Tác giả |
|
thanhtinh Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 1 of 4: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:21am | Đă lưu IP
|
|
|
Nguồn Năng Lực Nội Tại
Thực tập Quán Chiếu có thể được xem như tiến tŕnh phát triển một số Tâm Sở trong việc thực tập chế ngự tâm. Những tâm sở có khả năng kiểm soát thân tâm không xa lạ với chúng ta, đó chính là năm căn. Năm căn bao gồm: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ.
Trong năm căn, Tuệ căn hay c̣n gọi là trực giác trí tuệ, có khả năng thấu suốt chân lư thực tại sâu xa nhất. V́ thế nếu là nghịch duyên th́ nó cũng chính là hung thủ hướng dẫn chúng ta vào con đường tội lỗi. Nếu đó là thắng duyên th́ nó sẽ giúp ta giải thoát khỏi si mê và hậu quả của nó. Khi si mê không c̣n th́ những khổ đau, ảo tưởng và những bất hạnh sẽ không phát khởi nữa.
Muốn phát triển tâm của chúng ta đến tŕnh độ nầy, nghĩa là muốn cho nguồn năng lực nội tại được dồi dào, chính chúng ta cần phải chấp nhận và thực tập một số điều kiện. Xin được đơn cử một vài điều kiện, yếu tố hổ trợ cho nguồn năng lực nội tại ngày càng thêm phong phú như:
- Nhận thức vô thường.
- Tôn trọng giáo pháp
01- Nhận Thức Vô Thường.
Yếu tố đầu tiên giúp cho năm căn được phát triển là phải ghi nhận rằng mọi vật sinh ra rồi liền diệt ngay tức khắc. Tất cả đều ở trạng thái sinh rồi diệt không ngừng.
Trong lúc tu tập tụng kinh, niệm Phật hay hành thiền, chúng ta phải luôn luôn theo dơi quan sát hân và tâm qua sáu cửa:
- Tai,
- Mắt,
- Mũi,
- Lưỡi,
- Thân,
- Tâm.
Chúng ta phải quan sát hiện tượng xảy ra với chủ tâm để ghi nhận và thấy rơ rằng mỗi vật có sinh ra th́ có hủy diệt. Chân lư nầy có thể minh xác khi chúng ta thật sự quan sát một cách chánh niệm không chút hoài nghi. Đây là thái độ rất quan trọng để chuẩn bị cho việc tu tập
Sự chấp nhận ngay từ lúc ban đầu, rằng là tất cả mọi vật đều vô thường và biến đổi giúp chúng ta tránh được những phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi ta thực sự khám phá ra chân lư nầy.
Sự thật ở đời nhiều khi quá phủ phàng, ê chề cho nên nếu chúng ta biết được định luật vô thường, th́ khi gặp nghịch cảnh ngộ nào chúng ta cũng sẽ rất dễ dàng thích ứng với môi trường hiện tại đó. Sự hiểu biết rơ ràng về lư thuyết: Vô thường, khổ, vô ngă sẽ giúp ta có sự chuẩn bị và sẳng sàng để đương đầu với chúng.
Nếu không có một sự chấp nhận trước, một sự nhập tâm về vô thường, và không biết rơ ràng việc tu tập của chúng ta là để thấy rơ: Vô thường, khổ, vô ngă th́ chúng ta dễ có một tư tưởng trái ngược lại. Ư tưởng nầy có thể cản trở cho việc hành thiền. Bởi thế ở giai đoạn khởi đầu chỉ là lư thuyết xuyên qua kinh sách. Về sau, khi thực tập tiến triển và tâm định được đào sâu, khi chính chúng ta kinh nghiệm về vô thường, khổ, và vô ngă th́ sự tin tưởng nầy trở thành hiện thực.
Điều nầy tương tự như một sinh viên khoa học, trước khi vào pḥng thí nghiệm, việc đầu tiên là phải biết anh ta muốn chứng minh và thực nghiệm công thức ǵ. Người tu học chúng ta cũng thế, muốn cho niềm tin được vững chăi việc đầu tiên là chấp nhận vô thường, sau đó thực hành để kinh nghiệm rằng vô thường là chuyện có thật.
Mặc dầu hai tiếng Vô Thường ai cũng thường nghe, và ai cũng đă biết, nhất là đối với người học Phật. Nhưng trong lănh vực hành tŕ khó mà đo lường được. Yếu tố cần thiết để chúng ta dễ dàng chấp nhận vô thường là phải diệt trừ cái thấy sai lầm, mà thuật ngữ thường gọi là kiến hoặc. Để cho rơ ràng ở điểm nầy, chúng tôi xin kể quư vị nghe một câu chuyện:
- Thuở xưa, có anh chàng nọ, con nhà giàu, đẹp trai, học giỏi... Có thể nói Anh là mẫu người lư tưởng nhất, nếu không có bệnh bắc chước thiên hạ, chạy theo thời trang.
Thấy bạn bè đeo kính trắng, có vẻ sang trọng và trí thức, anh cũng đi khám mắt và mua một cặp kính trắng. Bác sĩ tuyên bố anh bị cận thị. Thế là anh chàng mua ngay một cặp kính cận.
Từ khi mang kính, anh thường bị nhức đầu, chóng mặt và buồn nôn. Nên vài bữa sau đó anh lại đi khám mắt ở một bác sĩ khác. Bác sĩ nầy tuyên bố là anh bị viễn thị, và bắt anh phải mua một cặp kính viễn thị.
Từ khi anh đeo cặp kính mới, bệnh chóng mặt buồn nôn lập tức biến mất... nhưng khổ nỗi anh lại bị chảy nuớc mắt sống cả ngày, cho nên Anh đành phải đi một bác sĩ khác để t́m bệnh lư.
Vị bác sĩ thứ ba, quả quyết là anh bị loạn thị và đề nghị là nên mua một cặp kính khác. Lần nầy anh không c̣n chảy nuớc mắt sống nữa mà là thấy tất cả mọi sự mọi vật đều loạn xà ngầu...
Và cứ thế, mỗi cặp kính mới lại mang đến cho anh một chứng bệnh mới. Để trị bệnh anh đành thay kính liên tục. Cho đến một hôm, trong lúc vô t́nh, anh trợt chân và té xuống, anh đột nhiên thấy trời đất phong quang, mọi vật sáng sủa rơ ràng hiện ra trước mắt.
Mừng vô kể anh bước vội về nhà, nguời nhà chào anh ngạc nhiên hỏi:
- Ủa cặp kính của anh làm sao thế?
Anh lột kính cầm lên xem, hóa ra đôi tṛng kính đă rớt đâu mất từ cú trợt khi nảy. Từ đó anh không đeo cặp kính nào cả, v́ Anh thấy không cần thiết nữa.
Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu lư do tại sao trong Kinh A Hàm Đức Phật dạy:
- Muốn bước vào thánh quả đầu tiên, người ta phải đoạn Kiến Hoặc.
Kiến Hoặc là những thứ nhận định, thấy lầm hiểu bậy của chúng ta về thân, tâm của chúng ta và của người khác, về môi trường thế giới của chúng ta đang sống. Những nguồn sầu khổ của chúng ta đều bắt nguồn từ các nhận định sai lầm đó.
Khi chúng ta đă trừ sạch Kiến Hoặc, vị đó gọi là đắc pháp Nhăn Tịnh. Nghĩa là được con mắt pháp Thanh Tịnh. Vẫn đôi mắt ngày xưa, đôi mắt mà thuở c̣n Kiến Chấp, tư dục nặng nề, nh́n đâu cũng thấy bực dọc, phiền muộn. Một khi đă gột sạch t́nh chấp, chúng ta sẽ có cuộc sống vui tươi, thoải mái, an tịnh hơn, nên đôi mắt ấy chính là đôi mắt pháp.
Trong câu chuyện trên, điều làm cho chúng ta chú ư là anh chàng con nhà giàu kia vốn biết ḿnh không có bệnh, không đau, nhưng v́ ḷng háo danh, ưa thích thời trang mà anh cố t́nh hành hạ đôi mắt của ḿnh. Từ bệnh háo danh dẫn tới bệnh tưởng, và từ bệnh tưởng hoá ra bệnh thật. Cho đến lúc t́nh cờ vấp ngă, bị vở kính, anh mới trở lại đôi mắt b́nh thường như dạo trước.
Cũng như thế từ một bản tâm b́nh thường, thoải, mái, trong sáng... do xă hội môi trường chung quanh huân tập, chúng ta đă khoát lên nó không biết bao nhiêu là thành kiến, cố chấp quan niệm lư tưởng, truyền thống ... cho hợp thời trang. Từ chủ động biến thành thụ động, dần dần bị đè nặng dưới hàng khối vọng tưởng rối ren đó, tâm chúng ta bắt đầu loạn động xao xuyến, bất an, vọng tưởng ......
Muốn trở lại với bản tâm b́nh thường, để thấy rơ bản chất thật sự của đời sống. Bản chất thật sự của đời sống chính là vô thường. Cũng y hệt như cũng hệt như anh chàng con nhà giàu kia, chúng ta không nên đổi thầy thay kính, không nên buông pháp nầy bỏ pháp kia, mà chỉ cần buông xả hết t́nh chấp quan niệm, thành kiến mà chúng ta đang khư khư nắm giữ chấp chặc như một thứ gia bảo của ḿnh. Làm được như vậy th́ mọi sự việc đến hay đi, c̣n hay mất nó không phải là điều đáng bận tâm.
Mặt lư thuyết th́ như vậy, tuy nhiên phần thực tập cần phải tinh chuyên hành tŕ đúng mức mới có kết quả như ư muốn. Nói như thế là muốn xác định rằng chỉ cần những yếu tố nầy thiền sinh đă có thể tiến xa trong việc hành thiền.
Nếu thiền sinh quan sát chánh niệm, kiểm soát sự sinh diệt của các hiện tượng về tâm và vật lư một cách tinh tế, tỉ mỉ, liên tục duy tŕ chánh niệm không để cho gián đoạn th́ chắc chắc không lâu, các chướng ngại bên trong sẽ được loại trừ. Các năng lực kiểm soát tâm hay năm căn sẽ loại bỏ những quấy nhiểu trong tâm và làm cho tâm an tịnh.
Nếu chúng ta có một quá tŕnh thực tập, chúng ta sẽ cảm nhận một sự an tịnh, tĩnh lặng là kết quả của những ngày tháng thực tập được đền bù xứng đáng. Lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy tràn đầy niềm tự tin. Tất cả những sự an lạc, tỉnh lặng mà chư tổ, chư thiền sư đă dạy cho chúng ta bây giờ chính chúng ta đă đạt dược.
Như thế là đức tin, yếu tố đầu tiên của năm căn đă phát sanh. Lọai đức tin nầy được gọi là đức tin đầu tiên khởi sinh từ kinh nghiệm của chính ḿnh khiến chúng ta cảm thấy rằng những ǵ mà Đức Phật dạy trong kinh điển tất cả đều được bảo đảm, nếu chúng ta thực tập sẽ đạt được kết quả một cách hiển nhiên.
Nhờ có đức tin, chúng ta sẽ có hứng khởi mà tăng thêm năng lực. Khi năng lực hùng mạnh th́ tinh tấn xuất hiện. Lễ tất nhiên đây là bước đầu. Khi chúng ta tiếp tục nổ lực thêm hơn th́ chúng ta sẽ gặt hái những kết quả tốt đẹp hơn thế nầy nữa. Nếu tiếp tục tinh tấn, tâm sẽ khắn khít trên đề mục từng thời điểm một, và chánh niệm được củng cố và đào sâu.
Chánh niệm có khả năng kỳ diệu tập trung tâm ư, giúp tâm chuyên chú trên đề mục. Khi chánh niệm quán thấu đối tượng quan sát từng thời điểm một, th́ tâm có khả năng ổn định trên đề mục không thối chuyển. Cứ thế, sự tập trung tâm ư càng mạnh mẻ và ổn định hơn. Một cách tổng quát, khi chánh niệm càng mạnh lên, th́ sự định tâm cũng càng mạnh lên.
Khi bốn yếu tố: Đức Tin, Tinh Tấn, Chánh Niệm, và Chánh Định đă được thiết lập th́ trí tuệ sẽ được tự nhiên hiện khởi. Lúc bấy giờ chúng ta sẽ bắt đầu thấy rất rơ và trực giác rằng thân và tâm mặc dù là hai thứ hoàn toàn tách biệt, nhưng cũng bắt đầu hiểu biết sự tương quan nhân quả của danh sắc, hay thân tâm. Khi trí tuệ càng phát triển, th́ đức tin trở nên mạnh mẻ hơn.
Nếu chúng ta là một trong những thiền sinh đă thấy được sự sinh diệt của đối tượng qua từng thời điểm một, th́ sẽ cảm thấy hân hoan và tin tưởng rằng:
- Những hiện tượng thay đổi qua từng thời điểm một, thật sự không có một tác nhân nào sau nó ngoài chính bản thân của chúng ta.
Do sự khám phá nầy, tâm của chúng ta sẽ có được trạng thái an lạc và tĩnh lặng lớn lao hơn khi chúng ta tuần tự thấy rơ vô thường, khổ, và vô ngă th́ đức tin của chúng ta sẽ mạnh mẽ thêm.
Như vậy việc thực tập quan chiếu chẳng khác nào mài sắc để thành kim. Người mài sắc phải kiên tŕ và cho đúng cách, đừng thẳng đứng quá, mà cũng đừng nghiên quá. Đè thỏi sắc trên đá mài đúng cách. Đưa tới đưa lui thỏi sắc trên đá mài. Tiếp tục mài cho đến khi nào thỏi sắc đó trở thành cây kim thỏa đáng như ḿnh mong muốn.
Giữ cho thỏi sắc đúng độ nghiêng thích hợp, là hành thiền một cách tỉ mỉ tinh tế. Ấn thỏi sắc trên đá mài và mài tới mài lui là liên tục chánh niệm. Nếu yếu tố tỉ mỉ, tinh tế và liên tục nầy được duy tŕ, th́ chẳng bao lâu tâm chúng ta sẽ sắc bén, nguồn tự tin sẽ tràn đầy, đủ năng lực nội tại để xuyên thủng nền chân lư thực tại.
02- Tôn Trọng Giáo Pháp
Yếu tố thứ hai tôn trọng giáo pháp có nghĩa là quan tâm và tôn trọng đến phương pháp chúng ta đang thực tập. Chẳng hạn như chúng ta đang tụng kinh cầu an cho một người nào đó, tâm lực chúng ta phải chuyên nhất vào việc tŕ niệm. Tâm chuyên nhất vào việc tŕ niệm th́ năng lực và sự cảm ứng. Đó là lư do mỗi khi tụng kinh chúng ta cứ đọc câu:
- Năng lễ sơ lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư ngh́
Nói chung, dù là tụng kinh, niệm Phật, hay hành thiền cũng thế. Điều quan trọng là phải có ḷng tôn kính nhất và thật thận trọng cẩn mật. Một trong những cách có hiệu quả và giúp chúng ta có được thái độ tôn trọng và cẩn mật trong việc hành thiền là chúng ta phải luôn luôn suy ngẩm đến những lợi ích do việc tụng kinh, niệm Phật hoặc hành thiền đem lại.
Nhớ đến những lợi ích của việc tụng kinh, niệm Phật và hành thiền sẽ là những yếu tố giúp chúng ta phấn chấn tinh thần, đồng thời khiến chúng ta thận trọng và tỉ mỉ trong việc quan sát các đối tượng đang xảy ra qua sáu giác quan. Trong một khoá thiền tập, chúng ta phải cố gắng làm các động tác nầy một cách chậm răi, giống như một đứa bé mới tập đi, tập đứng.
Nói tóm lại, muốn phát huy nguồn năng lực nội tại, chúng ta phải biết trân quư, và cứ xem sự chánh niệm của chúng ta mới vừa thu gặt được tương tự như lúc chúng ta c̣n đang ở trong thời kỳ thơ ấu mới chập chửng biết đi, mà qua đó chúng ta phải biết là làm chậm các động tác, cũng chính là làm cho tốc hành tâm của chúng ta chậm. Tốc hành tâm của chúng ta chậm lại sẽ giúp chánh niệm có cơ hội theo kịp các chuyển động của thân và ghi nhận chúng từng chi tiết một.
Sự thực tập cho các động tác chậm lại, giống như h́nh ảnh của chúng ta đang băng qua sông trên một cây cầu nhỏ hẹp chỉ vừa một người đi. Dưới sông th́ nước chảy xiết. Nếu vô ư rơi xuống th́ chắc chắn sẽ bị gịng nước cuốn trôi như trong văn học nhân gian Việt Nam có câu:
- Ví dầu cầu váng đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Dĩ nhiên chúng ta không thể nhảy hay chạy trên cầu. Chúng ta phải quan sát tỉ mỉ, và thận trọng bước từng bước từng bước một đi chậm chậm qua cầu.
Điều nầy chúng ta cũng có thể so sánh với một người phải đi trên một đoạn đường khó khăn nguy hiểm, mà không được quyền té xuống, v́ biết rằng khi chúng ta té xuống nước sẽ cuốn trôi đi. Xem như thế, nếu chúng ta là một người thực tập thiền, th́ cũng phải thận trọng và duy tŕ chánh niệm như vậy trong mọi lúc.
Chúng ta có thể kiểm nghiệm điều nầy bằng cách thận trọng, tỉ mỉ trong việc hành thiền. Làm chậm lại mọi động tác, đi đứng, nằm ngồi một cách chậm răi, cung kính. Cung kính pháp hành, cung kính từng tác động, th́ chính chúng ta sẽ thấy rơ kinh nghiệm. Càng làm các tác động chậm bao nhiêu, chúng ta càng tiến bộ nhanh chóng trong pháp hành tŕ bấy nhiêu.
Tuy nhiên, chúng ta phải biết rằng, sự thành công nhanh hay chậm, là tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Nghĩa là, chúng ta phải biết áp dụng theo từng mọi trường hợp cho đúng mức, một cách thông minh và đầy sáng tạo để thích mọi hoàn cảnh và mọi trong trường hợp. Có những trường hợp động tác của chúng ta phải nhanh chóng, chẳng hạn như khi chúng ta lái xe trên xa lộ mà chúng ta lái chậm th́ sẽ gây ra việc cản trở lưu thông, cho nên chúng ta bị bắt buộc phải lái nhanh. Trong khi đó tại các thiền viện, đối với những người cùng tu học với chúng ta, chúng ta phải thực tập nhẹ nhàng từng mọi lời nói, cử chỉ và hành động, nếu động tác chúng ta mà nhanh quá, chúng ta khó mà kiểm soát được những hành động do thân và tâm gây ra, như thế chúng ta đă làm tổn thương đến vị Phật sơ sinh của ḿnh và của mọi người. Cho nên chúng ta cũng phải tùy theo từng trường hợp mà áp dụng sự mau hay chậm cho thích đáng. Đặc biệt trong một khoá tu thiền hay trong mọi trường hợp, nếu đàng sau chúng ta có nhiều người đang chờ đợi, th́ hăy làm với tốc độ nhanh hơn b́nh thường một chút. Tuy nhiên, phải luôn luôn nhớ rằng mục đích chính của chúng là phát triển chánh niệm. V́ thế, ngoài nhưng lúc cần thiết phải làm mau hay làm với tốc độ nhanh hơn b́nh thường, những lúc khác nhất là khi chỉ có một ḿnh, chúng ta hăy làm chậm lại các động tác. Chúng ta có thể ăn chậm, rửa mặt, đánh răng hay tắm một cách chậm răi chánh niệm nếu sau lưng bạn không có ai đang sắp hàng chờ. Tuy rằng những động tác đơn sơ như vậy, nhưng mà là cách huân tập để phát huy nguồn năng lực nội tại một cách tích cực.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thanhtinh Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 2 of 4: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:22am | Đă lưu IP
|
|
|
Hạnh Phúc & Cơn Đau
Trong bài pháp nầy là nói lên những kinh nghiệm trong lúc hành tŕ mà chúng ta sẽ gặp phải. Mục đích của sự tu tập tập: Tụng Kinh niệm Phật, và hành thiền là tạo một sự quân b́nh giữa thân và tâm, kế đến là để có sự an lạc. Tuy nhiên trước khi có được lạc thọ, mọi người đều quen thuộc với những cảm giác đau nhức, mơi mệt, chán nản mà thuật ngữ của nhà Phật là khổ thọ trong lúc thực tập, cộng thêm những đau khổ của tâm phản ứng trước những cảm giác nầy, và có lẽ trước hết là sự đối kháng của tâm khi bị kiểm soát v́ bị thu thúc vào trong khuôn khổ.
Sở dĩ có những cảm giác đau khổ như vậy là v́ chúng ta chưa có một thái độ quyết liệt chấp nhận như Thái Tử Tất Đạt Đa khi ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Đề ngài nguyện:
- Thân nầy có tan xương nát thịt cũng không rời bước nếu chưa đắc đạo.
Như thế nếu chúng ta phải thực hành một cách triệt để, và thích thú mới có kết quả. Từ ngữ Phật học để chỉ cho trạng thái nầy gọi là tinh tấn. Quả thật có tinh tấn th́ chúng ta sẽ vượt qua tất cả những những cảm giác đau đớn mệt mơi ..v..v.. Nói như thế có nghĩa là chúng ta phải gom hết tâm ư, và năng lực vào việc thực hành một cách thích thú, không quan tâm, không dính mắt vào cơ thể hay mạng sống của ḿnh, th́ lúc đó chúng ta mới có thể phát triển năng lực an lạc. Năng lực nầy sẽ đưa chúng ta đến những tầng mức cao hơn trong thực hành.
Chúng ta hăy kiên nhẫn và cố gắng để đương đầu với khổ đau, là hoàn cảnh chung, nhưng đặc biệt là cảm giác đau nhức trong cơ thể của chúng ta trong lúc chúng ta thực hành. Do đó trong những giờ ngồi thiền đ̣i hỏi chúng ta phải cố gắng chú tâm trên đề mục chính càng nhiều càng tốt.
Sự thu thúc và kiểm soát nầy có thể đe dọa lớn đối với tâm, v́ tâm như quư vị đă thường nghe Chư Tôn Thiền Đức dạy là:
- Tâm con người như con vượn chuyền cây, như ngựa hay ngoài đồng nội.
Tâm có thói quen lang thang đây đó, nên không bao giờ ngừng nghỉ. Tiến tŕnh để thu thúc, và duy tŕ sự chú tâm đ̣i hỏi chúng ta phải có một thái độ dứt khoát, một nổ lực vượt bực. Nổ lực kiểm soát thu thúc để đương đầu với sự phản kháng của tâm là một h́nh thức đau khổ.
Khi trong tâm tràn đầy sự đối kháng, thường th́ thân cũng phản ứng theo và sự căng thẳng phát sinh trong chốc lát, chúng ta bị cảm giác đau nhức vây phủ. Phản ứng đầu tiên được ghi nhận như:
- Tâm chúng ta co thắc, thân chúng ta bị bóp rút lại như ai bị xiết vặn. chúng ta bị mất hẳn sự b́nh tỉnh để nh́n thẳng vào chỗ đau của thân. Bấy giờ tâm của chúng ta trở nên rối loạn có thể tràn đầy phẩn nộ và sân hận. Sự đau khổ của chúng ta lúc đó có ba thứ:
- Tâm không chấp nhận những h́nh thức thu thúc, điều nầy đồng nghĩa với: Hoại Khổ
- Thân đau khổ, điều nầy đồng nghĩa với: Hành Khổ
- Khổ bắt nguồn từ thân đau khổ, sự kiện nầy đồng nghĩa với: Khổ Khổ
Ba loại đau khổ nầy chung quy là v́ bị thu thúc thân tâm vào một đường hướng được quy định, nếu chúng ta không chuẩn bị đương đầu với đau nhức một cách kiên nhẫn, th́ ngược lại chúng ta tự mở cửa để cho buồn phiền, chán nản, sợ hải, thất vọng đi vào. Tham lam, sân hận sẽ ung dung bước vào làm chủ tâm, thân của chúng ta.
Khi tham dục, sân hận có mặt th́ kiên nhẫn đi vắng, th́ tâm chúng ta sẽ rối loạn mê mờ, không có đề mục nào rơ ràng, lúc ấy chúng ta không thấy rơ bản chất thật sự của cái đau. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ tin rằng đau là một chướng ngại cho việc hành thiền nên chúng ta có thể quyết định đổi tư thế để t́m sự thoải mái dễ chịu hơn.
Sự thay dổi tư thế lẽ tất nhiên chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn, tuy nhiên nếu sự thay đổi trở thành thói quen, chúng ta sẽ mất cơ hội kinh nghiệm về thực hành.
Phải biết rằng sự an tịnh của thân tạo nên sự an tịnh, và tĩnh lặng của tâm. Do vậy nếu chúng ta di chuyển thường xuyên, th́ sẽ làm mất bản chất thực sự của cái đau hiện tại đang ngự trị trên thân và trong tâm hồn chúng ta. Như vậy yếu tố duy nhất đang có mặt trong chúng ta là cái đau, nhưng chúng ta lại đổi tư thế để khỏi nh́n thấy nó, chạy trốn nó, th́ chúng ta đă lỡ một cơ hội để hiểu bản chất thật sự của cái đau.
Lư do Đức Phật lần đầu tiên thuyết pháp tại vườn Nai, Ngài nói Pháp Tứ Đế, mà Đế đầu tiên là khổ là tại v́, thật ra, chúng ta đang sống với cái khổ đau từ khi chúng ta được sinh ra trên mặt đất nầy. Cái đau gần gủi với chúng ta suốt cả cuộc đời. Tại sao chúng ta lại chạy trốn nó. Nếu đau phát sinh, hăy nh́n nó! Đó là cơ hội quư báu để ta t́m hiểu được một vài điều quen thuộc qua một cái nh́n mới hơn và sâu xa hơn.
Vào những lúc chúng ta không tu tập, chúng ta hăy tập kiên nhẫn đối với cảm giác đau. Đặc biệt là lúc chúng ta chú tâm vào những ǵ mà chúng ta thích. Chẳng hạn, nếu chúng ta là người thích đánh bài tứ sắc. Chúng ta ngồi truớc mặt ba người kia, tâm hồn của chúng ta chăm chú theo dơi vào những nước bài mà ba người kia đánh ra một cách say sưa. Có lẽ chúng ta ngồi cả buổi, nhưng chúng ta không thấy đau nhức ǵ cả, bởi v́ chúng ta đang cố gắng để t́m những thế bài cao hơn, khó khăn và rắc rối hơn. Nếu chúng ta cảm thấy đau, có lẽ chúng ta cố gắng để quên nó, cho đến khi chúng ta thua hết tiền mới cảm thấy ḿnh mệt mơi và đau nhức.
Thái độ kiên nhẫn khi hành thiền c̣n quan trọng hơn nhiều, v́ hành thiền sẽ giúp chúng ta khai mở trí tuệ ở mức cao hơn là đánh bài tứ sắc, và hành thiền sẽ giúp chúng ta đi ra khỏi nhiều loại rắc rối, trong khi đó đánh tứ sắc càng lúc càng thêm rối rắm trong tâm hồn v́ trong tâm lúc nào cũng nghỉ đến hơn thua. Được th́ tâm khởi lên cảm giác vui mừng, thua th́ tâm khởi lên cảm giác đau buồn chán nản, thất vọng.
Nói về những đam mê, thất vọng sợ hải đau khổ th́ ai cũng biết, tuy nhiên mức độ quán chiếu thấu bản chất thật sự của các hiện tượng tùy thuộc vào mức độ định tâm mà chúng ta khai triển. Tâm càng an trụ vào đề mục th́ càng quán chiếu, thấu suốt và hiểu biết thực tại càng nhiều hơn.
Điều nầy cũng rất đúng khi chúng ta tỉnh thức trước cảm giác đau nhức. Nếu sự an định tâm c̣n yếu, th́ chúng ta sẽ không thực sự cảm giác được sự bất an luôn luôn hiện diện trong cơ thể chúng ta. Khi tâm định bắt đầu sâu hơn, th́ một điểm không thoải mái nhỏ nhặc cũng trở thành to lớn khó chịu.
Như trường hợp một người tai điết, lúc nào họ cũng thích nói to v́ họ không thể kiểm soát được tai của họ, nhưng khi đeo thêm dụng cụ nghe vào tai th́ tất cả lời nói của mọi người đều rơ ràng và âm thanh của họ cũng được điều chỉnh. Không phải tiếng nói của những người chung quanh thay đổi làm cho tai họ trở nên tốt hơn, mà là nhờ thêm dụng cụ họ mang vào. Sự vật trước hay sau vẫn như vậy, nhưng nhờ tai họ được điều chỉnh qua dụng cụtối tân của y khoa hiện đại.
Khi chúng ta nh́n một ly nước bằng đôi mắt thường chúng ta không thấy ǵ khác lạ. Nhưng nếu đặt giọt nước vào kính hiển vi, bạn sẽ thấy nhiều sinh vật bé nhỏ nhảy múa di chuyển quay cuồng trong đó. Đó là lư do tại sao dưới con mắt Phật, Đức Đạo Sư đă từng dạy chúng ta, trong một chén nước có tám mươi bốn ngàn con vi trùng.
Nếu trong lúc ngồi thiền, chịu khó quán chiếu, và chúng ta có được chánh định, chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy nhiều sự thay đổi xảy ra trong một điểm đau nhỏ. Tâm càng tập trung sâu hơn th́ chúng ta càng hiểu rỏ sự đau hơn. Chúng ta càng say mê hơn khi chúng ta thấy rơ cảm giác đau là một chuổi dài biến đổi luôn luôn thăng trầm từ cái đau nầy đến cái đau khác, thay đổi mau lẹ lúc tăng lúc giảm, nhảy múa nhào lộn.
Sự định tâm và chánh niệm của chúng ta càng bén nhạy và sâu xa hơn vào lúc cái đau lôi cuốn chúng ta và làm chúng ta say mê theo dơi. Cuối cùng sự đau biến mất một cách kỳ diệu theo sự kiên tŕ thực tập của chúng ta.
Một người không đủ ḷng tự tin và tinh tấn, để nh́n sự đau th́ không bao giờ chứng nghiệm được tiềm lực ẩn tàng bên trong sự đau nầy. Chúng ta phải phát triển hùng tâm, hùng lực, và dũng cảm, tinh tấn để quan sát sự đau. Hăy tập trung vào trong cơn đau, đối diện, với sự đau mà đừng chạy trốn nó mà trái lại, khi sự đau phát sinh, việc đầu tiên là đưa sự chú tâm ngay vào ngay chính trung tâm của nó. Cố gắng để thấu suốt cốt lơi của đau. Ghi nhận tất cả những diễn tiến của đau, cố gắng xuyên thấu vào bên trong sự đau chứ đừng quan sát bên ngoài hời hợt, th́ chúng ta sẽ chịu nhiều phản ứng.
Trong trường hợp có cố gắng, nhưng chúng ta vẫn bị mỏi mệt v́ nó. Sự đau có thể làm cho thân và tâm bị kiệt quệ. Nếu chúng ta không thể kiên tŕ giữ vững một mức độ tinh tấn, chánh niệm, và chánh định thích nghi th́ chúng ta sẽ bỏ cuộc.
Phương pháp để khắc chế sự đau trong lúc nầy là hăy đùa với chúng, bằng cách là chúng ta đi vào trong cơn đau rồi xả hơi một chút. Nghĩa là chúng ta vẫn trú tâm và chỗ đau, nhưng giảm bớt niệm và định. Làm như thế sẽ giúp cho tâm chúng ta nghỉ ngơi. Sau đó chúng ta sẽ chú tâm vào chánh niệm mạnh mẽ vào cơn đau. Nếu chúng ta không thành công th́ hăy lập lại phương pháp nầy hai hay ba lần như thế.
Nếu cái đau vẫn c̣n và chúng ta thấy tâm ḿnh bắt đầu bị rối loạn dầu chúng ta đă xử dụng phương pháp nầy th́ hăy tạm dừng nghỉ. Điều nầy không có nghĩa là chúng ta sẽ thay đổi tư thế liền khi chúng ta quyết định, mà chúng ta phải dừng nghỉ trong chánh niệm. Nghĩa là chúng ta phải thay đổi tư thế một cách chánh niệm, bỏ qua sự đau, đừng quan tâm ǵ đến nó nữa mà hăy đưa tâm về chuyển động, của bụng hay đề mục chính của chúng ta. Cố gắng chú tâm vào đề mục mới.
Nói tóm lại, chúng ta cần phải cố gắng chế ngự tâm nhút nhát, yếu đuối, không quyết tâm của chúng ta th́ mọi trở ngại sẽ vượt qua một cách dễ dàng. Thực hiện được điều nầy, cần thiết là tâm của chúng ta phải mạnh mẻ và dũng cảm như một viên tướng tài trong trận chiến, chúng ta mới có thể chế ngự được sự đau bằng cách hiểu nó đúng theo thực trạng của nó.
Trong lúc tụng kinh, niệm Phật hành thiền, nhiều loại cảm giác đau đớn, khó chịu, ể oải của thân rất khó chịu đựng sẽ sanh khởi. Có lẽ tất cả các hành giả, một khi đă quyết ḷng tu tập như thế th́ gần như ai cũng đều thấy rơ những khó chịu có mặt thường xuyên trong cơ thể, nhưng, nếu có cố gắng th́ chúng ta không bị ảnh hưởng bởi chúng nhiều.
Trong khi thực hành tụng kinh, niệm Phật, hành thiền, v́ có sự tập trung tâm ư, nên những khó chịu nầy được phóng đại ra. Trong lúc hành thiền tích cực, sự đau cũng thường hiện khởi từ những vết thương cũ, từ những thiếu may mắn trong lúc tuổi thơ hay những bệnh kinh niên trong quá khứ. Những loại bệnh thông thường trong hiện tại bổng nhiên xuất hiện. Nếu hai loại bệnh kinh niên và thông thường đột nhiên xuất hiện th́ chúng ta cũng đừng nên sợ hải, mà trái lại chúng ta phải vui mừng v́ ḿnh có dịp may để trừ diệt chúng. Chúng ta có thể diệt trừ chứng bệnh kinh niên, hay một vài loại bệnh nào đó nhờ sự tinh tấn, mà chẳng cần phải uống một giọt thuốc. Nhiều thiền sinh đă hoàn toàn dứt hẳn bệnh nhờ tham thiền. Để chính là lúc chúng ta thu gặt hạnh phúc khi chúng ta biết đùa giởn với con đau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thanhtinh Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 3 of 4: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Hạnh Phúc & Cơn Đau
Trong bài pháp nầy là nói lên những kinh nghiệm trong lúc hành tŕ mà chúng ta sẽ gặp phải. Mục đích của sự tu tập tập: Tụng Kinh niệm Phật, và hành thiền là tạo một sự quân b́nh giữa thân và tâm, kế đến là để có sự an lạc. Tuy nhiên trước khi có được lạc thọ, mọi người đều quen thuộc với những cảm giác đau nhức, mơi mệt, chán nản mà thuật ngữ của nhà Phật là khổ thọ trong lúc thực tập, cộng thêm những đau khổ của tâm phản ứng trước những cảm giác nầy, và có lẽ trước hết là sự đối kháng của tâm khi bị kiểm soát v́ bị thu thúc vào trong khuôn khổ.
Sở dĩ có những cảm giác đau khổ như vậy là v́ chúng ta chưa có một thái độ quyết liệt chấp nhận như Thái Tử Tất Đạt Đa khi ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Đề ngài nguyện:
- Thân nầy có tan xương nát thịt cũng không rời bước nếu chưa đắc đạo.
Như thế nếu chúng ta phải thực hành một cách triệt để, và thích thú mới có kết quả. Từ ngữ Phật học để chỉ cho trạng thái nầy gọi là tinh tấn. Quả thật có tinh tấn th́ chúng ta sẽ vượt qua tất cả những những cảm giác đau đớn mệt mơi ..v..v.. Nói như thế có nghĩa là chúng ta phải gom hết tâm ư, và năng lực vào việc thực hành một cách thích thú, không quan tâm, không dính mắt vào cơ thể hay mạng sống của ḿnh, th́ lúc đó chúng ta mới có thể phát triển năng lực an lạc. Năng lực nầy sẽ đưa chúng ta đến những tầng mức cao hơn trong thực hành.
Chúng ta hăy kiên nhẫn và cố gắng để đương đầu với khổ đau, là hoàn cảnh chung, nhưng đặc biệt là cảm giác đau nhức trong cơ thể của chúng ta trong lúc chúng ta thực hành. Do đó trong những giờ ngồi thiền đ̣i hỏi chúng ta phải cố gắng chú tâm trên đề mục chính càng nhiều càng tốt.
Sự thu thúc và kiểm soát nầy có thể đe dọa lớn đối với tâm, v́ tâm như quư vị đă thường nghe Chư Tôn Thiền Đức dạy là:
- Tâm con người như con vượn chuyền cây, như ngựa hay ngoài đồng nội.
Tâm có thói quen lang thang đây đó, nên không bao giờ ngừng nghỉ. Tiến tŕnh để thu thúc, và duy tŕ sự chú tâm đ̣i hỏi chúng ta phải có một thái độ dứt khoát, một nổ lực vượt bực. Nổ lực kiểm soát thu thúc để đương đầu với sự phản kháng của tâm là một h́nh thức đau khổ.
Khi trong tâm tràn đầy sự đối kháng, thường th́ thân cũng phản ứng theo và sự căng thẳng phát sinh trong chốc lát, chúng ta bị cảm giác đau nhức vây phủ. Phản ứng đầu tiên được ghi nhận như:
- Tâm chúng ta co thắc, thân chúng ta bị bóp rút lại như ai bị xiết vặn. chúng ta bị mất hẳn sự b́nh tỉnh để nh́n thẳng vào chỗ đau của thân. Bấy giờ tâm của chúng ta trở nên rối loạn có thể tràn đầy phẩn nộ và sân hận. Sự đau khổ của chúng ta lúc đó có ba thứ:
- Tâm không chấp nhận những h́nh thức thu thúc, điều nầy đồng nghĩa với: Hoại Khổ
- Thân đau khổ, điều nầy đồng nghĩa với: Hành Khổ
- Khổ bắt nguồn từ thân đau khổ, sự kiện nầy đồng nghĩa với: Khổ Khổ
Ba loại đau khổ nầy chung quy là v́ bị thu thúc thân tâm vào một đường hướng được quy định, nếu chúng ta không chuẩn bị đương đầu với đau nhức một cách kiên nhẫn, th́ ngược lại chúng ta tự mở cửa để cho buồn phiền, chán nản, sợ hải, thất vọng đi vào. Tham lam, sân hận sẽ ung dung bước vào làm chủ tâm, thân của chúng ta.
Khi tham dục, sân hận có mặt th́ kiên nhẫn đi vắng, th́ tâm chúng ta sẽ rối loạn mê mờ, không có đề mục nào rơ ràng, lúc ấy chúng ta không thấy rơ bản chất thật sự của cái đau. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ tin rằng đau là một chướng ngại cho việc hành thiền nên chúng ta có thể quyết định đổi tư thế để t́m sự thoải mái dễ chịu hơn.
Sự thay dổi tư thế lẽ tất nhiên chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn, tuy nhiên nếu sự thay đổi trở thành thói quen, chúng ta sẽ mất cơ hội kinh nghiệm về thực hành.
Phải biết rằng sự an tịnh của thân tạo nên sự an tịnh, và tĩnh lặng của tâm. Do vậy nếu chúng ta di chuyển thường xuyên, th́ sẽ làm mất bản chất thực sự của cái đau hiện tại đang ngự trị trên thân và trong tâm hồn chúng ta. Như vậy yếu tố duy nhất đang có mặt trong chúng ta là cái đau, nhưng chúng ta lại đổi tư thế để khỏi nh́n thấy nó, chạy trốn nó, th́ chúng ta đă lỡ một cơ hội để hiểu bản chất thật sự của cái đau.
Lư do Đức Phật lần đầu tiên thuyết pháp tại vườn Nai, Ngài nói Pháp Tứ Đế, mà Đế đầu tiên là khổ là tại v́, thật ra, chúng ta đang sống với cái khổ đau từ khi chúng ta được sinh ra trên mặt đất nầy. Cái đau gần gủi với chúng ta suốt cả cuộc đời. Tại sao chúng ta lại chạy trốn nó. Nếu đau phát sinh, hăy nh́n nó! Đó là cơ hội quư báu để ta t́m hiểu được một vài điều quen thuộc qua một cái nh́n mới hơn và sâu xa hơn.
Vào những lúc chúng ta không tu tập, chúng ta hăy tập kiên nhẫn đối với cảm giác đau. Đặc biệt là lúc chúng ta chú tâm vào những ǵ mà chúng ta thích. Chẳng hạn, nếu chúng ta là người thích đánh bài tứ sắc. Chúng ta ngồi truớc mặt ba người kia, tâm hồn của chúng ta chăm chú theo dơi vào những nước bài mà ba người kia đánh ra một cách say sưa. Có lẽ chúng ta ngồi cả buổi, nhưng chúng ta không thấy đau nhức ǵ cả, bởi v́ chúng ta đang cố gắng để t́m những thế bài cao hơn, khó khăn và rắc rối hơn. Nếu chúng ta cảm thấy đau, có lẽ chúng ta cố gắng để quên nó, cho đến khi chúng ta thua hết tiền mới cảm thấy ḿnh mệt mơi và đau nhức.
Thái độ kiên nhẫn khi hành thiền c̣n quan trọng hơn nhiều, v́ hành thiền sẽ giúp chúng ta khai mở trí tuệ ở mức cao hơn là đánh bài tứ sắc, và hành thiền sẽ giúp chúng ta đi ra khỏi nhiều loại rắc rối, trong khi đó đánh tứ sắc càng lúc càng thêm rối rắm trong tâm hồn v́ trong tâm lúc nào cũng nghỉ đến hơn thua. Được th́ tâm khởi lên cảm giác vui mừng, thua th́ tâm khởi lên cảm giác đau buồn chán nản, thất vọng.
Nói về những đam mê, thất vọng sợ hải đau khổ th́ ai cũng biết, tuy nhiên mức độ quán chiếu thấu bản chất thật sự của các hiện tượng tùy thuộc vào mức độ định tâm mà chúng ta khai triển. Tâm càng an trụ vào đề mục th́ càng quán chiếu, thấu suốt và hiểu biết thực tại càng nhiều hơn.
Điều nầy cũng rất đúng khi chúng ta tỉnh thức trước cảm giác đau nhức. Nếu sự an định tâm c̣n yếu, th́ chúng ta sẽ không thực sự cảm giác được sự bất an luôn luôn hiện diện trong cơ thể chúng ta. Khi tâm định bắt đầu sâu hơn, th́ một điểm không thoải mái nhỏ nhặc cũng trở thành to lớn khó chịu.
Như trường hợp một người tai điết, lúc nào họ cũng thích nói to v́ họ không thể kiểm soát được tai của họ, nhưng khi đeo thêm dụng cụ nghe vào tai th́ tất cả lời nói của mọi người đều rơ ràng và âm thanh của họ cũng được điều chỉnh. Không phải tiếng nói của những người chung quanh thay đổi làm cho tai họ trở nên tốt hơn, mà là nhờ thêm dụng cụ họ mang vào. Sự vật trước hay sau vẫn như vậy, nhưng nhờ tai họ được điều chỉnh qua dụng cụtối tân của y khoa hiện đại.
Khi chúng ta nh́n một ly nước bằng đôi mắt thường chúng ta không thấy ǵ khác lạ. Nhưng nếu đặt giọt nước vào kính hiển vi, bạn sẽ thấy nhiều sinh vật bé nhỏ nhảy múa di chuyển quay cuồng trong đó. Đó là lư do tại sao dưới con mắt Phật, Đức Đạo Sư đă từng dạy chúng ta, trong một chén nước có tám mươi bốn ngàn con vi trùng.
Nếu trong lúc ngồi thiền, chịu khó quán chiếu, và chúng ta có được chánh định, chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy nhiều sự thay đổi xảy ra trong một điểm đau nhỏ. Tâm càng tập trung sâu hơn th́ chúng ta càng hiểu rỏ sự đau hơn. Chúng ta càng say mê hơn khi chúng ta thấy rơ cảm giác đau là một chuổi dài biến đổi luôn luôn thăng trầm từ cái đau nầy đến cái đau khác, thay đổi mau lẹ lúc tăng lúc giảm, nhảy múa nhào lộn.
Sự định tâm và chánh niệm của chúng ta càng bén nhạy và sâu xa hơn vào lúc cái đau lôi cuốn chúng ta và làm chúng ta say mê theo dơi. Cuối cùng sự đau biến mất một cách kỳ diệu theo sự kiên tŕ thực tập của chúng ta.
Một người không đủ ḷng tự tin và tinh tấn, để nh́n sự đau th́ không bao giờ chứng nghiệm được tiềm lực ẩn tàng bên trong sự đau nầy. Chúng ta phải phát triển hùng tâm, hùng lực, và dũng cảm, tinh tấn để quan sát sự đau. Hăy tập trung vào trong cơn đau, đối diện, với sự đau mà đừng chạy trốn nó mà trái lại, khi sự đau phát sinh, việc đầu tiên là đưa sự chú tâm ngay vào ngay chính trung tâm của nó. Cố gắng để thấu suốt cốt lơi của đau. Ghi nhận tất cả những diễn tiến của đau, cố gắng xuyên thấu vào bên trong sự đau chứ đừng quan sát bên ngoài hời hợt, th́ chúng ta sẽ chịu nhiều phản ứng.
Trong trường hợp có cố gắng, nhưng chúng ta vẫn bị mỏi mệt v́ nó. Sự đau có thể làm cho thân và tâm bị kiệt quệ. Nếu chúng ta không thể kiên tŕ giữ vững một mức độ tinh tấn, chánh niệm, và chánh định thích nghi th́ chúng ta sẽ bỏ cuộc.
Phương pháp để khắc chế sự đau trong lúc nầy là hăy đùa với chúng, bằng cách là chúng ta đi vào trong cơn đau rồi xả hơi một chút. Nghĩa là chúng ta vẫn trú tâm và chỗ đau, nhưng giảm bớt niệm và định. Làm như thế sẽ giúp cho tâm chúng ta nghỉ ngơi. Sau đó chúng ta sẽ chú tâm vào chánh niệm mạnh mẽ vào cơn đau. Nếu chúng ta không thành công th́ hăy lập lại phương pháp nầy hai hay ba lần như thế.
Nếu cái đau vẫn c̣n và chúng ta thấy tâm ḿnh bắt đầu bị rối loạn dầu chúng ta đă xử dụng phương pháp nầy th́ hăy tạm dừng nghỉ. Điều nầy không có nghĩa là chúng ta sẽ thay đổi tư thế liền khi chúng ta quyết định, mà chúng ta phải dừng nghỉ trong chánh niệm. Nghĩa là chúng ta phải thay đổi tư thế một cách chánh niệm, bỏ qua sự đau, đừng quan tâm ǵ đến nó nữa mà hăy đưa tâm về chuyển động, của bụng hay đề mục chính của chúng ta. Cố gắng chú tâm vào đề mục mới.
Nói tóm lại, chúng ta cần phải cố gắng chế ngự tâm nhút nhát, yếu đuối, không quyết tâm của chúng ta th́ mọi trở ngại sẽ vượt qua một cách dễ dàng. Thực hiện được điều nầy, cần thiết là tâm của chúng ta phải mạnh mẻ và dũng cảm như một viên tướng tài trong trận chiến, chúng ta mới có thể chế ngự được sự đau bằng cách hiểu nó đúng theo thực trạng của nó.
Trong lúc tụng kinh, niệm Phật hành thiền, nhiều loại cảm giác đau đớn, khó chịu, ể oải của thân rất khó chịu đựng sẽ sanh khởi. Có lẽ tất cả các hành giả, một khi đă quyết ḷng tu tập như thế th́ gần như ai cũng đều thấy rơ những khó chịu có mặt thường xuyên trong cơ thể, nhưng, nếu có cố gắng th́ chúng ta không bị ảnh hưởng bởi chúng nhiều.
Trong khi thực hành tụng kinh, niệm Phật, hành thiền, v́ có sự tập trung tâm ư, nên những khó chịu nầy được phóng đại ra. Trong lúc hành thiền tích cực, sự đau cũng thường hiện khởi từ những vết thương cũ, từ những thiếu may mắn trong lúc tuổi thơ hay những bệnh kinh niên trong quá khứ. Những loại bệnh thông thường trong hiện tại bổng nhiên xuất hiện. Nếu hai loại bệnh kinh niên và thông thường đột nhiên xuất hiện th́ chúng ta cũng đừng nên sợ hải, mà trái lại chúng ta phải vui mừng v́ ḿnh có dịp may để trừ diệt chúng. Chúng ta có thể diệt trừ chứng bệnh kinh niên, hay một vài loại bệnh nào đó nhờ sự tinh tấn, mà chẳng cần phải uống một giọt thuốc. Nhiều thiền sinh đă hoàn toàn dứt hẳn bệnh nhờ tham thiền. Để chính là lúc chúng ta thu gặt hạnh phúc khi chúng ta biết đùa giởn với con đau.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thanhtinh Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 4 of 4: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:27am | Đă lưu IP
|
|
|
Tu Tâm & Tu Tướng
Người ta thường nói:
- Nhân bất khả mạo tướng
Nghĩa là:
- Chúng ta không thể đoán xét một người theo mặt mũi của họ.
Nhưng xét ra câu nói trên không hoàn toàn đúng. V́ theo như chúng ta đă biết, cá tánh của con người không ai giống ai, nhưng chúng ta cũng có thể đoán biết được tâm tánh, ước muốn của họ, biểu lộ trên khuôn mặt, tiếng nói, tiếng cười qua chỉ tay, bàn tay để biết để biết người sang hèn, phúc hậu. Như vậy, trên khuôn mặt hay tướng đi đứng của mọi người đều có thể được coi là cơ sở phản ảnh nội tâm, trong đầu óc của chúng ta. V́ thế sự xét đoán nội tâm của mọi người qua tướng diện hay do những hành động cử chỉ, theo sự lập luận của các nhà tướng số cũng có phần lập luận theo khoa học của nó.
Theo quan điểm của Phật giáo, chư Phật và chư Tổ cũng thường dạy:
- Tướng tự tâm sanh
Tướng tùng tâm diệt
Nghĩa là:
- Tướng do tâm mà sanh
Tướng cũng do tâm mà diệt.
Và trong kinh Pháp Cú Đức Phật cũng đă từng dạy:
- Trong các pháp tâm làm chủ, tâm dẫn đầu, tâm tạo tát tất cả, nếu ta nói, ta làm, ta nghe theo .... th́ phước đi theo ta như bóng theo h́nh.
Và ngược lại ......
Trên cơ sở nhân nào quả nấy, do vậy chúng ta thấy nếu là người làm những việc thiện th́ thân tướng người đó trang nghiêm tốt đẹp... c̣n nếu đă tạo tác với những những nghiệp xấu ác tệ hại th́ người đó có tướng nghèo đói khổ sở ...
Theo quan điểm của Phật Giáo, muốn thay đổi nghiệp là phải tu sửa tâm, v́ tướng tự tâm sanh, nên khi sửa tâm th́ nghiệp chuyển, mà nghiệp chuyển th́ tướng cũng thay đổi. Do vậy khi nói về Tu Tâm và Tu Tướng th́ chúng ta phải hiểu rằng:
- Muốn có một thân tướng tốt đẹp, trang nghiêm rực rỡ th́ chúng ta phải tu tâm.
Quả thật như vậy, trong đạo Phật có một rừng kinh điển, sách vở, để thích ứng cho đủ mọi căn cơ, tŕnh độ, giới thiệu tất cả các pháp môn tu tập, tŕnh bày các kinh nghiệm tu hành từ xưa đến nay, nhưng tất cả những kinh điển, sách vở đó đều nhằm mục đích duy nhất là:
- Khai mở và chỉ bày cho tất cả mọi người thấy rơ cái bản tâm thanh tịnh của chính ḿnh.
Nếu không ngộ được điều này, tức là chúng ta không sống được với bản tâm thanh tịnh, con người ấy tu tập dụng công phu có thể nhiều, nhưng thu lượm kết quả chẳng đuợc bao nhiêu.Người nào ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh, tức là đă chuyển nghiệp, đă giữ được tâm b́nh thường, là người thấy đạo, vào được đạo.Cho nên, Thiền sư Phổ Nguyện Nam Tuyền có dạy:
- B́nh Thường Tâm Thị Đạo.
Nói một cách khác, tất cả kinh điển giáo lư của đạo Phật có thể tóm gọn vào một chữ, đó là chữ Tâm.Do đó một người có khuynh hướng tu tâm là chúng ta phải nắm vững được ch́a khóa quan trọng này. Một khi chúng ta có được ch́a khóa quan trọng nầy rồi, th́ chúng ta có thể mở toang được tất cả các cánh cửa của nhà Phật, thấu hiểu những lời dạy của chư Phật, chư vị Tổ sư trong các kinh điển, sách vở, cuối cùng mục đích thấy được con đường giác ngộ và giải thoát, để xây dựng đời sống hiện tại được an lạc và hạnh phúc chúng ta sẽ đạt được không khó.
Trong chiều hướng thực tập tu tâm và tu tướng, trước và trên hết là chúng ta phải biết tâm của chúng ta. Do vậy, chúng tôi xin được giới thiệu đến đại chúng những ghi nhận về Tâm, mà qua đó các kinh điển đă có ghi, và kinh nghiệm tu tập thực tế của các bậc tôn túc từ xưa cho đến nay để tiện việc t́m hiểu.Nội dung mỗi đề mục đều có công năng hướng dẫn chúng ta tu tâm để t́m lại bản tâm thanh tịnh. Trước hết là:
1- Khinh Hoa Nghiêm
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- Nhứt thiết duy tâm tạo.
Nghĩa là:
- Mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả.
Theo quan điểm nầy, công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm.Đó chính là tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp không lương thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Chúng ta đă thấu hiểu lư lẽ chân thật của cuộc đời là: Vô thường, không có ǵ tồn tại vĩnh viễn, không có ǵ là tự nhiên sanh ra mà không có nguyên nhân.
Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: Quá khứ, hiện tại, vị lai, có sinh sự th́ sự sinh cho nên người đời thường nói:
- Nhân nào th́ quả nấy.
Gieo gió th́ gặt băo
Đối với một người khi có vấn đề khó khăn, hướng tâm về sự cầu nguyện với tâm lăng xăn lộn xộn, th́ chỉ đem lại sự b́nh an tâm trí tạm thời.Trong khi đó b́nh an thực sự chỉ có cho những người thiện tâm.Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng thực sự, tất cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà thôi.Bởi vậy tu tâm theo quan điểm nầy là:
- Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không
Đó chính thực là chân sám hối.
Nói cách khác là:
- Tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, th́ phải thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm của chính ḿnh.
Từ đó, chúng ta phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham sân si, th́ tội lỗi sẽ không c̣n tái phạm nữa.
Khi tội lỗi không c̣n, tâm sanh diệt cũng lặng mất, con người sống trong trạng thái tịch tịnh, b́nh yên của tâm trí.
Đó mới thực là sự sám hối tu tâm chân chánh.
2- Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- Tùy tâm biến hiện.
Nghĩa là:
- Mọi sự mọi việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do vọng tâm của chúng ta biến hiện ra cả.
Quả thật như vậy, sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống với thời nào, không nơi nào giống với nơi nào.Cho nên thi hào Nguyễn Du có câu:
- Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Nghĩa là:
Cùng một cảnh vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo năo, chúng ta không thấy cảnh vui chút nào.C̣n nếu chúng ta có tâm trạng hân hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường.
Cái tâm hân hoan vui vẻ là chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê cũng là chúng ta. Cho nên cùng một câu nói như vậy, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cũng cho là:
- Nói đúng nói phải
Trái lại, tâm đang bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cũng cho là:
- Nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói bóng nói gió, nói hành nói tỏi....
Đối với người thân, tâm ư chúng ta thương yêu quư mến, mặc dù chưa chắc lúc nào cũng tốt như chúng ta tưởng.C̣n như đối với kẻ thù người oán, tâm ư ḿnh không tốt, sẵn sàng gây phiền năo khổ đau cho họ.Hơn nữa, họ càng khổ đau nhiều chừng nào, th́ ḿnh càng khoái chừng đó! V́ là do tâm biến hiện cho nên một cụ thể khác, chẳng hạn như là:
- Nếu chúng ta đang cần sự giúp đỡ khẩn cấp, khi gặp tai biến, th́ viên cảnh sát chính là ân nhân.C̣n nếu chúng ta đang vi phạm luật pháp, làm chuyện mờ ám, làm ăn phi pháp, th́ bóng dáng viên cảnh sát thực chẳng đáng ưa chút nào cả.
Cùng một câu chuyện, chúng ta ưa thích th́ cho là đúng, ngược lại không ưa liền cho là sai.Cái tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi bất thường như vậy, thực không phải là chúng ta. Cho nên chúng ta cũng nên thường đánh giá lại tâm của chúng ta coi chúng ta là người:
- Có tâm thực tốt, hay tâm không tốt.
3- Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- Nhất niệm sân tâm khởi,
Bách vạn chướng môn khai.
Nghĩa là:
- Một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế, không tự khắc phục,
Th́ biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó.
Quả thật như vậy, khi tâm si nổi lên, tức là chúng ta đang sống trong cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo tội tạo nghiệp bằng cách:
- Hăm hại trả thù, lập mưu tính kế, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng....
Nghĩa là không cần biết hậu quả khổ đau đối với các người khác và gia đ́nh họ như thế nào, và hậu quả nghiệp báo của chúng ta ra sao, chúng ta chỉ cần thỏa măn cái sự căm tức của ḿnh là đủ.
Những giây phút ngu si, lầm lẫn thường là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho ḿnh và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời.
Bởi vậy cho nên, phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si, trong kinh sách gọi đó là: Tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống mới an lạc và hạnh phúc.
4- Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật có dạy:
- Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền năo, th́ chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề.
Người tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính ḿnh, luôn luôn giữ ǵn chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo.Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ được phiền năo, gọi là: nhứt tâm bất loạn.Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề.Khi lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho nên được văng sanh cảnh giới tịnh độ.
Muốn làm được điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.
a- Quán thân bất tịnh, nghĩa là quán tưởng tấm thân mấy chục kư lô của ḿnh chỉ là một tập hợp những thứ không sạch, được bọc bên ngoài bởi lớp da cũng chẳng mấy ǵ sạch sẽ cho lắm, con người thấy rơ: tấm thân này không phải là ḿnh, cho nên đừng nên bận tâm chuyện c̣n hay mất.Nghĩa là khi sống đừng quá chăm sóc và nuông ch́u, khi chết đừng bận tâm chuyện đem chôn hay đem thiêu.
b- Quán thọ thị khổ, nghĩa là quán tưởng sự cảm thọ, thọ nhận là khổ, con người thấy rơ: Càng chấp chặt chuyện đời, chuyện thị phi phải quấy, càng thọ nhận nhiều cảm giác, càng đau khổ nhiều.Cho nên ai nói điều ǵ không đúng chánh pháp, th́ cho qua luôn, đừng nhớ làm chi vô ích, đừng nghĩ suy ǵ cả.Nói vắn tắt là: Thọ nhiều th́ khổ nhiều, chấp nhiều th́ mệt nhiều.Buông xả th́ thanh thản, tha thứ th́ thư thái.
c- Quán tâm vô thường, nghĩa là quán tưởng cái tâm nhỏ hẹp của ḿnh luôn luôn thay đổi, sanh diệt liên miên, mới nghĩ thế này liền nghĩ thế khác, lúc thương yêu đắm đuối lúc thù hận ngập tràn, lúc thân lúc thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc hiền lành lúc gian tà. Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần bên ngoài.Cảnh trần bên ngoài đẹp mắt, vừa tai, thuận ư, th́ sanh tâm vui thích.Cảnh trần bên ngoài chói tai gai mắt, nghịch ư, th́ sanh tâm tức tối.Nếu cứ theo sự sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, th́ cuối cùng chúng ta tạo tác không biết bao nhiêu nghiệp chướng, và dẫn tới cảnh trôi lăn, trầm luân trong sinh tử không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!
d- Quán pháp vô ngă, nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian này đều không có bản thể nhứt định, gọi là: Vô ngă.Các pháp, tức là tất cả sự sự vật vật trên đời, không có cái ǵ cố định, không phải tự nhiên sanh ra, không phải tự nhiên diệt đi.Tất cả chỉ là một ḍng chuyển biến không ngừng.Con người thấy đó mất đó.Chuyện ǵ rồi cũng đổi thay, rồi cũng qua mau. Đừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp sanh diệt của thế gian.
Bốn pháp quán nầy nhẵm mục đích hổ trợ cho chúng ta trong việc nhận định tâm của chúng và hướng dẫn cho đúng đường.
5- Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
- Chư pháp tùng nhân duyên sanh.
Chư pháp tùng nhân duyên diệt.
Nghĩa là:
- Muôn sự muôn vật trên đời tùy theo nhân duyên mà sanh ra,
Cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi.Không có việc ǵ, vật ǵ, có thực tướng, tồn tại vĩnh viễn.
Từ đó chúng ta nên có ư thức, một khi có người chửi chúng ta, là v́ do chúng ta gây nghiệp bất thiện cảm của chúng ta với người.Một khi chúng ta biết như vậy, nếu có bị người ta chửi, th́ cứ để cho họ chửi, chửi măi mỏi miệng th́ cũng ngưng thôi, tức giận làm chi cho mệt! Đừng nên đưa cái bản ngă của ḿnh, tức là cái tôi, cái ta, của chúng ta ra hứng những ngọn lửa của thế gian, th́ ḿnh đâu có bị đốt cháy, đâu có bị nhiệt năo, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên.Ngọn lửa không thể đốt hư không được, sẽ tự dập tắt thôi.Vô ngă đơn giản là như vậy đó, an lạc là như vậy đó!
6- Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
- Sanh diệt kư diệt, tịch diệt hiện tiền.
Sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc.
Nghĩa là:
- Khi nào các tâm sanh diệt, tức là tâm tham sân si, nổi lên rồi lắng xuống, sanh khởi rồi diệt đi, không c̣n nữa, th́ tâm trí b́nh yên lặng lẽ, không xáo trộn.
Một khi đă không bị xáo trộn, tức là cảnh giới an lạc, niết bàn tự tại, hiện ngay trước mặt.
Nói cách khác, khi tâm trạng bất an v́ những niệm sanh diệt, gọi là: Tâm chúng sanh.Tâm chúng sanh diệt rồi, không c̣n lăng xăng lộn xộn nữa, trở nên tâm không tịch, trống không và tịch tịnh, hoàn toàn thanh tịnh, th́ gọi là bản tâm thanh tịnh, hay tâm b́nh thường, chính là tâm Phật.
Điều này thực dễ hiểu, ví như khi cặn cáu lắng xuống hết, ly nước đục trở thành ly nước trong. Mặt biển sóng động trở thành mặt biển thái b́nh. Tâm loạn động trở thành tâm thanh tịnh.Không cần phải t́m tâm Phật đâu xa.Nhưng thực hiện được điều này là cả một đời tu tập, tu tâm dưỡng tánh, giữ ǵn giới luật, lánh dữ làm lành, quán sát tâm ư một cách tích cực mới được.Để thực hiện đều nầy, chúng ta có thể hành tŕ tất cả các pháp môn, pháp môn nào chúng ta thích hợp với căn cơ của chúng ta là được. Do vậy, dù là thiền tông, tịnh độ tông, hay mật tông.... Nghĩa là: thiền quán, tọa thiền, thiền hành, tứ oai nghi thiền, tụng kinh, niệm Phật, tŕ chú, cho đến mức rốt ráo, đạt được trạng thái: Nhứt tâm bất loạn là chúng ta đă cột trói cái tâm loạn động của chúng ta.
7- Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- Căn bản của sanh tử luân hồi là: Vọng tâm.
Căn bản của bồ đề niết bàn là: Chân tâm.
Nghĩa là:
- Căn bản sanh tử luân hồi là do vọng tâm
Căn bản trí giác niết bàn là chân tâm.
Quả thật như vậy, chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi v́ suốt ngày này qua ngày nọ, luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn, luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi chê, khi tán thán khi phê phán.Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính ḿnh: Khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rơ ràng.
Bản tâm thanh tịnh, hay chân tâm bất sanh bất diệt, không sanh không diệt, thường hằng, vĩnh viễn, luôn luôn hiện hữu.Chỉ có vọng tâm: Tham lam, sân hận, si mê, mới có sanh và diệt, mà thôi.Chẳng hạn như khi gặp chuyện bất như ư, tâm liền khởi sanh bực tức oán giận.Lúc đó, chúng ta quên mất bản tâm thanh tịnh của ḿnh, tức là quên mất ḿnh là ai, chỉ biết tức giận.Lâu sau nguôi dần, tâm trở lại trạng thái b́nh thường, tâm sân hận diệt đi, không c̣n nữa.Sanh diệt có nghĩa là như vậy.
Chân tâm, tức là bản tâm thanh tịnh mà người nào cũng có, không phân biệt tôn giáo, nam nữ, màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, học thức, giàu nghèo, địa phương, quốc gia, thời gian hay không gian.Giáo lư của đạo Phật cao siêu mầu nhiệm ở chỗ chỉ bày rơ ràng chân lư không phân biệt, không kỳ thị, tất cả mọi người đều có thể hiểu một cách rơ ràng.
Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm, đó chính là:
- Từ, bi, hỷ, xả.
Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh, những người gần chúng ta nhất như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng, bạn bè.Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp.Cho đến khi nào Bốn Tâm Vô Lượng tṛn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ư trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện.
Điều đáng quan trọng không phải là vọng tâm thay đổi bất chợt, bất thường nói trên, mà chính là cái chân tâm, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, của tất cả chúng ta vậy.
Hiểu được, nhận được: Thế nào là chân tâm, chính là mục đích cứu kính của đạo Phật.
8- Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:
- Con người v́ vô minh cho nên có hai thứ chấp: Chấp ngă và chấp pháp.
Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền năo và khổ đau của cuộc đời. Khi nào hiểu được một cách rơ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau này, chúng ta sẽ t́m được an lạc và hạnh phúc thực sự, ngay trong cuộc sống hiện tại.
Chấp ngă có nghĩa là:
Con người thường chấp cái sắc thân giả tạm và cái vọng tâm vô thường, trong kinh sách gọi chung là: Năm uẩn, lại cho là thực, lại tưởng chính là ḿnh, cho nên mới phiền năo và khổ đau.Cái sắc thân giả tạm nặng mấy chục kư lô này của con người bao gồm bảy thứ: Đất, nước, gió, lửa, không đại, kiến đại, và thức đại trong kinh sách gọi đó là: thân bảy đại, không phải là thực. Bởi v́ nếu sắc thân bảy đại này thực là của con người, th́ nó phải tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng của con người.Con người ai ai cũng muốn cái thân bảy đại này trẻ măi không già, khỏe măi không đau, c̣n măi không hoại.Nhưng, từ xưa đến nay, từ đông sang tây, từ giàu sang đến nghèo hèn, từ học thức cho đến b́nh dân, chúng ta chưa thấy có có người nào được toại nguyện như ḿnh mong muốn. Vậy mà ai động đến nó, chúng ta liền nổi xung, nhứt định ăn thua đủ, nhứt định vác đơn kiện, nhứt định đ̣i bồi thường, nhứt định hành hung cho hả giận cho đă nư, không thể nhịn nổi. Hành động như vậy chỉ nhằm bảo vệ cái thân bảy đại vốn giả tạm, vốn không thực này, để rồi một ngày kia, dù muốn hay không, mọi người đều phải bỏ lại, để đi sang thế giới khác, để tái sinh kiếp khác, với cả một đống nghiệp báo chồng chất.
Sắc thân bảy đại mấy chục kư lô th́ là như vậy, c̣n cái vọng tâm th́ lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên.Con người bị khổ đau nhiều đời nhiều kiếp, bởi v́, chấp lầm vọng tâm lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên, cho đó là ḿnh, rồi nương theo đó, chợt vui chợt buồn, chợt cười chợt khóc, suốt ngày suốt đêm, suốt tháng suốt năm, suốt cả đời này, và những đời sau!Vọng tâm gồm có:
- Tâm thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức.
Cái tâm nghĩ suy, tính toán hơn thua, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày suốt đêm, lúc sanh lúc diệt, không phải thực là chúng ta, đó chỉ là vọng tâm.Xét thấy năm uẩn đều không, sắc tướng và vọng tâm đều không thực, con người phá được sự quan trọng của bản ngă, dẹp được tự ái, thoát được phiền năo, không c̣n khổ đau, cho nên tâm trí an nhiên tự tại.Đó là giáo lư vô ngă của đạo Phật.
Chấp pháp nghĩa là:
Đối với tất cả các pháp trên đời, bao gồm mọi sự mọi việc thế gian, con người chấp chặt ư kiến cá nhân, thành tích khả năng, suy nghĩ hiểu biết, kiến thức sở học, kinh nghiệm bản thân, không muốn thay đổi, không muốn cải thiện, không muốn sửa chữa, không muốn chuyển hóa, không muốn nghe ai, v́ vậy có người c̣n bịt cả hai tai, chỉ mở cái miệng để nói.Thậm chí biết rằng ḿnh đă nghĩ sai, làm sai nói sai, tin bậy hiểu lầm, cũng vẫn chấp chặt không thay đổi.
Đời người chẳng qua chỉ là hơi thở, khi thở hơi ra mà chẳng hít vào được nữa th́ sinh mạng chúng ta không c̣n. Đời người chỉ là tạm vay mượn đất, nước, gió, lửa .... từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước, gió, lửa ... bên trong thân, từng ngày từng giờ, từng phút từng giây.Khi không vay mượn nữa, con người không tồn tại được.Chỉ v́ cuộc sống quay cuồng, con người măi lo kiếm tiền, bận lo hưởng thụ, bo bo giữ ǵn của cải, mặt mũi, danh vọng hăo huyền, v́ vậy có người lúc nào cũng tưởng:
- Đời c̣n dài, tương lai c̣n rộng
V́ nghĩ đời c̣n dài, tuơng lai c̣n rộng cho nên hơn thua từng câu từng lời, kiếm chuyện đấu tranh, chiếm đoạt tài sản, danh lợi phù du, giành giựt miếng ăn ... Chỉ biết lợi ḿnh, bất kể hại người, đem lại khổ đau, cho bao người khác.Bởi vậy chính ḿnh cũng chịu đau khổ phiền năo, tâm trí luôn luôn bất an.
9- Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
- Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh.
Chúng sinh chẳng nhận thấy được, v́ bị vô minh che lấp.
Nghĩa là:
- Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ v́ tâm tham lam của cải tiền bạc, hoặc v́ tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc v́ tâm si mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp đó là vô minh.
Vô minh làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào ṿng sanh tử luân hồi, đă muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn muôn kiếp về sau, nếu như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Do vậy, với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người c̣n có thể tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không gây năo loạn cho người, và gia đ́nh của họ.Nhưng khi kiện thưa đ̣i tiền bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải. Mănh lực của đồng tiền và danh vọng quả thực là vạn năng, đă lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sanh u mê, vào ṿng tội nghiệp, từ xưa đến nay!Chính v́ biết mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người không thấy được thế giới chư Phật trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh.
Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của ḿnh, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!
10- Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
- Quá khứ tâm bất khả đắc,
Hiện tại tâm bất khả đắc,
Vị lai tâm bất khả đắc.
Nghĩa là:
- Quá khứ đă qua rồi
Hiện tại luôn luôn trôi chảy
Tương lai th́ chưa đến.
Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm ǵ cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi ǵ.Muốn làm được điều này, ở trong gia đ́nh hay ngoài xă hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha, độ lượng, biết tha thứ, biết cảm thông, nói chung là tâm từ bi.Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi ǵ.Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi ǵ. Chi bằng chúng ta giữ ǵn tâm trí được như như, b́nh tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không? Chuyện ǵ phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu.Đó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, c̣n gọi là: quả báo.
Hiểu sâu được luật nhân quả, chúng ta sẽ b́nh tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo xảy đến.Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là chúng ta tu tâm có nghĩa là chúng ta đă dừng ba nghiệp: Thân miệng, ư không lương thiện.Trong kinh sách gọi là:
- Dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Tóm lại, trên cuộc đời này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù trí thức hay b́nh dân, dù là già trẻ, trai gái, màu da chủng tộc nào đi nữa, nói chung bất cứ người nào cũng có hai thứ bệnh: Thân bệnh và tâm bệnh.Đối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng, nhức đầu, sổ mũi, cảm cúm, đau tim gan ty phế thận, con người cần tới khả năng trị bệnh của các vị thầy thuốc, dù đông y hay tây y cũng được.Để pḥng ngừa thân bệnh, có những phương pháp tập thể dục, những cách dưỡng sinh khoa học, những chế độ ăn uống thích ứng với từng lứa tuổi, và t́nh trạng sức khỏe cá nhân ...C̣n đối với tâm bệnh, chẳng hạn như tâm tham, sân, si, tâm ganh tị, đố kỵ, tâm hơn thua phải quấy, tâm thành kiến cố chấp, tâm lo âu sợ sệt, tâm loạn động bất an, con người cần phải t́m hiểu chánh pháp và áp dụng trong đời sống hằng ngày để tu để chuyển nghiệp.
Trong hai loại bệnh nầy chúng ta thấy tâm bệnh là quan trọng hơn cả, v́ một khi tham, sân, si nổi dậy th́ nó có khả năng đưa đẩy chúng ta vào con đường sanh tử luân hồi đời đời kiếp, do vậy muốn chuyển nghiệp thức xấu thành tốt, dở thành hay, chúng ta phải tích cực trau luyện tâm chúng ta cho thuần thục. Đức Phật là bậc toàn giác, trí tuệ sáng ngời, phước báu vô biên,nhưng dầu sao đi nữa Ngài cũng thị hiện thân bệnh để hướng dẫn chúng sanh, nhưng không có tâm bệnh, không phiền năo và khổ đau, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, trong mọi hoàn cảnh.Nói một cách khác: Đức Phật không có tâm bệnh, nhưng bất cứ ai sống trên đời này, c̣n mang thân xác con người, là c̣n khổ v́ thân bệnh, và tâm bệnh nếu không giác ngộ được chân lư vi diệu nhiệm mầu.Trước khi kết thúc, xin nhắc đến một thí dụ:
- Khi đứng trong một căn pḥng, nếu chúng ta cầm đèn rọi ra bên ngoài, th́ chúng ta sẽ thấy rơ, và biết rơ cảnh vật bên ngoài, c̣n bên trong căn pḥng th́ tối thui.Ngược lại, khi chúng ta xoay ngọn đèn vào bên trong căn pḥng, dĩ nhiên căn pḥng sáng tỏ một cách rơ ràng, và chúng ta có thể thấy mọi thứ đồ đạc trong căn pḥng.
Cũng vậy, khi phóng tâm quán sát bên ngoài, chúng ta có thể phê phán người này đúng, người kia sai, chuyện này phải, chuyện kia quấy.Chúng ta cũng có thể biết chuyện khắp năm châu bốn biển, chuyện thời sự khắp thế giới, muôn sự mọi việc bên ngoài đều biết rơ ràng rành mạch.Trái lại, chuyện bên trong tâm tư của chúng ta th́ chính ḿnh mù tịt, không biết ǵ hết.
Trong chiều hướng tu tâm và tu tướng, chúng ta là Phật tử, chúng ta một khi đă được chư Phật, chư tổ, chư tôn đức hướng dẫn và chỉ cái nguy hiểm của vọng tậm và sự khủng bố của thực nghiệp, chúng ta phải mau mau trở về với nguồn tâm thanh tịnh để nhận biết thực sự chúng ta là ai. Chúng ta thực sự đang muốn ǵ.Chúng ta thực sự sống trên đời để làm ǵ, và sau này sẽ đi về đâu, khi mà chúng ta vẫn cứ tạo tội tạo nghiệp hằng ngày.
Ư tức nầy sẽ giúp chúng ta ghi nhận toàn bộ ư thức thuộc về nội tâm, chúng ta sẽ biết được cái tâm ư điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào ṿng sanh tử luân hồi.Một khi mà chúng ta đă làm chủ được t́nh h́nh của tâm chúng ta, th́ chúng ta đă tu tâm đến chỗ thành tựu tốt đẹp. Tâm một khi đă thuần thục th́ tướng cũng là phước tướng trang nghiêm. Xin mượn bài kệ của một vị thiền sư gởi đến đại chúng, để gọi là hành trang hỗ trợ đại chúng trên con đường tu tâm sửa tướng:
- Tam điểm như tinh tượng
Hoành câu tợ nguyệt tà
Phi mao tùng thử đắc
Tố Phật giả do tha
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|