Tác giả |
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 1 of 15: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 1:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
MAHAMUDRA (Đại Thủ Ấn) Ouang Tchuk Dorjé ( HT. Thích Trí Siêu dịch)
Chương I - Dự Bị Tu Tập
Quy y, lễ lạy và Bồ Đề Tâm
Giải nghĩa về cách thức tu tập Đại Thủ Ấn của trường phái Kagyu bao gồm ba phần: dự bị tu tập, tu tập chính yếu và kết luận.
Phần thứ nhất bắt đầu bằng sự quy y và phát triển tâm Bồ Đề.
Các cách thức dự bị tu tập được chia làm hai loại: chung (căn bản) và riêng. Quán chiếu về thân người khó được, về vô thường và chết, về nghiệp báo hay luật nhân quả, về sự đau khổ của luân hồi, là những pháp quán căn bản và chung cho tất cả các trường phái Phật Giáo. Riêng Kim Cang thừa có thêm bốn pháp dự bị tu tập đặc biệt (ngeun-dro): vừa lạy Phật vừa quy y (quy lạy), Kim Cang quán (méditation de Vajrasattva), cúng dường Mạn Đà La (offrande du Mandala) và Bổn Sư Du Già (Guru-yoga). Bốn pháp này có thể được tu tập theo nhiều cách, nhưng thông thường nhất là thực hành 100.000 lần mỗi pháp theo thứ tự trong một thời gian ấn định như (ba, bốn năm) với một sự tinh tấn không gián đoạn. C̣n có một cách tu tập khác là phân chia đều bốn pháp trên thành số lượng nhỏ và ấn định làm thời khóa thường nhật. Số lượng này không nhất định, có thể thay đổi, nhưng phải thực hành liên tục cho tới khi thấy được hảo tướng mới thôi. Ngoài ra các pháp dự bị tu tập cũng có thể thay đổi, tùy theo vị Thầy (Lama) quyết định xem cái nào phù hợp hơn với căn tánh của đệ tử.
Sau đây là những pháp dự bị tu tập tổng quát của trường phái Karma-Kagyu. Về những lời chỉ thị đặc biệt và tỉ mỉ cần phải được giảng dạy từ vị Thầy riêng của mỗi người.
Mục đích của sự dự bị tu tập là tẩy trừ những nghiệp xấu làm chướng ngại cho việc tu tập, và tích tụ nhiều công đức để tiến nhanh đến đạo quả. Sự quy lạy và Kim Cang quán thuộc mục đích thứ nhất, cúng dường Mạn Đà La và Bổn Sư Du Già thuộc mục đích thứ hai. Trong khi quán chiếu về luật nhân quả, về những nghiệp xấu đă tạo trong quá khứ và sự đau khổ kham chịu trong kiếp hiện tại, ta cần phải phát tâm sám hối trở về nương tựa nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Cúng dường lễ lạy Tam Bảo sẽ giúp ta thanh lọc những mầm mống của đau khổ. Ngoài ra cũng cần quán chiếu và ghi nhận rằng tất cả chúng sinh đều muốn xa lánh đau khổ nhưng lại luôn luôn làm điều độc ác và ích kỷ, muốn có hạnh phúc nhưng không bao giờ hành động đạo đức hay từ bi, bởi thế nên vẫn đau khổ triền miên. Quán chiếu như vậy xong, ta làm khởi lên ḷng đại bi và nghĩ rằng sự tu tập của ta cũng thanh lọc luôn cả nghiệp chướng của họ. Cuối cùng phối hợp Bồ Đề Tâm với sự quy lạy, ta nguyện tiêu trừ tất cả nghiệp chướng, sớm thành Phật để có thể thực sự làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Trên khoảng hư không trước mặt, hăy quán tưởng có một thân cây năm nhánh. Vị Thầy Bổn Sư ngồi ở nhánh giữa (dưới h́nh thức Vajradhara), ở nhánh trước mặt (vị Bổn Sư) có tất cả Hộ Thần Kim Cang (Yidam), ở nhánh bên phải (vị Bổn Sư) là tất cả chư Phật (Buddha), ở nhánh sau lưng là tất cả Giáo Pháp (Dharma), và ở nhánh bên trái là toàn thể Tăng Già (Sangha). Quán tưởng như thế rồi ta bắt đầu quy y (trong lúc lạy xuống) và quán tưởng rằng tất cả chúng sinh (là cha mẹ) đều tề tựu sau lưng ta và cũng quy lạy như ta.
Đây là phép quán về ruộng công đức (phước điền) hay Cây Lịch đại Tổ Sư. Quán tưởng ta đang ở trong một vườn hoa thanh tú, có những băi cỏ êm dịu và một bầy thú hiền ḥa. Ở chính giữa là một cái hồ tuyệt đẹp có một cây làm toại nguyện tất cả điều ước như đă tả ở trên. Vajradhara (Tạng ngữ: Dorjé Chang) là một hóa thân của Phật khi thuyết về Mật giáo Tantra. Những vị Hộ Thần (Yidam) gồm có: Vajrayogini, Héruka, ...; chư Phật ở đây là chư Phật ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai; Giáo Pháp gồm tam tạng Kinh điển (Tripitaka); Tăng Già bao gồm tất cả chư Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. Ở phần dưới thân cây có các vị Hộ Pháp (Dharmapala) như Mahakala, Mahakali, ... Nếu không biết rơ h́nh tướng các vị trên, hoặc không thể quán tưởng một cách rơ ràng, ta cũng đừng nên lo ngại. Ban đầu chỉ cần tin tưởng nơi sự hiện diện của các vị ấy là đủ. Với sự luyện tập lâu dài, với những tranh h́nh (Thangka) của các vị ấy, ta sẽ quán tưởng rơ hơn sau này.
Tiếp theo quán tưởng ta dưới h́nh thức b́nh thường bên phải là tất cả các chúng sinh nam, bên trái là tất cả các chúng sinh nữ. Tưởng nghĩ rằng chung quanh ta là một đám đông vô kể, cả người lẫn thú; dẫn đầu tất cả, ta đảnh lễ và quy y. Khi bắt đầu đảnh lễ, chắp hai bàn tay lại, đưa lên đụng đảnh đầu rồi xuống đụng trán, đụng cổ, ngực rồi quỳ xuống đất duỗi thẳng toàn thân, hai tay đưa tới trước, xong rồi liền đứng dậy. Cùng lúc lạy như vậy, ta đọc lên những câu sau: "Con và tất cả chúng sinh, cha mẹ nhiều đời, đầy khắp hư không, xin quy y nơi chư Thầy Tổ tôn kính. Chúng con xin quy y nơi các vị Hộ Thần Kim Cang và toàn thể chư Thần trong Mạn Đà La. Chúng con xin quy y nơi chư Phật ba đời. Chúng con xin quy y nơi Thánh Pháp. Chúng con xin quy y nơi chư Thánh Tăng. Chúng con xin quy y nơi toàn thể chư Thần Dakas, Dakinis, Hộ Pháp và Hộ Mạng". Hăy thực hành như vậy với sự chánh niệm tối đa, với ḷng tin kính và thành thật.Ba pháp thực hành trên: lạy, tụng, quán tưởng được gọi là thân lạy, khẩu lạy và ư lạy, cần được thực hiện ít nhất 100.000 lần. Trước khi tu tập các thời khóa thiền quán khác, cũng nên lạy ít nhất là 7 lần.
Trong lúc tu tập về pháp quy lạy, ta sẽ cảm thấy cực nhọc và mệt mỏi. Nhưng hăy xem đó như là một mũi thuốc chích, tuy đau đớn nhưng sẽ cứu ta khỏi bệnh. Tuy nhọc mệt nhưng ta vẫn vui vẻ, v́ từ đời vô thỉ đến nay, ta đă tạo không biết bao nhiêu nghiệp xấu, đúng lư ra ta sẽ phải chịu nhiều quả báo đau khổ hơn trong ba đường ác, nhưng nay nhờ chịu đựng tu tập mà ta sớm giải thoát. Trong khi lạy nếu cảm thấy nóng hay lạnh th́ hăy cầu nguyện cho tất cả chúng sinh ở địa ngục sớm thoát khỏi đau khổ của hỏa ngục và hàn ngục. Nếu bị đói khát, ta hăy nguyện cho loài ngạ quỷ sớm được no đủ; hoặc khi đầu óc ta trở nên nặng nề và đờ đẫn v́ nhọc mệt, ta hăy nguyện cho mọi loài súc sinh sớm thoát khỏi ngu si. Với một đức tin sâu đậm và kiên cố, ta sẽ đánh bạt mọi phiền năo khởi lên trong lúc tu tập. Nếu có những ư niệm khởi lên bảo ta ngưng tập và đi t́m một pháp môn khác, ta hăy nh́n chúng như một đám điên phá phách, bỏ qua không thèm để ư đến chúng.
Ta đọc tiếp: "Từ nay cho đến ngày giác ngộ, con xin quy y Phật, Pháp, chư hiền thánh Tăng...". Cùng lúc ta suy nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh đều đă là cha mẹ con, con xin quy y và phát triển tâm Bồ Đề". Sau đó ta quán tưởng về Tứ Vô Lượng Tâm.
Tứ Vô Lượng Tâm là nguyện cho tất cả chúng sinh:
1) đều được an vui hạnh phúc và tạo nhiều căn lành; 2) đều thoát khỏi đau khổ và ngưng tạo điều ác; 3) được sống trong thương yêu và ḥa thuận; 4) đều có tâm b́nh đẳng, không thương người thân, ghét kẻ thù.
Cuối cùng, quán tưởng rằng tất cả đối tượng quán chiếu (sở quán) đều tan biến thành ánh sáng (hào quang) thấm nhập vào ta và gịng tâm thức [1] của ta trở nên thanh tịnh.
Sau mỗi thời khóa quy lạy, hăy quán tưởng làm tan biến tất cả h́nh tướng của Cây Lịch đại Tổ Sư thành hào quang thấm nhập vào ta và đưa ta vào trạng thái bất nhị trống rỗng, trong suốt, không c̣n dính mắc vào một khái niệm hiện hữu nào nữa. Hăy trụ trong "bây giờ và ở đây", và cảm tưởng rằng ta hoàn toàn thanh tịnh.
Đến đây chấm dứt phần dự bị tu tập thứ nhất: quy lạy và phát triển tâm Bồ Đề.
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 2 of 15: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 1:42pm | Đă lưu IP
|
|
|
MAHAMUDRA (Đại Thủ Ấn) Ouang Tchuk Dorjé ( HT. Thích Trí Siêu dịch)
Kim Cang Quán
Vajrasattva [2], Tạng ngữ: Dorjé Sempa, là một hóa thân của chư Phật dùng để thanh lọc giải trừ đau khổ, phiền năo, quả báo của những nghiệp xấu, ác đă tạo. Hóa thân này có thể xuất hiện dưới nhiều h́nh tướng: hiền từ hoặc dữ tợn như Héruka Vajrasattva, đơn độc hoặc với một nữ phối. Sau đây là một phương thức tu tập với hóa thân Vajrasattva đơn độc.
Quán tưởng trên đầu ta, có Thầy Bổn Sư (Lama) dưới h́nh tướng Vajrasattva, toàn thân màu trắng, tay phải cầm một kim cang chùy (vajra) ngang giữa ngực, tay trái cầm một cái chuông ngang hông. Đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
Quán tưởng trên đảnh đầu chủng tự PAM. Sau đó chủng tự này biến thành một hoa sen trắng, ở trên có chủng tự AH, từ chữ AH xuất hiện một vành trăng tṛn, ở trên có chữ HUM, chữ này từ từ biến thành một kim cang chùy 5 đỉnh, và ở giửa chùy kim cang này lại có một chữ HUM. Từ chữ HUM này phát ra nhiều đạo hào quang rồi sau đó lại thu trở về hai lần: lần thứ nhất, những hào quang này hóa hiện ra muôn ngàn trân châu quư báu cúng dường chư Phật, Bồ Tát; lần thứ hai, những hào quang này tiêu trừ tất cả đau khổ của chúng sinh.
Tiếp theo, kim cang chùy biến h́nh thành Vajrasattva như đă tả ở trên. Chân trái gấp lại, bàn chân đụng dưới đùi phải, và chân phải hơi duỗi xuống dưới. Ở giữa ngực có một vành trăng với một chữ HUM trắng ở trên.
Vajrasattva có một bài chú 100 chủng tự và một bài 6 chủng tự. Những chủng tự này thường được quán chiếu theo nhiều cách: hoặc theo chiều kim đồng hồ, hoặc ngược lại, hoặc quay tṛn hoặc đứng yên. Riêng trong phép quán này, ta phải tụng 100.000 lần bài chú 100 chủng tự, những chủng tự này màu trắng bất động, được sắp chung quanh vành trăng theo chiều ngược của kim đồng hồ.
Sau khi quán tưởng như trên, ta tụng: "Nam Mô Vajrasattva, con thành khẩn xin ngài giải trừ tất cả chướng duyên và quả báo của những nghiệp xấu mà con đă tạo trong quá khứ". Ta cần phải phát lồ sám hối và quán niệm về bốn điều hóa giải (lỗi lầm).
Điều thứ nhất, nhớ tưởng lại những lỗi lầm đă tạo và thành tâm ăn năn. Thứ hai, nguyện không bao giờ tái phạm. Thứ ba, ghi nhớ những điều tốt như quy y, Bồ Đề Tâm, giữ giới... Thứ tư, thực hành những pháp thanh lọc, sám hối như Kim Cang quán để tiêu trừ nghiệp chướng. Nếu không hội đủ bốn điều trên th́ sự sám hối chỉ là hào nhoáng bề ngoài.
Tiếp theo quán tưởng một nước cam lồ trắng chảy từ ngón chân cái bên phải của Vajrasattva, xuống tới đảnh đầu và chảy khắp toàn thân ta. Cùng lúc đó, tất cả những chướng duyên, nghiệp báo đều bị tống khứ, và toàn thân ta chỉ c̣n là cam lồ.
Nước cam lồ này bắt nguồn từ chữ HUM và bài chú 100 chủng tự nằm trên vành trắng ở ngực Vajrasattva, chảy xuống thấm vào thân ta.
Quán tưởng rằng từ những lỗ chân lông và chín khứu của ta, những chướng duyên thoát ra ngoài như mồ hôi và nhựa đen; bệnh tật, ốm đau thoát ra ngoài như máu mủ; tà ma, quỷ ếm, như rắn, ḅ cạp, nhện độc và sâu bọ. Tất cả đều chảy ra ngoài và thấm xuống đất. Bấy giờ toàn thân ta chỉ c̣n lại nước cam lồ trắng và hào quang.
Ta hăy quán tưởng tất cả chúng sinh cũng đều có một vị Vajrasattva ở trên đầu và đang lănh nhận sự thanh lọc như ta.
Hài ḷng, vị Bổn Sư (Vajrasattva) biến thành hào quang (rồi nhập vào ta), và quán tưởng rằng thân, ngữ, ư của ta và của Vajrasattva nhập một không khác. Tất cả nghiệp chướng lúc này thảy đều được tiêu trừ.
Đến đây kết thúc phần dự bị tu tập thứ hai: quán tưởng về Vajrasattva và tŕ tụng thần chú.
Chú thích:
[1] Sách Tây Tạng thường nói "gịng tâm thức" để chỉ định cái tâm. V́ theo các trường phái Duy Thức và Trung Quán th́ tâm không phải một vật có tự tánh cố định mà là một gịng ư thức luôn trôi chảy
[2] Vajrasattva: Việt dịch là Kim Cang Tát Đỏa, cho đó là một vị Kim Cang thần hay Bồ Tát, nhưng đối với Tây Tạng th́ đó là một hóa thân Phật.
Cúng dường Mạn Đà La
Thông thường, sự cúng dường không có nghĩa là làm vui ḷng hay lấy điểm với bề trên, nó thể hiện ḷng dâng hiến toàn vẹn cho sự giác ngộ, đại diện bởi các bậc Thầy và ngôi Tam Bảo; đồng thời cũng giúp cho ta gặt hái được nhiều công đức và lợi lạc. Khi ta gieo những hạt giống vào một cánh đồng, chính ta sẽ là người hưởng lợi chứ không phải cánh đồng. Sự cúng dường đến ngôi Tam Bảo cũng giống như vậy.
Có nhiều loại Mạn Đà La. Những cảnh lâu đài thiên cung, nơi cư ngụ của các vị Bồ Tát, Hộ Pháp, được xem là một loại. Đó là những kiểu mẫu thường thấy trên tranh ảnh (thangka). Riêng Mạn Đà La dùng ở đây thuộc loại cụ thể, cấu tạo bằng một nền phẳng với những ṿng tṛn, gạo, hạt cây hoặc ngọc báu, tất cả tượng trưng cho toàn thể vũ trụ.
Quán tưởng trên hư không trước mặt, có một lâu đài Mạn Đà La vĩ đại. Ở trung tâm là vị Bổn Sư (dưới h́nh dạng Vajradhara), phía trước ngài là những vị Thần Linh Quán [1], bên phải là chư Phật, đằng sau là tam tạng giáo điển, và bên trái là toàn thể Tăng Già. Đây là Mạn Đà La sơ khởi, đối tượng của sự cúng dường.
Tiếp theo ta cấu tạo một Mạn Đà La khác với những dụng cụ nhỏ đặc biệt, và tụng lên bài kệ cúng dường.
Dùng một cái dĩa bằng phẳng làm nền tảng cho Mạn Đà La (vật cúng dường). Một tay cầm dĩa, tay kia lau mặt dĩa và tụng bài chú 100 chữ của Vajrasattva để tẩy trừ mọi lậu hoặc. Sau đó, nhỏ một giọt nước (trong và thơm) lên trên tượng trưng cho Bồ Đề Tâm hướng và ḷng đại bi. Tiếp theo, đặt một cái ṿng thứ nhất lên mặt dĩa và đổ đầy những hạt gạo, đậu, v.v..., ở bốn góc một vài hạt kim cương, ngọc báu [2]; sau khi đổ đầy ṿng thứ nhất, tiếp tục như vậy cho đến ṿng nhỏ cuối cùng, và đặt trên ṿng này một bảo vật. Đây là sự cúng dường cụ thể tượng trưng bên ngoài.
Trong lúc cấu tạo Mạn Đà La để cúng dường bên ngoài, ta đọc lên bài kệ thích hợp. Đọc đến đâu, quán tưởng đến đó, đây thuộc về ư cúng dường. Vật mà ta cúng dường tượng trưng cho toàn vũ trụ, thường được miêu tả trong giáo lư A Tỳ Đàm (Abhidharma).
Vũ trụ thường được miêu tả dưới nhiều h́nh thức khác nhau, tuỳ trường hợp, v́ căn cơ và nghiệp báo của thính chúng không đồng, nên khiến mỗi người thấy sự vật khác nhau. Riêng theo sự miêu tả ở đây th́ có một dăy đất bằng huỳnh kim, chung quanh bao bọc bởi những bức tường sắt, bên ngoài là biển mặn. Bên trong bức tường, ở bốn góc có bốn châu (lục địa), mỗi châu lại nằm giữa một đại dương. Từ mỗi châu tiến dần vào trung tâm điểm gồm có bảy ṿng đai xen kẽ với bảy núi vàng và bảy hồ thanh lương. Ở trung tâm điểm là núi Tu Di (Suméru), h́nh vuông giống bửu tháp (stupa) bốn tầng. Mặt núi phương đông bằng ngọc pha lê trắng, phương nam bằng ngọc lưu ly, phương tây bằng ngọc hồng bào và phương bắc bằng ngọc bích. Bầu trời và mặt biển ở bốn phía đều mang cùng màu tương hợp với ngọc núi. Lục địa (châu) phương đông h́nh bán nguyệt, mặt thẳng đối diện núi Tu Di, lục địa phương nam h́nh thang, lục địa phương tây h́nh tṛn và lục địa phương bắc h́nh vuông.
Quả đất chúng ta đang ở thuộc phương nam (Nam Thiện Bộ Châu), biển và bầu trời màu xanh lơ. Những châu c̣n lại (đông, tây, bắc), ta không thể đến được bằng tàu bay hay phi thuyền, trừ khi ta tạo những nghiệp tương ưng với các chúng sinh ở đó.
Bài kệ mà ta phải lập lại 100.000 lần trong lúc thược hành pháp này là: "Hướng về tất cả các cơi Tịnh Độ của chư Phật, con xin cúng dường Mạn Đà La này, làm bằng hoa, dầu thơm, trầm hương, trang hoàng với núi Tu Di, tứ châu và nhật nguyệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được sinh về các cơi Tịnh Độ."
Bằng sự cúng dường này, ta sẽ tích tụ được hai thứ: phước đức và trí huệ.
Sau khi cúng dường xong, quán tưởng tất cả chư Phật, Bồ Tát trong Mạn Đà La đối tượng, tan biến thành hào quang và thấm nhập vào ta.
Cúng dường Mạn Đà La cụ thể và ư tưởng giúp ta gặt hái nhiều công đức. Cùng lúc đó, ta phải quán chiếu luôn về tánh Không của các pháp, tức năng cúng và sở cúng đều trống rỗng, không có thực tánh, nhờ đó trí huệ sẽ tăng trưởng. Tích tụ công đức dẫn đến sự thành tựu Hóa thân (Nirmanakaya) và Báo thân (Sambhogakaya). Những chúng sinh tu hành nhiều đời, gieo tạo căn lành có thể thấy được Hóa thân Phật. Riêng Báo thân Phật, chỉ có hàng đại Bồ Tát, những vị đă thực sự trực nghiệm tánh Không (Sunyata) mới thấy được. Tích tụ Trí Huệ (Bát Nhă) dẫn đến sự chứng đạt Thể Tánh thân (Svabhavakaya) và Pháp thân (Dharmakaya). Theo ư nghĩa tập luận ở đây th́ Thể Tánh thân chính là nhất thiết trí của Phật, c̣n Pháp thân là tổng tánh bất dị của ba thân trước. Tuy nhiên. ở vài nơi khác, sự định nghĩa của hai thân này có thể đổi ngược, nhưng thường th́ chỉ có Pháp thân là hay được đề cập đến.
Đến đây chấm dứt phần dự bị tu tập thứ ba: cúng dường Mạn Đà La.
Chú thích:
[1] Divinité de méditation (Yidam): tức là các vị Bồ Tát Hộ Thần, Hộ Mạng, c̣n được dịch là Đại Thần Linh Thủ Hộ. Những vị này xuất hiện rất nhiều trong các pháp thiền quán Mật giáo và giữ một vai tṛ trọng yếu đối với hành giả Mật tông Tây Tạng.
[2] Kim cương, ngọc báu ở đây không bắt buộc là đồ thiệt. Có thể dùng những đồ trang sức bằng nhựa hay đá đẹp để tượng trưng
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 3 of 15: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 2:11pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vajrasattva

Mandala (do Đức Ladai Lama XIV giới thiệu tại Tây Ban Nha)

|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 4 of 15: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 2:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vajrasattva

|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 5 of 15: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 2:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
Mandala (do Đức Ladai Lama XIV giới thiệu tại Tây Ban Nha)

|
Quay trở về đầu |
|
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 6 of 15: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 2:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vajrasattva

|
Quay trở về đầu |
|
|
tieudongtu Hội viên


Đă tham gia: 12 April 2006 Nơi cư ngụ: Spain
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 25
|
Msg 7 of 15: Đă gửi: 10 May 2006 lúc 4:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Thân chào bạn OnlyOne_0
lâu quá không thấy các bác nào post bài Mật Tông , cám ơn bác nhiều nhé
__________________ Tuệ giác phá tan ṿng hắc ám
Chân tâm phá vỡ lưới vô minh
Biết ra vốn thiệt ta là phật
Giác phật, mê ma cũng là ḿnh
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 8 of 15: Đă gửi: 10 May 2006 lúc 1:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
MAHAMUDRA (Đại Thủ Ấn) Ouang Tchuk Dorjé ( HT. Thích Trí Siêu dịch)
Bổn Sư Du Già
Bài dự bị tu tập chót nhằm mục đích tích tụ công đức và sự gia hộ hay ban phép lành của chư Tổ. Đó là Guru Yoga.
Ở đây ta phải quán tưởng ta dưới h́nh dạng của một Thần Linh Quán (divinité de méditation).
Quán tưởng ở phía trên đầu là vị Bổn Sư (Lama racine) hiện dưới h́nh dạng thông thường hoặc của một Thần Linh Quán. Sau đó tất cả chư Tổ của gịng truyền (lignage) ngược trở lên cho đến đức Phật Vajradhara đều ngồi theo một hàng dọc hoặc chung quanh trên đầu vị Bổn Sư. Tiếp theo ta hướng về chư vị đó và cầu nguyện với ḷng thành khẩn, tôn kính chân thật vô biên.
Khi ḷng thành khẩn của ta tăng trưởng đến mức tột cùng, hăy giữ nguyên trạng thái đó và bắt đầu quán tưởng chư Phật, Bồ Tát, chư Thần Dakas, Dakanis, Hộ Pháp, Hộ Mạng, chư Tổ đều tan nhập vào vị Bổn Sư. Vị Bổn Sư lúc đó phải được xem là hóa thân của tất cả các vị trên.
Có nhiều loại Thần Linh Quán, đối tượng của Guru-yoga. Ta có thể quán tưởng vị Bổn Sư dưới h́nh dạng thông thường hoặc h́nh dạng Vajradhara, Marpa, Milarépa, Gampopa, Karmapa, v.v...
Tiếp theo, thực hiện sự cúng dường bên ngoài, bên trong và bí mật, cũng như bài Kinh "Thất Nguyện" (Septuple Puja).
Bài Kinh Thất Nguyện gồm: 1) Lễ lạy, 2) Cúng dường, 3) Sám hối, 4) Tùy hỷ công đức, 5) Thỉnh quư Thầy giảng pháp, 6) Thỉnh quư Thầy trụ thế, 7) Hồi hướng công đức.
Khởi tâm trở về nương tựa Tam Bảo, củng cố tâm Bồ Đề và cầu nguyện như sau: "Tất cả chúng sinh (là cha mẹ quá khứ) số lượng như hư không, xin hướng về Bổn Sư hiện thân của tam thân Phật, hăy từ bi ...".
Bài cầu nguyện trên dạy rằng phải quán tưởng vị Bổn Sư không khác đức Phật, hiện thân của Tam Bảo. Thân của ngài tiêu biểu cho Tăng Già, lời của ngài là Giáo Pháp và tâm của ngài là chư Phật. Thân, ngữ, ư của Phật chính là Tam Bảo và cũng không khác tam thân Phật. Bài tụng trên có thể được lập đi lập lại 100.000 lần hoặc hơn. Thông thường hành giả cũng tụng thêm bài kệ sáu câu của ngài Karmapa đệ nhất và một triệu lần bài chú của ngài: "Con thành tâm cầu nguyện đến ngài, vị Thầy tôn kính. Xin ngài gia hộ cho con khiến:
1) Tâm con không c̣n chấp chặt vào một cái "Ta thường hằng". 2) Gịng tâm thức của con có khả năng thấy rằng tất cả ư tưởng thế gian đều là ảo ảnh. 3) Tất cả ư nghĩ trái ngược Phật pháp đều ngưng khởi. 4) Con hiểu rằng bổn tâm vốn bất sanh (diệt). 5) Tất cả thành kiến sai lầm (nhị biên) đều tiêu tan. 6) Con thấu triệt các pháp đều là Pháp thân."
Sau đó vị Thầy (Lama) tan nhập vào ta. Quán tưởng rằng thân, ngữ, ư của ngài và Tâm ta trở thành một, không hai, không khác. Hăy trụ trong trạng thái bất nhị đó càng lâu càng tốt.
Sau khi tụng chú xong, quán tưởng vị Bổn Sư đang truyền cho ta bốn phép điểm đạo Mật giáo (initiations tantriques):
Trước hết từ trán vị Bổn Sư, một hào quang trắng phóng ra bay vào trán ta, tẩy trừ tất cả phiền năo thuộc thân nghiệp. Đây là điểm đạo sơ khởi, giúp ta tu tập các pháp trong giai đoạn tăng trưởng và gieo những chủng tử của sự thành tựu Hoá thân.
Từ cổ vị Bổn Sư, một hào quang đỏ phóng ra bay vào cổ ta, tẩy trừ tất cả phiền năo thuộc khẩu nghiệp. Đây là điểm đạo bí mật, giúp ta quán chiếu về giai đoạn thành tựu các pháp dẫn chuyển những luồng khí lực vi tế trong thân và gieo những chủng tử của Báo thân.
Từ tim vị Bổn Sư, một hào quang xanh lơ phóng ra bay vào tim ta, tẩy trừ tất cả phiền năo thuộc ư nghiệp. Đây là điểm đạo trí huệ, giúp ta tiến tu các pháp siêu nhập và gieo những chủng tử của Pháp thân.
Cuối cùng, cả ba hào quang trắng, đỏ, xanh từ ba nơi trên người vị Bổn Sư đồng phóng ra bay vào trán, cổ, và tim ta, tẩy trừ tất cả phiền năo của ba nghiệp thân, khẩu, ư. Đây là điểm đạo linh âm tối thắng, giúp ta thành tựu Đại Thủ Ấn, hay giai đoạn vô tướng và gieo những chủng tử của Thể tánh thân.
Sau lễ điểm đạo, tất cả chư Tổ của hệ phái tan nhập vào vị Bổn Sư, và vị này cũng tan nhập vào ta.
Hăy trụ trong trạng thái bất nhị và vô niệm này. Sau đó hồi hướng công đức cầu cho tất cả chúng sinh sớm mau giác ngộ.
Nếu tinh tấn tu tập pháp này ta sẽ nhận được nhiều sự gia tŕ, ủng hộ của chư Tổ, khiến ta sớm thâm nhập được Đại Thủ Ấn.
Đến đây kết thúc phần dự bị tu tập đặt biệt của Kim Cang thừa: Bổn Sư Du Già.
|
Quay trở về đầu |
|
|
vuithoi Hội viên


Đă tham gia: 08 April 2005 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 375
|
Msg 9 of 15: Đă gửi: 10 May 2006 lúc 1:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào anh OnlyOne_0,
Bài dịch này của thầy Thích Trí Siêu chứ không phải của Hoà Thượng Thích Trí Siêu.
Thầy Trí Siêu sinh 1962, hiện tại ở Pháp. Là 1 du tăng. Thầy cũng thật dễ thương và cởi mở trong trao đổi.
Chúc anh an lạc,
vuithoi
__________________ vui thoi ma
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 10 of 15: Đă gửi: 10 May 2006 lúc 2:22pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cảm ơn bạn vuithoi chỉ lỗi.
Xin đính chính lại với mọi người về thầy Thích Trí Siêu (tỳ kheo Thích Trí Siêu)
Thầy Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sàig̣n. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Ḥa Thượng Thích Huyền-Vi.
Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng thầy đă không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Zen, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
Nhờ kinh nghiệm tu học với nhiều truyền thống khác nhau nên thầy có một cái nh́n tổng quát và dung hợp về Đạo Phật, không phân chia tông phái Đại thừa hay Tiểu thừa, Tịnh Độ hay Thiền Tông, không chủ trương xiển dương riêng một pháp môn nào hay Kinh nào. Mục đích của thầy là giảng nói về Đạo Phật để mọi người nương theo đó tu tập cho cuộc đời bớt khổ.
Thầy đă viết và dịch nhiều sách để chia xẻ kinh nghiệm của ḿnh.Thầy Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sàig̣n. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Ḥa Thượng Thích Huyền-Vi.
Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng thầy đă không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Zen, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
Nhờ kinh nghiệm tu học với nhiều truyền thống khác nhau nên thầy có một cái nh́n tổng quát và dung hợp về Đạo Phật, không phân chia tông phái Đại thừa hay Tiểu thừa, Tịnh Độ hay Thiền Tông, không chủ trương xiển dương riêng một pháp môn nào hay Kinh nào. Mục đích của thầy là giảng nói về Đạo Phật để mọi người nương theo đó tu tập cho cuộc đời bớt khổ.
Thầy đă viết và dịch nhiều sách để chia xẻ kinh nghiệm của ḿnh.
(* Xin mọi người lưu ư tránh nhầm với Thượng toạ Thích Trí Siêu hiện nay ở Sài G̣n)
Cảm ơn bạn vuithoi, chúc bạn vui vẻ, an lạc !
OnlyOne_0
--------------------------
'' không có trí tuệ và không có chứng đắc)
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 11 of 15: Đă gửi: 10 May 2006 lúc 2:25pm | Đă lưu IP
|
|
|

|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 12 of 15: Đă gửi: 12 May 2006 lúc 1:31pm | Đă lưu IP
|
|
|
(tiếp theo)
Vô thường và sự chết
Nếu không quán chiếu về vô thường th́ tâm sẽ không bao giờ dứt bỏ sự dính mắc cuộc đời. Nếu tâm c̣n dính mắc th́ c̣n sinh tử luân hồi. "Sự sống của con người luôn luôn bị đe dọa, nó vô thường mỏng manh như ḥn bọt trên mặt nước, có thể vỡ tan dưới cơn gió nhẹ. Quả thực là một phép lạ cho chúng ta, sau khi thở ra lại có thể hít vào được một hơi khác, và sau khi ngủ dậy, thấy rằng ḿnh vẫn c̣n sống." (Nagarjuna, Suhrillekla).
Tất cả sự vật, do nhân duyên giả hợp, đều vô thường, sự sống của mọi loài cũng vậy. Ta không thể nào biết chắc khi nào ta sẽ chết. Thêm vào đó, khi cái chết đến, ta không thể cầu cứu với ai được, ngoại trừ Phật pháp. Nếu lúc c̣n sống, ta tự thả trôi theo gịng đời, bám víu vào dục lạc nhất thời, th́ chắc chắn không thể nào thoát khỏi nguyên nhân của đau khổ. Vậy ta hăy phát nguyện quán chiếu về sự chết mỗi khi tâm ta chạy theo ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy).
Tất cả sự vật, là những pháp hiện hữu do nhiều nhân duyên kết tạo, đều vô thường. Tất cả động vật, bất động vật, sinh vật và cảnh vật đều là pháp giả hợp. Một bức tường cứng rắn hôm nay, có thể tiêu tan thành cát bụi ngày mai. Sự sống của ta lại càng mong manh và dễ mất hơn nữa. Không ai dám quả quyết rằng ḿnh sẽ c̣n sống ngày mai, và một khi chết đến th́ ngay cả bạn bè, bà con, bác sĩ, thuốc thang, tiền tài, danh vọng cũng đều bất lực. Chỉ có một điều duy nhất cứu giúp ta được, đó là sự tu hành theo Phật pháp. Nếu sống một đời đạo đức và tạo nhiều việc thiện, ta có thể nhắm mắt chết b́nh thản, v́ biết rằng với một nghiệp thiện, ta sẽ tái sinh nơi nhàn cảnh.
Không nên dại dột nghĩ rằng thỏa măn những thú vui thể xác sẽ đem lại cho ta hạnh phúc lâu dài.
Khi mắt bị thu hút bởi những ǵ đẹp đẽ và dễ coi ta hăy nghĩ đến cái chết của con thiêu thân lao ḿnh vào lửa, chỉ v́ ưa thích ánh sáng. Về khoái lạc thể xác cũng vậy, hăy nghĩ đến những con ong bị nuốt sống bởi cây thằng thảo, v́ ưa mùi hương; những con ruồi bị chết ngộp trong hầm phẩn v́ ưa thích phân uế; những con cá bị mắc câu v́ ham miếng mồi ngon.
Quán chiếu suy nghĩ về những thí dụ trên sẽ giúp tâm nhàm chán, ĺa bỏ dục lạc của thế gian và thấy đó chỉ là những nguyên nhân dẫn đến khổ đau.
Ư thức được cái chết có thể đến bất cứ giờ phút nào, sẽ giúp ta tu hành tinh tấn. Hăy tập nh́n đồ ăn và y phục như một tên tử tội, sắp bị đem ra pháp trường, nh́n bữa ăn và bộ quần áo cuối cùng.
Hăy nhớ lại, bao nhiêu bạn bè, họ hàng người thân của ta đă ra đi? Họ đă ra đi thế nào và bây giờ xác thân của họ c̣n lại ǵ? Nghĩ đến họ xong rồi nghĩ lại bản thân ta cũng sẽ chung số phận. Làm sao khởi được trong tâm sự sợ hăi giống như đang bị tên đao phủ lôi ra pháp trường. Khi tâm hoàn toàn nhàm chán tất cả sự vật thế gian, hăy giữ nguyên và trụ tâm ở trạng thái đó. Đây là bài dự bị tu tập thứ năm: quán chiếu về sự chết và vô thường.
Phép quán chiếu trên không phải để làm cho ta bi quan chán đời. Nếu quán chiếu rằng: "Tôi sắp chết và chả làm được ǵ cả!", đây lại là một nguyên nhân của đau khổ, lo âu. Mục đích của phép quán chiếu trên là thúc đẩy ta tu hành tinh tấn và hiểu rơ nghiệp báo hay luật nhân quả có thể ảnh hưởng đến sự tái sinh đời sau. Sau nữa, nó đào luyện cho ta tánh dũng cảm sẵn sàng đối phó với cái chết như người chiến sĩ nơi sa trường.
"Xưa kia, ta đă rút lui vào núi ẩn tu, chỉ v́ ta quá sợ chết. Nhưng ngày hôm nay, cái chết có thể đến, ta không c̣n sợ hăi nữa, v́ ta đă thấy và trở về với chân tánh của tâm [1]." (Djetsun Milarépa)
Chú thích:
[1] Véritable nature de l’esprit: dịch là bổn tánh hay chân tánh của tâm. Thực ra tâm và tánh khác nhau, nhưng đa số chúng ta thường cho tâm là tánh.
Nghiệp báo và luật nhân quả
Tiếp theo ta cần sáng suốt biết rơ những ǵ đáng làm và những ǵ nên tránh phù hợp với luật nhân quả. Một người tạo nhân nào th́ chính người đó sẽ hưởng quả nấy, đó là luật tự tác tự thọ.
Phạm mười điều ác sẽ dẫn đến tái sinh trong kiếp sống đau khổ. Những hành động chi phối bởi tam độc, tùy theo nặng, trung b́nh, nhẹ, sẽ dẫn đến tái sinh nơi địa ngục, ngạ quỷ, hoặc súc sinh. Ngược lại những hành động tốt lành, đạo đức, tùy theo làm nhiều, vừa hay ít, sẽ dẫn đến tái sinh nơi cơi Vô Sắc, Sắc hoặc cơi trời Dục Giới.
Do đó ta phải luôn luôn kiểm soát (những hành động qua) ba nghiệp thân, khẩu, ư.
Theo luật nhân quả th́ sự an vui hạnh phúc là kết quả của những hành động thiện hay nghiệp "trắng" (bạch nghiệp), và sự đau khổ là kết quả của những hành động xấu ác hay nghiệp "đen" (hắc nghiệp). Do đó ta cần phải dứt bỏ những hành động xấu ác và phát triển hạnh lành nếu ta muốn đem lại hạnh phúc cho chính ta và mọi người.
Mười điều ác bao gồm ba điều của thân, bốn của lời nói và ba của tâm ư. Ba điều về thân là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Bốn điều thuộc lời nói là: nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời dụ dỗ và mắng chửi. Ba điều thuộc tâm ư là: tham muốn những ǵ thuộc sở hữu của kẻ khác, nuôi dưỡng ḷng sân hận, và chấp chặt những tà kiến (ư nghĩ sai lầm) như không tin luật nhân quả.
Không làm mười điều ác kể trên có thể được xem là mười điều thiện. Song le, nếu có tâm nguyện Bồ Tát ta có thể làm mười điều thiện hảo sau đây: cứu sống sinh vật; bố thí; giữ giới và khuyên người khác giữ giới; nói lời chân thật; nói lời hoà giải; đem lại tin yêu; nói lời êm dịu; ít muốn và biết đủ; nuôi dưỡng ḷng từ bi; giảng nói chánh kiến.
Từ bỏ sát sinh, cứu sống mạng người sẽ được trường thọ; ngược lại, tiếp tục giết hại th́ mạng căn ngắn ngủi và đầy bệnh tật. Quảng đại bố thí sẽ đưa đến giàu có; trộm cắp dẫn đến nghèo khổ, nạn nhân của bóc lột. Giữ giới thanh tịnh thân thể sẽ được cường tráng, an vui ḥa thuận vợ chồng; phá giới, tà dâm, thân thể sẽ bạc nhược, gia đ́nh tan ră. Nói lời chân thật sẽ được tin cậy; nói dối đem lại bất tín. Nói lời ḥa giải th́ bạn bè luôn luôn thắm thiết; nói lời chia rẽ gây nhiều kẻ thù và sự ganh ghét. Nói lời đứng đắn, không ỷ ngữ sẽ được nghe lại nhiều điều hữu ích; nói xàm hay dụ dỗ sẽ bị nghe lại những điều lẩm cẩm vô ích. Nói lời êm dịu sẽ được kính mến; nói lời hung dữ sẽ bị mắng chửi.
Nếu biết tự măn không tham lam, đời sống sẽ cụ túc. Nếu luôn luôn ḍm ngó, ham muốn vật sở hữu của người th́ muôn đời thiếu thốn. Có ḷng từ bi sẽ được đối xử tử tế và kính trọng, ngược lại, độc ác sẽ bị đối xử tệ bạc và nghi ngờ. Giảng nói điều chân chính th́ thông minh và trí huệ sẽ tăng trưởng, chấp chặt vào sự hiểu biết sai lầm th́ tâm trí sẽ nhỏ hẹp và ngu đần.
Trên đây kể sơ lược kết quả của những hành động (nghiệp nhân). Có một cách khác đoán biết nghiệp quả tương lai, đó là nh́n vào những động lực thúc đẩy sự tác nghiệp. Nếu hành động tác nghiệp bị chi phối bởi kiêu mạn sẽ dẫn đến tái sinh trong loài trời; loài A Tu La bởi sự ganh tỵ; loài người bởi sự ham dục; loài súc sinh bởi sự u mê; loài quỷ đói bởi sự keo kiệt và loài địa ngục bởi sự ác độc.
Sau khi nghiên cứu và học hỏi kỹ lưỡng luật nhân quả và nghiệp báo, ta cố gắng làm nhiều và tăng trưởng điều lành, ngăn chặn và dứt bỏ điều ác. Đó là bài dự bị tu tập thứ sáu.
Sự đau khổ của luân hồi
Nếu muốn giải thoát khỏi luân hồi, ta cần phải quán chiếu về đau khổ và sang tâm nhàm chán nó. Có thực sự nhàm chán mới nôn nóng t́m cầu giải thoát. C̣n không th́ dù có học rộng biết nhiều (kinh điển) cũng chỉ lần lựa qua ngày, tiếp tục trôi lăn trong sanh tử.
Bây giờ hăy quán sơ về nỗi khổ của chúng sanh trong lục đạo. Chúng sanh ở địa ngục bị hành hạ, thiêu đốt; ngạ quỷ luôn luôn đói khát; súc sinh bị đánh đập, nuốt xé; loài người phải sinh, già, bệnh, chết; A Tu La luôn luôn chiến tranh; loài trời th́ đau đớn và sợ hăi lúc mạng chung.
Tất cả những ǵ xảy đến với chúng ta, dù đau khổ hay sung sướng cũng đều là đau khổ, v́ nằm trong "khổ khổ", "hành khổ" và "hoại khổ". Dù tái sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravartin), Phạm Thiên (Brahma) hay Đế thích (Indra), v.v..., cũng không thể thoát khỏi ba cái khổ trên. Ư thức và tin chắc rằng sinh tử, luân hồi chẳng khác chi ngục tù, hầm lửa, vực sâu, ta phải nhanh chân t́m cầu ngay từ bây giờ một con đường giải thoát.
Có ba loại đau khổ: khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Khổ khổ là sự đau khổ thông thường (khổ trong cái khổ) như bịnh hoạn, già yếu, v.v... Có nhiều sự vật bên ngoài dường như sung sướng, nhưng giây phút sau liền đem lại đau khổ: một bữa yến tiệc linh đ́nh có thể đem lại đau bụng hay bội thực, một phút khoái lạc nhục dục có thể đem lại bệnh tật suốt đời. Đây gọi là hành khổ, sự đau khổ của biến chuyển bất thường.
Có một sự đau khổ luôn luôn hiện hữu, tiềm tàng trong mọi vật mà người thường gần như không hay biết, nhưng đối với các bậc Thánh (Aryas) đă có cái thấy thanh tịnh về tánh Không th́ lại thấy rơ ràng như ban ngày, đó là Hoại khổ. Tất cả sự vật trên thế gian này đều do nhân duyên giả hợp mà có, đều đang bị tàn hoại trong từng giây phút, từng sát na.
Sau khi quán chiếu như trên, ta làm khởi lên sự nhàm chán đối với cuộc đời và phát tâm cầu giải thoát khỏi đau khổ. Đây là tâm nguyện của Tiểu thừa, và nếu phối hợp với sự thấu hiểu về tánh Không (Vacuité) sẽ dẫn đến giải thoát hoàn toàn. Nếu muốn giải thoát và cùng lúc đạt được nhất thiết trí (omniscience) th́ ta phải tiến xa hơn. Ngoài sự sanh tâm nhàm chán cuộc đời, ta cần phát khởi tâm Bồ Đề. Ư thức được tất cả chúng sinh trong luân hồi đều đang chịu đau khổ, mong muốn được giải thoát, nên ta cần phải cố gắng đạt được Phật quả [1] để cứu độ họ. Chính nhờ tâm nguyện này phối hợp với sự chứng ngộ Không tánh sẽ dẫn đến Chánh Đẳng Chánh Giác.
Trên đây là bài dự bị tu tập thứ bảy: quán chiếu về đau khổ của luân hồi và phát tâm Bồ Đề.
Chú thích:
[1] Các sách Âu Mỹ khi nói đến sự chứng ngộ hay thành Phật thường dùng chữ Etat de Buddha, v́ chứng ngộ là một trạng thái tâm linh hơn là thể xác.
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 13 of 15: Đă gửi: 13 May 2006 lúc 12:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
(tiếp theo)
Được thân người là chuyện hy hữu
Chúng ta tu hành, tụng kinh, ngồi thiền được là nhờ có thân người quư báu. Tuy vậy đa số lại hờ hững không để ư, thả trôi theo trụy lạc và lười biếng. Nếu ngày mai thần chết đến, ta phải ĺa bỏ xác thân ra đi với hai bàn tay trắng, lúc đó ta sẽ ra sao? Phải biết, có được thân người là chuyện hy hữu, v́ rất khó được mà lại dễ mất. Do đó ta đừng phí phạm ngày giờ, hăy dành trọn cuộc đời vào sự tu học và thiền quán. Quán chiếu như vậy thuộc bài dự bị tu tập thứ tám.
Một thân người có đầy đủ lục căn và nhân duyên để học và hành Phật pháp quả thật hiếm có và quư giá. Nó là một dụng cụ dẫn ta đến giác ngộ và giải thoát, nhưng ngược lại, nếu không cẩn thận, nó cũng có thể dẫn ta đầu thai ở những cảnh khổ. Tái sanh được làm người như trên do nhờ đời trước đă tích tụ công đức và trí huệ, nhất là giữ giới cũng như thành tâm cầu nguyện. Tôn giả B́nh Thiên (Santidéva) nói rằng: "Thân người rất khó được, chẳng khác chi việc một con rùa mù sống dưới đáy biển, 100 năm mới trồi lên mặt nước một lần để chui cổ vào một cái ṿng vàng, mà gió thổi lênh đênh trên mặt biển". Trong thí dụ trên, con rùa tượng trưng chúng sinh, mù là vô minh, ở dưới đáy biển là sống trong ba đường khổ, trồi lên mặt biển là tái sinh, ṿng vàng tượng trưng cho thân người, gió thổi ṿng trôi lênh đênh chính là gió nghiệp.
Tính theo số lượng th́ sự tái sinh làm người cũng vô cùng khan hiếm. Trong Kinh sách thường nói số chúng sinh ở địa ngục đông như số cát trong sa mạc, số ngạ quỷ như những hạt bụi trong không khí, số thú vật như những ngôi sao trên trời ban đêm và số loài người như những ngôi sao thấy được ban ngàỵ. Mặt khác, ta có thể kiểm tra nhân số của một nước, nhưng không thể nào tính đếm được số thú vật, côn trùng và vi trùng ở trong nước đó.
Ngoài ra, trong số dân chúng trên địa cầu này, những người có ḷng từ bi, quảng đại rất hiếm, và trong số này những người có nhân duyên và khả năng tu tập Phật pháp lại ít hơn một trăm ngàn lần. Do vậy, một khi đă có được thân người, đừng nên phí phạm; cái chết luôn luôn đến quá sớm, quá bất ngờ. Ta đừng nên giống như những người lái buôn ra biển t́m kho tàng, bảo vật mà lại trở về tay không. Hăy từ bỏ những khoái lạc phù du, tinh tấn tu tập Phật pháp để sớm đạt hạnh phúc tuyệt đối, vĩnh cửu.
Bốn điều kiện cần thiết
Luôn luôn ghi nhớ trong tâm về sự vô thường của cuộc đời và sanh tâm nhàm chán. Phải nương theo một vị Thầy giác ngộ. Đây là điều kiện chính yếu dẫn đến thành công. Dứt bỏ những thành kiến phân biệt về tông phái. Tất cả giáo lư của các trường phái khác nhau chỉ là những phương tiện thiện xảo, tùy theo căn cơ của chúng sinh, dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Do đó không nên khởi tâm nghi ngờ về pháp môn ḿnh đang tu tập.
Mặc dù thành tâm tinh tấn tu tập nhưng không dính mắc vào hy vọng và lo âu như nghĩ rằng: "Nếu ta thiền quán bây giờ, hoặc trong quá khứ hoặc tương lai, th́ ta được phước, nếu không th́ thật xấu hổ, v.v...".
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
monk1982 Hội viên


Đă tham gia: 11 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 6
|
Msg 14 of 15: Đă gửi: 16 May 2006 lúc 4:22am | Đă lưu IP
|
|
|
thanks nh́u lém bài hay wa ha..
__________________ Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhăn tiền quá,
Cố nhữ đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa l
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên

Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 15 of 15: Đă gửi: 20 May 2006 lúc 2:41am | Đă lưu IP
|
|
|
(tiếp theo)
Chương II
Thiền định
Tư thế căn bản của thân và tâm
Sự tu tập chính yếu bao gồm hai phần: an trụ tâm hay Thiền Định (Samatha, Shiné) và quán chiếu thâm sâu hay Thiền Quán (Vipasyana, Lhagtong).
Trước hết về Thiền Định, có nhiều phương thức tu tập để trụ tâm vào một điểm (Samadhi, Ting Dzin). Nếu biết cách th́ những chướng ngại và vọng niệm sẽ không khởi lên nữa, nhờ đó ta có thể trực nghiệm được gịng tâm thức nguyên thủy [1] và đi sâu vào Thiền Quán.
Hành giả ban đầu tu tập, ngồi xếp bằng theo tư thế kiết già (vajra) hoặc bán già để tiết chế những nguồn nguyên lực [2] đi xuống. Để hướng dẫn những luồng nguyên lực thuộc địa đại chảy vào sạn đạo trung ương [3] th́ phải giữ xương sống thẳng như cột trụ. Để đem những luồng nguyên lực thuộc thủy đại trở về sạn đạo trung ương th́ đ?t hai bàn tay phía dưới rún theo ấn Đại Định, và thả nhẹ hai vai về phía sau. Để điều khiển luồng thuộc hỏa đại trở về trung ương th́ giữ cổ thẳng và thu cằm vào như lưỡi câu. Để hướng dẫn những luồng thuộc phong đại trở về trung ương th́ giữ mắt khép hờ một phần ba, chú vào một điểm dọc theo sống mũi. Môi và lưỡi để tự nhiên, hoặc nếu được th́ để lưỡi đụng ổ gà. Tư thế trên được gọi là tư thế Vairocana.
Sự định tâm hay an trụ tâm là một trạng thái an lạc phát khởi nhờ tâm an trụ vào một điểm, sau khi hàng phục được 5 chướng ngại: tán loạn, hôn trầm, nghi ngờ, mỏi mệt, mờ ám.
Có nhiều cách tu tập: hoặc trú tâm vào một vật, một việc hoặc suy tư về giáo lư như Tứ Diệu Đế, nhưng vẫn không dính mắc vào "tà niệm". Tà niệm ở đây là những ư nghĩ hoàn toàn không liên quan ǵ đến đề mục đang quán chiếu. Không nên lầm nghĩ "vô niệm" là ngồi trơ không nghĩ ǵ hết, vô niệm có nghĩa là vô tà niệm.
Theo giáo lư Mật tông (Tantra), tâm và những luồng nguyên lực liên quan rất mật thiết. Nếu những luồng nguyên lực (prana, lung) trôi chảy đúng đường th́ tâm sẽ vắng lặng; nhưng nếu chúng chảy sai trệch th́ vọng tưởng, vọng niệm khởi lên loạn xạ. Những luồng này trôi chảy trong các ống dẫn lực hay kinh lực (nadi, tsa); trong số đó có ba đường chính là đường kinh giữa (sạn đạo trung ương), một ở bên phải và một ở bên trái, cả ba chạy song song phía trước đường xương sống.
Thông thường, những luồng nguyên lực chỉ di chuyển trong hai đường kinh phải và trái, do đó làm khơi dậy vọng niệm, ảo tưởng. Một khi những luồng nguyên lực được điều khiển và hướng dẫn trở về sạn đạo trung ương th́ mọi vọng niệm tự dứt. Ngồi trong tư thế Vairocana không ngoài thực hiện mục đích trên.
Có nhiều cách phân loại sắp xếp các luồng nguyên lực. Theo sáu phép Du Già của Naropa [4] th́ có năm luồng nguyên lực: 1) luồng đi xuống, nhằm tống khứ ra ngoài những uế trược qua hai đường đại tiểu tiện; 2) luồng đi lên, điều khiển sự hấp thụ thức ăn, sự rung động của cổ họng và giọng nói; 3) luồng tiếp giữ sức sống (sinh lực); 4) luồng điều ḥa sự tiêu hóa; 5) luồng chạy khắp châu thân, tàng ẩn trong mọi động tác.
Có một cách phân loại khác được sắp xếp theo địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại và không đại.
Trong tập sách này, cả hai cách phân loại được phối hợp để chỉ dạy về tư thế Vairocana và điều khiển những luồng nguyên lực.
Sau khi an trụ ở tư thế này, tâm bớt dính mắc vào gịng tư tưởng vọng niệm, dần dần trạng thái vô khái niệm sẽ ảnh hiện. Để tránh sự căng thẳng hay vận công quá mức, trước hết hăy thở ra vài hơi mạnh rồi sau đó chỉ cần hít thở nhẹ nhàng tự nhiên.
Khi thở ra hăy quán tưởng như đang tống khứ tất cả phiền năo và hắc nghiệp ra ngoài. Sau đó, tập hít thở trong chánh niệm, và khi tâm trở lại vắng lặng th́ không cần chú tâm theo dơi hơi thở nữa.
Quán niệm hay nhớ lại sơ về các pháp dự bị tu tập, sau đó cắt đứt tất cả ư niệm, không nghĩ ǵ về quá khứ, tương lai, không bám víu hoặc xua đuổi, chỉ để tâm trong trạng thái trôi chảy tự nhiên, bây giờ và ở đây.
Trên đây là điểm thứ nhất: những tư thế căn bản của thân và tâm, nền tảng quan trọng của Thiền Định, hành giả cần phải tinh tấn thực tập.
Chú thích:
[] Danh từ thông dụng gọi là bổn tánh. [2] Courants d’énergie: c̣n gọi là khí lực. [3] Canal central d’énergie: kinh lực trung ương. [4] Six Yogas de Naropa
Định tâm trên một h́nh sắc
Nếu không thể đem tâm trở về trạng thái tự nhiên và an trú trong đó th́ phải nương vào một vật bên ngoài để chú tâm như một khúc gỗ, ḥn sỏi, tượng Phật, ngọn lửa, v.v... những vật nào tự cảm thấy thích hợp. Không cần suy nghĩ về màu sắc hay h́nh dáng của vật đó, chỉ cần chú ư giữ tâm an trú vào vật trước mặt, không quá căng thẳng hay thả lỏng. Chặt đứt tất cả tư tưởng ngoại biệt.
Nếu tâm quá căng thẳng sẽ cảm thấy lo âu và tức tối; nếu thả lỏng th́ lại bị hôn trầm và mờ ám. Điều tâm cũng giống như lên giây đàn, không căng mà cũng không lỏng th́ đàn mới kêu.
Cách thức chú tâm trên một h́nh sắc cũng tương tợ như việc quan sát một ḥn sỏi nằm dưới đáy ly nước đục. Ḥn sỏi sẽ hiện rơ ràng sau khi tất cả bùn nhơ lắng xuống đáy. Cũng vậy, khi những ư nghĩ không c̣n khởi lên khuấy động, ta sẽ nh́n thấy rơ đối tượng h́nh sắc. Hăy tập nh́n h́nh sắc như một đứa trẻ nhỏ, không b́nh luận hay suy nghĩ [1].
Nếu chú tâm mà không khởi ư nghĩ hay khái niệm th́ tốt. Nhưng nếu chúng khởi lên, chỉ cần nhận biết và không theo, v́ chúng tự khởi tự diệt.
Khi một ư niệm khởi lên, nếu không sáng suốt nhận biết th́ nó sẽ móc nối làm khởi lên muôn vàn ư niệm khác gây chướng ngại cho sự tu tập. Những ư niệm chỉ là tṛ chơi của tâm, tựa như những gợn sóng trên nước, chợt khởi rồi tự tan biến.
Ta có thể chú tâm vào những chủng tự OM màu trắng, AH đỏ và HUM xanh, viết để trước mặt hoặc quán tưởng trong tâm. Ba chữ trên tượng trưng cho thân, ngữ, ư của chư Phật.
Trong lúc tu tập, những ư niệm như "Ta đang thiền, ta không thiền, ta phải làm cho tâm yên lặng, ...", đều phải dứt bỏ. Cần phải kiểm soát và điều khiển tâm an trú vào đề mục. Hăy thực tập những khóa ngắn hạn nhưng thường xuyên. Nhờ sự tập luyện này tâm sẽ trở về trạng thái sáng suốt, tĩnh lặng. Đây là điểm thứ hai của Thiền Định.
Chú thích:
[1] Bavardage ou commentaire mental: thông thường những vọng niệm trong tâm thuộc 2 loại: suy nghĩ và ảo tưởng. Suy nghĩ c̣n được gọi là nói chuyện trong tâm (bavardage mental). Ảo tưởng là những h́nh sắc tưởng tượng hiện trong tâm (cinéma mental).
(c̣n tiếp)
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|