Tác giả |
|
anhhaoquang Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 15 June 2006 lúc 2:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
PHẨM THỨ CHÍN: TÀ
CHÁNH
- Lúc bấy giờ, ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Bốn thứ người như đă nói trên cần
phải y chỉ sao?
Đức Phật dạy rằng :
- Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này thiện nam tử ! Đúng như ta đă
nói, cần phải y chỉ ! V́ sao vậy ? V́ có bốn loại ma. Những ǵ là bốn ? Đúng
như lời nói của ma, các Kinh luật khác có thể thọ tŕ.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật đă nói, có bốn thứ ma
th́ như lời nói của ma và lời nói của đức Phật con làm sao mà phân biệt được ?
Có những chúng sinh theo đuổi ma hạnh, lại có chúng sinh thuận theo lời dạy của
đức Phật. Những bọn như vậy lại làm sao biết được ?
Đức Phật dạy rằng :
- Này Ca Diếp ! Sau khi ta vào Niết Bàn bảy trăm năm th́
ma ba Tuần này dẫn dần sẽ hủy hoại, nhiễu loạn chánh pháp của ta. Ví như người
thợ săn thân mặc pháp phục, Ma vương Ba Tuần cũng lại như vậy, hóa làm h́nh
dáng Tỳ kheo, h́nh dáng Tỳ kheo ni, h́nh dáng Ưu bà tắc, h́nh dáng Ưu bà di.
Vua ma cũng lại hóa làm thân Tu đà hoàn... cho đến hóa làm thân A la hán và sắc
thân của đức Phật. Ma vương dùng h́nh tướng hữu lậu này hóa làm thân vô lậu mà
hủy hoại chánh pháp của ta. Khi ma Ba Tuần này hủy hoại Chánh pháp th́ sẽ nói
lên rằng : “Đức Bồ tát khi xưa ở trên cơi trời Đâu Suất mất đi, hiện đến cung
vua Bạch Tịnh tại thành Ca Tỳ La này, nương vào cái nhân ái dục ḥa hợp của cha
mẹ mà sinh ra, nuôi lớn thân này. Nếu nói rằng, có người sinh ra trong loài
người mà được sự cung kính của đại chúng trời người các thế gian th́ không có
điều đó”. Lại nữa, ma c̣n nói rằng : “Thuở xưa đức Bồ tát khổ hạnh đủ thứ, bố
thí đầu, mắt, năo, tủy, đất nước, thành quách, vợ con nên hôm nay được thành
Phật đạo. Do nhân duyên này nên được sự cung kính của những trời, người, càn
thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già”. Nếu có Kinh luật nói lời
nói này th́ ông phải biết đó là lời nói của ma.
Này thiện nam tử ! Nếu có Kinh luật nói lời như vầy : “Đức
Như Lai Chánh Giác thành Phật đă lâu, nay ngài phương tiện thị hiện là v́ muốn
độ thoát các chúng sinh. Ngài thị hiện có cha mẹ nương vào nhân ái dục ḥa hợp
mà sinh ra. Ngài thuận theo thế gian tạo tác sự thị hiện này”. Kinh luật nói
như vậy th́ ông phải biết, đó quả thật là lời nói của Như Lai. Nếu có người
thuận theo lời nói của ma th́ chính là quyến thuộc của ma. Nếu có người có thể
thuận theo lời nói của Phật th́ tức là Bồ tát.
Nếu có người nói rằng, Như Lai ra đời, ở mười phương diện,
đều đi bảy bước. Không thể tin điều đó là lời nói của ma. Nếu có người lại nói
rằng, Như Lai ra đời, ở mười phương diện đều đi bảy bước, đó là phương tiện thị
hiện của Như Lai. Đó gọi là lời nói Kinh luật của Như Lai. Nếu có người thuận
theo lời nói của ma th́ chính là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận
theo lời nói của Phật th́ tức là Bồ tát. Nếu có người nói rằng, Bồ tát sinh ra
rồi vua cha sai người đem đến miếu thờ trời, chư thiên thấy rồi đều sụp xuống
lễ kính. Vậy nên gọi là Phật. Lại có người nạn vấn rằng, trời xuất hiện trước,
Phật ở sau họ th́ tại sao chư Thiên lễ kính đối với Phật ? Kẻ đặt ra vấn nạn đó
th́ ông phải biết đó tức là lời nói của ma Ba Tuần.
Nếu có Kinh nói rằng, Phật đến miếu thờ trời th́ chư
Thiên, Ma Ê Thủ La, Đại Phạm Thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân.v.v... đều chắp
tay cung kính làm lễ dưới chân Phật. Kinh luật nói như vậy th́ chính là lời nói
của Phật. Nếu có người thuận theo lời nói của ma th́ chính là quyến thuộc của
ma. Nếu người có thể thuận theo lời nói của Phật th́ tức là Bồ tát. Nếu có Kinh
luật nói rằng, Bồ tát khi làm thái tử, v́ dục tâm nên khắp bốn phương t́m hỏi
vợ, ở tại thâm cung tự vui sướng hưởng thụ lạc. Kinh luật như vậy là lời nói
của ma Ba Tuần.
Nếu có nói rằng, Bồ tát từ lâu đă ĺa bỏ dục tâm, vợ con,
quyến thuộc... cho đến chẳng hưởng thụ năm dục thượng diệu của trời Ba mươi ba
như nhổ bỏ nước bọt, huống ǵ là sự ham muốn của loài người. Ngài cạo bỏ râu
tóc xuất gia tu đạo. Kinh luật nói như vậy th́ chính là lời nói của Phật. Nếu
có người thuận theo Kinh luật của ma th́ chính là quyến thuộc của ma. Nếu có
người thuận theo Kinh luật của Phật th́ tức là Bồ tát.
Nếu có người nói rằng, đức Phật ở tinh xá Kỳ Đà (Hoàn) tại
nước Xá Vệ, cho phép các Tỳ kheo nhận nuôi nô tỳ, người sai khiến, trâu dê, voi
ngựa, lừa la, gà heo, mèo chó, vàng bạc, lưu ly, trân châu, pha lê, xa cừ, mă
năo, san hô, hỗ phách, kha cụ, bích ngọc, nồi chơ bằng đồng bằng sắt, mâm đồng
lớn nhỏ... những vật cần dùng, cày ruộng, gieo trồng, buôn bán, trao đổi, tích
trữ lúa gạo... Mọi việc như vậy, do đức Phật từ bi, thương xót chúng sinh
nên đều cho phép gom chứa. Kinh luật nói như vậy đều chính là ma nói.
Nếu có người nói rằng, đức Phật ở chỗ sở trụ của quỉ Na Lê
Lâu tại tinh xá Kỳ Đà nước Xá Vệ, bấy giờ đức Như Lai, nhân Bà la môn tự là Cổ
Đê Đức và vua Ba Tư Nặc, nói rằng : “Này Tỳ kheo ! Chẳng nên nhận nuôi chứa
vàng bạc, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mă năo, san hô, hỗ phách, kha cụ,
bích ngọc, nô tỳ, người sai khiến, đồng nam, đồng nữ, trâu dê, voi ngựa, lừa
la, heo gà, mèo chó.v.v... nồi chơ bằng đồng bằng sắt, mâm đồng lớn nhỏ, đủ loại
tạp sắc giường nằm, trải ngoại cụ, đồ cần dùng trong cuộc sống. Nào là nhà cửa,
cày ruộng, gieo trồng, buôn bán, trao đổi, tự tay làm ra đồ ăn, tự mài dũa, tự
đâm giă, chú thuật sữa trị thân, phương pháp điều phục chim ưng, ngước xem tinh
tú (xem bói toán), đoán vận đầy vơi, xem tướng nam nữ, giải mộng kiết hung, là
nam, là nữ, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, sáu mươi tư khả năng, lại có mười
tám thứ chú thuật mê hoặc người, đủ thứ nghề khéo. Hoặc nói vô lượng việc tục
của thế gian, tung rải hương bột, hương xoa, hương xông, đủ loại ṿng hoa cài
tóc, phương thuật sửa trị tóc, gian ngụy, dua nịnh quanh co, tham lợi không
chán, ưa thích náo nhiệt, nói năng cười giỡn, ham thích thịt cá, ḥa hợp độc
dược, trị yểm dầu thơm, nắm giữ bảo cái và cả giày da, chế tạo quạt, tủ, ḥm,
đủ thứ h́nh vẽ, gom chứa lúa gạo, đậu ḿ lớn nhỏ và những quả trái, gần gũi
quốc vương, con vua, đại thần và các nữ nhân lớn tiếng cả cười hoặc lại lặng
thinh, ở trong các pháp sinh ra nhiều nghi hoặc, nhiều lời dối nói dài ngắn,
đẹp xấu, hoặc thiện hay chẳng thiện, ưa mặc áo đẹp... đủ thứ những điều bất
tịnh như vậy. Ở trước thí chủ, thân ḿnh tự khen, du hành ra vào những chỗ bất
tịnh như là quán rượu, nhà dâm nữ, ṣng bài bạc... Những người như vậy ta nay
chẳng cho phép ở trong hàng Tỳ kheo, cần phải ngưng tu đạo trở về làm người sai
việc của thế tục, ví như cỏ lồng vực, bông kê đều diệt, không c̣n. Ông phải biết
sự cấm chế của Kinh luật này.v.v... đều chính là lời nói của Như Lai vậy. Nếu
có người thuận theo lời nói của ma th́ chính là quyến thuộc của ma. Nếu có
người thuận theo lời nói của đức Phật th́ tức là Bồ tát.
Nếu có người nói rằng, đức Bồ tát muốn cúng dường thiên
thần nên vào miếu thờ trời như là nơi thờ trời Phạm, trời Đại Tự Tại, trời Vi
Đà, trời Ca chiên diên... Sở dĩ vào đó là v́ ngài muốn điều phục chư thiên. Nếu
chẳng nói vậy th́ không có điều đó. Nếu nói rằng, Bồ tát chẳng thể vào với tà
luận ngoại đạo, biết được uy nghi, văn chương, kỹ nghệ của tà luận ấy, cùng với
kẻ sai khiến đấu tranh chẳng ḥa hợp, chẳng được sự cung kính của nam, nữ, quốc
vương, đại thần. Lại nữa ngài cũng chẳng biết ḥa hợp các thảo dược, v́ chẳng
biết nên mới gọi là Như Lai. Như những người biết ấy th́ chính là bọn tà kiến.
Lại nữa, Như Lai đối với kẻ oán, người thân ḷng luôn b́nh đẳng. Như người dùng
dao cắt và người dùng hương xoa thân. Đối với hai người này ngài chẳng sinh ra
ḷng tăng thêm hay ḷng giảm bớt. Ngài chỉ ở mực giữa nên gọi Như Lai. Kinh luật
nói như vậy th́ ông phải biết đó là lời nói của ma.
Nếu có người nói rằng, đức Bồ tát thị hiện như vậy, vào
trong pháp ngoại học, miếu thờ trời, xuất gia tu đạo, thị hiện biết những uy
nghi, lễ tiết ấy, có thể giải được tất cả văn chương, kỹ nghệ, thị hiện thư
đương (nhà đọc sách), chỗ kỹ xăo, có thể giỏi ḥa hợp với những kẻ sai khiến
đấu tranh. Ở trong các đại chúng, đồng nam, đồng nữ, phi hậu của hậu cung, nhân
dân, trưởng giả, Bà la môn, quốc vương, đại thần và kẻ bần cùng.v.v... th́ ngài
là tối tôn, tối thượng. Ngài lại được sự cung kính của những người đó. Ngài
cũng có thể thị hiện những việc như vậy. Ngài tuy ở với các kiến nhưng chẳng
sinh ra ái tâm, giống như hoa sen chẳng thọ trần cấu. V́ độ tất cả các chúng
sinh nên ngài giỏi làm đủ thứ phương tiện như vậy để thuận theo pháp của thế
gian. Kinh luật nói như vậy th́ ông phải biết đó tức là lời nói của Như Lai.
Nếu có người thuận theo lời nói của ma th́ chính là quyến thuộc của ma. Nếu
người thuận theo lời nói của Phật th́ đó là Đại Bồ tát. Nếu có người nói rằng, đức
Như Lai v́ ta mà giải nói Kinh luật. Nếu tội nặng nhẹ trong ác pháp và thâu lan
già mà tính ấy đều nặng th́ trong Luật chúng ta nhất định chẳng là thế. Ta từ
lâu đă nhận thọ pháp như vậy mà các ông chẳng tin th́ ta sao phải tự bỏ luật
của ḿnh theo luật các ông vậy ? Luật vốn có của ông là lời nói của ma. Kinh
luật của chúng ta chính là đức Phật đă chế ra. Đức Như Lai trước đă nói chín bộ
pháp ấn. Chín ấn như vậy ấn chứng Kinh luật của ta mà bắt đầu chẳng nghe có một
chữ, một câu của Kinh điển Phương Đẳng. Đức Như Lai đă nói vô lượng Kinh luật
mà chỗ nào có nói đến Kinh Phương Đẳng vậy? Như vậy trong Phương Đẳng chưa từng
nghe có tên mười bộ Kinh. Như trong ấy có th́ phải biết, nhất định là sự tạo
tác của ông Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa). Người ác Điều Đạt v́ muốn tiêu diệt thiện
pháp nên tạo ra Kinh Phương Đẳng, chúng ta chẳng tin. Như vậy Kinh Phương Đẳng
chính là lời nói của ma. V́ sao vậy ? V́ phá hoại Phật pháp, tranh nhau phải,
trái. Lời nói như vầy : trong Kinh của ông có, trong Kinh của ta không. Trong Kinh
luật của ta đức Như Lai nói rằng, sau khi ta (Phật) Niết Bàn, ở đời ác sẽ có
Kinh luật bất chính như là Kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, ở đời vị lai sẽ có
những ác Tỳ kheo như vậy. Ta lại nói rằng, qua chín bộ Kinh có Kinh điển Phương
Đẳng. Nếu có người có thể rơ biết nghĩa của Kinh ấy th́ phải biết, người đó rơ
biết chân chánh Kinh luật, xa ĺa tất cả vật bất tịnh, thanh tịnh vi diệu giống
như vầng trăng tṛn đầy. Nếu có người nói rằng, Như Lai tuy v́ mỗi một bộ Kinh
luật diễn nói nghĩa vị nhiều như cát sông Hằng nhưng trong Luật của ta không có
th́ phải biết là không. Như điều ấy có th́ tại sao đức Như Lai, ở trong luật
của ta mà không giải nói. Vậy nên ta nay chẳng thể tín thọ. Ông phải biết là
người này bị đắc tội. Người này lại nói rằng, Kinh luật như vậy ta phải thọ
tŕ. V́ sao vậy ? V́ Kinh sẽ v́ ta tạo tác cái nhân thiện pháp tri túc, thiểu
dục, trừ phiền năo, trí tuệ, Niết Bàn. Người nói như vậy th́ chẳng phải là đệ
tử của ta (đức Phật).
Nếu có người nói rằng, đức Như Lai v́ muốn độ chúng sinh
nên nói Kinh Phương Đẳng th́ phải biết người này thật là đệ tử của ta. Nếu có
người chẳng thọ Kinh Phương Đẳng th́ phải biết người này chẳng phải là đệ tử
của ta, chẳng v́ Phật pháp mà xuất gia, tức là đệ tử của tà kiến ngoại đạo.
Kinh luật nói như vậy chính là lời nói của Phật, nếu chẳng như vậy tức là lời
nói của ma. Nếu có người thuận theo lời nói của ma th́ đó là quyến thuộc của
ma. Nếu có người thuận theo lời nói của Phật th́ tức là Bồ tát.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, đức Như
Lai chẳng được sự thành tựu của vô lượng công đức, vô thường, biến dị mà do được
không pháp nên tuyên nói vô ngă, chẳng thuận theo thế gian. Kinh luật như vậy
gọi là lời nói của ma.
Nếu có người nói rằng, Như Lai Chánh Giác chẳng
thể nghĩ bàn, cũng được sự thành tựu của vô lượng atăngkỳ công đức. Vậy nên Như
Lai thường trụ, không có biến dị. Kinh luật nói như vậy chính là lời nói của
Phật. Nếu có người thuận theo lời nói của ma th́ đó là quyến thuộc của ma. Nếu
có người thuận theo lời nói của Phật th́ tức là Bồ tát.
|
Quay trở về đầu |
|
|
anhhaoquang Hội viên

Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 15 June 2006 lúc 2:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
Lại nữa, có người nói rằng, hoặc có Tỳ kheo thật chẳng hủy
phạm tội Ba la di mà mọi người đều cho là phạm Ba la di như chặt cây Đa la thọ,
nhưng Tỳ kheo này thật ra không có phạm điều ǵ. V́ sao vậy ? V́ ta thường nói
rằng, bốn Ba la di nếu phạm một tội th́ giống như chẻ đá, chẳng thể hợp trở lại
được. Nếu có người tự nói được pháp hơn người th́ gọi là phạm Ba la di. V́ sao
vậy ? V́ thật không có sở đắc mà trá hiện tướng được. Người như vậy là thoái
mất nhân pháp (pháp của loài người). Đó gọi là Ba la di. Chẳng hạn như, hoặc có
vị Tỳ kheo thiểu dục, tri túc, tŕ giới thanh tịnh, trụ ở chỗ không nhàn mà nếu
vua, đại thần thấy vị Tỳ kheo này ḷng phát sinh ư niệm cho rằng đă được A la
hán, liền ở trước vị ấy khen ngợi, cung kính lễ bái. Họ lại nói rằng : “Như vậy
đại sư bỏ thân này rồi th́ sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Vị Tỳ kheo
nghe rồi liền bạch với vua rằng : “Tôi thật chưa được đạo quả Samôn, nhà vua
chớ nói là tôi đă được đạo quả. Nguyện xin địa vương chớ v́ tôi nói pháp chẳng
tri túc. Người chẳng tri túc là thậm chí được người cho là được Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác đều mặc nhiên nhận lấy. Tôi nay nếu sẽ mặc nhiên nhận lấy th́
sẽ bị sự quở trách của chư Phật. Hạnh tri túc của chư Phật khen ngợi. Vậy nên
tôi muốn trọn đời vui sướng phụng tu tri túc. Lại nữa, tri túc th́ tôi nhất
định tự biết ḿnh chưa được đạo quả. Nhà vua xưng là tôi được, tôi nay chẳng
nhận lấy nên gọi là tri túc”. Vị vua đáp rằng : “Đại sư quả thật đă được quả A
la hán như đức Phật không khác”. Bấy giờ vị vua ấy đều tuyên cáo khắp trong
ngoài nhân dân và hậu phi trong cung khiến cho họ đều biết vị Tỳ kheo được quả
diệu môn. Vậy nên đều khiến cho tất cả người nghe, ḷng sinh tin kính, cúng
dường tôn trọng. Như vậy vị Tỳ kheo này chân thật là người tịnh tu phạm hạnh.
Do nhân duyên này khiến cho khắp mọi người được phước đức lớn mà vị Tỳ kheo này
chẳng hủy phạm tội Ba la di. V́ sao vậy ? V́ người ta tự sinh ḷng hoan hỉ
trước mà khen ngợi cúng dường. Như vậy vị Tỳ kheo sẽ có tội ǵ ? Nếu có người nói
rằng, người đó đắc tội th́ phải biết Kinh này là lời nói của ma.
Lại có vị Tỳ kheo nói Kinh điển thậm thâm mật tạng của đức
Phật, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Do tính ấy nên đoạn được vô lượng ức
những phiền năo kết, liền được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trừ Nhất xiển
đề. Nếu vua, đại thần nói như vầy : “Này Tỳ kheo ! Ông sẽ làm Phật hay chẳng
làm Phật vậy ? Ông có Phật tính không ?” Vị Tỳ kheo đáp rằng : “Ta nay
trong thân nhất định có Phật tính ! C̣n thành hay chẳng thành th́ chưa có thể
phán xét được”. Nhà vua nói rằng : “Thưa đại đức ! Như người chẳng làm Nhất
xiển đề ấy th́ ắt thành không nghi hoặc ?” Vị Tỳ kheo nói rằng : “Người ấy quả
thật như nhà vua nói. Người này tuy nói nhất định có Phật tính mà cũng lại
chẳng phạm tội Ba la di”. Lại có vị Tỳ kheo khi vừa xuất gia đă suy nghĩ rằng :
“Ta nay nhất định thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Người như vậy tuy
chưa được thành đạo quả Vô thượng nhưng đă làm được phước vô lượng vô biên
chẳng thể xưng kể. Giả sử có người sẽ nói rằng, người này phạm Ba la di, th́
tất cả Tỳ kheo không ai chẳng phạm cả. V́ sao vậy ? V́ ta ở tám mươi ức kiếp
thuở xưa thường ĺa khỏi tất cả vật bất tịnh, thiểu dục, tri túc, uy nghi thành
tựu, giỏi tu pháp tạng vô thượng của Như Lai cũng tự nhất định biết bản thân có
Phật tính. Vậy nên ta nay được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, được gọi là
Phật, có Đại Từ Bi. Kinh luật như vậy là lời nói của Phật. Nếu có người chẳng
thể thuận theo đó th́ tức là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo
th́ chính là Đại Bồ tát.
Lại có người nói rằng, không có bốn Ba la di, mười ba tăng
tàn, hai bất định pháp, ba mươi xả đọa, chín mươi mốt pháp đọa, bốn pháp sám
hối, mọi pháp đa học, bảy diệt tránh (tranh căi), không Thâu-lan-già, năm tội
nghịch và Nhất xiển đề.v.v... Nếu có Tỳ kheo phạm những điều như vậy th́ đọa
vào địa ngục, c̣n người ngoại đạo đều nên sinh lên trời. V́ sao vậy ? V́ những
kẻ ngoại đạo không có giới (cấm) để phạm. Đây là đức Như Lai thị hiện khủng bố
con người nên nói ra giới ấy thôi. Nếu nói rằng, đức Phật dạy : “Các Tỳ kheo
của ta, nếu muốn hành dâm th́ nên bỏ pháp phục, mặc quần áo thế tục, rồi nhiên
hậu mới hành dâm. Lại nên sinh ư niệm là nhân duyên dâm dục chẳng phải tội lỗi
của ta”. Đức Như Lai tại thế cũng có Tỳ kheo quen làm dâm dục vẫn được Chánh
giải thoát, hoặc sau khi mạng chung sinh lên cơi trời. Xưa nay có người làm
những việc đó chứ chẳng phải riêng một ḿnh ta làm, hoặc phạm bốn trọng cấm,
hoặc phạm năm giới, hoặc làm tất cả luật nghi bất tịnh. Do vậy mà được đầy đủ giải
thoát chân chánh. Đức Như Lai tuy nói phạm Đột-kiết-la th́ đọa tại địa ngục tám
trăm vạn năm tính theo năm tháng của trời Đao Lợi. Đó cũng là đức Như Lai thị
hiện khủng bố con người thôi. Nói rằng, từ Ba-la-di đến Đột-kiết-la nặng nhẹ
không sai khác chỉ là các luật sư dối đặt ra lời nói này. Nói rằng, đó chính là
Phật chế ra th́ nhất định phải biết rằng, chẳng phải là lời nói của Phật. Lời
nói như vậy chính là Kinh luật của ma. Nếu lại nói rằng, ở trong các giới, nếu
phạm giới nhỏ thậm chí rất nhỏ (vi tế) th́ phải chịu khổ báo không có giới hạn.
Biết như vậy rồi, pḥng hộ thân ḿnh như con rùa giấu sáu chi thể. Nếu có vị
luật sư lại nói rằng, phàm đă phạm giới đều không có tội báo. Người như vậy
chẳng nên thân cận, như đức Phật đă nói :
Một pháp nếu (nói) qua
Đó là vọng ngữ
Chẳng thấy đời sau
& nbsp; Không
ác (ǵ) chẳng tạo.
Vậy nên chẳng nên gần gũi người này. Trong Phật pháp của
ta thanh tịnh như vậy, huống là có người phạm tội Thâu-lan-già, hoặc phạm
Tăng-tàn và Ba-la-di mà chẳng phải tội sao ? Vậy nên cần phải tự pḥng hộ những
pháp như vậy một cách sâu sắc. nếu chẳng thủ hộ th́ lại lấy pháp ǵ gọi là cấm
giới. Ta, ở trong Kinh, cũng nói có phạm bốn Ba-la-di... cho đến tội vi tế,
Đột-kiết-la.v.v... nên cần phải khổ trị. Chúng sinh nếu chẳng hộ tŕ cấm giới
th́ làm sao sẽ được thấy Phật tính. Tất cả chúng sinh tuy có Phật tính nhưng
cần phải nhân tŕ giới, rồi nhiên hậu mới thấy được. Nhân thấy được Phật tính
mới được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong chín bộ Kinh không có
Kinh Phương Đẳng. Vậy nên chẳng nói có Phật tính vậy. Kinh tuy chẳng nói nhưng
phải biết thật sự là có. Nếu nói được lời nói này th́ phải biết người đó chân thật
là đệ tử của ta.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Như trên đă nói, tất cả chúng sinh
đều có Phật tính mà trong chín bộ Kinh đă chưa từng nghe nói, như vậy lời nói
có ấy th́ sao chẳng phạm Ba-la-di vậy ?
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Đúng như lời nói của ông ! Quả thật
chẳng hủy phạm tội Ba-la-di ! Này thiện nam tử ! Ví như có người nói rằng, biển
cả chỉ có bảy báu, không có tám thứ th́ người nói đó không có tội. Nếu có người
nói rằng, trong chín bộ Kinh không có Phật tính th́ cũng lại không tội. V́ sao
vậy ? V́ ở trong biển đại trí Đại Thừa, ta nói có Phật tính. Người của Nhị thừa
đă chẳng thấy biết được Phật tính nên nói không th́ không có tội vậy. Cảnh giới
như vậy là sự hiểu biết của chư Phật, chẳng phải là sự biết được của Thanh văn,
Duyên Giác. Này thiện nam tử ! Nếu người chẳng nghe tạng bí mật thậm thâm của
Như Lai th́ làm sao sẽ biết có Phật tính vậy ? Cái ǵ gọi là tạng bí mật ? Đó
là Kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Này thiện nam tử ! Có các ngoại đạo, hoặc
nói Ngă thường c̣n, hoặc nói Ngă đoạn mất. Như Lai chẳng vậy, cũng nói có Ngă,
cũng nói không Ngă. Đó gọi là trung đạo. Nếu có người nói rằng, đức Phật nói
trung đạo, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, bị phiền năo che phủ nên chẳng biết,
chẳng thấy. Vậy nên cần phải siêng tu phương tiện đoạn hoại phiền năo. Nếu có
người có thể nói lời như vậy th́ phải biết là người đó chẳng phạm bốn trọng
cấm. Nếu có người chẳng nói lời như vậy th́ đó gọi là phạm Ba-la-di. Nếu có
người nói rằng, ta đă thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, v́ sao vậy ?
V́ ta có Phật tính mà có Phật tính th́ nhất định sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. V́ nhân duyên đó nên ta nay đă được thành tựu Bồ đề. Ông phải biết
người đó gọi là phạm tội Ba-la-di. V́ sao vậy ? V́ tuy có Phật tính nhưng v́
chưa tu tập các phương tiện tốt. Vậy nên chưa thấy, do chưa thấy nên chẳng thể
được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Do ư nghĩa này
nên Phật pháp thậm thâm chẳng thể nghĩ bàn.
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Có vị vua hỏi rằng, sao gọi là Tỳ
kheo rơi vào pháp quá nhân (qua người) ?
Đức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :
- Nếu có Tỳ kheo v́ lợi dưỡng, v́ ăn uống mà làm những
việc dua nịnh, gian ngụy, dối trá để làm sao khiến cho những người thế gian
nhất định phải biết ta (vị Tỳ kheo) là chân khất sĩ. Do nhân duyên đó khiến cho
ta được nhiều lợi dưỡng, danh dự. Vị Tỳ kheo nhiều ngu si như vậy nên măi măi
(đêm dài) thường nghĩ : “Ta thật chưa được bốn quả Samôn, phải làm sao khiến
cho những người thế gian cho là ta đă được. Lại phải làm sao khiến cho những Ưu
bà tắc, Ưu bà di.v.v... đều cùng chỉ ta mà nói như vầy, người phước đức này quả
thật là thánh nhân”. Vị Tỳ kheo này suy nghĩ như vậy mà chuyên v́ cầu lợi,
chẳng phải v́ cầu pháp. Ông ấy đi, lại, vào, ra, tiến, dừng an tường, nắm giữ y
bát chẳng mất uy nghi, ngồi riêng một ḿnh ở chỗ không nhàn như là bậc A la
hán, khiến cho người thế gian đều nói lên rằng, Tỳ kheo như vậy là tốt lành đệ
nhất, tinh cần khổ hạnh, tu pháp Tịch Diệt - vị Tỳ kheo ấy nghĩ - Do nhân duyên
này, ta sẽ được nhiều môn đồ, đệ tử, mọi người cũng sẽ đem đến nhiều cúng
dường, quần áo, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ (đồ nằm) y dược (thuốc thang), khiến cho
nhiều nữ nhân kính trọng, ái niệm... Nếu có Tỳ kheo và Tỳ kheo ni làm những
việc như vậy th́ rơi vào pháp quá nhân. Lại có Tỳ kheo v́ muốn kiến lập Chánh
pháp vô thượng, trụ ở chỗ không nhàn, chẳng phải A la hán mà muốn khiến cho mọi
người gọi là A la hán, là Tỳ kheo tốt, là Tỳ kheo thiện, là Tỳ kheo tịch tịnh,
khiến cho vô lượng người sinh ra ḷng tin. Do nhân duyên này, vị Tỳ kheo ấy
nghĩ rằng, ta được vô lượng các Tỳ kheo lấy làm quyến thuộc. Nhân đó được
dạy bảo Tỳ kheo phá giới và Ưu bà tắc đều khiến cho họ tŕ giới. Do nhân duyên
kiến lập chánh pháp này nên dương sáng đại nghĩa vô thượng của Như Lai, mở bày
pháp hóa Đại Thừa Phương Đẳng, độ thoát tất cả vô lượng chúng sinh, khéo giải
nghĩa khinh trọng, Kinh luật đă nói của Như Lai. Lại nói rằng, ta nay cũng có
Phật tính, có Kinh gọi là Như Lai Bí Tạng. Ở trong Kinh đó ta sẽ nhất định được
thành Phật đạo, có thể hết vô lượng ức phiền năo kết, rộng v́ vô lượng những Ưu
bà tắc nói rằng : “Các ông đều có Phật tính hết. Ta cùng với các ông đều sẽ an
trụ ở đất đạo của Như Lai, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, diệt hết vô
lượng ức những phiền năo kết. Người nói lời nói đó là người chẳng gọi là rơi
vào pháp Quá nhân mà gọi là Bồ tát. Nếu nói rằng, có người phạm Đột-kiết-la th́
đọa vào trong địa ngục tám trăm vạn năm tính theo năm tháng ngày trên trời Đao
Lợi, chịu các tội báo, huống ǵ là phạm tội Thâu-lan-già ? Trong Đại Thừa này,
nếu có Tỳ kheo phạm Thâu-lan-già th́ chẳng nên thân cận. Những ǵ gọi là tội
Thâu-lan-già trong Kinh Đại Thừa ? - Nếu có ông trưởng giả tạo lập Phật tự, đem
những hoa mạn (ṿng hoa cài tóc) dùng cúng dường Phật. Có vị Tỳ kheo thấy sợi
tơ trong xâu hoa, chẳng hỏi liền lấy th́ gọi là Thâu-lan-già, hoặc biết hay
chẳng biết cũng phạm như vậy. Nếu do ḷng tham mà phá hoại tháp thờ Phật th́
phạm Thâu-lan-già Người như vậy chẳng nên thân cận. Nếu vua, đại thần thấy Tháp
mục nát, v́ muốn tu bổ cúng dường xá lợi mà ở trong tháp này hoặc được đồ trân
bảo liền đem gởi cho vị Tỳ kheo. Vị Tỳ kheo được gởi rồi liền tự tại mà dùng.
Tỳ kheo như vậy gọi là bất tịnh, dấy khởi nhiều đấu tranh, hàng ưu bà tắc tốt
chẳng nên gần gũi cúng dường cung kính. Tỳ kheo như vậy gọi là không căn, gọi
là hai căn, gọi là bất định căn. Người bất định căn là khi muốn tham nữ th́
thân tức là nữ, khi muốn tham nam th́ thân tức là nam. Tỳ kheo như vậy gọi là
ác căn, chẳng gọi là nam, chẳng gọi là nữ, chẳng gọi là xuất gia, chẳng gọi là
tại gia. Tỳ kheo như vậy chẳng nên thân cận cúng dường cung kính. Pháp Samôn ở
trong Phật pháp th́ nên sinh ḷng bi che chở nuôi dưỡng chúng sinh, thậm chí
con kiến cũng thí cho vô úy, đó là Pháp Samôn. Xa ĺa uống rượu... cho đến ngữi
mùi thơm, đó là Pháp Samôn. Chẳng được nói dối, thậm chí cả trong giấc mơ chẳng
nghĩ đến nói dối, đó là Pháp Samôn. Chẳng sinh ra ḷng dục thậm chí cả
trong mơ cũng lại như vậy, đó là Pháp Samôn.
Ngài Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có vị Tỳ kheo nằm mơ thấy hành
dâm dục th́ đó có phạm giới không ?
Đức Phật dạy rằng :
- Chẳng phạm vậy ! Nên đối với dâm dục phát sinh xú uế
tưởng... cho đến chẳng phát sinh một ư niệm tịnh tưởng, xa ĺa ái tưởng phiền
năo của nữ nhân. Nếu trong mơ thấy ḿnh hành dâm th́ khi thức dậy nên sinh hối
hận. Khi Tỳ kheo xin ăn, nhận đồ cúng dường th́ nên tưởng như là đời đói phải
ăn thịt con. Nếu phát sinh dâm dục th́ nên mau ĺa bỏ. Pháp môn như vậy th́ phải
biết chính là Kinh luật của Phật đă nói. Nếu có người thuận theo lời nói của ma
th́ chính là quyến thuộc của ma. Nếu người có thể thuận theo lời Phật dạy th́
đó gọi là Bồ tát. Nếu có người nói rằng, đức Phật cho phép Tỳ kheo luôn kiễng
một chân, lặng yên chẳng nói, gieo xuống vực, lao vào lửa, tự rơi từ núi cao,
chẳng tránh hiểm nạn, uống độc, nhịn ăn, nằm trên đất tro, tự trói chân tay,
giết hại chúng sinh, phương đạo chú thuật, con của Chiên đà la, không căn, hai
căn và bất định căn, thân căn chẳng đủ... Những bọn như vậy đức Như Lai đều cho
phép xuất gia làm đạo th́ đó gọi là ma nói. Đức Phật trước đă cho phép ăn năm
thứ vị của trâu (?) và cả dầu, mật, mặc áo Kiều xa gia, mang giày da.v.v... Trừ
ngoài những thứ đó, nếu có người nói rằng, đức Phật cho phép mặc áo Ma ha lăng
già, tất cả hạt giống đều cho phép tích trữ, những hệ thuộc của cỏ cây đều có
thọ mạng. Đức Phật nói thế rồi liền vào Niết Bàn. Nếu có Kinh luật nói lời nói
đó th́ phải biết chính là lời nói của ma. Ta cũng chẳng cho phép luôn kiễng lên
một chân. Nếu v́ phép nên cho phép đi, đứng, ngồi, nằm. Ta lại cũng chẳng cho
phép uống độc, nhịn ăn, năm thứ lửa nóng nướng thân, trói buộc chân tay, giết
hại chúng sinh, phương đạo chú thuật, kha cụ, ngà voi dùng làm giày da, tích
trữ hạt giống, cỏ cây có mạng sống, mặc Ma ha lăng già. Nếu nói rằng, đức Thế
Tôn nói lời như vậy th́ phải biết đó là quyến thuộc của ngoại đạo, chẳng phải
là đệ tử của ta. Ta chỉ cho phép ăn năm thứ vị của trâu và dầu, mật.v.v..., cho
phép mang giày da, mặc áo Kiều-xà-gia. Ta nói bốn đại không có thọ mạng. Nếu có
Kinh luật nói những việc đó th́ đó gọi là Phật nói. Nếu có người thuận theo lời
dạy th́ phải biết đó là đệ tử chân chính của ta. Nếu có người chẳng thuận theo
lời dạy của Phật th́ đó là quyến thuộc của ma. Nếu có người tùy thuận Kinh luật
của Phật th́ phải biết người đó là Đại Bồ tát. Này thiện nam tử ! Tướng sai
khác của lời ma, lời Phật, hôm nay ta đă v́ ngươi rộng răi tuyên nói, phân biệt
rồi !
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay con mới biết được tướng sai
khác của lời ma, lời Phật. Nhân đó con được vào nghĩa sâu của Phật pháp.
Đức Phật khen ngài Ca Diếp rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông có thể phân
biệt hiểu rơ như vậy th́ đó gọi là thông tuệ.
&nbs p; &nbs p; &nbs p; &nbs p; &nbs p;
(Nguồn:
TV Hoa Sen)
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|