Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 200 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: PHÁP MÔN DI CHUYỂN THẦN THỨC SIÊU SINH Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 1 of 10: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 12:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

Hướng Dẫn về Pháp Môn Chuyển Di Thần Thức Siêu Sinh Tịnh Độ theo Truyền Giảng của Rigdzin Longsal Nyingpo

Tác giả: Chagdud Khadro
Dịch giả: Cư sĩ Nguyên Giác

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

 

Pháp môn P'howa, sự chuyển di thần thức vào lúc từ trần, là một trong những phương tiện chủ yếu của tôi để làm lợi ích người khác từ khi tôi c̣n là một đứa bé. Trong kiếp này, và thực sự – từ những chuyện mà tôi được nghe kể – trong kiếp trước của tôi, tôi đă có năng lực thành tựu P'howa.

Khi rời Tây Tạng để lưu vong năm 1959, tôi nhận thức rằng năng lực về P'howa sẽ cực kỳ hữu dụng cho các đồng hương tị nạn, phải trực diện với xâm lăng, mất mát và các điều kiện xa lạ. Tôi đă bắt đầu truyền giảng pháp môn này rộng răi.

Tại Nepal năm 1978, tôi dạy pháp môn này cho một nhóm học nhân người Tây Phương lần đầu tiên, trong đó có người vợ tương lai của tôi, bây giờ có tên là Chagdud Khadro. Cô ta đă đạt được các dấu hiệu thành tựu khá dễ dàng, và qua nhiều năm, cô đă cho thấy nhiều lợi lạc trong việc tu tập pháp này. Năm 1986, dựa vào các dấu chỉ rơ ràng xuất hiện trong khi thiền định, tôi đă cho phép cô truyền dạy, và năm 1997 tôi cho phép cô truyền phép A Di Đà Phật quán đảnh (Amitabha empowerment). Tôi tự tin rằng cô sẽ không dắt dẫn người khác đi lạc, và tôi đă thấy rằng những ai đă tu học với cô đều thành đạt các dấu hiệu thành công. Tôi hy vọng rằng việc kết tập pháp môn này sẽ tăng ḷng tự tin cho những ai đă thọ nhận giáo pháp P'howa. Tôi cầu nguyện rằng họ sẽ giải thoát vào cơi Tịnh Độ Cực Lạc vào lúc từ trần.

Chagdud Tulku
Chagdud Khadro Ling
Três Coroas, Ba Tâ
y

--ooOoo-

LỜI NÓI ĐẦU

Tập sách P'howa này được viết như một cẩm nang cho những ai đă thọ nhận giáo pháp và sự huấn luyện từ một vị thầy về pháp môn P'howa. Nó không được viết để đọc cho biết, và không ghi lại nhiều chuyện thật và kinh nghiệm cá nhân vốn đă làm phong phú cho pháp môn truyền khẩu của Ngài Chagdud Tulku Rinpoche trong nhiều năm. Sách này cũng không phải để tŕnh bày một cách uyên bác, v́ tôi không có một mảy may ư định cho thấy ḿnh là học giả, dù là theo tiêu chuẩn Tây Tạng hay theo tiêu chuẩn Tây Phương. Sách này chỉ đơn giản là một nơi để tham khảo, một nhắc nhở về các điểm chủ yếu được tŕnh bày trong giáo pháp khẩu truyền.

Tuy nhiên, mặc dù sách rất là ngắn, nó lại mất một thời gian dài để viết ra, v́ pháp môn P'howa kết hợp tất cả các căn bản của việc tu tập và thành tựu Kim Cang Thừa, và dẫn tới cái nh́n thâm sâu vào sự vận hành của thân, khẩu và ư. Là một người tu kém nhanh nhạy, tôi phải mất một thời gian mới đủ chiều sâu kinh nghiệm để có một công lực hữu dụng. Tôi trọn ḷng mang ơn Ngài Chagdud Rinpoche đă dạy tôi pháp môn P'howa hai mươi năm trước ở Nepal, đă khuyến khích tôi kết tập các lời giảng của Ngài, và cho phép tôi giảng dạy. Rinpoche đă có nhiều hóa hiện, cả b́nh an và phẫn nộ, nhưng tận thâm sâu là ḷng kiên nhẫn gần như vô bờ, với tôi, với các chúng sinh. Không có sự sẵn ḷng giảng dạy cho tôi, liên tục điều chỉnh và mở rộng sự tu tập của tôi, chắc chắn là tôi sẽ không thể giảng dạy và hướng dẫn người khác thành tựu P'howa.

Đây cũng là một đặc quyền lớn – và trách nhiệm lớn – khi làm việc với một bản văn trân quư ẩn tàng của Rigdzin Longsal Nyingpo, từ lâu đă là một pháp sư tôi kính ngưỡng. Sinh năm 1685, được tiên tri sẽ là một đại lạt ma, vào lúc 7 tuổi, Ngài đă thông thạo đọc và viết, và đă xin xuất gia làm sư. Ngài bị cha ngăn cản không cho đi tu, cho tới năm hai mươi tuổi, Ngài trốn nhà tới Katog Gonpa. Nơi đó, Ngài theo học Dempa Konchog Gyaltsen và thọ nhận pháp môn Đại Toàn Thiện (Dzogchen), trực nhận bản tánh tuyệt đối của ḿnh. Là một học nhân cực kỳ tinh tấn, không hề cho phép những gian khó gây trở ngại các kỳ thiền thất, Ngài được kính ngưỡng bởi các vị hộ pháp, những vị đă tới phục vụ Ngài, và Ngài c̣n bị thử nghiệm bởi các vị thần địa phương, và rồi chư thần đă lại thán phục Ngài.

Năm 28 tuổi, Ngài rời tu viện và tới tu tập trong các nơi cô đơn, nguy hiểm. Chẳng bao lâu, Ngài gặp Dudul Dorje, vị thầy chính của Ngài, người đă đón nhận Ngài y hệt như một người cha gặp lại đứa con trai. Dudul Dorje nói với Ngài, "Con có các bản văn trân quư ẩn tàng đang chờ con khám phá," và cho Ngài lời khuyên. Một lần nữa, Longsal Nyingpo vào khóa ẩn tu. Vài năm sau, khi Ngài 32 tuổi, Đạo Sư Liên Hoa Sanh (Guru Padmasambhava), trang phục như một hành giả, bước tới và trao cho Ngài một danh mục các bản văn trân quư để đi t́m. Ngài tiếp tục ẩn tu cho tới khi sự chứng ngộ đă trọn đủ.

Đó sẽ là khuôn mẫu suốt đời Ngài, làm hoàn hảo sự thành đạt trong ẩn tu. Sau khi khám phá ra mỗi bản văn trong kho kinh văn trân quư ẩn tàng, Ngài lại vào kỳ thất để bảo đảm là từng phương diện của pháp môn đó được đưa ra hoàn toàn, và để lập một nền tảng mạnh mẽ cho những người sẽ tu học theo Ngài. Những ǵ mà Ngài có thể thành tựu được bằng nỗ lực th́ Ngài không buông lơi. Đặc tính này, cũng như với tư cách người khám phá các bản văn trân quư ẩn tàng và là thành tựu giả, đă biến Ngài thành một đại hành giả.

Rồi tới lúc thích hợp cho Longsal Nyingpo khám phá bản văn trân quư ẩn tàng của một pháp tu liên hệ tới h́nh tướng phẫn nộ của Guru Rinpoche. Bản văn này được giấu gần một tu viện của một tông phái khác, và có lẽ không thuận thảo với tông phái này, một bản văn trân tàng Phái Cổ Mật (Nyingmapa) được khám phá gần đó. Khi Longsal Nyingpo gửi một thông điệp thỉnh cầu sự hợp tác của tu viện trong việc khám phá kinh văn đó, th́ các vị sư mới âm mưu ngăn trở. Thế nên, khi Longsal Nyingpo cỡi ngựa tới tu viện đó, Ngài gặp các lá cờ ghi các kinh cầu trên đó bị nhuộm đen, thay v́ phải đủ thứ màu như b́nh thường. Thay v́ nhang trầm hương thơm, th́ mùi gay gắt của gugul, loại dùng để xua đuổi ma quỷ, tràn ngập trong không khí. Thay v́ các bài kinh cầu được ưa chuộng, các vị sư đă tụng niệm các bài thần chú đầy giận dữ. Ngài xuống ngựa, họ dẫn Ngài tới một chiếc ngai phủ vải đen, và Longsal Nyingpo mới nghĩ ra đó là các dấu hiệu toàn hảo. Không biết rằng bản văn trân tàng ẩn kín sắp được khám phá là về Wrathful Guru Rinpoche (Ngài Đạo Sư Phẫn Nộ), các vị sư đă vô t́nh tạo ra sự liên lập tốt nhất cho sự hoàn thành một sinh hoạt đầy phẫn nộ.

Một hôm, trong khi Longsal Nyingpo đang đi trong xứ Tromtar, nơi sinh của Chagdud Rinpoche, một người đàn ông hiến tặng Ngài một nồi đồng xinh đẹp. Vợ của người này th́ rất thích chiếc nồi đồng, nên trong ḷng cứ tiếc của. Longsal Nyingpo, nh́n được tâm niệm của bà này, mới lấy một sợi lông ngựa và cắt chiếc nồi ra làm hai nửa bằng nhau, và chỉ nhận một nửa làm món cúng dường.

Sự hiện diện của vị thánh tăng này đă gây ra sự kính ngưỡng từ những người quanh Ngài. Con ngựa của Ngài đă để lại một dấu chân trên đá, và khi ngựa này chết và được hỏa thiêu, người ta thấy để lại xá lợi trong tro. Tương tự, khi con ḅ yak của Ngài chết, người ta thấy các h́nh ảnh hiển lộ nơi xương của nó.

Di sản giáo pháp của Rigdzin Longsal Nyingpo th́ siêu đẳng. Cùng với thầy của Ngài, Dudul Dorje, Ngài đă tạo môi trường giác ngộ tại Katog Gonpa. Đặc biệt vào cuối đời, Ngài tập trung khả năng để củng cố Katog. Người học tṛ ưu tú nhất của Ngài là con trai Ngài, Sonam Detsen, kiếp sau của Dudul Dorje. Ḍng phái Longsal vẫn c̣n là một trong những ḍng phái chính được tu tập ở Chagdud Gonpa tại Kham, phía Đông Tây Tạng.

Longsal Nyingpo viên tịch năm 68 tuổi, lúc đó thị hiện nhiều dấu hiệu phép lạ, và các xá lợi dị thường được t́m thấy trong tro hỏa thiêu.

Bản kinh văn về pháp môn P'howa của Ngài Rigdzin Longsal Nyingpo đă đưa tới những uy lực giải thoát, và có chứng cớ hiển hiện trên cuộc đời – và sự chết – của người tu tập hôm nay. Những người được liệt kê dưới đây đă cho thấy dấu hiệu rơ ràng sự thành tựu pháp môn P'howa. Tất cả họ đều sống cuộc đời cư sĩ b́nh thường, và đối với nhiều người trong đó th́ pháp môn P'howa là liên hệ duy nhất của họ đối với Phật Giáo Tây Tạng, nhưng trong vô lượng kiếp luân hồi trong ḍng sinh tử, họ đă t́m được giải thoát vào trong cơi Tịnh Độ Cực Lạc. Nơi đó, họ hóa thân thành các vị bồ tát, và không c̣n ǵ ngăn trở sự thành tựu giác ngộ tuyệt đối của họ.

Alice Miranda, một phụ nữ Canada, đă chết v́ ung thư ngực. Việc bà tu tập pháp môn P'howa được hộ niệm bởi Helen Orr.

Terri Laska chết v́ ung thư phổi. Bà được hộ niệm bởi các thành viên trong tăng thân Chagdud Gonpa trong khoảnh khắc sau khi chết.

Reece Smith chết v́ ung thư ruột. Sau khi được Chagdud Rinpoche dạy pháp môn P'howa năm 1981, ông tu tập thường xuyên. Vào khoảnh khắc trước khi chết năm 1996, ông chỉ đơn giản nói, "P'hat, p'hat, p'hat," tự chuyển di thần thức của ḿnh với các dấu hiệu thù thắng. Thành viên tăng thân Jeannie Chapman là một trong những người hộ niệm lúc đó cho Smith.

Premal Gold đă đến với Chagdud Rinpoche sau khi bị chẩn đoán có bệnh ung thư ngực. Mặc dù bà tu theo một tôn giáo không phải Phật Giáo, bà có ḷng tin vào pháp môn P'howa và đă tinh tấn tu tập trong khoảng thời gian ngắn ngủi c̣n lại của đời ḿnh. Được hộ niệm bởi các thành viên tăng thân Chagdud Gonpa vào giây phút ĺa đời, bà đă chết với các dấu hiệu thù thắng.

Neilly Joe Gracia, một cậu bé 8 tuổi trong tăng thân, đă chết năm 1994 v́ ung thư năo tại Rigdzin Ling, trụ sở ở Bắc Mỹ của Chagdud Rinpoche. Cậu bé được vây quanh bởi các thành viên tăng thân, và được hộ niệm ngay tức khắc sau khi chết bởi chính Chagdud Rinpoche, người đang ở Moscow vào lúc đó. Sau nhiều cú điện thoại và sự bất định về các dấu hiệu, Ngài Rinpoche cuối cùng nói, "Tôi biết là thần thức của cậu bé đă được chuyển di," và cho các lời dạy cụ thể để ḍ t́m các dấu hiệu [siêu sinh]. Các dấu hiệu đă đúng như lời Ngài mô tả [qua điện thoại].

Carmen Gomez chết tại Rio de Janeiro năm 1995 v́ bệnh tim, được hộ niệm bởi con gái là Clarita Maia, và bởi Ngài Chagdud Rinpoche. Mặc dù bà không phải là người tu tập, bà vẫn hiển lộ các dấu hiệu chuyển di [thần thức vào tịnh độ].

Sự hộ niệm của các thành viên tăng thân được huấn luyện trong pháp môn P'howa th́ rất giá trị trong giây phút ĺa đời. Một trong những cảm hứng của tôi khi viết sách này và trong việc hướng dẫn người tu về phép chuyển di thần thức chính là sự thành lập thêm các nhóm hộ niệm P'howa bởi những người cùng tu với nhau và cùng lập nguyện giúp hộ niệm lẫn nhau khi có ai trong nhóm từ trần. Các nhóm như thế đă được thành lập ở Hoa Kỳ, Ba Tây, Uruguay và Uc Đại Lợi, nhưng vẫn c̣n cần nhiều hơn nữa. Cuốn sách này để hoàn tất một lời hứa tôi đă nói với nhiều người trong các nhóm này. Tôi hy vọng làm nhiều hơn nữa. Và, sâu thẳm, tôi hy vọng rằng họ và tất cả những ai có liên hệ tới pháp môn thù thắng P'howa sẽ t́m được giải thoát trong cơi tịnh độ của Phật A Di Đà và sự giải thoát tối hậu.

 

--ooOoo-

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 2 of 10: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 1:01pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

Hướng Dẫn về Pháp Môn Chuyển Di Thần Thức Siêu Sinh Tịnh Độ theo Truyền Giảng của Rigdzin Longsal Nyingpo

Tác giả: Chagdud Khadro Dịch giả: Cư sĩ Nguyên Giác

 

CHÚ GIẢI VỀ P'HOWA

 

P'howa: Để Chủ Động trong Sự Sống, Chết, và Tái Sinh

 

Tu tập pháp môn P'howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của ḿnh, vào sự tu tập tâm linh của ḿnh, và vào lúc hấp hối của ḿnh. Trong đời sống thường ngày, ngay cả những sinh hoạt b́nh thường nhất cũng mang ư nghĩa mới, khi được nh́n xuyên qua lăng kính của vô thường và sự chết. Pháp tu P'howa đi thẳng vào sự kiện rằng chết là điều tất yếu, và rằng với mỗi giây phút th́ chúng ta tới gần cái chết hơn. Bám víu vào những sự ổn định hư giả sẽ không ngăn cản hay làm chậm hướng đi về cơi chết. Sự tự tin có được là nhờ dùng lấy bất kỳ những ǵ sinh khởi trong vở kịch của vô thường như là cơ hội để làm thanh tịnh tâm ḿnh, và sinh khởi phước đức. Tự tin cũng đến từ sự trực nhận về cái [tự tánh] bất động, chơn thực, và tuyệt đối, và có thể kinh nghiệm điều này liên tục. Giáo pháp và tu tập pháp môn P'howa dẫn tới ḷng tin xác thật vào hướng đi trong cơi thực tại tương đối, và ḷng tin xác thật khởi lên từ sự chứng ngộ cái bản tánh tuyệt đối của thực tại. Cắt xuyên vào sự vượt qua cái chết sẽ cho phép chúng ta thấy rơ ràng tầm mức quan trọng của thân người.

Khả năng thực hiện pháp môn P'howa bảo đảm rằng ngay cả nếu cái chết can thiệp và cắt ngắn cơ hội tu tập trong kiếp này, người ta vẫn có thể tiếp tục đường tu trong các điều kiện thù thắng. Ngay cả khi với nghiệp lực chưa thanh tịnh, học nhân cũng không bị kéo lùi vào cơi luân hồi quanh co và bất trắc. Thêm nữa, pháp môn P'howa giúp tu tập tốt đẹp trong các giai đoạn phát triển và hoàn tất Phật Giáo Kim Cang Thừa, kết hợp các phương diện của ba pháp môn cao nhất – tức là các pháp du già maha, anu và ati. Tu tập vững vàng trong P'howa cũng thiết lập căn bản vững chắc cho việc học các pháp môn Kim Cang Thừa khác và để đạt các dấu hiệu đặc biệt của sự thành tựu Kim Cang Thừa.

Tu tập pháp P'howa làm cho học nhân tự tin trong lúc hấp hối và lúc ĺa trần bằng cách cung cấp cho học nhân phương tiện để giải thoát thần thức ḿnh vào cơi tịnh độ Cực Lạc của Phật A Di Đà, hay ít nhất cũng được tái sinh tốt đẹp hơn để có cơ hội tu tập. Trong pháp tu có tên là "pháp P'howa của ba sự chứng nhập," kênh giữa được nhận thức như là con đường, quả cầu thần thức (LDG: hay giác linh của người từ trần) th́ như người du hành trên con đường, và tâm của Phật A Di Đà th́ như là nơi đến. Trong khi tu tập, các dấu hiệu vật lư thực sự có khởi lên, cho thấy rằng một kẽ hở nhỏ đă xuất hiện tại luân xa đỉnh đầu [của học nhân] và con đường này sẽ dùng chuyển di thần thức vào giây phút ĺa trần. Những dấu hiệu này thường xảy ra trong ṿng một ngày hay hai ngày, khi học nhân tu tập trực tiếp với một vị thầy P'howa, xảy ra trong ṿng một tuần hay hai tuần nếu học nhân tu tập đơn độc. Sau đó th́ việc tu tập làm cho pháp P'howa gần như một phản xạ tự động, làm cho học nhân tự tin rằng, ngay cả trong các hoàn cảnh trở ngại, họ vẫn có thể nhớ tới và thành tựu việc chuyển di thần thức.

Pháp môn P'howa của ba sự chứng nhập là phần thứ tư trong năm phạm trù của P'howa, và trao truyền từ nhiều ḍng phái. Ba phạm trù đáp ứng trực tiếp tới tam thân (LDG: ba thân của Phật).

P'howa Pháp Thân là sự chuyển di thần thức vào trạng thái tỉnh thức tự tại, xa ĺa thời gian (Tạng Ngữ: yeshe) – vào không gian căn bản, Tánh Không.

P'howa Báo Thân là sự chuyển di thần thức vào trạng thái tâm thức bất nhị, trong sáng của sự hiện hữu thanh tịnh khởi lên liên tục từ Tánh Không.

P'howa Ứng Thân là sự chuyển di thần thức vào trạng thái của tâm từ bi vô lượng.

Pháp môn P'howa của ba sự chứng nhập th́ liên hệ tới sự chuyển di ứng thân, trong đó học nhân chuyển di thần thức vào sự hóa hiện ứng thân của từ tâm của Phật A Di Đà, tức là cơi tịnh độ Cực Lạc.

Pháp môn P'howa pháp thân, báo thân, và ứng thân có thể thành tựu phù hợp với các giai đoạn thân trung ấm của người chết (Tạng ngữ: bardo), hay là xuyên qua các phương pháp thiền định trong đời người. Điều này sẽ được giải thích kỹ càng hơn trong chương nói về thành tựu P'howa vào lúc ĺa đời. Phạm trù thứ năm, gọi là "pháp P'howa của cứu độ từ bi," nói về việc chuyển di thần thức của người khác. Điều này sẽ được giải thích trong cùng chương.

Pháp P'howa của ba sự chứng nhập liên hệ tới các phương diện của các pháp du già maha, anu, và ati, và đ̣i hỏi sức quán tưởng mạnh. Học nhân cũng phải tập cho có khả năng để thư giăn tạm thời sức tập trung của ḿnh trên các h́nh ảnh của sự quán tưởng, an nghỉ tâm ḿnh trên kinh nghiệm bất nhị về sự không cách biệt giữa tâm ḿnh và tâm Phật A Di Đà, rồi lại quán tưởng tiếp tục. Như thế, P'howa cũng là pháp tu thù thắng cho các giai đoạn phát triển và thành tựu Kim Cang Thừa.

Là một người b́nh thường, chúng ta bị ràng buộc bởi các cảm nhận hạn chế của thân xác ḿnh như là một cá thể có thực, cụ thể. Nhưng ngay cả một phản chiếu của khoảnh khắc lại nhắc nhở chúng ta rằng thân xác ḿnh liên tục biến đổi, từ khi sanh cho tới lúc chết. Chúng ta không thể t́m ra một khoảnh khắc của sự ổn định, không một mảy may ǵ về cái hiện hữu nội tại, về bất cứ thứ ǵ hơn là sự liên lập tương thuộc của các phần tử và chức năng mà chúng ta gọi là "thân" của ḿnh cho cái thời khoảng của kiếp này. Sau khi chết, khi thân thể không c̣n điều khiển bởi thần thức nữa, th́ cái h́nh tướng đó tan ră.

Ngoài cái sắc tướng ra, chúng ta c̣n buộc vào với thọ, tưởng, hành, và thức, tất cả chung nhau là ngũ ấm ngăn trở sự tỉnh thức vô ngại. Khi, xuyên qua pháp niệm tưởng về tính vô thường và trí huệ quán chiếu, chúng ta bắt đầu chứng ngộ Tánh Không của các ấm, chúng ta cũng bắt đầu giải thoát khỏi cái hư vọng do chúng tạo nên. Xuyên qua phương pháp chuyển hóa của Kim Cang Thừa về tu tập giai đoạn phát triển, đặc biệt là pháp quán tưởng bổn tôn (LDG: quán tưởng về vị Phật hay Bồ Tát bảo hộ), chúng ta bắt đầu kinh nghiệm trực tiếp về hiển lộ thanh tịnh thân khẩu ư của bổn tôn.

Một cách tận cùng, pháp tu Kim Cang Thừa đ̣i hỏi chúng ta chứng ngộ rằng tất cả những ǵ khởi lên như h́nh tướng, không cách biệt khỏi Tánh Không của nó, chính là hiển lộ của h́nh tướng vị bổn tôn.

Tương tự, tất cả những ǵ khởi lên như âm thanh, không cách biệt với Tánh Không, chính là âm thanh câu thần chú của bổn tôn.

Tất cả những ǵ hiển lộ như tâm ư, trong Tự Tánh vẫn là Không, chính là hiển lộ của tâm đấng bổn tôn.

Việc ǵn giữ ba nghiệp thanh tịnh như thế vào lúc hấp hối – khi thân xác đang hư ră, khi âm thanh tan dần vào hỗn loạn, khi ư thức và cảm xúc có hướng mất kiểm soát – th́ quả là cực kỳ khó khăn.

Chúng ta thực sự không thể mong đợi thành công, trừ phi chúng ta đă tu tập kỹ càng trong kiếp này, cắt đứt khỏi những ràng buộc và trở ngại vốn kéo tŕ chúng ta vào hư vọng và gây cản trở cho tự tánh thanh tịnh của tất cả các hiện tướng.

Bằng cách nhận biết rơ ràng về cái chết đang đến và bằng cách vận dụng phương pháp thiền định Kim Cang Thừa phi thường, người tu pháp môn P'howa sẽ tăng thêm cơ hội có những giây phút cuối giữ tâm b́nh an và từ bi mà ĺa trần, chuyển thần thức trực tiếp từ cơi này vào cơi tịnh độ của Phật A Di Đà. Khi vững vàng thấu đạt pháp môn P'howa, học nhân không c̣n cần hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi để chết an ổn. Thay vào đó, [với] sự nhận biết vạn pháp chỉ như tṛ bày vẽ, mà tự tánh vạn pháp vốn thanh tịnh, sẽ dẫn tới tâm b́nh an và hợp nhất với cái vọng cảnh như huyễn như mơ của cái đang-chết và, khi thời điểm chín mùi, sẽ đưa chúng ta vào cảnh giới giải thoát xa ĺa vọng cảnh luân hồi.

-ooOoo-

 

Bốn Nguyên Nhân Để Sinh Vào Cơi Tịnh Độ Của Phật A Di Đà

 

Theo văn kinh có tên là "Rolling of Drums" (Đánh Trống Pháp), vô lượng kiếp về trước có một vương quốc an vui mà vị vua rất mực thờ kính vị Phật thời đó, Đức Phật Lokeshvaraja. Vị vua đă rời bỏ ngai vàng, trở thành một vị sư, và nguyện thành đạt giác ngộ. Ngài khởi tâm đại bi, phát lên 48 lời nguyện, và nói rằng sẽ không thành Phật nếu bất kỳ lời nguyện nào trong đó chưa thành tựu. Với những lời đó, trái đất rung chuyển và mưa hoa bay xuống từ khắp trời. Những lời ngợi ca vang lên, và cùng với đó là lời tiên tri rằng vị sư này sẽ chắc chắn thành Phật. Và Ngài đă thành Phật, danh hiệu Phật A Di Đà.

Trong kiếp làm một vị bồ tát tu sĩ, Ngài đă thấy rằng có vô lượng cơi tịnh độ cho các vị chứng ngộ, những người đă chiến thắng được vọng tâm, nhưng không có những cơi như thế cho những ai c̣n gian nan trên đường tu. Trong 48 lời nguyện của Ngài có một ước nguyện tạo ra một cơi thanh tịnh cho tất cả những ai nghe được tên Ngài, mong muốn vào cơi đó, xây dựng cội rễ công đức, và hồi hướng các công hạnh phước đức để được siêu sinh vào cơi tịnh độ đó. Ư nguyện của Ngài mạnh tới nổi Ngài thề không thành Phật, nếu Ngài không thành tựu được một cơi tịnh độ như thế.

Trong tâm thức giác ngộ, Phật A Di Đà vẫn luôn duy tŕ trong sự chứng biết pháp thân, trong sự nhận biết không gián đoạn về bản tánh tuyệt đối, trong cái rộng lớn bao trùm hết thảy. Nhưng cái bản chất rỗng rang, cái không gian căn bản, của pháp thân th́ không đơn giản là cái không ǵ hết; mà nó mang giữ tṛn đầy năng lực để phát khởi không ngưng nghỉ sự hóa hiện của báo thân và sắc thân. Các cảnh giới thanh tịnh báo thân và các cung điện cơi trời sẽ hóa hiện ra cho các vị Phật và các bồ tát thập địa, những người đă xa ĺa phiền năo, nên có thể kinh nghiệm và hân hưởng các hiện tượng thanh tịnh như thế. Các hóa hiện sắc thân sẽ khởi lên tùy theo nghiệp chúng sinh sáu cơi.

Cơi Cực Lạc (Dewachen), tức cảnh giới của Niềm Vui Lớn đă hóa hiện ra nhờ nguyện lực Phật A Di Đà, có thể đón nhận những chúng sinh chưa trở thành bồ tát thập địa, nhưng chỉ nhờ ḷng tin vào Phật A Di Đà và mong muốn được sinh vào cơi thanh tịnh của Ngài. Nơi đó, họ có thể tiếp tục đường tu để tới giác ngộ trong một cơi thuần an lạc, vượt ra ngoài những khổ đau. Trong Phật Giáo Kim Cang Thừa, hướng dẫn thần thức học nhân để tái sinh vào Cơi Cực Lạc th́ được thành tựu hiệu quả nhất qua pháp môn P'howa.

Ngay cả người chưa thành đạt mức độ thanh tịnh cao cũng có thể, xuyên qua ḷng tin mănh liệt và nguyện lực, được siêu sinh vào Cơi Cực Lạc. Sau khi chết, thần thức người đó được bao bọc bởi một hoa sen cho tới khi hầu hết các chướng ngại biến mất và cơi tịnh độ hiển lộ. Khi hoa sen nở, học nhân sẽ thấy một vùng đất của những phần tử ḥa hài, không c̣n các xung khắc, với không g̣ đống, nguy hiểm hay có thể gây hại. Nhiệt độ tự điều chỉnh theo ư muốn cá nhân. Hoa trải thảm trên mặt đất và gió thổi nhẹ nhẹ, mang mùi hương dễ chịu. Nhiều loại chim kỳ diệu hát các bài ca giàu âm điệu của Phật Pháp, chuông vang dịu dàng, và cây rung chuyển cũng mang theo diệu nghĩa.

Cung điện sáng ngời của Phật A Di Đà đứng nơi giữa Cơi Cực Lạc, và Đức Phật ngồi trong đó, trên một ngai được mang bởi tám con chim công. Nh́n vào khuôn mặt của Phật A Di Đà sẽ làm thanh tịnh nhiều phiền năo, thọ nhận giáo pháp trực tiếp từ Ngài sẽ mở vô lượng cánh cửa vào thiền định. Học nhân có thể thọ nhận giáo pháp và viếng thăm các cơi tịnh độ khác tùy ư ḿnh.

Sau cung điện là một cây bồ đề vĩ đại với từng chiếc lá mang một câu thần chú và trĩu nặng châu báu. Nh́n cây này sẽ bảo vệ được mắt nh́n, chạm xúc vào cây sẽ có sức khỏe, và nghĩ về cây sẽ mang tới sức định kiên cố.

Các chúng sinh trong Cơi Cực Lạc có thân vàng, và khi họ sắp giác ngộ th́ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của thân Phật sẽ xuất hiện. Các thành viên của tăng đoàn là các vị sư, cũng như chính Đức Phật A Di Đà, nhưng nhiều h́nh tướng khác của các thiện tri thức cũng cư trú nơi đây.

Không sự căng thẳng, buồn nản, tiêu cực, hay đau khổ nào làm ngăn trở sự toàn hảo của Cơi Cực Lạc, nhưng học nhân vẫn không bị cô lập khỏi các hoàn cảnh của chúng sinh xoay ṿng trong cảnh luân hồi. Học nhân có thể chứng kiến hoàn cảnh của các chúng sinh, và cảm nhận cùng lúc nỗi đau tương đối của họ và bản chất hư vọng tuyệt đối của chúng. Bởi v́ ḷng từ bi của học nhân ở ngôi bồ tát bất thối th́ không bị ngăn trở, học nhân có thể lựa chọn trở về đầu thai trong cơi luân hồi, không phải v́ nghiệp lực lôi kéo nhưng là v́ ḷng thương xót và muốn cứu độ chúng sinh. Biết những phẩm chất kỳ diệu của Cơi Cực Lạc và khởi tâm mong muốn sinh vào cơi này, đó là nguyên do đầu tiên để được siêu sinh vào cơi tịnh độ này.

Nguyên do thứ nh́ [để văng sinh vào tịnh độ] là khởi tâm thanh tịnh: từ ḷng đại bi thương xót chúng sinh, chúng ta mong cầu giác ngộ để đưa khắp chúng sinh tới bờ giác ngộ. Sự thức tỉnh bồ đề tâm khởi ra khi các phẩm cách thanh tịnh của Phật Tánh của chúng ta – các tâm từ, bi, hỉ và xả – trào lên xuyên qua những lớp che của ḷng ích kỷ b́nh thường xoay quanh tự ngă. Về phương diện pháp môn P'howa, thế nghĩa là chúng ta có ư định thành tựu pháp môn này và sử dụng nó như phương tiện tự giải thoát khỏi cảnh luân hồi với mục đích làm lợi ích người khác. Do đó, chúng ta sẵn ḷng muốn lắng nghe và suy nghĩ về giáo pháp, và tu tập thiền định. Pháp môn P'howa tự thân trở thành vận động trường để tích cực tham dự vào bồ đề tâm xuyên qua sáu pháp toàn thiện ba la mật của bố thí, tŕ giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí huệ. Điều này sẽ được bàn luận sâu thêm trong chương về tu tập P'howa.

Việc huân tập công đức là nguyên do thứ ba để siêu sinh vào Cơi Cực Lạc, và điều này thành tựu bằng cách thực hiện Cúng Dường Bảy Phần, pháp này cũng cốt yếu với nhiều pháp môn khác. Khi hướng về Phật A Di Đà, pháp này gồm các phần sau:

1. Kính Lễ. Hăy quán tưởng Đức Phật A Di Đà trên hư không phía trước chúng ta, chúng ta kính lễ h́nh tướng (thân) giác ngộ của Ngài bằng cách chắp hai tay lên đỉnh đầu chúng ta, kính lễ lời nói (khẩu) giác ngộ của Ngài bằng cách đưa hai tay về tới cổ, và kính lễ tâm (ư) giác ngộ của Ngài bằng cách đưa hai tay về giữa ngực. Rồi chúng ta lạy bằng toàn thân, quán tưởng có thân phụ bên phải của ḿnh, có thân mẫu bên trái của ḿnh, có loài quỷ dữ sau lưng của ḿnh, có kẻ thù nơi phía trước của ḿnh, và có tất cả chúng sinh vây quanh chúng ta. Tất cả đều cùng quỳ lạy với chúng ta, miệng đọc lên kinh nguyện và quán tưởng Phật A Di Đà. Học nhân cũng có thể quán tưởng thấy ḿnh hóa hiện ra vô lượng sắc thân đang quỳ lạy kính lễ Phật A Di Đà. Pháp quỳ lạy là thuốc trị độc dược của cao ngạo.

2. Cúng Dường. Chúng ta cúng dường Phật A Di Đà một đàn pháp mạn đà la vô tận. Một vũ trụ ba ngàn nếp gấp, đại diện cho hiện tượng bất động, dùng như một vật dung chứa, và tất cả chúng sinh – tức hiện tượng sinh động – là những ǵ được chứa trong đó. Món cúng dường này được sắp xếp như một vũ trụ khổng lồ, với núi Tu Di nơi trung tâm, vây quanh bởi bảy ṿng núi vàng trồi lên từ biển nước thanh tịnh. Nơi đỉnh núi Tu Di là các cơi trời. Trong các phương hướng chính, là bốn lục địa, mỗi lục địa nằm giữa hai tiểu lục địa, gồm cả lục địa hướng nam của chúng ta với các cây như ư. Chúng ta quán tưởng các thiên nữ đang cúng dường những h́nh tướng, âm thanh, mùi hương dễ chịu, những vật để chạm xúc và những món ăn để nếm, cũng như tám biểu tượng thịnh vượng, bảy thứ trang phục hoàng gia, và tám bảo vật – nghĩa là mọi thứ có thể làm vui bởi sự quư giá, bởi vẻ đẹp, hay bởi tính linh thánh của chúng. Cúng dường là thuốc chữa trị sự gắn bó ích kỷ.

3. Sám Hối. Đối trước Phật A Di Đà, chúng ta bày tỏ sám hối về tất cả những ǵ chúng ta đă làm sai trái qua thân, khẩu và ư nghiệp. Chúng ta nguyện không phạm lỗi nữa, và đón nhận sự thanh tịnh hóa của Phật A Di Đà trong h́nh thức ánh sáng bao trùm khắp và hoàn toàn làm trong sạch chúng ta. Sám hối là thuốc chữa trị sân hận.

4. Hoan Hỷ. Bằng cách chân thực biết ơn và vui mừng với công hạnh của những người cầu nguyện và quán tưởng về Phật A Di Đà và, một cách tổng quát hơn, của những người đă vào con đường giải thoát, chúng ta đối trị ḷng ghen tị và ganh đua mà đôi khi khởi lên đối với người tu khác. Bất kỳ ai chân thành hoan hỷ v́ công hạnh những người khác cũng thu nhận cùng công đức như người thành tựu công hạnh đó.

5. Thỉnh Pháp. Việc thu nhận kiến thức siêu việt được thành tựu xuyên qua nghe (văn), suy lường (tư) và thiền định (tu) về giáo pháp. Điều này khởi đầu với một yêu cầu học pháp. Đặc biệt, chúng ta có thể xin học pháp về P'howa và các đề tài liên hệ, nhằm chữa trị sư si mê của chúng ta.

6. Cung Thỉnh Chư Thánh Tăng Ở Lại Trần Gian. Chúng ta cầu nguyện rằng những vị giác ngộ sẽ vẫn ở lại với chúng ta và đừng vào niết bàn. Bằng cách nh́n thấy các vị sư dạy chúng ta pháp môn thiền định về Phật A Di Đà cũng hoàn toàn không tách biệt với Phật A Di Đà, chúng ta dần dần đạt cái nh́n thanh tịnh về những ǵ linh thánh. Điều này chữa trị tà kiến.

7. Hồi Hướng. Thiền định về bất kỳ phương diện nào của Phật A Di Đà cũng có công đức lớn. Cúng dường công đức này cho khắp các chúng sinh sẽ làm lớn rộng thêm công đức này, và không làm cho công đức này mất hay suy giảm đi. Qua sự hồi hướng, công đức khởi lên bởi một người sẽ làm tăng công đức của tất cả chúng sinh, cũng chắc chắn như dầu đổ thêm vào đèn bởi một người sẽ giúp duy tŕ và tăng thêm ánh sáng chia xẻ bởi nhiều người trong pḥng. Sự hồi hướng chữa trị tâm nghi ngờ, mà tâm này có thể khởi lên về khả năng của ḿnh để thành tựu mục tiêu tối hậu để giải thoát tất cả chúng sinh, không bỏ sót ai, vào trong cơi thuần vui của Tịnh Độ. Sự hồi hướng là nguyên do thứ tư để siêu sinh vào Cơi Cực Lạc.

 

--ooOoo-

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 3 of 10: Đă gửi: 09 May 2006 lúc 1:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

 

THẾ GIỚI CỰC LẠC TÂY PHƯƠNG

 

 

Sáu Thân Trung Ấm

Sự hiện hữu của chúng sinh đă bị điều kiện hóa bởi sự sinh, sự chết, và sự chuyển tiếp từ cái chết sang sự tái sinh. Sức khởi động không ngưng nghỉ của nghiệp lực đă làm cho đời sống vô thường. Chúng ta liên tục luân hồi xuyên qua những trạng thái khác nhau của hữu thể, và trong pháp môn P'howa th́ cách hữu dụng nhất để hiểu chúng là trong cách phân loại của sáu thân trung ấm, tức là các trạng thái trung gian.

Thân trung ấm nơi sinh (birthplace bardo) bắt đầu từ khoảnh khắc chào đời, và kết thúc khi từ trần. Nó chỉ cho kiếp sống của chúng sinh, và với kiếp người th́ đây là cơ hội tối thắng để tu tập – có khả năng để làm thanh tịnh các nghiệp xấu và thu thập công đức và sự giác ngộ nhằm giaỉ thoát khỏi luân hồi và hướng dẫn các chúng sinh khác tới giải thoát.

Thân trung ấm nơi sinh trong cơi người thường xen lẫn bởi hai thân trung ấm khác, thân trung ấm chiêm bao (dream bardo) và thân trung ấm của thiền định (bardo of meditative concentration). Cả hai thân này dung chứa tiềm năng cho các trạng thái thâm sâu của tâm thức, mặc dù với hầu hết mọi người chúng chỉ giữ trong khoảng thời gian ngắn. Hệt như thân trung ấm nơi sinh, chúng có thể được vận dụng cho sự tiến bộ tinh thần.

Tiến tŕnh chết xảy ra trong thân trung ấm của khoảnh khắc ĺa đời (bardo of the moment of death), nó tiếp cận với hơi thở cuối cùng và sự hợp nhất vào luân xa quả tim của các năng lực nam và năng lực nữ nguyên thủy của chúng sinh đó. Thân trung ấm này có thể rất ngắn ngủi; nếu người này gặp cái chết chưa đúng thời bởi v́ tai nạn hay v́ bạo lực, hay là nó có thể được kéo dài, nếu người này chết v́ căn bệnh dằng dai. Thân trung ấm của khoảnh khắc ĺa đời là chặng chuyển tiếp chủ yếu trong chu kỳ luân hồi, bởi v́ đó là lúc pháp môn P'howa có thể thành tựu được và sự giải thoát vào cơi tịnh độ có thể đạt được dễ dàng. Tuy nhiên, để thành tựu P'howa, học nhân nên tu tập kỹ lưỡng khi c̣n trong thân trung ấm nơi sinh, bởi v́ tâm thức hỗn loạn thường gây mê mờ vào thời điểm chết.

Đối với hầu hết mọi người, thân trung ấm của chơn tánh của vạn pháp (Anh Ngữ: bardo of the true nature of phenomena; Tây Tạng Ngữ: chos nyid; Phạn Ngữ: dharmata) khởi đầu khi họ rơi vào màn tối đen, sau khi các năng lực nam và nữ hợp nhất trong quả tim. Các thiền sư vĩ đại nào có thể duy tŕ tỉnh thức trong suốt thời chuyển tiếp của cái chết sẽ không rơi vào màn tối đen này. Trong thời khoảng này, các phẩm chất của tâm được buộc vào trong tự tánh bất khả hủy diệt, vào trong tận nguồn vi tế nhất của tâm thức và sự hồn nhiên. Các phẩm chất của tâm về tánh biết – tám phương diện của ư thức – th́ hiện hữu như là quả cầu cốt yếu của ư thức. Đặc tính di động của tâm th́ hiện hữu như là các năng lực nghiệp thức cực kỳ vi tế (tức là "các gió"; Tạng Ngữ là lung), các lực này quấy động các phần tử của ư thức. Sự quấy động nhẹ này làm mê mờ ư thức, và ánh sáng trong suốt (clear light) của thật tánh của vạn pháp khởi lên như một trạng thái bất nhị, bất khả diễn tả của Tánh Biết.

Tất cả chúng sinh, từ bất kỳ cảnh giới nào của đời sống, có một kinh nghiệm chớp nhoáng về tia sáng trong suốt khi họ chết, nhưng đối với hầu hết, nó qua đi trong khoảnh khắc mà không được ghi nhận. Chỉ có các đại thiền giả – những người đă chứng nhập cái nh́n cao nhất qua các pháp thiền của Đại Toàn Thiện, Đại Thủ An, Trung Quán – có khả năng để t́m giải thoát vào pháp thân, để thành đạt giác ngộ, xuyên qua việc chứng nhập ánh sáng trong suốt.

Đối với những người khác, sự giải thoát bị ngăn trở bởi một sự thúc giục về hướng "đầu thai" và một nỗi sợ bị hư vô hóa. Các phương diện vi tế của ư thức, bị quấy động thêm nữa bởi các năng lực tế vi, dẫn khởi lên các hiện tướng thanh tịnh của Tánh Biết, sự xuất hiện các vị thánh hiền ḥa và hung dữ. Anh sáng khởi lên, cùng với các âm thanh cuồng nộ. Và rồi các h́nh tướng xuất hiện từ ánh sáng đó, trước tiên hiện ra như các vị thánh đầy giận dữ cùng với tiếng cười gây kinh hăi. Mỗi vị mặc trang phục riêng đặc biệt và được đi kèm bởi một đoàn hội chúng dầy đặc tới đầy khắp không gian. Rồi các vị thánh hiền ḥa xuất hiện – trong đó có các vị bổn tôn của pháp môn P'howa là Phật A Di Đà, Quan Thế Am Bồ Tát, và Phật Vô Lượng Thọ– sáng rực và đầy kính ngưỡng.

(Ghi chú: Bản Anh văn ghi tên ba vị là Amitabha, Avalokiteshvara và Amitayus. Hai vị đầu dịch ra Việt ngữ là A Di Đà Phật, và Quan Thế Am Bồ Tát. Nhưng chữ "Amitayus" lại có nghĩa là "Vô Lượng Thọ," một danh hiệu khác của Phật A Di Đà. Trong khi theo kinh điển Tịnh Độ th́ vị thứ ba phải là Đại Thế Chí, tức Anh ngữ phải là Mahasthamaprapta. Tuy nhiên, bản Việt dịch sẽ giữ hoàn toàn trung thực với nguyên tác Anh ngữ, và sẽ ghi các chỗ nghi vấn.

Cần phải ghi nhận thêm rằng cuốn Tử Thư Tây Tạng, The Tibetan Book of the Dead - bản Anh dịch và chú giải của Francesca Fremantle và Chogyam Trungpa, ấn bản 2000 của NXB Shambhala, trang 46 - ghi rằng lúc đó "Phật A Di Đà sẽ xuất hiện trước người chết từ hướng Tây Phương Cực Lạc, toàn thân màu đỏ, tay cầm hoa sen và ngồi trên ngai trên lưng chim công, ôm người bạn đạo là Pandaravasini. Ngài được đi kèm theo bởi hai nam bồ tát là Quan Thế Am và Văn Thù và hai nữ bồ tát là Gita và Aloka, để 6 h́nh tướng Phật xuất hiện từ không gian của ánh sáng cầu vồng." Có lẽ, chỉ nên xem các mâu thuẫn nơi đây như là các ngón tay dị biệt đang cùng chỉ về một mặt trăng, và có khi chỉ là mang tính ẩn dụ, chứ không có ǵ sai lạc cả. Hết ghi chú của dịch giả.)

Bất kỳ ai đă tu tập pháp quán tưởng, những ai đă thấy vị bổn tôn chỉ là hóa hiện tự tâm ḿnh, có thể giải thoát được vào cảnh giới Báo Thân. Đối với những người khác, sự hóa hiện của các vị thánh hiền ḥa và hung dữ sẽ chớp qua đi. Những người khác sẽ lùi xa khỏi khối sáng rực đó, và những h́nh ảnh và âm thanh của các vị bổn tôn sẽ biến dạng.

Bây giờ xuất hiện một chuỗi bốn chùm ánh sáng màu, mỗi chùm là hai độ rực rỡ, tập trung trên đầu như một chiếc dù – trước tiên là màu trắng, rồi xanh-đen, vàng, và đỏ. Sau khi chuỗi ánh sáng này hiển lộ, ánh sáng mang nhiều h́nh dạng khác nhau. Rồi một h́nh ảnh khởi lên như một sơ đồ thế giới, với các mạn đà la của tam thân (LDG: Pháp Thân, Báo Thân, Sắc Thân) và, dưới các mạn đà la, là sáu cơi chúng sinh. Sơ đồ này rất trong sáng và chi tiết, và nếu có ai thấy được bản tánh của tam thân, th́ người đó giải thoát. Nếu chúng sinh nào tránh né khỏi các tia sáng chói lọi và bị thu hút về các tia mờ, nếu chúng sinh nào không thấy bản tánh của mạn đà la tam thân và bị thu hút về sáu cơi, th́ các h́nh ảnh nhạt dần, và thân trung ấm của thực tánh của vạn pháp chấm dứt.

Thân trung ấm của sự trở thành (Anh: bardo of becoming; Tạng: sidpa bardo) th́ như một giấc mơ. Nếu có ai đă tập thiền trong kiếp trước của ḿnh đủ vững vàng để nhớ tới vị Thầy của ḿnh hay vị bổn tôn đă chọn, th́ sự giải thoát vào sắc thân [Phật] vẫn có thể thành tựu. Nếu chúng sinh này đă quên đi niềm tin trước đó của ḿnh, và không có thể tái thiết lập thiền định, th́ đau đớn lớn xảy ra. Thân trung ấm của sự trở thành là một nơi hoang vắng, nơi bầu trời mang mầu xám, không có mặt trời hay mặt trăng, Không có nước hay lương thực, và chúng sinh trải qua đủ loại kinh nghiệm hăi hùng, như bị rượt đuổi bởi các nhóm thù nghịch hay là thú rừng, hay là rơi từ các đỉnh núi khi chúng biến thành các trận tuyết lở. Chúng sinh trải qua những kinh nghiệm này như dường chúng sinh này đă mang thân người và không có kư ức ǵ về sự hấp hối, không có kư ức ǵ về thân trung ấm của giây phút ĺa trần, cũng như về thân trung ấm của bản tánh thật của vạn pháp.

Chúng sinh vào thân trung ấm của sự trở thành trong một thân thần-thức (mental body). Năng lực của 5 phần tử (LDG: ngũ uẩn) ḥa lẫn với các phương diện vi tế của ư thức và các năng lực vi tế của thân thần-thức, làm cho nó dày đặc hơn. Năm uẩn phát triển tới điểm mà các thân trung ấm có thể nh́n thấy, và được nh́n thấy bởi các thân trung ấm khác và bởi các vị trong các cảnh giới khác có khả năng thần thông. Các bộ phận cảm quan (LDG: của thân trung ấm) h́nh thành, và cần có dưỡng chất, điều này được tiếp nhận trong h́nh thức mùi hương. Các thân trung ấm không bao giờ ở lâu một nơi, bởi v́, trong trạng thái không cân nặng này, các thân trung ấm tức khắc được mang tới bất cứ nơi nào mà họ mong muốn. Thoạt tiên, họ có thể cảm thấy một cảm giác có sự khoan khái và quyền lực lớn trong trạng thái này, nhưng khi mong muốn của họ đi nơi này và nơi kia và họ bị buộc phải theo, và khi những mong muốn này bị ngăn trở, các thân trung ấm càng lúc càng dao động và bực bội. Họ tụ họp ở các cây xưa, nhà cũ, và các nơi hoang vắng, và loài người cảm nhận các thân trung ấm đó là ma.

Khi các uẩn dày đặc hơn, th́ sự mong muốn, sự ghen tị và sự giận dữ của các thân trung ấm càng tăng. Họ nh́n thấy chúng sinh nơi 6 cơi, và muốn những ǵ mà các chúng sinh đó có. Khát vọng t́m một h́nh tướng trở thành khẩn cấp, và điều này lôi cuốn họ gần thêm tới cơi phù hợp với nghiệp lực của họ. Nếu ư thức của họ mang sự căm thù và giận dữ giết chóc, th́ những cảm xúc này, được triển nở đầy đủ, dẫn tới tái sinh trong cảnh giới địa ngục. Nếu nhiều khát vọng và tham lam, khuynh hướng này khi phát triển đầy đủ sẽ dẫn tới tái sinh trong cơi quỷ thần. Sự ngu dốt và trực giác mù quáng dẫn tới tái sinh trong cảnh giới thú vật. Tính ghen tị và tính cạnh tranh, kết hợp với vài đức hạnh, dẫn tới tái sinh trong cơi bán thiên (demigod realm), trong khi sự hănh diện hay mê luyến niềm vui thiền định, cùng với đức hạnh, dẫn tới các tầng chư thiên cơi dục giới. Thiền định bị mê luyến vào sự trong sáng – viễn kiến, tiên tri và tương tự – dẫn tới tái sinh trong cảnh giới sắc tướng của chư thiên. Thiền định bị mê luyến bởi sự ổn định dẫn tới tái sinh trong cơi trời vô sắc.

Tái sinh trong cơi người là do kết quả tổng hợp của công đức, kết tập từ các việc làm từ bi, và các điều xấu, khởi lên từ ngũ độc. Hoàn cảnh tái sinh vào cơi người – hoặc là người này sẽ giàu hay nghèo, khỏe hay yếu, thông minh hay khờ khạo, tất cả các cực này và khoảng giữa chúng – tùy thuộc chính xác vào tổng hợp nghiệp thiện và nghiệp ác của người đó. Các biến đổi cũng vô tận, bởi v́ ảnh hưởng nghiệp thức th́ không ngừng nghỉ.

Mệt mỏi v́ sự xáo động của thân trung ấm của sự trở thành, thèm khát sự ổn định của một thân xác, một thân trung ấm có nghiệp tái sinh vào cơi người sẽ bị lôi kéo về cảnh giao hợp của bố mẹ tương lai. Nếu trung ấm này sẽ tái sinh làm người nam, th́ sẽ bị lôi kéo về phía người mẹ, và ghen với người cha; nếu sẽ tái sinh làm nữ, th́ bị lôi kéo ngược lại. Vào khoảnh khắc thụ thai, th́ cái tâm thức vô tướng đó, bị thúc đẩy bởi các năng lực vi tế không ngưng nghỉ, kết hợp với tinh trùng và trứng của bố mẹ. Thân trung ấm của sự trở thành giữ tiếp trong khoảng hơn 9 tháng, cho tới khi ra đời, điều cho thấy rằng bánh xe luân hồi đă xoay đủ một ṿng tṛn. Một kiếp người lại bắt đầu.

 

--ooOoo-

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 4 of 10: Đă gửi: 10 May 2006 lúc 1:20pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

Hướng Dẫn về Pháp Môn Chuyển Di Thần Thức Siêu Sinh Tịnh Độ theo Truyền Giảng của Rigdzin Longsal Nyingpo

Tác giả: Chagdud Khadro Dịch giả: Cư sĩ Nguyên Giác

 

 

Chúng Ta Chết Ra Sao?

 

Sự chết của con người rơi vào hai trường hợp: chết như sự kết thúc tự nhiên của đời người, do bệnh hay tuổi già, và cái chết bất ngờ v́ tai nạn hay bạo lực. Cái chết của mỗi người có các yếu tố độc đáo tùy hoàn cảnh, tùy điều kiện thể chất người đó và tùy trạng thái tâm thức người đó. Tuy nhiên, một sự mô tả tổng quát về tiến tŕnh hấp hối của con người có thể giúp chúng ta hiểu chết là ǵ. Có lẽ điều này sẽ lợi ích nhất khi nh́n vào kinh nghiệm này từ quan điểm của người hấp hối.

 

Trong giai đoạn đầu, người hấp hối kinh nghiệm thấy sự tan ră yếu tố của đất (địa đại); yếu tố này được nuôi dưỡng nơi luân xa ở rún (navel chakra). Người này không thể chổi dậy, không thể nhấc tay và chân. Đầu ngả về sau, răng nghiến lại, cơ thể như dường co lại. Người này cảm thấy nặng nề, bị ép xuống. Tầm nh́n mờ đi, và mắt trừng lên không chớp. Người này bị tràn ngập bởi cảm giác buồn ngủ và mụ đi, nửa như kiệt sức hôn mê. Mặc dù không hiển hiện bên ngoài, một dấu hiệu bí mật quan trọng đối với một thiền gia là sự nh́n thấy các thị kiến như ảo ảnh và các tia sáng chớp chớp tràn ngập không gian. Một thiền gia nhận thức trong đó những lung linh đầu tiên về sự trong sáng không bị ngăn trở ở mặt bên kia của trạng thái ngăn trở b́nh thường của tâm.

 

Trong giai đoạn thứ nh́, người hấp hối kinh nghiệm thấy sự tan ră của yếu tố nước (thủy đại); yếu tố này được nuôi dưỡng trong luân xa quả tim (heart chakra). Da và tóc mất sắc tươi nhuận, máu và tinh trùng đóng cục lại, và người này đau đớn v́ sự khô khốc nơi miệng, lỗ mũi, cổ họng, và mắt. Các cảm quan nơi cơ thể bị giảm rất nhiều, làm cho thấy một chút cảm giác đau đớn hay khoan khoái, hơi nóng hay hơi lạnh. Khả năng nghe mất đi, và những tiếng ơ và ư nơi tai ngừng lại. Người này cảm thấy khó chịu, bất an, khó mà hài ḷng. Dấu hiệu bí mật là nh́n thấy các thị kiến của khói tràn ngập không gian.

 

Trong giai đoạn thứ ba, người hấp hối kinh nghiệm thấy sự tan ră của yếu tố lửa (hỏa đại); yếu tố này được nuôi dưỡng nơi luân xa cổ họng. Người này không có thể nuốt nữa, sự tiêu hóa ngưng hoàn toàn, thân nhiệt rút từ tay chân về giữa cơ thể, hơi thở ra trở nên lạnh hơn. Khả năng ngửi mất dần. Người này trở nên mơ màng, và sự nhận biết ngay cả bạn thân và thân nhân cũng mờ dần. Dấu hiệu bí mật là nh́n thấy các thị kiến của các chấm đỏ như là đom đóm tràn ngập không gian.

 

Trong giai đoạn thứ tư, người hấp hối kinh nghiệm thấy sự tan ră yếu tố của gió (phong đại); yếu tố này được nuôi dưỡng nơi luân xa bộ phận sinh dục. Khi luân xa này tan ră, cấu trúc của năng lực trong cơ thể sụp đổ. Người này không c̣n có thể làm bất kỳ hành động nào, mắt đảo ngược, giọng khó nghe, hơi thở ngắt quăng, khả năng nếm và xúc chạm biến mất. Tất cả các phương diện của ư thức thu về luân xa quả tim. H́nh tướng thô lậu của sinh lực xuất ra, làm cho hơi thở ra kéo dài ra.

 

Vào lúc này, nghiệp lực (karmic energy) – lực này thường an trú nơi luân xa bộ phận sinh dục – bắt đầu xuất ra. Nghiệp lực vốn vẫn đi theo với con người từ giây phút nhập thai, và nó quyết định các hoàn cảnh của kiếp sống của người này. Vào giây phút chết, nó xuất ra khỏi cơ thể, khởi lên các thị kiến, một loại duyệt lại nghiệp thức. Những người nào mà trước giờ có hành vi trong thân, khẩu, ư rất mực ác th́ có thể thấy các h́nh tướng kinh hoàng hay là sự chiếu diễn lại các giây phút xấu xa trong đời họ. Họ có thể phản ứng với các tiếng ú ớ kinh hăi. Những ai trước giờ làm nghiệp thiện th́ có thể kinh nghiệm các thị kiến hạnh phúc, an lạc và nh́n thấy h́nh ảnh các bạn thân và của những vị đă giác ngộ. Họ chỉ có một chút sợ hăi sự chết. Người này không c̣n có một liên hệ dù mỏng manh nào với các mục tiêu trần gian. Dấu hiệu bí mật là nh́n thấy các ngọn đèn thắp bằng dầu bơ lung linh đầy khắp không gian.

 

Có một hơi thở hắt ra cuối cùng, dài, theo sau đó là kết thúc khả năng thấy, nghe, ngửi, nếm và chạm xúc. Người này đă chết về mặt cơ thể, nhưng một tiến tŕnh rất vi tế đang xảy ra bên trong.

 

Xuyên suốt đời người này, giọt năng lực màu trắng cốt tủy mà người này nhận được từ người cha khi nhập thai đă được nuôi dưỡng nơi luân xa đỉnh đầu (crown chakra), được treo ngược chiều xuống như mẫu tự Hang màu trắng. Bây giờ, vào lúc chết, nó đi xuống xuyên qua kênh trung tâm để tới luân xa quả tim, làm tan biến tất cả các khái niệm liên hệ tới sự giận dữ. Người này kinh nghiệm thấy một vùng sáng trắng lớn, như là mặt trăng mùa thu đang mọc lên.

 

Nơi luân xa rún, giọt năng lực màu đỏ cốt tủy mà người này nhận từ người mẹ khi nhập thai trước giờ được nuôi dưỡng trong h́nh tướng của một mẫu tự Ah màu đỏ. Bây giờ nó khởi lên xuyên qua kênh trung tâm để tới luân xa quả tim, làm biến mất tất cả các khái niệm liên hệ tới tham ái. Người này kinh nghiệm thấy một vùng sáng đỏ lớn, như mặt trời đang mọc. (Theo một giải thích khác, năng lực trắng của cha liên hệ tới tham ái, của mẹ liên hệ tới giận dữ.)

 

Hai giọt năng lực này hợp nhau nơi luân xa quả tim. Rồi th́ các phương diện vi tế nhất của ư thức, được mang đi bởi các năng lực mỏng manh nhất, ch́m vào trong các giọt năng lực hợp nhất. Tất cả các phương diện của ư thức liên hệ tới vọng tưởng bị làm biến mất. Thân trung ấm của giây phút chết đă qua đi, và chúng sinh này rơi vào trạng thái mất ư thức hệt như lúc bầu trời nửa đêm trong trẻo. Trạng thái mất ư thức này là khởi đầu của thân trung ấm của thực tánh của các hiện tượng (bardo of the true nature of phenomena).

 

Cái c̣n lại trong hiện hữu của chúng sinh này là giọt trung tâm (heart drop) bất khả hủy diệt, mà giọt này mang giữ cái yếu tính của ư thức và các dấu vết mong manh nhất của các năng lực sinh động. Nó có thể duy tŕ trong thân này tới ba ngày đối với một người b́nh thường, duy tŕ lâu hơn đối với một thiền giả. Nếu người chết là một người b́nh thường, người hộ niệm nên vỗ mạnh vào đỉnh đầu [người chết] ngay sau hơi thở cuối cùng để mang thần thức này hướng về luân xa đỉnh đầu và sẽ có một sự tái sanh vào cảnh giới cao hơn. Bởi v́ thần thức đáp ứng với thi thể được xúc chạm, người hộ niệm nên tránh xúc chạm thi thể – đặc biệt là hai chân người chết – để ngăn không cho thần thức bị hút xuống một lối ra phía dưới và sẽ có sự tái sanh vào cảnh giới thấp hơn. Cũng đừng nên hỏa thiêu thi thể trong ṿng ba ngày, v́ sợ rằng thần thức phải trải qua kinh nghiệm bị đốt cháy. Dĩ nhiên, để cho thi thể không bị chạm xúc trong ba ngày là điều khó ǵn giữ ở các nước Tây Phương hơn là ở Tây Tạng.

 

Nếu pháp hộ niệm P'howa thành công, hay có các dấu hiệu rơ ràng khác có vẻ như rằng thần thức đă rời thi thể, th́ những hạn chế về việc xúc chạm thi thể không cần nữa.

 

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
vuithoi
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 April 2005
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 375
Msg 5 of 10: Đă gửi: 10 May 2006 lúc 11:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn vuithoi

Kính chào anh OnlyOne_0,

Xin anh cho phép vuithoi chia xẻ một số kiến thức nhỏ nhoi trong lĩnh vực này.

Để có thể hướng dẫn thần thức 1 cách đầy đủ cần có 1 sự tu tập nhất định. Hơn nữa, không phải tất cả những ai được hướng dẫn đều có thể tái sanh lên cảnh giới cao hơn v́ điều này tùy thuộc vào nghiệp lực của người mất, phước đức của vị thầy và duyên của 2 người.

Tuy nhiên với tất cả tấm ḷng mong muốn cho người đang hấp hối được tái sanh lên cảnh giới cao hơn so với nghiệp duyên của họ th́ người hộ niệm có thể dùng tay ḿnh ấn xoa mạnh trên đỉnh đầu của người hấp hối. Theo phản ứng sinh học tự nhiên th́ thần thức người hấp hối sẽ hướng đến chỗ bị kích thích. Như vậy người hấp hối có thêm 1 cơ hội để tái sanh ở cảnh giới cao hơn.

Xin nhắc lại đây chỉ là 1 cơ hội thôi v́ người hấp hối đang bị những nghiệp cảnh lôi cuốn.

Ngoài việc ứng dụng phương pháp di chuyển thần thức cho người hấp hối, phương pháp này cũng được áp dụng tương tự để khai mở trí tuệ cho người tu tập.

Gọi là khai mở chứ thật sự là sự giúp đỡ bên ngoài để tạo ra môi trường nhẹ nhàng hơn cho tâm thức dễ vào định sâu hơn.

Kính chúc anh an lạc,

Kính chúc mọi người an lạc,

vuithoi



__________________
vui thoi ma
Quay trở về đầu Xem vuithoi's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuithoi
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 6 of 10: Đă gửi: 12 May 2006 lúc 1:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

(tiếp theo)

Tu Tập Pháp P'howa Chuyển Di Thần Thức

 

QUY Y VÀ BỒ ĐỀ TÂM

 

Bài nguyện về quy y và phát bồ đề tâm, được đọc ba lần, mở đầu khóa tu P'howa. Chúng ta quy y Tam Bảo, công nhận [và quy y] vị Thầy hướng dẫn là Phật Thích Ca Mâu Ni, người đă bày tỏ một cách hoàn hảo con đường giác ngộ của bồ tát; quy y giáo pháp của Phật, phương tiện để chúng ta theo gương Phật; và quy y những vị theo chân Ngài, tức tăng đoàn, như những vị đồng hành trên đường tu. Chúng ta quy y không chỉ cho kiếp này, nhưng cho tới khi chúng ta đạt giác ngộ, và trưởng dưỡng ư nguyện bồ đề tâm cho tới khi, không chỉ riêng chúng ta, mà tất cả chúng sinh, thành Phật.

 

Để theo con đường của Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta nguyện tu tập không ngưng nghỉ sáu pháp toàn thiện (lục độ, hay lục ba la mật) của bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Những pháp này là con đường của một vị bồ tát, người thệ nguyện thành đạt giác ngộ để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

 

Bài nguyện quy y và phát bồ đề tâm, một bài nguyện tổng quát cũng dùng cho các pháp tu khác, thiết lập một nền tảng mạnh mẽ và đầy ư nghĩa cho pháp P'howa. Nó nhắc nhở chúng ta rằng pháp môn P'howa lưu xuất từ di sản Phật Pháp, và rằng những vị tu tập với chúng ta là trong tăng đoàn cao quư. Họ gồm những vị đă nh́n qua các quan tâm về ḿnh, những vị đă thấy các đau khổ của người khác và khởi tâm nguyện từ bi để cứu độ. Sự kết hợp giữa tâm nguyện từ bi này với ước vọng đạt nguyện bằng cách giác ngộ chính là sự khai sinh của bồ đề tâm, và ghi dấu sự chuyển hóa của những người b́nh thường này trở thành con Phật.

 

Pháp môn P'howa, được tu tập với sự tỉnh thức về sự chết, cung cấp một diễn trường mạnh mẽ cho việc thực hiện ư nguyện bồ đề tâm. Khi chúng ta nghĩ về nỗi đau khổ khi hấp hối – sự bất định dày đặc và nỗi buồn của sự cắt ĺa, từng sự cắt ĺa một, những dây liên kết của chúng ta với bạn hữu và gia đ́nh, vào tài sản, vào đặc tính cá nhân, vào chính thân xác ḿnh – chúng ta có hay không đă đập vỡ các quan tâm b́nh thường? Chúng ta mong muốn tu tập, vừa cả do nỗi sợ hăi sự chết và cả do niềm hy vọng rằng xuyên qua P'howa, chúng ta sẽ có thể nhảy qua vô lượng chu kỳ sinh tử luân hồi, và được tái sinh trực tiếp trong cơi thanh tịnh của Phật A Di Đà. Ap dụng sáu pháp toàn thiện của bồ tát đạo vào P'howa sẽ cung cấp phương tiện thành tựu các quyền năng phi thường trong kiếp này, kể cả khả năng chuyển di thần thức của những người đang hấp hối. Tận cùng, thành tựu sáu pháp tu tập này dẫn chúng ta không chỉ tới nơi cơi tịnh độ cực lạc mà c̣n tới sự toàn giác.

 

Chúng ta bày tỏ hạnh bố thí xuyên qua pháp P'howa bằng cách dâng hiến th́ giờ và nỗ lực để tu tập, qua việc học cách thực thi pháp P'howa cho người khác, và qua tâm nguyện chúng ta muốn làm lợi ích cho mọi chúng sinh.

Chúng ta trưởng dưỡng hạnh tŕ giới bằng cách ngồi với tư thế tốt và bằng cách làm từng bước tu tập tốt, và qua ư nguyện muốn gạt bỏ qua một bên mọi sinh hoạt bên lề, và tập trung vào pháp P'howa trong các thời thực tập, khi những người khác đang hấp hối, và vào giây phút họ từ trần.

 

Nhẫn nhục th́ cần thiết khi chúng ta gặp các trở ngại tu tập, như thiếu thoải mái khi ngồi và trong tiến tŕnh t́m đạt các dấu hiệu thể lư (LDG: dấu hiệu cụ thể cho thấy người chết siêu sinh tịnh độ). Nhẫn nhục cũng cần thiết khi những người khác t́m cách ngăn cản chúng ta trong khi chúng ta đang nỗ lực thực hiện pháp P'howa cho người đang hấp hối hay cho chính ḿnh.

 

Với tinh tấn, chúng ta liên tập tu học cho tới khi chúng ta có tự tin vào khả năng ḿnh và không bao giờ bị lôi kéo ra khỏi pháp tu dẫn tới cơi tịnh độ.

 

Với thiền định, chúng ta cắt bỏ mọi vọng tưởng trong thiền định và liên tục chú tâm và pháp quán tưởng và tụng niệm. Vào giây phút hấp hối, chúng ta tập trung vào Phật A Di Đà, mà vị Phật này là một thể với bổn sư của chúng ta.

Pháp toàn thiện về trí huệ xảy ra xuyên qua sự chứng ngộ về pháp tu này như là một hiển lộ thanh tịnh của sự hợp nhất giữa pháp tướng và tánh không. Tiến tŕnh thiền pháp P'howa dẫn chúng ta tới chứng ngộ này, bởi v́ trong chuỗi thứ tự mau chóng, chúng ta thay đổi giữa pháp quán tưởng (visualization) và pháp hội nhập (dissolution) vào trong bản tánh bất nhị, phi khái niệm của Phật A Di Đà.

 

PHÁP THỰC TẬP CHÍNH YẾU

 

Quán Tưởng về Đức Quan Thế Am

 

Từ lúc khởi đầu của phần tu tập chính, chúng ta bẻ găy xích xiềng của tâm chấp ngă b́nh thường, và đưa ra từ chính ḿnh cái linh ảnh hóa thân thanh tịnh của bản tánh ḿnh như là Đức Quan Am, vị Thánh của ḷng Đại Bi. Việc tự quán tưởng như vị bổn tôn có ba phương diện quan trọng: quán tưởng linh ảnh trong chi tiết rơ ràng, hiểu ư nghĩa biểu tượng của linh ảnh đó, và ǵn giữ cái "tự hào" của vị bổn tôn - nghĩa là, xuyên qua định tâm mà hiển lộ thân, khẩu và ư của vị bổn tôn không bị gián đoạn. (LDG: Ngắn gọn, tự tâm ḿnh lưu xuất ra linh ảnh Đức Quan Am, rồi học nhân tự quán tưởng ḿnh hợp nhất với Ngài trong cả 3 nghiệp thân, khẩu và ư.)

 

Để tự quán tưởng ḿnh như Đức Quan Am, hăy an nghỉ trong bản tánh của tâm ḿnh như sự rỗng rang, không giữ [niệm] ǵ cả – không cả trần cảnh của thế giới bên ngoài, mà cũng không cả thế giới bên trong của các suy nghĩ, khái niệm và cảm xúc. Thân xác học nhân không c̣n trong h́nh tướng thể lư, dầy đặc, nhưng bây giờ chiếu sáng, màu trắng rực rỡ như một ngàn mặt trời chiếu sáng trên một đỉnh núi tuyết. Ngồi trong tư thế kiết già trên một hoa sen trắng và đĩa mặt trăng, học nhân có một khuôn mặt và bốn cánh tay. Hai bàn tay dưới thấp ôm một viên ngọc như ư màu xanh da trời áp vào tim; bàn tay phải phía trên cầm một xâu chuỗi thủy tinh, và bán tay trái phía trên cầm cọng hoa sen trắng nở gần bên tai.

 

Như Đức Quan Am, học nhân mặc năm mảnh lụa của các vị bổn tôn báo thân – các dây ngũ sắc thả treo từ trên vương miện xuống, một mảnh lụa trắng phía trên thêu với chỉ vàng, một khăn quàng dài màu xanh lá cây bay phất phơ và quấn phía trên các cánh tay, một váy ngắn mà xanh da trời cùng với các quần màu đỏ phía dưới, và một dây lưng. Học nhân cũng mặc tám món bảo ngọc – một vương miện mang các bảo ngọc ngũ sắc, các bông tai, ba độ dài của các dây chuyền đeo cổ, dây chuyền đeo tay, dây chuyền đeo cánh tay, và dây chuyền đeo cổ chân. Những vật trang trí này được khảm vào bằng đá quư.

 

Mỗi mặt của h́nh ảnh này khởi lên một cách tự nhiên và biểu lộ các các phẩm chất, sự hiển lộ thanh tịnh, của tự tánh tuyệt đối. Khi quán tưởng tự thân ḿnh như Đức Quan Am, chúng ta không chỉ tự trang phục ḿnh trong h́nh tướng bề ngoài đẹp đẽ. Trong cảnh chứng nhập bất nhị mà chúng ta t́m đạt, tất cả các chi tiết h́nh tướng đó và ư nghĩa phong phú của chúng hiển lộ một cách tự nhiên từ tánh Phật, tánh của chúng ta và của Đức Quan Am không hai không khác.

 

Màu trắng rực rỡ của Đức Quan Am khởi lên như phẩm chất không bị ô nhiễm bởi sinh tử luân hồi. Ṭa sen của ngài là hiển lộ của tánh không, đĩa mặt trăng là phương tiện thiện xảo. Khuôn mặt của ngài là hiển lộ cho bản chất bất biến của sự thật tuyệt đối.

 

Bốn cánh tay của Đức Quan Am khởi lên như biểu hiện của bốn phẩm tánh vô lượng của từ, bi, hỉ và xả. Hai bàn tay để nơi ngực ngài là để kiết ấn đại bi, và cầm một viên ngọc như ư màu xanh da trời tượng trưng cho t́nh yêu và ḷng thương xót; viên ngọc tự nó đă mang hạnh phúc tới cho chúng sinh. Bàn tay phải phía trên cầm một xâu chuỗi các hạt thủy tinh cùng cỡ bày tỏ tâm xả vô lượng. Bàn tay trái phía trên cầm một hoa sen nở phía bên tai để hiển lộ tâm hỉ vô lượng, đặc biệt là niềm vui được nghe giáo pháp. Cọng hoa cũng nổ ra một trái và một búp. Cánh hoa nở trọn tượng trưng cho chư Phật hiện tại; trái tượng trưng chư Phật quá khứ; và búp tượng trưng chư Phật tương lai.

Thế ngồi kim cang tọa là biểu hiện khác của tâm xả vô lượng của Đức Quan Am, mà tâm này khởi lên từ chứng ngộ tuyệt đối của bản tánh đơn nhất – cái tánh không, một vị đơn nhất – của toàn thể cơi luân hồi và niết bàn. Các trang phục lụa và bảo ngọc, được mang với sự không dính mắc hoàn toàn, bày tỏ sự giàu có của báo thân. Ngài không cần rời bỏ ǵ hết, bởi v́ Ngài không hề nắm giữ ǵ hết.

(c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 7 of 10: Đă gửi: 14 May 2006 lúc 8:34am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Kính tặng bạn OnlyOne_0 và các bạn!



H́nh cảnh mưa hoa cúng dường Đức A Di Đà Như Lai ( Click tại đây để xem h́nh lớn )
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 8 of 10: Đă gửi: 14 May 2006 lúc 8:51am | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 9 of 10: Đă gửi: 14 May 2006 lúc 8:53am | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

 

Cảm ơn bạn phoquang đă tặng h́nh ! Bức ảnh rất đẹp ! Tôi xin phép bạn phoquang

post lại h́nh lớn một chút như ở trên !

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 
OnlyOne_0
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 April 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 254
Msg 10 of 10: Đă gửi: 20 May 2006 lúc 2:55am | Đă lưu IP Trích dẫn OnlyOne_0

(tiếp theo)

 

 

Quán Tưởng Kênh Trung Tâm

 

Chính xác, nơi chính giữa thân ánh sáng của Đức Quan Am là kênh trung ương, chạy từ khoảng cách 4 ngón tay dưới rún, nơi nó [kênh trung ương] được đóng lại, tới luân xa đỉnh đầu, khoảng cách 8 ngón tay phía sau mí tóc nguyên thủy, nơi nó [kênh trung ương] mở ra. Nó th́ thẳng và mỏng y hệt thân của một mũi tên, mềm và linh động như các cánh của một hoa sen, và sáng như ánh sáng ngọn đèn bơ. Đường kính của nó [kênh trung ương] th́ bằng đường kính của ngón tay nhỏ của mỗi người. Nó không phải là một kênh vật chất, thể lư, nhưng thực ra là được cấu thành từ ba cột ánh sáng có chung trọng tâm, cột trong cùng màu đỏ, cột giữa xanh da trời, và cột ngoài cùng màu trắng.

Sự tọa lạc chính xác ngay giữa của kênh bày tỏ pháp Trung Đạo vĩ đại, một quan điểm hoàn toàn xa ĺa các cực đoan của thường kiến (tin vào sự hiện hữu tự thân) và đoạn kiến (tin vào hư vô, không có hiện hữu).

Bản chất trống rỗng của kênh trung ương và cột màu xanh da trời của nó đáp ứng với pháp thân. Sự chói sáng của nó và cột màu đỏ đáp ứng với sự hiển hiện rực rỡ của báo thân. Chức năng của kênh như là con đường tới Cơi Tịnh Độ Cực Lạc và cột màu trắng đáp ứng với sắc thân.

 

Quán Tưởng Luân Xa Quả Tim

 

Trong luân xa quả tim, một lớp ánh sáng rực rỡ tiếp cận với kênh trung ương, cho nên trong thiền định, chúng ta chỉ làm việc với nửa phần trên. Trên lớp ánh sáng này, một hoa sen trắng tám cánh chứa một bầu năng lực màu xanh lá cây lấp lánh. Tám cánh hoa này biểu hiện cho tám phương diện của ư thức (LDG: bát thức), trong đó có năm thức đi kèm theo năm giác quan, một thức làm nền tảng sơ nguyên của tất cả kinh nghiệm b́nh thường, một thức cho chúng ta khái niệm hóa các dữ kiện cảm quan, và một thức chấp ngă khởi lên các cảm xúc xung đột.

 

Năng lực xanh lá cây lấp lánh, cũng được mô tả như "gió nghiệp," bày tỏ phẩm chất hằng hữu của tâm về tính thần túc – tức là khả năng của nó đi tới bất cứ nơi đâu chớp nhoáng. Sự nhận biết, một phẩm chất khác của tâm, được biểu hiện trong một quả cầu trong sáng của ư thức nằm trên nguồn năng lực xanh lá cây đang rung động. Tính thần túc và tính nhận biết là các phẩm chất liên lập của tâm; cho nên, bầu năng lực xanh lá cây và quả cầu trong sáng của ư thức vẫn không tách rời nhau.

 

Quả cầu ư thức có kích thước một viên ngọc nhỏ và chiếu màu cầu ṿng với năm màu của trí tuệ – xanh da trời, trắng, đỏ, vàng, và xanh lá cây. Kinh điển sadhana nói về nó như là "quả trứng của một con chim masal." So sánh này khởi lên từ một linh ảnh của nữ đại thành tựu giả Machig Lapdron trong đó bà nh́n thấy hai con chim dị thường đang giao cấu. Một cách đồng thời, mỗi con chim nhả ra từ miệng một quả trứng trông như ngọc quư với các ṿng ngũ sắc. Tâm b́nh thường trong bản tánh thanh tịnh biểu hiện cho năm thức không bị ràng buộc trong thời gian.

 

(LDG: chữ "sadhana text" trong đoạn văn trên chỉ cho một loại văn bản đặc biệt của Kim Cang Thừa. Cuốn The Encyclopedia of Eastern Philosophy and Religion, NXB Shambhala, Boston 1994, giải thích rằng đó là "một loại đặc biệt các văn bản nghi lễ và các pháp thiền quán ghi trong đó. Kinh điển sadhana mô tả chi tiết các vị bổn tôn được kinh nghiệm như là hiện thực tâm linh, và toàn bộ tiến tŕnh từ pháp quán tưởng bổn tôn cho tới ḥa nhập vào thiền định vô tướng..." Nơi đây chúng ta thấy, mặc dù Tịnh Độ Tông được chư Tổ Trung Hoa tách ra làm một tông phái riêng, nhưng tại Tây Tạng lại được xếp vào làm một phần của Phật Giáo Kim Cang Thừa.)

 

Quán Tưởng về Phật A Di Đà

 

Khoảng ba tấc phía trên luân xa đỉnh đầu đă mở của hành giả là Phật A Di Đà không tách ĺa khỏi hành giả, ngồi trên một hoa sen đa sắc ngàn cánh với một đĩa mặt trời và đĩa mặt trăng. Ngài màu đỏ hồng ngọc, và chiếu ra các tia sáng đỏ theo h́nh quả cầu ra xa vô cùng – tên Ngài trong Tạng Ngữ là Odpagmed, nghĩa là "Vô Lượng Quang." Ngài có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của một vị Phật, gồm cả ṿng hào quang nơi đỉnh đầu Ngài, các chái tai dài, một thân h́nh cân đối tuyệt hảo, và các luân xa tám cạnh nơi gót chân và ḷng bàn tay. Ngài cũng có 60 phẩm chất của diệu âm, kể cả âm điệu dịu dàng, khả năng truyền âm thanh mà không cần lớn tiếng, và khả năng truyền thông mà không cần người thông ngôn.

 

Trong h́nh tướng sắc thân của Ngài, Ngài mặc ba y của một vị sư đặc biệt, một áo xanh da trời như tấm y bên trong, một tấm y phía trên màu vàng, và một tấm y bên ngoài màu đỏ, tương ưng với ba môn học của giới (vinaya), định và huệ. Tay của Ngài đặt thành ấn tam muội, giữ một b́nh bát khất thực bằng ngọc màu xanh da trời sậm chứa đầy nước cam lồ để làm thành tựu các nhu cầu và chữa trị các bệnh cho chúng sinh. Ngài ngồi trong tư thế kim cang tọa (vajra posture).

 

Cũng như với Đức Quán Thế Am, mỗi phương diện của h́nh ảnh đều có ư nghĩa thiêng liêng. Hoa sen biểu hiện cho tính thanh tịnh tự thân của bản tánh tuyệt đối, mà bản tánh này không bị nhiễm ô bởi các hiện tượng luân hồi. Đĩa mặt trời tương ưng với sự tỉnh thức không ràng buộc bởi thời gian, đĩa mặt trăng tương ưng với các phương tiện thiện xảo. Hai chân xếp lại trong thế kim cang tọa nói lên ư nghĩa b́nh lặng.

 

Màu đỏ hồng ngọc của Phật A Di Đà khởi lên từ việc ngài là chủ tể của gia đ́nh hoa sen, với nối kết đặc biệt với sự hóa hiện của lời nói giác ngộ. Xuyên qua tâm ư giác ngộ của Ngài, Phật A Di Đà thực hiện các quyền lực thu hút chúng sinh về giải thoát xuyên qua t́nh yêu và ư thức phân biệt – sự nhận biết cùng lúc về Tánh Không và chi tiết hiển hiện của mọi hiện tượng, cũng như tính tương thuộc hoàn toàn vào nhau của các hiện tượng.

 (c̣n tiếp)

Quay trở về đầu Xem OnlyOne_0's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi OnlyOne_0
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.3086 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO