Tác giả |
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 1 of 16: Đă gửi: 20 January 2004 lúc 1:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Anh em thân mến!
Cách tính năm nhuận dưới đây là cách tính đơn giản nhất để tính nhanh năm nhuận là năm nào.Xin gửi lên để anh em tham khảo.Tuy nhiên có một số luận điểm chưa được chính xác sẽ bàn ở phần dưới.
Chuyển động của mặt trăng và mặt trời là cơ sở để tính âm lịch và dương lịch.
Năm 2004 là năm nhuận tính theo dương lịch và cả theo âm lịch. Theo dương lịch nhuận ngày, c̣n theo âm lịch th́ nhuận tháng. Các nhà khoa học cho biết nếu hai số cuối của năm dương lịch chia hết cho 4 th́ năm đó là năm nhuận.
Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận chỉ việc lấy năm dương lịch tương ứng với năm âm lịch chia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 th́ năm âm lịch đó có tháng nhuận.
Lịch tính thời gian theo mặt trời gọi là dương lịch. Trái đất quay trọn một ṿng xung quanh mặt trời mất 365 ngày và 6 giờ. Năm dương lịch có số nguyên là 365 ngày. Như vậy, một năm dương lịch c̣n thừa 6 giờ và 4 năm dồn lại thừa 24 giờ, bằng một ngày. Do vậy, cứ 4 năm sẽ có một năm 366 ngày, gọi là năm nhuận.
Nhuận ngày dương lịch được tính vào tháng 2, do đó, tháng 2 năm 2004 có 29 ngày.
Lịch tính thời gian theo mặt trăng gọi là âm lịch. Tháng mặt trăng trung b́nh có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 345 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).
Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Khắc phục t́nh trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách thêm một tháng nhuận.
Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.
Năm Giáp Thân 2004 này nhuận một tháng và tháng nhuận rơi vào tháng 2 (v́ 2004 chia 19 c̣n dư 9). Trở lại năm Giáp Thân cách đây 60 năm (1944, chia cho 9, dư 6), cũng là năm nhuận và tháng nhuận rơi vào tháng 4.
Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ư ǵ về thời tiết, khí hậu.
Trích khoa học và Đời sống.
Tính không chính xác của bài viết này chính là đoạn cuối =>"Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ư ǵ về thời tiết, khí hậu'
Anh em tham khảo và chiêm nghiệm.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nhu Y Hội viên


Đă tham gia: 23 August 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 231
|
Msg 2 of 16: Đă gửi: 20 January 2004 lúc 1:44am | Đă lưu IP
|
|
|
Muốn lập lá số tử vi th́ phải cần các yếu tố: giới tính, giờ, ngày, tháng, năm âm lịch.
Đối với trường hợp tháng nhuận, thí dụ như tháng 2 của năm Giáp Thân, th́ phải tính ra sao để lập ra một lá số tử vi chính xác đây?
Bác Thiên Sứ có biết không, chỉ cho Như Ư biết với!
__________________ Vô ảnh thường giao tâm tựa thuỷ
Hữu ngôn tự giác khí như sương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 3 of 16: Đă gửi: 20 January 2004 lúc 2:17am | Đă lưu IP
|
|
|
Như ư thân mến!
Tôi tường theo cái sở ngộ của tôi =>có thể đúng/có thể sai xin để cô chiêm nghiệm.
Tôi vẫn sở ngộ cho rằng:
Tử Vi là một hiệu ứng vũ trụ tương tác với Địa cầu/Các sao Tử Vi chính là những đại lượng biểu kiến cho sự tương tác này =>ứng dụng cụ thể và chi phối cuộc đời một con người mà thế nhân vẫn gọi nôm là số mệnh.
Từ cơ sở này tôi nhận thấy=>tháng nhuận trong Âm lịch chính là tháng không có tiết khí => Bởi vậy cổ nhân mới đặt ra tháng nhuận để cân bằng về tiết khí trong tháng (trên cơ sở Mặt trăng quay quanh Địa Cầu).Tiết khí trong tháng lại có sự liên hệ với Nhị thập bát tú làm cơ sở để phân chia 24 tiết trong cung Hoàng Đạo.Ấy là cái lư nó như vậy.Từ đó suy ra => trong tháng nhuận của Tử Vi cần lấy tiết khí làm chuẩn.C̣n cái cách chia đôi tháng nhuận là một cách làm gần đúng mà thôi.
Thí dụ:
Năm Giáp Thân (2004) xem tháng 2 nhuận tiết khí rơi vào ngày nào (tôi ko mang theo lịch nên ko tra được) th́ từ ngày đó về sau tính tháng 3; trước ngày đó tính tháng 2. Không nhất thiết từ ngày 16 tháng nhuận tính tháng 3 và 15 tháng nhuận tính tháng đó.Tất cả mọi hiện tượng liên quan đến Tử Vi, chúng ta đều t́m thấy dấu ấn liên hệ với sự vận động và tương quan đến các v́ sao quanh trái Đất => Chứng minh rằng: Từ Vi là một hiệu ứng vũ trụ liên hệ với Trái Đất và ảnh hưởng tới con người.
Vài lời tường sở ngộ. Cảm ơn sự quan tâm của Như Ư và quí vị.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nhu Y Hội viên


Đă tham gia: 23 August 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 231
|
Msg 4 of 16: Đă gửi: 20 January 2004 lúc 4:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
ThienSu đă viết:
Năm Giáp Thân (2004) xem tháng 2 nhuận tiết khí rơi vào ngày nào (tôi ko mang theo lịch nên ko tra được) th́ từ ngày đó về sau tính tháng 3; trước ngày đó tính tháng 2. Không nhất thiết từ ngày 16 tháng nhuận tính tháng 3 và 15 tháng nhuận tính tháng đó.Tất cả mọi hiện tượng liên quan đến Tử Vi, chúng ta đều t́m thấy dấu ấn liên hệ với sự vận động và tương quan đến các v́ sao quanh trái Đất => Chứng minh rằng: Từ Vi là một hiệu ứng vũ trụ liên hệ với Trái Đất và ảnh hưởng tới con người.
|
|
|
Khi Như Ư vào trang web: http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/index.html để xem ngày tháng âm lịch cho múi giờ ở bang Cali (đổi 420 ở mục GMT+ thành -480). Tiết khí "Thanh Minh" sẽ rơi vào ngày 16 tháng 2 Nhuận năm Giáp Thân (âm lịch), tức là ngày 4 tháng 4 năm 2004 (dương lịch).
Thí dụ một em bé chào đời tại bang Cali vào lúc 11:01 phút (tính theo giờ địa phương) vào ngày 3 tháng 4 năm 2004 dương lịch th́ nên đổi ra ngày giờ âm lịch để an sao tử vi cho em bé đó như sau: giờ Tư, ngày 16 tháng 3 năm Giáp Thân.
Bác Thiên Sứ thấy Như Ư đổi ra như vậy có đúng không? Như Ư cũng không dám chắc là bản thân ḿnh hiểu thật rơ ràng về vấn đề này, mong bác xác nhận lại giùm cho Như Ư với!
Cám ơn bác Thiên Sứ nhiều.
__________________ Vô ảnh thường giao tâm tựa thuỷ
Hữu ngôn tự giác khí như sương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
VDTT Thượng Khách

Đă tham gia: 16 November 2003
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2675
|
Msg 5 of 16: Đă gửi: 20 January 2004 lúc 7:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cô Như Ư thân,
Kinh nghiệm riêng của tôi về website ông Đức là hễ để số âm vào th́ bị lộn xộn (có bug).
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 6 of 16: Đă gửi: 21 January 2004 lúc 7:51am | Đă lưu IP
|
|
|
Cô Như Ư thân mến!
Thông thường th́ tiết khí sẽ rơi vào gần giữa tháng nhuận. Bởi vậy để cho tiện - v́ ngày xưa không sẵn lịch để tra như bây giờ - người ta chia đôi tháng Nhyụân => Nửa đầu tính vào tháng trươc =>th́ dụ; Từ mùng 1 đến 15 tính là mùng một đến 15 tháng trước. C̣n từ 16 đến 30 tính vào 16 đến 30 tháng sau. Trong trường hợp cụ thể nếu tiết Thanh Minh rơi đúng ngày 16 th́ cô lấy như thế là đúng về nguyên tắc.Nhưng cô xem kỹ lại => rơi vào mấy giờ của ngày 16 tháng 2 nhuận? Nếu đúng giờ Tư th́ lấy như trên có thể đúng (C̣n sau giờ Tư th́ có thể sai).
Trên đây chỉ là một hiện tượng. C̣n hiện tượng này nữa cô cần lưu ư:
Tử Vi là những Đại lượng có tính biểu kiến cho sự tương tác của vũ trụ => Lá Tử Vi là cố định trong một giờ ta(Bằng 2 giờ Tây). Nhưng trong giờ Ta ấy Trái Đất quay quanh mặt trời và bản thân quĩ đạo của nó cũng chuyển động => Cho dù là số đúng giờ vẫn có sai lệch cho những con người sinh cùng một giờ.Huống chi là số cụ thể của cô lại là giờ khe => Theo tôi cô nên lấy ba lá số:
* Giờ Hợi ngày 15/2
* Giờ Tư ngày 16/2 (Do tiết khí không rơi vào giờ Tư)
* Giờ Tư 16/3
Trong ba lá này lựa lấy một lá đúng nhất.
Vài lời tường sở ngộ. Cảm ơn sự quan tâm của cô.
Chúc Cô thành công trong con đường t́m hiểu văn hoá cổ Đông Phương.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nhu Y Hội viên


Đă tham gia: 23 August 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 231
|
Msg 7 of 16: Đă gửi: 21 January 2004 lúc 5:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
VDTT đă viết:
Cô Như Ư thân,
Kinh nghiệm riêng của tôi về website ông Đức là hễ để số âm vào th́ bị lộn xộn (có bug). |
|
|
Ư của bác là khi đổi múi giờ ở mục GMT+ th́ kết quả hiện ra không được chính xác, sai be bét, không đáng tin tưởng nữa hở bác?
__________________ Vô ảnh thường giao tâm tựa thuỷ
Hữu ngôn tự giác khí như sương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Nhu Y Hội viên


Đă tham gia: 23 August 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 231
|
Msg 8 of 16: Đă gửi: 21 January 2004 lúc 5:15pm | Đă lưu IP
|
|
|
ThienSu đă viết:
Nếu đúng giờ Tư th́ lấy như trên có thể đúng (C̣n sau giờ Tư th́ có thể sai).
Trên đây chỉ là một hiện tượng.
... Theo tôi cô nên lấy ba lá số:
* Giờ Hợi ngày 15/2
* Giờ Tư ngày 16/2 (Do tiết khí không rơi vào giờ Tư)
* Giờ Tư 16/3
Trong ba lá này lựa lấy một lá đúng nhất.
Vài lời tường sở ngộ. Cảm ơn sự quan tâm của cô. |
|
|
Hu, hu...th́ ra việc xác định ngày giờ âm lịch lại khó khăn như vậy! Làm sao ḿnh biết được tiết khi rơi vào giờ nào được bây giờ, bác Thiên Sứ ơi!?
__________________ Vô ảnh thường giao tâm tựa thuỷ
Hữu ngôn tự giác khí như sương.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thanh Quyen Hội viên

Đă tham gia: 20 December 2003 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 207
|
Msg 9 of 16: Đă gửi: 21 January 2004 lúc 8:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
Ê ! Dầu na+m du7`ng khóc, xui la+'m. Nín di, tù tù Bác ấy sẽ giúp chọ
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 10 of 16: Đă gửi: 21 January 2004 lúc 9:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tốt nhất là cứ lấy ba lá số cô Như Ư ạ!
Ngày xưa lấy số bằng tay, nên lấy ba lá số khó khăn. C̣n bây giờ lấy số bằng máy. Đâu có ǵ ngại đâu!
Lâu lâu mới bị tổ trác rơi vào trường hợp oái oăm =>Vừa giờ khe; vừa tháng nhuận; vừa đúng ngày có tiết khí trong tháng nhuận. Chịu khó một tư đi =>In ba lá!
Thông thường sẽ có hai lá số có nét tương tự và một lá khác hai lá kia. Kiểm tra một chút là xong ngay.Từ từ rồi cô sẽ quen hết.
Chúc cô một năm mới tốt lành.Vạn sự an khang
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
dinhvantan Hội viên


Đă tham gia: 20 September 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 6262
|
Msg 11 of 16: Đă gửi: 21 January 2004 lúc 10:06pm | Đă lưu IP
|
|
|
ThienSu đă viết:
Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Khắc phục t́nh trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách thêm một tháng nhuận.
Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.
Năm Giáp Thân 2004 này nhuận một tháng và tháng nhuận rơi vào tháng 2 (v́ 2004 chia 19 c̣n dư 9). Trở lại năm Giáp Thân cách đây 60 năm (1944, chia cho 9, dư 6), cũng là năm nhuận và tháng nhuận rơi vào tháng 4.
Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ư ǵ về thời tiết, khí hậu.
Trích khoa học và Đời sống.
Tính không chính xác của bài viết này chính là đoạn cuối =>"Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ư ǵ về thời tiết, khí hậu'
Anh em tham khảo và chiêm nghiệm.
Thiên Sứ
|
|
|
Theo tôi câu cuối trong bài trên kết luận và chính xác.
Tôi xin thêm về cách tính ngày âm lịch : tính ngày th́ có thể dùng kinh tuyến (hay time zone), lấy ví dụ là VN Hà Nội ở kinh tuyến 105 52’ E (GMT +7) c̣n Bắc kinh th́ cách 1 giờ (GMT +8), nếu dùng thuật tóan th́ không sai biệt giữa Bắc Kinh và Hà NộI bao nhiêu hết, như ta đă thấy trong thê kỷ 20, cách tính lịch từ năm 1967 trở đi.
Âm lịch dùng tiết khí và trung khí nhưng thật ra nó liên quan đến âm dương lịch, tiết khí, chỉ 4 mùa xuân, hạ , thu , đông – c̣n trung khí để chỉ những trung khí c̣n lại. C̣n cách tính tháng nhuận th́ không liên quan ǵ đến tiết khí hay khí hậu hết. Tiết khí và trung khí có ngày nhất định trong dương lịch . Ví dụ lập Xuân là ngày 5/2, Vũ thủy 19/2, Kinh trập là ngày 5/3, Xuân phân 20/3 , Thanh minh ngày 5/4 v..v.. bất kể năm có tháng nhuận hay không có (1) .
Năm nay 2004, nhuận tháng 2, lịch Vạn niên của T.Q. tính tiết Thanh minh là ngày 15/2 nhuận AL lúc 18:59 tức ngày 4/4/2004, như vậy có sai mấy tiếng đồng hồ có lẽ v́ cách tính của T.Q.(2)
a/ Tứ trụ tính tháng bằng tiết khí hay trung khí.
b/ Tử vi tính tháng và ngày bằng con số, tháng nhuận th́ chia 15 ngày tháng nhuận cho tháng trước, 15 sau tháng nhuận cho tháng sau . Có lẽ ít chính xác, lấy ví dụ năm 2004. Nhưng nếu người chấm Tử Vi có kết hợp với Tứ trụ th́ chính xác hơn.
(1) Tham khảo Lịch và Lịch VN của GS Ḥang Xuân Hăn xuất bản tại Pháp năm 1982, trang 27.
(2) Cô Y Nhi viết tiết Thanh minh ngày 16/2 hay Cô dùng quyển lịch nào khác .
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 12 of 16: Đă gửi: 22 January 2004 lúc 6:02am | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Đinh Văn Tân thân mến!
Theo tôi câu trên sai ở chỗ:
"Không có hàm ư ǵ về thời tiết và khí hậu".
Tôi có xem một số tài liệu về cách lấy tháng nhuận trong năm nhuận.Tôi nhớ là nếu trong năm nhuận =>tháng nào không có Trung khí th́ lấy tháng đó làm tháng nhuận.Có thể tôi nhớ sai chăng? Hy vọng được bạn cho biết rơ hơn nguyên tắc tính tháng nhuận. V́ thực t́nh tôi cũng xem lâu quá; tài liệu thất lạc chỉ nói theo trí nhớ; bây giờ lục ra th́ ko biết nó nằm đâu.
Thân
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
dinhvantan Hội viên


Đă tham gia: 20 September 2003 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 6262
|
Msg 13 of 16: Đă gửi: 22 January 2004 lúc 10:17am | Đă lưu IP
|
|
|
ThienSu đă viết:
Bạn Đinh Văn Tân thân mến!
Tôi nhớ là nếu trong năm nhuận =>tháng nào không có Trung khí th́ lấy tháng đó làm tháng nhuận.Có thể tôi nhớ sai chăng?
Thiên Sứ
|
|
|
Đúng như ThienSu nhớ mà không sai.
Tháng không có trung khí đó được tính là tháng nhuận . Có tài liệu cho rằng tháng nhuận không có Can Chi, đúng, nhưng thật ra, Tử b́nh tính tháng bằng Tiết khí và trung khí nếu có rơi đúng vào tháng nhuận. Ví dụ năm 2004, tiết Thanh Minh ngày 15/2 AL nhuận, sau 19:00 kể là tháng Mậu Th́n.
Chữ nhuận : 閏 , đời xưa ngày Sóc của tháng nhuận, vua không làm lể "cốc sóc", chỉ đứng ở cữa mà cáo miếu chứ không vào, nên chữ nhuận có tượng "vua đứng ở cữa".
|
Quay trở về đầu |
|
|
khangaabc Hội viên

Đă tham gia: 09 January 2003 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1133
|
Msg 14 of 16: Đă gửi: 22 January 2004 lúc 4:03pm | Đă lưu IP
|
|
|
Khang thấy cĩ bài viết về Lịch Pháp nên xin trích đăng, hy vọng giúp NhuY phần nào :
--------------
Ba loại Lịch đang lưu hành
Trần-Thượng Thủ
Lời dẫn vào bài: Theo sách “La saga des calendriers” ou “Le frisson millénariste của Jean Le Fort -
Paris-1999, loài người đă sáng chế NHIỀU lịch-hệ chung qui cũng thuộc vào BA loại lịch-pháp. Nhân dịp
đón chào Tết Nguyên-Đán ĐẦU TIÊN của cả thế-kỷ XXI lẫn thiên-kỷ III, chúng tôi mạo muội tŕnh-bầy
sơ lược nhưng vẫn rơ ràng ba loại lịch được xem là phổ biến nhất vẫn đang lưu hành trên toàn cầu, với
ước mong đồng bào hải ngoại có dịp suy gẫm lúc sang Xuân Tân-Tỵ 2001 này.
Tuyệt đại đa-số đồng-bào Việt-Nam ta hiện nay vẫn c̣n nghĩ rằng trên toàn thế-giới hiện đang dùng chỉ
hai loại lịch là dương-lịch và âm-lịch mà không dè c̣n có loại lịch thứ ba là âm-dương-lịch. Chúng tôi
lần lượt tŕnh-bầy ngắn gọn ba loại lịch vừa kể.
I/- ÂM-LỊCH (calendrier lunaire/ lunar calendar):
Âm-lịch căn-cứ vào sự vận-hành của mặt trăng chung quanh địa-cầu để qui-định tháng, rồi từ đó mới suy
ra năm. “Từ-điển Tiếng Việt” định-nghĩa loại lịch căn-cứ vào ṿng quay (29 ngày, 12 giờ và 44 phút)
của mặt trăng quanh Trái đất mà ấn-định mỗi tháng 29 hoặc 30 ngày, mỗi năm 12 tháng.
Theo thiên-văn Mặt trăng chuyển động chung quanh Địa-cầu với vận-tốc khoảng 1km/s trên một
quỹ-đạo h́nh elip (bầu-dục), gọi là Bạch-đạo dài khoảng 2 361 000 km.
Trong cuộc vận-hành bất-tận nầy, hằng tháng Mặt trăng ở vào bốn vị-trí đặc-biệt:
1.- Khi Địa-cầu, Mặt trăng và Mặt trời cùng nằm trên một mặt phẳng kinh-tuyến th́ có hai trường-hợp
xẩy ra:
a/- Khi Mặt trăng và Mặt trời cùng ở về một phía của Địa-cầu: ta có hiện-tượng giao hội (kư-hiệu: Trăng
ở T1).
Ngày có giao-hội gọi là ngày sóc (sóc-nhật; ngày mùng một).
b/- Khi Mặt trăng và Mặt trời ở hai bên của Địa-cầu: ta có hiện-tượng xung-đối (kư-hiệu: Trăng ở T3).
Ngày có xung-đối gọi là ngày vọng (vọng-nhật: ngày rằm).
2.- Khi Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời không cùng nằm trên một mặt phẳng kinh-tuyến, nhưng đường
thẳng nối tâm của Trái đất - Mặt trăng và đường thẳng nối tâm Trái đất - Mặt trời nằm trong hai mặt
phẳng thẳng góc nhau th́ ta bảo rằng Mặt trăng và Mặt trời đứng vuông góc bấy giờ ta thấy được phân
nửa vầng trăng sáng. Ở đây ta cũng có hai trường-hợp xẩy ra:
a/- Vào khoảng 6 giờ chiều ngày mùng 8 ta thấy nửa vầng Trăng ở gần trên đỉnh đầu ta: đối với
quan-sát-viên ở tại Saigon (vĩ-độ: 10 độ 46 Bắc). Trăng thượng-huyền (Trăng ở T2). Ṿng cung của phân
nửa vầng trăng sáng hướng về phía Mặt trời lặn: nó tạo với đường thẳng cặp với đường kính của vầng
trăng h́nh chữ P (chữ đầu của cụm từ Premier quartier: thượng-huyền).
b/- Vào khoảng 6 giờ sáng ngày 23 ta vẫn thấy nửa vầng Trăng ở gần trên đỉnh đầu ta: đối với
quan-sát-viên ở tại Saigon (vĩ-độ: 10o 46 Bắc). Trăng hạ-huyền (Trăng ở T4) nhưng ṿng cung của phân
nửa vầng trăng sáng hướng về phía Mặt trời mọc lần này nó tạo với đường thẳng cặp với đường kính của
vầng trăng h́nh chữ D (chữ đầu của cụm từ Dernier quartier: hạ-huyền).
Tháng âm-lịch là khoảng thời-gian giữa hai lần giao-hội kế-tiếp nhau, c̣n gọi là tuần-trăng. V́ Mặt trăng
vận-hành trên quỹ-đạo của nó có lúc chậm lúc nhanh nên tháng âm-lịch thay đổi từ 29 ngày 06 giờ đến
29 ngày 20 giờ: sự sai biệt đến 14 giờ (tức 1,97%)! Tuy nhiên nhờ quan-sát các tuần-trăng liên-tiếp trong
độ hai ngàn năm, người ta biết được rất chính-xác tháng âm-lịch trung-b́nh dài 29,530 588 ngày tức là 29
ngày 12 giờ 44 phút 02 giây 8/10.
Đem áp-dụng vào cuộc sống, ngày không thể có “số lẻ” (phần thập-phân) nên người xưa chấp-nhận
tháng âm-lịch có lúc dài 30 ngày (tháng ĐỦ) và có lúc dài 29 ngày (tháng THIẾU). Tháng đủ và tháng
thiếu xen kẽ đều nhau, theo thứ-tự bắt đầu tháng thứ nhất của năm là tháng đủ. Như vậy, một năm
âm-lịch gồm 12 tháng, tức 354 ngày.
Người xưa nhận thấy 30 năm âm-lịch phải cộng thêm 11 ngày mới lâu bằng 360 tuần-trăng (354 x 30) +
11 = 29,530 588 x 360 = 10631 ngày cho nên, để cho năm tháng âm-lịch ăn khớp với tuần-trăng, họ cho
thêm MỘT ngày vào cuối năm âm-lịch, rải đúng vào những năm thứ 2, 5, 7, 10, 13, 16, 18, 21, 24, 26 và
29 trong mỗi chu-kỳ 30 năm âm-lịch. Năm được thêm một ngày này (tức là năm NHUẦN) được gọi tên là
năm SUNG-TÚC (có 355 ngày).
Sau đây là cách tính ngày, tháng và năm của người Hồi-Giáo (hiện nay vẫn c̣n sử-dụng âm-lịch).
NGÀY:
Ngày Hồi-Giáo khởi đầu vào lúc Mặt trời LẶN, khoảng 18 giờ (trong khi chúng ta cho ngày bắt đầu vào
lúc nửa đêm tức 24 giờ hay 00 giờ). Như vậy, ngày của lịch Hồi-Giáo đi trước ngày của chúng ta đến 6
giờ.
THÁNG:
Tháng Hồi-Giáo bắt đầu là lúc họ nh́n thấy được Trăng h́nh lưỡi liềm hiện ra trên bầu trời sau khi Mặt
trời lặn. Cụ-thể là ở Thánh-địa của Hồi-giáo là La Mecque họ chỉ có thể thấy được vầng trăng
định-chuẩn cho tháng của họ vào khoảng 40 giờ sau lúc giao-hội giữa hai tháng. V́ thế mà ngày đầu
tháng Hồi-Lịch thường rơi vào ngày mùng HAI (58,3%) hoặc mùng BA (36,0%) của tháng âm-dương-lịch
(Ngày mồng MỘT chỉ được 06,7% thôi).
NĂM:
Năm Hồi-Giáo chỉ dài 353-355 ngày, gần đúng 12 tháng. Sánh với năm dương-lịch có sự sai biệt khoảng
11,25 ngày. V́ vậy nên lịch Hồi-Giáo đi rất nhanh.
Giả-sử có một gia-đ́nh Iran sống tại Paris, chơi rất thân với một gia-đ́nh người Pháp. Vào ngày thứ Tư,
18-10-1950 nhằm ngày 06 tháng Giêng Hồi-Giáo”(Tháng Moharram), hai gia-đ́nh đều sinh được cháu
trai; sau khi gỡ xong tờ lịch th́ đến ngày Chủ-nhật 07-10-1951, bấy giờ cha mẹ của Abdul Karim ăn mừng
sinh-nhật của con trai. Măi mười một ngày sau, thứ Năm 18-10-1951) cha mẹ của Vincent mới ăn mừng
sinh-nhật của con trai.
Rồi đến ngày thứ Ba 18-10-1983 (sau 33 năm dương-lịch), Vincent vẫn ở Paris, c̣n Abdul đă về Téhéran
từ lâu. Tại hai thủ-đô của hai nước, đôi bạn thâm t́nh này gởi quà tặng cho nhau: Abdul mừng bạn ḿnh
vừa tṛn 33 tuổi, c̣n Vincent chúc bạn ḿnh hạnh-phúc trong mùa Xuân thứ 34 (mặc dầu số ngày họ hít
không-khí của Địa-cầu y như nhau.
Mười hai tháng Hồi-Giáo có tên gọi như sau: (số ghi trong ngoặc chỉ số ngày của tháng):
1- Moharram (30)
2- Safor (29)
3- Rabi I (30)
4- Rabi II (29)
5- Djoumada I (30)
6- Djoumada II (29)
7- Radjab (30)
8- Sa’aban (29)
9- Ramadan (30)
10- Sawal (29)
11- Dzou’l Kada (30)
12- Dzou’l Hidji (29 hoặc 30)
Suốt tháng Ramadan (dân ta quen gọi là tháng chay Hồi-Giáo), tín-đồ Hồi-Giáo tuyệt-đối phải nhịn ăn
vào ban ngày, nghĩa là họ chỉ được phép ăn vào ban đêm là cái khoảng thời-gian mà mắt ta không thể
thấy được một sợi chỉ trắng giăng cách mắt ḿnh một gang tay, không qui định rơ ràng giờ khắc v́ c̣n
tùy nơi (bán cầu nào? vĩ-độ bao nhiêu?...), tùy mùa.
Bảng kê dưới đây cho thấy cái ngày đầu năm Hồi-giáo (mùng một tháng Moharram) đă di chuyển giáp
một năm dương-lịch theo chiều lùi lần về trước. Cụ thể: ở Bắc bán cầu th́ Tết đầu năm Hồi-Giáo rơi vào
đầu đông (1943 dương-lịch/1363 Hồi-lịch), 9 năm sau đó là vào đầu thu (1952/1372), rồi vào đầu hạ
(1960/1380), rồi vào đầu xuân (1969/1389)... và trở lại đầu đông (1976/1397)... Thế là ba mươi ba năm
dương-lịch (1976-1943) dài bằng ba mươi bốn năm Hồi-lịch (1397-1363).
Cũng nên nhớ rằng ngày thứ Sáu 16 VII 622, Giáo-chủ Mahomet cùng các tông-đồ phải rời bỏ La
Mecque/Mecca để đi lánh nạn ở Médine (cách đó khoảng 310 km theo đường chim bay về phía bắc). Từ
khi qui định mốc lịch cho lịch-pháp Hồi-Giáo cho đến năm 2001, đă trải qua được 46 chu-kỳ 30 năm
Hồi-lịch. V́ rằng một năm Hồi-giáo chỉ dài 354-355 ngày trong khi một năm âm-dương-lịch dài 365-366
ngày và một năm dương-lịch nhuần dài 383-385 ngày cho nên lâu lâu xẩy ra trường hợp là ngày đầu năm
Hồi-lịch của hai năm kế tiếp lại rơi vào trong một năm dương-lịch (năm Hồi-lịch 1362 ở tháng I và năm
Hồi-lịch 1363 ở tháng XII năm 1943; năm 1396 ở tháng I và năm 1397 ở tháng XII năm 1976) hoặc trong
một năm âm-dương-lịch (năm 1360 ở tháng Giêng và năm 1361 ở tháng Chạp năm Tân-Tỵ 1941-1942;
năm 1394 ở tháng Giêng và năm 1395 ở tháng Chạp năm Giáp-Dần 1975-1976).
Người Hồi-Giáo cũng áp-dụng tuần lễ 7 ngày của dương-lịch, với hai điều khác nhau:
a/- Các ngày họ nghỉ ngơi để dưỡng sức, tham dự các cuộc hội họp và đọc kinh tập thể tại đền thờ là
ngày thứ Sáu.
b/- Ngày đầu tuần là ngày chủ-nhật.
Bảng kê ngày đầu năm Hồi-lịch đối chiếu với ngày tháng theo dương lịch và âm dương lịch trong hai chu
kỳ đặt nhuần kế tiếp gần đây nhất cửa Hồi lịch
Trăng là nguồn cảm hứng của thi nhân, là bạn-đường của các khách dạ-hành, nhưng lại không được nhà
nông hoàn toàn tin-cậy. V́ nếu ta dùng âm-lịch thuần-túy th́ mùa-tiết cũng không c̣n đúng với ngày
tháng nữa, bởi lẽ mỗi năm âm-lịch đi sớm khoảng 11 ngày so với mùa-tiết như thí dụ vừa kể.
Cho nên một số đông người đă “bỏ rơi” Mặt trăng và “chạy theo” Mặt trời. Thế là Dương-lịch ra đời.
II/- DƯƠNG-LỊCH (Calendrier solaire/ solar calendar):
Dương-lịch căn cứ vào việc quan-sát Mặt trời để qui định thời-gian theo năm, rồi từ đó suy ra ngày và
tháng. “Từ-điển tiếng Việt” định-nghĩa: loại lịch căn cứ vào ṿng quay (365 ngày và khoảng 6 giờ) của
Trái đất quanh Mặt trời mà ấn định mỗi năm có 365 ngày và cứ mỗi chu-kỳ 4 năm có một năm 366 ngày
(tháng Hai có 29 ngày); đồng thời cũng căn cứ vào vị-trí của Trái đất đối với Mặt trời và độ nghiêng của
trục Trái đất đối với các tia Mặt trời mà xác định các mùa.
Địa-cầu chuyển động chung quanh Mặt trời với vận-tốc khoảng 19,77 km/s trên một quĩ-đạo h́nh elip
(dài độ 939 500 000km) mà Mặt trời là một tiêu điểm.
V́ trục của địa-cầu nghiêng chừng 66 độ 33' đối với mặt phẳng quĩ-đạo của nó cho nên mặt phẳng này
cắt Thiên-cầu theo một đường tṛn lớn, nghiêng khoảng 23 độ 27' đối với Thiên-xích-đạo. Từ Địa-cầu
nh́n lên trời, ta tưởng chừng như Mặt trời có chuyển động chung quanh Trái đất theo một lộ-tŕnh hằng
năm là cái đường tṛn lớn ấy, gọi tên là Hoàng-Đạo.
Muốn h́nh dung được Hoàng-Đạo nằm trên Thiên-cầu như thế nào ta chịu khó mỗi ngày ghi lại trên một
khối-cầu (tượng trưng Thiên-cầu) tọa-độ hằng ngày của tâm Mặt trời hồi 12 giờ trưa; tọa-độ này gồm hai
dữ-kiện là là độ xích-kinh và độ xích-vĩ, đo được nhờ kính kinh-tuyến. Đúng một năm, ta nối tất cả 365
điểm đă thu thập được th́ có ngay một ṿng tṛn: đó là h́nh của Hoàng-Đạo.
Trong cuộc du-hành bất tận này, hằng năm trong khi di-chuyển từ bán Thiên-cầu Nam lên bán Thiên-cầu
Bắc, Mặt trời tới Thiên-Xích-Đạo tại điểm Xuân-Phân vào ngày 21 tháng 3 dương-lịch. Theo
Thiên-văn-học, ngày đó là ngày khởi đầu của mùa Xuân. Vẫn tiếp tục cuộc hành-tŕnh, Mặt trời lên đến
điểm Hạ-Chí (ở xa nhất về phía Bắc) vào ngày 22 tháng 6 dương lịch, quày trở xuống phía Nam, gặp
Thiên-Xích-Đạo tại điểm Thu-Phân vào ngày 23 tháng 9, cứ xuống nữa cho đến điểm Đông-Chí (ở xa
nhất về phía Nam) vào ngày 22 tháng 12, rồi quày trở lên để gặp lại Thiên-Xích-Đạo vào ngày
Xuân-Phân năm sau.
Năm xuân-phân là khoảng thời-gian giữa hai lần Xuân-phân kế-tiếp nhau, dài trung-b́nh 365,242 199
ngày, tức là 365 ngày 05 giờ 48 phút 46 giây.
Nhưng số ngày trong một năm phải là số nguyên. V́ vậy các nhà Thiên-văn phải t́m một cách nào đó để
cho học một năm có 365 ngày hoặc có 366 ngày (chớ không thể là 365,242 199 ngày). Cái “chước” này
được gọi là cách đặt nhuần. Có nhiều cách đặt nhuần:
Cách 1: Lịch của Ai-Cập do vua Ptolémée III Evergète hồi thế-kỷ III trước công-nguyên.
Cách 2: Lịch của Julius Caesar hồi thế-kỷ I trước công-nguyên.
Cách 3: Lịch của Gregorius XIII, được áp-dụng kể từ ngày thứ Sáu 14 tháng 10 năm 1582, hiện nay vẫn
c̣n được dùng.
Theo lịch-pháp của Gregorius:
Năm thường có 365 ngày, trong đó có tháng 02 có 28 ngày.
Năm nhuần có 366 ngày. Ngày thêm là ngày 29 tháng 02. Nhưng năm nào là năm nhuần? Đó là những
năm:
a/- Có hai con số đuôi họp thành số chia chẵn cho 4 (thí dụ: 1760, 1828, 1996...).
b/- Hoặc có hai con số không (zéro) ở sau cùng và những con số đứng trước đó họp thành số chia đúng
cho 4 (thí dụ 1600, 2000, 2400... tức là không cho nhuần 1700, 1800, 1900, 2100, 2200, 2300, 2500,
2600...).
Tuy nhiên, vẫn c̣n có sai-số-nhỏ là thừa 26 giây mỗi năm. Do đó người ta cũng phải không cho nhuần
MỘT lần mỗi 3322 năm nhằm để cho ngày tháng vẫn c̣n ăn khớp với mùa-tiết của thiên-nhiên.
Sự chính-xác của dương-lịch về mùa-tiết là một điều không thể chối căi: cứ đến ngày 21 tháng 3 hằng
năm là Mặt trời đến điểm Xuân-phân.
Nhưng âm-lịch lại thỏa-măn được nhu-cầu về mực thủy-triều hằng tháng cần-thiết cho đời sống của
ngư-dân cũng như cho chiến-pháp trên sông ng̣i (trận Bạch-Đằng, trận Rạch Gầm...). Do đó, người ta đă
phải dầy công nghiên-cứu để nhiều lần cải tiến âm-lịch để cho nó theo đúng mùa-tiết: thế là loại
âm-dương-lịch ra đời.
III/ ÂM-DƯƠNG-LỊCH (calendrier luna-solaire/ luni-solar calendar):
Âm-dương-lịch (mà ta quen gọi không chính-xác là âm-lịch!) thể hiện sự phối-hợp khá tinh-xảo của hai
loại lịch trên. “Từ-điển tiếng Việt” định nghĩa: loại lịch căn cứ vào ṿng quay cả của Mặt trăng quanh
Trái đất lẫn của Trái đất quanh Mặt trời mà ấn-định mỗi tháng có 29 hoăïc 30 ngày, và mỗi năm 12 tháng
hoặc có khi 13 tháng để xác-định gần đúng các mùa theo dương-lịch.
A/- TUẦN-TRĂNG
Tuần-trăng trung b́nh dài 29,530 588 ngày nên trong âm-dương-lịch, số tháng đủ bao giờ cũng nhiều hơn
số tháng thiếu, theo tỷ lệ tháng đủ 53,18%, c̣n tháng thiếu 46,82%. Hơn nữa, Mặt trăng chuyển động
không đều nên ta thấy có bốn trường-hợp tháng đủ và tháng thiếu nằm xen kẽ nhau không đều:
1.- Chúng xen kẽ nhau từng tháng một và giữa đó có rải rác chen vào từng cụm gồm:
2.- HAI tháng liền (tháng đủ 16,08%, c̣n tháng thiếu 15,22%).
3.- BA tháng liền (tháng đủ 08,92%, c̣n tháng thiếu 01,48%).
4.- BỐN tháng liền (trường-hợp này rất ít thấy và chỉ xẩy ra cho tháng đủ: 00,97%).
B/- KHÍ
Hoàng-đới là giải dài trên Thiên-cầu, rộng 8 độ 30' dọc theo hai bên Hoàng-Đạo. Chính Mặt trăng và
phần lớn các hành-tinh đều có các quĩ-đạo nằm trong giới-hạn của Hoàng-đới.
Lấy điểm Xuân-phân ( ) làm gốc, người ta chia Hoàng-đới ra làm 12 đoạn bằng nhau, mỗi đoạn dài 30 độ
kinh-độ (360 độ : 12) và gọi tên là cung Hoàng-đới: đoạn 1 là cung Tuất (tương-ứng với cung
Bạch-Dương theo danh xưng quen thuộc của phương Âu); đoạn 2 là cung Dậu (Kim-Ngưu)... và đoạn 12
tức đoạn chót là cung Hợi (Song-Ngư).
Mỗi cung Hoàng-đới chia làm 2 phần bằng nhau; mỗi phần dài 15 độ kinh-độ, gọi tên là Khí. Mặt trời
trung b́nh phải mất 15 ngày 05 giờ 14 phút 32 giây để “vượt qua” trọn một khí. Lâu nhất là 15 ngày 17
giờ 33 phút 56 giây 16/100, c̣n ngắn nhất là 14 ngày 17 giờ 13 phút 47 giây 56/100, sai biệt: 1 ngày 00
giờ 20 phút 08 giây 60/100.
Có hai loại khí: Trung-khí và Tiết-khí.
1.- Trung-khí là khí chính, luôn luôn bắt đầu vào khoảng quá giữa của tháng dương-lịch, sớm nhất vào
ngày 18 c̣n trễ nhất vào ngày 24 đúng vào lúc Mặt trời “di-chuyển” vào độ thứ NHẤT (1 độ) của một
cung Hoàng-đới. Mỗi tháng trong âm-dương-lịch phải chứa ngày bắt đầu trung-khí cơ-hữu của nó.
Chính trung-khí quyết định tháng nhuần trong năm âm-dương-lịch: nếu tháng nào không chứa ngày này
th́ bị đổi thành tháng nhuần. (T́m đọc bài “Năm Âm-dương-lịch nhuần” của cùng người viết).
2.- Tiết-khí là tiết-phụ, luôn luôn bắt đầu vào thượng-tuần tháng dương-lịch, sớm nhất vào ngày 04, c̣n
trễ nhất vào ngày 09, đúng vào lúc Mặt trời “di-chuyển” vào độ thứ MƯỜI SÁU (16 độ) của một cung
Hoàng-đới.
Mỗi tháng trong âm-dương-lịch phải có ngày TRỰC cơ-hữu của nó, rơi vào ngày Tư trong tháng ấy.
Thời điểm bắt đầu của tiết-khí quyết định việc “nhồi” trực của ngày trong chu-kỳ 12 trục.
Ta nhận thấy:
a.- Một năm gồm 24 khí: 12 tiết-khí và 12 trung-khí nằm xen kẽ đều nhau.
b.- Mỗi mùa có 6 khí và khởi đầu bằng tiết-khí mang tên với chữ “Lập” đứng đầu: mùa Xuân có
Lập-Xuân, mùa Hạ có Lập-Hạ, Lập-Thu và Lập-Đông.
C.- Khí giữa mùa là trung-khí, mang tên của mùa tương-ứng: mùa Xuân có Xuân-Phân, mùa Hạ có Hạ-Chí,
Thu-Phân và Đông-Chí.
d.- Mỗi khi bắt đầu vào một ngày xác định, với độ tăng giảm (+/-) 1 ngày.
e.- Từ lúc bắt đầu trung-khí này đến khi bắt đầu trung-khí kế-tiếp cũng như khoảng thời-gian giữa hai
tiết-khí kế-tiếp đều lâu độ 30 ngày 10 giờ 29 phút 04 giây, tức là lâu hơn một tuần trăng.
C/- CÁCH ĐẶT NHUẦN
Qua câu chuyện của Abdul Karim và Vincent, chúng ta đă thấy 34 năm âm-lịch (năm Hồi-lịch) dài bằng
33 năm dương-lịch. Ngoài ra người xưa nhận thấy: 235 tuần-trăng dài bằng 19 năm dương-lịch, và chu-kỳ
19 năm dương-lịch, tức là 6 939 ngày 3/5, được người Hoa gọi là “chương”, c̣n người Âu gọi là “chu-kỳ
Méton”. Số 235 tuần-trăng gồm có số tuần-trăng của 19 năm âm-lịch (12 x 19 = 228 tuần-trăng) và c̣n
dôi ra 7 tuần-trăng, được dùng làm 7 tháng nhuần cho 7 năm nhuần. Những năm nhuần này trong mỗi
chương bao giờ cũng rơi vào những năm thứ 3, 6, 9 (hoặc thỉnh thoảng là 8), 11, 14, 17 và 19. Bẩy con số
đặc-biệt này có danh xưng là Kim-số: đây là số thừa trong bài toán chia của số ghi năm dương-lịch cho
19.
Do đó mà có phép đặt nhuần gốm mấy qui-tắc sau đây:
* Qui-tắc 1: Tháng nhuần của âm-dương-lịch là tháng không có ngày bắt đầu một trung-khí.
* Qui-tắc 2: Ngày Đông-chí phải nằm trong tháng mười một âm-dương-lịch (qui-tắc chủ-yếu).
* Qui-tắc 3: Không đặt nhuần ở 3 tháng kế tiếp là tháng Mười Một, tháng Chạp và tháng Giêng.
Chúng ta có một số nhận xét dưới đây:
a.- Theo Thiên-văn-học Trung-Quốc, tháng 11 gọi là tháng Tí (đây là tháng thứ nhất của năm thiên-văn
nên mang chữ đầu của 12 chi là Tí, rồi tháng kế tiếp là tháng Sửu tức tháng Chạp, tháng dần tức tháng
Giêng, tháng Măo tức tháng Hai... (T́m đọc bài “Tại sao tháng Giêng gọi là tháng Dần?” của cùng một
nguời viết).
b.- Trong âm-dương-lịch:
* Một năm thường có thể có 353 ngày (hiếm: 1%), 354 ngày (thường nhất: 40%) hoặc 355 (23%), với số
ngày bắt đầu các khí là 23 ngày (35%) hoặc 24 ngày (28%).
* Một năm nhuần có 383 ngày (ít có: 4%), 384 ngày (thường nhất: 31%) hoặc 385 (hiếm: 1%), với số
ngày bắt đầu các khí là 25 ngày (35%) hoặc 26 ngày (hiếm: 2%).
* Có 3 trường-hợp về số ngày bắt đầu các khí trong một tháng:
- Có HAI ngày (27%).
- Chỉ có MỘT ngày (nếu đó là ngàyy tiết-khí th́ tháng đó là tháng nhuần: 36%; hoặc đó là ngày
trung-khí: 36%).
- Có đến BA ngày (hiếm: 1%).
c.- Năm âm-dương-lịch có Kim-số là năm nhuần. Thí dụ: năm Giáp-Tuất 1994 không nhuần v́ không có
Kim-số bởi ta có: 1994 = 19 x 104) + 18; năm Quí-Dậu 1993 nhuần v́ có Kim-số bởi ta có: 1993 = (19 x
104) + 17; năm Ất-Hợi 1995 nhuần v́ có Kim-số bởi ta có: 1995 = (19 x 105 + 0 (tức là 19 v́ 1995 = (19 x
104) + 19.
d.- Hễ sau 32,5 tuần-trăng th́ năm âm-dương-lịch đi sớm hơn năm dương-lịch (tức là năm Xuân-phân,
cũng c̣n gọi là năm thời-tiết) đến một tháng, do đó phải cho nhuần một tháng. Trên thực tế, các tháng
nhuần được đặt cách nhau ít nhất là 28 tháng và nhiều nhất là 35 tháng.
e.- Tên gọi tháng nhuần là tên của tháng liền trước đó và có kèm thêm từ “nhuần” ở phía sau. Thí dụ:
“tháng Năm nhuần” của năm Mậu-Dần 1998 thật ra đó là tháng thứ sáu của năm Mậu-Dần mà không có
ngày bắt đầu trung-khí cơ-hữu của nó là Đại-thử v́ ngày này rơi vào ngày Mùng Một của tháng thứ bẩy,
và tháng thứ bẩy này mang tên là tháng Sáu của năm Mậu-Dần. Thế là tháng năm nhuần là tháng chen
vào giữa tháng Năm và tháng Sáu.
f.- Có HAI trường hợp về tháng Hai nhuần:
* Hoặc giả đó là tháng Hai nhuần thật v́ tháng thứ ba của năm liên-hệ không có ngày bắt đầu trung-khí
cơ-hữu của nó là Cốc-Vũ và ngày này rơi vào tháng thứ tư được gọi tên là tháng Ba. đây là trường hợp
của năm Kỷ-Dậu 1909, Mậu-Th́n 1928, Đinh-Hợi 1947.
* Hoặc giả đó là tháng Hai nhuần oan v́ phải nhuần thay cho những tháng trước đó, được qui-định theo
nguyên-tắc 3 mặc dầu nó vẫn có ngày bắt dầu trung-khí. Đây là trường-hợp của năm Ất-Măo 1975,
Giáp-Tuất 1814...
Qua phân-tích trên, âm-dương-lịch nhất định không phải là âm-lịch thuần-túy (như lịch Hồi-Giáo). Thế
mà từ bao lâu nay hầu hết người Việt-Nam quen gọi nó là âm-lịch (!), một danh xưng thiếu chính-xác nếu
không muốn nói là sai lầm. Ngoài ra họ cứ tưởng rằng đó là lịch Tàu v́ có nguồn gốc từ Trung-Hoa chớ
có dè đâu bên cạnh lịch Tàu c̣n có lịch Ta được Vua Lư-Thánh-Tông ban-hành (1054), dựa vào
lịch-pháp thuở Tống-Sơ (hậu bán thế-kỷ X) (T́m đọc bài “Nước ta có soạn âm-dương-lịch dùng riêng cho
nước ḿnh không?” vẫn của cùng một người viết).
Trần-Thượng Thủû
(Houston, Thu-phân Canh-Th́n 2000)
Trích Việt Nam Nhật Báo - Giai phẩm Xuân Tân Tỵ 2001
|
Quay trở về đầu |
|
|
NINA Hội viên


Đă tham gia: 11 June 2003 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 544
|
Msg 15 of 16: Đă gửi: 23 January 2004 lúc 4:14pm | Đă lưu IP
|
|
|
Có cái này con hơi thắc mắc, mong quí vị giãi thích cho;
Qua bài của bác Thiên Sứ viết thì con đã hiểu cách tính năm nào là năm nhuần âm lịch, nhưng làm sao mình biết năm đó sẽ rơi vào nhuần tháng mấy vậy Bác ?
Kính
Nina
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt


Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 16 of 16: Đă gửi: 23 January 2004 lúc 8:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
NiNa thân mến!
V́ có sự chênh lệch giữa chu kỳ mặt trăng quay quang trái đất (Để tính tháng Âm lịch) và chu kư trái Đất quay quanh mặt Trời (Để tính năm) và chia tiết khí theo vị trí các sao tương quan trên mặt phảng Hoàng Đạo => nên cứ 4 năm tháng sẽ có tháng không có trung khí => tháng đó sẽ là tháng nhuận.Nina hăy xem lịch năm nay th́ thấy Trung khi không rơi vào tháng hai => tháng hai nhuận => Người xưa làm như vậy để bảo đảm sự cân đổi trong tương quan các hiệu ứng vũ trụ với Địa Cầu => Trăng ; sao; Mặt trời qua sự tuần hoàn vận động theo tháng; mùa ; năm.
Xă hội ngày xưa (Cội nguồn của Âm Dương lịch) - theo tôi - là một xă hội có nền văn minh cao cấp = Họ làm lịch không phải chỉ đơn giản là làm nông nghiệp mà c̣n phục vụ cho một nhu cầu lớn hơn =>T́m hiểu những hiệu ứng vũ trụ liên quan tới Địa cầu =>Ảnh hưởng tới tương lai nhân loại.Ư tưởng này hơi bị "ngộ" có thể liên hệ với bệnh thần kinh. Nhưng rất hữu lư.
Vài lời tường sở ngộ.
Cảm ơn NiNa quan tâm.
Chúc Ni Na một năm mới đầy hạnh phúc và thành công trong cuộc đời.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|