Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 211 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Thiền Tịnh Song Tu - Pháp Môn tối thắng Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 1 of 11: Đă gửi: 29 September 2006 lúc 4:09am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Thiền Tịnh song tu

Ni Trưởng Thích nữ Như Thanh

1. NHỮNG ĐIỂM DỊ BIỆT VÀ TƯƠNG ĐỒNG
GIỮA THIỀN VÀ TỊNH



Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật". Thiền được Trung Hoa dịch là Tịnh Lự (Tịnh=Định; Lự=Huệ) nhằm nêu bày tính cách Định Huệ viên dung. Nhờ Định, Huệ cân bằng mà hành giả thấu suốt và khế nhập được chơn thể của bản tánh chơn tâm, do đó được tự tại vô ngại, gọi là chứng ngộ.

Định càng sâu, Huệ càng tỏ; Huệ càng tỏ rạng th́ Định càng thêm vững vàng; đó là sự tương quan như nhất và là điều kiện chủ yếu để đạt Đạo, phá trừ vô minh tận gốc rễ cội nguồn của nó.

Theo quan niệm của Thiền Phật giáo th́ vạn hữu đều do tâm sinh khởi (Vạn pháp duy tâm) cho nên khi nắm được cái tâm th́ làm chủ được tất cả; thành ra phương thức duy nhất, thẳng tắt là hồi quang phản chiếu, không t́m cầu bên ngoài, không dựa vào tha lực.

Phật không có trong núi, cũng không có trong sách vở nên không cần lễ bái, không lập văn tự, chỉ cần Minh sư trực chỉ cho Thiền sinh trực ngộ, tâm tâm tương ứng th́ mạch Thiền sẽ được lưu truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi mạch Thiền tươi nhuận th́ Phật giáo thịnh hành, đất nước ḥa b́nh, nhân dân an lạc; khi nguồn Thiền cạn khô th́ Đạo Phật suy vi và kéo theo sự lầm than cơ cực, hỗn loạn đảo điên cho nhân quần xă hội.

Ngài Huệ Viễn thời Nam Tống ở Trung Hoa, sau khi chứng ngộ Thiền cơ, quán sát căn tánh chúng sanh đương thời, thấy đây là lúc nên xiển minh Tịnh độ, khởi xướng tông phái trọng yếu của Đạo Phật thành hệ thống rơ ràng, lư sự đầy đủ.

Tịnh, nói đủ là thanh tịnh, tức là không có nhiễm ô, dơ bẩn, đó là ư nghĩa tiêu cực. Về phương diện tích cực, không tạp nhiễm lỗi lầm phiền năo, tức là thanh tịnh, đầy đủ công đức, trí huệ.

Độ là cơi nước, thế giới hay nơi chốn nương tựa chung.

Vậy Tịnh độ là cơi nước thanh tịnh trang nghiêm nơi đó tâm địa chúng sanh không nhiễm ô, không phiền năo, luôn an vui tu tập để tiến đến cứu cánh giải thoát viên măn. Đây là thế giới trang nghiêm vi diệu.

Tịnh là mục tiêu, là đặc điểm của Phật pháp. Theo quan niệm Đại thừa, Tịnh phải gồm đủ hai phương diện: chúng sanh tịnh và thế giới tịnh, tức là hành giả ngoài sự thanh tịnh hóa thân tâm c̣n phải phát Bồ-đề tâm cứu độ chúng sanh, chuyển Ta-bà thành Tịnh độ. Ấn Thuận Đại sư nói: "Tâm tịnh th́ chúng sanh tịnh, tâm tịnh th́ quốc độ tịnh. Phật pháp tuy có vô lượng pháp môn, vô lượng nghĩa, nhưng Tịnh là căn bản".

Tịnh độ có nhiều cơi, mỗi cơi do một vị Phật làm chủ, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Ngoài cơi tịnh của Ngài Di Lặc ở cung trời Đâu Suất và cơi nước của Ngài Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà hiện nay có nhiều người đang ngưỡng mộ, gieo duyên lành cầu sanh về th́ chính trong kinh A Di Đà cũng đề cập đến nhiều cơi tịnh ở phương Đông với A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, v.v... Ở phương Nam là thế giới của Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, v.v..., nhưng riêng Tây phương Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà th́ được biết tới nhiều nhất, được đa số Phật tử chiêm ngưỡng quy kính và nguyện văng sanh về đấy.

Lư do là v́ 48 lời phát nguyện của Ngài Pháp Tạng Bồ-tát (Tiền thân Đức Phật A Di Đà) tạo cho Phật tử một sự tin tưởng đầy khích lệ về phương pháp dễ tu, dễ đạt thành. Nhất là nơi Phàm Thánh Đồng Cư độ chúng ta có thể đới nghiệp văng sanh. Ở đấy, dù chưa dứt trừ được kiến hoặc, tư hoặc nhưng nhờ Phật lực gia hộ mà khỏi phải trở lại ḍng luân hồi đầy phiêu lưu bất trắc, lại được sống b́nh an, lâu dài trong cảnh giới tuyệt hảo vô ưu, thân cận cùng các bậc Bồ-tát, thượng nhân thiện tri thức. V́ thế, trong bài này, chữ Tịnh độ dùng để chỉ Tây phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Trên đă tŕnh bày sơ lược về Thiền và Tịnh, giờ đây chúng ta thử t́m những điểm khác biệt giữa hai tông này.


Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 2 of 11: Đă gửi: 29 September 2006 lúc 4:14am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


1.1. Những điểm dị biệt:

1.1.1. Ḷng tin: Tịnh độ dùng chữ tín làm căn bản. Tin vào thế giới Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà làm chủ là cảnh giới tốt đẹp trang nghiêm, thuần vui không khổ. Nơi ấy, mặt đất lát vàng trải lối, bảy báu làm thành cung điện, cây báu xếp thành hàng trên những con đường rộng răi thẳng tắp, hoa trái xum xuê, ao hồ trong mát, hoa sen đủ màu tṛn to như bánh xe, phát ra ánh sáng, những loài chim quí ca hát líu lo. Lại thêm tiếng gió thoảng, tiếng chuông ngân, tiếng nước chảy tạo thành thứ âm thanh vi diệu khiến ḷng người lâng lâng êm ả và không quên niệm Phậât, niệm Pháp, niệm Tăng.

Chúng sanh nơi cơi ấy không phải bận tâm về đời sống vật chất. Mọi thứ nhu cầu như y phục, ẩm thực, v.v... tùy theo sở cầu đều được toại ư... Đó là Y báo. C̣n Chánh báo ra sao? V́ nhân dân trong nước này đều từ hoa sen hóa sanh nên thân tướng đẹp đẽ, thanh tịnh, có ánh sáng, lại không có tướng nữ. Sự đi lại tự tại, trong thời gian một bữa ăn có thể đi cúng dường Chư Phật khắp mười phương. Thân này sống lâu vô lượng, không già, không bệnh, không chết, thật là đúng như ước vọng của chúng sanh nơi cơi Ta-bà.

Đức tin này dựa vào các kinh: Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ kinh, Phật thuyết Vô Lượng Thọ kinh, Phật thuyết A Di Đà kinh. Về luận th́ có Văng Sanh Tịnh Độ luận của Thế Thân Bồ-tát, Đại thừa Khởi Tín luận của Mă Minh Bồ-tát, Thập Trụ Tỳ Bà Sa luận của Ngài Long Thọ, v.v...

Lại căn cứ vào 48 lời nguyện của Ngài Pháp Tạng cũng như kinh A Di Đà, hàng Phật tử tin rằng nếu hoàn toàn nương tựa vào ḷng từ bi cùng Phật lực của Đức Phật A Di Đà hay cứu độ, chuyên tâm hành tŕ pháp môn niệm Phật, quán tưởng Phật và nguyện sanh về Tây phương Cực Lạc th́ chắc chắn sẽ được như ư nguyện. Nói chung, người tu Tịnh độ đặt trọn niềm tin vào tha lực, nhờ sự cứu độ mà được văng sanh.

Người tu Thiền, ngược lại, chú trọng vào tự lực. Bởi v́ vạn pháp duy tâm, chỉ có tâm này là chủ, tâm này là Phật, tâm này là tất cả, vậy th́ cứ quay về trọn vẹn sống với Chơn tâm th́ ngay nơi ấy là Cực Lạc, là Niết-bàn.

Đức Lục tổ Huệ Năng nói: "Pháp này phải đến trong tánh Phật mà cầu, chứ hướng ngoài thân mà cầu, tự không có bổn tâm. Phải tự thấy bổn tánh, mê th́ làm chúng sanh, giác tức là Phật." Thấy được bổn tánh vốn thanh tịnh, vốn sẵn đủ và sống trọn vẹn với nó th́ không c̣n bị các pháp ràng buộc, đối cảnh chẳng sanh t́nh nên được tự tại thong dong. Như thế, đâu cần phải rời Ta-bà để về Tịnh độ. Ngay nơi đây là Niết-bàn tự tâm, ngay nơi cơi đời vô thường, khổ, không này lại là cảnh giới Thường, Lạc, Ngă, Tịnh vậy.

Chữ Tín của Thiền tông nhắm vào tự lực, tin tưởng vào tánh Phật và khả năng thành Phật của ḿnh. C̣n Tịnh độ tông đặt trọng tâm vào tha lực. Sự mâu thuẫn này là nguyên nhân gây ra nhiều tranh biện chống báng nhau giữa tông đồ của hai bên.

1.1.2. Nguyện vọng: Do ḷng tin sai khác như vậy nên mục tiêu hay nguyện vọng của hai tông cũng sai khác. Môn đồ của Tịnh độ tông khởi tâm nhàm chán Ta-bà ngũ trược ác thế này cầu sanh Tây phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để được ly khổ đắc lạc, thọ mạng dài lâu, vui hưởng cảnh giới trang nghiêm tốt đẹp, thân cận toàn thượng nhân thiện tri thức. Nơi đạo tràng lư tưởng này, người dân của cơi Tịnh, nhờ Phật lực gia tŕ, nhờ môi trường tu tập toàn hảo mà tiến tu không ngừng, chẳng ai bị thoái chuyển. Cho nên dù là đới nghiệp văng sanh đi nữa, họ cũng được bảo đảm sự thành tựu quả vị Bồ-đề.

Tu theo Đại thừa, đa số đều phát nguyện độ sanh cho nên đối với những bậc đại căn, Tịnh độ c̣n là nơi an dưỡng, nơi mà họ trở về sau một chuyến đi hành Bồ-tát đạo. Về rồi lại đi, đi rồi lại về, họ qua lại như những vị tướng lănh xông pha ngoài trận mạc chống ma vương. Mỗi lần về Tây phương Cực Lạc là mỗi lần được tăng trưởng Căn bản trí, được tô bồi trí lực để rồi huờn đáo Ta-bà hoằng pháp độ sinh.

Va chạm với thực tế, tiếp xúc với cuộc đời, trực diện với đủ loại chúng sanh, Bồ-tát tự ḿnh phát triển Hậu đắc trí. Khi nào Phước Trí viên thành, Trí Bi trọn đủ th́ Bồ-đề quả măn, thành bậc Vô Thượng Giác.

C̣n Thiền gia, ngay từ khởi điểm, đă xác định mục tiêu: Kiến tánh thành Phật. Đó là đại nguyện duy nhất. Cứu cánh là mong đạt đến quả vị tối thượng viên măn. Nhưng như Đức Phật Thích Ca kể lại trong các kinh Bổn Sự, Ngài đă trải qua vô lượng kiếp tu hành, lúc mang thân người, lúc đội lớp thú, v.v... Kiếp nào Ngài cũng xả thân lo cho kẻ khác, quên ḿnh để cứu người. Như vậy, trên quá tŕnh tiến đến chỗ thành Phật, Thiền gia cũng phải trải qua giai đoạn tu Bồ-tát đạo, hành Bồ-tát hạnh.Ngài Huệ Viễn đă nói: "Thể tánh như hư không, không bờ mé để kêu gọi nhau, đi về qua lại".

Những Thiền sư đắc Đạo cũng đi về qua lại để độ chúng sanh, nhưng chắc chắn là không trụ ở nơi nào khác ngoài thể tánh. Đă vào trong thể tánh Chơn như rồi th́ không c̣n phân biệt uế độ và tịnh độ. V́ không phân biệt nên không nhàm chán Ta-bà, không cầu sanh Tịnh độ. Các Ngài chỉ tùy duyên diệu dụng, tùy nguyện độ sanh, với cơi ḷng an nhiên tự tại cho đến khi thể nhập Phật tánh Chơn như một cách viên măn th́ trọn thành Phật Đạo.

1.1.3. Pháp hành tŕ: Lư đốn nhưng sự tiệm. Dầu biết rằng tánh Phật vốn sẵn đủ trong ta, nhưng từ lúc được Minh sư khai thị cho đến khi ngộ nhập được Phật tri kiến là một công tŕnh chông gai gian khổ, nếu không bền chí hạ thủ công phu lâu dài, miên miên mật mật th́ măi măi c̣n xa cách ngh́n trùng.

Thiền tông chủ trương phản bổn huờn nguyên, hồi quang phản chiếu để sống với Chơn tâm vốn b́nh đẳng nhất như, bất sanh bất diệt. Muốn vậy phải phá trừ vọng tưởng chấp trước, phát sanh từ vô minh. Chỗ dụng công của Thiền gia thường là khởi nghi t́nh, khán thoại đầu. Minh sư tùy theo căn duyên của đệ tử mà trao cho một công án để tham cứu. Thí dụ như: Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mày thật của ḿnh ra sao? Hoặc: Niệm Phật là ai? Tiếng vỗ của một bàn tay, v.v...

Thiền sinh được công án rồi th́ miệt mài suy tư t́m phương giải đáp. Nhưng càng dụng công suy nghĩ th́ càng mịt mờ, khó hiểu, đó là lúc khởi được nghi t́nh. Nghi t́nh này, nếu được sự nỗ lực gia công của Thiền sinh th́ ngày sẽ một lớn thêm và kết thành một khối, nó khiến cho hành giả quên ăn mất ngủ. Đi, đứng, nằm, ngồi, ǵ cũng ôm giữ khối nghi, không nghĩ tưởng điều ǵ khác, giống như mèo chăm chăm ŕnh chuột. Cho đến khi thời tiết nhân duyên hội đủ th́ hoát nhiên đại ngộ.

Muốn đại ngộ phải có đại nghi. Đại nghi là h́nh thức của đại định, do tập trung tất cả tâm thức vào một chỗ, như kính hội tụ tập trung ánh sáng vào một điểm th́ sanh ra lửa. Lửa này đốt cháy được vọng tưởng và khơi nguồn trí huệ.

Trong thời gian môn đồ hạ thủ công phu. Thiền sư giúp đệ tử bằng cách đốn bỏ mọi sở chấp của họ khiến họ chẳng c̣n có thể bám víu vào đâu, như kẻ đứng trên đầu sào cao chót vót rồi mà vẫn bị hối thúc phải tiến lên. Cho đến khi ư thức bị dồn vào tuyệt lộ, bị bức bách quá, chết ngất đi, th́ hành giả được giải thoát khỏi thế giới nhị nguyên đối đăi của phàm phu.

Một trong những phương tiện giúp đỡ của Minh sư là những lời nói nghịch lư hay mâu thuẫn với kinh điển. Nhiều người khi nghe những câu nói phóng túng của Thiền sư như: "Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma", hay thậm chí đốt tượng Phật để sưởi ấm… th́ tưởng rằng Thiền tông phá chấp triệt để đến nỗi bỏ cả Giới luật.

Thật ra, Giới là nền tảng của Thiền. Chỉ khi nào Minh sư thấy rằng đệ tử của ḿnh Giới thể trang nghiêm, Giới tướng đầy đủ lại có chí khí vững vàng mới trao cho một công án. Bằng không như vậy, Thiền sinh không thể nào khán thoại đầu. Giới là điều kiện cần yếu để đi tới Định và Huệ, cho nên kinh điển đều nói rằng Giới Định Huệ là Tam vô lậu học, nhằm nỗ lực phát huy nội tại tức Tâm tức Phật.

Thiền được xếp vào loại "nan hành đạo", v́ Thiền gia phải dồn tất cả nỗ lực để tự ḿnh phấn đấu, tự ḿnh đảm đương vấn đề sanh tử, dù thầy ở kế bên cũng không giúp được ǵ hơn v́ ai ăn người ấy no, ai tu người ấy chứng. Tất cả đều chỉ là ngoại hộ.

Trái lại, pháp hành của môn đồ Tịnh độ tông lại hướng ra ngoài, chú tâm cầu sự tiếp độ của Đức Phật A Di Đà để được văng sanh Tịnh độ. Không phải tông đồ Tịnh độ không có lư của họ. Nay là thời kỳ mạt pháp, đa phần chúng sanh đều bị vô minh dầy đặc, ham vui ngũ dục, căn tánh yếu ớt, tinh thần dễ chao đảo, nếu không nương vào bi nguyện độ sanh của Đức Phật A Di Đà th́ khó có thể một ḿnh vượt qua ṿng sanh tử luân hồi, như là bánh xe đang quay tít do nghiệp lực vô minh từ bao đời bao kiếp. Chi bằng bước lên thuyền từ của Đức Phật A Di Đà để về nơi đạo tràng thù thắng mà tiến tu đạo nghiệp, không sợ bị thoái chuyển hay lạc vào nẻo tà, đường ma.

Pháp hành của Tịnh độ có thể chia làm bốn:

a. Tŕ danh
b. Quán tưởng
c. Quán tượng
d. Thiệt tướng


Trong bốn pháp này th́ môn chấp tŕ danh hiệu là phổ thông hơn hết, v́ rất hợp cơ. Niệm Phật cần phải nhiếp tâm, lắng tai nghe kỹ tiếng niệm từ miệng ra rồi in câu niệm Phật vào tâm. Nếu nhiếp được nhĩ căn th́ các căn kia không thể buông lung chạy theo bên ngoài. Tu tập thuần thục và chắc chắn như vậy th́ mau được nhất tâm bất loạn.

Đại Thế Chí Bồ-tát bảo: "Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối luôn, được Tam-ma-địa. Đây là bậc nhất". Vào Tam-ma-địa (Samadhi, đại định) rồi th́ trí tuệ làu làu tỏ thông, thật tướng hiện bày, không cần quán tưởng cũng thấy cảnh Tây phương, không cần quán tượng cũng thấy Phật A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí, nên chỉ một pháp tŕ danh mà gồm đủ các pháp khác.

Người tu Tịnh độ, ngoài thời khóa nhất định để lễ bái, chiêm ngưỡng, tán thán, niệm Phật ra, c̣n phải nhiếp tâm niệm thầm, chấp tŕ danh hiệu trong tâm tưởng khiến cho câu niệm Phật không gián đoạn. Khi 6 chữ hồng danh không gián đoạn th́ nó trở thành một luồng nước ngầm mạnh mẽ, cuốn sạch hết những rác rến vọng tưởng phiền năo. Bấy giờ không cần dẹp vọng mà vọng tự tiêu, không cần đối trị phiền năo mà phiền năo tự diệt.

Khi niệm lực vững vàng th́ Định lực phát sanh. Định lực vững chắc th́ trí huệ sáng tỏ. Tâm địa hành giả trở nên thanh tịnh, tương ưng cùng tự tánh A Di Đà, bấy giờ tuy niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm vậy. So với Thiền th́ Tịnh độ dễ hành tŕ hơn (Dị hành đạo), v́ niềm tin vào tha lực như tăng sức mạnh, làm phấn khởi tinh thần. Hễ tin sâu, nguyện thiết, hành tŕ bền bỉ không gián đoạn th́ chắc chắn được văng sanh.




Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 3 of 11: Đă gửi: 29 September 2006 lúc 4:18am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


1.2. Những điểm tương đồng:

Trên đă lược sơ về những dị biệt căn bản giữa Thiền và Tịnh. Song v́ pháp môn tu do Phật chế ra tuy có vô lượng, nhưng tất cả đều cùng một vị giải thoát, nên Thiền và Tịnh cũng có nhiều điểm tương đồng.

1.2.1. Thiền và Tịnh đều cột tâm vào một chỗ: Tâm chúng sanh sinh diệt từng sát-na với những ư tưởng thay đổi không ngừng, như khỉ chuyền cành, như ngựa chạy vườn hoang (tâm viên, ư mă), v́ vậy mà năng lực trở thành yếu ớt kém cỏi. Nay dùng phương tiện cột tâm lại một chỗ khiến cho tâm được định tĩnh và sáng suốt. Ví như cây đèn vốn sáng, nhưng v́ để gió lay động chao đảo nên không hữu dụng, phải dùng chụp đèn che gió, nhờ vậy mà ánh sáng tập trung lại được và đẩy lui bóng tối.

Thiền sinh nhờ chuyên tâm vào công án mà được định, người tu Tịnh nhờ dụng công niệm Phật nên được nhất tâm bất loạn. Phương pháp tuy khác nhau, nhưng tựu trung chỉ một mục đích.

1.2.2. Định của Thiền và Tịnh đưa đến trí huệ, ngộ nhập Phật tri kiến: tập trung ư thức vào một điểm, một chữ, một câu, một vấn đề th́ có thể đạt đến trạng thái định tĩnh, an ổn, nhưng điều đó không có nghĩa là loại định nào cũng khai thông được trí huệ Bát-nhă. Thiền định Du-già (Yoga) đưa hành giả đến trạng thái cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, nhưng không thể đi vào trí huệ Như Lai, v́ vậy gọi là Thiền ngoại đạo.

Xin dẫn một ví dụ dễ hiểu hơn:

Thuở xưa, có một vị thầy dạy đệ tử niệm Phật, nhưng khổ nỗi người này tánh hay quên, hễ dạy chữ sau th́ quên chữ trước, nên trải qua cả năm trời cũng không thuộc được danh hiệu Phật. Ngày nào cũng theo hỏi xin thầy nhắc lại, ban đầu thầy c̣n kiên nhẫn lặp lại nhưng măi rồi cũng sanh bực, thầy mắng "đồ ngu" và đuổi đi. Người đệ tử tưởng đó là danh hiệu Phật ngắn gọn dễ nhớ nên cứ thế mà lặp đi lặp lại: đồ ngu… đồ ngu…

Về sau, v́ thương nhớ đệ tử, thầy đi t́m, thấy anh ta đang rửa nồi cạnh bờ sông, miệng không ngừng niệm nho nhỏ, tư thái khoan thai, mặt mày thanh thản an lạc. Thầy vui ḷng lắm, bước đến hỏi: "Từ lâu nay con vẫn thường niệm Phật đấy ư?". Anh đáp: "Dạ, con nhiếp niệm không xao lăng". "Thế con niệm ǵ?". Anh thưa "Dạ, thầy đă dạy con hai chữ đồ ngu" Thầy chợt hiểu, thương hại giải thích: "Đó là tiếng mắng, không phải danh hiệu Phật." Đệ tử vỡ lẽ ra th́ trạng thái định của anh ta cũng tiêu mất và công đức cũng không c̣n.

Thế nên khi tâm duyên hệ chuyên nhất vào một cảnh, một chữ nào đó mà không móng khởi phân biệt th́ có thể sanh khởi một thứ định, dẫn đến một năng lực phi thường (như phái Du-già - Yoga - ở Ấn Độ niệm chỉ một chữ "Umh" mà đạt được năng lực ấy). Môn đồ Tịnh độ niệm danh hiệu Phật, nhờ Phật lực gia tŕ nên khi được định th́ thẳng vào cảnh giới Phật, đến lúc hoa sen nở th́ thấy Phật, ngộ vô sanh, vào tri kiến Phật, thành bực Bồ-tát bất thoái chuyển.

Thiền sư tuy không chú trọng vào sự gia tŕ ngoại hộ của Phật, Bồ-tát, nhưng họ đă được trang bị chánh kiến Phật Đà, được Minh sư khai thị và đến khi chứng đắc cũng phải cầu ấn chứng, nên không sợ lạc vào tà ma ngoại đạo. Những vị này tự phá vỡ bức tường vô minh, tự hiển lộ Bát-nhă trí, tự chứng tức tâm tức Phật.

1.2.3. Thiền tông và Tịnh độ tông đều là pháp tu Đại thừa: Gọi Đại thừa hay Bắc tông là nói đến sự giải thoát toàn thể: ḿnh/người, tâm/cảnh. Người tu Thiền cũng như tu Tịnh đều phát Bồ-đề tâm, trên th́ mong cầu Phật đạo được thành tựu viên măn, dưới th́ nguyện cứu độ chúng sanh. Ḿnh và tha nhân tuy không phải một, nhưng cũng không khác, nên làm sao ḿnh an vui được khi chung quanh mọi loài đang thống khổ? Người tu Tịnh độ, tự ḿnh tin vào bi nguyện của Phật, gắng sức tu hành lại c̣n gia công phát huy Đạo pháp. Về sự tướng th́ xây chùa, tạc tượng, cúng dường, bố thí, v.v...

Về lư tánh th́ hoằng dương Phật pháp, gieo rắc niềm tin vào thế giới An Dưỡng của Đức Phật A Di Đà, lập ra hội niệm Phật để cùng chung tu niệm, nguyện hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh đều được văng sanh Tịnh độ.C̣n Thiền gia, một khi tỏ ngộ Thiền cơ rồi cũng ra sức hoằng dương Chánh pháp, hưng Thiền hộ quốc. Tùy theo căn cơ, Thiền sư khi giảng pháp Hữu, khi nói pháp Vô và không ngần ngại dạy môn đồ, cư sĩ niệm Phật cầu văng sanh (như Ngài Vĩnh Minh, Đạo Xước, Đàm Loan, v.v...).

Đối với những bậc đại căn thượng trí, sau khi phá vỡ được thành tŕ chấp ngă rồi th́ tiến thêm một bước. Nhờ huệ nhăn ngày một sáng tỏ, các vị ấy thấu triệt thiệt tướng của vạn hữu: Nhất thiết duy tâm tạo. Do một tâm này mà có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhưng cũng một tâm này thôi mà có cảnh giới trời, người, Cực Lạc, Phật độ, v.v... thành ra tu mà không tu, đắc mà không có ǵ để gọi là chứng đắc, và độ tận chúng sanh mà thật ra không có chúng sanh nào được độ. Đó là giai đoạn Tâm Cảnh nhất như, Ngă Pháp song vong vậy.

Dù tu Thiền hay Tịnh, hành giả luôn luôn gắng gỏi công phu, trang nghiêm Giới đức để tiến tới cứu cánh viên măn là thành Phật, chớ không dừng lại ở những hóa thành phương tiện. Họ v́ lợi ích của chúng sanh mà phát nguyện tu hành, v́ gánh vác sự nghiệp Như Lai mà gia công hoằng truyền Chánh pháp. Thậm chí cũng không mong cầu về Cực Lạc để an hưởng, không trụ nơi Niết-bàn để được tịch diệt an nhiên. Các vị đi về trong 3 cơi 6 đường, tự tại vô ngại, tùy duyên diệu dụng, tùy nguyện độ sanh.

1.2.4. Thiền hay Tịnh đều cần Tam vô lậu học - Giới, Định, Tuệ: Phóng túng, phá chấp như Thiền gia vẫn lấy Giới luật làm căn bản v́ ngoài Giới ra, không cách chi thúc liễm thân tâm, không cách ǵ giữ được Giới thể trang nghiêm thanh tịnh. Giới là điều kiện cần thiết để góp phần giúp Thiền sinh vào Định. Từ Định mới đắc Huệ. Khi Định Huệ ngang bằng, công phu mới có kết quả.

Từ xưa đến nay, trong lịch sử Thiền tông, chưa ai vượt qua quy cách này mà đạt Đạo bao giờ. Tu Tịnh độ cũng do tŕ giới, giữ ǵn thân tâm thanh tịnh mà hành giả có thể chuyên chú niệm, tưởng, hầu đi đến nhất tâm. Từ nhất tâm bước vào Tam-muội (Samadhi) là Định và cuối cùng, khi Huệ trí được tỏ rạng là lúc thể nhập cùng tự tánh A Di Đà.

1.2.5. Trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền: Không những Thiền và Tịnh chỉ có vài điểm tương đồng kể trên, chúng ta c̣n t́m thấy Thiền trong Tịnh và Tịnh trong Thiền.

* Trong Thiền có Tịnh: Người tu Thiền phải thanh tịnh tâm ư, không để vọng tưởng quấy rầy, không dấy chứa phiền năo, tham, sân, si. Tâm không bợn nhơ, ư không vẩn đục, đó là tâm an tịnh rất cần thiết cho hành giả vậy. Hễ tâm tịnh th́ Phật độ tịnh. Cho dù Thiền gia không nguyện về Cực Lạc, không muốn về mười phương Tịnh độ, nhưng v́ sự chiêu cảm tương ứng giữa tâm và cảnh, Y báo và Chánh báo, họ vẫn tùy thời văng lai nơi những cơi nước thanh tịnh. Chỉ trừ khi v́ bổn nguyện độ sanh họ mới hóa thân nơi cơi Ta-bà ngũ trược ác thế mà thôi.

* Trong Tịnh có Thiền: Dĩ nhiên người tu Tịnh độ tới nơi tới chốn cũng không đi khác nẻo với Thiền gia. Niệm Phật, quán tưởng đến chỗ nhất tâm bất loạn là vào Thiền định. Đắc niệm Phật Tam-muội th́ trí huệ tự nhiên khai mở thông suốt như người tu Thiền do nơi Đại định mà ngộ Pháp tánh vậy.

Đến như Thật Tướng Niệm Phật th́ vào chỗ vô tướng, vô tác, vô trụ, thấu rơ chơn lư của vũ trụ nhân sinh, buông bỏ mọi chấp trước. T́nh không, cảnh không, đây cũng là mục tiêu của Thiền gia, muốn thành người vô sự. Bởi thế, tuy chỗ hạ thủ công phu của hai tông không giống nhau, nhưng nẻo về chỉ có một. Tới nơi cứu cánh viên măn th́ Thiền là Tịnh, Tịnh là Thiền. Cho nên cổ đức để lại bài tụng sau đây:

Tham thiền, niệm Phật bổn lai đồng
Khám phá phân minh tổng thị không
Công đáo tự nhiên toàn thể hiện
Xuân lai y cựu bá hoa hồng.Dịch nghĩa:

Tham thiền, niệm Phật xưa nay đồng
Nh́n rơ phân rành trọn thể không
Công đến tự nhiên toàn thể hiện
Xuân sang như cũ trăm hoa hồng.


Trong tâm chỉ giữ chặt hồng danh A Di Đà, niệm niệm tương tục nào khác ǵ kẻ khởi nghi t́nh, khán thoại đầu. Hoặc quán tưởng, quán tượng hay quán cảnh giới Cực Lạc th́ cũng như người tu thiền quán Tứ vô lượng tâm, tức nhiên công phu gồm đủ Chỉ, Quán. Ấy là trong Tịnh có Thiền vậy.




Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 4 of 11: Đă gửi: 29 September 2006 lúc 4:21am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner



Nếu các bạn nào thích thú th́ xin vào các trang Phật học mà đọc tiếp learner
Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Duc_Trung
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 21 June 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 47
Msg 5 of 11: Đă gửi: 29 September 2006 lúc 6:09am | Đă lưu IP Trích dẫn Duc_Trung

Bài này hay lắm. Cám ơn bác Learner.
Quay trở về đầu Xem Duc_Trung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Duc_Trung
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 6 of 11: Đă gửi: 11 October 2006 lúc 12:16am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Hỏi: Tu Tịnh Độ chết về Cực lạc, c̣n tu Thiền chết đi về đâu?

Đáp: Câu này thầy Thanh Từ đă trả lời rồi. Tu thiền cốt đạt đến chỗ vô sinh mà nay lại hỏi đi về đâu th́ vô lư. Người tu thiền chưa giác ngộ th́ tùy nghiệp tái sinh.

Riêng tôi th́ tôi thấy không nên hỏi tu thiền chết đi về đâu mà nên hỏi tu thiền sống đi về đâu?

Tại sao chúng ta cứ có quan niệm tu để sau này chết đi về đâu? Hoặc tu để sau này hết khổ. Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả. Tại sao không lo sống trọn vẹn ngày hôm nay mà cứ lo ngày mai?

Có một người đi làm nhiều tiền nhưng không dám ăn, không dám mặc. Anh ta nói: tôi để dành tiền để ngày mai ăn mặc no nê sung sướng. Nhưng sang này mai anh vẫn không dám ăn mặc và nói: tôi để dành tiền để ngày mai ăn mặc no nê sung sướng. Và cứ thế anh ta không bao giờ ăn mặc đầy đủ, v́ cái ngày ăn mặc no nê đầy đủ kia luôn luôn là ngày mai. Anh ta có đầy đủ tiền bạc nhưng sống chẳng khác kẻ nghèo đói.

Người tu Tịnh Độ yên chí sau khi chết ḿnh sẽ về cực lạc nên họ ưa thắc mắc không biết người tu Thiền chết đi về đâu? Nhưng đối với người tu Thiền, hiểu được tánh bất sinh bất diệt của các pháp th́ không có ǵ đi hay về, sống hay chết. Bởi vậy câu hỏi kia vô nghĩa đối với người tu thiền.

Theo tôi, người tu Tịnh Độ có hai hạng: lạc quan và yếm thế.

* Hạng yếm thế y cứ vào ngôn cú của kinh văn. Cơi Ta Bà là cơi ô trược, đau khổ (ngũ trược ác thế), cơi Cực Lạc là cơi cực kỳ sung sướng. Chủ trương của họ là yểm Ta Bà, hân tịnh độ, tức là chán ghét cảnh Ta Bà nơi đây và ưa thích cơi Cực lạc đàng kia.

Cuộc sống hiện tại ở đây không vừa ư, họ là những người thất chí, chồng phụ bạc, con bất hiếu, bạn lường gạt, đời hất hủi,..., thật là bất hạnh đau khổ. Đời họ chỉ thấy một màu đen tối ảm đạm. Những người tu như vậy nếu không phải chán đời th́ là ǵ?

Càng chán đời bao nhiêu th́ càng muốn về Cực lạc bấy nhiêu và nhờ đó sự tu niệm tín, nguyện, hạnh được tinh tấn. Họ chỉ mong sao rời bỏ cơi này càng sớm càng tốt. Tu như vậy có phải là muốn chết sớm hay không? Mà dù không chết sớm đi nữa, ở lại cơi này có vui thú ǵ!

* Hạng lạc quan: đây là những người hiểu được thế nào là tịnh độ, thế nào là cực lạc. Tâm tịnh th́ quốc độ tịnh, tâm lạc th́ thế giới lạc. Tịnh hay lạc ở ngay trong tâm ḿnh chứ không phải ở bên ngoài. Họ vượt qua sự đối đăi hai bên, bỏ đây t́m kia, ưa cái này ghét cái nọ. Họ không bỏ Ta Bà, chạy theo tịnh độ mà tịnh độ hóa ngay Ta Bà, chuyển Ta Bà thành tịnh độ. Nói cách khác là chuyển sự nhận thức của ḿnh, nâng tâm thức của ḿnh lên một tầng số khác. Được vậy th́ ngay ở đây đâu có thiếu ǵ bồ tát, thiện tri thức. Đề Bà Đạt Đa cũng là thiện tri thức của Phật kia mà! Hoặc nếu có cầu văng sinh về Cực Lạc th́ đó cũng là v́ chí nguyện độ sanh, muốn mau thành Phật để cứ độ chúng sinh, chứ không phải v́ yếm thế.

Đối với hạng người này th́ cuộc đời đáng sống và mang nhiều ư nghĩa. Họ hăng say phục vụ chúng sinh, đem lại an vui hạnh phúc cho ḿnh và người. Dù không được cực lạc, sung sướng 100% mà được an lạc 1 hay 2% họ cũng măn nguyện.

Các thiền sư thơng tay vào chợ, không sợ thị phi, đi vào cuộc đời cứu độ kẻ khác, chính là hạng người này.

Đa số người tu Tịnh Độ đều thuộc hạng thứ nhất. Tôi không nói đó là tốt hay xấu, mà chỉ nhận xét như vậy thôi. Ai tu kiểu nào cũng được, miễn có tu là tốt lắm rồi.

Hỏi: Thầy có nói trong băng Duy Thức là niệm Phật không nhất tâm th́ không văng sinh được?

Đáp: Niệm Phật không nhất tâm tức là những chủng tử Di Đà quá ít, quá yếu, không đủ sức khởi ra hiện hành thành y báo và chánh báo lúc lâm chung nên khó văng sinh được.

Hỏi: Nhưng có nhiều thầy dạy rằng trong ba điều: tín, nguyện, hạnh th́ tín và nguyện là quan trọng c̣n hạnh tức niệm Phật th́ chỉ quyết định cho quả vị cao thấp thôi. Nếu tín và nguyện mạnh th́ dù có niệm Phật ít đi nữa cũng được đới nghiệp văng sinh, hoặc hạ phẩm hạ sinh. Thầy nghĩ sao?

Đáp: Đúng. Nếu tín và nguyện mạnh th́ sẽ về Cực lạc .Nhưng làm sao cho ḷng tin và nguyện được mạnh? Đâu phải tin một lần hay nguyện một lần là đủ! Ta phải thường xuyên tin tưởng nơi sự tiếp độ của Phật Di Đà, thường phát nguyện hằng ngày cầu về cực lạc, như vậy tức là đang gieo những chủng tử tịnh độ Di Đà vào tàng thức.

Trường hợp hồi năy là nói những người không có tín, không có nguyện mà lại niệm Phật không nhất tâm th́ không văng sinh được.

Tu Tịnh độ không nhất thiết chỉ căn cứ vào sự niệm Phật. Quư thầy giảng Tịnh độ thường dựa vào kinh tiểu bổn Di Đà, tức là kinh Phật thuyết A Di Đà thường được tụng trong các buổi lễ cầu siêu, trong đó đức Phật nói người nào chấp tŕ danh hiệu Phật A Di Dà, từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn th́ khi lâm chung sẽ được Phật A Di Đà và thánh chúng hiện đến tiếp dẫn về cực lạc. Từ đó quư thầy dạy phải niệm Phật cho nhiều, nhiều thật nhiều để chắc chắn văng sinh. Chư tổ lại tùy phương tiện đặt ra sổ công cứ để khuyến khích sách tấn người niệm Phật. Đây là điều rất tốt, nhưng ngoài phương pháp niệm Phật ra, c̣n nhiều cách tu khác để về cực lạc!

Trong kinh Đại Bổn Di Đà tức Kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật Di Đà khi c̣n là Pháp Tạng tỳ kheo đă phát 48 lời nguyện, trong đó có ba lời nguyện (18,19,20) liên quan đến việc văng sinh:

* Lời nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh chí tâm tín mộ muốn sinh về cơi nước tôi cho đến mười niệm, nếu chẳng được sinh, th́ tôi không ở ngôi chánh giác.

* Lời nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh phát bồ đề tâm tu các công đức nguyện sinh về cơi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, th́ tôi không ở ngôi chánh giác.

* Lời nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sinh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cơi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sinh về cơi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, th́ tôi không ở ngôi chánh giác.

Qua ba lời nguyện trên, ta thấy nguyện thứ 18 nhấn mạnh về ḷng tin (tín), nguyện thứ 19 nhấn mạnh về sự mong ước, phát nguyện, nguyện thứ 20 nhấn mạnh về sự hồi hướng. Ngoài ra phải tu các công đức, nếu không có công đức th́ lấy ǵ hồi hướng! Nếu không có công đức mà phát nguyện th́ đó chỉ là nguyện suông, không có sức mạnh.

Tu các công đức ở đây chính là hạnh, nó bao gồm tất cả: ngồi thiền, tụng kinh,tŕ chú, niệm phật, bố thí, tŕ giới, ...và nhất là thương yêu cứu giúp kẻ khác, tất cả những việc vị tha, đem lại lợi ích cho ḿnh và cho người đều là công đức.

Ta có thể ngồi thiền hoặc tŕ chú rồi hồi hướng về cực lạc. Đi chợ thấy một bà cụ xách giỏ nặng, ta đến xách hộ rồi hồi hướng về cực lạc. Làm như vậy tức là tu theo lời nguyện thứ 20. Tu Tịnh độ kiểu này đâu có chán đời, đâu cần phải nhập thất ngồi yên niệm phật.

Ở Canada mùa đông trời tuyết giá băng, đi ra đường lạnh thấu xương, ta liền quán niệm như sau: ở đây trời lạnh buốt xương, thật là khổ cực, chẳng bằng ở cực lạc thời tiết ấm áp tùy theo ư ḿnh. Đi chợ nghe người ta căi nhau, ồn ào nhức óc, ta liền nhớ tưởng đến cảnh cực lạc, ở đó toàn là thiện tri thức nói năng hoà nhă, gió thổi cây reo đều phát ra tiếng nhạc êm dịu.

Quán tưởng như thế rồi liền phát nguyện sinh về cực lạc. Đó là tu theo lời nguyện thứ 19. Tu như vậy, đi vào bất cứ cảnh giới nào của Ta Bà, ta cũng nhớ đến cực lạc. Luôn nhớ cơi cực lạc th́ khi chết sẽ về cực lạc, đâu cần phải vào chùa mua h́nh mua tượng phật Di Đà đem về treo đầy nhà.

Ngoài hai kinh Di Đà nói trên c̣n có kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong đó đức Phật dạy cho hoàng hậu Vi Đề Hy 16 phép quán để văng sinh về cực lạc. Thí dụ phép quán thứ nhất: quán mặt trời lặn phương tây. Ở Montréal quư vị có thể vào parc Mont-Royal mùa hè ngắm nh́n mặt trời lặn mà vẫn tu được, thấy những hồ nước tĩnh lặng liền nhớ đến ao sen (liên tŕ) ở cực lạc, nghe tiếng chim hót liền nhớ đến các loài chim quư của kinh Di Đà...

Mùa hè ḿnh nên cởi giầy đi chân không trên cỏ để tiếp xúc với mặt đất, với thảm cỏ xanh mát và quán tưởng ḿnh đang bước đi trên những hoa sen. Đâu ai cấm ḿnh làm điều đó Quư vị không làm được v́ cho rằng như thế là tưởng tượng. Trong khi đó quư vị đâu có hay là ḿnh vẫn thường đi trên đường với những bước chân nặng trĩu lo âu, với hai vai gánh nặng cuộc đời. Cái đó không ai bắt buộc mà sao quư vị vẫn cứ làm?

Thật đúng là 'thiên đàng hữu lộ vô nhân vấn, địa ngục vô môn hữu khách tầm'.

Quư vị nhớ, tu tịnh độ có nhiều cách thức để tu, không nhất thiết phải lần tràng niệm hạt mới gọi là tu. Nhiều người tu tịnh độ sinh ra cau có, bực bội với chồng con v́ phải lo cho chồng con nên không c̣n th́ giờ niệm Phật. Nếu quan niệm như vậy th́ sẽ không bao giờ có th́ giờ tu, mà dù có ráng tu đi nữa th́ tâm cũng khó được an.



Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
Learner
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 673
Msg 7 of 11: Đă gửi: 11 October 2006 lúc 12:20am | Đă lưu IP Trích dẫn Learner


Hỏi: Trong một cuốn băng, thầy có nói trẻ mà tu Tịnh độ th́ uổng quá.

Đáp: Trẻ mà tu Tịnh độ theo kiểu người già th́ hơi uổng, v́ không thích hợp nên khó tu dài lâu. Người già, việc đời đă xong, không c̣n phải lo sinh nhai kiếm sống, không c̣n phải lo cho con cái, chỉ cần ngồi yên niệm phật, chờ ngày ra đi về hương quê cực lạc. Nếu tu chăm chỉ, một ngày qua là một ngày sớm về cực lạc cho nên họ càng tin tưởng tinh tấn. Nếu trẻ mà tu như vậy có khác ǵ cầu chết sớm. Càng tu như thế càng dễ chán đời, v́ trước sau ǵ cũng về tịnh độ, đi làm đi ăn làm chi, cuộc đời này đâu có vui thú ǵ.

Nếu trẻ mà về cực lạc th́ vợ con để lại ai nuôi? Người già đâu c̣n công nợ ǵ nữa, trong khi đó người trẻ c̣n phải lo làm ăn sinh sống, lo trả tiền nhà, tiền thuế, tiền xe,v.v...

Hỏi: Nhưng đời vô thường, vẫn có nhiều người trẻ chết sớm.

Đáp: Đúng. Vẫn có nhiều người trẻ chết sớm, nhưng dù ngày mai có bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử đi nữa, ngày hôm nay vẫn c̣n phải đi làm nuôi vợ con, nuôi gia đ́nh,v.v... Chỉ trừ người trẻ nào bệnh nặng sắp chết như sida hay cancer nằm liệt giường liệt chiếu th́ nên tu theo mấy người già, nằm yên hoặc ngồi yên nhắm mắt niệm Phật chờ về cực lạc. Chính tôi, lúc bị bệnh nặng, thấy cái chết kề bên, cũng nằm yên nhắm mắt niệm Phật, v́ lúc đó kiệt sức quá không làm ǵ khác hơn được.

Hỏi: Như vậy th́ người trẻ phải tu Tịnh độ theo kiểu nào?

Đáp: Tu Tịnh độ theo kiểu yêu đời chứ không phải chán đời mà tu. Vui sống để tu hành, tu hành để bớt khổ và hết khổ ngay tại nơi đây. Càng hết khổ th́ càng vui sống, càng vui sống th́ càng thích tu v́ thấy sự tu có hiệu quả ngay trong hiện tại. Tu Tịnh Độ đúng như lời Phật dạy :

Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ư, thị chư Phật giáo.


Tu Tịnh Độ bằng cách thanh lọc tâm ư của ḿnh, sống từ bi hỷ xả, đem lại an vui hạnh phúc cho ḿnh và kẻ khác, biết thương yêu và tha thứ, không nuôi duỡng hận thù. Và thường hồi hướng công đức cầu sinh Cực Lạc, để được gặp Phật nghe Pháp, gần chư Bồ Tát tu hành, sớm thành đạo quả để trở lại cơi Ta Bà này cứu độ cha mẹ anh em.

Hỏi: Thầy có nói đem Tịnh độ về Ta Bà là sao?

Đáp: Đó là một cách nói. Ta có thể sống theo thời khóa biểu của Tịnh độ, theo nhịp sinh hoạt của dân Tịnh độ ngay tại Ta Bà này. Chúng ta tập sống như người ở Tịnh độ. Thí dụ: ở thế giới Cực lạc ăn cơm trưa xong mọi người đi kinh hành, th́ ở đây ăn cơm xong ḿnh cũng đi kinh hành niệm Phật. Nếu đi làm ăn cơm ở sở, ăn xong ḿnh cũng dành ra năm, mười phút đi kinh hành niệm Phật. Buổi chiều ở Cực lạc, ai nấy đều trở về an trú nơi bông sen của ḿnh th́ ở đây (Ta Bà) quư vị trở về nhà ngồi trên nệm của ḿnh hít thở lắng tâm rồi niệm Phật, quán tưởng ḿnh đang ngồi trên một hoa sen, điều này ḿnh có thể làm được, đâu ai cấm, chỉ v́ tâm ḿnh lười biếng quen nghĩ lung tung chyện đời, không quen quán tưởng h́nh phật, hoa sen, v.v... Quư vị nên tập quán tưởng theo 16 phép quán của kinh Vô lượng Thọ rồi đem ra áp dụng vào đời sống hằng ngày.

Sáng sớm thức dậy đi dạo công viên nghe chim hót, ta liền nhớ lại ở cực lạc cũng có chim bạch hạc, anh vũ, ca lăng tần già, v.v... hót tiếng ḥa nhă nói pháp. Ở Ta Bà này cũng có chim sẻ, chim bồ câu, chim sáo,v.v... có thể không đẹp bằng những loài chim kia, nhưng nếu nh́n kỹ chúng cũng dễ thương, cũng hót líu lo chào mừng ngày mới, và nếu tâm ta không nặng trĩu lo âu, buồn phiền th́ ta cũng có thể ḥa nhịp với vũ trụ và trong một thoáng giây nào đó ta thoát khỏi cái ngă nhỏ bé sinh diệt này và ta có mặt mọi nơi.

Người ngoài nh́n thấy ta ngồi trên cỏ hay trên ghế, nhưng trong tâm ta, ta thấy ḿnh đang ngồi trên hoa sen. Người ngoài nh́n thấy ta đang đi trên đường tráng nhựa, nhưng trong tâm ta đang đi từng bước trên hoa sen đủ màu tùy theo ư thích. Trên đường lái xe đến chùa nghe pháp, ta ư thức được ḿnh cũng giống như dân cực lạc bay đi mười phương nghe Phật thuyết pháp. Thân tuy c̣n ở đây (Ta Bà) nhưng tâm thức ḿnh đang sống cảnh Tịnh độ. Tịnh độ hay Ta Bà hoàn toàn tùy ở sự nhận thức (perception). Người đời nh́n đâu cũng thấy sầu bi, uế trược, chán đời, c̣n ḿnh nh́n đâu cũng thấy sự vật chẳng khác cực lạc. Nhờ quán tưởng và nhận thức như vậy, tâm thức của ta được lên một tầng số rung động khác, tương ưng với nhịp rung của dân cực lạc. Nếu được vậy, khi chết chắc chắn sẽ về cực lạc. Chết về cực lạc mà ngay trong lúc sống cũng không rời Tịnh độ, tâm hồn an vui, thanh thoát, không hệ lụy. Như thế có vui hơn không hay là lúc nào cũng phải chán đời (yểm Ta Bà) mới về cực lạc được!

Hỏi: Thế nào là tâm tịnh th́ Phật độ tịnh?

Đáp: Khi tâm ḿnh hoàn toàn thanh tịnh th́ nơi ḿnh đang ở sẽ trở thành thanh tịnh như một cơi Phật. Đây là một vấn đề chuyển hóa nhận thức. Nói có vẻ dễ nghe, nhưng không dễ làm. Tâm tịnh của hàng A La Hán như Xá Lợi Phất cũng c̣n thấy cơi Ta Bà này là bất tịnh, ít nhất phải như cỡ Bồ Tát Duy Ma Cật, Văn Thù, Quan Âm th́ mới thấy Ta Bà chẳng khác Tịnh Độ.

Hỏi: Về cực lạc rồi, có ra khỏi lục đạo chưa hay là sẽ phải trở lại lục đạo nữa?

Đáp: Về cực lạc rồi th́ được xem như ra khỏi lục đạo nhưng sẽ phải trở lại lục đạo. Cực lạc cũng tương đương như hóa thành của kinh Pháp Hoa. Về cực lạc ta sẽ sống rất lâu (vô lượng thọ) nhưng không có nghĩa là không chết (bất tử). Nhờ sống rất lâu và chung quanh có chư bồ tát, thanh văn, thiện tri thức sách tấn tu hành nên chắc chắn sẽ chứng được quả vị bất thối bồ tát. Trường sinh nhưng không bất tử, chính đức Phật Di Đà cũng sẽ nhập niết bàn, sau đó Quan thế Âm bồ tát sẽ thành Phật ở cơi cực lạc, kế tiếp đến Đại thế Chí bồ tát thành Phật.

Sau khi chứng được quả vị Sơ địa bồ tát hoặc bất thối bồ tát, ta sẽ tùy nguyện thọ sinh hay hóa sinh. Có thể tái sinh lại ở cực lạc hoặc một cơi tịnh độ nào khác, hoặc trở lại Ta Bà cứu độ chúng sinh và cứ thế tiếp tục cho đến quả vị Nhất Sinh Bổ Xứ. Từ quả vị bồ tát cho đến khi thành Phật đương nhiên phải trở lại lục đạo để hóa độ chúng sinh.

(Góp Nhặt - Thích Trí Siêu)

Quay trở về đầu Xem Learner's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Learner
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 8 of 11: Đă gửi: 13 October 2006 lúc 9:53am | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

Learner đă viết:

Thiền Tịnh song tu

Ni Trưởng Thích nữ Như Thanh

1. NHỮNG ĐIỂM DỊ BIỆT VÀ TƯƠNG ĐỒNG
GIỮA THIỀN VÀ TỊNH




Theo quan niệm của Thiền Phật giáo th́ vạn hữu đều do tâm sinh khởi (Vạn pháp duy tâm) cho nên khi nắm được cái tâm th́ làm chủ được tất cả; thành ra phương thức duy nhất, thẳng tắt là hồi quang phản chiếu, không t́m cầu bên ngoài, không dựa vào tha lực.

Phật không có trong núi, cũng không có trong sách vở nên không cần lễ bái, không lập văn tự, chỉ cần Minh sư trực chỉ cho Thiền sinh trực ngộ, tâm tâm tương ứng th́ mạch Thiền sẽ được lưu truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi mạch Thiền tươi nhuận th́ Phật giáo thịnh hành, đất nước ḥa b́nh, nhân dân an lạc; khi nguồn Thiền cạn khô th́ Đạo Phật suy vi và kéo theo sự lầm than cơ cực, hỗn loạn đảo điên cho nhân quần xă hội.

Ngài Huệ Viễn thời Nam Tống ở Trung Hoa, sau khi chứng ngộ Thiền cơ, quán sát căn tánh chúng sanh đương thời, thấy đây là lúc nên xiển minh Tịnh độ, khởi xướng tông phái trọng yếu của Đạo Phật thành hệ thống rơ ràng, lư sự đầy đủ.
......




Chào bạn Learner ,

Đạo Phật bị chết dần ṃn cũng v́ những lư luận phát triển sau này . Do bị ảnh hưởng của Đạo Hindu thâm nhập mới thấy thâm ư của ngọai đạo ngày xưa khi muốn tiêu diệt dần một tôn giáo .

Thật ra không có khái niệm tâm thức th́ vũ trụ muôn ḷai đă có từ muôn đời hàng tỷ tỷ năm rồi . Và tâm thức chính là con đường qua đó để đi đến giải thóat và khi sở đắc đạo th́ tâm thức cũng biến mất không tồn tại thực .
Bất cứ ai đề cao một pháp môn nào đều là phiến diện nếu cho không t́m cầu bên ng̣ai tha lực mà chỉ biết tâm của ḿnh . Pháp môn Tịnh Độ rất linh hiển hầu hết đều dùng tha lực , hay như Mật tông nhiệm mầu cũng dùng tha lực của Chư Phật .

Việc lư luận bác bỏ ĐỨC PHẬT không cần lễ bái Ngài làm tổn phước nặng từ bao đời cho bá tánh . Bởi không có lời của ĐỨC PHẬT th́ cho đến nay chưa có bất kỳ một vị Đại Sư nào sau này tự sở ngộ được Phật Pháp . ĐỨC PHẬT là người khai sáng và cả nhân lọai muôn dời đều biết ơn công đức vô biên của Ngài . Mất ḷng tôn kính ĐỨC PHẬT mà chỉ biết dựa vào tâm th́ đă nghiêng lệch Đạo Phật . Việc đề cao chân tâm quá mức này đă dẫn đến ngă mạn phát sinh bao đời nay , làm thối đọa không biết bao nhiêu bá tánh .

Người xưa thánh đức đă tu qua nhiều kiếp nên đi thẳng vào Thiền trực chỉ nhân tâm . Đời sau căn cơ chúng sinh thấp dần tạo ác nghiệp nhiều hơn thiện nghiệp mà cứ ư cứ như vậy th́ tai họa khôn lường . Phải biết sử dụng tất cả các pháp môn theo lời của ĐỨC PHẬT theo căn cơ , nghiệp lực của ḿnh tùy thuận mà hành tu phù hợp th́ mới có con đường giải thóat an lạc .

Vũ Ḥang Chương

Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
vun_vo
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 02 September 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1149
Msg 9 of 11: Đă gửi: 13 October 2006 lúc 5:41pm | Đă lưu IP Trích dẫn vun_vo

Sao 2 bác cứ tranh căi nhau hoài thế ,học thuật cũng như căn cơ về đạo chĩ để tâm thanh ,ư tịnh cho cuộc sống đẹp và ư nghiă thôi 2 bác ơi !
Chúc 2 bác cuối tuần vui và tin tấn trên đường dài học đạo
vun_vo

__________________
hạnh phúc từ đôi tay
tương lai từ tri thức
góp vào, vun vô, ǵn giữ
Quay trở về đầu Xem vun_vo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vun_vo
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 10 of 11: Đă gửi: 15 October 2006 lúc 3:56am | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

Kính bạn Vun Vo ,

Có lẽ bạn đă hiểu không đúng v́ tôi nói về tác giả bài viết mạn đàm đôi ḍng chứ không tranh luận với bạn Learner .
=====================================================
Tác giả đă viết như sau :
" Phật không có trong núi, cũng không có trong sách vở nên không cần lễ bái, không lập văn tự, chỉ cần Minh sư trực chỉ cho Thiền sinh trực ngộ, tâm tâm tương ứng th́ mạch Thiền sẽ được lưu truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác ... "
=====================================================
Góp ư :
* Việc bác bỏ không cần lễ bái ĐỨC PHẬT của thế hệ hậu sinh giống như học tṛ mà phản phúc Thầy vậy . V́ tự cho tâm ḿnh đang là Phật hay ḿnh đang là Phật , đó chỉ là ảo tưởng , tổn phước rất nặng . Nhân loại muôn đời luôn ghi nhớ công ơn khai sáng của ĐỨC PHẬT với ḷng từ bi bao la của Ngài .
* Việc bác bỏ kinh điển , bất lập văn tự vậy th́ Đạo Phật sẽ không c̣n tồn tại đến ngày nay được . Kinh điển là lời của ĐỨC PHẬT , trong giai đoạn đầu của việc tu tập luôn cần có kinh điển soi dẫn cho chúng sinh . Năng lực của lời ĐỨC PHẬT nhiệm mầu không thể nghĩ bàn , pháp môn Tịnh Độ và Mật Tông th́ hiểu rơ điều này qua bao đời .
* Minh Sư hậu sinh sau này th́ dù có tu bao nhiêu kiếp , dù có cao ǵ th́ cao cũng phải thấp hơn ĐỨC PHẬT là điều tất yếu . Các Đạo Sư do căn cơ thấp hơn ĐỨC PHẬT nên khi học pháp của ĐỨC PHẬT th́ chỉ chứng đắc một pháp môn nào đó và cũng chỉ giảng được về pháp môn theo sự chứng đắc đó .ĐỨC PHẬT là Giáo chủ khai sáng , là Thầy của Trời Người nên thuyết giảng toàn diện , mở ra một con đường cho chúng sinh giải thoát an lạc .
Nếu chỉ cho rằng chỉ cần Minh Sư chỉ cho Thiền Sinh th́ trực ngộ , rồi bác bỏ ĐỨC PHẬT , phủ nhận kinh điển không cần văn tự . Vậy th́ Minh Sư đó học Pháp từ đâu ? nếu xa rời cội nguồn th́ đă đi ra ngoài Đạo Phật . Hay v́ quá đề cao , cổ xúy cho pháp môn của ḿnh là tối thắng th́ dù đang ở trong Đạo Phật cũng đă chệch hướng mà không biết .
Vài ḍng đóng góp mạn đàm .

Vũ Hoàng Chương
   



Sửa lại bởi vuhoangnguyen : 15 October 2006 lúc 3:58am
Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
vun_vo
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 02 September 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1149
Msg 11 of 11: Đă gửi: 15 October 2006 lúc 5:03am | Đă lưu IP Trích dẫn vun_vo

vuhoangnguyen đă viết:
Kính bạn Vun Vo ,

Có lẽ bạn đă hiểu không đúng v́ tôi nói về tác giả bài viết mạn đàm đôi ḍng chứ không tranh luận với bạn Learner .
====================================================

Vũ Hoàng Chương
   



Xin Kính chúc các bác ngày càng tin tấn và thanh tâm an lạc các tường
vun_vo

__________________
hạnh phúc từ đôi tay
tương lai từ tri thức
góp vào, vun vô, ǵn giữ
Quay trở về đầu Xem vun_vo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vun_vo
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.0474 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO