Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 190 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Kiểm soát Tâm của Chánh Tâm Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 1 of 5: Đă gửi: 25 April 2006 lúc 8:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam

Xin phép bạn chanhtam được post lại bài này v́ là quá hay đi thôi nhưng màu sắc th́ hơi khó đọc (xanh lè, xanh lét )

CHÚNG TA NÊN TỰ KIỂM THẢO TÂM NIỆM CỦA M̀NH

Thưa quư vị!Chúng ta đă hiểu rơ trong tâm mỗi người đềi có 11 anh tướng lành và 30 tên giặc phiền năo. Quư vị đă biết h́nh dạng, tên tuổi và tài năng, binh tướng của ta và của giặc rồi. Vậy chúng ta thường ngày, nên tự kiểm thảo từng giờ, từng phút: khi một tâmniệm nổi lên, chúng ta xem xét nó lả thiện hay ác, Cũng như người cầm binh ra chiến trường, vừa thấy bóng người thấp thoáng, phải quan sát cho kỹ, đây là binh tướng của ta hay của giặc. Có thế mới khỏi cái hại " nhận giặc làm con" và mới mong dẹp trừ được giặc.

Như trong lúc chúng ta thấy tiền của, sắc đẹp danh vọng v.v… sanh ḷng "tham muốn", đó là tham tâm sở hiện ra, nó là giặc phiền năo. Chúng ta phải mau mau trừ đi, như thế gọi là "Tu Tâm"

Trong lúc chúng ta gặp cảnh trái nghịch, "nổi nóng" (sân), "tức giận" (phản) lên, "oán hờn" (hận) và "buồn bă bực tức" (năo) thối đạo, nản ḷng, đó là phiền năo yam sở hiện ra. Nó là giặc đến hại ta, nó sẽ đốt tiêu rừng công đức và phá hoại thành Niết bàn của ta. Ta nhiều kiếp sinh tử luân hồi cũng v́ nó. Vậy người Phật tử phải mau trừ đi; như thế gọi là "Tu Tâm".
Trong lúc chúng ta làm điều tội lỗi, phá trai, phạm giới mà không hổ thẹn với lương tâm, không thẹn với chúng bạn, thế là hai món phiền năo "không hổ" và "không thẹn" hiện ra. Nó là giặc phá hại, chúng ta phải lập tức trừ đi.

Đến giờ tụng kinh, niệm Phật hay đến ngày lễ phải đi chùa lễ Phật nghe kinh, mà chúng ta thấy trong người dă dượi chẳng muốn đi; đó là tâm sở "giải đăi" là giặc; hay chỉ muốn đi coi hát, hoặc đánh bài v.v… đó là tâm sở "buông lung", thuộc về giặc phiền năo, chúng ta phải trừ đi, như thế gọi là "Tu Tâm".

Trong lúc chúng ta làm điều tội lỗi mà che giấu, không chịu phát lồ sám hối; đó là tâm sở "phú" thuộc về giặc phiền năo. Khi chúng ta thấy người có tài năng, danh vọng, hay được lợi lộc, mà sanh ḷng ghen ghét không ưa; đó là tâm sở "tật đố", cũng thuộc về giặc phiền năo.
Khi chúng ta biết được việc hay, không chịu chỉ dạy cho người, hoặc thấy người thiếu thốn về vật chất, ḿnh có của mà không giúp đỡ; đó là tâm sở "bỏn xẻn" thuộc về phiền năo. Nếu giặc phiền năo cường thạnh, th́ nó sẽ phá hại chúng ta vô cùng vô tận.

Trong lúc tụng kinh, niệm Phật mà thấy tâm ḿnh lao chao không yên tĩnh, hoặc miệng nói lắp bắp, nói chuyện ǵ cũng không đáng chuyện ǵ, ngồi đâu th́ nhịp đùi, rung vế, hoặc đứng ngồi không tề chỉnh; đó là "điệu cử tâm sở". C̣n nghĩ tưởng xằng xiêng là "tán loạn tâm sở".
Trong lúc tụng kinh, niệm Phật mà tâm tánh mơ màng, nặng nhọc (ngủ gục) đó là "hôn trầm tâm sở" thuộc về giặc phiền năo; trái lại nhẹ nhàng khoan khoái, tụng niệm sáng suốt là "khinh an tâm sở" thuộc về đạo binh lành.

Xin xăm, bói quẻ, cầu thần, đảo qui, làm những điều mê tín, dị đoan, đốt vàng bạc, giấy tiền, lầu đài kho phướng, chấp chặc theo thành kiến của ḿnh, không tin lời nói phải, hoặc làm theo tục lệ cổ truyền không chánh đáng, giữ ǵn theo những giới cấm tà đạo; như thế đều thuộc về "tà kiến" (ác kiến) tâm sở. Đó là giặc phiền năo, chúng ta phải mau dẹp trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm".

Đối với người, ta dùng những mưu mô để lừa dối, nói năng xảo trá , đó là "cuồng tâm-sở", thuộc về phiền năo; hoặc nói những lời nịnh hót, bợ đỡ, người hỏi không đáp, là "siễm" và "kiêu tâm sở"; có ư khinh rẽ, hiếp đáp lấn lướt người, là "ngă main tâm sở". Trên đây thuộc về giặc phiền năo cả, chúng ta phải diệt trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm" .

Mỗi khi chúng ta thấy việc đạo, sốt sắng ra làm, là "tinh tấn tâm sở"; đến giờ tụng kinh niệm Phật siêng năng, là "tinh tấn tâm sở", thuộc đạo binh lành. Lỡ làm điều ǵ tội lỗi đối với ḿnh hết sức hổ, với người hết sức thẹn, đó là "tàm" và "quí" tâm sở, cũng thuộc về lành. Thấy vàng bạc, của cải, danh vọng, sắc đẹp không tham, đó là " vô tham tâm sở", thuộc binh tướng lành. Đối với cảnh nghịch, ḷng không nóng nảy, giận hờn, đó là " vô si tâm sở", cũng thuộc về lành. Gặp một việc ǵ, ta sáng suốt phán đoán hay dở, lợi hại, là "vô si tâm sở". Không cờ bạc rượ trà phá trai phạm giới, buông lung phóng đảng đó là " bất phóng dật tâm sở". Gặp những việc người ta làm cho ḿnh đau khổ mà ḿnh hỷ xả; làm được việc ǵ hay, tốt, có công đức mà không chấp trước (nghĩ đến) là "hành xả tâm sở". Không giúp ích được người và vật th́ thôi, chớ không làm tổn hại, đó là "bất hại tâm sở". Trên đây đều thuộc về đạo binh hiền từ của chúng ta, chúng ta nuôi dưỡng làm cho nó mạnh mẽ thêm lên, mới mong thắng được giặc phiền năo trên kia. Như thế gọi là "Tu Tâm"

Nói tóm lại, hàng ngày và từng giờ từng phút, chúng ta phải thường tự kiểm thảo tâm ḿnh như thế. Mỗi khi có một niệm nổi lên, chúng ta phải thường tự kiểm thảo tâm ḿnh như thế. Mỗi khi có một niệm nổi lên, chúng ta phải xét ngay coi là thiện hay ác. Nếu ác, th́ chúng ta phải mau mau dẹp trừ; c̣n thiện, th́ chúng ta phải làmsao cho nó thêm tăng trưởng. Nếu giặc phiền năo nổi lên, mà chúng ta để cho nó tự do hoành hành, không sớm dẹp trừ, th́ nó sẽ phá tan nước Công đức, cướp đoạt thành Niết bàn của chúng ta; làm cho ta thành kẻ đê hèn và nô lệ cho vật dục, hoặc phải đọa trong ba đường dữ là Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh.

Trái lại, đạo binh từ thiện trong tâm chúng ta, nếu chúng ta biết nuôi dưỡng nó. Làm cho nó được mạnh mẽ, hùng dũng, th́ nó sẽ đánh tan được giặc phiền năo, giữ ǵn nước Công đức, bảo thủ thành Niết bàn, làm cho ta trở nên hiền, thánh hay Phật.

Đạo binh hiền từ, kháng chiến với giặc phiền năo trong nội tâm chúng ta như thế, không những từng ngày, từng giờ mà phải luôn luôn từng phút từng giây; không phải một năm hai năm, mà phải nhiều đời nhiều kiếp, mới thắng được giặc phiền năo. Kháng chiến như thế mới thật là " trường kỳ kháng chiến". Như Đức Phật Thích Ca phải trải qua bao vô số kiếp tu hành, mới hoàn toàn thắng được giặc phiền năo, thành quả vị Phật. Thành một vị Phật như thế, thật đâu có phải dễ, v́ thế nên gọi là "Phật bảo". Bởi thế nên, chúng ta dù suốt đời lạy Ngài đi nữa, cũng chưa xứng.
Có người nghĩ rằng: "Tu hành là việc khó, mà phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật th́ lâu quá, ai làm được!"

Thưa quư vị! Sách nói: "Thế thượng vô nan sự, đô lai tâm bất chuyển". Nghĩa là: Trên đời không có việc chi khó, chỉ tại tâm ḿnh không chuyên cần. Nếu không ai làm được, sao Đức Phật Thích Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhă Ba la mật đa và nhiều Đức Phật khác lại thành được. Phật đă dạy rằng: " Kia là trượng phu, th́ ta đây cũng vậy, chớ nên tự khinh ḿnh mà lui suit". Người nghĩ sợ như thế, chẳng khác nào như người học tṛ lớp năm, mà trông lên địa vị Thạc sĩ hay Bác sĩ, rồi họ thối chí và nói rằng: "Học đến hai mươi mấy năm mới đậu Thạc sĩ ai học được!". Thật ra ông Thạc sĩ lúc đầu tiên cũng học lớp năm như ai vậy. Tuy biết rằng đường dài, nhưng từy theo sức ḿnh, tu được bao nhiêu, sẽ được lợi ích bay nhiêu. Như người học lớp năm; khi lên nhứt, th́ vẫn thấy lợi ích học ở lớp nhứt, cho đến khi lên trung học, đại học, v.v… th́ đều có lợi ích ngang các cấp ấy; học được lớp nào cũng đều có lợi ích cả. Dù Bác –sĩ hay Thạc sĩ, trong lúc đầu tiên cũng học ở lớp thứ tư lớp năm như ai. Như quư vị đạo hữu thọ ngu giới th́ chỉ thấy ích lợi ở ngang năm giới; đến khi thọ giới Bồ Tát, th́ được lợi ích ở giới Bồ Tát. Dù thành quả Phật cao siêu, song lúc đầu tiên, quí Ngài cũng như chúng ta vậy.
Thứ quư vị! Thắng được giặc phiền năo, không phải là một việc dễ, phải trải qua một thời gian lâu xa đến 3 vô số kiếp mới hoàn toàn thắng được; có thắng được mới thành Phật. Vậy chúng ta trong lúc thấy những người tu hành c̣n tham sân v.v… chớ nên trách họ. V́ c̣n phiền năo cho nên họ mới tu. Nếu hết phiền năo th́ họ đă thành Phật rồi, cần ǵ phải tu nữa. Cũng như c̣n kháng chiến tức là c̣n giặc; đă c̣n giặc th́ có khi thắng trận, mà cũng có lúc bại trận. Người ở trong ṿng tu hành cũng thế, có khi thắng được giặc phiền năo, mà cũng có lúc giặc phiền năo thắng. Vậy chúng ta không nên trách: "người tu sao c̣n tham, sân v.v…"

Thưa quư vị! Chúng ta từ hồi nào đến giờ , bị giặc phiền năo xâm chiếm, cướp mất chủ nhơn ông (chơn tâm). Nó trói cột, xiềng xích, làm cho ta mất tự do; bị nó sai sử, đầy đọa bắt ta làm nô lệ cho thất t́nh lục dục, mất độc lập. Vậy chúng ta phải nổ lực dùng đạo binh hiền từ, kháng chiến cho thắng được giặc phiền năo ở nội tâm, phá tan xiềng xích nô lệ, lấy lại thành Giải thoát, đem trở về chủ nhơn ông (chơn tâm) như thế mới thật là độc lập, mà có độc lập, ta mới được tự do.
Nếu như nước nhà được độc lập, dân chúng được tự do, mà tâm ta hăy c̣n bị phiền năo trói buộc, thất t́nh lục dục sai sử, gây tạo những điều tội ác, th́ ta không sao khỏi bị gông cùm tù tội. Dù cho nước nhà có thật độc lập, dân chúng được tự do hoàn toàn, mà ta vẫn bị xiềng xích gông cùm nô lệ cho vật chất như thường, không được tự do và độc lập chút nào cả.
Vậy dám mong, tôi cùng quư vị, cố gắng kháng chiến cho hoàn toàn thắng được giặc phiền năo ở nơi tâm ḿnh, để khỏi làm nô lệ cho thất t́nh, lục dục, để được giải thoát như Phật. Như thế mới hoàn toàn tự do độc lập. Và được như thế, là do chúng ta biết "Tu tâm"


Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 2 of 5: Đă gửi: 25 April 2006 lúc 8:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


CĂN BẢN PHIỀN NĂO

1. Tham:
là tham lam. Người tham lam, tánh hay để ư ḍm ŕnh những cái ǵ họ ưa thích: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v… Rồi họ lập mưu này kế nọ, để t́m kiếm cho được, được mấy cũng không vưà, nên tục ngữ có câu: " Bể kia dễ lắp, túi tham khó đầy!". Tham cho ḿnh, rồi tham cho bà con quyến thuộc. Nói rộng ra, tham cho cả quốc gia, xă hội của ḿnh.
Cũng v́ ḷng tham, mà nhơn loại tranh giành xâu xé cướp bóc giết hại lẫn nhau, chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ. Tham không những có hại cho ḿnh về hiện tại. Tham không những có hại cho ḿnh về hiện tại, mà c̣n liên lụy đến người và về tướng lai nữa là khác.
Phật-tử tự xét ḿnh, nếu có tâm tham lam, phải tập tánh thiểu dục tri túc, bỏ dần ḷng tham đi; như thế gọi là "Tu Tâm".

2. Sân:
là nóng nảy. Người có tánh nóng nảy, gẳp những việc trái ư th́ nổi nóng lên, trong tâm bực tức, không an, ngoài mặt nhăn nhó, xấu xí vô cùng, mắt đỏ tía hoặc tái xanh. Bộ dạng thô bỉ, thốt ra lời nói thiếu nhă nhặn, có khi đánh đập hoặc chém giết người. Phật tử chúng ta, mỗi khi nổi sân lên, cắc cớ lấy kiến rọi mắt ḿnh, thật "ngộ" hết sức…không phải là Phật-tử chút nào! Tánh "nóng nảy" rất có hại: làm cho ánh em chẳng ưa, trong gia đ́nh không được ḥa nhă, ngoài xă hội chẳng được kính yêu. Nhiều người v́ nóng nảy mà đánh đập vợ con. lắm khi phải mang bịnh tật suốt đời, hoặc giết hại đồng bào, chủng loại. Cũng có người v́ quá nóng nảy mà làm hư danh giá, quyền lợi và cả đời tu của ḿnh. Trong kinh Hoa-Nghiêm, Phật dạy :"Nhứt niệm sân tâmkhởi, bách vạn chướng moan khai": Một niệm ḷng sân hận nổi lên, th́ trăm ngàn cửa ngiệp chướng đều mở ra. Thuở xưa, ông Uất-Đầu-Làm-Phất, v́ sân mà phải đọa làm con phi-ly trùng. Ông Độc Giác Tiên Nhơn cũng v́ sân, mà mất cả năm phép thần thông. Trong kinh nói: " Nhứt sân chi hóa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn". Nghĩa là: một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công-đức. Chúng ta thấy, trong hàng Phật tử, có người phát tâm tu được 5,7 năm hoặc đôi ba năm, cũng có thể gọi là người có công với Đạo. Một khi gặp cảnh nghịch, nổi sân lên rồi bỏ hết: Phật pháp không tưởng, việc Đạo cũng chẳng làm, trái lại c̣n t́m cách phá hoại. Thật "đốn củi ba năm chỉ tiêu trong một giời", rất uổng cho công tŕnh tu tập bao nhiêu năm của người ấy!
Tổ xưa có quở rằng: "Sân si nghiệp chướng không chừa, bo bo mà giữ tương dưa ǵ!" Sân rất có hại như thế, hàng Phật tử chúng ta phải tu pháp nhẫn nhục để lần lần dẹp ḷng sân; như thể gọi là "Tu Tâm".

3. SI:
là si mê (có chỗ gọi là vô minh). Đối với sự vật hiện tiền, tâm tánh mờ ám, không có trí huệ sáng suốt để phán đoán việc hay, dở, tốt, xấu lợi hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lổi, có hại cho ḿnh, và người (theo thế tục gọi là "dại" hay "ngu"). Cái Si này thường ám ảnh trong tất cả việc làm, hại người chẳng phải nhỏ, mà nhứt là khi tham và sân.
Như anh chàng thanh niên kia, biết cô mỹ nhơn nọ bị ho lao và có bịnh truyền độc… Nhưng đến khi si mê ám ảnh, th́ anh không c̣n thấy vi trùng lao và bịnh truyền độc nữa.

Một người tham tiền, đánh bài bạc, mê đề, v́ si mê ám ảnh, nên đến lúc thua hết của tiền mà cũng không chán.
Có một người v́ ḷng tham, si nổi lên, giữa lúc ban ngày đông người, vào tiệm giựt vàng.
Lính bắt được hỏi: "ANh không thấy lính tráng ở chung quanh và không sợ tù tội sao?" Anh trả lời rằng: "Lúc đó tôi chỉ thấy vàng thôi; nếu thấy lính tráng tội, th́ tôi đâu dám làm như thế!"

Đây là những bằng chứng, trong lúc tham, v́ có si mê ám ảnh, nên anh chàng thanh niên kia phải mang bịnh ho lao và truyền độc; người đánh bạc nọ mới hết cửa hết nhà; anh giựt vàng kia mới mang gông cùm từ tội! Nếu trong lúc ấy, được sáng suốt, phân biệt lợi hại, th́ anh thanh niên kia có thể thắng lại được dục vọng của ḿnh, đâu có lâm bệnh hiểm nghèo như thế; người đánh bạc, cậu giựt vàng, có thể thắng được ḷng tham, không đến đổi bị hết của và mang tù tội. Cho biết trong lúc tham mà có Si, th́ có hại rất lớn! Khi nóng giận cũng vậy, nếu trong lúc nóng giận mà sáng suốt, biết suy xét việc lợi hại, lúc ấy có thể dằn bớt sự nóng giận ít nhiều! Trái lại v́ bị si mê ám ảnh, nên nói càn làm bướng, đến khi hết giận rồi th́ tội lỗi quá nhiều! Nên lời tục nói: "A «nóng mất ngon, giận lắm mất khôn" là vậy.
Có nhiều người trong lúc nóng giận, đánh đập vợ con đến tàn tật, phá hoại nhà cửa cho đến tiêu tan, hoặc uống thuốc độc hay trầm ḿnh, để cho thoát kiếp thân đau khổ! Những tai nạn như thế, đều do si mê ám ảnh cả.
Tổ sư có dạy rằng: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác tŕ!; nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ ḿnh tự giác ngộ chậm. Nói cho dể hiểu, là không sợ tham, sân mà chỉ sợ si mê đó thôi. Nếu tham, sân nổi lên, mà ta sáng suốt phán đoán kịp thời, không có si mê, th́ tham sân kia cũng chẳng làm ǵ được. Người học Phật phải dẹp trừ ḷng si mê của ḿnh, lúc nào cũng phải sáng suốt đối với tất cả mọi việc. Như thế gọi là "Tu Tâm".

4. MẠN:
là ngă mạn cống cao. Nói theo lối thông thường có hơi thô một chút là "phách lối" lấn lướt, hiếp đáp người. V́ ỷ tiền tài, tài năng và quyền thế của ḿnh mà khing rẻ người, chẳng kính người già cả, không kể người phước đức. Bởi hiêu hiêu tự đắc, coi không có người (mục hạ vô nhơn) nên chẳng ai ưa. V́ ḷng ngă mạn, cho ḿnh hơn ai hết, không kính phục người, nên bị tổn đức. V́ thế mà phước lành tổn giả, tội lỗi càng thêm, nên phải sanh tử luân hồi, không bao giờ cùng tột. Người học Phật nên tự kiểm thảo ḿnh, nếu có ngă mạn cống cao th́ phải cố gắng dẹp trừ đi. Như thế mới phải là Phật tử, và như thế mới gọi là "Tu Tâm".

5. NGHI:
là nghi ngờ. Đối với đạo lư chơn chánh, lại nghi ngờ không tin. Những pháp tu giải thoát và điều phước thiện, lại do dự chẳng làm. Nó chướng ngại ḷng tin, cản trở việc từ thiện. Nghi có ba: 1-Nghi ḿnh. Như nghe nó: "Tu hành sẽ được giải thoát", rồi từ nghi ngờ: không biết ḿnh đă có tu được hay không? V́ ḷng nghi ngờ, do dự ấy, nên không chịu tu. 2.- Nghi người; nghĩa là nghi người dạy ḿnh. Như có người dạy ta: "Làm lành được phước, làm ác sẽ bị tội". Chúng ta nghi: không biết người ấy nói có thiệt hay không? Bởi nghi nên không làm 3. Nghi pháp; như nghe lời Phật dạy: "Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày được nhứt tâm, th́ người ấy đến khi lâm chung, sẽ được Phật Di Đà tiếp dẫn, sanh về nước Cực lạc", rồi họ nghi rằng: phương pháp ấy không biết kết quả có đúng như vậy hay không? nên họ chẳng siêng tu.

Nói tóm lại, v́ ḷng nghi ngờ, nó cản trở nhiều điều tiến triển. Những người có tánh đa nghi, đối với bạn bè, họ thấy không có ai là người tin cậy. Trong gia đ́nh họ thấy không có người nào là thân mật. Phật tử nên cẩn thận đề pḥng mọi việc, nhưng phải cương quyết dẹp trừ tánh nghi ngờ. Như thế gọi là "Tu Tâm’.

6. THÂN KIẾN:
là chấp nhận thân ngũ ấm, tứ đại giả hợp này là "Ta". Hoặc nghe theo lời tà giáo nói: "Người có 3 hồn, 7 vía, linh hồn, thế phách v.v…" rồi chấp 3 hồn 7 vía v.v… đó là Ta. V́ chấp "Ta thật có", nên kiếm món này vật nọ đễ cho ta ăn, sắm kiểu kia cách nọ để cho Ta mặc, lo cất nhà cửa, mua ruộng vườn để cho Ta dùng, tranh danh đoạt lợi, mỗi mỗi cũng v́ Ta! Không những lo cho Ta, mà lại lo cho cả gia đ́nh, quyến thuộc, quốc gia và xă hội của ta nữa. V́ "chấp Ta" mà tạo ra nhiều tội lỗi: lo tranh danh đoạt lợi cho ta hưởng, xâu xé cướp giựt nhau để cho quốc gia xă hội Ta dùng. V́ thế, nên thế giới đạn bay như mưa, bom nổ như pháo, máu chảy thành sông, xương chất tợ múi!

Hàng Phật tử chúng ta, phải sáng suốt quan sát thân già này giả hợp không có thật có. Hễ phá trừ thân kiến rồi, (chấp Ta) th́ tánh ích kỷ vị ngă không c̣n, nên không tạo những điều tội lỗi v́ bản ngă nữa. Như thế gọi là"Tu Tâm".

7. BIÊN KIẾN:
là chấp một bên, hoặc chấp chết rồi c̣n hoài, hay chấp chết rồi mất hẳn.
Một, v́ chấp có Ta, nên có người chấp "Ta" chết rồi c̣n hoài không mất: Người chết vẫn sanh làm người, thú chết sanh trở lăi thú, Thánh nhơn chết trở làm Thánh nhơn. V́ chấp như vậy, cho nên chẳng sợ tội ác, và cũng không cần tu thiện; bởi họ cho tu cũng vậy không tu cũng vậy. Do chấp cái "Ta" thường c̣n không mất có hại như thế, nên trong kinh Phật gọi là "Thường kiến ngoại đạo".
Hai, có người chấp "chết rồi mất hẳn". V́ họ thấy bầu thế giới mênh mang, không gian vô tận, chết rồi là mất chớ có thấy tội phước ǵ đâu! Thấy đời sống của ḿnh chết rồi không c̣n giá trị chi hết, nên mặc t́nh làm những điều tội lỗi. Họ nói rằng: "Tu nhơn tích đức già đời cũng chết; hung hoang bạo ngược tận số cũng không c̣n". Biết bao người v́ chấp chết rồi là hết, nên mỗi khi gặp cảnh nghịch ḷng, nhứt là t́nh duyên trắc trở, họ không trầm tĩnh sáng suốt t́m phương pháp để xử trí. Cứ cho chết rồi là hết đau khổ, nên họ tự liều ḿnh với chén thuốc độc hay ḍng sông sâu! Chớ họ không biết rằng chết rồi đâu có phải là hết khổ! Bởi chấp chết rồi mất hẳn có hại như vậy, nên trong đạo Phật gọi là "Đoạn kiến ngoại đạo".

Thật ra người chết không phải thường c̣n và cũng không phải mất hẳn, mà theo nghiệp lực lành hay dữ luân hồi.
Người Phật tử phá trừ hai món chấp trên, như thế gọi là "Tu Tâm".

8. KIẾN THỦ:
là bảo thủ sự hiểu biết sai lầm của ḿnh. Đây có hai cách: 1. Hành vi của ḿnh sai lầm, ư kiến lại thấp thỏi, nhưng không tự hiểu biết, lúc nào cũng bảo thủ cho ḿnh là hay giỏi, đúng đắn hơn hết, ai nói cũng chẳng nghe. 2. Biết ḿnh như thế là sai, nói như vậy là dở, nhưng cứ bảo thủ cái sai và cái dở ấy, không chịu thay đổi.

Như có người, ông bà trước đă lỡ theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như vậy măi không đổi. Họ bảo rằng: "Xưa sao nay vậy!". Hay như có người, cha mẹ trước đó có làm nghề tội lỗi, qua đến đời con, cứ bảo thủ nghề ấy, không chịu thay đổi.
Nói cho rơ hơn, là những tục lệ trong thế gian, như mỗi năm phải làm trâu ḅ để tế thần; khi người chết phải làm heo ḅ cúng kiến, mỗi kỳ tuần tự hay giỗ quảy, phải đốt giấy tiền vàng bạc áo quần kho phướn; mỗi năm phải hội họp để cúng tà thần ác quỉ v.v… Người học Phật phải dẹp trừ "kiến thủ", như thế gọi là "Tu Tâm’.

9. GIỚI CẤM THỦ:
là giữ theo giới cấm của ngoại đạo tà giáo. Cấm một cách vô lư không phải nhân giải thoát mà chấp là nhân giải thoát. Như bên A-Độ có những phái ngoại đạo leo lên cây cao nhảy xuống, gieo ḿnh vào lửa v.v… có đạo mỗi năm phải giết một người tế thần; như đạo của anh Vô Năo, phải giết cho đủ 1.000 người mới đắc đạo. Người học Phật phải dẹp trừ "giới cấm thủ", như thế gọi là "Tu Tâm’.

10. TÀ KIẾN:
là chấp theo lối tà. Phàm chấp những cái ǵ không chơn chánh đều thuộc về tà kiến. Nói bằng cách khác là "mê tín". Như thờ đầu trâu, đầu cọp, b́nh vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, coi ngày, t́m huyệt, buộc tom, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v… Thật ra người học đạo nên coi chỗ tạo nhơn của ḿnh lành hay dữ, chánh hay tà mà thôi, chớ không nên coi bói làm ǵ. Nói rộng ra th́ gồm cả bốn chấp trên đều về tà kiến.
Hàng Phật tử phải dẹp trừ "Tà kiến", như thế gọi là "Tu Tâm’.


Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 3 of 5: Đă gửi: 25 April 2006 lúc 8:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


TU VÀ TÂM

Chữ "Tu" nghĩa là sửa; Sửa cái xấu trở lại cái tốt, sửa các dở trở lại hay, sửa cái quay trở lại phải, sửa phàm Thánh. Như nhà cửa hư hao, đất vườn u trệ, nay sửa lại cho tốt đẹp, như thế gọi là "Tu bố" Thân thể lôi thôi hành vi bẩn thỉu, nay sửa lại cho đàng hoàng, như thế gọi là "Tu thân". Tâm tánh ô trược tham lam, tật đố, tà kiến, si mê v.v… nay sửa lại trở nên tâm tánh tốt đẹp, như thế gọi là "Tu Tâm".

"Tâm" là "cái hiểu biết phân biệt", cũng gọi là "phần tinh thần". Tâm không có h́nh tướng dài, ngắn, vuông, tṛn, hay có màu sắc xanh, đỏ, trắng và vàng ǵ. Không thể dùng con mắt mà thấy được tâm; cũng không thể dùng tay chơn rờ đụng được tâm; chỉ o thấy cái tác dụng của nó, nên biết có tâm. Cũng như "điện", người ta không thể thấy nghe hay rờ mó được điện; chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có điện. Như cho điện vào neon, th́ thấy đèn sáng, cho vào quạt th́ thấy quạt xoay v.v…. V́ thế, nên người ta biết có điện- Tâm chúng ta cũng thế, v́ nó có tác dụng thấy, nghe và phân biệt v.v… nên chúng ta biết có Tâm.

Tâm có chia làm hai phân; Chơn và Vọng. Đứng về phần chơn tâm (thế) th́ không thể dùng lời nói luận bàn, hay tâm trí suy nghĩ được, mà cần phải tự chứng ngộ, nên trong kinh nói: " Rời tướng nói năng, rời tướng danh tự, rời tướng tâm duyên" Song đứng về phần "vọng tâm", th́ có thể nói năng và phân biệt được.

Trong bài này, tôi chi bàn về "vọng tâm" (thức). Khi chúng ta hiểu biết và đẹp trừ được cái "vọng" rồi, th́ "chơn tâm" hiện ra. Cũng như sóng lặng rồi, th́ tánh nước bằng phẳng tự hiện.

Thưa quư vị! Như trên tôi đă nói: "Tâm không có h́nh tướng: dài, ngắn, vuông, tṛn, hay xanh, đỏ, trắng, vàng ǵ, nên không thể dùng mắt thấy, tai nghe, hay rờ mó được Tâm. Song nhờ thấy cái tác dụng của nó nên chúng ta mới biết có "Tâm".

Mọi người không phải chỉ có năm " giác quan" mà có đều đến tám cái "Biết", tức là tám cái Tâm. Theo Duy thức học gọi là "Tám thức" (tám cái Biết). Tám cái Tâm này đều có chủ quyền thống lănh mỗi chỗ; cũng như mỗi ông Vua ngự trị mỗi nước, nên trong Duy thức học gọi là "Tám Tâm Vương".

Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 4 of 5: Đă gửi: 25 April 2006 lúc 9:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam


                TU TÂM QUYẾT


Ba cơi nhiệt năo như trong nhà lửa, chúng sanh an nhẫn đắm ḿnh trong đó để chịu khổ dài. Muốn khỏi luân hồi không đâu bằng cầu Phật. Nếu muồn cầu Phật th́ Phật tức là tâm. Tâm nào t́m chi cho xa, đâu có ĺa thân này. Sắc thân là giả, có sanh có diệt. Chơn tâm như hư không, chẳng đoạn chẳng biến. Cho nên nói: “Hài cốt vỡ tan trở về lửa gió, một vật trường linh che trùm trời đất”.
   Than ôi! Người hôm nay mê lâu thế? Chẳng biết tự tâm ḿnh là chơn Phật, chẳng biết tự tánh ḿnh là chơn pháp. Muồn cầu pháp mà cầu các thánh ở tha phương. Muồn cầu Phật mà chẳng quán tự tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật, ngoài tánh có pháp, chấp cứng t́nh nầy, muồn cầu Phật đạo, dù trải qua số kiếp như vi trần, đốt thân chặt tay đập xương ra tủy, chích máu viết kinh, ngồi măi chẳng nằm, ngày ăn một bửa, cho đến đọc hết một đại tạng kinh, tu muôn ngàn khổ hạnh, chẳng khác nào nấu cát làm cơm, chỉ luống tự nhọc.
    Ông chỉ hiểu tự tâm ḿnh, th́ hằng sa pháp môn, vô lượng diệu nghĩa chẳng cầu mà được. Đức Thế Tôn nói: “ Ta xem khắp tất cả chúng sanh đều có đủ đức tướng trí huệ của Như Lai”. Lại nói: “ Tất cả chúng sanh mỗi mỗi đều huyễn hóa mà hay sanh ra cái diệu tâm viên giác của Như Lai”. Thế nên ĺa tâm này không Phật có thể thành. Quá khứ chư Phật chỉ là người sáng tâm mà thôi. Hiện tại các bậc Thánh hiền cũng là người tu tâm mà thôi. Vị lai người tu học nên y pháp như thế mà tu. Mong mỗi người tu cần yếu chớ t́m cầu bên ngoài. “Tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ ĺa vọng duyên tức như như Phật”.
                          ***
   Hỏi: Nếu nói Phật tánh hiện ở thân này, đă ở trong thân không ĺa phàm phu. Cớ sao nay tôi chẳng thấy Phật tánh? Xin giải rơ khiến được khai ngộ.
   Đáp: Ở tại thân ông mà tự ông chẳng thấy. Suốt mười hai giờ ông biết đói biết khát, biết lạnh, biết nóng, hoặc vui, hoặc giận,v.v... Trọn là vật ǵ? Lại sắc thân là địa thủy hỏa phong bốn duyên hội hợp, cái chất của nó là vô t́nh, đâu hay thấy nghe hiểu biết? Cái thấy nghe hiểu biết nhất định là Phật tánh của ông. Tổ Lâm Tế nói rằng: “Bốn đại chẳng biết nói pháp, chẳng nghe pháp. Hư không chẳng biết nói pháp, chẳng nghe pháp. Chỉ cái rơ ràng riêng sáng ở trước mẳt của ông, cũng chớ phân tích nó, cái ấy mới biết nói pháp và nghe pháp”.

     Ba chữ “Chớ phân tích” là pháp ấn của chư Phật và cũng là tâm bổn lai của ông. Thế th́ Phật tánh ở tại thân ông, đâu có nhờ cầu bên ngoài? Ông nếu chẳng tin, tôi sẽ nêu lên nhơn duyên nhập đạo của các bậc thánh xưa, để cho ông trừ hết nghi hoặc. Ông sẽ tin là chơn thật.
       Xưa vua Dị Kiến hỏi tôn giả Ba La Đề rằng: Thế nào là Phật? Tôn giả đáp: Kiến tánh là Phật. Vua hỏi: Thầy kiến tánh chăng? Tôn giả đáp: Tôi kiến Phật tánh. Vua hỏi: Tánh tại chỗ nào? Tôn giả đáp: Tánh tại tác dụng. Vua hỏi: Ấy là tác dụng ǵ? sao trẫm chẳng thấy? Tôn giả đáp: Tôi đă thấy tác dụng rơ ràng, tự nhà vua không thấy đó thôi. Vua hỏi: Nơi trẫm có không? Tôn giả đáp: Bệ hạ nếu tác dụng th́ đâu chẳng có. C̣n bệ hạ nếu chẳng tác dụng th́ thể kia khó thấy. Vua hỏi: Nếu khi đang tác dụng mấy chỗ xuất hiện? Tôn giả đáp: Nếu khi xuất hiện th́ có tám chỗ. Vua nói : Xin v́ trẫm chỉ tám chỗ xuất hiện kia. Tôn giả đáp: Nơi thai gọi là thân, ở đời gọi là người, nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt các mùi nơi lưỡi đàm luận, nơi tay nắm bắt, nơi chơn chạy nhảy. Biến hiện th́ khắp sa giới, thu lại th́ chỉ trong hạt bụi. Người hiểu biết cho đó là Phật tánh, người chẳng hiểu gọi đó là tinh hồn. Nhà vua nghe xong liền khai ngộ.
      Có một vị Tăng hỏi Ḥa Thượng Qui Tông rằng: “Thế nào là Phật? Đáp: Ta nói ra sợ ông chẳng tin. Tăng thưa: Ḥa Thượng nói thật con đâu dám chẳng tin. Đáp: Tức là ông đấy. Tăng hỏi: Bảo nhiệm như thế nào? Đáp: Vết mây nơi mắt làm cho không hoa rơi loạn. Vị Tăng kia ngay lời ấy tỉnh ngộ”.
      Trên đă nêu lên nhơn duyên nhập đạo của các bậc thánh xưa, rơ ràng giản dị chẳng ngại đến tỉnh lực. Nhơn công án nầy, nếu có chỗ tin hiểu, tức cùng với thánh xưa nắm tay mà đi.
                            ***

     Hỏi: Ngài nói kiến tánh, nếu thật kiến tánh tức là thánh nhơn, ứng hiện thần thông biến hóa khác hẳn mọi người. Cớ sao bọn người tu tâm hiện nay, không có một người hiện thần thông biến hóa?
     Đáp: Ngươi chớ nên khinh khi mà phát ra lời nói điên như thế. Chẳng phân tà chánh là người mê đảo. Người học đạo thời nầy miệng thời bàn chơn lư, tâm th́ sanh thối khuất, trở lại rơi vào chỗ vô phần, nên khiến ông sanh nghi. Người học đạo chẳng biết trước sau, nói lư chẳng phân gốc ngọn, đấy là tà kiến chớ chẳng gọi là tu học, chẳng những chỉ tự lầm mà c̣n lầm người. Hạng người nầy há chẳng thận trọng ư?

Phàm nhập đạo có nhiều cửa, nhưng nói chỗ cốt yếu chẳng ngoài hai cửa “Đốn ngộ và tiệm tu”. Tuy nói đốn ngộ đốn tu là hàng căn cơ tối thượng mới được vào. Nếu suy về quá khứ th́ đă nhiều đời y nơi ngộ mà tu lần lần huân tập cho đến đời nầy, nghe liền phát ngộ, một chốc liền xong. Xét lẽ thật th́ cũng là căn cơ trước ngộ sau tu.
    Lại, hai môn đồn tiệm nầy là lối ṃn của ngàn thánh, các bậc thánh từ trước đâu chẳng trước ngộ sau tu; nhơn tu mới chứng. Cái gọi là thần thông biến hóa ấy, phải ngộ mà tu, rồi lần lần huân tập mới hiện, chớ chẳng phải khi ngộ rồi liền phát hiện. Như trong Kinh nói: “Lư liền đốn ngộ, nhân ngộ nên sự đều tiêu, chớ chẳng phải một chốc liền trừ được các nhơn, phải lần lượt mới hết”. Ngài Khuê Phong rất thấu đáo về nghĩa trước ngộ sau tu. Ngài nói: “Biết băng nơi hồ là toàn nước, nhờ ánh mặt trời mới tan ra. Ngộ phàm phu tức là Phật, nhờ pháp lực để huân tu. Băng tan th́ nước chảy và mới có công dụng giặt rửa. Vọng hết th́ tâm rỗng suồt, mới ứng hiện diệu dụng thần thông sáng suốt”. Thế th́, việc thần thông biến hóa chẳng phải một ngày có thể thành tựu được, phải tiệm huân lâu mới có thể phát hiện. Huống lại, việc thần thông đối với người liễu đạt, c̣n cho là việc yêu quái, và cũng là việc bờ mé ngọn ngành đối với bậc thánh, tuy cũng có hiện nhưng chẳng phải cần thiết.
     Ngày nay bọn ngu mê vọng bảo rằng: một niệm khi ngộ liền hiện vô lượng thần thông biến hóa. Nếu hiểu như thế, bảo họ là kẻ không biết trước sau, cũng không phân được gốc ngọn. Đă không biết trước sau gốc ngọn mà muồn cầu Phật đạo, giống như người đem gỗ vuông cho vào lỗ tṛn, há chẳng lầm to ư? Đă chẳng biết nên khởi ư tưởng phiêu lưu, tự sanh lui sụt, đoạn chủng tánh Phật, người như thế chẳng phải ít. Đă tự ḿnh chưa sáng cũng không tin người khác có chỗ giải ngộ. Thấy người giải ngộ không thần thông liền sanh ngă mạn, khinh hiền dối thánh, thật đáng thương thay!
                                ***

    Hỏi: Ngài nói hai môn đốn ngộ tiệm tu là lối ṃn của ngàn thánh. Đă đốn ngộ tại sao lại nhờ tiệm tu? Nếu tiệm tu cớ sao nói đốn ngộ? Lại xin tuyên nói hai nghĩa đốn tiệm, khiến dứt hết nghi thừa.
    Đáp: Đốn ngộ ấy là phàm phu khi mê cho tứ đại làm thân, vọng tưởng làm tâm. Chẳng biết tự tánh là pháp thân chơn thật. Chẳng biết tự kỷ hư tri là Chơn Phật. Ngoài tâm t́m phật, trôi nổi trong gian khổ. Chợt được thiện tri thức chỉ cho đường vào, một niệm hồi quang thấy được bản tánh ḿnh. Tánh địa nầy nguyên không phiền năo. Trí tánh vô lậu vốn tự đầy đủ, tức cùng với trí tánh của chư Phật chẳng khác nhau chút nào.
Tổ Sư nói: “Đốn ngộ, tiệm tu là đốn ngộ cái bản tánh cùng chư phật không khác. Tập khí từ vô thủy khó trừ hết liền, nên phải y ngộ mà tu, lần lần huân tập mới thành công. Cũng như nuôi dưỡng thánh thai lâu ngày mới thành thánh, nên nói tiệm tu. Giống như trẻ sơ sanh các căn đều đầy đủ cùng với người không khác. Nhưng khí lực nó chưa đầy đủ, phải trải qua nhiều năm tháng mới thành người lớn.
                                ***
    
      Hỏi: Phải dùng phương tiện ǵ khiến một niệm hồi cơ, bèn ngộ tự tánh?
      Đáp: Chỉ tự tâm ông, lại dùng phương tiện ǵ? Nếu dùng phương tiện để cầu giải hội: tỷ như có người chẳng thấy mắt của ḿnh, cho rằng không mắt, lại muốn cầu thấy. Đă là mắt của ḿnh thế nào lại thấy? Nếu biết chẳng mất tức là thấy mắt. Lại không có cái tâm cầu thấy th́ đâu có cái tưởng chẳng thấy. Cái tự kỷ hư tri cũng lại như vậy. Đă là tự tâm sao lại cầu hiểu? Nếu muốn cầu hiểu bèn hiểu chẳng được. Chỉ biết chẳng hiểu ấy là kiến tánh.
                            ***

     Hỏi: Người thượng thượng căn nghe rồi liền dễ lănh hội. C̣n người trung hạ căn, đâu chẳng nghi hoặc? Xin nói phương tiện khiến người mê được vào.
     Đáp: Đạo chẳng thuộc biết cùng chẳng biết. Ông nên từ bỏ cái tâm “đem mê đợi ngộ” mà nghe lời nói của ta: các pháp đều như mộng, như huyễn hóa. Cho nên vọng niệm vốn tịch, trần cảnh vốn không. Chỗ các pháp đều không ấy, là cái biết rỗng suốt chẳng mê (hư tri bất muội), tức là cái tâm không-lặng rỗng suốt nầy vậy. Đấy là bản lai diện mục của ông, cũng là cái pháp ấn ba đời chư Phật, lịch đại Tổ Sư và các bậc thiện tri thức trong thiên hạ, thầm thầm truyền nhau. Nếu ngộ tâm nầy đúng như có chỗ nói: “Chẳng cần giẵm qua thứ lớp thẳng đến Phật địa, mỗi bước vượt qua ba cơi. Về nhà thoắt tuyệt các nghi, bèn v́ người trời làm thầy. Bi trí nương nhau, đầy đủ hai lợi, kham nhận người trời cúng dường, ngày tiêu muôn lượng huỳnh kim”. Nếu ông được như thế, thật là đại trượng phu, việc hay làm một đời đă làm xong.
                               ***

     Hỏi: Căn cứ theo phần trên, thế nào là tâm không-lặng rỗng suốt?
     Đáp: Cái hiện nay ông hỏi ta, ấy là tâm không-lặng rỗng suốt của ông. Sao không phản chiếu lại mà c̣n t́m bên ngoài. Nay ta căn cứ vào phần trên của ông chỉ thẳng bản tâm, khiến ông được ngộ, ông nên tịnh tâm nghe ta nói:

Trong mười hai giờ từ sớm đến chiều, hoặc thấy, nghe, cười, nói, giận, vui phải, quấy, v.v... Muôn ngàn cái vận chuyển thi vi. Hăy nói thảy đều là cái ǵ? Sao hay vận chuyển thi vi? Nếu nói sắc thân vận chuyển, cớ sao có người một phút mạng chung, thi thể chưa thối nát mà mắt không tự thấy, tai không nghe, mũi không phân biệt mùi, lưỡi chẳng đàm luận, thân chẳng lay động, tay chẳng nắm bắt, chơn chẳng chạy nhảy? Thế nên biết, cái hay thấy nghe động tác nhất định là bản tâm ông chớ chẳng phải sắc thân. Huống nữa, sắc thân bốn đại nầy tánh nó là không, như ảnh trong gương, như trăng đáy nước. Đâu thể rơ ràng thường biết, sáng suốt chẳng mê hoặc, có cảm liền thông, đủ hằng sa diệu dụng? Cho nên nói: “Bửa củi gánh nước đều là thần thông diệu dụng”.
Hơn nữa, nhập đạo có nhiều đường, ta chỉ ông một môn khiến ông trở lại nguồn.

    Hỏi: Ông nghe tiếng cu kêu chim hót không?
    Đáp: Nghe.
    Hỏi: Ông nghe lại tánh nghe của ông xem có nhiều tiếng không?
    Đáp: Đến chỗ này tất cả âm thanh, tất cả phân biệt đều không thể được.
    Nói: Lạ thay! Đây là cửa Quan âm nhập lư vậy. Ta hỏi ông : Khi đến chỗ đó tất cả tiếng, tất cả phân biệt đều không thể được. Vậy đang lúc đó chẳng phải là hư không sao?
    Đáp: Nguyên lai chẳng không, sáng suốt chẳng mê.
    Hỏi: Cái thể chẳng không ấy thế nào?
    Đáp: Cũng không tướng mạo, nói không thể đến.
    Nói: Đấy là thọ mạng của chư Phật, chư Tổ ông chớ hồ nghi. Đă không tướng mạo nào có lớn nhỏ. Không lớn nhỏ nào có bờ mé nên không trong ngoài, không trong ngoài nên không gần xa, không gần xa nên không bỉ thử, không bỉ thử nên không văng lai, không văng lai nên không sanh tử, không sanh tử nên không cổ kim, không cổ kim nên không mê ngộ, không mê ngộ nên không phàm thánh, không phàm thánh nên không nhiễm tịnh, không nhiễm tịnh nên không phải quấy, không phải quấy nên tất cả danh ngôn đều không thật có. Cả thảy đều không như vậy, th́ tất cả căn cảnh, tất cả vọng niệm, cho đến muôn ngàn tướng mạo, muôn ngàn danh ngôn đều không thật có. Đấy há không phải là cái không-tịch xưa nay, cái không vật xưa nay sao?

Tuy nhiên, cái chỗ đều không của các pháp, biết suốt chẳng mê, chẳng đồng với tánh vô t́nh. Tự hiểu một cách mầu nhiệm rằng, đấy là cái tâm thể không-tịch, hư tri, thanh tịnh của ông. Tâm không-tịch này là cái “thẳng tịnh minh tâm” của ba đời chư Phật, cũng là cái “giác tánh bản nguyên” của chúng sinh. Ngộ nó và giữ nó th́ ngồi trên ṭa giải thoát nhất như chẳng động. Mê nó và trái nó th́ trường kiếp luân hồi trong sáu thú. Cho nên nói: “Mê nhứt tâm đến sáu thú, ấy là đi, là động. Ngộ pháp giới trở về nhứt tâm, ấy là đến, là tịnh”. Tuy mê ngộ có sai khác, nhưng bản nguyên th́ chỉ có một. Cho nên nói: “Pháp ấy là tâm của chúng sinh, cái tâm không-tịch này nơi thánh không tăng nơi phàm không giảm”. Lại nói: “Nơi thánh trí chẳng sáng, ẩn phàm tâm chẳng mê”. Chẳng tăng nơi thánh chẳng giảm nơi phàm, Phật Tổ sao lại khác nơi người? Sở dĩ khác hơn người, ấy là hay tự giữ tâm niệm vậy.

Ông nếu tin được th́ nghi t́nh liền dứt, phát chí trượng phu, khởi kiến giải chơn chánh. Thân nếm cái mùi vị kia, tự đến tự chấp nhận cái địa vị kia. Đấy là chỗ người tu tâm giải ngộ. Lại không có thứ đệ và cấp bực. Cho nên gọi là đốn. Như nói: “Trong cái tín nhơn đă khế hợp với quả đức của chư Phật không sai một mảy, mới thành tín vậy”.
                           ***

    Hỏi: Đă ngộ lư nầy lại không giai cấp. Cớ sao lại nhờ vào sự huân tu lần lần mới thành?
    Đáp: Cái nghĩa ngộ rồi lần lần tu trước đă nói đầy đủ mà cái t́nh nghi chưa gỡ. Nay chẳng ngại nói lại. Ông nên lặng tâm nghe rơ: Kẻ phàm phu từ vô thủy khoáng kiếp cho đến ngày hôm nay, trôi lăn trong năm đường sanh tử qua lại. Chấp cứng tướng ngă cùng vọng tưởng điên đảo. Hạt giống vô minh tập lâu thành tánh. Tuy đến nay đốn ngộ tự tánh xưa nay không-lặng cùng Phật không khác, nhưng cái cựu tập này rất khó dứt trừ. Cho nên gặp cảnh thuận nghịch có giận có vui. Chuyện thị phi lừng lẫy khởi diệt. Khách trần phiền năo cùng trước không khác. Nếu chẳng dùng sức mạnh của trí bát nhă, th́ làm sao đối trị được vô minh đến được chỗ thôi hết dứt hết? Như nói: “Đốn ngộ tuy đồng với Phật, nhưng nhiều đời tập khí sâu. Gió dừng nhưng sóng c̣n dậy, lư hiện nhưng niệm c̣n xâm”.

Cảo Thiền Sư nói: “Những kẻ lợi căn thường thường chẳng tốn nhiều sức để phát minh việc này, bèn sanh tâm dễ dui, lại chẳng chịu tu trị, lâu ngày chầy tháng vẫn y như trước trôi nổi, chưa thoát khỏi luân hồi”. Lại há có thể một phen ngộ bèn bác chỗ hậu tu ư? Nên sau khi ngộ phải lâu ngày chiếu xét. Vọng niệm chợt khởi đều chẳng theo nó, lại trừ cho đến không c̣n trừ mới đến cứu cánh. Bậc thiện tri thức trong thiên hạ, sau khi ngộ rồi c̣n phải hành hạnh chăn trâu là thế.

Tuy có hậu tu nhưng trước đă đốn ngộ “vọng niệm vốn không, tâm tánh vốn tịnh”, nơi việc ác đoạn mà không đoạn, nơi việc thiện tu mà không tu. Đấy mới là chơn tu chơn đoạn. Cho nên nói rằng “ Tuy tu đủ muôn hạnh nhưng chỉ lấy vô niệm làm tông”.

Ngài Khuê Phong nhận xét nghĩa “tiên ngộ hậu tu” như sau: “Đốn ngộ tánh nầy nguyên không phiền năo, vô lậu trí tánh vốn tự đầy đủ cùng Phật không khác. Y đây tu tập gọi là tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Như Lai thanh tịnh Thiền, nếu hay mỗi niệm tu tập, tự nhiên lần lần được muôn ngàn tam muội. Môn hạ Ngài Đạt Ma lần lượt truyền nhau là thiền này”.

Lại, nghĩa đốn ngộ tiệm tu như xe có hai bánh, thiếu một không thể được. Hoặc có người chẳng biết thiện ác tánh không, vững ngồi chẳng động, đè nén thân tâm, như đá đè cỏ cho là tu tâm, đấy là lầm to. Nên nói “Thanh Văn tâm tâm đoạn hoặc, tâm năng đoạn là giặc”. Chỉ quán sát một cách đúng đắn rằng sát, đạo, dâm, vọng từ tánh mà khởi, khởi tức chẳng khởi. Ngay nơi đó liền lặng, cần ǵ lại đoạn? Cho nên nói: “Chẳng sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm”. Lại nói: “Niệm khởi liền giác, giác nó liền không”. Nên người ngộ tuy có khách trần phiền năo nhưng đều thành đề hồ.

Chỉ nên soi thay các hoặc nguyên không có gốc. Ba cơi không hoa nầy như gió cuốn khói. Sáu trần huyễn hóa nầy như nước nóng tan băng. Nếu hay mỗi niệm tu tập như thế, chẳng quên chiếu cố “định huệ đồng tu”, th́ thương ghét tự nhiên lạnh nhạt, bi trí tự nhiên thêm tỏ, tội nghiệp tự nhiên đoạn trừ, công hạnh tự nhiên tăng tiến. Khi phiền năo tận th́ sanh tử liền dứt. Nếu ḍng phiền năo nhỏ nhiệm vĩnh viễn đoạn trừ, th́ Viên Giác đại trí sáng suốt một ḿnh, liền hiện ngàn trăm ức hóa thân trong mười phương cơi nước. Tùy cơ cảm ứng giống như trăng hiện trong không, ảnh phân muôn nước. Ứng hiện không cùng, độ chúng sinh có duyên khoái lạc vô ưu gọi là Đại Giác Thế Tôn.
                            ***

    Hỏi: Trong pháp môn hậu tu có nghĩa “định huệ đồng tu”, tôi thật chưa rơ. Lại xin tuyên giải khiến mở mê để dẫn vào cửa giải thoát.
    Đáp: Nếu lập pháp nghĩa để vào lư, th́ ngàn pháp môn không pháp môn nào chẳng định huệ. Nắm được cương yếu của nó th́ trên tự tánh thể dụng có hai nghĩa. Trước đă nói “không-tịch hư tri” ấy vậy. Định là thể, huệ là dụng. Ngay nơi thể là dụng, nên huệ chẳng ĺa định. Ngay nơi dụng là thể, nên định chẳng ĺa huệ. Định tức huệ nên tịch mà thường tri. Huệ tức định nên tri mà thường tịch. Như Tào Khê nói: “Đất tâm không loạn là tự tánh định, đất tâm không si là tự tánh huệ”. Nếu ngộ được như thế th́ mặc t́nh tịch mà tri, chiếu soi hay che đậy không hai . Đấy là cửa “Đốn”, và là Định Huệ song tu vậy.

Nếu nói trước dùng lặng lẽ để trị duyên lự, sau lấy tỉnh táo để trị hôn trầm, trước sau đối trị điều phục hôn loạn để nhập vào chỗ tĩnh. Đấy là cửa tiệm, là chỗ sở hành của người căn cơ kém. Tuy nói tỉnh táo và lặng lẽ gồm giữ nhưng chưa khỏi giữ tịnh làm pháp hạnh. Đâu như người liễu sự chẳng ĺa bổn tịch bổn tri nhậm vận song tu. Cho nên Tào Khê nói: “Tự ngộ mà tu hành chớ chẳng phải ở nơi chỗ tịnh. Nếu mắc nơi tịnh trước sau là người mê”.

Người liễu đạt đối với nghĩa định huệ đồng tu, không rơi vào dụng công, nguyên tự nó vô vi, lại không một đặc biệt thời tiết nào. Khi thấy sắc nghe tiếng chỉ có vậy. Khi mặc áo ăn cơm chỉ có vậy. Khi đi ỉa đi đái chỉ có vậy. Khi bàn chuyện với người chỉ có vậy. Cho đến đi đứng nằm ngồi, hoặc nói nín, hoặc vui, hoặc giận. Tất cả thời mỗi mỗi đều như thế. Giống như chiếc xuồng rỗng nương theo sóng mặc t́nh lên xuống. Như ḍng nước chảy trong núi, gặp lúc cong, gặp lúc thẳng mà tâm tâm vô tri.

Ngày nay bay nhảy mặc t́nh, ngày mai mặc t́nh bay nhảy. Tùy thuận các duyên không chướng ngại. Nơi thiện ác chẳng đoạn chẳng tu. Chất trực không dối, thấy nghe tầm thường. Lại không một mảy bụi để đối đăi, nhọc ǵ ra sức chùi rửa? Không một niệm để sanh t́nh, chẳng nhờ mượn sức quên duyên.

Tuy nhiên người nghiệp chướng sâu tập khí nặng, huệ quán kém, tâm trôi nổi nhiều, sức vô minh lớn, sức bát nhă nhỏ. Nơi cảnh giới thiện ác chưa khỏi bị động tịnh thay đổi. Tâm không lạnh nhạt. Chẳng thể không quên duyên khiến công phu lau chùi. Như nói: “Sáu căn nhiếp cảnh, tâm chẳng theo duyên gọi đó là định. Tâm cảnh đều không, soi xét không lầm gọi đó là huệ”. Đây là môn tùy tướng định huệ, là pháp môn tiệm, là chỗ sở hành của người căn cơ kém.

Nhưng trong pháp môn đối trị không thể không. Nếu trạo cử lẫy lừng th́ trước dùng định môn, xứng hợp với lư mà nhiếp tâm tán loạn, chẳng theo duyên khế hợp với bổn tịch. Nếu hôn trầm quá nhiều th́ dùng huệ môn trạch pháp quán không, soi xét không lầm để khế hợp với bổn tri. Lấy định trị loạn tưởng, lấy huệ trị vô kư. Động tịnh đều hết công phu đối trị cũng xong. Thế th́ đối cảnh mà mỗi niệm về nguồn, gặp duyên mà tâm tâm khế hợp với đạo. Nhậm vận song tu mới là người vô sự. Nếu như thế mới có thể gọi thật là “định huệ đồng tu”, thấy rơ Phật tánh ấy vậy.
                           ***

     Hỏi: Căn cứ chỗ phân tích của Ngài, pháp môn trước ngộ sau tu, trong nghĩa định huệ đồng tu có hai loại: Một là tự tánh định huệ, hai là tùy tướng định huệ. Tự tánh định huệ th́ nói rằng mặc t́nh lặng biết, nguyên tự nó là vô vi, không một mảy trần để so sánh đối đăi. Nhọc ǵ ra sức chùi rửa. Không một niệm để sanh t́nh, không nhờ ra sức quên duyên. Ngài phân đó là môn đốn, chẳng ĺa tự tánh định huệ đồng tu.
Tùy tướng định huệ th́ nói rằng xứng hợp với lư, nhiếp tán loạn chọn pháp quán không. Quân b́nh điều phục hôn trầm và tán loạn để nhập vào vô vi. Ngài phân đó là tiệm môn, là chỗ hành của hàng căn cơ kém. Do đó nên đối với hai môn định huệ nầy có chỗ nghi.
Nếu nói chỗ hành của một người là trước y nơi môn tự tánh định huệ đồng tu, rồi sau đó là dùng môn tùy tướng công phu đối trị chăng? Hay là trước lại y nơi môn tùy tướng, quân b́nh điều phục hôn loạn, rồi sau mới nhập vào môn tự tánh? Nếu trước y nơi tự tánh định huệ th́ mặc t́nh lặng biết, lại không cần công phu đối trị, sao lại phải giữ môn tùy tướng định huệ?
Nếu trước dùng môn tùy tướng định huệ đối trị thành công, rồi sau mới hướng về tự tánh môn th́ giống y như trong tiệm môn, hạng căn cơ kém, trước ngộ sau lần lượt huân, sao gọi rằng Đốn? Cái ngộ trước tu sau là dùng công phu vô công phu. Nếu một lúc không trước sau th́ hai môn định huệ đốn tiệm có sự khác nhau, làm sao một lúc đồng hành? Lại môn đốn ấy y nơi tự tánh môn mặc t́nh quên công phu. C̣n môn tiệm của hàng căn cơ kém, theo môn tùy tướng công phu đối trị nhọc nhằn. Như thế căn cơ đốn tiệm của hai môn chẳng đồng, hơn kém rơ ràng. Thế sao môn ngộ trước tu sau bên trong đều có chia hai loại? Xin nói rơ để dứt hết ḷng nghi ngờ.
     
      Đáp: Chỗ tôi giải thích đă rơ ràng, ông tự sanh nghi, theo ngôn ngữ sanh hiểu biết rồi chuyển thành nghi hoặc. Nếu được ư quên lời, nhọc ǵ cật vấn? Nếu đem hai môn mỗi mỗi phán xét về chỗ hành, th́ người tu tự tánh định huệ là môn Đốn, dùng công phu vô công phu, gồm vận dụng hai cái tịch tự tu, tự tánh để thành Phật đạo ấy vậy. Người tu môn tùy tướng định huệ là trước chưa ngộ, dùng môn tiệm của hàng căn cơ kém để dụng công đối trị, tâm tâm đoạn hoặc, giữ ǵn cái tịnh làm pháp hạnh. Hai môn này chỗ đốn tiệm khác nhau chẳng thể lầm lộn. Môn ngộ rồi tu sau ở trong ấy đă gồm nói môn tùy tướng đối trị rồi, chẳng phải toàn để cho hàng căn cơ kém hành, ấy là nắm cái phương tiện giả nói kia rồi giữ măi mà thôi. Bởi cớ nơi đốn môn này cũng có hạng căn cơ thắng và căn cơ liệt, không thể lúc nào cũng xét đoán về hành lư kia.

Nếu người phiền năo nhạt mỏng, thân tâm nhẹ nhàng an ổn, nơi thiện ĺa thiện, nơi ác ĺa ác, tám gió chẳng động, ba thọ lặng yên, y tự tánh định huệ nhậm vận song tu. Tánh thiên chơn không tạo tác động tinh thường Thiền, thành tựu được lư tự nhiên. Cần ǵ mượn môn tùy tướng đối trị? Không bịnh chẳng cần thuốc.

Người tuy trước đă đốn ngộ, nhưng phiền năo c̣n đầy, tập khí c̣n nặng, đối cảnh niệm niệm sanh t́nh, gặp duyên tâm tâm đối đăi, bị hôn loạn kia giết chết, mê muội nên mất “cái biết lặng lẽ thường nhiên”. Ngay đó nhờ môn tùy tướng định huệ, chẳng quên đối trị, quân b́nh điều phục hôn loạn để nhập vào vô vi, tức phải cần vậy.

Tuy mượn công phu đối trị, tạm điều phục tập khí, nhưng do trước đốn ngộ tâm tánh vốn tịnh, phiền năo vốn không, nên liền không lạc về môn tiệm của hàng căn cơ kém và ô nhiễm tu tập.

Người chưa ngộ mà tu, tuy dụng công chẳng quên, niệm niệm huân tu mà thường sanh nghi chưa được vô ngại. Như có một vật ngăn trong ngực. Cái tướng chẳng an thường hiện ở trước, lâu ngày chầy tháng ra công đối trị thuần thực, th́ thân tâm khách trần in tuồng được khinh an. Nhưng gốc nghi chưa được dứt, giống như đá đè cỏ. C̣n ở nơi ranh giới của sanh tử, chẳng được tự tại. Cho nên nói: “Chưa ngộ mà tu chẳng phải chơn tu”.

Người ngộ tuy có dùng phương tiện đối trị, nhưng niệm niệm không nghi chẳng rơi vào ô nhiễm, lâu ngày chầy tháng tự nhiên khế hội. Diệu tánh thiên chơn mặc t́nh lặng biết, niệm niệm phan duyên tất cả cảnh, nhưng tâm vĩnh viễn đoạn các phiền năo, chẳng ĺa tự tánh định huệ đồng tu. Thành tựu vô thượng bồ đề. Sánh với cơ trước có phần hơn, nhưng lại không sai khác. Vậy th́ môn tùy tướng định huệ, tuy là chỗ hành của hàng tiệm cơ nhưng đối với người đốn ngộ có thể bảo là “chỉ sắt thành vàng”. Nều biết như thế th́ đâu do hai môn định huệ, mà có cái nghi thứ lớp trước sau ư?

Mong các vị tu hành nên nghiên cứu ư vị của lời nói nầy, chớ hồ nghi mà tự sanh lui sụt. Nếu người đủ chí trượng phu, cầu vô thượng bồ đề, bỏ đây th́ làm sao? Cần yếu là chớ chấp vào văn tự, phải hiểu thẳng và mỗ́ mỗi qui về tự kỷ, khế hợp với Thiền Tông, th́ vô sư trí, tự nhiên trí hiện tiền. Lư thiên chơn rơ ràng chẳng mê, thành tựu được huệ thân chẳng do nơi khác mà ngộ.

Lại cái diệu chỉ nầy tuy là việc chung cho mọi người, nhưng nếu không phải là người có căn khí Đại Thừa và đă gieo trồng giống bát nhă từ trước, th́ không thể nào một niệm sanh chánh tín được. Đâu những chẳng tin lại đi phỉ báng để chiêu quả vô gián, là thường thấy vậy. Tuy chẳng tin nhận, nhưng một lần nghe qua tai, cũng tạm thời kết duyên, và cái công đức của người ấy cũng không thể lường được. Như trong Duy Tâm Quyết nói: “Nghe mà không tin c̣n kết được nhân Phật chủng.

Học mà chẳng thành c̣n hơn phước báo cơi người, cơi trời, chẳng mất chánh nhơn thành Phật. Huống lại nghe liền tin, học liền thành công, giữ ǵn chẳng mất, th́ công đức kia đâu hay đo lường được?”

Truy niệm về nghiệp quá khứ luân hồi chẳng biết bao nhiêu kiếp, theo ḍng hắc ám vào địa ngục vô gián, chịu muôn ngàn thống khổ chẳmg biết bao nhiêu phen. Muốn cầu Phật đạo chẳng gặp thiện hữu nên trường kiếp trầm luân, mờ mịt chẳng biết, tạo tác nghiệp ác. Cũng có lúc hoặc một phen nghĩ, bất chợt thở dài, lại cam thông thả để rồi trở lại thọ nhũng tai ương như trước sao?

Chẳng biết ai khiến ta nay được làm người, trong vạn vật hư dối nầy, chẳng mê mờ đuờng tu chơn. Thật có thể gọi là rùa mù gặp bộng cây, hạt cải ném vào lỗ kim. Đấy là một điều vinh hạnh có ǵ hơn? Nay ta nếu tự sanh lui sụt, hoặc sanh lười biếng mà thường trônng lại phía sau, bỗng chốc mất thân mạng, thoái đọa vào đường ác chịu các khổ năo. Khi ấy tuy mong nghe được một câu Phật pháp để tin hiểu thọ tŕ, mong khỏi cảnh chua cay ấy c̣n trông ǵ được? Đến lúc lâm nguy hối hận không ích ǵ.

Mong các vị tu hành chớ sanh phóng dật, chớ mắc tham dâm. Như cứu lửa cháy đầu chẳng quên soi xét. Vô thường chóng vánh, thân như giọt sương mai, mạng như bóng trời chiều. Ngày nay c̣n đây, ngày mai khó bảo toàn. Cần phải lưu ư!

Vả lại bằng vào cái thiện hữu vi ở thế gian cũng có thể khỏi ba đường khổ luân hồi, nơi cơi trời, cơi người được quả báo thù thắng, thọ các khoái lạc. Huống lại, đây là pháp môn tối thượng thừa rất thâm sâu. Chỉ tạm thời có niềm tin cũng thành tựu được công đức không thể lấy tỷ dụ mà nói được một phần nhỏ. Trong Kinh nói: “Nếu có người lấy bảy báu bằng ba ngàn đại thiên thế giới, bố thí cúng dường cho bao nhiêu chúng sanh trong thế giới ấy đều được đầy đủ. Lại giáo hóa cho họ được tứ quả. Công đức kia vô lượng vô biên, cũng không bằng cái công đức chỉ khoảng một bửa ăn chánh tư duy pháp nầy”. Thế nên pháp môn nầy của ta tối tôn tối quí đối với các công đức so sánh không đến được. Cho nên Kinh nói: “Một niệm tịnh tâm là đạo tràng, c̣n thù thắng hơn tạo tháp bảy báu như hằng sa. Tháp báu rồi sẽ nát thành bụi, một niệm tịnh tâm thành tựu được quả Phật”.

Mong mỏi các vị tu hành nghiên cứu ư vị của lời nầy, cần phải lưu ư! Thân nầy chẳng nhằm đời nầy độ, lại đợi đời nào độ thân này? Nay nếu chẳng tu, ngàn kiếp sai lầm. Nay nếu gắng tu cái hạnh khó tu, lần lần được công hạnh chẳng khó, rồi sẽ tự tiến. Than ôi! Người thời nay đói gặp cơm vua mà chẳng biết ăn. Bịnh gặp y vương cho thuốc mà chẳng biết uống. Không biết phải nói như thế nào! Tôi cũng đành cam chịu vậy!

Vả lại việc hữu vi ở thế gian h́nh dáng nó c̣n có thể thấy, công dụng nó c̣n có thể xét nghiệm. Khi thành công một việc người ta c̣n tán thán cho là ít có. C̣n Tâm tông của ta đây không h́nh có thể nh́n, không trạng có thể thấy, đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành tuyệt. Cho nên thiên ma ngoại đạo hằng hủy báng cửa “Không”. Thích Phạm chư thiên không ngớt ngợi khen. Huống nữa, kẻ phàm phu dùng kiến thức cạn cợt, đối với Tâm tông c̣n mờ mịt, làm sao biết được?

Thương thay! Con trạnh trong giếng sao biết được bao la của bể cả. Con dă can làm sao rống được tiếng Sư tử? Cho nên, trong đời mạt pháp mà có người nghe pháp môn nầy cho rằng rất hy hữu và tin hiểu thọ tŕ, người ấy đă ở trong vô lượng kiếp thừa sự chư Thánh và gieo trồng các căn lành, kết sâu được cái chánh nhơn bát nhă, có căn tánh tối thưọng. Kinh Kim Cang nói: “Người đối với chương cú nầy hay sanh tín tâm, nên biết người ấy đă ở chỗ vô lượng đức Phật trồng các căn lành”. Lại nói: “ V́ những hàng phát tâm Đại Thừa mà nói, v́ những hàng phát tâm Tối Thượng Thừa mà nói”.
Mong các vị cầu Đạo chớ sanh tâm hèn yếu, cần phải phát tâm dơng mănh. Cái nhơn lành đời trước nay đâu biết được? Nếu chẳng tin ḿnh có khả năng thù thắng th́ cam làm hạ liệt rồi sanh ư tưởng cho là khó khăn. Nay chẳng chịu tu, dù có thiện căn đời trước, hiện nay đoạn tuyệt. Càng ở trong cái khó kia lần lượt thành xa vậy.
Nay đă đến núi châu báu chẳng lẽ trở về tay không. Một phen mất thân người muôn kiếp khó t́m lại. Mong phải cẩn thận đó!

Há lại có người biết núi châu báu kia mà chẳng cần nó, rồi lại hằng oán trách ḿnh nghèo khó ư?
Nếu muốn được châu báu th́ đừng tiếc thân này.


Chánh Tâm
Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
chanhtam
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 17 April 2006
Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 26
Msg 5 of 5: Đă gửi: 26 April 2006 lúc 4:22am | Đă lưu IP Trích dẫn chanhtam

                  Kính

    cám ơn bạn sunbeam đă post lại bài cho mọi người cùng đọc

Chúc bạn Cát tường như ư ,Thân tâm an lạc

Quay trở về đầu Xem chanhtam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi chanhtam
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.5469 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO