" các tư tưởng, quan điểm và đạo lư mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam.

Phát hiện đầu tiên là Lục độ tập kinh chứa đựng truyền thuyết khởi nguồn của dân tộc, đó là chuyện một trăm trứng. Điều này hết sức có ư nghĩa, là v́ truyền thuyết đó được ghi vào sử sách bắt đầu từ bộ Đại Việt sử kư toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Truy lùi lại th́ thấy chuyện này được chép trong Lĩnh Nam chích quái. Truy nữa th́ "bó tay", không biết nó xuất phát từ đâu, chỉ thấy nó liên quan tới truyện Liễu Nghi đời... Đường bên Trung Quốc. Từ trước tới nay mọi bàn căi đều tập trung vào việc chấp nhận hay không truyền thuyết đó, mà chấp nhận hay phủ nhận nó không phải là vấn đề của lịch sử. Dân tộc nào cũng có truyền thuyết khởi nguyên, mà đă là truyền thuyết th́ ít nhiều đều mang yếu tố hoang đường, nhưng đó là hồn thiêng dân tộc. Với Lục độ tập kinh, chúng ta đă truy ra thời điểm khởi nguồn của hồn thiêng dân tộc của ḿnh.

Trong khi phát hiện truyền thuyết trăm trứng nằm trong Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát c̣n khám phá một sự thật lịch sử thú vị liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm trứng nằm trong truyện 23 của Lục Độ tập kinh, ông đối chiếu với một dị bản bằng tiếng Phạn và lại phát hiện truyền thuyết An Dương Vương giống như câu chuyện về trận đánh quyết định trong anh hùng ca Mahàbhàrata giữa hai anh em Pandu và Duryodhana. Đối chiếu với tất cả những ǵ được ghi trong Sử Kư của Tư Mă Thiên và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ng̣i bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử kư toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi. Ông cũng tiếp tục đối chiếu sử sách và khẳng định không những không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (v́ làm ǵ có An Dương Vương mà đánh!) mà nước ta cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Nước Nam Việt của Triệu Đà chưa bao giờ bao hàm nước ta trong đó cả. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau dương lịch), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, nước ta vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương, là nhà nước Hùng Vương. Nhà nước đó đă được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học... Nhà nước đó, nền văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến "khai hóa" mà có. Nó có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để tiếp thu những ǵ là tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang. Nó có đủ sự nổi trội để đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong những dẫn chứng sống động. Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước... (c̣n tiếp)

 

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 2 of 20: Đă gửi: 27 February 2008 lúc 7:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

Nếu nói các truyền thuyết An Dương Vương là không có thật th́ phải giải đáp như thế nào về Loa thành? Nếu nói nước ta đến năm 43 vẫn là nước độc lập th́ các "thái thú" Tích Quang, Nhâm Diên sang "cai trị" ở đâu?

Tất cả những kết luận của giáo sư Lê Mạnh Thát đều được đưa ra kèm theo sự so sánh đối chiếu hết sức cẩn thận, kèm theo là các tài liệu dẫn chứng cụ thể có thể tra cứu đến tận gốc. Rất tiếc giới hạn của một bài báo không cho phép chúng tôi dẫn ra đây, v́ nó quá nhiều. Về vấn đề chúng tôi đang đề cập, có thể xem: Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta - Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2006.

Làm trong sạch những trang sử của tổ tiên bờ cơi

Như chúng tôi đă đề cập, giáo sư Lê Mạnh Thát đề nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Cần biết, toàn bộ cơ sở để dựng lên thời kỳ An Dương Vương và Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ Đại Việt sử lược, rồi Đại Việt sử kư toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục... cho đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vức kư, Quảng Châu kư, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài liệu không rơ nguồn gốc và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại khái là vào thế kỷ thứ VI, thứ VII), riêng Nam Việt chí th́ có nguồn gốc niên đại rơ ràng (thế kỷ thứ V), nhưng tất cả đều mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng tin cậy. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là Sử kư của Tư Mă Thiên và Tiền Hán thơ, chúng ta hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó c̣n có những thông báo xác định rơ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập. Nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc là điều đă rơ. Vấn đề là xác định đất đai Nam Việt của Triệu Đà đến đâu? Kết luận là: Nước Nam Việt không bao giờ lan ra khỏi địa phận tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Hồ Nam và Quí Châu cũng như Quảng Tây ngày nay. Ông bảo kết luận này cũng không phải mới. "Tư không Trương Hoa đời Tấn viết Bác vật chí 2 tờ 4b11-12 cũng nói: "Nước Nam Việt cùng tiếp với Sở, Ngũ lĩnh về trước đến tới Nam hải, là nước tiếp giáp biển. Đất Giao chỉ gọi là Nam duệ". Viết như thế, Giao chỉ rơ ràng không thuộc đất Nam Việt. Một khi đă kết luận như vậy, Triệu Đà dĩ nhiên không quan hệ ǵ đến nước ta. Phần gọi là "Triệu kỷ" trong các cuốn sử ta từ Đại Việt sử lược trở đi do thế đáng nên loại bỏ" (sách đă dẫn).

Việc dùng những tài liệu không đáng tin cậy để ghi vào sử sách nước nhà, rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do "những người viết sử đă không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng "những báo cáo của Sử kư và Tiền Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử kư trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn" (như trường hợp về Nhâm Diên, Tích Quang nói dưới đây và nhiều trường hợp tương tự khác). Tuy nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần" so với những thứ như 4 tài liệu đă dẫn, bởi v́ ngay cả tài liệu có nguồn gốc rơ ràng như Nam Việt chí, nó cũng xuất hiện sau Sử kư đến những sáu trăm năm (sách đă dẫn).

Với những sử liệu đă dẫn, vấn đề An Dương Vương đă rơ là một phiên bản Việt Nam trong bản anh hùng ca Mahăbhărata, thế th́ xử lư như thế nào về quan hệ giữa An Dương Vương với thành Cổ loa? Giáo sư Lê Mạnh Thát viết: "Để trả lời câu hỏi đó, trước hết cần có một ư niệm tổng quát về quá tŕnh h́nh thành quan hệ giữa các kỳ quan tự nhiên hay nhân tạo với các nhân vật kỳ vĩ, cụ thể là chuyện con trâu vàng của Không Lộ với Hồ tây. Không Lộ là vị thiền sư mất năm 1119, thế mà lại có một kết nối việc h́nh thành Hồ tây trong truyền thuyết dân gian như Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh đă ghi lại. Vậy, việc kết nối An Dương Vương với thành Cổ loa trong truyền thuyết không nhất thiết là một sự thật lịch sử, dù sau Lĩnh Nam chích quái, một kết nối như thế đă được Ngô Sỹ Liên đưa vào Đại Việt sử kư toàn thư và khoác cho nó một bộ áo lịch sử chính thức". Dĩ nhiên triều đại Hùng Vương của chúng ta không thể nào không có thành quách, nên chắc chắn chúng ta có một cái thành như vậy, nhưng 4 tài liệu đă dẫn nói về An Dương Vương cũng không nói ǵ về tên thành Cổ loa,  do đó Cổ loa chẳng qua là một tên gọi được Ngô Sỹ Liên lấy từ truyền thuyết của Lĩnh Nam chích quái để đưa vào Đại Việt sử kư toàn thư gắn vào An Dương Vương mà thôi.

Như vậy, các triều đại An Dương Vương và Triệu Đà đă được các sử gia Việt Nam từ Lê Văn Hưu đến Ngô Sỹ Liên dựng lên từ những tài liệu không đáng tin cậy, kiểm chứng tới đâu thấy sai tới đó. Nay với những sử liệu tin cậy có thể kiểm chứng được đến tận gốc mà giáo sư Lê Mạnh Thát đă chỉ ra, chúng ta có đủ cơ sở loại chúng ra khỏi lịch sử, để làm trong sạch tổ tiên bờ cơi chúng ta. Một người th́ tiêu diệt vua Hùng (An Dương Vương), một người th́ chiếm nước ta (Triệu Đà), khi đă có đủ chứng cứ là không đúng sự thật, th́ vinh dự ǵ mà vẫn để tồn tại trong những trang sử của dân tộc?

Nhưng khi khẳng định nước ta là nước độc lập cho đến năm Mă Viện đánh bại cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng, th́ giải quyết như thế nào đối với các nhân vật như Tích Quang, Nhâm Diên được coi là các "thái thú" Trung Quốc cai trị nước ta trước đó? Hai nhân vật này được sử sách Trung Quốc cho là những người đến "khai hóa" dân tộc ta, bằng những lời lẽ vô cùng xấc xược, coi dân tộc ta là "mọi", là "cầm thú", là "sâu bọ chồn cáo" (lời trong Hậu Hán thơ). Bằng những  sử  liệu  khó  chối  căi, giáo sư Lê Mạnh Thát chứng minh Tích Quang, Nhâm Diên chưa bao giờ làm thái thú ở nước ta cả, đó chỉ là sự "hư cấu lố bịch khôi hài". Lấy thí dụ như Nhâm Diên, Hậu Hán thơ viết ông này được cử làm thái thú Cửu Chân (nước ta) vào năm Kiến vũ thứ nhất (năm 25 sau dương lịch), nhưng thời điểm đó cũng theo Hậu Hán thơ, t́nh h́nh chính trị Trung Quốc từ sông Dương Tử về phía nam cực kỳ phức tạp, các tướng mỗi nơi chiếm một phương, thiên hạ loạn lạc đến nỗi "vua tự đem quân thân chinh mà c̣n bị cản đường, xe ngựa không tiến lên được", th́ làm sao Nhâm Diên đến được Cửu Chân để làm thái thú ? Vả lại, chứng cứ đanh thép nhất mà sử gia Lê Mạnh Thát tiếp tục dẫn ra là, sau khi Mă Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương", Hậu Hán thơ viết: "Viện (Mă Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rơ để ước thúc". Như vậy rơ ràng nước ta đă có luật pháp. Bộ luật đó một chính quyền ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời. Nếu nói nước ta lúc đó chỉ là quận, huyện của Trung Quốc, do các thái thú của Trung Quốc sang cai trị, th́ chỗ đâu để có bộ Việt luật cho Mă Viện điều tấu? Mà nếu có Việt luật, nghĩa là có một nhà nước độc lập, th́ Tích Quang, Nhâm Diên "cai trị" ở đâu?

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 3 of 20: Đă gửi: 28 February 2008 lúc 6:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

Lê Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương...  Tiếp tục hành tŕnh về thời đại Hùng Vương

Cho đến nay, với nhiều nỗ lực nghiên cứu, các nhà sử học nước ta đă phát hiện rất nhiều tài liệu quan trọng về nền văn minh của nước ta thời đại Hùng Vương, đặc biệt là đă thu thập, giám định, phân tích một khối lượng đồ sộ các di chỉ khảo cổ học từ văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa G̣ Mun đến văn hóa Đông Sơn. Những nỗ lực đó cho phép phác thảo bước đầu diện mạo của thời đại khởi nguồn của dân tộc, đủ để bác bỏ những mưu đồ phủ nhận hoặc hạ thấp công lao dựng nước của tổ tiên. Ghi nhớ lời dặn của Chủ tịch *** "Các vua Hùng có công dựng nước...", Nhà nước ta đă chính thức quyết định lấy ngày Giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ. 

"Sau ngày độc lập, cụ *** rất chính xác khi lấy tên Hùng Vương đặt cho con đường chính giữa thủ đô, ngang qua Hội trường Ba Đ́nh, đó là điều hết sức có ư nghĩa", giáo sư Lê Mạnh Thát nói với chúng tôi. Ông lưu ư rằng, không phải ngẫu nhiên mà trong khi Ngọc phả nhà Lư mất, Ngọc phả nhà Trần mất, Ngọc phả nhà Lê cũng mất th́ Ngọc phả Hùng Vương lại được lưu giữ, hiện c̣n 3 truyền bản, 2 truyền bản có từ thời Tiền Lê (Lê Đại Hành) và 1 có từ thời Lê Thánh Tôn. "Lê Đại Hành dựng lại Ngọc phả Hùng Vương giữa lúc chuẩn bị đánh Tống. Đánh Tống là cuộc kháng chiến chống một cường quốc chứ không phải chống đội quân lèo tèo như Nam Hán. Lê Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương". Ông nói tiếp: "Giữa lúc người Mỹ tuyên bố đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá th́ Việt Nam lại có một cuộc khảo sát lớn nhất về thời đại Hùng Vương do chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo. Giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đă thực hiện 4 tập sách về thời đại Hùng Vương. Đó là một cuộc nghiên cứu nghiêm túc nhất từ trước tới nay. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng Vương với quy mô lớn, do Nhà nước chủ trương, chứ không phải là nghiên cứu lẻ tẻ. Chúng ta thu được những thành quả quan trọng về khảo cổ học và tập hợp được một số tài liệu chữ Hán giai đoạn đầu. Điều đó rất có ư nghĩa và cần được tiến hành tiếp tục".

Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề quan trọng về lịch sử của thời đại này vẫn đang bị bỏ ngỏ hoặc bế tắc, trong đó có vấn đề chữ viết, luật pháp cùng những vấn đề căn bản khác của một nhà nước mà chắc chắn là nó phải có trong thời đại Hùng Vương. Bởi vậy, những khám phá của giáo sư Lê Mạnh Thát có ư nghĩa vô cùng.

Sau khi đưa ra các minh chứng để đề nghị loại bỏ hai triều đại An Dương Vương và Triệu Đà ra khỏi lịch sử và xác định thời đại Hùng Vương tồn tại cho đến năm 43, giáo sư Lê Mạnh Thát tiếp tục phát hiện thêm những tài liệu quan trọng có thể khai thông những bế tắc từ bấy lâu nay.

Việc tồn tại của Việt luật (mà Mă Viện "điều tấu"), theo giáo sư Lê Mạnh Thát, cho phép chúng ta giả thiết rằng tiếng nước ta vào thời điểm đó (thời Hai Bà Trưng) đă phát triển đến một mức độ chính xác nhất định và có một hệ thống chữ viết đủ rơ ràng để ghi chép các quy định của luật pháp. 

Vấn đề là Việt luật hiện nay không c̣n, điều đó không có ǵ là lạ, v́ chính Hán luật cũng không c̣n. Chúng ta cũng chưa t́m được chữ viết trong các di chỉ khảo cổ học. Điều đó cũng không có ǵ lạ và chưa t́m được không có nghĩa là nó không có, bởi ngay đến chữ viết thời Lư - Trần mà vẫn không t́m được trên các di chỉ khảo cổ học khai quật tại Hà Nội, trừ bia Lư Thường Kiệt và vài tấm bia ít ỏi khác t́m được ở rất xa ngoài Thăng Long. "Lịch sử Lư - Trần rực rỡ như vậy mà không c̣n một tấm bia nào ở thủ đô hết, chúng (nhà Minh) nhất định không để lại một vết tích nào của lịch sử. Đến nỗi, ông Hoàng Xuân Hăn phải đề nghị một hướng mới là t́m nó dưới nước, tức là khảo sát dưới hồ Tây", thiền sư Lê Mạnh Thát bức xúc. Nói thế để thấy kẻ thù thâm độc như thế nào trong mưu đồ triệt hạ văn hóa của dân tộc ta, triệt hạ tận gốc để dân ta không biết gốc tích của ḿnh. 

Truy lại chữ viết của tổ tiên v́ vậy mà trở nên thiên nan vạn nan. Nhưng không phải không có cách. Giáo sư Lê Mạnh Thát nói đầu thế kỷ trước, người Pháp đă khai quật một ngôi mộ cổ ở Bắc Ninh, phát hiện một thứ chữ viết trên gốm, "giống chữ Hán nhưng người Hán không đọc được", nghĩa là một thứ chữ viết theo kiểu Hán nhưng không phải chữ Hán, đó rất có thể là chữ Việt.

Theo ông, chúng ta hiện có hai nguồn tư liệu cơ bản:  Nguồn thứ nhất là Lục độ tập kinh cùng các dịch phẩm khác của Khương Tăng Hội là Cựu tập thí dụ kinh, An ban thủ ư kinh chú giải và Tạp thí dụ kinh do một tác giả vô danh thực hiện. Ông đă khảo cứu một cách công phu tường tận ngữ âm tiếng Việt c̣n lưu giữ trong những tập kinh này. Chẳng hạn, để diễn tả ư niệm "trong ḷng", Lục độ tập kinh có hai dạng cấu trúc. Dạng thứ nhất tập trung ở quyển 7 có 7 trường hợp dùng "tâm trung" (cấu trúc ngữ âm tiếng Trung Quốc), dạng thứ hai có 8 trường hợp rải đều trên 6 quyển dùng từ "trung tâm" (cấu trúc ngữ âm tiếng Việt). Khảo sát tiếp Kinh Thi do Khổng Tử san định, trong 305 bài th́ có 15 bài dùng "trung tâm". Sau Kinh Thi là Lễ kư do ảnh hưởng của Kinh Thi có 4 lần sử dụng "trung tâm". Và trong 300 năm đầu sau dương lịch, dạng "trung tâm" hầu như không được các học giả Trung Quốc dùng tới, nếu có vài trường hợp th́ đều là ở dạng trích từ Kinh Thi hoặc nhái theo Kinh Thi mà thôi. Thế mà Lục độ tập kinh, với 91 truyện, có 8 lần sử dụng cấu trúc đó, tỷ lệ gần 1/10, cao hơn nhiều so với Kinh Thi (15/305). Trong 7 lần sử dụng dạng "tâm trung", có khả năng ban đầu cũng dùng dạng "trung tâm", sau bị điều chỉnh lại, là do nó chỉ tập trung trong quyển 7, là quyển chủ yếu tŕnh bày về thiền, chắc chắn do nhu cầu t́m hiểu về thiền nên nó được lưu hành rộng răi qua nhiều tay người đọc Trung Quốc và quá tŕnh đó đă được nhuận sắc cho đến khi được khắc bản vào năm 927, trong khi cấu trúc dạng "trung tâm" tiếp tục tồn tại trong các quyển kia của Lục độ kinh. Trong Lục độ kinh c̣n có một số cấu trúc ngữ âm tương tự, ví dụ như cấu trúc "thần thọ" có nghĩa là "thần cây" chứ không phải "cây thần" như tiếng Trung Quốc... 

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
nhatly
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 149
Msg 4 of 20: Đă gửi: 01 March 2008 lúc 5:58am | Đă lưu IP Trích dẫn nhatly

"Nói thế để thấy kẻ thù thâm độc như thế nào trong mưu đồ triệt hạ văn hóa của dân tộc ta, triệt hạ tận gốc để dân ta không biết gốc tích của ḿnh."





__________________
Không Một Định Mệnh Nào Được Gọi Là An-Bài Mà Con Người Được Dẫn-Dắt Bởi Dỏng Nghiệp-Lực. NL
Quay trở về đầu Xem nhatly's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhatly
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 5 of 20: Đă gửi: 02 March 2008 lúc 9:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

"Bộ Việt luật c̣n đó. Bài Việt ca c̣n đó. Truyện trăm trứng c̣n đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói !" (Thiền sư Lê Mạnh Thát).

Thiền sư nổi giận

Ngoài việc phát hiện việc Lục độ tập kinh chữ Hán "không chấp hành" nguyên tắc ngữ âm tiếng Trung Quốc như trường hợp cấu trúc "trung tâm", trong khi dịch tập kinh này ra tiếng Việt hiện nay, giáo sư Lê Mạnh Thát c̣n phát hiện các trường hợp Khương Tăng Hội dùng "tá âm" hoặc dùng thuần túy tiếng Việt, chỉ phiên âm ra nó lập tức biến thành những câu tiếng Việt dễ hiểu. Ông lưu ư do Khương Tăng Hội "sinh ra, lớn lên và đào tạo thành tài ở nước ta" cho nên khi phiên dịch và trước tác dứt khoát không thể nào không chịu ảnh hưởng của tiếng Việt trên cả ba mặt ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp, song Khương Tăng Hội lại là người sử dụng tiếng Trung Quốc tới mức "nhuần nhuyễn của một diệu thủ" th́ lẽ ra những ảnh hưởng đó phải bị hạn chế tối đa, thế th́ tại sao Lục độ tập kinh tồn tại nặng nề và sâu đậm đến vậy những "tàn dư" của ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp tiếng Việt ? Chỉ có thể giải thích là tập kinh đó đă được dịch ra chữ Hán bằng một nguyên bản tiếng Việt.

Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát: "Khi đối chiếu cấu trúc "trung tâm" trong Lục độ tập kinh chữ Hán với ngôn ngữ của Trung Quốc, thầy viết rằng, "kiểm soát toàn bộ văn liệu" tiếng Trung Quốc (do người Trung Quốc viết) từ đầu thế kỷ thứ I sau dương lịch trở về sau cho đến thế kỷ thứ III, trong khoảng thời gian 300 năm, cấu trúc "trung tâm" chỉ được dùng đúng 3 lần, trong khi cấu trúc này được dùng phổ biến trong Lục độ tập kinh. Nói như vậy có nghĩa là để đối chiếu chỉ hai chữ "trung tâm", thầy đă phải đọc hết tất cả của Trung Quốc trong 3 thế kỷ?". Ông bảo: "Đúng vậy. Không đọc hết th́ làm sao mà khảo sát, đối chiếu được!".  Liên quan đến tiếng Việt trong Lục độ tập kinh, ông c̣n chỉ ra một nguồn tài liệu quan trọng thứ hai. Đó là sách Thuyết Uyển của Lưu Hướng, tồn tại từ năm 16 trước dương lịch mà "không có nhà nho nào là không biết". Đây là bộ sách duy nhất chép lại nguyên văn một tác phẩm văn học khác với tiếng Trung Quốc, đó là bài Việt ca. Thuyết Uyển không phải là một cuốn sách thường, nó là cuốn sách được viết để "dâng vua", cho nên tài liệu được nó sử dụng phải là những tài liệu được kiểm chứng, trong đó có tài liệu lấy từ "Trung thư", tức là một loại thư viện của hoàng gia. Điểm hết sức thú vị của bài Việt ca chép trong Thuyết Uyển là nó "ghi bằng chữ Hán mà người Hán không đọc được", phải "dịch ra tiếng Sở", tức là kèm theo một bản dịch tiếng Trung Quốc. Dù Lưu Hướng nói rơ đó là bài ca "do người Việt ôm mái chèo mà ca", nhưng hơn hai ngàn năm nay chưa một ai nghiên cứu giải mă bài ca này, ngoài sự cố gắng t́m hiểu của Quách Mạt Nhược (từng là Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc) cho rằng bài ca này là của người Choang vùng Quảng Tây Trung Quốc ngày nay, và một học giả người Nhật cho bài ca đó là của... Chiêm Thành. Giáo sư Lê Mạnh Thát đă dành nhiều thời gian, thông qua nhiều tài liệu để giải mă và bước đầu phục chế diện mạo tiếng Việt của bài Việt ca này (xem Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta, chương IV, sđd, và Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TPHCM, trang 41-47).

Như đă nói, mỗi lần tràn sang là mỗi lần kẻ xâm lược hủy diệt một cách tàn độc tất cả những ǵ có thể để cho văn hóa được lưu truyền, đặc biệt là việc tận diệt bia đá một cách có hệ thống sau khi "thu gom" hết sách vở, nhưng với những ǵ c̣n lưu lại của bốn ngàn năm văn hiến và những nỗ lực mới nhất của những nhà khoa học đầy tâm huyết và trách nhiệm với tổ tiên như Lê Mạnh Thát, chúng ta có cơ sở để khẳng định chắc chắn là chúng ta đă có chữ viết từ thuở các vua Hùng. Kẻ xâm lược quyết không cho người Việt biết đến "mặt chữ" của tổ tiên, nhưng dấu tích nó vẫn c̣n đó: trong kinh Phật, trong chính sách vở của Trung Quốc và c̣n lẩn khuất ở đâu đó nữa. Cùng với việc khảo sát trong ḷng đất và "dưới nước" như hướng mà giáo sư Hoàng Xuân Hăn đề nghị, hướng nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát rất cần được sự đồng hành, phối hợp của nhiều nhà sử học khác.

Tôi hỏi ông: "Thầy nghĩ ǵ về ư kiến cho rằng có thể t́m vết tích chữ viết thời Hùng Vương trên mặt trống đồng?". Ông nói: "Có giả thiết như vậy, nhưng khảo sát những hoa văn trên trống đồng chúng ta không thấy chúng có liên quan đến chữ viết, v́ chữ viết phải có quy luật về cấu trúc của nó. Suy đoán từ những giả định không có cơ sở sẽ khó có sức thuyết phục". Việc nghiên cứu ngôn ngữ cổ, nhất là ngữ âm cổ rất phức tạp. Chẳng hạn người Trung Quốc cũng như người Việt 2.000 năm trước phát âm như thế nào ngày nay chúng ta không biết được, để nghiên cứu nó giáo sư Lê Mạnh Thát đă phải dùng hệ phát âm tiếng Trung Quốc thời Hán của Karlgren, là công cụ mà các nhà Hán học đều thống nhất, rồi đối chiếu với những tài liệu đánh dấu sự biến đổi ngôn ngữ để truy lùi về thời điểm nghiên cứu, và cũng bằng phương pháp tương tự, ông đối chiếu những mối liên hệ giữa tiếng Trung Quốc, tiếng Việt và các loại ngôn ngữ khác trong vùng (chữ Phạn, Chăm, Khmer, tiếng nói các dân tộc Trung Quốc giáp giới với Việt Nam...) để phác thảo diện mạo tiếng Việt của bài Việt ca, bác bỏ kết luận sai trái của Quách Mạt Nhược và học giả người Nhật nói trên... (bạn đọc muốn t́m hiểu sâu hơn, xin xem các sách đă dẫn).

Tiếp theo và cùng với chữ viết là lịch pháp. Lâu nay chưa ai biết dân tộc ta thời đại Hùng Vương sắp xếp ngày tháng như thế nào. Giáo sư Hoàng Xuân Hăn từng đoán: "Văn hóa Trống đồng của nước Văn Lang chắc đă dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-30 ngày cũng không hẳn là vô lư" (Lịch và lịch Việt Nam, Tập san Khoa học xă hội, Paris, 1982, trích từ Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, NXB Tổng hợp TP.HCM 2006, trang 71). Nay những phát hiện trong Lục độ tập kinh cho phép khẳng định được lời đoán của giáo sư Hoàng Xuân Hăn. Những câu chuyện ghi trong tập kinh này cho thấy, nước ta thời Hùng Vương đă dùng hệ thống lịch chia năm ra 360 ngày, phân bổ thành 4 mùa, mỗi mùa có 3 tháng và đă dùng đơn vị tuần, mỗi tuần 7 ngày. Đối chiếu với những tài liệu cổ Trung Quốc th́ thấy hệ thống lịch nước ta khác với lịch Trung Quốc cùng thời, v́ lịch Trung Quốc thời đó mỗi năm 366 ngày và một đơn vị tuần của họ có tới 10 ngày. Nó cũng không giống Ấn Độ, v́ tuần của Ấn Độ thời đó có 15 ngày. Phát hiện này cho phép kết luận nước ta thời Hùng Vương đă có lịch pháp riêng của một nhà nước độc lập. Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, để bảo lưu được một hệ thống lịch pháp như thế, các câu chuyện trong Lục độ tập kinh chắc chắn phải được lưu truyền "vào thời hệ thống lịch đó c̣n hiệu lực", tức là từ năm 43 trở về trước, bởi v́ sau năm đó nhà Hán đă chiếm nước ta, một sự bảo lưu như thế dứt khoát không thể nào xảy ra dưới bộ máy đàn áp của Mă Viện...

Những kết luận của giáo sư Lê Mạnh Thát có thể và cần được các nhà sử học tiếp tục bổ sung, nhưng không có ǵ thái quá khi nói rằng với phát hiện đó trên nền tảng những thành quả quan trọng trong cuộc nghiên cứu lớn về thời Hùng Vương trong thời gian chống Mỹ, chúng ta có thể và phải dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những sự thật của nó. Nó một lần nữa chứng minh việc Nhà nước ta lấy ngày giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ là vô cùng đúng đắn.

Là nhà tu hành nhưng thiền sư Lê Mạnh Thát đă không ḱm nén tức giận khi thấy người ta "thóa mạ làm nhục tổ tiên ḿnh với kiểu ăn nói của Ngô Sỹ Liên: Nước ta hiểu thi, thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương. Bộ Việt luật c̣n đó. Bài Việt ca c̣n đó. Truyện trăm trứng c̣n đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!". Sự nổi giận của vị thiền sư này rất cần được sự hưởng ứng của tất cả những ai c̣n coi ḿnh là con cháu Lạc Hồng...

 (c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
vuivui
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 04 September 2004
Nơi cư ngụ: Poland
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1457
Msg 6 of 20: Đă gửi: 03 March 2008 lúc 2:39am | Đă lưu IP Trích dẫn vuivui

Trích:
"Lê Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương... Tiếp tục hành tŕnh về thời đại Hùng Vương".
.................
Con cháu của Lê Thánh Tôn đă làm đúng như lời tiền nhân đă truyền !!! Thế nhưng đến ngày nay:
Trích:
"Cho đến nay, với nhiều nỗ lực nghiên cứu, các nhà sử học nước ta đă phát hiện rất nhiều tài liệu quan trọng về nền văn minh của nước ta thời đại Hùng Vương, đặc biệt là đă thu thập, giám định, phân tích một khối lượng đồ sộ các di chỉ khảo cổ học từ văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa G̣ Mun đến văn hóa Đông Sơn. Những nỗ lực đó cho phép phác thảo bước đầu diện mạo của thời đại khởi nguồn của dân tộc, đủ để bác bỏ những mưu đồ phủ nhận hoặc hạ thấp công lao dựng nước của tổ tiên. Ghi nhớ lời dặn của Chủ tịch *** "Các vua Hùng có công dựng nước...", Nhà nước ta đă chính thức quyết định lấy ngày Giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ.

"Sau ngày độc lập, cụ *** rất chính xác khi lấy tên Hùng Vương đặt cho con đường chính giữa thủ đô, ngang qua Hội trường Ba Đ́nh, đó là điều hết sức có ư nghĩa", giáo sư Lê Mạnh Thát nói với chúng tôi. Ông lưu ư rằng, không phải ngẫu nhiên mà trong khi Ngọc phả nhà Lư mất, Ngọc phả nhà Trần mất, Ngọc phả nhà Lê cũng mất th́ Ngọc phả Hùng Vương lại được lưu giữ, hiện c̣n 3 truyền bản, 2 truyền bản có từ thời Tiền Lê (Lê Đại Hành) và 1 có từ thời Lê Thánh Tôn. "Lê Đại Hành dựng lại Ngọc phả Hùng Vương giữa lúc chuẩn bị đánh Tống. Đánh Tống là cuộc kháng chiến chống một cường quốc chứ không phải chống đội quân lèo tèo như Nam Hán. Lê Thánh Tôn nói: Một tấc đất của tổ tiên cũng không để mất! Kèm theo câu nói đó là việc dựng lại Ngọc phả Hùng Vương". Ông nói tiếp: "Giữa lúc người Mỹ tuyên bố đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá th́ Việt Nam lại có một cuộc khảo sát lớn nhất về thời đại Hùng Vương do chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đạo. Giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đă thực hiện 4 tập sách về thời đại Hùng Vương. Đó là một cuộc nghiên cứu nghiêm túc nhất từ trước tới nay. Lần đầu tiên chúng ta có một cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng Vương với quy mô lớn, do Nhà nước chủ trương, chứ không phải là nghiên cứu lẻ tẻ. Chúng ta thu được những thành quả quan trọng về khảo cổ học và tập hợp được một số tài liệu chữ Hán giai đoạn đầu. Điều đó rất có ư nghĩa và cần được tiến hành tiếp tục".
.................

Nghiên cứu th́ nghiêm túc thật đấy. Thế nhưng thực tế th́ sao. Tài liệu lịch sử của Tiền nhân để lại, Thác bản giốc, Ải nam quan ....thuộc về lănh thổ VN, gắn liền vớ những dấu ấn lịch sử vinh quang của dân tộc. Mà nay đâu mất rôi ???.


Quay trở về đầu Xem vuivui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuivui
 
khangaabc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 January 2003
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1133
Msg 7 of 20: Đă gửi: 03 March 2008 lúc 1:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn khangaabc

Bài phóng sự sẻ có tính nghiêm túc và giá trị hơn nếu như viết ddoạn giới thiệu về ddời tư của tác giả trong một tiểu ddoạn riêng thay v́ chêm vào trong bài viết làm loảng mất chủ ddích nội dung bài viết cũng như những ddoạn có tính cách tuyên truyền không cần thiết. Từ xưa tới nay người Việt chân chính luôn luôn tôn thờ vua Hùng và xem vua Hùng là Quốc Tổ, chẳng ai ddi tôn thờ những cái tên ngoại quốc làm tổ tiên că trừ bọn vô tổ quốc và u mê mới dựng tượng tôn thờ những tên ngoại bang mà chính nhân dân của nước ddó ddang ddập bỏ tượng thờ.

DDồng ư với nhận xét của Vuivui :
" Nghiên cứu th́ nghiêm túc thật đấy. Thế nhưng thực tế th́ sao. Tài liệu lịch sử của Tiền nhân để lại, Thác bản giốc, Ải nam quan ....thuộc về lănh thổ VN, gắn liền vớ những dấu ấn lịch sử vinh quang của dân tộc. Mà nay đâu mất rôi ???. "

Các vua Hùng có công dựng nước nên con cháu có nước ddể ...làm giàu . Ấy , kỷ nghệ buôn bán nước bao giờ cũng giàu to.

Quay trở về đầu Xem khangaabc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi khangaabc
 
khangaabc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 January 2003
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1133
Msg 8 of 20: Đă gửi: 03 March 2008 lúc 3:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn khangaabc

"Ông ấy có cạo đầu đâu! Tôi c̣n thua ông ấy một bộ râu"... và chiếc giày nửa há giáo sư.
Quay trở về đầu Xem khangaabc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi khangaabc
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 9 of 20: Đă gửi: 03 March 2008 lúc 6:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

Không có cái gọi là thời kỳ "Bắc thuộc lần thứ nhất". Việc lập 9 quận, trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thuộc Hán chỉ là sự "đoạt khống" đất đai nhằm thỏa măn năo trạng và ao ước bành trướng của nhà Hán mà thôi.

 Nhà Hán "đoạt khống" đất đai nước ta

- Nếu nước ta thời Hùng Vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai đoạn “Bắc thuộc lần thứ nhất” không tồn tại? - Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát.

- Đúng vậy. Phải loại phần đó ra khỏi lịch sử. Chúng ta có đủ chứng cứ để làm như vậy.

- Nhưng sử sách vẫn c̣n ghi: năm 214 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng đem quân đánh lấy đất Bách Việt, sau đó chia làm ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận mà Tượng Quận là nước ta?

- Nam Hải, Quế Lâm ngày nay nằm trong hai tỉnh Quảng Đông và Quư Châu Trung Quốc th́ đă rơ rồi, nhưng Tượng Quận th́ không phải. Một số tài liệu Trung Quốc có chép một cách lầm lạc rằng nó là Nhật Nam (nước ta) sau này, nhưng đối chiếu với những tài liệu tin cậy cũng của chính Trung Quốc, từ rất sớm người ta đă biết Tượng Quận nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ không phải nước ta.

- Sử Trung Quốc cũng ghi rơ, năm 111 trước công nguyên, Hán Vũ đế đă chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà và đặt 9 quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai và Đàm Nhĩ thuộc Hán. Nếu cho đến năm 43 nước ta vẫn độc lập th́ giải thích làm sao việc nước ta gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nằm trong đất nhà Hán trước đó?

- Đối chiếu với chính sử Trung Quốc ta đă thấy Triệu Đà chưa bao giờ chiếm Tây Âu lạc cả và Hán Vũ đế cũng chỉ chiếm Nam Việt của Triệu Đà. Rơ ràng là họ đă gom Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam vào đất Hán một cách vô căn cứ. Việc này không có ǵ lạ, sử Trung Quốc c̣n chép rằng năm 202 (trước CN) Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố của Hán Vũ đế lấy các đất Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải của Triệu Đà phong cho Ngô Nhuế, nhưng ba nơi đó là của Triệu Đà. "Đà chưa hàng, xa đoạt khống, lấy phong cho Nhuế vậy". Đất chưa lấy được mà "đoạt khống" làm đất của ḿnh, chuyện đó là b́nh thường, không chỉ Lưu Bang mà trở thành thói quen cho các triều đại về sau này nữa... Bởi vậy việc "đoạt khống" ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam của ta không có ǵ lạ. Việc "đoạt khống" này có ba chứng cứ: Thứ nhất, Tiền Hán thơ ghi rơ rằng Thứ sử Giao Chỉ "đóng ở Thương Ngô", nghĩa là quân Hán chưa bao giờ đặt chân tới Giao Chỉ. Thứ hai, sử liệu Trung Quốc cũng cho thấy, việc đưa những người phạm tội đi đày thời đó chỉ đưa tới Hợp Phố chứ không hề thấy đưa đi xa hơn, tuy chưa phải là chứng cứ quyết định, nhưng cũng biểu thị rằng biên cương cực nam của nhà Hán chưa qua khỏi Hợp Phố, là vùng giáp giới với nước ta. Chứng cứ thứ ba là việc sử liệu Trung Quốc ghi "Phiên Ngung là một đô hội", đây là chi tiết khá khác thường, bởi Tiền Hán thơ đưa ra con số thống kê nhân khẩu cho thấy quận Nam Hải có 6 huyện chỉ vỏn vẹn có 94.253 dân, b́nh quân mỗi huyện, trong đó có Phiên Ngung, có trên dưới 15 ngàn dân, trong khi số dân Giao Chỉ 10 huyện số dân lên tới 764.237 người, b́nh quân mỗi huyện trên 75 ngàn dân, gần bằng số dân của cả Nam Hải. Đó là chưa kể Cửu Chân và Nhật Nam, dân số cộng lại cũng có trên 200.000 người. Thế mà lại nói "Phiên Ngung là một đô hội". Điều không hợp lư này chỉ có thể được giải thích là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam trong thực tế không thuộc đất Hán. Có thể hỏi tại sao ba quận này không phải của nhà Hán mà nhà Hán lại có số liệu về "hộ khẩu", câu trả lời cũng thật đơn giản: Đọc trong Tiền Hán thơ, ta có thể bắt gặp một loạt tên các quốc gia độc lập ở Trung Á, chưa bao giờ "thuộc Hán", nhưng vẫn có số liệu hộ khẩu như thường. Cho nên, nhà Hán có số liệu về hộ khẩu không nhất thiết nó thuộc nhà Hán.

Dù là Âu Lạc, Tây Âu, Tây Âu Lạc, Tây Vu, Việt Thường Thị hay Giao Chỉ - Cửu Chân - Nhật Nam, cũng đều là những tên gọi khác nhau của nước ta. Cần biết, các triều đại phong kiến Trung Quốc không bao giờ muốn nước ta độc lập cả, ngay cả khi nước ta có quốc hiệu đàng hoàng như Vạn Xuân (Lư Nam Đế), Đại Cồ Việt (Đinh Tiên Hoàng) hay Đại Việt (Lư-Trần), sử sách Trung Quốc vẫn tiếp tục dùng những cái tên Giao Chỉ, An Nam để gọi một cách tùy tiện. Việc "đoạt khống" đất đai, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là "nhằm thỏa măn năo trạng và ao ước bành trướng" của họ.

Trao đổi với chúng tôi, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng chỉ riêng văn minh trống đồng thôi mà chúng ta đă có chứng cứ rành rành. Với một nền khoa học kỹ thuật phát triển rất cao thời đó như vậy, một nền kỹ thuật không ai có thể chối căi, th́ không có lư ǵ mà chúng ta lại không có một nền văn hóa - giáo dục tương ứng.

Nền văn hóa đó vẫn được bảo tồn. Trung Quốc có Thi Thơ Lễ Nhạc. "Nếu nói Thi chúng ta có cùng chùm truyện trong Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh và bài Việt ca. Nếu nói Thơ chúng ta có truyền thuyết trăm trứng. Nếu nói Lễ chúng ta có bộ Việt luật. Nếu nói Nhạc ta không chỉ có bài Việt ca mà c̣n có trống đồng...". Nói thêm về văn học, ông cho rằng "nền văn học thành văn của dân tộc ta không phải bắt đầu từ Trần Nhân Tông và Nguyễn Trăi, hay Khuông Việt và Từ Đạo Hạnh... mà nó đă bắt đầu từ thời Hùng Vương mà bằng chứng c̣n lại là bài Việt ca, cụm chuyện thần thoại và cổ tích đầu tiên t́m thấy trong Lục độ tập kinh. Phân tích trong Lục độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ ra 5 truyện trong tập kinh này tương đương với 5 truyện cổ tích do Nguyễn Đổng Chi tập hợp trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, như vậy "chúng ta không c̣n bàn căi một cách tùy tiện không có cơ sở về nền văn học "dân gian" chung chung phi thời gian, phi lịch sử".

Như vậy là từ thời Hùng Vương chúng ta đă có một nền văn hóa riêng, tạo nên bản lĩnh dân tộc. Đó là nền tảng cho những cuộc đấu tranh trường kỳ, khốc liệt bảo vệ đất nước, bảo vệ ṇi giống. Dân tộc ta không những không bị đồng hóa, mà nền văn hóa của dân tộc ta c̣n được du nhập vào văn hóa Trung Quốc mà Lục độ tập kinh - không chỉ là kinh Phật mà c̣n là tác phẩm của "bậc thánh hiền" như chính người Trung Quốc gọi - là một trong những ví dụ.

Nhưng không chỉ có vậy. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, từ sau khi Mă Viện đánh bại Hai Bà Trưng cho đến khi Chu Phù, Sỹ Nhiếp cai trị nước ta, lịch sử cũng có nhiều vấn đề cần đặt lại. Và trong thời gian này xuất hiện một nhân vật lớn là Mâu Tử, một người Việt Nam, với tác phẩm nổi tiếng Lư hoặc Luận được lưu truyền trong nền văn hóa điển chương Trung Quốc, một bằng chứng hùng hồn về sự nổi trội của văn hóa Việt Nam... (c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 10 of 20: Đă gửi: 04 March 2008 lúc 10:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

"Giả như người nước ta không ghi lại những sự việc của Lê Hoàn (hoàng đế Đại Hành) và chúng ta phải nghiên cứu qua tư liệu của người Trung Quốc, th́ một đoán án đương nhiên phải xảy ra, đó là Lê Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xă tắc ǵ hết, ngược lại chỉ là một tiết độ sứ, một quan chức của nhà Tống" (thiền sư Lê Mạnh Thát).

Sỹ Nhiếp là ai?

Có thể có ai đó trong giới sử học "ư kiến ra ư kiến vào" về những phát hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng tôi đang giới thiệu một phần hết sức tóm lược. Mong rằng những người quan tâm có thể t́m đọc các công tŕnh của ông để trao đổi học thuật. Chúng tôi xin lưu ư, những ǵ mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư Lê Mạnh Thát đă công bố từ cách đây trên dưới 40 năm, nay được in lại trong hai bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (tập 1) và Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), đều do NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta mà chúng tôi đă dẫn. Trong những công tŕnh này, mỗi một vấn đề đưa ra ông đều dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những ngôn ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể, chỉ rơ số trang, số tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi ngờ th́ có thể tra tận gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và chữ Trung Quốc hiện nay, cùng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ...

Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như trên để nói rằng những sử liệu từ Trung Quốc là "không hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính sử Trung Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những người đó chỉ được "phong khống" chứ chưa bao giờ bước chân qua nước ta. Việc nghiên cứu lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu của tổ tiên ta để lại, rồi đối chiếu với chính sử Trung Quốc để thẩm định, xác minh t́m ra sự thật. Cho nên, mỗi một cuộc truy t́m, mỗi một phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến cho lịch sử nước nhà trở nên sáng rơ.

Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu" như lời bài hát của Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất đă nổ ra vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu Liên lập khu tự do vào năm 138, làm hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong hơn 150 năm bị các thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ không mất hạnh", nghĩa là dân tộc vẫn c̣n, nền văn hóa dân tộc được xây dựng từ thời Hùng Vương vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân tộc chính người Trung Quốc cũng phải thừa nhận: "Trưởng lại đặt ra, tuy có cũng như không".

Có một nhân vật lạ lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp. Cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói ông là thái thú Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Tuy là một "thái thú" đến cai trị, nhưng các sử gia Việt Nam đều dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến thịnh một thời". Ngô Sỹ Liên cũng vậy. Trần Trọng Kim th́ viết: "Sỹ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên ḷng người cảm mộ công đức, mới gọi tên là Sỹ Vương". Khi nhân dân gọi Sỹ Nhiếp là "Sỹ Vương", tức là vua của ḿnh, c̣n có lư do nào nữa không?

Phần trước chúng tôi có nêu sự "nổi giận" của giáo sư Lê Mạnh Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương", cần nói rơ là ông bất b́nh với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc mới thành ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ Nhiếp. Cũng như Trần Trọng Kim viết: "Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ư kiến ấy có lẽ không phải" (Việt Nam sử lược).

Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rơ Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". C̣n đối với Sỹ Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Măng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời". Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam th́ đă "Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đă ưu bác, lại thành công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân"; "Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn lư, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quư trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn". Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu được đào tạo trong khuôn mẫu Trung Quốc, đă có những hành vi xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Nói rơ ra, ông đă được Việt hóa. Việc Ngô chí so sánh Sỹ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ Nhiếp, nước ta đă có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh Dương dĩ nam dị vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ Nhật Nam" (Văn tuyển 5 tờ 9b4). "Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương, vải mỏng thường tới số ngàn. Món quư minh châu, ṣ lớn, lưu ly, lông thú, đồi mồi, sừng tê, ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhăn, không năm nào không đưa đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà Sỹ Nhiếp gửi đến Tôn Quyền).

Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đă chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đă thất bại, Sỹ Huy bị bắt và bị giết, Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, v́ chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền.

Về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là cuộc "khởi nghĩa thành công". Ông viết: "Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và tiền của. Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc đối với nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là đă "dẹp yên được giặc Giao Chỉ" và được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của Giao Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, v́ nó ngó ra biển (lâm hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí tờ 10b3 đă ghi nhận. Nói cách khác, nước ta từ năm 248 tiếp tục là một nước độc lập và Bà Triệu tiếp tục đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đă ghi nhận là Bà Triệu đă bị tử trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân sau khi đă tiêu diệt Lục Dận (...). Những mô tả này (trong Thiên Nam ngữ lục) hoàn toàn phù hợp với tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất (264) của Tào Hoán..." (Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 385-386)...

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 11 of 20: Đă gửi: 05 March 2008 lúc 7:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

Mỗi một di sản của tổ tiên đều phải được truy t́m, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều phải được ǵn giữ.

Một minh chứng văn hóa

Những phát hiện nói trên của giáo sư Lê Mạnh Thát cho phép dựng lại lịch sử dân tộc trong thời kỳ nước nhà không có sử liệu, sử sách được viết chủ yếu căn cứ theo các tài liệu của Trung Quốc. Việc khẳng định chủ quyền của dân tộc thời trước Hai Bà Trưng, thời Sỹ Nhiếp và sau đó nữa là có cơ sở. Những phát hiện về văn hóa, bắt đầu từ Khương Tăng Hội với Lục độ tập kinh và Mâu Tử với Lư hoặc Luận, đặc biệt là sự kiện 6 lá thư đề cập dưới đây càng minh chứng cho điều đó.

Lư hoặc Luận của Mâu Tử là một tác phẩm nổi tiếng, được viết vào cuối thế kỷ thứ II (198) và được lưu hành tại Trung Quốc bắt đầu từ thế kỷ thứ V, có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Nó c̣n là "sách gối đầu giường" của người Phật tử Viễn Đông, cụ thể là Trung Quốc và Nhật Bản. Đến nửa đầu thế kỷ XX, một loạt những nghiên cứu của các học giả Trung Quốc, Nhật Bản và Pháp được công bố về tác phẩm này, gây nên một cuộc tranh biện sôi nổi và hào hứng, bắt đầu từ công tŕnh của Lương Khải Siêu, tiếp đó là của H.Maspéro, Tokiwa Daijo, P.Pelliot, Chu Thúc Ca, Hồ Thích, Matsumoto Bunzaro, Dư Gia Tích và Fukui Kojun (dẫn theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1). Ở Việt Nam, nó cũng được coi là cuốn sách lư luận được quan tâm từ hơn 1.000 năm trước, đặc biệt từ năm 1932 khi Trần Văn Giáp giới thiệu Mâu Tử là "người đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Việt Nam", cuốn sách đó được sự quan tâm rộng răi của giới học giả và nhiều người dân. Trong khi nghiên cứu Lục độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát đă phát hiện những mối liên hệ thú vị và trên cơ sở một cuộc khảo sát hết sức công phu, ông đă t́m ra bằng chứng khẳng định Mâu Tử là người Việt Nam và Lư hoặc Luận chính là tác phẩm của Việt Nam truyền sang Trung Quốc. Công tŕnh nghiên cứu này của ông đă được công bố một phần trước năm 1975 và công bố toàn bộ sau này (xem Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 1).

Theo giáo sư Lê Mạnh Thát:  "Trong bối cảnh văn hóa thời Mâu Tử, Lư hoặc Luận không phải viết để xiển dương Phật giáo, mà là một cuộc tổng kết cuộc đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương Bắc". Phải có một bề dày văn hóa như thế nào mới có thể có được một bản lĩnh văn hóa như vậy. Một bên th́ áp đặt Thi Thư như chân lư, Trung Hoa là trung tâm, một bên Mâu Tử đáp trả "Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất", "năm kinh chưa hẳn là lời của thánh hiền". Tiếp cận tác phẩm của Mâu Tử, chúng ta c̣n thấy dân tộc ta đă bảo tồn văn hóa của ḿnh như thế nào, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của Phật giáo, Nho giáo và Lăo giáo để phát triển nền văn hóa của ḿnh như thế nào và truyền bá văn hóa của ḿnh ra nước ngoài ra sao.

Sáu lá thư và một vị vua

Một phát hiện cực kỳ quan trọng khác của giáo sư Lê Mạnh Thát là 6 lá thư nằm trong Đại tạng kinh chữ Hán. Đó là 6 lá thư trao đổi giữa hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh với một "sứ quân" của Giao Châu tên là Lư Miễu. Trước khi ông công bố 6 lá thư này, chưa có một tài liệu nào đề cập tới. Từ điểm gây ṭ ṃ đầu tiên trong 6 lá thư là địa danh "Giao Châu", ông đă tiến hành một cuộc truy t́m ngoạn mục. Trước hết là t́m nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử, t́m nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch, kế đó là t́m niên đại và tung tích tác giả 6 bức thư.

Khó khăn nhất là t́m ra tác giả của chúng. Ông bảo tung tích của những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và Lư Miễu ngày nay chúng ta không biết một tí ǵ hết. 

Ông "kiểm soát toàn bộ" những tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc, cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, cũng không t́m thấy những người có các cái tên ấy. Ông lục t́m trong Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Ngụy thư, Bắc sử, Nam sửTư trị thông giám sử cũng như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử kư toàn thư, Việt sử tiêu án và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng không gặp một "sứ quân" (hoặc chức vụ tương đương) nào với cái tên Lư Miễu; lục t́m trong Cao tăng truyệnTục cao tăng truyện cũng như Thiền Uyển tập anh, cũng không t́m thấy một pháp sư nào có tên Đạo Cao hay Pháp Minh. Chỉ duy nhất trong Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-2 có liệt ra tên một Thích Đạo Cao, nhưng kiểm tra bản mục lục của văn liệu này cũng như xuất xứ của tên ấy dẫn từ Cao tăng truyện 5 tờ 255b15-17 th́ thấy là Thích Đạo Tung chứ không phải Đạo Cao, sự khác nhau đó là do Toàn Tấn văn khắc nhầm.

Ông mở rộng việc truy t́m sang các tài liệu Nhật Bản và Triều Tiên. Trong khi khảo sát toàn bộ tài liệu liên quan của Nhật, ông đọc kỹ lại Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục (là sách được Vũ Điền thiên hoàng cho viết nhằm ghi lại tất cả những bộ sách Trung Quốc c̣n sót lại trong Thư viện hoàng gia sau vụ cháy năm 887), t́m thấy một dữ kiện lôi cuốn. Dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra một bộ sách nhan đề "Tá âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn" và dưới mục Biệt tập lại ghi "Đạo Cao pháp sư tập, một quyển". Vấn đề là Đạo Cao tác giả của hai cuốn sách Tá âmĐạo Cao pháp sư tập này có phải là Đạo Cao pháp sư trong 6 lá thư hay không? Đối chiếu th́ thấy hai tác phẩm này chắc chắn không phải do người Nhật biên soạn mà phải là từ Trung Quốc mang về, v́ khảo sát toàn thể tài liệu Phật giáo Nhật Bản ông không thấy tăng sĩ Nhật Bản nào mang tên Đạo Cao cả. Vấn đề là họ mang về Nhật từ lúc nào. Một cuộc kiểm soát tiếp vẫn không cho biết một tí ǵ cả, chỉ biết chắc chắn là nó phải được mang về trước năm 887 để có thể ghi vào bản thư mục nói trên. Ông cũng kiểm soát những bản thư tịch liệt kê những tư liệu liên quan tàng trữ ở các nước Anh, Pháp, Liên Xô, cũng không t́m thấy ǵ hết.

Tuy nhiên, ở đây xuất hiện một vấn đề mới. Trước hết về cuốn Tá âm. Nó được liệt vào loại Tiểu học gia, mà căn cứ vào định nghĩa của Tùy thư kinh tịch chí, nó là loại sách ngôn ngữ. Cần nói thêm, một chú giải trong tài liệu Nhật Bản c̣n ghi "Kinh tịch chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không ghi họ tên người viết". Ghi chú này đă được xác nhận từ tài liệu Trung Quốc và từ dẫn giải của các tài liệu Trung Quốc cũng như Nhật Bản, có thể coi Tá âm tự là một tác phẩm khác nữa của Thích Đạo Cao. Như vậy là ít nhất Thích Đạo Cao cũng có 3 tác phẩm được nhắc đến. Vấn đề đặt ra là tại sao những tác phẩm đó được Nhật Bản đem về từ Trung Quốc mà Trung Quốc lại không ghi một cách đàng hoàng trong các tài liệu chính thống của ḿnh, mà chỉ ghi một cách sơ sài khuyết danh trong Tùy thư? Tiếp tục nghiên cứu và đối chiếu, ông xác định rằng sở dĩ như vậy là v́ những sách đó chắc chắn không phải tiếng Trung Quốc mà là tiếng nước ngoài.

Những khảo sát như vậy dẫn đến kết luận, Đạo Cao chắc chắn không phải là người Trung Quốc, Nhật Bản hay Triều Tiên, trong khi người mang tên đó là một trong hai tác giả các bức thư trao đổi với Lư Miễu, "sứ quân" Giao Châu. Bởi vậy Đạo Cao chắc chắn là người Việt Nam. Và từ nhân vật này, ông phát hiện một chứng cứ quan trọng khác về một cột mốc phát triển ngôn ngữ dân tộc: Tá âm là một quyển sách ngữ học về quốc âm, c̣n Tá âm tự  là một cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm đó. Rất tiếc là chúng đă thất lạc, nhưng chắc chắn là có những cuốn sách đó. Ông bảo trong sưu tập Stein tàng trữ tại Bảo tàng viện Anh Quốc có một thủ bản mang kư hiệu S.5731, mô tả một tài liệu giống như vậy, nhưng v́ ông "chưa có trong tay" thủ bản đó nên chưa thể khẳng định.

Chúng tôi dẫn chứng dài ḍng đoạn trên, tuy rất sơ lược, để bạn đọc phần nào thấy được cách làm việc cẩn trọng của giáo sư Lê Mạnh Thát. Những khảo sát như vậy đă được tiến hành và dễ dàng t́m ra tông tích Việt Nam của người thứ hai là Pháp Minh.

Đối với nhân vật Lư Miễu, nội dung 6 lá thư cho thấy Lư Miễu được gọi là "sứ quân" và lời lẽ của nhị vị pháp sư trong 6 lá thư coi ông "ở địa vị của một bậc thiên tử". Đối chiếu danh sách những chức danh tương đương với "sứ quân" như "thái thú", "thứ sử" Trung Quốc cử sang th́ không thấy tên Lư Miễu. Toàn bộ sử sách Trung Quốc cũng như Việt Nam đều không có tên Lư Miễu. Với một khảo sát văn liệu tương tự cùng những phân tích chính trị, xă hội đến tận ngọn nguồn, ông kết luận Lư Miễu chính là một vị vua của Việt Nam. Một nhân vật xưng vương xưng đế trên một đất nước độc lập mà Trung Quốc không với tới th́ sử sách Trung Quốc không chép là không có ǵ lạ. C̣n việc sử ta không chép cũng là đương nhiên, v́ không không có sử liệu. Ông ước đoán 6 lá thư đó được viết vào những năm 435-440, nằm trong thời kỳ Nam Bắc triều (420-588) của Trung Quốc. Niên đại của Lư Miễu nằm trong khoảng 390-470, của Đạo Cao khoảng 365-455 và Pháp Minh khoảng 370-460. 6 lá thư chứa đựng những sử liệu vô cùng quư giá cho việc nghiên cứu nghệ thuật, âm nhạc, văn học, Phật giáo, chính trị và tư tưởng (bạn đọc quan tâm vấn đề này xin đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 427-582).

Xin tạm dừng loạt bài này ở đây. Thiền sư Lê Mạnh Thát đă thực hiện một loạt các công tŕnh nghiên cứu đồ sộ về lịch sử dân tộc và lịch sử Phật giáo, về văn học, triết học... Riêng các công tŕnh lịch sử văn học của ông được tập hợp thành Tổng tập văn học Phật giáo khoảng 50 tập (đă in 3 tập). Chúng tôi giới thiệu sơ lược một số trong rất nhiều phát hiện lịch sử của thiền sư với mong muốn những người quan tâm đến lịch sử nước nhà biết đến. Đối với các cơ quan quản lư ngành lịch sử và những nhà sử học - những người đang nghiên cứu lịch sử, chúng tôi thiết nghĩ nó có lợi chứ hoàn toàn không gây thiệt hại ǵ cho việc nghiên cứu, v́ nghiên cứu th́ cần có những tài liệu mới do chính ḿnh hoặc do người khác phát hiện ra. Các cơ quan nghiên cứu lịch sử hoặc các nhà sử học có thể xem xét, đánh giá, tranh biện, cái ǵ có tài liệu chứng minh là không đúng th́ nói là không đúng, cái ǵ cần tiếp tục làm rơ th́ cùng nhau t́m ṭi làm rơ, nhưng cái ǵ thấy có cơ sở là đúng rồi th́ cần thừa nhận để đưa vào ḍng chính thống. Tất cả đều nhằm mục đích t́m ra sự thật để tôn vinh dân tộc chúng ta. Mỗi một di sản của tổ tiên đều phải được truy t́m, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều phải được ǵn giữ.

Hoàng Hải Vân

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 12 of 20: Đă gửi: 11 March 2008 lúc 11:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

Trao đổi xung quanh loạt bài "Thin sư Lê Mnh Thát và nhng phát hin lch s chn đng"

`

Trong và sau khi Thanh Niên đăng loạt bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động, đă có nhiều nhà nghiên cứu và bạn đọc gửi thư, viết bài hưởng ứng và tranh biện. Một số báo như Nhân Dân, Thông tấn xă Việt Nam, Thể Thao & Văn hóa, Nhà báo & Công luận... cũng đă đăng bài trao đổi. Để rộng đường dư luận và trao đổi học thuật, chúng tôi sẽ lần lượt đăng một số bài viết thể hiện các ư kiến khác nhau.

Chúng tôi mong muốn những phát hiện mới về lịch sử cũng như những ư kiến tranh luận sẽ sớm được các cơ quan khoa học về lịch sử thẩm định, đánh giá, kết luận, nhằm góp phần làm sáng rơ những trang sử vẻ vang của dân tộc, nhất là vào các thời kỳ nước ta không có hoặc có rất ít sử liệu. Số báo này xin giới thiệu nguyên văn bài viết của ông Trương Thái Du và bài viết của nhà giáo Hà Văn Thịnh.

Đôi lời với những phát hiện lịch sử chấn động

Từ ngày 27.2.2008 đến 6.3.2008, Báo Thanh Niên liên tiếp đăng loạt bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động của tác giả Hoàng Hải Vân. V́ yêu thích cổ sử và ít nhiều đă có những biên khảo nhỏ ở góc độ nghiệp dư, tôi đặc biệt chú ư và theo dơi rất kỹ vấn đề ông Thát theo đuổi. Từ gợi ư của Thanh Niên, tôi đă vừa đọc báo, vừa t́m hiểu quyển Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của tác giả Lê Mạnh Thát. XNB Tổng hợp TP.HCM - 2006 (LĐTK).

Một số điểm nổi bật

Xuyên suốt loạt bài báo và quyển LĐTK, có thể nhận ra ngay mấy vấn đề rất mới ông Thát đưa ra là:

1. Truyện mẹ Âu Cơ đẻ trăm trứng nở trăm con có nguồn gốc từ nước Phật.

2. Truyền thuyết An Dương Vương không có thật, nó là phiên bản của một câu chuyện Ấn Độ.

3. Triệu Đà chưa từng xâm lược nước Việt cổ.

4. Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trước thời Hai Bà Trưng là những quận mà triều đ́nh Hán "đoạt khống", tức đặt tên trên bản đồ nhưng không chiếm đóng trực tiếp.

Kết hợp với việc giải mă lịch sử ẩn trong kinh Phật, ông Thát chứng minh từ Vua Hùng đến Hai Bà Trưng nước ta hoàn toàn độc lập, có đầy đủ chữ viết, luật tục, thi thơ lễ nhạc.

Quan điểm của ông Lê Mạnh Thát thiên về tính bản địa của văn minh Việt Nam, nó tương đồng với các nghiên cứu của nhiều sử gia lớn như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn... Đúng là không thể phủ nhận truyền thuyết An Dương Vương có cái vỏ Mahăbhărata. Tuy vậy ông Thát đă bỏ qua vài chi tiết rất quan trọng góp phần tạo dựng truyền thuyết An Dương Vương: Tích Trương Nghi theo đường rùa ḅ xây thành tại nước Thục (TK 4 TCN). Theo sách "Đông Kinh hoa mộng lục", thời Hậu Chu (951-959) tại Trung Quốc có xây dựng Loa thành h́nh xoáy trôn ốc, có ba ṿng là Thành ngoại, Thành nội và Hoàng thành. Thành này hiện vẫn c̣n di tích tại thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Đó là chưa kể truyện dân gian "Thần cung bảo kiếm" của người Choang ở Quảng Tây có motip rất "An Dương Vương".

Bằng việc rút mắt xích An Dương Vương và Triệu Đà khỏi chuỗi Vua Hùng - An Dương Vương - Triệu Đà - Hai Bà Trưng, ông Thát bắt buộc phải bẻ cong sử liệu để nối Vua Hùng trực tiếp với Hai Bà Trưng. Phương pháp luận này lập tức tạo ra một lỗ hổng lớn như sau:

Thời Hùng Vương qua truyền thuyết nước ta chỉ có thể đang ở chế độ Phụ hệ hoặc Mẫu hệ với lănh tụ là nam giới. Trong khi đó thời Hai Bà Trưng th́ chắc chắn nước ta ở chế độ Mẫu quyền. Nội hàm mẫu quyền bao gồm mẫu hệ và lănh tụ là nữ giới.

Chuỗi Hùng Vương - Hai Bà Trưng của ông Thát sẽ phô ra sự thụt lùi phi thực tế của văn minh Việt cổ, đi ngược lại h́nh thái phát triển chung của nhân loại là Mẫu quyền đến Mẫu hệ rồi mới đến Phụ quyền. Hơn nữa, dù tham khảo thêm khái niệm "Mô h́nh xă hội lưỡng hệ" của GS sử học Hàn Quốc In Sun Yu trong quyển "Việt Nam học, kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15-17.7.1998 tập 4 (NXB Thế giới 2001)", ta vẫn thấy sự bất cập của chuỗi Hùng Vương - Hai Bà Trưng.

Nhằm cởi bỏ mâu thuẫn này, không ít học giả xưa nay nghi ngờ đă có những cuộc di cư lớn của người Lạc Việt từ miền nam Trung Hoa đến đồng bằng sông Hồng, dưới sức ép bành trướng lănh thổ cũng như xâm lăng văn hóa của văn minh Hoa Hạ. Hệ lụy của cuộc di tản bất đắc dĩ đă khiến xă hội Lạc Việt đi giật lùi, trở ngược về h́nh thái xă hội Mẫu quyền. Tiếc là hướng nghiên cứu ấy sẽ phủ nhận thuyết bản địa của văn minh Việt Nam, điều mà toàn bộ quyển sách LĐTK nói riêng và nền sử học Việt Nam không đồng t́nh.

V́ cố gắng khỏa lấp lỗ hổng này, Lê Mạnh Thát đă mạnh dạn "Xác định Việt Thường là Cửu Chân" và "Nói thẳng ra, nước ta gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cho đến năm 43 sdl vẫn là một nước độc lập, các vua Hùng vẫn cai trị và nước có tên là Việt thường hay Việt thường thị" (LĐTK trang 318, 319). Nghĩa là ông Lê Mạnh Thát chia cho vua Hùng quận Cửu Chân, Hai Bà Trưng quận Giao Chỉ (!?). Xin các bạn tự kết luận sau khi cùng tôi tham khảo Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đại Việt Nam, NXB VHTT 2005, trang 218, 219: "Sách Điền Hệ của Súy Phạm viết về các dân tộc thiểu số ở miền Vân Nam cho biết rằng một dân tộc thiểu số tên là Sản Lư hay Xa Ly, có truyền thuyết nói rằng đời Chu Thành vương họ sai xứ giả đến triều cống, khi về được Chu công cho xe chỉ nam, v́ thế họ lấy tên là Xa Lư. Lại có một dân tộc khác là Lăo Qua có truyền thuyết rằng ở thời nhà Chu, tổ tiên của họ là nước Việt Thường. Sách Điền nam tạp chí th́ nói Diến Điện là nước Việt Thường xưa. Những dân tộc kể trên nhận Việt Thường là tổ tiên xa của ḿnh đều có thể là di duệ của người Di Việt, tức của người Việt tộc xưa cả. Do đó chúng ta có thể đoán rằng nước Việt Thường xưa, một nước của Việt tộc ở miền nam Dương Tử, có thể tồn tại thực, cho nên một số dân tộc di duệ của Việt tộc ngày nay, trong ấy có Việt Nam, vẫn c̣n ghi nhớ mà xem như nước tổ của ḿnh".

Nghi ngờ trên phương diện văn bản học khái niệm "Đoạt khống"

Gút mắc lớn nhất và chấn động lớn nhất theo tôi, là việc ông Lê Mạnh Thát khẳng định ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là "... "đoạt khống" đất đai nhằm thỏa măn năo trạng và ao ước bành trướng của nhà Hán mà thôi". Lập luận của bài báo là: Tượng Quận nằm ngoài lănh thổ Việt Nam hiện đại. Trích báo: "Một số tài liệu Trung Quốc có chép một cách lầm lạc rằng nó là Nhật Nam (nước ta) sau này, nhưng đối chiếu với những tài liệu tin cậy cũng của chính Trung Quốc, từ rất sớm người ta đă biết Tượng Quận nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ không phải nước ta". Quan điểm này đă có hàng trăm năm nay với những cái tên quen thuộc như Maspero, hoặc hoàn toàn xa lạ như Guime Saeki (Tạp chí Nam Phong, số 133, năm 1928). Thực ra Nguyễn Văn Tố (1) đă bác bỏ Maspero một cách thuyết phục như sau: Hán Thư chép năm 76 TCN bỏ Tượng Quận, lấy đất ấy nhập vào Uất Lâm và Tường Kha. Đây là Tượng Quận của đời Hán chứ không phải của đời Tần. Quyển Lĩnh Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi có đoạn nói Hán Vũ Đế chiếm Nam Hải đă tách Tượng Quận của Tần làm ba Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, lại cắt một ít Nam Hải và Tượng Quận để thành Hợp Phố. Nguyễn Văn Tố đă đi xa hơn khi khẳng định "...người Tần bấy giờ mới đi đến Quế Lâm, c̣n từ Quế Lâm trở vào chẳng biết rộng hẹp thế nào, cứ đặt một quận để gọi là có tên..." (2).

Trước tháng 10 năm 2004, trước khi sách của ông Thát ra đời gần 2 năm, trong nhiều bài khảo cứu đăng trên mạng tôi đă chứng minh bằng thiên văn một cách có hệ thống tính khái niệm của ba từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nó tương đồng hoàn toàn với định nghĩa "đoạt khống" của ông Thát. Về phần tôi, khó ai có thể quy kết tôi đă tham khảo ông Thát khi dùng thuật toán thiên văn rất riêng của một người đi biển yêu cổ sử. Trên giấy trắng mực đen của văn bản học, người nêu ra vấn đề trước (2004) có quyền nghi ngờ người in sách sau (2006). Nếu độc giả tin tưởng ông Thát, xin vui ḷng giúp ông Thát chứng minh giữa sách in và bản thảo có khoảng cách "an toàn", giúp hai hướng nghiên cứu này cùng góp phần làm sáng tỏ lịch sử Việt Nam.

Về sử liệu ông Lê Mạnh Thát sử dụng

Sử liệu về cổ sử Việt Nam thật ít ỏi, phần lớn là sách Trung Quốc và truyền thuyết dân gian. Đến thời đại văn minh mạng máy tính hôm nay, chúng ta không những có nhiều công tŕnh biên khảo của người Việt xuất bản liên tục, mà c̣n có thể truy đến nguyên văn Hoa ngữ khá đầy đủ, hệ thống và khoa học trên các trang web Trung Quốc cũng như Đài Loan. Tiếc là phần lớn LĐTK của ông Thát viết cách đây đă 40 năm, sử liệu Trung Hoa ông dùng thiếu độ liền lạc, đầy đủ cũng như không được cập nhật. Hơn nữa ông chỉ dịch cắt khúc từ những nguồn rất cũ như Tiền Hán thơ 44 7al-11a13, hoặc Sử Kư 112 tờ 7b10-8a3.v.v... mà không hề có bản tiếng Hoa kèm theo. Phần dịch sử liệu chiếm hơn một phần ba của LĐTK dày 365 trang. Điều này gây khó khăn cho người khảo cứu và các sinh viên khoa sử muốn xem sách của ông như một tài liệu tham khảo hữu dụng, và lại càng đánh đố những ai muốn "tra tận gốc" sử liệu của ông Thát như gợi ư của Báo Thanh Niên.

Ngoài ra có thể nói ông Lê Mạnh Thát đă khai thác một chiều sử liệu Trung Hoa: Suốt LĐTK, ông sử dụng khá nhiều văn bản Trung Hoa, nhưng đáng tiếc phương pháp của ông rất cảm tính. Thứ ǵ có lợi cho thuyết của ông th́ ông xem như chân lư và không thèm nh́n nhận nó dưới nhiều góc độ. Việc "phân đất" Cửu Chân cho vua Hùng ở trên là ví dụ thứ nhất. Ví dụ thứ hai: Trong mục "Về vấn đề chín quận" trang 319 đến 327, ông Thát dẫn từ Tiền Hán Thư các con số thống kê dân số năm thứ 2 sau công nguyên. Ông xem nó đúng một cách tuyệt đối và dông dài phân tích các con số. Ở đây tôi muốn trích lời Stephen O'Harrow, trong quyển Những vấn đề lịch sử Việt Nam, NXB Trẻ 2001, trang 30, b́nh luận trên cùng những con số này: "Vào đầu thế kỷ I sau công nguyên, người Trung Hoa nói chung cũng không thật giỏi giang và chính xác lắm, chưa kể họ c̣n sử dụng tri thức v́ lợi ích của họ".

Một dẫn chứng nữa: Ngày nay, dưới nhăn quan thiên văn hiện đại, người ta phát hiện rất nhiều ghi chép thiên văn cổ Trung Hoa có những sai lệch khá ngờ nghệch. Chẳng hạn các sao hung cát đă không ít lần được các sử quan cho chiếu xuống Trung Quốc không theo chu kỳ mà đa số sử quan đă rất am tường. Giả thiết là, đây hẳn nhiên mang dấu ấn chính trị nhằm tác động đến nhóm người mê tín nào đó có quyền đưa ra các quyết sách quan trọng.

Nếu lật ngược con số nhân khẩu Giao Chỉ rất lớn ở Tiền Hán Thư, ta hoàn toàn có thể đưa ra giả thiết: Nhóm mang dă tâm bành trướng trong triều đ́nh Hán muốn kê dân số Giao Chỉ lên cao để chứng minh nơi này đất rộng người đông, sản vật phong phú, nếu chiếm đóng sẽ mang nhiều lợi ích cho Hán tộc. Đọc truyện Giả Quyên Chi trong Hán thư ta sẽ thấy triều Hán lúc nào cũng có hai nhóm ủng hộ và phản bác việc mở rộng và trực trị cương giới phía nam.

Tạm kết luận

Trong khuôn khổ một bài báo ngắn mà tôi muốn viết, chỉ ra bất cập trong các nghiên cứu "chấn động" của ông Lê Mạnh Thát không thể quá dài ḍng và truy đủ cước chú. Mặc dù c̣n khá nhiều lỗ hổng, nhưng tôi tin công tŕnh của ông Thát cũng như tất cả công tŕnh khảo sử của bất cứ ai đều đáng trân trọng và cần được đưa ra công luận một cách b́nh đẳng. Càng nhiều cày xới, càng nhiều suy biện th́ người đọc càng có cơ hội tiếp cận gần nhất sự thật lịch sử.

Trương Thái Du
Thảo Điền
6.3.2008

----------------

1 Đại Nam dật sử - Sử ta so với sử Tàu. Hội KHLS VN 1997, lược nội dung trang 481, 482.
2 Sách đă dẫn, trang 488.

***

Hăy trân trọng những phát hiện mới về lịch sử dù nhỏ nhất!

Loạt bài về Những phát hiện lịch sử chấn động của thiền sư Lê Mạnh Thát đăng trên Báo Thanh Niên trong mấy ngày vừa qua được dư luận đặc biệt quan tâm.

1. Người viết bài này đă đọc và trích dẫn từ các công tŕnh nghiên cứu của Lê Mạnh Thát (LMT) khá nhiều, đặc biệt là qua hai bài đă công bố trên Kiến thức Ngày nay số 258, 10.4.2005: Trần Nhân Tông với chữ Nhân và Ngoại giao Trần Nhân Tông. Chính v́ thế, về linh cảm và từ niềm tin đă có sẵn, chúng tôi tin những công bố của LMT là có cơ sở nhất định. Tuy nhiên, khoa học không thể bắt đầu bằng cách thức cảm nhận như thế nên chúng tôi mong muốn các nhà sử học hăy quan tâm đến vấn đề này. Dù không thể tránh khỏi sai sót, những ư kiến của thiền sư LMT là cực kỳ ấn tượng và nhất là, mang tính dự báo cho bước đột phá quan trọng đối với việc dựng lại những trang sử của dân tộc trong các thời kỳ không có hoặc thiếu sử liệu. Hội Sử học Việt Nam, các trường ĐH và các trung tâm nghiên cứu phải vào cuộc v́ đó là trách nhiệm của các vị. Có như thế th́ chúng ta mới có thể tập hợp được ư kiến để đề nghị Nhà nước thành lập một hội đồng thẩm định nhằm xem xét và đánh giá một cách khách quan, cẩn thận toàn bộ tư liệu mà LMT có - dù chưa hoặc đă công bố.

2. Không ít nhà sử học từ lâu đă nghi ngờ lịch sử giai đoạn Triệu Đà - An Dương Vương lâu nay được viết chủ yếu bằng truyền thuyết và những chứng cứ muộn màng, sai lệch. Thậm chí, trong toàn bộ Bộ Lịch sử Việt Nam - kể cả SGK cho học sinh lẫn chính sử đều có không ít những nhầm lẫn đáng tiếc. Nhưng, tất cả những lời phàn nàn hay than văn từ báo chí đều trôi tuột theo độ nghiêng của nhận thức hay nói theo cách của Đức Phật (Budha): "Lặng im như một bếp lửa vừa tàn". Và cũng v́ thế, hết năm này sang năm khác chúng ta cứ măi hoài kêu ca về t́nh trạng con cháu không thích học sử dân tộc, thi môn sử phần nhiều là điểm kém. V́ vậy, tôi nghĩ đóng góp to lớn và nhiều ư nghĩa nhất của thiền sư LMT là ở chỗ ông đă bổ nhát cuốc đầu tiên để khai phá rồi ươm trồng những hạt giống nhận thức mới về lịch sử. Có thể ư kiến của LMT có rất nhiều chỗ đáng bàn, chẳng hạn như đoạn viết về Việt luật (mà thật ra là luật tục) hay kết luận hơi sớm khi cho rằng bài Việt ca do Lưu Hướng chép (thế kỷ I tr.CN) là Việt ca của Việt Nam trong khi nhiều nghiên cứu nói rằng Việt ca đó của người Bách Việt ở vùng Giang Tô - Hán Thủy... (Hai điểm cần bàn mà tôi vừa dẫn là ư kiến của TS Nguyễn Việt, GĐ Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đăng trên Báo TT&VH ngày 11.3.2008). Các ư kiến khác như của nhà sử học Dương Trung Quốc và nhà biên khảo lịch sử Trương Thái Du (cũng đăng trên TT&VH trong mấy ngày gần đây), có một điểm chung là sự dè dặt, vừa phải trong đánh giá, công nhận hoặc phê phán. Sự cẩn trọng trong khoa học là tiêu chí cần phải có nhưng ngược lại, nếu cái ǵ cũng chung chung, từ từ th́ làm sao chúng ta cùng nhau tiến hành t́m ṭi, nghiên cứu một cách nghiêm túc những điều c̣n mơ hồ trong lịch sử? Cái đáng quư và cần được ghi nhận một cách trân trọng là ở chỗ, thiền sư LMT đă buộc tất cả những nhà nghiên cứu lịch sử nước ta và cả những ai quan tâm đến lịch sử phải có một thay đổi thật sự trong cách tiếp cận, cách hiểu và diễn giải lịch sử.

3. Thiền sư LMT đă "biết ḿnh, biết người" nên mới công bố một cách gián tiếp quan điểm lịch sử mới của ḿnh. Khi c̣n ngồi trên ghế nhà trường, các giáo sư như Đinh Xuân Lâm, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê đă dạy chúng tôi rằng chỉ cần một phát hiện nhỏ thôi nhưng mới, như thế cũng đáng để bỏ ra tâm nguyện cả đời. Thiền sư LMT và cuốn sách nghiên cứu về Lục độ tập kinh (và nhiều cuốn khác, chẳng hạn như Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB TP.HCM, 2000) của ông có một vị trí đặc biệt. Đừng vội chê trách thiền sư LMT không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp để ngụ ư phủ định đóng góp của thiền sư. Tôi từng biết rất nhiều nhà sử học không chuyên nghiệp nhưng lại cực giỏi như Nguyễn Đắc Xuân, Dương Phước Thu, Phan Thuận An ở Huế. Mặt khác, khoảng cách giữa lịch sử và tư liệu lịch sử là điều ai cũng biết nhưng dám và biết nhận ra điều đó mới là điều khó.

Đă tới lúc các nhà sử học phải đặt câu hỏi rằng tại sao dân tộc Việt Nam phi thường và vinh quang như thế, quật cường và giàu vị tha như thế, mà nhiều trang sử lại được viết sơ sài và khô khan đến thế?

Hà Văn Thịnh
(Giảng viên khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Huế)

 

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
situong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 13 February 2008
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 24
Msg 13 of 20: Đă gửi: 12 March 2008 lúc 7:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn situong

Làm ǵ trước những phát hiện mới về lịch sử?
Cập nhật cách đây 50 phút
Một số trong nhiều tác phẩm đă xuất bản của Thiền sư Lê Mạnh Thát

* Hội Khoa học lịch sử sẽ tổ chức tranh luận khoa học những vấn đề mà thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra

C̣n rất nhiều ư kiến của các nhà nghiên cứu và bạn đọc tham gia trao đổi loạt bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động. Số báo này chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, nhà báo Trần Đức Chính, ư kiến của tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ và đăng lại bản tin của Báo SGGP "Sẽ tổ chức tranh luận khoa học những vấn đề mà Thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra". Chúng tôi xin tạm dừng cuộc trao đổi ở đây để dành cho sự đánh giá, thẩm định của các nhà khoa học.

Làm ǵ trước những phát hiện mới về lịch sử?

Những ai từng nghiên cứu lịch sử hẵn đă thấy việc khám phá được một sự kiện lịch sử mới nó khó khăn, quư giá biết chừng nào. Có bao nhiêu nhà sử học đă nghiên cứu, phát hiện được các sự kiện để hiệu đính những sai lầm, giải mă một bí ẩn hay bổ sung một thiếu sót trong lịch sử dân tộc? Ít người có câu trả lời chính xác.

Công việc khó và hiếm hoi như vậy theo tôi có nhiều lư do nhưng lư do quan trọng nhất là thiếu tư liệu. Sau chiến tranh, ít có sử gia Việt Nam có đủ điều kiện tiếp cận được các kho tư liệu của các nước đă có mối quan hệ lịch sử với Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, Pháp, Mỹ, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha..v.v. (Ví dụ tư liệu mới về thời Tây Sơn chỉ có thể t́m được ở Trung Quốc, Tây Ban Nha, Vatican). Không có tư liệu mới để khảo chứng th́ không khám phá được những sự kiện mới.

Quan niệm như thế cho nên tôi hết sức trân trọng, cảm phục những phát hiện lịch sử cực kỳ mới mẻ của Thầy Lê Mạnh Thát diễn giải trong bộ Tổng tập Văn học Phật giáoViệt Nam và bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam (NXB Tổng hợp TP.HCM) và nhiều tác phẩm khác của ông. Không cómột sức học uyên bác, không có một kho tư liệu phong phú mới lạ, không có một sức làm việc phi thường th́ không thể có được những phát hiện ấy. Tuy nhiên v́ không chuyên về cổ sử Việt Nam nên lâu nay tôi chờ ư kiến thẩm định của các chuyên gia cổ sử và các cơ quan chức năng về những tài liệu đă được công bố này. Rất tiếc là mấy năm nay điều tôi mong chờ vẫn im hơi lặng tiếng. May sao 7 số báo Thanh Niên vừa qua đă giúp những phát hiện lịch sử của Thầy Lê Mạnh Thát bật dậy và gâychấn động không ít trong giới sử học.   

Sáng hôm 11.3, sau buổi giao lưu với độc giả về cuốn sách “Đi t́m dấu tích Cung điện Đan Dương-sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung” của tôi trong Hội sách lần thứ V tại Công viên Lê Văn Tám, nhiều bạn thanh niên đă vây quanh hỏi ư kiến tôi về “Những phát hiện lịch sử chấn động” của Thầy Thát trên báo Thanh Niên. Tôi đă trả lời và xin ghi lại sau đây để bạn đọc Thanh Niên tham khảo:

1. Đây là những phát hiện lịch sử. Muốn biết những phát hiện của Thầy Lê Mạnh Thát giá trị như thế nào phải kiểm tra nguồn tư liệu mà Thầy đă dùng. Nếu tư liệu đúng, phương pháp nghiên cứu đúng th́ phải công nhận kết quả nghiên cứu của Thầy. Một đời cầm bút mà chỉ cần đính chính được bài thơ Xuân nhật tức sự, được Lê Quư Đôn chép trong Kiến Văn Tiểu Lục nói là của thiền sư Huyền Quang thời Trần (1254-1334) mà sự thực là của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc là đă có công lớn rồi. Xưa nay ai dám động đến Lê Quư Đôn ? Việc kiểm tra đúng sai chuyện nầy bây giờ quá dễ. Chỉ cần đến 750 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận TP.HCM, đề nghị Thầy Lê Mạnh Thát cho sao lại tài liệu Thầy đă dùng và đem đối chiếu với nguồn gốc của nó (cũng được Thầy chỉ rơ) là xong ngay. Nhiều phát hiện khác cũng có thể kiểm tra theo cách này. Tôi không hiểu đă có ai làm việc đó chưa ! Không phản bác được tư liệu đă khảo chứng của Thầy Lê Mạnh Thát th́ phải chấp nhận thông tin lịch sử mà Thầy đưa ra. Đây là lịch sử, không thể có ư kiến khi chưa khảo về tư liệu. Mọi ư kiến về nghiên cứu lịch sử mà không căn cứ trên tư liệu th́ chỉ nghe chơi thôi.

2. Những phát hiện mới mẻ mà chưa có tài liệu trực tiếp chứng minh như không có sự kiện “An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại như Đại Việt sử kư toàn thư của Ngô Sỹ Liên đă viết”, “Cổ Loa chẳng qua chỉ là một tên gọi được Ngô Sỹ Liên lấy từ truyền thuyết của Lĩnh Nam Chích Quái để đưa vào Đại Việt sử kư toàn thư gắn vào An Dương Vương mà thôi” v.v... ta xem như những phát hiện c̣n phải tiếp tục chứng minh, chứ không loại bỏ. Không nên v́ những cái chưa được rơ ràng mà làm ngơ trước những phát hiện đă rơ ràng.

3. Những phát hiện mới của Thầy Lê Mạnh Thát có đầy đủ tư liệu chứng minh rơ ràng th́ các ngành chức năng phải tiếp nhận ngay,   không những để tưởng thưởng cho tác giả, khuyến khích các nhà nghiên cứu khác đi t́m cái mới, mà c̣n liên quan đến việc sửa sách giáo khoa, sách sử dân tộc...

4. Qua tiếp xúc với một số nhà Việt Nam học ở nước ngoài, tôi thấy họ rất quan tâm đến các công tŕnh nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Họ có nhận xét là sự đổi mới về nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam quá chậm so với văn học, báo chí. Đặc biệt họ rất quan tâm đến trách nhiệm của các ngành chức năng đối với các phát hiện mới về lịch sử, đến tâm và trí của các nhà sử học qua các phản biện lịch sử. Giữa thời đại bùng nổ thông tin nầy mà Những phát hiện lịch sử gây chấn động của Thầy Lê Mạnh Thát vẫn rơi vào im lặng được sao ? Vẫn để cho sử gia các nước đối tác với chúng ta xem thường chúng ta được sao?

Nguyễn Đắc Xuân (Nhà nghiên cứu)

 

 Sẽ tổ chức tranh luận khoa học những vấn đề mà thiền sư Lê Mạnh Thát đă đưa ra

Xung quanh những vấn đề lịch sử dân tộc được cho là của thiền sư Lê Mạnh Thát mà Báo Thanh Niên đưa ra trong thời gian gần đây, chiều qua 11.3, lănh đạo Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đă có cuộc họp để thảo luận về những vấn đề liên quan. Quan điểm của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam là tất cả những phát hiện mới về lịch sử dân tộc đều đáng trân trọng, tuy nhiên để khẳng định một vấn đề cần có những tranh luận công khai, minh bạch về mặt khoa học, cần có những cứ liệu khoa học xác đáng, đủ sức thuyết phục. V́ vậy, với trách nhiệm của ḿnh, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam sẽ tiến hành tranh luận công khai về những vấn đề mà thiền sư Lê Mạnh Thát đưa ra theo 2 hướng: Tổ chức hội thảo bàn tṛn với sự có mặt của thiền sư và những nhà khoa học đầu ngành lịch sử, qua đó thực hiện việc chất vấn khoa học cũng như phản biện một cách công bằng, minh bạch; tổ chức tranh luận trên Tạp chí Xưa và Nay (cơ quan của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam). Tại đây các học giả có thể tham dự bằng các bài viết xung quanh vấn đề này, sau đó Hội Khoa học lịch sử Việt Nam sẽ thực hiện tổng kết một cách công khai, theo đúng tinh thần tranh luận khoa học, cả đồng thuận lẫn phản biện; tôn trọng các ư kiến khác nhau, đồng thời qua đó t́m ra được những vấn đề có tính khoa học cao nhất, thuyết phục nhất. Nội dung tranh luận khoa học mà Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức là dựa vào những công tŕnh, nghiên cứu của thiền sư Lê Mạnh Thát đă công bố, chứ không phải chỉ dựa vào những nội dung mà Báo Thanh Niên đă nêu ra.

Về vấn đề này, trong một cuộc trả lời báo chí gần đây, nhà sử học Dương Trung Quốc (với tư cách cá nhân) cho rằng, tất cả những cái đó phải được xem xét cụ thể trên nhiều phương diện như độ tin cậy của sử liệu, phương pháp phân tích của tác giả và phải đặt trong tổng thể với các nguồn tư liệu khác. Các bộ kinh Phật đương nhiên là hết sức quư, nhưng nó cần được giải thích sự khác biệt với các nguồn tư liệu khác cũng có giá trị riêng của nó, kể cả truyền thuyết và dă sử. Không phải cứ nói đến “chính sử” của triều Lê (Đại Việt Sử kư toàn thư) do những sử gia tên tuổi biên soạn đă là chân lư tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy th́ cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối v́ dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền. Đương nhiên, cũng không chỉ dựa vào một bộ kinh dù vô cùng quư giá trong kho tàng Phật giáo mà phủ định, đơn giản những nguồn sử liệu khác. Càng ngày các khoa học càng cần một tư duy tổng hợp và tri thức liên ngành. Sử học cũng vậy. Theo ông Dương Trung Quốc, về khoa học, người ta cần t́m tính biện chứng của những luận điểm; c̣n về nghề nghiệp th́ người ta cần đến sự tranh biện, cầu thị.

Trần Lưu (Tin đăng trên Sài G̣n Giải Phóng, 12.3.2008)

 Tôi sẽ cung cấp thêm tài liệu về cổ địa lư

Tôi đă đọc bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động đăng trên Báo Thanh Niên. Tôi rất tâm đắc với những vấn đề được nêu ra. Chỉ có báo chí mới có thể giới thiệu với bạn đọc về những phát hiện mới trong khoa học của những người say mê nghiên cứu.

Về thời kỳ Hùng Vương, tôi xin giới thiệu: Năm 1977, trong quá tŕnh nghiên cứu địa chất đồng bằng Bắc bộ, tôi đă phát hiện biển tiến đột biến cách đây 4.100 năm. Sự biển tiến đột biến này có thể là nguồn gốc của truyền thuyết "Sơn Tinh - Thủy Tinh" và có liên quan đến quá tŕnh dựng nước thời đại Hùng Vương và các thời kỳ sau này. Cổ địa lư thời Hùng Vương chúng ta chưa từng biết đến. Hồi c̣n công tác ở miền Bắc, chúng tôi đă cùng với Viện Khảo cổ học tổ chức hội thảo, khi đó Viện Khảo cổ học đang chủ tŕ chương tŕnh nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương. Trong một chuyên khảo mới về địa chất đang chuẩn bị xuất bản có chương "Biển tiến đột biến Holoxen, xuất xứ truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh và điều kiện ra đời Nhà nước Hùng Vương phát triển cho đến nay".

Những vấn đề về cổ địa lư có thể góp vào nghiên cứu lịch sử mà thiền sư Lê Mạnh Thát đă nêu. Tôi sẽ tặng tài liệu cho Báo Thanh Niên và thiền sư để nghiên cứu.

Mong muốn của những người nghiên cứu khoa học là làm sao kết quả nghiên cứu đến được với người đọc để sử dụng nó vào trong thực tiễn phát triển kinh tế và xă hội.

Tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ (660 Nguyễn Văn Quá, quận 12, TP.HCM)

 

Phản biện

Thông tin mới lạ, nhanh nhạy, chính xác làm nên sự hấp dẫn của báo chí. Thế nhưng những thông tin mang tính phản biện lại thể hiện sức mạnh của truyền thông, tỏ rơ bản lĩnh của nhà báo và là một trong những yếu tố cấu thành cái mà chúng ta vẫn (nói riêng với nhau), đẳng cấp của cơ quan báo chí.

Tuần này có hai phản biện tầm cỡ. Thứ nhất là loạt bài trên Báo Thanh Niên của Hoàng Hải Vân giới thiệu những phát hiện lịch sử chấn động của Thiền sư Lê Mạnh Thát. Đây là một vấn đề lớn ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, của cả những người viết sử đă từ bao đời nay về lịch sử 4.000 năm của dân tộc Việt Nam. Đă có lúc chúng ta cảm thấy con số 4.000 năm có vẻ mung lung, chập chờn, thậm chí gần đây nhiều người ngại nói đến. Th́ nay, công tŕnh nghiên cứu của Lê Mạnh Thát đă khơi dậy với những chứng minh đang hé mở một chân trời mới về thời đại Hùng Vương, về một nền văn hiến trước Bắc thuộc của người Việt, mà đến cỡ nhà sử học Ngô Sĩ Liên ngày xưa cũng nói không đúng.

Phản biện thứ hai là bài báo của TS Vũ Quang Việt gửi từ New York đăng trên Lao Động 3.3.2008. Bài báo lấy tít một bài của Tuổi Trẻ 29.2, dẫn lời Bộ trưởng Tài chính nước ta "Không sai lầm về chính sách, nhưng yếu kém trong dự báo". Có điều đằng sau câu nói này của TS Vũ Quang Việt đă đặt thêm một dấu hỏi (?). Đơn giản là tác giả đă chứng minh có những sai lầm trong chính sách năm 2007 vừa qua, có liên quan đến cơn "băo giá" và lạm phát hiện nay.

Chúng tôi không đi sâu vào hai phản biện này v́ nó đang nóng trên báo chí những ngày vẫn c̣n rét đậm đầu tháng 3.2008. Điều muốn nói là công chúng ngày nay rất cần những thông tin phản biện trên cơ sở tin cậy như thế. Phản biện chỉ làm vấn đề sáng tỏ hơn, dù có phải phủ nhận một cái ǵ đó, một ai đó, âu cũng là chuyện thường t́nh. Những ngày này Đài TH Hà Tây đang phát lại bộ phim dài Bao Thanh Thiên. Bài hát của phim có câu "chỉ có thể biết nhiều, biết ít, chứ không bao giờ biết đủ". Nếu chúng ta càng có nhiều thông tin trên báo chí có tính phản biện th́ sức mạnh nghề báo sẽ càng được tăng cường. Cũng cần nói thêm, trước các phản biện, nên nhớ lời người xưa: "Tri bất tri, bất tri vi tri" (biết điều ḿnh chưa biết tức là chưa biết mà biết vậy).

Trần Chinh Đức *
(Bài đăng trên Nhà báo &Công luận, 7.3.2008)

 

Quay trở về đầu Xem situong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi situong
 
nhanhmaibensuoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 27 February 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2
Msg 14 of 20: Đă gửi: 25 March 2008 lúc 1:23am | Đă lưu IP Trích dẫn nhanhmaibensuoi

Những phát hiện lịch sử này của thiền sư Lê Mạnh Thát thật phi thường. Tuy nhiên chúng ta cũng cần có thêm các bằng chứng có giá trị khác nữa, mà một phần quan trọng là các bằng chứng vật thể do khảo cố học mang lại.

Chúc thiền sư luôn mạnh khỏe để có thêm nhiều phát hiện có giá trị về lịch sử dân tộc Việt Nam.



__________________
Ḷng vô sự trăng in nước
Của thảng lai gió thổi hoa
Quay trở về đầu Xem nhanhmaibensuoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhanhmaibensuoi
 
Dolkihote
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 January 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 76
Msg 15 of 20: Đă gửi: 28 March 2008 lúc 11:19am | Đă lưu IP Trích dẫn Dolkihote

Nghiên cứu th́ nghiêm túc thật đấy. Thế nhưng thực tế th́ sao. Tài liệu lịch sử của Tiền nhân để lại, Thác bản giốc, Ải nam quan ....thuộc về lănh thổ VN, gắn liền vớ những dấu ấn lịch sử vinh quang của dân tộc. Mà nay đâu mất rôi ???.


[/QUOTE]

Ải Nam Quan th́ không biết nhưng ở Hà Nội tôi vẫn thấy rao bán tour đi ngắm thác Bản Giốc.

__________________
Nhắn ai trong cơi hồng trần
Làm người phải lấy chữ nhân làm đầu
Quay trở về đầu Xem Dolkihote's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dolkihote
 
tanghinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 17 July 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 64
Msg 16 of 20: Đă gửi: 31 March 2008 lúc 7:35am | Đă lưu IP Trích dẫn tanghinh

Thác Bản Giốc, phần thác đẹp nhất th́ nay là của Tàu. Phần thác kém đẹp hơn, th́ của ḿnh.

Trước đây, th́ toàn bộ là của ḿnh cả. Sau khi "chia chác" nó ra cái cơ sự trên.

V́ thế, dân ta vẫn có thể đi ngắm thác Bản Giốc, ngắm được toàn bộ thác. Nhưng sở hữu th́ chỉ c̣n lại một phần. Muốn ra giữa thác tắm, th́ nay đă là sang đất Tàu.

Chia chác giỏi thật!

 

Quay trở về đầu Xem tanghinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tanghinh
 
ngoc123
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 30 July 2006
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 355
Msg 17 of 20: Đă gửi: 07 April 2008 lúc 10:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn ngoc123

Giỏi hơn nữa là hiện giờ đang có một số ngâm cứu sinh trẻ của Việt Nam thằng thừng tuyên bố Ải Nam Quan không phải của Việt Nam với những chứng cứ hùng hồn kiểu "nếu nó là của ḿnh th́ phải gọi là Bắc Quan chứ không phải là Nam Quan" hihihi

__________________
Thế là mưa gió đời nhau
Thế là bể rộng sông sâu mất rồi ...
Quay trở về đầu Xem ngoc123's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoc123
 
Quan Tri Vien 2
Quản trị
Quản trị


Đă tham gia: 07 June 2004
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 687
Msg 18 of 20: Đă gửi: 20 May 2008 lúc 10:39am | Đă lưu IP Trích dẫn Quan Tri Vien 2

Copy từ web site TGVH

Luận bàn về “phát hiện lịch sử chấn động”

1. Cách đây 8 năm, dư luận đă một lần kinh ngạc khi thấy cuốn sách Huyền thoại hay sự thật cội nguồn cha Rồng mẹ Tiên của Vơ Trọng Thái ra mắt tại NXB Văn hóa dân tộc. Dư luận kinh ngạc v́ từ mấy nghiên cứu hết sức kỳ quái, Vơ Trọng Thái đă đi tới một số kết luận hết sức kỳ quặc, như khẳng định kinh đô nước Xích Qủy là ở làng Vân Nội (xă Phú Lương, Thanh Oai, Hà Tây), xă Phú Lương cũng là nơi có lăng mộ các Vua Hùng; Hai Bà Trưng vốn thuộc ḍng họ Lê Đĩnh (Thục Phán) nên Trưng Trắc tên thật là Lê Thị Hồng Hưng, Trưng Nhị tên thật là Lê Thị Hồng Hà (!)… Những tưởng cùng với thời gian, các sản phẩm “nghiên cứu” như của Vơ Trọng Thái sẽ không c̣n đất dung thân trong sinh hoạt học thuật, vậy mà vừa qua, dư luận lại một lần nữa xôn xao về cuốn Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của Lê Mạnh Thát - một cuốn sách mà tôi rất nghi ngờ về phẩm chất khoa học. Và điều đáng nói là, dù đă xuất bản từ năm 1972, gần đây là năm 2006, song Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của Lê Mạnh Thát vẫn không một tiếng vang trong sinh hoạt khoa học, ấy rồi nó lại được chú ư sau khi bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động của Hoàng Hải Vân được đăng tải trên báo Thanh Niên.

Theo tôi, việc cuốn sách của Lê Mạnh Thát không có tiếng vang trong sinh hoạt khoa học chỉ nên giải thích từ giá trị của nó, không nên cho rằng bạn đọc và giới nghiên cứu không có khả năng tiếp nhận hay lảng tránh “phát hiện” của ông. Hơn nữa, vấn đề c̣n là trước khi đồng t́nh hay bác bỏ, mỗi người cần tiếp nhận trực tiếp từ cuốn sách của Lê Mạnh Thát, chứ không chỉ tiếp nhận qua bài viết của Hoàng Hải Vân. Bởi dù thế nào th́ “phát hiện” của Lê Mạnh Thát cũng đă đi qua “lăng kính” của Hoàng Hải Vân với tất cả niềm hứng khởi của tác giả này (?). Đáng tiếc là hầu như các ư kiến đă công bố để đánh giá “phát hiện” của Lê Mạnh Thát đều chủ yếu dựa trên bài viết của Hoàng Hải Vân và theo xét đoán của tôi, ngoài Trương Thái Du, có lẽ chưa có tác giả nào đă trực tiếp đọc Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta. Phải chăng v́ thế, không tính đến một vài ư kiến ca ngợi, dù là ư kiến phản bác th́ tác giả vẫn phải “gài” vào phát biểu của ḿnh một số ngôn từ để thể hiện thái độ trân trọng (thận trọng?) và ư niệm “phát hiện” vẫn được tŕnh bày như là muốn đảm bảo cho tinh thần khách quan. Bên cạnh đó, đọc các ư kiến, tôi nhận thấy hầu hết đều bị cuốn theo xu hướng tranh biện với những dẫn liệu sử học, văn học, Phật học do ông Lê Mạnh Thát đưa ra mà chưa chú ư tới một điều cực kỳ quan thiết là khi đánh giá một công tŕnh nghiên cứu phải xem xét tiền đề khoa học của nó - tức là xem xét điểm xuất phát để từ đó tác giả tiến hành công tŕnh. Nói cách khác, muốn khảo sát và đánh giá một công tŕnh nghiên cứu, trước hết phải bắt đầu từ giả thuyết khoa học chứ không chỉ bắt đầu từ các kết luận mà nó đưa lại. Bởi, nếu giả thuyết chỉ là ư tưởng “giả khoa học” th́ dẫn liệu dù phong phú đến đâu, tác giả dù thông thái, uyên thâm đến mức độ nào th́ kết quả nghiên cứu của anh ta vẫn chỉ là một (các) hư cấu chủ quan, nếu không nói là vô nghĩa.

Do không có trong tay bản in cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1) của Lê Mạnh Thát, tôi đành bằng ḷng với việc đọc cuốn sách này qua bản điện tử của website quangduc.com (1). Đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, đối chiếu với Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta rất dễ nhận ra Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta chỉ là “dị bản”, chính xác hơn chỉ là bản “thu nhỏ” những nội dung tương tự đă được tŕnh bày trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Các ư tưởng, tài liệu Lê Mạnh Thát sử dụng trong Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta đều có mặt trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam. T́nh huống ấy làm cho tôi muốn đặt câu hỏi: Dù Lê Mạnh Thát đă cố gắng tŕnh bày trong hai cuốn sách khác nhau về cùng một vấn đề nhưng vẫn không được chú ư, và Hoàng Hải Vân đă “có công lao” làm cho các ư tưởng của Lê Mạnh Thát trở thành tâm điểm của dư luận trong thời gian gần đây? Về phần ḿnh, tuy đă đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, song để bài viết này tập trung vào vấn đề muốn đề cập, nên tôi chỉ bàn tới Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta, bài báo của Hoàng Hải Vân cùng một hai ư kiến có liên quan. Hy vọng vào một ngày đẹp trời nào đó, tôi sẽ trở lại với Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát để phân tích kỹ hơn các lập luận ông đă tŕnh bày.

2. Dựa trên các tiền đề sách vở do ông “phát hiện”, gồm: truyền thuyết trăm trứng liên quan tới Lạc Long Quân - Âu Cơ từng được ghi lại trong Lục độ tập kinh - một bộ kinh Phật; truyền thuyết về An Dương Vương chỉ là dị bản mô phỏng trận đánh giữa anh em Pandu và Duryodhana đă được kể lại trong Mahabharata - một sử thi Ấn Độ, Lê Mạnh Thát đă triển khai suy luận và truy lùng văn bản vừa để chứng minh, vừa để đưa ra các kết luận đại loại như: văn bản Lục độ tập kinh mà Khương Tăng Hội sử dụng để dịch sang tiếng Hán vốn là bản tiếng Việt chứ không phải một bản tiếng Phạn; Triệu Đà chưa từng xâm lược Việt Nam nên thời đại của An Dương Vương chỉ là hư cấu lịch sử; triều đại Hùng Vương kéo dài tới năm 43 sau công nguyên, triều đại này rất phát triển, có chữ viết riêng, có luật pháp riêng, và sự nghiệp của Hai Bà Trưng là vương triều cuối cùng của triều đại Hùng Vương chứ không phải là một cuộc khởi nghĩa…

Vậy là từ một hai chi tiết, Lê Mạnh Thát đă phóng đại chúng lên làm mẫu nghiên cứu theo kiểu “chọn giầy”, rồi chứng minh theo lối “gọt chân”, cái ǵ phù hợp với suy đoán th́ ông OK, cái ǵ không phù hợp với suy đoán th́ ông gạt phắt ra ngoài hoặc chụp cho cái mũ… “không đáng tin cậy”! Theo tôi, đây chính là điều cần phê phán nhất trong “nghiên cứu” của Lê Mạnh Thát, bởi từ một chi tiết có vai tṛ dẫn truyện trong Lục độ tập kinh, ông không chỉ suy đoán, mà c̣n dựa vào đó để đưa ra một loạt khẳng định với tâm thế rất tự tin. Thiển nghĩ, hoặc là Lê Mạnh Thát không nắm được các nguyên tắc của nghiên cứu khoa học, hoặc là ông có điều bất thường về tư duy, hoặc là mấy ngh́n năm nay Phật giới Việt Nam và Trung Hoa đă “vô minh” đến mức tin tưởng, chấp nhận, rồi đề cao một tập kinh Phật mà trong đó “chứa đựng “một lượng bất b́nh thường” các tư tưởng, quan điểm và đạo lư mang sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam”(2).

Theo xét đoán của ông Lê Mạnh Thát: “không phải Khương Tăng Hội đă viết Lục độ tập kinh, mà do Hội đă dịch nó theo một bản tiếng Việt” (3) và “Khương Tăng Hội, khi tiến hành phiên dịch Lục độ tập kinh tiếng Trung Quốc, đă chịu không những tác động của tiếng mẹ đẻ, mà c̣n chịu tác động trực tiếp của nguyên bản Lục độ tập kinh tiếng Việt…” (4), th́ ngược về thời gian và hoàn cảnh lịch sử để truy nguyên văn bản, sẽ xuất hiện ba khả năng trực tiếp liên quan tới kết luận của ông mà tôi đồ rằng, dẫu Lê Mạnh Thát có “ba đầu sáu tay” cũng không thể giải quyết được:

- Một: Nếu bản Lục độ tập kinh bằng tiếng Việt mà Khương Tăng Hội sử dụng vốn được dịch từ một bản tiếng Phạn th́ phải chăng mấy ngh́n năm trước ở bên Ấn Độ xa xôi lại có người tỷ mẩn ghi chép giúp tổ tiên chúng ta một cuốn lịch sử về nguồn gốc dân tộc bằng tiếng Phạn, rồi ai đó đă dịch từ bản tiếng Phạn sang tiếng Việt, và Khương Tăng Hội dựa vào bản tiếng Việt này để dịch sang tiếng Hán hay sao? V́ sự ḷng ṿng ấy chưa từng thấy có tiền lệ, nên tôi đặt câu hỏi và xin trả lời luôn: đây là điều bất khả. Không chỉ về khoảng cách địa lư, mà cả về các quan hệ kinh tế - văn hóa, liệu cách đây hơn 2000 năm, giữa Việt Nam và Ấn Độ đă có quan hệ văn hóa mật thiết đến mức một sự kiện quan trọng như trên lại có thể xảy ra, và liệu Lê Mạnh Thát có thể chứng minh? Nếu không chứng minh được, “phát hiện” của ông, rốt cục sẽ chỉ là sự vơ đoán tùy tiện, không thể hiện diện trong nghiên cứu khoa học.

- Hai: Nếu t́nh huống trên không xảy ra th́ chẳng lẽ khi dịch Lục độ tập kinh sang tiếng Hán từ một bản tiếng Việt nào đó, Khương Tăng Hội đă tranh thủ thêm thắt một số ghi chép về lịch sử dân tộc Việt Nam, để rồi bao nhiêu đời cao tăng, học giả Việt Nam và Trung Quốc mấy ngh́n năm qua đă không phát hiện ra? Đây là vấn đề Lê Mạnh Thát cần lư giải, một câu hỏi Lê Mạnh Thát cần trả lời nếu ông muốn chứng minh “phát hiện” của ông là chính xác. Xin nói luôn đây cũng là một điều bất khả, v́ một cuốn kinh sách và lịch sử của một dân tộc có thể có mối liên hệ nào đó, song không thể đồng nhất, v́ sự ra đời của kinh sách trước hết, không phải là để viết lịch sử.

- Ba: Như là hệ quả của vấn đề thứ hai tôi đưa ra ở trên, nếu bản gốc Lục độ tập kinh do người Việt viết bằng chữ của người Việt th́ chí ít Lê Mạnh Thát cũng phải minh định được chữ viết của người Việt vào thời đó ra sao, phải chứng minh được rằng trước và sau công nguyên Phật giáo Việt Nam đă rất phát triển, v́ phải đạt tới một tŕnh độ nào đó, các cao tăng Việt Nam mới có thể viết được kinh sách. Và nếu đó là sự thật th́ các cao tăng Việt Nam xưa kia xứng đáng phải được lưu danh vào lịch sử Phật giáo, bởi họ đă viết được một tập kinh trứ danh đến mức Phật giáo phải đưa vào Đại tạng tập kinh, vậy mà đến nay tên tuổi của họ vẫn vắng bóng, chẳng lẽ Phật giới Việt Nam và Trung Quốc đă vội lăng quên họ? Tôi đặt ra khả năng thứ ba nhằm hài hước hóa vấn đề, nên không đề nghị Lê Mạnh Thát trả lời. Bởi riêng chuyện gán cho Lục độ tập kinh có quan hệ với lịch sử Việt Nam thôi, cũng đă là một điều kỳ dị không nên bắt bẻ.

Tôi tin là các câu hỏi về nguồn gốc văn bản tôi đặt ra trên đây hoàn toàn không có mặt trong thao tác nghiên cứu của ông Lê Mạnh Thát khi euréka ra các “phát hiện lịch sử chấn động”. Và dưới đây, tôi sẽ chứng minh ông đă sai lầm như thế nào.

3. Đọc câu chuyện trong Lục độ tập kinh (3 ĐTK 251 tờ 14a26-c18) do Lê Mạnh Thát dẫn lại, dù không phải là người làm công việc nghiên cứu Phật học, tôi cũng nhận ra đó là một dẫn dụ về “đốn ngộ” mà cái bọc trăm trứng có vai tṛ dựng truyện. Ấy là sau khi một trăm người con sinh ra từ một trăm quả trứng kéo quân về đánh chiếm kinh thành của vua cha mà họ không biết đó là vua cha, bà mẹ của họ đứng trên cḥi nói với những đứa con của bà: “Rằng đại nghịch tội đó, gồm có ba: Không xa bọn tà, chuốc tội đời sau, đấy là tội thứ nhất. Sinh ra mà không biết cha mẹ, lại đi ngược lại hiếu hạnh, đấy là tội thứ hai. Ỷ sức mà giết cha mẹ, làm hại Tam bảo, đấy là tội thứ ba. Giữ ba điều đại nghịch ấy, ác không lấy ǵ che được. Chúng mày hăy hả miệng th́ chứng cứ hiện ngay”. Bà mẹ liền lấy vú ḿnh ra, trời khiến nó bắn sữa khắp cả miệng một trăm đứa con. Cảm thấy sự tinh thành, chúng uống sữa, ḷng buồn, nên đồng thanh nói: “Đây là cha mẹ ta”. Nước mắt chảy lan cả hai má, chúng chắp tay đi tới, cúi đầu hối lỗi…” (5). Giọt sữa của bà mẹ đă đưa các con bà ra khỏi chốn “vô minh”, giúp họ tỉnh ngộ, nhận ra điều trái với đạo hiếu không được làm. So sánh chuyện này với truyền thuyết về Lạc Long Quân - Âu Cơ th́ ngoài cái bọc trăm trứng, giữa chúng không có bất cứ liên hệ nào. Một bên là minh chứng cho khả năng “đốn ngộ”, một bên là truyền thuyết về ṇi giống và quá tŕnh xây dựng cộng đồng, mở mang bờ cơi, tính mục đích hoàn toàn khác nhau. “Vớ” được sự gần gũi trong chi tiết một trăm quả trứng nở ra một trăm chàng trai, Lê Mạnh Thát vội vàng quả quyết: “Và chính đây là chi tiết mà nó giúp ta xác định thời gian xuất hiện và nguồn gốc khai sinh truyền thuyết về lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” (6) th́ ông đă lộ ra điểm yếu cốt tử mà tôi sẽ chứng minh tiếp ở phần sau. Ở đây chỉ xin nói rằng, chỉ v́ câu chuyện trong Lục độ tập kinh và truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ cùng đề cập tới cái bọc trăm trứng mà đă vội coi cái này chính là nguyên gốc của cái kia th́ trí tưởng tượng đúng là… “hơi bị phi phàm”. Cứ xét đoán khơi khơi như Lê Mạnh Thát th́ trên đời này sẽ có vô khối chuyện khôi hài!

Tương tự như thế, việc Lê Mạnh Thát t́m ra mối liên hệ giữa Mahabharata với truyền thuyết An Dương Vương theo tôi cũng là khảo chứng tư biện, nếu không nói ông đă tùy tiện xác lập một quan hệ. Tôi lại tự hỏi: liệu Lê Mạnh Thát có thể chứng minh quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đă mật thiết từ đầu công nguyên hay không? V́ để một tác phẩm thấm đẫm tinh thần Ấn Độ giáo, được coi là Đại bách khoa toàn thư về văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và thể chế chính trị - xă hội của Ấn Độ cổ xưa như sử thi Mahabharata có thể thấm sâu vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, để người Việt Nam có thể vay mượn từ đó một câu chuyện rồi xây dựng nên một truyền thuyết, hẳn là Mahabharata phải được du nhập, được dịch và được phổ biến ngay từ trước hoặc sau công nguyên. Cũng là điều lạ lùng, trong Mahabharata có bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu truyền thuyết mà tại sao người Việt không vay mượn một cách phổ biến, mà chỉ nhè vào chuyện Duryodhana để xây dựng truyền thuyết An Dương Vương, liệu Lê Mạnh Thát có thể giải thích được không. Cũng xin lưu ư, Mahabharata không chỉ là một sử thi, nó c̣n quan hệ mật thiết với Ấn Độ giáo, v́ trong đó chứa đựng Bhagavad Gita (một kinh văn quan trọng của Ấn Độ giáo), nếu ông cho rằng Mahabharata đă có mặt trên dưới 2000 năm ở Việt Nam, ông có thể lư giải tại sao trong văn hóa Việt Nam cả ngh́n năm nay, yếu tố Ấn Độ giáo lại rất mờ nhạt? Hỏi th́ hỏi vậy, chứ thật t́nh tôi cũng tin đây là t́nh huống bất khả. Với cái nh́n phổ quát và thấu đáo, người sáng suốt sẽ không bao giờ chăm chăm dựa vào một chi tiết giống nhau “An Dương Vương cưỡi con tê sống vằn vào nước chạy, nước v́ thế rẽ ra” (7) với chi tiết “Với kiếm chùy trong tay, đấng ấy (Duryodhana - NH) đă nhanh bỏ chiến trường và đi vào một cái hồ, sau khi làm cho nước rẽ ra nhờ vào huyễn thuật của ḿnh” (8) để quả quyết: “Việc Duryodhana có thể làm cho nước rẽ ra để ông đi vào này đương nhiên ám chỉ một cách khá chắc chắn nguồn gốc đi vào nước của An Dương Vương” (9). Nhưng biết làm sao được, khi mà ông Lê Mạnh Thát dường như đă định h́nh phong cách suy đoán tư biện rồi kết luận khơi khơi trong thực hành “nghiên cứu”!

Tóm lại, khi nghiên cứu một vấn đề lịch sử nào đó, bao giờ người ta cũng cần tới các chứng cứ lịch sử (trong đó, ngoài các văn bản xác thực đă được truy nguyên đến rốt ráo, c̣n có các bằng chứng khảo cổ…), v́ thế người nghiên cứu không thể nuôi dưỡng vấn đề bằng trí tưởng tượng. Mặt khác, thao tác lấy chi tiết thay cho toàn thể, lấy cá biệt thay cho phổ biến… là thao tác hết sức nguy hiểm trong nghiên cứu, v́ sẽ đẩy người ta đến các ngộ nhận làm nhiễu loạn sinh hoạt khoa học, tạo ra hiện trường giả làm rối trí người đọc. V́ thế tôi cho rằng, hai tiền đề giúp Lê Mạnh Thát “nghiên cứu” đích thực là hai giả tiền đề, phi thực tế. Nên tôi tin các câu hỏi tôi đặt ra ở trên là các câu hỏi Lê Mạnh Thát không thể trả lời, đó là lư do để tôi kết luận “phát hiện” của ông chỉ là kết quả của sự vơ đoán.

4. Sai lầm cơ bản của ông Lê Mạnh Thát khi đưa ra “phát hiện” của ḿnh, theo tôi có nguồn gốc từ việc ông không cần quan tâm (hay bất chấp?) một trong các đặc điểm quan trọng của văn hóa dân gian là tính phổ biến của nhiều mô-tip văn chương trong văn hóa dân gian của các cộng đồng, cùng như quá tŕnh “dân gian hóa” một số truyền thuyết vốn được tŕnh bày trong kinh sách của các tôn giáo. Văn hóa dân gian của các cộng đồng có thể nảy sinh sớm - muộn khác nhau, các cộng đồng có thể rất xa nhau về địa lư, chưa bao giờ tiếp xúc, không có bất kỳ một mối liên hệ nào, th́ trong hoàn cảnh tương tự của quá tŕnh phát sinh và phát triển nhận thức, các cộng đồng đă nảy sinh các ư tưởng rất gần gũi nhau để đáp ứng nhu cầu giải thích về thế giới, xă hội, con người. Như huyền thoại về quả bầu chẳng hạn, theo thống kê của GS Đặng Nghiêm Vạn (10), ở Đông Nam Á, trong số 95 dị bản về hồng thủy, có tới 65 dị bản liên quan tới quả bầu với ư nghĩa là phương tiện cứu giúp con người khỏi họa diệt chủng. Sự gần gũi về nhận thức, sự gần gũi khi suy tư về thế giới - xă hội - con người, sự giao lưu văn hóa trong điều kiện cụ thể… đă đưa tới sự ra đời các mô-tip văn chương dân gian, điều đó làm cho việc truy nguyên một “mẫu gốc” là bất khả. Tỷ như chúng ta thấy mô-tip quan hệ d́ ghẻ - con chồng xuất hiện trong văn chương dân gian của nhiều cộng đồng khác nhau, như: Tấm cám của người Việt, Cô bé lọ lem của người Đức, Cô chị - Cô em (Ư Ưởi - Ư Nọng) của người Thái, Nàng Chăn Tha của người Lào… (Ngay ở thời hiện đại, một sự kiện như vậy vẫn có thể xảy ra, như sự giống nhau đến kỳ lạ giữa tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết Đường công danh của Nikôđem Đizma của Tadeusz Dolega Mostowicz - nhà văn người Ba Lan). Không nắm được đặc điểm này, Lê Mạnh Thát mới đi làm cái việc “vơ” câu chuyện trăm trứng về cho người Việt Nam, dẫu rằng khi khảo sát, chính ông cũng đă thấy mô-tip người sinh ra từ trứng, người sinh ra từ bọc thịt là khá phổ biến!

Để hợp thức hóa những suy biện chủ quan của ḿnh trong xử lư tài liệu, ông Lê Mạnh Thát khẳng định xanh rờn: “chúng ta không c̣n bàn căi một cách tùy tiện không có cơ sở về nền văn học “dân gian” chung chung phi thời gian, phi lịch sử” (11). Như vậy theo Lê Mạnh Thát, mọi sản phẩm văn hóa dân gian đều có thể “cụ thể hóa”, đều có thể truy nguyên thời gian lịch sử chăng? Mong sao vào một ngày rảnh rỗi nào đó, Lê Mạnh Thát sẽ truy nguyên toàn bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do cụ Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, đặng giúp một người đọc ngu ngơ như tôi nắm bắt được thời gian ra đời của từng truyện một cách thật cụ thể nhỉ! Rồi nữa, bằng vào marketing của Hoàng Hải Vân, th́ Lê Mạnh Thát công bố ông đă t́m thấy trong Đại tạng kinh sáu lá thư trao đổi giữa pháp sư Đạo Cao và pháp sư Pháp Minh với một “sứ quân” Giao Châu tên là Lư Miễu. Truy lùng tài liệu từ Trung Quốc, Việt Nam sang Triều Tiên và Nhật Bản, thậm chí lùng sục trong tàng thư các nước Anh, Pháp, Liên Xô mà không t́m thấy nhân vật nào có tên là Đạo Cao, cuối cùng Lê Mạnh Thát kết luận… Đạo Cao là người Việt Nam. Tương tự như thế với “sứ quân” Lư Miễu, do không t́m được văn bản nào đề cập tới nhân vật này, rút cục Lê Mạnh Thát cũng đi tới kết luận… “Lư Miễu chính là một vị vua của Việt Nam”! Vấn đề này trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam được Lê Mạnh Thát tŕnh bày khá dài ḍng và rối rắm, để thuận tiện theo dơi, xin được dẫn lại theo Hoàng Hải Vân, song tôi vẫn muốn dẫn ra một đoạn từ Lịch sử Phật giáo Việt Nam để bạn đọc được bổ sung thêm tài liệu về cách thức suy đoán của Lê Mạnh Thát. Chẳng là, để chứng minh Lư Miễu đích thị là một ông vua của Việt Nam, sau khi đặt ra hai giả thuyết và tự bác bỏ, Lê Mạnh Thát đưa ra giả thuyết thứ ba và biện luận: “đấy là giả thiết sự thêm thắt của Tăng Hựu hay một người có ư thức chính trị Trung Quốc nào đó, và nó có thể xảy ra như sau. Từ nguyên ủy những lá thư của Đạo Cao và Pháp minh rất có thể chỉ xưng Lư Miễu như “quân” hay “quân vương”. Đến khi chúng lọt vào tay những người Trung Quốc, họ liền thên vào chữ “sứ” trước chữ “quân” và lặt chữ “vương” đi, đưa đến sự xuất hiện cái anh hiệu “sứ quân”, trong khi lá thư vẫn tiếp tục nói đến chuyện “cư đại bảo chi địa” và “thổ ác dư hà” của Lư Miễu. Nói cách thứ ba này là tương đối thoả măn nhất, bởi v́ nó không cho phép hiểu câu “cư đại bảo chi địa” và t́nh h́nh chính trị nước ta ở thế kỷ V một cách dễ dàng, mà c̣n để lộ ra một phần nào thái độ chính trị và cảm thức chính trị của dân ta trong thế kỷ ấy. Đấy là tiếp tục gọi lănh tụ của ḿnh là thiên tử, dù ông chỉ là thứ sử hay thái thú trong các sử sách Trung Quốc, và từ đó để lộ thêm nguồn gốc Việt Nam của những lá thư” (12). Xét đoán như thế xong, Lê Mạnh Thát dùng phép loại suy để đi đến kết luận 6 bức thư qua lại giữa Đạo Cao và Pháp Minh với Lư Miễu được viết vào “khoảng năm 435”. Rồi từ đó suy đoán tiếp: vào khoảng năm 435 mà nước Việt Nam vẫn có một ông vua th́ cũng có nghĩa là không có thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Ô hay, chẳng nhẽ mọi sự lại đơn giản đến như vậy hay sao?

5. Lại nhớ trên Tạp chí Văn học (số 5 năm 2002), PGS TS Nguyễn Hữu Sơn đă công bố bài viết có nhan đề Mấy vấn đề đặt ra từ Nghiên cứu về “Thiền uyển tập anh”, bài viết có nội dung giới thiệu cuốn sách Nghiên cứu về Thiền uyển Thiền uyển tập anh của Lê Mạnh Thát. Đọc bài này tôi nhận ra, dù trân trọng nghiên cứu của ông Lê Mạnh Thát về Thiền uyển tập anh, dù dành cho công tŕnh một số nhận xét ưu ái, nhưng hẳn là PGS TS Nguyễn Hữu Sơn cũng đặng chẳng đừng khi phải ṣng phẳng nhận xét về các suy biện chủ quan mà Lê Mạnh Thát thể hiện trong công tŕnh:

- “Ở đây, theo chúng tôi, trong t́nh h́nh chưa thể truy t́m được văn bản nguồn gốc th́ tất cả những lập luận, suy luận, suy diễn, nói khác đi, nếu không đi nữa, dẫu sao (chữ dùng của LMT)... trước sau cũng mới chỉ là những đoán định đặt trong chiều hướng, xu thế, khả năng, đ̣i hỏi cần được t́m hiểu thêm”.

- “Tuy nhiên, với trường hợp “truyền bản đời Lê sơ”, trên cơ sở cứ liệu việc biên soạn lại Việt điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái, tác giả đi đến kết luận: “Điều này chứng tỏ Thiền uyển tập anh lưu truyền khá phổ biến vào đời Lê sơ, tức khoảng trong những năm 1448 - 1466...” (tr.32), song thực chất cũng chỉ là kết luận ngoại suy. Nó chỉ chứng tỏ kiến văn uyên bác và khả năng suy tưởng sâu sắc nơi người viết, nhưng do điều kiện tư liệu và bản thân tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu qui định nên các kết luận trên vẫn chỉ là ngoại suy (tất nhiên là ngoại suy của một học giả tŕnh độ bậc thầy), chứ chưa phải đă đưa lại kết quả học thuật minh chứng hiển nhiên”.

- “Để đi tới những kết luận giả định này, người viết đă vận dụng vốn kiến thức vô cùng sâu rộng, từ đó góp phần khơi mở những định hướng nghiên cứu mới mẻ (đơn cử như việc đề xuất việc khảo sát thực địa xă Nguyệt Áng - nơi có tháp Kim Sơn - vốn thuộc tổng Phù Lưu, huyện An Lăo, phủ Kim Môn, tỉnh Hải Dương cũ). Có điều, những suy đoán dù thông tuệ chặt chẽ bao nhiêu cũng đành dừng lại ở mức độ có khả năng, chưa thể là kết luận cuối cùng”…

Xem ra nhận xét của Nguyễn Hữu Sơn đối với cung cách làm việc của Lê Mạnh Thát trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh cũng không khác với nhận xét của tôi về cung cách làm việc của Lê Mạnh Thát trong Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta. Đọc cuốn sách, có thể tiếp cận với vô số suy đoán kỳ khôi, vô số biện giải kỳ tài. Tỷ như, để hoàn chỉnh kết luận của ông rằng truyền thuyết An Dương Vương chỉ là vay mượn từ Mahabharata, từ góc độ ngôn ngữ, Lê Mạnh Thát giải thích nguồn gốc tên gọi Thục Phán như sau: “Chữ Pandu này, nếu cứ vào thông lệ phát âm của người nước ta, có thể phát thành “phan thu”… Cái tên Phán của con vua Thục chắc chắn đă phải là phiên âm chữ Pandu, tên người cha của Yudhisthira” (13)! Hay Lê Mạnh Thát coi Cao Lỗ - tương truyền là người giúp An Dương Vương làm ra “nỏ thần”, chính là nhân vật Krsna trong sử thi Mahabharata, và ông diễn giải: “Tiếng Phạn viết nó như Krsna, mà nếu phát âm, sẽ đọc như Kà rớt sờ na. Chỉ cần nh́n phát âm ấy, ta tất có thể thấy tên Cao Lỗ đă xuất phát từ đâu. Nó chắc hẳn là phiên âm hai ngữ phận đầu Krsna của người nước ta” (14), tức là Kà rớt được đọc thành Cao Lỗ! Suy đoán theo lối của Lê Mạnh Thát th́ có khác ǵ bảo rằng tên nhân vật thống lư Pá Tra trong Vợ chồng A Phủ chính là do Tô Hoài đă vay mượn từ tên gọi của thành phố Pápa tận bên Hungari; hay Nguyễn Trăi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân đến… Nguyễn Ḥa - kẻ viết bài này, là có cùng một trực hệ!

Từ giả thuyết đến chứng minh, cuối cùng rút ra kết luận có giá trị về lư luận và thực tiễn, đó là tiến tŕnh mang tính nguyên tắc đ̣i hỏi mọi người nghiên cứu phải luôn luôn tuân thủ. Lê Mạnh Thát cũng đi theo tiến tŕnh này, song đó là một tiến tŕnh hư vô v́ ông đă đi từ giả thuyết hời hợt đến khảo chứng theo lối tư biện, chủ quan và kết luận một cách cực đoan. Tuy nhiên, việc Lê Mạnh Thát huy động một lượng tri thức phong phú từ nhiều nguồn khác nhau vào công tŕnh đi kèm với những lời xác quyết như phát ngôn của một học giả có thẩm quyền đă che lấp điểm yếu cốt tử trong “nghiên cứu” của ông, và làm cho một số người như bị choáng ngợp khi tiếp xúc với một lượng tri thức rối rắm nhưng đem lại cảm giác về sự thông tuệ, uyên bác, công phu!

6. Với sự phát triển của tŕnh độ nhận thức khoa học, của khả năng khám phá, của các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu… con người đă có được, cho đến nay, nhiều bí ẩn lịch sử đă được “giải mă”, giúp chúng ta có thêm cái nh́n mới về lịch sử. Song điều đó lại đặt công việc nghiên cứu trước những đ̣i hỏi khắt khe hơn, làm cho việc phát hiện ra cái mới trở thành một thách thức không dễ vượt qua nếu người nghiên cứu thiếu vắng năng lực khoa học, không có khả năng nắm bắt và sử dụng các phương pháp nghiên cứu, không có nhăn quan khoa học sáng suốt, không xuất phát từ các tiền đề khoa học đúng đắn… Có thể trong Lê Mạnh Thát luôn thường trực một t́nh yêu dân tộc, nhưng dù t́nh yêu ấy tràn đầy đến thế nào th́ ông mới chỉ có động cơ nghiên cứu, v́ t́nh yêu dân tộc không thể thay thế các yêu cầu, các nguyên tắc của hoạt động nghiên cứu. Đừng v́ Lê Mạnh Thát có t́nh yêu dân tộc mà gán cho kết quả “nghiên cứu” của ông nhăn hiệu “cái mới”. Trong sinh hoạt văn hóa - xă hội nói chung, trong nghiên cứu khoa học nói riêng, để được thừa nhận và khẳng định, cái mới bao giờ cũng phải là kết quả của sự t́m ṭi, sáng tạo phù hợp với quy luật phát triển, mang tính tích cực xă hội,-góp phần làm sáng tỏ, nâng cao nhận thức của con người… Trong nghiên cứu khoa học, cái mới bao giờ cũng phải là phát hiện ra một (hoặc nhiều) điều khác với những ǵ cùng lĩnh vực đă có từ trước, nhưng hiển nhiên, không phải bất kỳ cái ǵ khác trước cũng đều được coi là “mới”. Mặt khác, cái mới ít nhiều c̣n mang tính lịch sử, cái mới của ngày hôm qua có thể là b́nh thường (thậm chí là cái “cũ”) của ngày hôm nay. Như khi PGS Phan Ngọc đưa ra quan niệm về sự “khúc xạ” của nhiều giá trị văn hóa nước ngoài sau khi du nhập vào Việt Nam chẳng hạn. Phát hiện của Phan Ngọc là cái mới ở thời điểm tác giả đưa ra, c̣n lâu nay, nó đă trở thành điều b́nh thường trong quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu khi bàn về tiếp biến văn hóa ở Việt nam. Từ lịch sử vấn đề, tôi không coi “phát hiện” của Lê Mạnh Thát có ǵ mới mẻ, tôi coi đó chỉ là vệt kéo dài của xu hướng nghiên cứu lấy “Việt Nam làm trung tâm”, cố gắng quy nạp nhiều thành tựu văn hóa - văn minh châu Á cổ đại về với Việt Nam, đưa tới cảm giác dường như Việt Nam đă từng là “cái nôi” khai sinh của nhiều giá trị văn hóa - văn minh phương Đông!

Thêm nữa, từ góc nh́n thức nhận và có tính biện chứng, đối với một công tŕnh nghiên cứu, không thể chỉ đánh giá từ kết quả mà công tŕnh có được, hay xem xét trong đó tác giả sử dụng tư liệu ǵ, quan niệm của tác giả khi xử lư tư liệu ra sao,… bản chất hơn là phải xem xét điểm xuất phát, xem xét điều ǵ đă tạo nên tiền đề để tác giả tiến hành công tŕnh. Từ góc nh́n ấy, tôi xin khẳng định: Nghiên cứu của ông Lê Mạnh Thát chỉ là một phán đoán chủ quan, ông đi từ giả định đến khẳng định mà bỏ qua một vấn đề then chốt trong nghiên cứu là chỉ có giả định đúng mới có thể (xin nhấn mạnh - NH) đi tới kết luận đúng. Nói cách khác, ông Lê Mạnh Thát mới đưa ra một giả thuyết, mà giả thuyết ấy như tôi đă chứng minh, vừa sai lầm về phương pháp vừa hư vô về tiếp cận và xử lư tư liệu, chúng chưa hội đủ các điều kiện cần thiết để ông phăm phăm đi tới kết luận cuối cùng. V́ thế theo tôi, “phát hiện” của Lê Mạnh Thát hoàn toàn không mang ư nghĩa là “cái mới” như một số tác giả đă lớn tiếng ca ngợi.

7. Theo lẽ thông thường, lẽ ra cuốn sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta cùng các kết luận Lê Mạnh Thát trong đó cần được khảo chứng cẩn trọng dưới nhăn quan khoa học th́ thật đáng tiếc, vấn đề lại trở nên ầm ĩ qua sự tung hô của một nhà báo mà tôi tin là tác giả này c̣n thiếu năng lực đánh giá một công tŕnh nghiên cứu, cũng như thiếu năng lực thẩm định các luận điểm của một công tŕnh nghiên cứu. Bằng việc gán cho Lê Mạnh Thát và Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta “những phát hiện lịch sử chấn động”, qua các câu chữ đă sử dụng (“phát hiện cực kỳ quan trọng… đưa ra một loạt những kết luận với các chứng cứ không thể phản bác… chứng cứ đanh thép… khám phá một sự thật lịch sử thú vị… Với những khám phá của ông, chúng ta có đủ tài liệu để dựng lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước…”), Hoàng Hải Vân vừa bỏ qua thái độ khách quan cần có khi đề cập tới một vấn đề học thuật, vừa bộc lộ sự vội vàng trong tiếp nhận và xử lư thông tin, vừa tỏ ra thiếu trách nhiệm trước bạn đọc. Với bài viết từ tâm thế của một xác tín hồn nhiên như thế, lẽ ra nên cẩn trọng thẩm định trước khi công bố, bởi đây là đề tài liên quan tới một số vấn đề hệ trọng, hàng ngh́n năm nay đă in dấu ấn trong trong niềm tin, trong tâm thức dân tộc, đồng thời c̣n là nỗi đau đáu của nhiều học giả đương thời. Song, không rơ do thiếu khả năng thẩm định hay v́ muốn đưa ra thông tin “giật gân” mà người ta đă tỏ ra thiếu thận trọng?

Đáng tiếc hơn, trong “dàn đồng ca do Hoàng Hải Vân lĩnh xướng”, lại có một vài tác giả mượn danh “cái mới” để cổ vũ cho một hướng nghiên cứu tùy tiện. Tôi thật sự thất vọng khi đọc các ḍng chữ do một vị tiến sĩ viết: “Dù không thể tránh khỏi sai sót, những ư kiến của thiền sư Lê Mạnh Thát là cực kỳ ấn tượng và nhất là, mang tính dự báo cho bước đột phá quan trọng đối với việc dựng lại những trang sử của dân tộc trong các thời kỳ không có hoặc thiếu sử liệu… tôi nghĩ đóng góp to lớn và nhiều ư nghĩa nhất của thiền sư Lê Mạnh Thát là ở chỗ ông đă bổ nhát cuốc đầu tiên để khai phá rồi ươm trồng những hạt giống nhận thức mới về lịch sử… Cái đáng quư và cần được ghi nhận một cách trân trọng là ở chỗ, thiền sư Lê Mạnh Thát đă buộc tất cả những nhà nghiên cứu lịch sử nước ta và cả những ai quan tâm đến lịch sử phải có một thay đổi thật sự trong cách tiếp cận, cách hiểu và diễn giải lịch sử”. Đọc xong ư kiến này, ấn tượng sâu sắc mà ông tiến sĩ đem tới cho tôi chỉ là sự sững sờ. V́ tôi đồ rằng đến thời điểm đưa ra phát ngôn, ông tiến sĩ vẫn chưa đọc cuốn sách của Lê Mạnh Thát, mà chỉ nói dựa theo bài báo của Hoàng Hải Vân. Vậy tôi có thể nghi ngờ phát ngôn của một vị tiến sĩ khả kính và có thể đặt câu hỏi: phải chăng học vị tiến sĩ ở xứ An Nam ta cũng có năm bảy đường? Tôi c̣n thất vọng hơn khi thấy một nhà thơ nói rằng: “Với cảm nhận của bản thân, tôi cho rằng những giả thiết mà thiền sư đặt ra là rất đáng trân trọng. Trước hết phải ghi nhận là thiền sư đă có một tinh thần dân tộc, luôn mong muốn làm sáng tỏ lịch sử nước nhà. Thiền sư đă cất công t́m ṭi, ḍ sâu vào lịch sử, đọc những tài liệu, những công tŕnh khoa học từ nhiều nguồn, nhiều quốc gia, nhất là trong các tạng kinh Phật. Đây là một cơ duyên mà không phải ai cũng có được. Trong bối cảnh mà nhiều nguồn tài liệu khác đă bị tiêu hủy, th́ việc phát hiện những vấn đề lịch sử tiềm tàng trong kinh Phật là điều rất quư”. Với một vấn đề khoa học, người ta không thể đánh giá bằng sự “cảm nhận” (bởi đó không phải là một bài thơ!), nên tôi nghĩ nhà thơ cũng khó có thể phân biệt được sự khác nhau giữa sử liệu với “vấn đề tiềm tàng trong kinh Phật”, v́ lẽ: sử liệu là sử liệu và luôn luôn cần phải được thực chứng; c̣n kinh Phật là kinh Phật và trong đó c̣n bao chứa các tín điều, các huyền thoại để thần thánh hóa các tín điều. Cho dù sử liệu và kinh Phật có quan hệ mật thiết đến mức nào th́ vẫn không thể nhầm lẫn, do vậy để bảo đảm cho sự nghiêm cẩn của ư kiến, lẽ ra trước khi phát biểu “cảm nhận”, nhà thơ cần tham khảo ư kiến các nhà chuyên môn như GS Phan Huy Lê, TS Nguyễn Việt mà báo chí đă đăng tải. Cũng xin thưa, dù nhà thơ đă đọc Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta th́ cũng không có nghĩa ông có thể lĩnh hội nó trong tư cách một công tŕnh khoa học, ấy là chưa nói có thể ông đă không đọc cuốn sách với tâm thế phản biện, mà bị thuyết phục bởi những điều mà chưa chắc ông có khả năng lư giải.

Không bàn tới các cuốn sách khác của Lê Mạnh Thát, không đánh giá ông đă có đóng góp như thế nào, từ các phân tích trên đây tôi thiết nghĩ, ngoài một số tư liệu cho thấy tác giả là người đọc rất nhiều, cuốn Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của Lê Mạnh Thát rất thiếu vắng giá trị khoa học. Nếu kết luận của Lê Mạnh Thát là “phát hiện chấn động” th́ nó chỉ có ư nghĩa duy nhất là làm nhiễu loạn nhận thức của công chúng về lịch sử, về các vấn đề có liên quan với nguồn gốc dân tộc. Tôi luôn kính trọng những tác giả có chí hướng nghiêm túc khi cố gắng đi t́m nguồn gốc của dân tộc, song tôi không đặt niềm tin vào động cơ khoa học của một tác giả khi chưa biết ư kiến của ḿnh đúng - sai ra sao đă cao ngạo mạt sát tiền nhân “nhắm mắt nói càn… khốn nạn hết chỗ nói!” (Nhận xét này, dù bị nhiều người phê phán nhưng vẫn ưu ái cho rằng đó không phải là nhận xét của một người say mê Phật học, đến nay vẫn chưa thấy Lê Mạnh Thát đính chính? Tương tự như vậy, việc Lê Mạnh Thát có phải là Giáo sư, Thiền sư hay không xem ra vẫn c̣n rất mù mờ, v́ ngày nay, chức danh Giáo sư là do Nhà nước quyết định, danh hiệu Thiền sư cũng phải được Tăng đoàn công nhận, chứ không phải cứ khoái lên là có thể tặng phứa cho nhau). V́ thế đề nghị các vị học giả, các nhà nghiên cứu không nên tổ chức hội thảo về cuốn sách làm ǵ, công việc ấy chỉ làm tốn kém thêm tiền bạc của nhân dân mà thôi./.
Nguyễn Ḥa

Quay trở về đầu Xem Quan Tri Vien 2's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Quan Tri Vien 2
 
Venus VN
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 December 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 17
Msg 19 of 20: Đă gửi: 28 August 2008 lúc 5:32pm | Đă lưu IP Trích dẫn Venus VN

Đọc bài của Nguyễn Ḥa thấy cũng rối mù và rất chủ quan đến mức ngớ ngẩn.

Sửa lại bởi Venus VN : 28 August 2008 lúc 5:33pm
Quay trở về đầu Xem Venus VN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Venus VN
 
Don.J
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 05 March 2006
Nơi cư ngụ: Afghanistan
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 80
Msg 20 of 20: Đă gửi: 31 August 2008 lúc 8:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn Don.J

" Một: Nếu bản Lục độ tập kinh bằng tiếng Việt mà Khương Tăng Hội sử dụng vốn được dịch từ một bản tiếng Phạn th́ phải chăng mấy ngh́n năm trước ở bên Ấn Độ xa xôi lại có người tỷ mẩn ghi chép giúp tổ tiên chúng ta một cuốn lịch sử về nguồn gốc dân tộc bằng tiếng Phạn, rồi ai đó đă dịch từ bản tiếng Phạn sang tiếng Việt, và Khương Tăng Hội dựa vào bản tiếng Việt này để dịch sang tiếng Hán hay sao?"

__________________
Không Thấy Không Tin
Quay trở về đầu Xem Don.J's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Don.J
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.6992 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO