Tác giả |
|
tieudongtu Hội viên


Đă tham gia: 12 April 2006 Nơi cư ngụ: Spain
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 25
|
Msg 1 of 6: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 12:43am | Đă lưu IP
|
|
|
Nguyên Lư Vô Thường &
Cái Nh́n Chư Thiền Sư
Trước hết chúng ta phải hiểu Vô Thường là Thường. V́ hiểu được Vô Thường là thường cho nên chúng ta mới thấy được nhân cách sáng ngời của chư Phật, chư Tổ, chư Thiền Sư đă bao đời tiếp nối đi qua và đă cho nhân thế một cái nh́n chính xác và linh động trong cuộc sống thiết thực của con người. V́ thế khi học hỏi, thực tập và nói về giáo lư Vô Thường th́ chúng ta phải nói từ thân tâm cho đến vũ trụ vạn hữu, muôn vật đều biến đổi từng niệm, từng giây, từng phút. Niệm, giây, phút là chỉ cho thời gian hết sức ngắn ngủi, tuy nhiên mọi sự vật thay đổi c̣n mau hơn tâm niệm. Niệm sau sanh, niệm trước diệt. Không những chỉ có trên phương diện tâm lư, mà cả trên hiện tượng vật lư cũng đều như thế. Hữu t́nh thế giới th́ có Sanh, Trụ, Dị, Diệt, mỗi tích tắc thay đổi không thường. Hoa nở rồi tàn, trăng tṛn rồi khuyết, cho đến trái đất nơi chúng ta đang cư trú cũng rung chuyển vận hành, thay đổi. Đây là Vô Thường của hiện tượng giới. Trạng thái vui, buồn từ trẻ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, sự thay đổi nầy là Vô Thường tâm sinh lư của nhân sinh. Mọi sự, mọi vật tạo tác, biến chuyển không ngừng vật lư, tâm lư cũng như thế, nghĩa là bị nhân duyên phát động, tất cả đều là sự vật không cố định, cho nên gọi là Vô Thường.
Nói về Vô Thường, đức Phật đă dạy:
- Tất cả những ǵ trong thế gian đă là biến đổi, hư hoại, đều vô Thường.
Vậy Vô Thường nghĩa là không thường, không măi măi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay h́nh đổi dạng đi từ trạng thái h́nh thành đến biến đi rồi tan ră... Đạo Phật gọi những giai đoạn thay đổi của một vật là: Thành, Trụ, Hoại, Không. Như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là thành, khi nhô lên cao th́ gọi là trụ, khi hạ dần xuống th́ gọi là là hoại, khi tan ră th́ gọi là không. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều phải tuân theo bốn giai đoạn ấy cả nên gọi là Vô Thường.
Để cho có một ư niệm rơ ràng hơn về sự vô thường, chúng ta hăy quan sát suy nghiệm ngay cái thân của chúng ta, cái tâm chúng ta và cái hoàn cảnh chúng ta đang sống th́ sẽ biết.
A- Thân Vô Thường
Nói về Thân Vô Thường chúng ta thấy khi nhân duyên đủ hiện hữu th́ có, nhân duyên không c̣n th́ tan biến, trở thành không. Khi vầy khi khác, biến chuyển không ngừng. Như mới sống thoạt chết, mới trẻ liền già, mới mạnh thoạt yếu, mới khoẻ liền đau. Trong thế gian, tất cả các pháp hữu vi đều sanh diệt biến đổi lưu chuyển không một phút nào yên trụ. Tất cả đều bị chi phối bởi định luật vô thường. Trong nghi thức Bồ Tát Giới Kinh có câu:
- Mạng người vô thường, c̣n mau hơn nước chảy trên non, hôm nay dầu c̣n, ngày mai khó giữ.
V́ không thấy được sự chi phối của nguyên lư vô thường nên có những quan niệm nông nổi của mộr số nam nữ thanh niên v́ quá yêu chuộng thân thể:
- Thân tôi mạnh khoẻ luôn, trẻ đẹp măi, và đời tôi là cả một bài thơ....
Quan niệm như thế nên họ sống một cách vô tư, cứ tưởng thân thể họ trẻ măi, hay nếu có già, th́ cũng c̣n lâu lắm không ngờ rằng nó già nó chết, từng giây phút.
Tuy nhiên, nếu chịu khó trầm tư th́ chúng ta thấy mặt dầu thân của chúng ta, cái tâm chúng ta và cái hoàn cảnh chúng ta đang sống đều bị chi phối bởi định luật Vô Thường. Nhưng cũng chính trong cái vô thường đó chúng ta sẽ có những niềm vui hay đau khổ, tất cả đều tùy thuộc vào quan niệm và cách sống của mỗi người. Thí dụ như nói về thân. Nếu nói về thân th́ chúng ta nên xét trên hai phương diện. Vô thường để tăng trưởng, và vô thường cũng để hoại diệt.
a- Vô Thường Để Tăng Trưởng.
Như chúng ta lúc mới chào đời, nếu không có sự vô thường th́ có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ lớn khôn. Cũng vậy, lúc chúng ta đau yếu, nếu không có sự vô thường để biến đổi, có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ lành bệnh.
b- Vô Thường Để Hoại Diệt.
Qua thời gian tăng trưởng, đến giai đoạn thay đổi để đi đến hoại diệt. Nghĩa là từ trẻ lại đi dần đến già, tiều tụy...
Đây là một sự thật, khoa học đă chứng minh rằng, trong thân thể chúng ta các tế bào thay đổi luôn. Sự thay đổi ấy làm cho thân thể chóng lớn, chóng già chóng chết. Thân năm trước không phải thân năm sau, thân ban mai không phải thân ban chiều, mỗi giây phút trong thân ta đều có sanh có diệt.
Từ khi sanh ra cho đến chết, thân chúng ta đă không biết bao nhiêu lần thay đổi. Nếu có lúc mới sanh ra, cha mẹ thường ẳm bồng và để chúng ta vào trong chiếc nôi như thế nào th́ lúc chết người ta bế cái xác đặt vào quan tài cũng giống như để đứa bé sơ sinh vào chiếc nôi cũng như vậy.
Ḍng nước của một con sông, mới trông chúng ta không thấy có ǵ khác lạ, nhưng thật sự ḍng nước hôm nay, không phải là ḍng nước hôm qua cho nên người đời thường nói:
- Đố ai tắm nước ḍng sông hai lần
Nghĩa là:
- Chúng ta không thể nào tắm cùng một loại nước trong một ḍng sông hai lần.
Thân người cũng vậy, luôn luôn trôi chảy như nước lũ. Đức Phật lúc c̣n là một Thái Tử đă than với Da Du trong cung vui, khi nghĩ đến cái vô thường của thân người:
- Chúng ta sẽ già yếu xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi trong mắt của em rồi sẽ mờ đục, môi đỏ của em rồi sẽ úa mầu. Ta nghe trong ta, trong em và trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vở, dưới sức tàn phá của búa thời gian, tất cả những ǵ quư giá của đời người... chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng, những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, nắm bắt một làn hương.
Quả thật Đức Phật là một con người trí tuệ, một con người cao sang và đang trẻ đẹp bên cạnh lại có cô vợ hiền sớm hôm hầu hạ, thế mà vẫn đủ sáng suốt để nh́n thấy luật vô thường, đập tan cái gọi là cao sang, tươi đẹp của đời người! Những lời thống thiết ấy, không những đă cảnh tỉnh công chúa Da Du Đà La, mà c̣n đánh thức những ai say đắm trong cảnh đời giả tạm, cảnh sanh già bệnh chết, là hiện thân của vô thường.
Biết thân là vô thường thế mà lắm người v́ muốn trau giồi bồi bổ cung phụng xác thân đến nổi gây biết bao nhiêu tội ác gớm ghê. V́ muốn được thích khẩu, bổ thân mà lắm người đành tay giết hại những con vật và hành h́nh những con vật vô tội một cách rùng rợn.
II- Tâm Vô Thường
Nếu có lúc chúng ta biết thân Vô Thường, th́ chúng ta cũng phải ghi nhận tâm niệm cũng âm thầm đổi dời, nhưng sự dời đổi nầy lại có phần mau lẹ và vi tế hơn. Điều nầy nếu chúng ta không nh́n sâu vào sự thật th́ chúng ta khó mà thấy được.
Tâm niệm chúng ta thay đổi từng giây từng phút theo với ngoại cảnh, chúng ta buồn đó rồi vui đó, thương đó rồi ghét đó. Phút trước chúng ta nhớ chuyện nầy, phút sau chúng ta nghĩ chuyện khác. Hôm qua chúng ta tinh tấn tu hành, hôm nay chúng ta đă ưu phiền thối chuyển.
Tâm niệm, của chúng ta sanh diệt trong từng sát na, và chính v́ nó sinh diệt mau lẹ như thế, nên ta có cảm tưởng như nó không thay đổi ǵ cả. Tâm của chúng ta tương tự như những h́nh ảnh di động như thật trên màn bạc. Những h́nh ảnh nầy mà có là do sự tiếp nối của những tấm phim, ảnh hiện lên rồi biến mất, để nhường chỗ cho những tấm ảnh khác trước ngọn đèn chiếu.
Cũng như thế đó, tâm ta được cấu tạo bởi từng niệm sanh diệt, nhưng v́ chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ của nó, nên ta cứ tưởng là nó đơn thuần và bất biến. Cái ta phút trước đâu phải là cái ta phút sau. Vậy cái ta nào là cái ta thật. Cái ta phút trước, cái ta phút nầy, hay cái ta phút sau?
Cái ta hay tâm vô thường tạm bợ, giả tạo như thế, thế mà người đời cứ cho nó là trung tâm điểm của vũ trụ, bám víu nó, nhơn danh nó để tham lam vơ vét tài sản, danh lợi ở chung quanh và dù có dẫm đạp lên hạnh phúc của kẻ khác gây bao đau thương cho người đồng loại cũng mặc.
III- Hoàn Cảnh Vô Thường.
Thật ra trong nguyên lư vô thường lúc nào cũng có hai thứ: Sát Na Vô Thường và Nhất Kỳ Vô Thường:
a- Sát Na Vô Thường
Là loại vô thường mà chúng ta thấy trong từng phút, từng giây trải qua bốn tướng: Thành, Trụ, Hoại, Không rồi cứ như vậy biến hóa măi. Chẳng hạn trong nhân gian có câu:
- Thương hải tang điền.
Nghĩa là:
- Bải biển biến thành nương dâu.
Những h́nh ảnh nầy chúng ta thường thấy, có những nơi xưa kia là ḍng sông, nhưng với điều kiện thời tiết nên một thời gian ḍng sông kia được tô bồi, thế là trở băi cát bồi và người ta lại làm ruộng. Nên trong Thi Văn Việt Nam có nhà thơ đă từng nói:
- Sông kia rày đă nên đồng
Bên làm nhà cửa bên trồng ngô khoai
Lắng nghe tiếng ếch bên tai
Giậc ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣.
b- Nhất Kỳ Vô Thường:
Lọai vô thường nầy, chỉ trong một thời gian, một kỳ hạn chớp nhoáng, là bốn tướng sanh trụ dị diệt, có thể nối tiếp nhau mà hiện ra. Chẳng hạn như trong thời ly loạn chiến tranh. Có những nơi phố xá ngày hôm qua c̣n là một nơi thị tứ sầm uất, nhưng trong cơn binh lửa qua một trận dội bom hôm nay nơi sầm uất phố thị đó trở thành băi đất hoang vu...
Như trên chúng ta thấy luật vô thường ở khắp các nơi, chẳng những thân, tâm là vô thường, mà hoàn cảnh, sơn hà đại địa cũng vô thường. Đây là một nhận xét hết sức là đúng. Chúng ta thường lầm tưởng chỉ có sinh vật là biến đổi và mau già chết, những vật lớn lao như núi sông, đất cát th́ muôn đời cũng vẫn ở yên một chỗ. Nhưng chúng ta đă lầm, sông núi cũng có cái già, cái trẻ, đất cát cũng có khi lỡ khi bồi, không có vật ǵ là vĩnh viễn tồn tại. Tục ngữ ta có câu:
- Không ai giàu ba họ,
Không ai khó ba đời.
Thật thế, một đời chúng ta đă chứng kiến biết bao nhiêu sự thăng trầm vinh nhục, lên voi xuống chó. Giàu nghèo sang hèn tiếp tục diễn ra trước mắt chúng ta như một bức tranh, như một đoạn phim trong rạp chiếu bóng. Bao nhiêu người, trước đây nào dinh thự nguy nga, ruộng vườn c̣ bay thẳng cánh, thế mà sau một cơn binh lửa sự nghiệp bổng nhiên tan tành như mây khói, bao nhiêu người quyền cao chức trọng, hống hách nghinh ngang, thế mà một phút sa cơ thất thế, bổng trở thành những kẻ tha phương cầu thực hay vướng vào cảnh tù đày.
Sự vô thường đă sờ sờ trước mắt, thế mà có không biết bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh ngộ, cứ đeo đuổi bám víu vào những cái hào nhoáng nhất thời ấy. Kẻ bán tước người mua quan, kẻ tham danh người tham lợi.. gây biết bao tṛ cười cho kiếp người, và bày lắm cảnh nhọc nhằn đau khổ cho những người trong cuộc.
IV- Nguyên Lư Vô Thường & Cái Nh́n Của Chư Thiền Sư
Có người cho rằng :
Đạo Phật nói vô thường, phải chăng vô t́nh gieo vào ḷng người những quan niệm chán đời thối chí? V́ sự vật đă vô thường th́ không nên làm ǵ cả, có siêng năng hoạt động, kinh doanh sự nghiệp rồi cũng không đi đến đâu cả. Tro bụi sẽ thành tro bụi!
Thật ra nh́n kỷ, Vô thường của Đạo Phật là một phương pháp chỉ rơ mặt trái của cuộc đời, để bài trừ những sự mê lầm, ngăn chận con người chạy theo vật dục.
Đức Phật cũng giống như vị lương y tùy theo chứng bệnh mà cho thuốc. Với bệnh chấp thường c̣n không mất th́ dùng phương thuốc vô thường để đối trị, khi lành bệnh th́ Phật lại cho thứ thuốc bổ khác quư báu hơn là thuyết chơn thường bất biến.
Chúng ta là người con Phật, rơ biết mọi sự mọi vật trên thế gian nầy tất cả đều là vô thường, và biết sống cuộc sống tri túc, cho nên chúng ta cũng bớt đi sự lạ lùng bở ngở khi thấy ḍng thời gian cứ vô t́nh luân lưu trôi chảy, hết Xuân đến Hạ, hết Thu đến Đông, cứ như thế vận hành tiếp nối, và con người cũng như muôn sự vật đều bị gịng thời gian vô t́nh chi phối cuốn phăng đi, không một mảy may nuối tiếc. Sự sinh sinh, hoá hoá của con người, của vạn vật cũng theo đó mà đổi thay theo sự vận hành của năm tháng, v́ tất cả đều nằm trọn trong vô thường ấy. Chúng ta phải cố gắng ư thức để hiểu rơ Lư Vô Thường, có được như vậy chúng ta sẽ cảm thấy tự tại trước mọi nghịch cảnh. Tuy nhiên đó vẫn c̣n nằm trong phạm vi lư thuyết. Thấy nghe th́ dễ, nhưng một khi đối diện trước hoàn cảnh, có mấy ai tự tại? Nhất là đối với con người c̣n đam mê quay cuồng trong thất t́nh lục dục, th́ vấn đề tự tại trước nghịch cảnh, quả thật chúng ta ít thấy, và hầu hết khi đứng trước sự đổi thay, nh́n ḍng thời gian sinh sinh, diệt diệt, họ đều khởi lên trạng thái lo sợ, buồn rầu, cứ thế nung nấu măi trong ḷng, khiến cho tâm tư khô héo chết dần chết ṃn, và sợ hải cho một tương lai, một ngày mai chưa biết ra sao. Tuy nhiên, đối với con người học Phật, nhất những vị thiền sư tu tŕ đạo hạnh, đạo cao đức trọng, th́ sự thị phi thành bại, các Ngài đă có thái độ dửng dưng là chuyện thường, các Ngài coi thời gian qua rồi, ngày hôm nay hoặc ngày mai tất cả đều vô nghĩa. Bởi v́ quá khứ th́ đă qua rồi, tương lai th́ chưa tới, c̣n hiện tại th́ thời gian cứ luân lưu trôi chảy bất tận. Cho nên trên đường hành đạo, Ngài Măn Giác Thiền Sư đă hướng dẫn môn đệ sao cho tinh thần luôn khang kiện, b́nh tâm trước mọi cảnh tượng đổi dời như trong lúc cáo bệnh để dạy chúng như:
- Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhăn tiền quá
Lăo tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai
Tạm dịch:
- Xuân đă qua thời tiết đổi thay
Trăm hoa tàn úa rụng rơi đầy
Định luật tuần hoàn luân lưu măi
Rồi lại xuân về trăm hoa khai
Kiếp người ngắn ngủi với thời gian
Trẻ đi già đến thật ngở ngàng
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua mai nở trước hành lang.
Theo tinh thần nầy, là con người biết đạo lư, đă và đang theo chân đấng Từ Phụ, học hỏi hạnh nguyện lành, để tiến trên con đường giải thoát, th́ đừng nên bi quan trước những đổi thay của vạn vật. Bởi v́ trong cái vô thường, vẫn c̣n có cái chân thường bất biến ẩn hiện đó đây, mà Măn Giác Thiền Sư là một vị cao Tăng đắc đạo đă thấy rơ điều đó. Ngài thấy rơ sự vật trong vũ trụ đều là huyển tưởng không có ǵ là trường tồn vĩnh cửu. Ngài nh́n thế sự chẳng khác như thời tiết mùa Xuân, với trăm hoa đua nở tươi thắm, lôi cuốn những ong bướm dập d́u, nhưng mùa Xuân qua rồi th́ những bông hoa đó cũng tàn úa héo rụng theo định luật của vô thường. Mùa xuân khác đến, trăm hoa lại đua nở. Kiếp người trong cơi diêm phù cũng vậy, những lúc tuổi trẻ khí lục sung măn, công việc hằng ngày hằng phút trôi qua, mà con người đâu có mấy ai chịu khó lưu tâm, để rồi cái tuổi già với những sợi tóc bạc, nó điểm trên đầu của ḿnh lúc nào mà ḿnh không hay biết. Tuy nhiên, cũng tưởng rằng: Khi mùa xuân đi qua, th́ tất cả những bông hoa đều rơi rụng hết, th́ là không c̣n bông hoa nữa. Chúng ta phải biết rằng, Xuân đến th́ trăm hoa của mùa Xuân thi nhau đua nở, Hạ đến th́ chúng ta lại có những hương sắc của mùa Hạ. Mùa Thu, Đông cũng vậy. Nghĩa là định luật tuần hoàn vận hành, bốn mùa tám tiết đổi thay, mùa nào cũng có bông hoa của mùa ấy xuất hiện với muôn hương ngàn sắc. Bông của mùa Xuân, bông của mùa Hạ..v..v..đều có tên khác nhau, nhưng tính bông là đem lại niềm vui tươi, mát dịu, điểm tô hương sắc cho mọi người ngàn đời không thay đổi. Cho nên các Thiền Tổ nói trong cái vô thường c̣n có cái thường hằng miên viễn. Từ đây chúng ta không lạ ǵ khi thấy giữa trời Đông giá lạnh, cây cối trụi lá trơ vơ, mà vẫn có thể có một cành mai tươi thắm đang nở tỏa ngát hương thơm trước sân đ́nh:
- Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua mai nở trước hành lang.
Trước nhân cách sáng ngời của chư Thiền Sư đắc đạo, siêu vượt ra ngoài sự chi phối của vũ trụ, đă ngầm chỉ rơ cho chúng ta thấy, muốn đạt đến trạng thái tự tại, trước tiên chúng ta phải nhiếp phục các căn, bởi v́ đối tượng của các căn là sắc, âm thanh, hương vị..v..v.. Những thứ này đă áp đảo tinh thần của chúng ta, làm cho ta quên đi niềm tự tín ban đầu, để rồi cuối cùng lôi cuốn ta chạy theo mộng tưởng điên đảo. Là người Phật Tử, học và thực hành giáo Pháp của Phật Đà, ta phải noi gương những bậc Thiền Sư đi trước, để điều phục thân tâm. Phương thức hữu hiệu nhất là chúng ta phải can trường nh́n thẳng vào thực thể của bản thân và ngoại cảnh. Có được như vậy, chúng ta mới thấy rơ sự hiện hữu của chúng ta và sự vật tất cả đều do nhân duyên hoà hợp. Nhưng điều cần nhớ là tất cả đều huyển hóa chứ không có ǵ chắc thật. Chỉ có Chân Tâm của chính ḿnh mới thực sự bất sanh bất diệt, mà xưa nay chúng ta đă vô t́nh quên lăng. Giờ đây chúng ta phải quả quyết sống thực với nó, đừng để một tạp niệm nào xen vào. Bản chất của Tâm đối với mọi sự mọi vật là như như bất động, thực tại không sinh không diệt, theo tinh thần của Bát Nhă th́ gọi Chân Không. Nếu đă là Chân Tâm, th́ Cảnh cũng phải là Chân Cảnh. Từ đây chúng ta không c̣n chạy trốn t́m cầu, mà giải thoát cũng trở thành hiện thực. Từ ư nghĩa nầy, chúng ta thấy một khi tâm đă không bị giao động, th́ ngoại cảnh dẫu cho thế nào chăng nữa cũng trở thành vô ư nghĩa. Điều nầy qua h́nh ảnh của Giác Hải Thiền Sư, Ngài đă thản nhiên trước cảnh hoa bướm rộn ràng khi Đông tàn Xuân đến, làm cho chúng ta thấy rất là thi vị và thanh thoát:
- Xuân lai hoa điệp thiện tri thi
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyển
Mạc tu khoa điệp vấn tâm tŕ
Nghĩa là:
- Bông hoa cánh bướm đón xuân sang
Bướm bướm hoa hoa khéo nhộn nhàng
Rằng bướm rằng hoa đều huyển cảnh
Đừng v́ hoa bướm động tâm vương.
Thật vậy bướm hoa, hoa bướm đều huyển cảnh, khi hợp khi tan, cũng như hoa nở rồi tàn, trăng tṛn rồi khuyết theo định luật thời gian chi phối Hương Hải Thiền Sư cũng đă nói:
- Phàm người ta phần nhiều v́ sự mà ngăn chận cái lư, v́ cảnh mà ngăn chận cái Tâm, muốn chạy trốn cảnh mà t́m sự an tâm, quên Sự giữa Lư mà không biết rằng chính tâm của họ ngăn chận cảnh, Lư của họ ngăn chận Sự. Nếu họ biết làm cho Tâm không, th́ cảnh tự nhiên cũng không, làm cho Lư lặng th́ Sự tự nhiên cũng lặng.
Qua h́nh ảnh của Tiếu Ẩn Hân Thiền sư, chúng ta cũng có thể t́m thấy một h́nh ảnh sáng rở, trong những hiện tượng Diệu Lư Bất Sanh Bất Diệt nằm gọn trong cảnh vật sôi động Sinh Diệt:
- Kim cương chính thể hiện rơ ràng
Cảnh vật muôn ngàn bát nhă quang
Bặt lối lại qua đương niệm thoát
Âm dương đất trống lư toàn bày
Gáy sáng gà cây trong nẻo vắng
Mừng xuân gái đá ra động pḥng
Đáy hồ rồng vẩy vui vô hạn
Đưa tiển chúa xuân một ḷ trầm.
Trong muôn vàn cảnh vật đă sẳn chứa thể Kim Cương Bát Nhă. Như vậy chỉ cần dứt sạch vọng tưởng điên đảo th́ chân tánh tự nhiên hiển hiện. Để đạt tới mục đích nầy, người con Phật phải làm sao đạt tới trạng thái Vô Tâm. Vô Tâm th́ phiền năo không chổ nương tựa. Vô Tâm theo Hương Hải Thiền Sư là bí quyết của sự Giác Ngộ. Phương thức để đạt tới trang thái Vô Tâm, theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang nói rằng: Giới Luật cao nhất chính là Vô Tâm. Cũng theo Phật Giáo Sử Luận nói: Giới Luật ở đây không có nghĩa là cấm đoán, không cho con người va chạm tiếp xúc với sự vật. Nếu Giới Luật chỉ là sự cấm đoán ấy th́ đó chưa phải là phương thức căn bản mà là sự chạy trốn, tự đưa ḿnh vào ngơ cụt. Giới Luật cao nhất là sự quan sát thường trực để từ đây dầu cho ta ở trong môi trường nào chăng nữa, cũng không bị Thanh Sắc chi phối, mà trái lại Thanh Sắc phải phục tùng theo ḿnh. Theo tinh thần của Lục Tổ Huệ Năng: Khi mê th́ Thầy độ, khi ngộ th́ tự độ lấy. Ở đây chúng ta có thể hiểu: Khi mê th́ người đi theo cảnh, mà cảnh th́ thiên sai vạn biệt, c̣n người th́ không đồng nhất với ḿnh. Khi Ngộ th́ Cảnh đi theo Người, Người th́ đă nhất trí và dung hoá được, cho nên Hương Hải Thiền Sư nói: Giới Luật của tự tín, là giữ thái độ Vô Tâm đối với Vạn Pháp. Trí Tuệ của tự tính là giữ thái độ vô ngại đối với Vạn Pháp. Tâm ta vững chải không thêm không bớt như Kim Cương bất hoại, th́ dù cho thân ta tuy có đi tới đi lui nhưng vẫn cứ an trí trong cảnh đại định như thường:
- Nhứt thiết Vô Tâm tự tánh giới
Nhứt thiết vô ngại tự tánh huệ
Bất tăng bất giảm tự Kim Cuơng
Thân khứ thân lai bản Tam Muội.
Cũng cần nói rơ thêm, Vô Tâm không phải là sự hửng hờ thiếu chú ư. Vô Tâm ở đây là muốn nói cái thấy sáng suốt không bị mắt kẹt bởi Tư Kiến và Tư Dục, không kỳ thị phân biệt, cái thấy không c̣n cái khuynh hướng nhị nguyên điều khiển. Đối với cái thấy ấy không c̣n phân biệt Chủ Thể và Đối Tượng, Tâm và Cảnh, Mê và Ngộ, Có và Không, Lư và Sự. Can đảm nh́n thẳng vào tự tính của Tâm, th́ Vô Tâm ấy bất cứ ngày giờ giây phút nào cũng là giây phút Giác Ngộ, và ở nơi nào cũng cảm thấy tự tại, và bất cứ đối tượng nào cũng là Phật. Khi sự phân biệt chủ thể đối tượng đă chấm dứt, và ư niệm chấm dứt ấy cũng chấm dứt, th́ lúc bấy giờ trí tuệ có mặt. Một khi trí tuệ chân chính đă có mặt th́ tâm niệm nào cũng là Tâm Niệm Phật, và ở đâu cũng thành đạo, không có nơi nào mà không phải là cơi Phật. Muốn thực hiện được cái trí Bát Nhă kia, phương pháp hữu hiệu nhất là sống một cuộc sống hằng ngày với sự tỉnh thức tự tâm:
- Phản văn tự kỷ mỗi thường quang
Thẩm sát tư duy tự tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Đương lai điện thượng độ sư nhan.
Dịch là:
- Xét lại điều ǵ thấy mỗi ngày
Suy đi nghĩ lại kỷ càng hay
Đừng t́m tri thức trong cơn mộng
Như thế mới hay gặp được thầy.
Và Ngài Lâm Tế thị chúng cũng cho ta thấy: Đạo của Phật Pháp là chỗ vô công dụng địa. Tất cả những động tác b́nh thường trong cuộc sống hằng ngày như: Cơm ăn, áo mặt..v..v..đều là thiền. Người ngu sẽ cười ta, nhưng kẻ trí sẽ ngộ.
Thức được tự tâm là yếu tố để ta tiến tới trí tuệ siêu việt, mà trí tuệ siêu việt là yếu tố giác ngộ. Nó là trực giác nh́n vào chân lư cứu cánh của Vạn Hữu, nhờ đó mà thoát ra ngoài triền phược của hiện hữu và trở thành tự chủ. Bởi v́ theo tinh thần của Phật Giáo: Bắt đầu bằng sự Giác Ngộ, và tận cùng cũng bằng sự giác ngộ, nên trên đường đi phải kiên tŕ Vô Tâm, và phải lót bằng tâm nguyện Đại Từ, Đại Bi, Đại Trí, Đại Dũng của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ Sư quên ḿnh. Chính v́ hạnh nguyện đó mà mặc dầu các Ngài đă bước sang bên kia bờ tịch diệt, nhưng không bao giờ ẩn ḿnh trong cái tịch diệt ấy, mà tâm nguyện của các Ngài là phải mang trí tuệ siêu việt ấy lên đường, mở rộng t́nh thương vô hạn, bao gồm cả vũ trụ, để gieo rắt cho nhân thế những trận mưa Pháp, với muôn ngàn sắc tướng, để cho nhân thế Ngộ Nhập Phật Tri Kiến.
Kết Luận:
Vô thường là một định luật chi phối tất cả sự vật, từ thân tâm cho đến mọi hoàn cảnh. Khi hiểu được lư Vô Thường, là chúng ta đă có một phương thuốc thần diệu để trừ bệnh tham ái, mê mờ, chúng ta đă đau khổ v́ màu sắc tốt xấu, v́ tiếng dở hay, v́ những mùi vị ngọt bùi, v́ những vật thích thân, vừa ư. Nay chúng ta uống thuốc Giáo lư Vô Thường để trừ bệnh tham ái và tiến tới sự an tịnh của tâm hồn.
Biết được vô thường, con người dễ giữ được b́nh thản trước cảnh đổi thay bất ngờ và có thể lạnh lùng trước cảnh ái ân ly biệt. Biết Vô Thường con người dám hy sinh tài sản sanh mạng để làm việc nghĩa. Biết được Vô Thường con người mới chán ngán với những thú vui tạm bợ, giả trá, và sáng suốt đi t́m những cái vui chân thật thường c̣n. V́ thật ra cái vui chân thật thường c̣n, cái tánh chân thường vẫn có nhưng nó nằm bên trong cái lớp giả dối tạm bợ, vô thường của cơi đời nầy, nên chúng ta không thể thấy được. Khi chúng ta đă cương quyết gạt bỏ cái vô thường giả dối ấy, th́ tất nhiên cái giá trị chơn thật, cái hạnh phúc chơn chánh, cái Phật tánh sáng suốt chắc thật muôn đời sẽ hiện ra.
Nếu chúng ta là người đă và đang khao khát t́m một cái ǵ đó Chân Thường trong những cảnh Vô Thường, t́m một mùa xuân vĩnh viễn chân thật hạnh phúc trong muôn ngàn đổ nát, th́ khi mà chúng ta học, thực tập và vận dụng nhuần nhuyển giáo lư Vô Thường th́ chúng ta sẽ t́m thấy trong giáo lư Vô Thường đó bất kỳ lúc nào cũng đă ẩn hiện một mùa xuân hạnh phúc và an lạc nhất trên cơi thế gian nầy.
__________________ Tuệ giác phá tan ṿng hắc ám
Chân tâm phá vỡ lưới vô minh
Biết ra vốn thiệt ta là phật
Giác phật, mê ma cũng là ḿnh
|
Quay trở về đầu |
|
|
haclong Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005 Nơi cư ngụ: Italy
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 24
|
Msg 2 of 6: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:18am | Đă lưu IP
|
|
|
Mục Đích Hành Tŕ & Kết Quả
Mục đích của sự hành tŕ, tu tập theo tinh thần Phật Giáo trước sau ǵ cũng hướng tới kết quả là giác ngộ & giải thoát, nhưng giải thoát theo quan niệm Phật Giáo là Tâm Giải thoát và Tuệ giải thoát. Nói cách khác, mục đích tu học là để giải thoát cái tâm khỏi mọi chấp trước, để nó có thể an trụ nơi cảnh giới vô ngại. Như vậy th́ mục đích của sự hành tŕ, có thể nói chủ yếu là ở sự thu nhiếp tâm. Theo trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật đă từng dạy:
- Trong tất cả các pháp,
Tâm làm chủ, tâm dẫn đầu
Tâm tạo tác tất cả
Nếu ta nói,
Nghe hay làm với tâm lương thiện
Th́ phuớc báo sẽ đi theo ta
Như bóng với h́nh
Ngược lại:
- Nếu ta nói,
Nghe hay làm với tâm không lương thiện
Th́ nghiệp báo sẽ đi theo ta
Như bánh xe lăn theo chân con vật
Như vậy chúng ta thấy bản chất của tâm có nhiều tác dụng, và chi phối kiếp người trong nhiều khía cạnh, cho nên muốn giải thoát cái tâm khỏi mọi chấp trước, muốn thu nhiếp và chế ngự nó th́ chúng ta cũng phải hiểu biết ít nhất về căn bản tâm và phải biết xử dụng mọi phương tiện để chế ngự tâm.
Về tâm th́ thiên h́nh vạn trạng, nhưng những căn bản để dẫn tâm đến việc tạo tác nghiệp nhân xấu có thể là những nguyên nhân như sau:
A- Năm Cánh Cửa Quan Trọng
Năm cánh cửa chúng tôi nói quan trọng ở đây là muốn nói đến năm căn. Năm căn là cơ quan tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nên năm căn là nguyên nhân gây ra sự rối loạn trong tâm, nếu chúng được chế ngự, tâm hồn sẽ yên tịnh. Tuy nhiên, phải làm như thế nào để chế ngự năm căn? Phật bảo:
- Mắt nh́n sắc không dính vào tướng của nó, không đắm vào mùi vị của nó, cho đến tai, mủi, thân, ư đối với tiếng, hương, mùi vị, va chạm.. v.. v.. cũng như thế.
Con người thường do nơi cái biết, cái thấy, nghe, của hoàn cảnh chung quanh nếu tốt đẹp th́ sanh ḷng ái nhiễm, nếu không tốt đẹp th́ sanh tâm chán ghét, chê trách. Nghĩa là con người ai cũng đều lấy ngă chấp, ngă dục làm căn bản. Do đó, khi thấy, nghe mà không để cho ư yêu, ghét chi phối th́ đó là nghĩa nhiếp căn.
Trong giáo lư của Đức Phật không giống như những trường phái tu hành khác. Những trường phái của ngoại đạo họ bảo rằng nhiếp căn là mắt không nh́n vật, tai không nghe tiếng mà trong khi thấy, nghe phải trừ khử những ư niệm yêu ghét, khổ vui, như thế mới là thấy, nghe chân thực, đó là nhiếp căn đệ nhất nghĩa. Có lần một đệ tử của ngoại đạo nói với Phật :
- Thầy tôi dạy chúng tôi rằng tu pháp nhiếp căn là mắt không nh́n vật, tai không nghe tiếng.
Phật bảo:
- Nếu thế th́ những người mù và điếc là những người tu pháp nhiếp căn của các người là bậc nhất.
Theo sự tu tập của ngoại đạo cho chúng ta thấy hướng ngoại và miễn cưỡng chế ngự các căn, trong khi đó phương pháp nhiếp căn của Phật là hoàn toàn hướng nội và không phải ức chế các cơ quan cảm giác một cách miễn cưỡng. Như vậy, sự chế ngự cảm giác là tự tu dưỡng nội tâm, nhưng nó lại đặc biệt được thích dụng với các cơ quan nhận thức bên ngoài do đó mới có tên là nhiếp căn.
Như vậy muốn chế ngự cảm giác điều kiện đầu tiên là sự nhiếp tâm.
B- Hướng Nội T́m Cầu
Để đạt được mục đích hành tŕ cho hữu hiệu, việc công phu luyện tập ở giai đoạn nầy là chuyên tu nội tâm, chúng ta thử chia ba phương diện:
- Trí
- Ư
- T́nh
01- Phương Diện Lư Trí
Trước hết hăy xem xét về phương diện lư trí. Đứng về mặt tu dưỡng mà nói, có lẽ kiến thức phổ thông của thế gian không cần thiết lắm, bởi v́ nó sẽ làm chướng ngại cho sự tu đạo, do đó đối với cái gọi là tri thức biện chứng Đức Phật thường bác bỏ. Theo tinh thần Phật Giáo những kiến thức nầy lấy ngă chấp, năm dục làm nền tảng, mà đă có liên quan đến ngă chấp, ngă dục th́ dĩ nhiên không phải là cái biết giải thoát.
Nói như vậy không có nghĩa là Đức Phật coi thường trí thức. Thật sự Đức Phật rất coi trọng trí thức, nhưng trí ở đây là do phán đoán giá trị của thế giới nội tâm của chúng ta một cách chính xác mà có, trong đó có sự có mặt của: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Niệm.. v..v..
Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là:
- Làm cách nào mà tu luyện được cái trí đó.
Nói một cách vắn tắc, trước hết phải làm sao cho tâm hồn tỉnh lặng, rồi bắt đầu tư duy quán sát chân tướng của cuộc đời để t́m cầu giải thoát. Trong tinh thần nầy, pháp môn Tứ Đế và Mười Hai Nhân Duyên đều là những đề mục tu tập, đều là những công án để luyện trí quán. Trong số các đề mục đó, việc quán sát lư Tứ Đế là sự tu trí đặc biệt cần thiết nhất, rất được coi trọng. Bởi v́ tất cả chỉ là bất tịnh, không, vô thường, vô ngă. sự phán đoán giá trị của thế giới hiện thực nhờ đó mà được chính xác. Ngoài ra c̣n có mười niệm, mười tưởng cũng là những pháp tư duy được đặt ra cho mục đích tu trí:
a- Mười Niệm
01- Niệm Phật
02- Niệm Pháp
03- Niệm Tăng
04- Niệm Giới
05- Niệm Thí
06- Niệm Thiện
Nghĩa là tự ḿnh nghĩ cũng nên tu nghiệp lành trông được phước báo của cơi Trời mà tu.
07- Niệm Hưu Túc
Tức là niệm ngưng nghỉ, nghĩa là buộc ḷng phải tưởng rằng mỗi lúc chẳng quên chỗ tịch tịnh là nơi tu tập chánh đạo.
08- Niệm An Bát
Tức là niệm hơi thở, thở ra thở vào
09- Niệm Thân
Là nghỉ đến cái thân ḿnh do nhân duyên hoà hợp, rốt cuộc không thật có.
10- Niệm Tử
Nghĩa là nghĩ các căn không lâu, rốt cuộc rời cũng tan nát.
b- Mười Tưởng
01- Vô Thường Tưởng
Cái tư tưởng cho rằng chúng sanh và các pháp đều là Vô Thường, biến đổi không bền
02- Khổ Tưởng
Cái tư tưởng cho rằng các pháp hữu vi đều là khổ, hoặc chứa đựng sự khổ.
03- Vô Ngă Tưởng:
Cái tư tưởng cho rằng tất cả các pháp hữu vi đều vô ngă, không có cái thật thể thật tánh.
04- Yếm Ly Thực Tưởng
Cái tư tưởng chán ĺa các thức ăn
05- Nhất Thiết Thế Gian Khả Lạc Tưởng
Cái tư tưởng không thích không vui thích mọi việc thế gian
06- Tử Tưởng
Cái tư tưởng xét đến chỗ chết, mạng người chỉ là một hơi thở thôi.
07- Đa Quá Tội Tưởng
Cái tư tưởng thấy nhiều tội lỗi trong tam giới.
08- Ly Tưởng:
Cái tư tưởng xa ĺa tam giới
09- Diệt Tưởng
Cái tư tưởng dứt trừ tam giới
10- Vô Ái Tưởng
Tức là cái tư tuởng không có ḷng tŕu mến.
Nói tóm lại, mặt quán cái chân tướng của cuộc đời là khổ đế cho trí thức thoát khỏi ṿng nô lệ của phiền năo, đồng thời mặt khác, xác nhận rơ cái cảnh giới lư tưởng thanh tịnh, vi diệu, đó là ư nghĩa căn bản của sự tu luyện trí tuệ. Nhưng sự chuẩn bị quan trọng nhất để đi đến đích th́ thường ở cái được gọi là: Dẫn dụ tâm. Tức là đừng để cho tâm phiền loạn v́ những ư niệm xôn xao, tư tưởng rối bời và cái biết hổn tạp, mà măi chuyên chú vào một sự kiện, cứ thế theo đà diễn tiến của tuệ quán mà những tác dụng của trí tạp nhạp bị tiêu diệt, tâm sẽ trở nên tĩnh lặng trong sáng, đó là Xả Niệm Thanh Tịnh. Đạt được đến đây gọi là Vô Lậu Tịnh Nghiệp.
2- Phương Diện Ư Chí
Thứ đến là phương diện tu luyện ư chí. Đứng trên lập trường tiêu cực mà nói, ư nghĩa quan trọng nhất trong việc tu đạo về phương diện nầy là sự ức chế ư dục của ngă chấp, không để cho nó phát động, nghĩa là phải điều phục ba nghiệp Thân, Miệng, Ư v́ nhờ thế mà nghiệp của thân, miệng, ư mới được kiểm soát không bị buông thả.
Kế đến Tự Ngă là ông chủ của chính ḿnh, tự ngă là nơi quy thú của chính ḿnh, bởi thế phải khéo léo điều phục tự ngă cũng như người dạy ngựa khéo điều phục con ngựa.
Giới luật và các đề mục tu tập được Đức Phật chế ra nhằm vào công việc chinh phục ư chí. Cho nên v́ mục đích tu trí, Phật đă đánh giá rất cao đời sống tự kềm chế bản thân, Đức Phật tuy bác bỏ khổ hạnh, nhưng để luyện ư chí, cuộc sống nghiêm túc đă được Phật đặt lên hàng đầu. Nếu ư chí của con người cho buông thả tự nhiên, th́ những hành động bạo ngược tương tự như những sinh vật khác sẽ rất có thể xảy ra, sẽ chỉ hành động theo bản năng, hoàn toàn bị dục nhiểm chi phối, ngược lại nếu nó được chế ngự bằng lối sống khắc kỷ th́ chính cái ư chí đó sẽ tự biến thành con đường giải thoát.
Tuy nhiên, khắc phục ư chí không phải chỉ có nghĩa là ước thúc những hoạt động của thân, tâm một cách tiêu cực mà trái lại có thể nói, chinh phục ư chí là một việc rất tích cực, nó là sự khẳng định ư dục c̣n mạnh hơn cả những ư dục thông thường Phật gọi là Pháp dục, tức là cứ lần lượt mong cầu tiến lên cảnh giới cao hơn, và như thế nó biến thành cái dục vĩnh viễn thường hằng.
Như thế th́ sự sinh hoạt hằng ngày ở thế gian dĩ nhiên có thể ứng dụng vào phương pháp tu tập có ư thức, nghĩa là cuộc sống không ham muốn của những người xuất gia, hoặc các phật tử tu tại gia giữ năm giới, mười giới thiện, và Bồ Tát Giới cũng hoàn toàn dựa theo ư nghĩa nầy mà tôi luyện ư chí.
Đức Phật bảo nguời phàm phu v́ sự ham muốn nhỏ mọn trước mắt trói buộc mà mất tự do, c̣n những người tu đạo th́ lấy đại dục tuyệt đối vô hạn làm mục tiêu hành tŕ, dẳm lên trên những ham muốn nhỏ mọn trước mắt, quyết tâm và nổ lực đi lên để tiến thẳng đến mục đích giải thoát an lạc. Đó là nghĩa căn bản của phương pháp tu dưỡng ư chí. Bởi thế trong khi tu tập, thực tế không phải chỉ nhắm vào phương diện ức chế, mà là theo ánh sáng của trí tuệ, và tích cực phát động ư chí, dĩ nhiên đây cũng là phương pháp tu dưỡng thiết yếu. Chẳng hạn ngoài việc lánh ác ra, c̣n phải tích cực làm thiện, tuy không nói những lời nói ác, nhưng phải hết sức bác bỏ những điều phi lư. Do đó nếu phê phán rằng chủ trương vô dục của Phật chỉ là phương pháp tu luyện ư chí hoàn toàn có tính cách tiêu cực là điều sai lầm lớn.
Tóm lại, theo Phật sự tu dưỡng ư chí phải được thực hiện về cả hai phương diện, tích cực và tiêu cực tức là trước hết dựa vào ánh sáng trí tuệ để xác lập lư tưởng vĩnh viển, tối cao, sau đó y theo ư chí, dục vọng hiện tiền mà dần dần thuần hoá nó để tiến lên phương hướng của ư chí tuyệt đối. Dùng ư chí một cách chuyên nhất, không gián đoạn, hăng hái và bền bỉ nhắm đi tới phương hướng lư tưởng. Đó là một trong những mục đích đă được Đức Phật hết sức đề cao. Nhưng cái phương cách tu tập ư chí quan trọng nhất là về bề ngoài, lư sự nghiêm tŕ giới luật, về bề trong là năng lực thiền định tam muội. Bởi vậy muốn hướng dẫn ư chí làm cho nó phát sinh hỷ lạc chân chính, người ta không thể không dựa vào sự tu luyện thiền và giới.
3- Phương Diện T́nh Cảm,
Sau hết là sự khảo sát về phương diện t́nh cảm. Đức Phật nói cảm t́nh là khổ, cho nên mới ngăn ngừa sự sinh hoạt phóng túng t́nh cảm. V́ t́nh cảm của con người thường liên quan chặt chẻ với ư dục, ư dục được thoả măn th́ vui, không thoả măn th́ khổ, thành thử ư dục càng bị những t́nh cảm vui khổ ràng buộc bao nhiêu th́ càng trở nên buồn khổ nhiều bấy nhiêu.
Ngay như trong những căn bản phiền năo là ba nọc độc: tham, sân, si. Ít ra, tham sân cũng thuộc phạm vi t́nh cảm. Rồi đến cái tôi, cái của tôi, nếu đứng trên b́nh diện lư trí mà quan sát th́ đó là một nhận thức sai lầm, nhưng chính nó cũng lại là một loại t́nh cảm. Cho nên người ta không c̣n lạ lùng khi thấy Đức Phật chủ trương chế ngự t́nh cảm.
Tuy nhiên thái độ của Phật đối với thái độ tu dưỡng t́nh cảm cũng giống như đối với sự tu dưỡng ư chí. Nghĩa là một mặc hết sức chế ngự t́nh cảm, đồng thời mặc khác lại cố gắng bồi đắp những t́nh cảm, v́ đó là sự cần thiết cho việc tu đạo chẳng hạn như việc bồi đắp những cảm t́nh tôn giáo, cảm t́nh đạo đức và cảm t́nh thẩm mỹ.. v...v.. v́ những cảm t́nh căn bản của nó là lấy khổ vui mà được thành lập, nhưng khi những t́nh cảm ấy được tịnh hoá th́ chúng siêu việt cả khổ vui. Và rồi có khả năng đi đến chỗ chuyển hoá cả ngă chấp, ngă dục, cứ nh́n vào khía cạnh nầy chúng ta cũng thấy được pháp tu dưỡng t́nh cảm trong đạo Phật.
a- T́nh Cảm Tôn Giáo
Trước hết là hăy xét về t́nh cảm tôn giáo. Dĩ nhiên Phật lấy sự hiểu biết chân chính thanh tịnh và sự thực hành làm điểm then chốt cho mục đích hành tŕ, tu đạo. Nhưng Phật cũng bảo cần phải xa rời lư trí và tinh thần tùy thuộc vào tín nguỡng. Cho nên Đức Phật xác định năm căn, năm tín là bước đầu của việc tu đạo. Tín ngưỡng ở đây là muốn nói đối với Tam Bảo, lấy Phật làm trung tâm, tức là trọn đời chí tâm quy y, tin tưởng một cách thuần khiết, không một mảy may hoài nghi. Khi có một niềm tin như thế th́ cái chấp ngă nhỏ nhen sẽ tự tiêu diệt, và tâm không c̣n sợ hăi, luôn luôn được b́nh thản và an ổn. Đức Phật thường bảo mọi người rằng:
- Nếu có điều ǵ sợ hăi các người cứ nghĩ đến Tam Bảo là sợ hăi tiêu diệt ngay.
Trong tín ngưỡng Tam Bảo, Phật Bảo là năng lực lớn nhất, v́ các đệ tử Phật và những tín đồ thuần thành đều cho Phật là sự tồn tại siêu tự nhiên. Vậy đối với Phật phát khởi ḷng tin và tuyệt đối quy y Tam bảo th́ có thể ḥa đồng cái ta nhỏ bé của ḿnh với cái nhân cách vĩ đại của Đức Phật. Trong kinh Phật có dạy:
- Này các Tỳ Kheo, nếu các hữu t́nh trọn đời chỉ nghĩ nhớ một Pháp thôi th́ ta biết chúng nhất định sẽ được quả Bất Hoàn. Một Pháp đó là niệm Phật. Hết thảy các loài hữu t́nh chỉ v́ không niệm Phật nên cứ phải đi lại măi trong các ngă ác mà chịu khổ sống chết vậy.
Chỉ hành tŕ một Pháp niệm Phật, với tâm chí thành thôi mà cũng chứng được quả Tư Đà Hoàn, không c̣n lăn lộn trong ṿng sanh tử nữa. Đó là ư của đoạn văn trích dẫn trên đây. Về sau Đại Thừa lấy Phật A Di Đà làm trung tâm để phát động phong trào tín ngưỡng tha lực nếu nhận xét về phương diện tư tưởng bao hàm trong phật Giáo Nguyên Thủy, th́ tín ngưỡng tha lực của Đại Thừa cũng chỉ là sự tiếp nối tư tưởng trên đây mà thôi. Tức là kết quả sẽ là lấy việc nhớ nghĩ đến nhân cách của Phật; làm nội dung của Thiền để mà tư duy rồi về phương diện khách quan th́ lại lập đi nhân cách ấy là chủ thể tiếp độ chúng sanh.
b- T́nh Cảm Đạo Đức:
T́nh cảm đạo đức cũng được Đức Phật hết sức đề cao. Sự thành lập đạo đức có hai phương diện:
- Nói một cách tiêu cực là ở chỗ tiêu diệt ngă chấp, ngă dục, hy sinh tự kỷ.
- Nhưng nói một cách tích cực th́ lại ở chỗ mở rộng ḷng vô ngă coi ḿnh và người là một thể, bất cứ nhận xét về khía cạnh nào đạo đức cũng đều là con đường giải thoát cái ta hẹp ḥi.
Đến cái phương pháp diệt trừ phiền năo sân hận th́ sự bồi đắp t́nh cảm đạo đức lại càng trở nên trọng yếu hơn nữa. Nhờ vào từ niệm nguyện cho hết thảy chúng sanh đều được tốt lành mà cái tâm bị sân hận làm nhơ bẩn sẽ được trong sạch. Đây là lời Phật thường nói.
Hai chữ Từ Niệm mang trọn đủ ư nghĩa thương yêu. T́nh thương ở đây cũng như t́nh thương của người mẹ hiền thương con, cảm t́nh của người yêu đối với t́nh nhân, tức là cảm t́nh thương yêu kẻ khác mà tuyệt đối không màng đến lợi hại. Nếu di chuyển cái t́nh cảm nầy sang lănh vực Thiền Định để tư duy, th́ đó là niềm ước mơ đem ḷng thương yêu vô hạn rải khắp cho mọi người để hoàn thành pháp tu Tứ Vô Lượng Tâm là Từ, Bi, Hỷ, Xả:
Từ có nghĩa là vui với cái vui của người, bi là buồn của cái buồn của người, cả hai đều là sự tu dưỡng từ bi vô lượng, đối với hết thảy chúng sinh trong khắp mọi chân trời đều để tâm đồng t́nh tuyệt đối, và tâm thương người tuyệt đối, nhờ thế mà gột rửa được thành kiến phân biệt ḿnh, người một cách nhỏ nhen để đạt đến lănh vực giải thoát. Đối với pháp tu nầy, Phật rất quư trọng và nhiệt liệt tán dương.
Tất cả các phúc nghiệp, nếu so với sự giải thoát do tu Tâm Từ mà đạt được, th́ trong một nơi hữu t́nh nào đó, nếu cũng tu Tâm Từ th́ phước đức đó vô biên, huống chi trong tất cả các nơi đều tu như vậy th́ thế giới nầy sẽ hoà b́nh. Như vậy đủ thấy cái giá trị của sự giải thoát do tu tâm từ bi mà có được lớn lao vô cùng. Không những chỉ trong thời gian tu dưỡng, mà ngay cả sau khi giác ngộ rồi cái tác dụng từ tâm c̣n trực tiếp biểu hiện bằng hành động để cứu độ chúng sanh:
- T́nh thương bao la của Phật chính là do sự tu dưỡng ấy mà có.
Cho nên nếu đổi thành tu dưỡng trong thời kỳ tu hành th́ đó chính là đại thệ nguyện cứu độ vô biên chúng sinh của Bồ Tát.
c- Phương Diện Mỹ Cảm
Sau hết nói về phương diện mỹ cảm. Nhờ cảnh đẹp thiên nhiên mà xu hướng tới đạo giải thoát cũng là một phương pháp tu dưỡng t́nh cảm rất rơ rệt.
Tất cả những câu trên đây đều diễn tả sự lắng tâm thanh tịnh trước vẻ đẹp thiên nhiên mà ca tụng niềm vui tu đạo. Điều nầy cũng cho chúng ta thấy cái lư do cắt nghĩa tại sao Phật và đệ tử của Ngài đều lấy A Lan Nhă làm nơi tu đạo, v́ chỉ có những nơi vắng vẻ và gần với thiên nhiên như thế mới giúp chúng ta lắng đọng tâm tư một cách hiện hữu nhất. Cái mỹ cảm thuần chân là con đường siêu thoát hiện tại, v́ một khi đứng trước cảnh đẹp thiên nhiên, th́ người ta thấy ḿnh là một cá thể riêng biệt có thể hoà đồng với thiên nhiên, và đó là một hoàn cảnh thích hợp nhất để khám phá cái ta nhỏ bé của ḿnh. Về sau ngành mỹ thuật Phật Giáo rất phát đạt, thật ra cũng không ngoài việc kết hợp với tôn giáo để ứng dụng mỹ cảm vào việc tu đạo, nhất là tại Trung Quốc và Nhật Bản các nhà Thiền Học phần nhiều đều đắm ḿnh vào cảnh trời mây non nước mà tu luyện thiền quán.
Như vậy chúng ta thấy những phương diện của tâm ứng dụng vào mục đích hành tŕ là để đạt đến quả vị giải thoát đều mang một mầu sắc và đặc thù của riêng nó. Tuy nhiên, đây không phải là cách phân loại toàn diện của mục đích hành tŕ, mà ngoài ra c̣n có nhiều phương thức hành tŕ khác để đạt tới kết quả là tự thân chứng nghiệm vào trạng thái Niết Bàn an lạc. Trong phạm vi nhỏ của bài pháp hôm nay chúng tôi, thử gợi ư những phương pháp mới để gọi là một chút đóng góp trong việc hành tŕ
Nhận xét chung theo các phương diện vừa tŕnh bày, chúng ta thấy khi tu đạo thực tế, đạo phẩm nào cũng là phương pháp tu luyện toàn thể tâm. Nếu nhận xét ở một phương diện khác th́ tùy theo căn cơ bất đồng của những người tu đạo mà cái phương pháp tu đạo cũng lại khác nhau, tức là có phương pháp chuyên đặc nặng ở lư trí, có những cách chuyên đặc nặng về t́nh cảm.. v.. v... Do đó khi đạt tới quả vị giải thoát th́ đại khái tuy là một, nhưng cái phương cách th́ không giống nhau, cho nên cũng là danh từ biểu thị giải thoát mà có tâm giải thoát, tuệ giải thoát, từ tâm giải thoát và tín giải thoát ..v ..v...
Về sau đến đại thừa Phật Giáo có người chuyên chú trọng vào việc tu luyện ư chí, như phương pháp tu đạo Thiền Tôn, có người chú trọng về Mật Tôn, có người chuyên tu về Tịnh Độ Tôn, nhưng mục đích của sự hành tŕ, tu tập theo tinh thần Phật Giáo cuối cùng cũng hướng tới kết quả là giác ngộ và giải thoát.
__________________ Tất cả vạn vật từ vũ trụ mà ra !!
|
Quay trở về đầu |
|
|
haclong Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005 Nơi cư ngụ: Italy
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 24
|
Msg 3 of 6: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:19am | Đă lưu IP
|
|
|
Phép Sám Hối Trong Đạo Phật
Chúng tôi xin giới thiệu đến đại chúng bài pháp Pháp Sám Hối Trong Đạo Phật.
Con người không phải mới sinh ra đă là thánh hiền, nên không làm sao tránh được việc gây tạo lỗi lầm. V́ thế biết lỗi mà sửa đổi mới thật là người lương thiện, nên Đức Không Tử nói:
- Có lỗi lầm không sợ sửa đổi, là việc lành không ǵ lớn hơn.
Trong Văn Thủy Sám nói:
- Phiền năo con người quả thật quá nặng, ai mà không tội, ai chẳng lỗi lầm. Phàm phu ngu muội, vô minh khuất lấp, thân gần bạn xấu, phiền năo loạn tâm, bẩm tính si mê, buông thả tự thị....
Chúng ta là con người phàm tục, c̣n xuống lên ba cơi, lăn lộn trong sáu đường, th́ không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một sinh loại nào là không tội lỗi.
Cơi đời nầy thường được gọi là thế gian hay c̣n gọi là trần gian. Chữ trần có nghĩa là bụi. Gian là khoảng giữa căn nhà. Nếu gọi chung hai từ: Trần Gian th́ chúng ta hiểu là cái nhà bụi bặm. Đă gọi là nhà bụi bặm th́ chắc chắn không làm sao sạch được. Người ta thường nói:
- Đi trong sương trước sau ǵ cũng ướt áo
Như vậy chúng ta đang sống trong nhà bụi bặm th́ chắc chắn trước sau ǵ cũng phải lấm bụi. Bụi đời đă lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên tâm chúng ta, và chúng đă hít vào trong buồng gan lá phổi chúng ta, v́ thế nó làm cho mắt chúng ta mờ không thấy được đường chánh, nó làm cho chúng không thấy được chân tâm.
Nếu chúng ta muốn sống măi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm ḿnh trong tội lỗi, th́ không nói làm ǵ. Nhưng khi chúng ta đă muốn được trong sạch thảnh thơi muốn trút bỏ tội lỗi cho ḷng được nhẹ nhàng, thư thái th́ chúng ta phải tắm rửa để tẩy trừ cho hết bụi bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong đạo phật từ ngữ để tẩy trừ các tội lỗi ấy gọi là Sám Hối.
Sám có nghĩa là ǵ? Hối có nghĩa là ǵ?
- Chữ Sám nghĩa là ăn năn những lỗi trước. Hoặc chữ Sám có nghĩa là cứu xét, đoạn trừ tội lỗi trước, nghĩa là những tội lỗi ác nghiệp, ngu si mê muội kiêu căng phản bội ganh ghét có từ trước thảy đều cứu xét đoạn trừ không khởi lại đó là sám.
- Chữ Hối nghĩa là chừa bỏ lỗi sau. Hoặc chữ Hối có nghĩa là ân hận các tội lỗi, nhứt quyết từ nay về sau, những tội lỗi ác nghiệp, ngu si mê muội, kiêu căng, phản bội, ganh ghét, dối trá nay đă biết rơ, phục thiện, thảy đều dứt sạch, không tái phạm đó là hối
Nếu dùng chữ Sám hoặc chữ Hối không th́ chưa đủ ư nghĩa, nên các bậc Tổ Đức ghép hai chữ lại thành danh từ Sám Hối dịch theo tiếng Việt là:
- Ăn năn hối lỗi.
Như thế trong chữ Sám Hối có hàm nghĩa ăn năn, hối hận v́ những lỗi lầm trong quá khứ bất luận là lâu hay mau và bây giờ cho đến về sau, chúng ta nguyện là chúng ta không tái phạm lại nữa.
Thông thường con người phàm tục như chúng ta, chỉ biết cứu xét đoạn trừ tội lỗi về trước, mà không biết ân hận phục thiện tội lỗi lầm về sau. V́ không biết ân hận phục thiện, nên tội lỗi trước chưa dứt mà tội lỗi sau lại sanh. Một khi đă không tiêu được tội lỗi trước, mà lại c̣n tạo thêm tội lỗi sau, th́ không phải là sám hối. Hơn nữa nếu biết tội lỗi cũ là bậy, và chúng ta đă tâm thành chuộc lỗi, mà sau nầy vẫn c̣n làm lại, tái phạm nữa, th́ không đúng nghĩa trong tinh thần sám hối. Có nhiều cách Sám Hối
A- Theo Quan Niệm Thế Gian
Người đời khi có tội lỗi với cha mẹ, ông bà, làng nước... th́ thường thường họ dùng lễ vật như:
- Trầu rượu, hay heo gà, tiền bạc để tạ tội, xin lỗi.
- Có khi người ta lại dùng h́nh thức lập công chuộc tội. H́nh thức nầy thường được áp dụng trong những chế độ vua chúa phong kiến ngày xưa.
B- Các Tôn Giáo Khác
Trong các tôn giáo khác, người ta cũng có những h́nh thức chuộc lỗi, như:
- Có đạo giết trâu, ḅ, dê, heo... để cúng thần linh cầu xin rửa tội.
- Có đạo chủ trương xuống tắm ở những ḍng sông hoặc suối mà người ta cho là linh thiên th́ hết tội,
H́nh thức đổi công chuộc tội cũng có chỗ hay, nhưng nó chỉ áp dụng để đối phó với bên ngoài chứ trong trường hợp những tội xảy ra trong nội tâm chúng ta th́ không có kết quả. Đối với những tội lỗi rất vi tế th́ khó mà có thể áp dụng được h́nh thức nói trên. Những cách chuộc tội như vậy, tất cả đều là sai lầm. lư do là v́ tội lỗi thuộc về phương diện tâm linh, mà đă là tâm linh th́ không có h́nh tướng, v́ vậy chúng ta không thể lấy vật chất như nước, máu huyết, phẩm vật, hay xác thân để làm cho sạch tội.
C- Theo Quan Điểm Của Đạo Phật
Đức Phật dạy:
- Tội lỗi do tâm của người tạo ra, không ai có quyền thưởng phạt được. Kẻ gieo giống xấu th́ ăn trái dỡ, người trồng giống quư th́ hưởng quả ngon. Tội lỗi đă từ tâm tạo, th́ cũng phải từ tâm mà sám.
Lời nói thật rơ ràng. Vậy chúng ta muốn hết tội, phải y theo những pháp sám hối có tác dụng, có liên quan đến tâm mà thật hành. Trong Đạo Phật có những pháp sám hối thuộc về sự, có pháp thuộc về lư:
I- Sám Hối Thuộc Về Sự:
a- Tác Pháp Sám Hối
Pháp sám hối nầy thuộc về sự, phải lập giới đàn và thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên gọi là Tác Pháp Sám Hối. Khi vào giới tràng, ḿnh phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một ḷng thành kính sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh tức là hết tội. Trường hợp của Thân Mẫu Mục Kiền Liên. Sau khi biết được thân mẫu của Ngài bị đọa vào cảnh giới A Tỳ Điạ Ngục, mặc dầu Ngài có thần thông nhưng một ḿnh không thể cứu vớt được, nên Ngài mới với Phật cầu xin phương pháp cứu độ. Khi đó đức Phật mới dạy là phải cung thỉnh cho được mười phương tăng Bảo cúng dường và nhờ sức chú nguyện của chư Thánh Tăng, nhờ đó mà thân mẫu của Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh A Tỳ Địa Ngục.
Sự kiện thân mẫu Ngài Mục Kiên Liên thoát khỏi cảnh A Tỳ Địa Ngục, không phải do thần lực của mười Tăng Bảo đem bà ra khỏi Địa Ngục, mà do chính bản thân của bà tự cứu lấy bà. Lư do là chư Thánh Tăng chỉ hết ḷng chú nguyện, và sức từ tâm đó làm chuyển hóa tâm keo kiệt bỏn xẻn của bà. Theo kịp sức chú nguyện của chư Tăng nên tâm bà chuyển hoá tâm kẹo kiệt, bỏn xẻn của bà hoàn toàn và trở nên thanh tịnh do đó mà bà được siêu thăng.
b- Thủ Tướng Sám Hối:
Pháp nầy thuộc về sự và khó hơn pháp trước. Phật chế pháp nầy là sám hối thuộc về quán tưởng, cho những người tu tập có tŕnh độ cao, hoặc có thể áp dụng cho những nơi không có, hoặc không thể thỉnh chư tăng.
Muốn tu pháp nầy hành giả phải đến trước tượng Phật hay Bồ tát, thành tâm lễ bái tŕnh bày những tội lỗi đă phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm thế nào từ một ngày, ba ngày, bảy ngày, 49 ngày và măi cho đến khi nào thấy được hảo tướng, như thấy hào quang, hoa sen báu, thấy Phật, Bồ Tát đến xoa đầu..v..v... th́ mới thôi.
c- Hồng Danh Sám Hối:
Pháp Hồng Danh Sám Hối nầy cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút danh hiệu của 53 danh hiệu Phật trong kinh Ngũ Thập Tam Phật tức là từ đức Phật Phổ Quang cho đến Phật Nhất Thế Pháp Tràng Măn Vương Phật, và rút 35 hiệu Phật trong Quán Dược Vương Dược Thượng với pháp thân đức Phật A Di Đà sau thêm bài kệ Phổ Hiền Đại Nguyện, thành nghi thức sám hối nầy. Tổng cộng là 108 lạy để ám chỉ cho trừ 108 phiền năo
Nghi thức sám hối nầy, nếu ai chí thành kính lễ, th́ sẽ diệt trừ được những phiền năo và tội lỗi đă tạo, trong hiện tại cũng như nhiều đời về quá khứ. Đức Phật Tỳ Bà Thi nói:
- Nếu chúng sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật nầy th́ trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác.
Đức Phật Thích Ca nói:
- Thuở xưa đời Phật Diệu Quang ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe 53 danh hiệu nầy, và thành tâm lễ bái, mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp.
C̣n 35 danh hiệu Phật sau từ đức Phật Thích Ca cho đến đức Phật Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương th́ trong kinh Bửu Tích nói:
- Nếu tất cả chúng sanh hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muốn ức kiếp không thể sám hối chỉ xưng danh hiệu 35 vị phật nầy và lễ bái th́ bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ.
Hồng danh của chư phật có công đức không thể nghỉ bàn như vậy, Ngài bất Động Pháp Sư mới soạn ra để làm nghi thức sám hối. Pháp Hồng Danh Sám Hối, hiện nay hầu hết các chùa đều thực hành theo.
Về sau Ngài Tư Vấn Pháp Sư v́ những người yếu đuối hoặc không quen lạy nhiều nên đă soạn ra một nghi thức sám hối, rất gọn dễ và đầy đủ ư nghĩa, cũng gọi là pháp tiểu sám hối, để cho Phật Tử có thể hằng ngày sám hối tội lỗi của ḿnh.
Ba loại sám hối trên thuộc về sự
II- Lư Sám Hối:
Trong lư Sám Hối th́ chỉ có Vô Danh Sám Hối. Pháp sám hối nầy thuộc về Lư Sám Hối, rất cao và rất khó, bực thượng căn mới có thể thực hành được. Có hai cách sám hối:
a- Quán Tâm Vô Sanh
Nghĩa là quan sát tự tâm ḿnh hiện tiền không sanh. Như trong kinh Kim Cang nói:
- Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị lai cũng không.
Quán trong ba đời đều không có tâm, th́ vọng tâm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm không có th́ các tội lỗi cũng không.
Kinh nói:
- Tội từ tâm sanh mà cũng từ nơi tâm diệt.
Nếu tâm nầy không sanh th́ tội kia cũng chẳng c̣n, thế mới thật là sám hối.
b- Quán Pháp Vô Sanh
Nghĩa là quán sát thật tướng của các pháp không sanh. Chữ thật tướng nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư dối, từ xưa đến nay vẫn thường như thế, không bị thời gian thay đổi hay không gian chuyển dời, suốt thấu xưa nay nên gọi là thật tướng. Nó cũng có tên là chân như hay chơn tâm.
Khi nhận được thật tướng rồi, th́ các giả tướng đều không c̣n. Lúc bấy giờ những tội lỗi kia không c̣n gá nương vào đâu để tồn tại. trong kinh Quán Phổ Hiền có nói:
- Muốn sám hối, phải quán thật tướng của các pháp, th́ tội mới hoàn toàn tiêu diệt.
III- Vô Tướng Sám Hối
Phương pháp sám hối nầy theo quan điểm của Lục Tổ Huệ Năng ngài dạy:
- Chúng ta là những Phật Tử, biết tụng kinh, niệm Phật, biết làm lành lánh dữ, biết đến chùa, th́ đó là nhờ thiện căn thiện duyên từ đời kiếp trước. V́ vậy những việc làm đó đều do từ trong tự tánh mà khởi ra, nếu lúc nào cũng niệm như vậy để tự thanh tịnh lấy tâm, tự tu, tự hành, tự độ, tự giới, tự thấy pháp thân và tâm Phật th́ việc tụng kinh, niệm Phật, cũng như việc đến Chùa mới thật là chân thật.
Muốn duy tŕ trạng thái tự thanh tịnh lấy tâm phải luôn thực hành Vô Tướng Sám Hối, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ đang làm việc ǵ, Ngài dạy, Vô Tướng Sám Hối có năm điều:
01- Giới Hương: Tức là trong tâm luôn giữ giới không không làm quấy, không hung dữ, không ganh ghét, không tham lam, không hờn giận, không si mê ám hại.
02- Định Hương: Tức là trông thấy các cảnh tượng lành dữ mà tâm không loạn động.
03- Huệ Hương: Tức là Tự tâm không chướng ngại, thường lấy trí tuệ soi xét tự tánh, không tạo các điều ác, mặc dầu tu các nghiệp lành, nhưng tâm không chấp trước, tôn kính người trên, chiếu cố kẻ dưới, thương xót những người cô đơn nghèo khổ
04- Giải Thoát Hương: Tức là Tự Tâm không vướng chi cả, không nghỉ lành, không nghỉ dữ tự tại vô ngại.
05- Giải Thoát Tri Kiến Hương: Tức là tự tâm đă không vướng lành dữ cũng không chấp có, không chấp không, chơn chánh nghe nhiều, học rộng, thấy xa, tự đạt bổn tâm, thông suốt Phật lư hoà đồng ánh sáng tiếp dẫn người, không phân nhân ngă, thẳng đến quả vị Bồ Đề, chơn tánh vẫn không thay đổi.
Năm loại hương vừa kể trên, khi tu và thực hành đạo một cách tích cực th́ tự nhiên có, và năm loại hương nầy chỉ tự xông ở bên trong chớ không có ở bên ngoài. Đức Lục Tổ ngài đă ân cần truyền trao cho chúng ta, hôm nay chúng tôi phụ trách về đề tài sám hối nầy, Tôi muốn cùng quư vị sám hối để cho thân tâm được thanh tịnh, v́ thế chúng tôi đề nghị đại chúng, hiện tại ở nơi xa xăm nào đó không cùng chúng tôi đọc thành lời, nhưng đề nghị đại chúng với một tâm hồn hết sức thanh tịnh, lấy giới luật làm tấm gương trong vắt để chiếu rọi tâm ḿnh, xin im lặng thở và im lặng trả lời và nghe những lời tôi sắp tuyên đọc Pháp Vô Tướng Sám Hối để tiêu tội trong ba đời khiến cho ba nghiệp của chúng ta được thanh tịnh.
Xin quư vị chú tâm theo dơi:
- Chúng đệ tử từ niệm trước, niệm nay, và niệm sau, niệm niệm không nhiễm theo ngu si, mê muội, bao nhiêu tội lỗi ác nghiệp ngu si mê muội đă có từ trước, thảy đều sám hối, nguyện tiêu diệt ngay bây giờ, không thể nào tái phạm.
- Chúng đệ tử từ niệm trước, niệm nay, và niệm sau, niệm niệm không nhiễm theo kiêu căng phản bội, bao nhiêu tội lỗi ác nghiệp kiêu căng, phản bội đă có từ trước, thảy đều xin sám hối, thảy đều tiệu diệt nay từ bây giờ không thể nào tái phạm.
- Chúng đệ tử từ niệm trước, niêm nay và niệm sau, niệm niệm không nhiễm theo sự ganh ghết dối trá, bao nhiêu tội lỗi ác nghiệp ganh ghét dối trá đă có từ kiếp trước thảy đều sám hối, nguyện xin tiêu diệt ngay bây giờ không thể tái phạm.
Đó là những lời Vô Tướng Sám Hối của Đại Sư Huệ Năng &nb sp;
IV- Phát Triển Hạnh Lành
Trong thế gian bất tịnh nầy, vạn vật đều huyển hoá vô thuờng, tấm thân huyết nhục này nay c̣n mai mất không sao liệu trước được. Nếu một hơi thở ra mà không hít vào là đă qua đời khác. Đến lúc đó có muốn sửa đổi lỗi lầm cũng không kịp nữa. Khi cái chết đến nơi mọi thứ đều bỏ lại, chỉ có nghiệp tội đi theo chúng ta mà thôi.
Cuộc sống có tính cách liên tục, cho nên là lỗi là không lỗi chúng ta khó mà biết trước được. Để duy tŕ thiện căn thiện duyên, sau khi làm lễ sám hối xong, chúng ta cần phải phát triển các hạnh lành cho nhiều để tiêu trừ tội lỗi cũ.
Lư do là chúng ta biết, từ xa xưa tội lỗi của chúng ta rất nhiều, có thể nói là vô số. Sự sống của chúng ta tiếp nối liên lạc với nhau từ đời nọ đến đời kia như một xâu chuổi dài vô tận. Rồi cứ trong mỗi đời, từ sanh đến tử, từ tử đến sanh chúng ta cứ tạo thêm tội măi, từ cái tệ nầy bắt qua cái dở khác, từ cái tội nhỏ đi tới cái lỗi lớn, cái đà ấy cứ tăng thêm măi tạo thành môt sức mạnh gọi là Nghiệp lực, dắt dẫn chúng ta vào con đường khỗ năo, mê lầm, tức là ḍng sanh tử mà chúng ta đang thọ vậy.
Trong kinh Hoa Nghiêm đức Phổ Hiền Bồ Tát nói:
- Nếu tội lỗi của chúng sanh có h́nh tướng, th́ tất cả hư không cũng không thể chứa hết.
Thật thế, tội lỗi của chúng sanh chất chồng từ muôn vạn kiếp, và truyền qua thời gian bởi di truyền, phong tục, thói quen..v..v... Chẳng hạn như tánh tham, chúng ta mới sanh, nào có ai dạy cho chúng ta đâu, thế mà chúng ta vẫn biết. Cũng không ai bảo chúng ta giận hờn, vậy mà gặp điều ǵ trái ư là chúng ta cau có, la lối liền. Những tánh xấu ấy có một lần với thân và rất sâu sắc, khó dứt trừ. Trong kinh gọi chúng nó là:
- Câu sanh phiền năo
Hay c̣n gọi là:
- Bổn hữu chủng tử
Nghĩa là:
- Những hạt giống có từ lâu.
Những hạt giống xấu nầy lại c̣n làm duyên sanh ra các tội lỗi khác mà trong kinh gọi là:
- Phân biệt phiền năo hay Khởi Thỉ Chủng Tử.
Nghĩa là:
- Hạt giống mới nhiễm do ảnh hưởng thời tập quán, phong tục chi phối.
Phân biệt phiền năo, th́ c̣n dễ trừ, nhưng câu sanh phiền năo th́ rất khó trừ. Cho nên chúng ta cũng không nên sám hối lấy lệ lấy có được! chúng ta phải làm sao cho:
a- Những tánh xấu kia yếu ớt dần dần do sức mạnh của thành khẩn và chí cương quyết.
b- Rồi dứt sạch các tánh xấu không cho chúng tái sanh.
Muốn dứt tuyệt chúng, mà nếu không có phương pháp thích hợp để thực tập. Phương pháp thích hợp trong sự sám hối là: Phát triển hạnh lành, để tiêu trừ tội lỗi cũ.
Chúng ta biết trong ḷng chúng ta không phải toàn chứa đựng những tánh xấu xa. Nếu tánh xấu đă có từ muôn đời, th́ tánh tốt cũng có từ vô thỉ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tánh là cái mầm của muôn hạnh lành, cái mầm ấy đă bị chôn vùi dưới bao lớp dục vọng, si mê. Bây giờ muốn tiêu trừ dục vọng th́ chúng ta phải tạo điều kiện cho cái mầm Phật tánh trổ lá lên hoa kết trái Bồ Đề. Điều kiện làm cho mầm Bồ Đề phát triển là những hạnh lành như Từ Bi, Hỷ Xả, Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn ..v..v.. Nếu chúng ta phát triển những tánh tốt ấy, tất nhiên những tánh xấu không có đất đễ mọc lên nữa.
V- Tổng Luận
Như có người hỏi, có thật sự chúng ta cần phải sám hối hay không?
Câu trả lời dứt khoát của chúng tôi là:
- Cần phải sám hối nêu quư vị muốn sống một cuộc sống an vui.
Như quư vị đă biết:
- Một người sống hết sức thành thật, không một chút giả dối, th́ tâm họ khế hợp với đạo lư. Do đó nếu đem tâm chân thành ra đối đăi với người th́ phước báo tự nhiên sẽ đến. Cho nên, xét một người nào đó, chỉ cần nh́n thấy họ toàn làm viêc thiện, th́ biết trước rằng phước họ sắp tới.
Trái lại xét người mà thấy hành vi của họ toàn làm điều ác, th́ biết rằng họ sắp gặp họa. Người muốn tránh họa được phước, phải tự ḿnh cải đổi lỗi lầm trước khi làm thiện.
Có người hỏi như các pháp sám hối vừa nói ở trên là áp dụng cho tính đồ Phật Giáo, nhưng nếu không phải là đệ tử Phật mà muốn ăn năn hối lỗi, hay nói đúng từ ngữ Sám Hối chân chánh như tinh thần của người Phật Tử th́ phải làm sao.
Thưa quư vị, những phương pháp trên quả thực là thuần túy cho người Phật Tử, tuy nhiên vẫn có những phương pháp có tính cách phổ thông hơn để biến đổi lỗi lầm bằng cách phát tâm:
01- Phát Tâm Khổ Nhục
Chúng ta nên suy nghĩ: Thánh hiền đời xưa như ta không khác, đều là trang nam tử đại trượng phu. Thế tại sao các vị ấy có thể lưu lại tiếng thơm muôn đời, làm gương sáng cho hậu thế, c̣n chúng ta lại luống qua một đời, rồi thân bại danh liệt. Đó là v́ chúng ta quá đam mê hưởng thụ, bị hoàn cảnh vật dục bên ngoài làm ô nhiễm. Càng ngày chúng ta càng trầm luân trong bể dục, mà tự ḿnh chẳng biết chẳng hay.
02- Khởi Tâm Thận Trọng Lo Sợ
Chúng ta phải biết chư vị khuất mặt, khuất mày, chư thiện thần luôn ở bên cạnh chúng ta. Chư vị thấy được tất cả những hành vi của chúng ta nên chúng ta không thể lừa đối được họ. Chúng ta có thể giấu được mọi người làm điều sai trái, qua mặt pháp luật, nhưng không sao qua mắt được chư vị khuất mặt khuất mày. Việc ác của chúng ta đối với họ như như soi kính, đều hiện ra rơ ràng không sót. Chúng ta cho dù giấu kín được tội với nhân thế, song chư thiện thần nh́n thấy rơ tâm can phế phủ của chúng ta. Chúng ta khởi động tâm niệm như thế nào, các vị ấy đều biết rơ. Cho nên ḿnh biết rơ tâm niệm và hành vi của ḿnh như thế nào, chư thiên thần cũng biết rơ như vậy.
Hơn nữa nếu chẳng may hành vi xấu của chúng ta bị người khác biết được, th́ không những chính ḿnh mất hết giá trị, c̣n bị người xem thường phỉ nhổ. Cho nên ta lúc nào cũng phải có tâm lo sợ thận trọng với tư duy:
- Gây tội nặng sẽ rước lấy tai họa, gây tội nhẹ sẽ tổn phước giảm đức. Tội lỗi đối với thần minh, long thiên hộ pháp không sao che dấu được. . 03- Phát Khởi Tâm Dơng mảnh
Muốn sửa đổi lỗi lầm nhất định phải lập chí kiên quyết lập tức cải đổi quyết định không nên chần chờ, do dự. Không nên ngày nay lại hẹn ngày mai, mai lại hẹn ngày mốt, cứ thế kéo dài, lần lửa đến chết. Lỗi lầm nhỏ hăy xem như dao đâm vào xương thịt, để lâu một ngày là nhức nhối thêm một ngày, nên phải gấp rút nhổ ra. Lỗi lầm lớn hăy xem như rắn độc cắn, nếu để chậm một giây là nguy hiểm đến tánh mạng một giây.
Chúng ta chỉ cần một hơi thở, cho dù phạm tội đến đâu đều có thể sám hối.
Nói như vậy có nghĩa nếu người ta khi đối diện cửa ải sanh tử, chỉ cần thống thiết dơng mảnh khởi lên niệm thiện, ăn năn tỉnh ngộ th́ có thể rửa sạch nghiệp tội tích chứa trong suốt trăm năm. Ví như hang tối ngàn năm chỉ cần thắp lên một ngọn đèn sáng, th́ lập tức sẽ quét sạch bóng đen chỉ c̣n ánh sáng rơ ràng. Cho nên không luận là ác bao lâu nhiều ít như thế nào chỉ cần thống thiết ăn năn sửa đổi lỗi lầm nhất định sẽ được thanh tịnh
Tuy nói có lỗi lầm chỉ cần ăn năn cải đổi là được, song tuyệt đối không được v́ thế ỷ lại cho rằng thường phạm lỗi không sao. Người như thế là có tâm phạm lỗi tội càng sâu nặng.
VI- Kết Luận
Như chúng ta đă thấy ở các đọan trên người thế gian hay các tôn giáo đều có những cách thức ăn năn ngừa lỗi cả. Song chỉ có pháp sám hối của đạo Phật mới dứt trừ được tội lỗi, do chỗ lấy sự cải ác, tùng thiện làm cốt yếu.
Trong các pháp sám hối của đạo Phật, có pháp về sự, có pháp về lư có pháp cao có pháp thấp. Vậy phải tùy theo căn cơ cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng. Người thượng căn, th́ quán pháp vô sanh sám hối. Người không gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không gặp cao tăng, th́ dùng pháp thủ tướng sám hối. Người được cảnh thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao tăng đại đức th́ dùng pháp tác sám hối. C̣n thấy ḿnh tội chướng nặng nề, và thấy các pháp trên khó thực hành được, th́ cứ mỗi đêm về, hay trong những bữa ăn chay và ngày sóc vọng, tùy tiện đến chùa hoặc ở nhà chí tâm lạy hồng danh sám hối hoăc tiểu sám hối cũng tốt.
Trong các pháp sám hối của Đạo Phật mặc dù có lạy có quỳ có lễ bái, nhưng không phải để cầu cạnh van xin được tha tội. Trong cái lạy, cái qùy ấy, có chứa không biết bao nhiêu ư nghĩa và lợi ích. Vẫn biết lạy và quỳ nhứt là trong pháp hồng danh sám hối thật là hao hơi mệt xác, nhưng trong cái mệt xác thân, có cái vui tinh thần, trong cái sự tướng bên ngoài có hàm ư cái lư nghĩa bên trong.
Thật vậy! Tuy có lạy nhiều, niệm lâu nhưng vẫn không ra ngoài những mục đích sau:
01- T́m cách thiết thực làm cho tâm tánh con người được trong sạch, hết sự lỗi lầm ở trong đời hiện tại, mà cũng tiêu trừ những tội ác trong đời quá khứ.
02- T́m cách phát triển nhưng hạnh cao cả, noi theo những gương mẫu sáng suốt của các bậc thánh hiền.
Tóm lại, các pháp sám hối của đạo Phật, nếu thực hành một cách đứng đắn, sẽ đem lại những kết quả quư báu sau đây:
- Làm phát triển tánh thành thật,
- Trau dồi đức tánh cưong quyết trong sự diệt trừ tánh xấu.
- Dứt được tội sanh phước.
- Mau thẳng tiến đến chỗ giải thoát an vui.
Nhờ pháp sám hối của đạo Phật, con người có thể cải hóa ḷng ḿnh tốt đẹp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có thể làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc và đời sống xă hội được hoà b́nh an lạc.
Vậy ai là người muốn hết tội hết lỗi, ai là nguời muốn giải thoát sanh tử luân hồi, ai là người yêu chuộng chân lư, hăy cùng nhau nghiên cứu và thực hành các pháp sám hối của đạo Phật cho kỷ lưỡng để trước là cải thiện đời sống cá nhân, sau là đời sống của giống hữu t́nh được bớt đau khổ, và thêm an vui.
Nói tóm lại, phương pháp sám hối cao minh nhất vẫn là tu tâm. Nếu biết tu tâm th́ sẽ lập tức khiến cho tâm thanh tịnh. V́ tất cả những sự sai lầm đều do tâm khởi niệm bất chánh mà ra. Nếu biết tu tâm, chánh niệm tỉnh giác, th́ khi tà niệm vừa khởi liền phát giác. Tà niệm ngay đó sẽ không c̣n, tâm trở lại thanh tịnh bất động. Nếu ta không làm được như vậy khi tà niệm khởi lên phát giác muộn màng, và không đủ sức giác chiếu để làm cho nó tiêu diệt, th́ phải dùng đạo lư để suy xét, thống trách, th́ sẽ hóa giải được niệm đó. C̣n như không biết dùng đạo lư để thống trách th́ cố gắng dằn ḷng, tránh xa căn duyên phạm lỗi. Các pháp Sám Hồi nầy, tuy có cao có thấp khác nhau, song đều có giá trị riêng, và bỗ túc cho nhau. Chúng ta cần biết rơ ḿnh để có thể tùy cơ, tùy lúc vân dụng cả những phương pháp đó một cách thích đáng tu sửa lỗi lầm, th́ sẽ có công hiệu. Tuy vậy phương pháp tu tâm, chánh niệm tỉnh giác vẫn là chánh yếu, không nên bỏ qua.
__________________ Tất cả vạn vật từ vũ trụ mà ra !!
|
Quay trở về đầu |
|
|
haclong Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005 Nơi cư ngụ: Italy
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 24
|
Msg 4 of 6: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:20am | Đă lưu IP
|
|
|
Thoa Diệu Cơn Phẩn Nộ
Theo thói thường khi chúng ta giận dữ với ai, và trút được cơn thịnh nộ trên đầu người đó, chúng ta cảm thấy hả dạ lắm. Hoặc giả dụ lúc chúng ta đang giận dử ông A, nhưng v́ quyền uy hay vấn đề công ăn việc làm nên chúng ta không nói được, nổi niềm uất ức đó cứ chất chứa trong ḷng đến khi gặp cô B th́ bao nhiêu nổi niềm uất ức đó được trút hết lên ḿnh cô B chỉ v́ một chút xíu lư do không chính đáng và lúc đó chúng ta hả dạ lắm. Nhiều người trong chúng ta đă nghĩ như vậy và đă từng làm như vậy. Nhưng những người được coi là nạn nhân của chúng ta sẽ cảm thấy ǵ trong lúc ấy? Có hài ḷng như chúng ta hay không? Và cái giọng gây gổ, thái độ cừu thù của chúng ta có làm cho người ấy ḥa với chúng ta không?
Chúng ta không phải là những nhà tâm lư học lỗi lạc, nhưng chỉ cần b́nh tâm suy tư một chút, chúng ta cũng sẽ thấy được điều này một cách rơ ràng. Theo bản năng tự vệ, và bản năng sinh tồn, nếu khi chúng ta đưa hai quả đắm ra nói chuyện với người khác, th́ chúng ta cũng phải biết rằng người kia cũng đưa ngay hai quả đấm ra với chúng ta liền. Nhưng nếu chúng ta có can đảm và thích sống ḥa b́nh, thay v́ chúng ta hiềm hận, cay cú, gây cấn nhau th́ chúng ta có thể đề nghị với người kia:
- Chúng ta hăy ngồi xuống đây và ôn tồn nói chuyện với nhau. V́ ư kiến chúng ta khác nhau, cho nên phải rán t́m nguyên nhân bất đồng đó.
Nếu chúng ta nói, và làm được như vậy th́ chúng ta sẽ thấy ngay rằng ư kiến của chúng ta rốt cuộc không khác nhau xa lắm, những chổ bất đồng rất ít, c̣n những chổ đồng ư th́ nhiều lắm, và nếu chúng ta thật t́nh và kiên tâm muốn ḥa giải để sống với nhau trong ḥa b́nh th́ cũng rất dễ. Lời đề nghị ngắn, hay một câu nói đơn sơ như vậy, nhưng mà là một liều thuốc thần dịu có thể Thoa Dịu Cơn Phẩn Nộ một cách hữu hiệu. Quả thật như vậy, đây là một bằng chứng hùng hồn được người xưa ghi lại cho chúng ta, và đă xác định đây là cách Thoa Diệu Cơn Phẩn Nộ có hiệu lực trăm phần trăm với câu đề nghị đơn giản:
- Chúng ta hăy ngồi xuống đây và ôn tồn nói chuyện với nhau. V́ ư kiến chúng ta khác nhau, cho nên phải rán t́m nguyên nhân bất đồng đó.
Theo tài liệu cho biết, trong lịch sử Hoa Ḱ nói riêng và nói chung trên thế giới có những cụ thể điển h́nh thành công bằng những lẽ ôn ḥa ḱ diệu đó chẳng hạn như:
01- Nội Bộ Công Ty Nhiên Liệu & Thuộc Kim
Sự kiện này xảy ra năm 1915 tại tiểu bang Colorado, ông John D. Rockefieller là người bị nhiều người oán hận nhiều nhất ở miền mỏ Colorado. Vào thời điểm năm 1915 suốt cả hai năm liền Công Ty Nhiên Liệu và Kim Thuộc bị tàn phá v́ một cuộc đ́nh công làm đổ máu nhiều nhất trong ngành kỉ nghệ của nước Mỹ. Lư do là những người thợ mỏ trong công ty Nhiên Liệu và Kim Thuộc quyết liệt đ̣i tăng lương. Dụng cụ và nhà máy bị phá phách cho nên người ta gọi cảnh sát đến, và sinh ra một cuộc xô xát đẩm máu, và nhiều thợ đ́nh công ngă gục dưới lằn đạn. Trong t́nh trạng khẩn trương, và trong bầu không khí tưng bừng thù oán đó, ông John D. Rockefield quyết lấy ḷng những người phản động và ḥa giải với họ.
Sau khi mất hàng tuần vận động ráo riết trong bọn thợ để dẫn cho con đường ḥa giải. Ông diễn thuyết trước đám thợ đ́nh công. Bài diễn văn đó là một trứ tác có kết quả lạ lùng. Nó dập được làn sóng thù nghịch bao vây ông đang muốn nhận ông xuống và làm cho một số đông thợ theo ông. Lời diễn thuyết của ông giảng giải với họ một cách thân mật, khéo léo đến nổi thợ đ́nh công trở lại làm việc mà không hề nhắc đến việc xin tăng lương nữa, mặc dầu trước kia họ chiến đấu dử tợn như thế. Dưới đây là đọan đầu bài diễn văn tuyệt khéo đó. Chúng ta sẽ thấy thiện cảm, nhiệt tâm và hảo ư chói lọi trong đọan đó. Chúng ta hăy nhớ rằng ông John D. Rockefieller nói với những người mà mấy hôm trước đ̣i treo cổ ông cho kỳ được. Vậy mà giọng điệu ông dịu dàng nhỏ nhẹ, thân mật hơn các nhà truyền giáo nữa. Trong bài đầy những câu nói tươi như hoa chẳng hạn như những:
- Tôi lấy làm vinh dự được ở trong nhóm anh em, tôi đă lại thăm gia đ́nh các anh em, chúng ta đă gặp nhau ở đây như những người bạn thân,
- Chúng ta đối xử với nhau trong tinh thần hiểu biết lẫn nhau ...
- V́ quyền lợi chung....
- Tôi được tới đây để có buổi hợp mặt này nhờ thịnh t́nh của anh em....
Bài diễn văn bắt đầu như thế này:
- Ngày hôm nay là ngày vinh dự trong đời tôi. Đây là lần thứ nhất tôi được cái vui và cái may mắn gặp hết thảy những người thay mặt nhân viên trong công ty lớn của chúng ta, các vị quản lư, các vị chỉ huy, và xin anh em tin chắc rằng tôi lấy làm hân hạnh được có mặt ở đây và sẽ nhớ cuộc hợp này suốt đời tôi. Nếu cuộc hợp này xảy ra hai tuần lể trước th́ tôi đối với các anh em như một người dưng thôi. Nhưng v́ mấy ngày nay, tôi đă đi thăm hết các mỏ ở phương nam, tṛ chuyện với các người thay mặc các anh em, cho nên hôm nay chúng ta mới gặp nhau ở đây, không phải như thù nghịch nhau mà như chổ bạn thân và chính nhờ cái tinh thần thân mến nhau đó mà tôi thấy sung sướng khi được bàn với anh em về quyền lợi chung của chúng ta.
Thật ra chỉ nhờ thịnh t́nh của các anh em mà tôi có mặt trong cuộc hợp giữa các vị giám đốc của công ty và các vị thay mặt cho nhân viên, v́ vậy tôi không có cái may được ở trong nhóm trên hay nhóm dưới. Vậy mà tôi thấy tôi liên kết rất mật thiết với anh em, v́ tuy đại diện cho chủ nhân, tôi c̣n thay mặt tất cả những người làm công nữa....
Đây là lời nói hết sức ngọt ngào cho nên từ đó đă chuyển thù thành bạn.
02- Về Một Ngôi Chùa
Tại Việt Nam, vào khoảng năm 1974 có một gia đ́nh có phát tâm xây một ngôi Chùa và sau đó cúng ngôi Chùa đó cho một vị Thượng Tọa, không biết lúc phát tâm cúng như vậy có hỏi ư kiến vợ con bạn bè hay không, nhưng khi cúng rồi, có người bàn ra tán vào, và cuối cùng ông cụ đó quyết định lấy lui ngôi Chùa lại, thế là ông nộp đơn kiện ra ṭa. Vị Thượng Tọa kia nhận được trát báo ngày ra ṭa mới biết ḿnh bị vu khống v́ tội chiếm chùa, nhưng vị Thượng Tọa đó không v́ vậy mà buồn phiền. Trong lúc chờ đợi ṭa xét xử ông cụ chủ chùa kia cứ tới Chùa chửi bới thậm tệ, nhưng vị Thượng Tọa đó đă không giận dữ v́ lờ́ chủi rủa kia. Vị Thượng Tọa ấy cũng không áp chế mắng ông là người lớn không biết giữ lời, không biết liêm sĩ mà lại c̣n nịnh ông ta nữa, vị Thượng Tọa ấy khen:
- Cụ tốt lắm, cụ chửi tôi và luôn luôn có thái độ ôn ḥa, chớ không có bạo động như những người khác!
Ngoài ra vị Thượng Tọa thấy ông cụ sáng sớm là lại Chùa chửi miết cho đến trưa, cứ như vậy mà từ ngày này sang ngày kia không làm ǵ cả. Thấy vậy vị Thượng Tọa mới mời ông Cụ vào pḥng khách uống trà và đánh cờ tưởng cho vui. Lúc đầu th́ ông không chịu vào, nhưng khi chửi lâu cũng khát nước nên được mời trà th́ Cụ cũng uống. Uống trà xong lại tiếp tục chửi nữa, độ một tuần lể sau, ông Cụ cũng thấy mỏi mệt, cho nên khi được mời đánh cờ tướng th́ cũng vào Chùa ngồi đánh với ông Thầy. Đến ngày ra ṭa, vị Thượng Tọa đó qua rủ ông chủ Chùa cùng đi ra ṭa, nhưng khi đến th́ thấy ông già đang say rượu không đi được, thế là vị Thượng Tọa đó phải cỏng ông Cụ ra ṭa, cùng đi với người nhà của ông ta. Khi ra đến ṭa, ông ṭa thấy ông cụ th́ say, ông Thầy th́ cỏng ông cụ, nên ông vừa hỏi vừa cười:
- Trong hai vị, ai là người mất Chùa, ai là người giựt chùa?
Trong khi vị Thượng Tọa kia chưa kịp tŕnh bày th́ người nhà của ông cụ lên tiếng giải thích và ông ṭa cũng phụ họa theo:
- Khi nh́n qua tôi cũng đoán như vậy, bởi v́ hai người không có vẻ ǵ th́ là thù nghịch th́ làm sao lại có thể người bị mất Chùa, người đi giựt Chùa.
Ḷng tốt của vị Thượng Tọa có kết quả là khuyến khích cho ông Cụ và gia đ́nh có hảo ư. Rồi th́ cuối cùng việc Chùa giữa vị Thượng Tọa kia và ông Cụ hiến Chùa được giải quyết trong êm đẹp, và thân mật. Cho nên ở đây chúng ta thấy:
- Làm người phải biết rằng một khi chúng ta có ḷng độ lượng với mọi người là có lợi cho ḿnh.
Hai trường hợp trên là người có thẩm quyền đối với người cấp dưới, c̣n bây giờ là người cấp dưới đối với người cấp trên
03- Đối Với Một Người Keo Kiệt
Khi trở lại Việt Nam thăm quê hương, chúng tôi có nghe một người Phật Tử đến Chùa chơi thăm và kể chuyện về việc mướn nhà. Tiền thuê nhà mắc quá, ông muốn xin giảm tiền thuê nhà, nhưng sự kiện này đă có nhiều người than van xin xỏ nhưng thất bại, theo người Phật tử đó kể lại:
- Con viết thơ cho người chủ nhà, báo trước rằng hết giao kèo, sẽ dọn đi nơi khác.
Thật ra người Phật Tử ấy không có ư định đi đâu hết, nhưng lời lẽ trong thơ th́ hăm dọa dọn nhà và hy vọng rằng lời dọa đó có thể làm cho ông chủ nhà keo kiệt chịu hạ tiền mướn nhà xuống, nhưng ít hy vọng thành công. Bởi v́ nhiều người khác mướn nhà cũng đă làm thử như vậy nhưng tất cả điều thất bại. Cũng theo người Phật Tử đó nói:
- Khi nhận được thư của con, ông chủ nhà lại nhà của con liền, theo sau ông ta có người thư kư. Con ra tận cửa đón ông vô cùng niềm nở. Con không đá đụng ǵ đến việc mướn nhà hết. Con bắt đầu khen căn nhà con đang ở rất đẹp, con thích ở đó lắm, con không tiếc lời khen và khen ông ta khéo quản lư căn nhà đó và kết luận rằng:
- Con muốn ở thêm một năm nữa nhưng không có tiền trả.
Khi nghe đến đây th́ ông chủ nhà mới nói:
- Tôi chưa hề được một người mướn nhà nào nói với tôi bằng một cái giọng thân mật dễ thương đó.
Và ông ta kể tiếp những nổi lo phiền của ông rằng là:
- Người mướn nhà luôn luôn kêu nài. Có người gởi cho ông mười bốn bức thơ mà nhiều bức thơ chửi ông rất là thậm tệ, một người khác lại dọa trả lại phố nếu ông không có cách nào cấm người tầng trên ngáy ban đêm.
Ông chủ nhà nói tiếp:
- Gặp được người như ông tôi rất là vui v́ ông biết được nổi khổ của tôi.
Rồi không cần xin, ông chủ nhà tự dưng hạ tiền mướn xuống một chút, người Phật Tử thấy vậy lại xin hạ xuống nhiều hơn nữa th́ lạ làm sao, ông chủ nhà keo kiệt kia liền bằng ḷng ngay.
Sự kiện này nếu người Phật Tử đó dùng phương pháp của những người mướn nhà khác chắc chắn cũng sẽ thất bại như họ. Sự kiện thành công này là nhờ thái độ nhă nhặn, thân mật hiểu biết của chúng ta.
04- Cách Hành Xử Với Người Giúp Việc
Có một Phật Tử đến Chùa kể chuyện, rằng mới rồi con có mời vài người bạn lại dùng bửa trưa. Cuộc hội hợp đó đối với con quan trọng lắm và tất nhiên là con muốn sự tiếp đăi đó được hoàn toàn chu đáo. Thường thường trong những dịp long trọng như vậy, con muốn anh hầu bàn chuyên nghiệp để giúp, nhưng hôm ấy anh hầu bàn chuyên nghiệp không đến được, mặt dầu con có dặn trước. Anh cho một người giúp việc lại thế. Thật là tai hại, anh phụ việc đó không biết chi về khoa hầu bàn cả, cho nên anh ta dọn búa xua lên bàn. Thật là xấu hổ, con giận lắm. Rán sức lắm mới giữ được nụ cười trong cả bửa tiệc mà con đau khổ như bị hành h́nh vậy.
Nhưng con tự nhủ:
- Đợi khi nào gặp anh hầu bàn chuyên nghiệp kia con sẽ cho anh ta một trận cho nên thân.
Nhưng ngay tối hôm đáng ghi nhớ đó, con được dự thính một buổi diễn thuyết vễ nghệ thuật dẫn dụ người, và con hiểu rằng có rầy anh hầu bàn cũng vô ích, chỉ làm cho anh ấy oán giận và không muốn giúp việc hầu tiệc cho con nữa. Con ráng tự đặt con vào địa vị của anh và thấy rằng anh ta không chịu trách nhiệm trong bữa tiệc đó, v́ không phải anh đi chợ, cũng không phải anh nấu món ăn. Người phụ của anh vụng dại đâu phải lỗi tại anh. Có lẽ v́ giận dữ mà con đă xét anh vội vàng quá, nghiêm khắc quá. Cho nên đáng lẽ buộc tội anh ta, con quyết định thay đổi thái độ mà khoan hồng với anh, nhưng nhờ vậy mà con đă thành công. Hôm sau con gặp anh, mặt anh buồn hiu, nhưng có vẻ sẵn sàng để tự bào chửa, Con nói rằng:
- Tôi muốn anh hiểu rằng khi tôi đăi khách, tôi rất cần có anh giúp tay tôi. Anh là người hầu bàn khéo nhất xứ này.. Tôi hiểu hôm trước không phải anh trông nom bửa tiệc cho nên anh không có lỗi chi hết ...
Anh hầu bàn chuyên nghiệp cũng mĩm cười đáp:
- Thưa bà quả vậy. Bửa tiệc đó hỏng là tại lỗi đầu bếp chớ không phải tại tôi.
Con tiếp:
- Tôi tính thiết vài bửa tiệc nữa, tôi muốn hỏi ư kiến anh? Anh nghĩ tôi có nên giữ chị đầu bếp không?
- Thưa bà nên lắm chứ. Sự đáng tiếc lần trước chắc chắn không xảy ra nữa đâu.
Tuần sau, con đăi khách bửa trưa. Anh hầu bàn chuyên nghiệp và con định thực đơn. Anh hầu bàn chuyên nghiệp kia săn sóc đủ mọi bề. Giá dụ mà con có thiết tiệc cho một vị hoàng hậu ăn th́ anh cũng tận tâm dọn như vậy là cùng. Món ăn nấu rất khéo và dâng lên c̣n nóng hổi. Công việc hầu khách thật hoàn toàn. Anh dắt bốn người phụ lại hầu khách chứ không phải một người như thường lệ. Cuối bửa tiệc, đích thân anh dâng khách một món tráng miệng thật ngon, khi ra về bà khách quư nhất của con hỏi:
- Bà có thuật ǵ mà người hầu tận tâm và khéo léo như vậy.
Bà ấy nói đúng tôi có thuật là tôi biết dùng lời lẽ ôn tồn và những lời khen thành thật..
Cách đây gần một thế kỉ Lincoln bảo, một câu châm ngôn có nói:
- Ruồi ưa mật, không những ruồi mà người cũng vậy.
Nói như vậy chúng ta muốn cho một người nào đó theo ư muốn của chúng ta, trước hết chúng ta phải làm cho người ấy tin rằng chúng ta là bạn thân thiết và thành thật của họ đă. Lời ngọt ngào sẽ chiếm mất trái tim của họ và do trái tim chúng ta sẽ thắng được lư trí của họ. Có lẽ v́ biết áp dụng phương pháp cổ điển nghệ thuật làm cho kẻ thù trở nên bạn thân, đă có nhiều người thành công tiêu biểu như:
- Ông John D. Rockerfeller đă áp dụng một cách tuyệt khéo. Giả dụ lúc đó ông John D. Rockefeller công kích các thợ mỏ, quát vào tai của họ, tất cả những sự thật làm cho họ mất ḷng, dùng một giọng khó chịu như bảo họ là khờ, để lên án đám nhận công th́ hỏi họ có chịu nhận lổi của họ không? Câu trả lời chắc chắn là không, cho dù lư luận của John D. Rockerfeller có cực kỳ chính xác đến đâu đi nữa, nhưng chắc chắn không thoa diệu được cơn phẩn nộ, nhưng trái lại ḷng giận, tâm thù hằn và phản động tất nhiên sẽ tăng lên!
- Vị Thượng Tọa bị lên án là chiếm Chùa kia, nếu cũng cứ khăn khăn cho ông già hiến Chùa kia là người tráo trở th́ liệu coi ông già đó có nhượng bộ không? Chắc chắn là không v́ đơn đă đưa đến ṭa rồi th́ cả nhà họ chắc chắn phải ăn thua đủ chứ không bao giờ lại đi bênh vực cho người khác.
- Anh mướn nhà cũng vậy, nếu không biết xử dụng lời lẽ mềm mỏng khôn ngoan th́ cho dù một đồng xu cũng đừng ḥng được ông chủ nhà keo kiệt khó tánh bớt cho.
- Bà chủ thượng lưu kia cũng vậy, nếu cứ khăn khăn quy tội cho anh hầu bàn chuyên nghiệp kia, th́ sẽ không bao giờ được anh hầu bàn chuyên nghiệp kia tiếp đăi khách một cách nồng hậu như vậy.
Cũng vậy, nếu cựu Tổng Thống Lincoln không áp dụng phương thức:
- Ruồi ưa mật, không những ruồi mà người cũng vậy...
Th́ ông không thể thành công và được ngướ dân Mỹ quư trọng ông. Cho nên, chúng ta phải biết rằng nếu một người đối với chúng ta chỉ có ḷng thù hận và ác cảm, th́ cho dù người ấy có dùng đủ các lư luận, th́ người ấy cũng không thể nào dẫn dụ chúng ta theo quan điểm của họ được. Từ đó chúng ta mới thấy:
- Nếu là những người làm cha làm mẹ mà cứ luôn luôn gắt gỏng con cái, th́ con cái sẽ không bao giờ gần gủi để nghe lời cha mẹ.
- Những ông chủ và ông chồng chuyên quyền độc đoán, th́ có ngày nhân viên cũng trở thành thù địch và bà vợ cũng có ngày cho ông nhịn đói, hoặc ngủ ngoài hè..
- Nhưng bà vợ hay gây gổ th́ chồng con có ngày cũng phải tránh xa.
Chúng ta phải biết rằng ai cũng muốn khư khư giữ lấy ư kiến của ḿnh, v́ thế chúng ta không nên, và đừng bao giờ dùng vũ lực bắt buộc họ phải đồng ư kiến với chúng ta. Trái lại phải dùng lời lẽ ngọt ngào và tấm ḷng thân mến, rất ngọt ngào để đối xử với nhau. Chúng ta cứ ngọt ngào, không tốn công tốn sức, mà làm cho mọi người phải làm theo ư của chúng ta. Có nhiều người trở thành nhà tỉ phú đều nhỏ giọng êm ái ôn tồn thân mật của họ.
Để kết luận bài giảng hôm nay chúng tôi xin kể cho đại chúng nghe một bài ngụ ngôn về mặt trời và gió. Gió khoe gió mạnh, mặt trời khoe mặt trời mạnh. Gió nói:
- Tôi sẽ làm cho anh thấy là tôi mạnh hơn anh, anh thấy ông già ở dưới trần gian kia không. Tôi cá với anh xem hai ta ai sẽ làm cho lăo đó tốc áo ra trước hết. Tức thời mặt trời biến sau đám mây và gió bắt đầu thổi mạnh như bảo. Nhưng càng thổi mạnh th́ lăo già càng bó chặt áo vào ḿnh.
Sau cùng gió mệt phải ngưng. Lúc đó mặt trời ở sau đám mây ló ra tươi tỉnh cười với khách bộ hành. Một lát thấy nóng quá lăo già lau mồ hôi trán và cởi áo. Mặt trời nói cho gió hiểu rằng:
- Dịu dàng và thân yêu giống như tôi bao giờ cũng mạnh hơn cái vũ lực và giận dữ giống như anh.
Đây là câu chuyện ngụ ngôn do Esope, một người nô lệ Hy Lạp, viết vào khoảng sáu trăm năm sau Jessu giáng sanh, nhưng những lời khuyên bảo của ông tới bây giờ vẫn c̣n qúy không kém hồi 25 thế kỷ trước. Ánh nắng mặt trời làm cho chúng ta phải cởi áo ra mau hơn là một trận cuồng phong. Những lời nói ngọt ngào, êm đềm đi sâu vào ḷng người ta hơn là con thịnh nộ đập bàn quát tháo, v́ vậy cựu Tổng thống Lincoln thường dùng câu châm ngôn cổ để tự hướng dẫn đời ông và nhân dân Hoa Kỳ khi ông c̣n sanh tiền và tại chức:
- Ruồi ưa mật,
Vậy nếu chúng ta muốn cho người khác theo ư chúng ta, th́ chúng ta đừng bao giờ quên nguyên tắc:
- Ôn tồn, ngọt ngào không nên xẳng.
Đây là ngôn ngữ của thế gian, nhưng nếu chúng ta là người học Phật, khi đứng trước phong ba bảo tố của cuộc đời, và muốn thoa dịu con phẩn nộ th́ chúng ta phải luôn luôn thực hiện:
- Lời nói hết sức ngọt ngào,
- Đừng coi nhau như thù nghịch
- Biết tự đặt ḿnh vào hoàn cảnh của người khác
__________________ Tất cả vạn vật từ vũ trụ mà ra !!
|
Quay trở về đầu |
|
|
canlong Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 14
|
Msg 5 of 6: Đă gửi: 22 April 2006 lúc 5:31am | Đă lưu IP
|
|
|
Ứng Dụng Mười Hai Nhân Duyên
Để tiện việc ứng dụng giáo lư Mười Hai Nhân Duyên trong cuộc sống, chúng tôi xin được nhắc sơ lại về phần căn bản. Mười hai nhân duyên, hay Triết Lư Duyên Khởi, là một giáo lư rất đặc thù, nói về con người và nói cho đối tượng nghe là con người. V́ con người bị vướng nặng vào vô minh, ái và chấp thủ cho nên Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi hướng dẫn con người tu tập với mục đích giải thoát, giác ngộ. Đây cũng là điểm xác định sự khác biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là cốt lơi của nhân sinh quan Phật giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả các kinh điển. Nhận thức rơ về giáo lư mười hai nhân duyên sẽ giúp cho chúng ta hiểu cặn kẽ hơn về các vấn đề khác như nghiệp, luân hồi tái sinh, nhân quả... đồng thời gợi mở một hướng sống tích cực có ư nghĩa cho mỗi cá nhân trong hiện tại.
Nhân duyên trong Mười Hai Nhân Duyên được Đức Phật xác định theo hai chiều hướng:
01- Chiều Hướng Sinh Khởi:
Căn cứ theo kinh Tương Ưng Bộ II, Đức Phật đă thuyết minh về mười hai nhân duyên như sau:
- Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh sinh, có lăo tử, sầu, bi, khổ, ưu, năo sinh, hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi.
02- Chiều Hướng Duyên Diệt:
Do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt ... do sinh diệt nên lăo tử, sầu bi, khổ, ưu, năo diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt.
Từ nơi hai chiều hướng nầy cho chúng ta một dạng thức tổng quát về Mười Hai Nhân Duyên đó là:
- Do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt.
Như có lần chúng tôi đă tŕnh bày, triết lư Duyên khởi, là một giáo lư nói về con người và nói cho đối tượng nghe là con người, cho nên khi mười hai nhân duyên được thành lập, có nghĩa là năm uẩn cũng bắt đầu có, và đây là chiều hướng duyên sinh, nhưng cũng là chiều hướng của khổ đau, của luân hồi sanh tử. Khi một trong mười hai mắc xích này bị phá vỡ th́ cấu trúc năm uẩn cũng tan ră, và đây là chiều hướng duyên diệt, là con đường của an lạc, giải thoát. Năm uẩn chính là cấu trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người tự nó nói lên mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều sinh khởi. Dạng thức này là cách tŕnh bày khái quát, tóm tắt và đơn giản nhất do chính Đức Phật nói. Nó được xem như là một nguyên lư cho mọi hiện hữu trong thế giới hiện tượng.
Thông qua ư nghĩa của các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi phần lục nhập, một lần nữa khẳng định rằng, dạng thức duyên khởi này là giáo lư nói về con người, bởi v́ chỉ ở con người mới có đầy đủ sáu cơ quan tri giác. Do vậy, khi nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên, cũng chính là nói về sự vận hành con người. Tuy nhiên v́ không nhận biết sự hiện hữu của con người trên thế giới là do nhân duyên ḥa hợp mà sinh khởi, luôn biến dịch và không có một tự thể thường hằng, nên con người luôn luôn có ảo tưởng về một tự ngă, rằng là:
- Đây là cái tôi và đây là cái của tôi.
Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy động tâm thức, làm sinh khởi ḷng tham ái, chấp thủ... Và đó cũng là động cơ chính cho các hành động của thân, lời và ư sanh khởi. Mỗi khi ư niệm về một tự ngă sinh khởi th́ Thức có mặt. Sự hiện hữu của Thức tất yếu đ̣i hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức đó là Danh sắc, Lục Nhập. Khi căn, trần và thức gặp gỡ nhau, th́ Xúc sinh khởi. Cảm thọ có mặt ngay khi căn, trần và thức giao thoa nhau; cảm thọ sẽ tuôn chảy như một ḍng thác mà không một năng lượng nào có thể ngăn cản được, v́ bản chất của cảm thọ là như vậy. Thọ bao gồm những phản ứng tâm lư trước đối tượng như là buồn, vui, yêu, ghét, trung tính... Nếu cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái. Trong Ái đă bao hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều h́nh thức tương ứng với các cảnh giới của tâm thức đó chính là sự có mặt của hữu. Hữu tạo ra Sinh, và mỗi khi đă có Sinh, th́ tiến t́nh suy yếu, tan ră, mất đi sẽ vận hành như một hậu quả đương nhiên. Nghĩa là lăo tử, sầu, bi, khổ, ưu, năo; hay khổ đau có mặt. Đó là sự vận hành của mười hai nhân duyên theo chiều sinh khởi. Chiều vận hành này có động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác đi, đây là con đường của khổ đau, luân hồi được dẫn dắt và chi phối bởi vô minh.
Theo cách tŕnh bày trên, mới nh́n qua chúng ta thấy vô minh được xem như là căn nguyên, nguồn cội, cốt lơi của mười hai nhân duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm vô minh là nguyên nhân đầu tiên của chuổi liên kết đó. Bởi v́, vô minh cũng do nhân duyên sinh, là duyên khởi. Khi có nhân duyên th́ vô minh cũng sẽ chuyển hóa thành trí tuệ; đây là ư nghĩa vô minh diệt, minh sinh. Do đó, để cho trung thực, chúng ta nên trở lại nh́n vào sự sinh họat của đời sống, nơi đó chúng ta sẽ có nhận định rơ ràng hơn. Nơi đó chúng ta thấy con người từ vô thủy chúng ta bị trói buộc, dính mắc trong ṿng lẩn quẩn của Mười Hai Nhân Duyên. Nếu chúng ta cứ để nó trôi chảy theo ḍng diễn tiến tự nhiên mà không có sự cố gắng để khắc phục và vượt thoát ra khỏi, th́ dưới sự chi phối của tham ái, sân hận và si mê cố hữu của con người, nó sẽ lôi cuốn chúng ta măi triền miên vô cùng tận. Do đó chúng ta phải tiêu diệt cái nhân và chấm dứt ṿng luân hồi. Câu hỏi được nêu lên là: Phải thoát ra ở giai đoạn nào ở mười hai ṿng khoen?
Như chúng ta đă biết:
- Hai ṿng khoen đầu là Vô Minh và Hành, nằm trong thời quá khứ, mà quá khứ đă qua, và nghiệp cũng đă được tạo, chúng ta không thể đi ngược ḍng thời gian để sửa sai. Vậy, không thể làm ǵ.
- Hai ṿng khoen cuối cùng là Sanh và Lăo Tử, thuộc về tương lai. Tương lai th́ chưa đến, v́ vậy chúng ta cũng không thể đi trước thời gian để sắp xếp mọi sự, mọi vật.
- Tám ṿng khoen c̣n lại nằm trong thời hiện tại. Năm trong tám ṿng ấy: Thức, Danh sắc, Lục Căn, Xúc, Thọ là quả, được sanh trong hiện tại do nghiệp đă tạo ở quá khứ, là kết quả của Vô Minh và Hành. Nhân đă gieo trong quá khứ, chắc chắn quả dĩ nhiên phải có, do đó chúng ta cũng không thể sửa đổi. Cũng không thể làm ǵ.
- C̣n lại ba chi là Ái, Thủ, Hữu.
Đây là phản ứng của chúng ta đối với những kết quả ấy. Phản ứng này rất quan trọng v́ sẽ làm nhân tạo quả trong tương lai. Đó là yếu tố then chốt dẫn chúng ta đi trên con đường đau khổ tuyệt vọng. Nơi đây chúng ta có thể bị lôi cuốn măi măi trong ṿng luân hồi, mà cũng tại nơi đây chúng ta có thể mở con đường vượt thoát ra khỏi ṿng luân hồi.
Chúng ta biết rằng, nếu trong khi thọ, chúng ta sanh tâm luyến ái, ưa thích hay ghét bỏ cũng được coi là có luyến ái, bám chặt vào đó, có bám chặc vào đó th́ đó là trạng thái chấp thủ, do chấp thủ nên chúng ta bị tiếp nối trong ṿng quanh quẩn. Ngược lại, nếu chúng ta hiểu biết bản chất thật sự của thọ là vô thường, khổ, vô ngă th́ chúng ta sẽ không chấp thủ mà c̣n buông bỏ. Khi chúng ta buông bỏ tức nhiên không có ái. Không có ái tức không có thủ. Không có thủ th́ không có hữu và như vậy chúng ta đă đập nát cái nhân, và chấm dứt luân hồi. Nếu nhận định ở trên đúng th́ chúng ta t́m thử coi Ái là cái ǵ mà có khả năng làm cho chúng ta cứ măi măi kẹt trong những cây căm của ṿng bánh xe luân hồi ghê gớm như vây.
- Ái dục bao gồm tất cả những h́nh thức thèm khát, tham ái, khát vọng, ước mong, dục vong, ham muốn, nóng ḷng, bám níu, luyến ái. Ái dục luôn luôn bao hàm một ư niệm ích kỷ. Con người thường ưa chấp giả làm thiệt, khư khư bám vào năm uẩn vô thường mà cho đó là Ta, một cái Ta trường tồn không biến đổi, rồi ham muốn, khát khao.. v.v... lấy cái ta làm trung tâm của mọi sự vật, và cố đem vào càng nhiều càng tốt, và bám lấy càng chặt càng hay. V́ lẽ đó khi chuyển ngữ chữ Ái Dục thành ra nghĩa ham muốn, ước mong, ..v.v...th́ chúng ta nên hiểu rằng ái dục chỉ nằm trong phần xấu của những danh từ này mà thôi.
Thí dụ: Như ham muốn.
Chúng ta cũng có thể ham muốn những điều xấu xa mà cũng có thể ham muốn những việc tốt đẹp. Ham muốn những điều tốt đẹp là điều đáng ngợi khen và khuyến khích, như muốn phục vụ, muốn bố thí, muốn có đời sống đạo đức .. v...v... Tuy nhiên, nói cho cùng dầu có muốn như thế nào đi nữa, th́ chữ Ái Dục ở đây cũng chỉ diễn đạt phần ích kỷ, xấu xa của sự ham muốn, sự khát khao, ḷng ước muốn cho chính ḿnh, sự luyến ái, sự bám níu giữ cho cái Ta mà thôi. Y cứ theo năm dục trần, th́ có hai loại ái dục:
1- Ái dục y theo những khoái lạc vật chất, có liên quan đến chủ trương thường kiến. Có nghĩa là trong lúc thọ hưởng dục lạc nghĩ rằng vạn vật là trường tồn vĩnh cửu và chấp chặc cảm giác khoái lạc này sẽ măi măi tồn tại không bao giờ thay đổi.
2- Ái dục y theo những khoái lạc vật chất có liên quan đến chủ trương đoạn kiến. Trong lúc thọ hưởng, nghĩ rằng tất cả đều tiêu diệt sau khi chết. Chết là hết.
Bàn thêm về Ái Dục, người xưa có những nhận định như thế nầy:
- Kẻ thù của toàn thể nhân loại là ái dục, ham muốn, luyến ái, bám níu, khát vọng và xuyên qua đó, tất cả những điều bất hạnh đến với chúng sanh. Đây không phải chỉ ḷng ham muốn hay luyến ái duyên theo nhục dục năm trần: Tiền của, tài sản và tham vọng đánh bại, lấn lướt kẻ khác hay xâm lăng những quốc gia khác, mà cũng là sự cố chấp, khư khư dính mắc trong những lư tưởng, ư niệm, quan kiến và tín ngưỡng thường dẫn đến phỉ báng và hoại diệt và đem lại đau khổ không thể tả đến toàn thể quốc gia, hay trong thực tế, toàn thể thế gian.
Chúng ta hăy nh́n vào mười hai ṿng khoen của Mười Hai Nhân Duyên. Do vô minh và ái dục ngủ ngầm bên trong cho nên nó thúc đẩy chúng ta hành động, tức chúng ta tạo nghiệp, nghiệp có thể thiện hay không thiện. Nghiệp quá khứ đưa đến quả hiện tại là thức, danh sắc, lục căn, xúc, thọ. Đại khái kết quả có năm lọai cảm thọ:
- Thọ vô kư,
- Không vui sướng,
- Hạnh phúc,
- Không đau đớn,
- Ưu phiền
Trong thực tế chúng ta thấy khi tinh thần được hạnh phúc th́ vật chất cũng vui thích; và trái lại, khi thể xác được thích thú th́ tinh thần cũng khoan khoái. Để cho tiện việc sắp xếp, chúng ta có thể gom hai cảm giác vui thích tinh thần và vật chất làm một, gọi chung là sung sướng. Cũng tương tự như vậy, chúng ta gom hai cảm giác đau khổ tinh thần và vật chất, làm một và gọi chung là đau khổ. Đến đây thọ, hay cảm giác có ba:
1- Cảm giác vui thích tinh thần và vật chất.
2- Đau khổ tinh thần và vật chất và
3- Cảm giác vô kư.
Trong ba cảm giác này th́ cảm giác vô kư, tức là không sung sướng, không đau khổ rất yếu ớt, hầu như không có. C̣n lại hai loại thọ: Thọ Lạc và Thọ Khổ.
Do thọ, cho nên ái phát sanh v́ vô minh vẫn luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm. Ái ở đây có thể là ưa thích hay ghét bỏ, v́ ghét chỉ là h́nh thức tiêu cực của ưa thích, là ưa thích ở một mức độ nào. Khi ta nói tôi ghét tiếng ồn có nghĩa là tôi ưa không có tiếng ồn. Do ái phát sanh thủ, do thủ phát sanh hữu và do hữu có sanh, lăo, bệnh, tử, ưu phiền, sầu muộn .. v.. v... Ṿng lẩn quẩn cứ thế trở đi trở lại triền miên, măi măi, từ vô lượng kiếp. Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, khi bắt đầu giảng Tứ Diệu Đế tức là giáo lư chỉ rơ cho chúng sanh thấy được nguyên nhân của đau khổ, và chỉ cho chúng sanh thấy được phương pháp diệt khổ, Đức Phật dạy rằng:
- Sanh là Khổ.
Đức Phật dạy như vậy, không phải thông thường chỉ nghĩ đến cảnh mang nặng đẻ đau của bà mẹ và cảnh bị nhốt nằm trong cái bọc của đứa bé, mà sâu xa hơn, thâm diệu hơn nữa, đức Phật muốn chỉ cho chúng ta có cái nhận thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ, là khởi duyên tạo cho đau khổ bám vào. Nếu không sanh tức không có sống. Không sống tức không có khổ. V́ lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người Phật tử là thoát ra khỏi ṿng sanh tử triền miên tiếp diễn. Nhưng, bản chất của chúng sanh là cố bám vào sự sống. Ái dục trong h́nh thức ham sống, là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong mỗi người. Ái dục là nguyên nhân sanh đau khổ và sanh là cơ hội tạo duyên cho đau khổ phát khởi. Có sanh tức có già, có bệnh .. v.. v... có đau khổ. Ái Dục, sự tự tạo, một thành phần tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Như vậy, ái dục trong quá khứ làm nguyên nhân đưa đẩy chúng ta đến đây. Nếu chúng ta vẫn c̣n lơ đễnh để cho cuộc sống buông lung lôi cuốn, để rồi chúng ta chạy theo ái dục trong hiện tại, th́ lúc đó sẽ là nguyên nhân đưa đẩy chúng ta vào một cuộc sống mới, với những đau khổ mới, những trầm luân mới. Nhưng trong hiện tại, và chỉ trong hiện tại của cuộc đời nầy, chúng ta có thể khắc phục ái dục để thoát ra khỏi những h́nh thức đau khổ của những kiếp sanh tồn này.
Nói đến ái dục là nói đến một tâm t́nh ích kỷ, chính yếu tố ích kỷ trong ái dục, đă gây biết bao nhiêu tai hại cho con người. Ái dục không bao giờ được hoàn toàn thỏa măn. Như chúng ta đă biết, khi có một điều mong muốn được thành tựu, th́ lại có ước vọng mới. Con người luôn luôn chạy theo những thích thú tạm bợ mới, cố rượt theo để bám lấy những ảo ảnh, để chụp cho được cái mà thật sự chỉ là những h́nh bóng ảo huyền, và như thế con người luôn luôn châm nhiên liệu, luôn luôn dưỡng nuôi và bảo tŕ ngọn lửa đau khổ của kiếp sinh tồn. Chính ḷng tham muốn ích kỷ, tâm luyến ái vô độ lượng, vô trật tự và sự bám níu đam mê vào những sự vật trên thế gian đă lôi cuốn và đẩy đưa con người trôi giạt đó đây trong đại dương của đời sống. Đó là tác động của ái dục ở trong con người dưỡng nuôi nó. C̣n nếu tác động của ái dục ở bên ngoài người ôm ấp nó, ở người khác th́ cũng rất nguy hiểm. Quả thật như vậy, do ái dục mà nước này gây chiến với nước kia, cá nhân tranh đấu với cá nhân, tu sĩ bôi bác với tu sĩ, dân chúng tranh giành ảnh hưởng với dân chúng, mẹ gây gỗ với con, con gây với mẹ, cha căi vă với con, con căi cha, anh chị với em, em với anh chị, bạn bè với bạn bè. Ái dục là một thúc đẩy hùng mạnh, một thúc đẩy nguy hiểm, và tai hại. Ái dục là nguyên nhân hầu hết những tệ hại trên đời. Hầu hết những xáo trộn chính trị trong nhiều quốc gia, những vấn đề xă hội và kinh tế rất phiền phức, những hiện tượng nầy chỉ có thể giải thích được bằng vào sự ảnh hưởng nguy hại của ái dục. Như vậy, Ái dục vị kỷ là động cơ chính yếu đưa đến hầu hết những cuộc tranh chấp, và thúc đẩy mọi cố gắng của con ngươi đi vào con đường mê muội. Đôi khi trong ái dục, sự biểu hiện của ḷng vị kỷ có phần lộ liễu, hiển nhiên, đôi khi cũng rất tế nhị. T́nh thương theo nghĩa của thế gian luôn luôn đượm nhuần tính chất ích kỷ. Đó là một thứ t́nh thương thiết tha mong muốn được nhận ra, và đ̣i hỏi được đáp lại. Tóm lại, đó là thứ t́nh thương tự thương ḿnh, là t́nh thương của ḿnh đối với ḿnh. Trong phần lớn các trường hợp, chúng ta thương người kia là để tự thương ḿnh nhiều hơn. Lư do dễ hiểu, bởi v́ chúng ta thiết tha mong muốn tự cho chúng ta cái vui, được thương người, và cái vui được người thương chúng ta trở lại. Như vậy, tiềm tàng dính liền theo t́nh thương người, chúng ta có một ẩn ư tự thỏa măn và t́nh thương kẻ khác chỉ là t́nh thương mà chúng ta trá h́nh.
Ái dục cũng sanh ra sự sầu muộn. Ái dục cũng sanh ra sự lo sợ. Cho nên những ai đă trọn vẹn dập tắt ái dục th́ người ấy không c̣n sầu muộn, không c̣n sầu muộn, th́ chúng ta càng ít lo sợ. Để khuyên dạy một vị Tỳ Khưu mặc dầu thông suốt Giáo Pháp nhưng ḷng c̣n chứa đầy ái dục, và kiêu mạn khinh rẻ các vị khác. Đức Phật dạy:
- Trên thế gian này sầu muộn của người bị khát vọng và đê hèn tràn ngập, sẽ sinh sôi nẩy nở như cỏ cú được tưới nước đầy đủ. Sầu muộn sẽ tách rời người đă khắc phục ái dục bất trị và đê hèn ấy như giọt nước rời lá sen. Điều này, Như Lai dạy các con: May mắn thay cho tất cả các con, những người tụ họp tại đây! Hăy đào xới ái dục tận gốc rễ như người ta đào lấy rễ ngọt của cỏ cú. Chớ để Ma Vương măi măi đè bẹp các con như trận lụt làm rạp đám lát.
Tương tự như vậy, như cái cây mà rễ c̣n vững chắc và không bị động đến mặc dầu bị đốn ngă, nhưng vẫn c̣n đâm chồi nở tược được một cách dễ dàng. Cũng vậy, bao giờ ḷng ái dục tiềm ẩn chưa bị tận diệt, th́ sầu muộn của chúng ta vẫn c̣n phát sanh trở đi trở lại triền miên.
Từ xa xôi trong quá khứ chúng ta bị màn vô minh che lấp, và đám mây mù si mê bao phủ, làm cho tâm chúng ta không thấy được Chân Lư của vạn pháp. V́ thế cứ mỗi khi thấy bóng th́ chúng ta tưởng h́nh, thấy ảo cảnh chúng ta cứ tưởng thực, thấy những giọt nước kế tiếp trôi chảy mà chúng ta gọi đó là con sông, thấy những hột cát chồng chất trải dài lên nhau mà chúng ta cứ cho đó, và xem đó là băi biển. Một thực thể đơn thuần nguyên vẹn, thấy những tế bào, những nguyên tử, những điện tử giả hợp mà chúng ta cho đó là con người, người nam hay người nữ, anh, chị hay tôi, rồi chấp thủ vào cái Tôi đó. Đây là những hiện tượng thường xảy chúng ta không tránh khỏi. Tuy nhiên đối với người Phật tử có tu tập, biết quán chiếu, chúng ta sẽ quán chiếu bản thân ḿnh một cách sâu sắc và rốt ráo, th́ chắc hẳn chúng ta sẽ nhận thức rằng con người của chúng ta là sự cấu hợp của hai thành phần, vật chất và tâm linh, sắc và danh. Phần vật chất, thân hay sắc, không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi mà là một tiến tŕnh luôn luôn tiếp diễn, luôn luôn trở thành một cái ǵ khác. Phần tâm linh bao gồm thọ, tưởng, hành, thức, chuyển biến càng mau lẹ hơn.
Bốn loại hiện tượng tâm linh: Thọ, tưởng, hành, thức, hợp với một hiện tượng vật lư: sắc là sự kết hợp vô cùng phức tạp của năm thành phần: Sắc, Thọ Tưởng, Hành, Thức cấu tạo chúng sanh. Mỗi cá nhân đều do năm uẩn cấu thành. Trong khi những thành phần của năm uẩn ấy luôn luôn biến đổi th́ chúng ta có cách nào tạo sự tổng hợp của năm uẩn, tức con người lại không cho nó biến đổi từng khoảnh khắc. Chúng ta phải biết rằng trong hai khoảnh khắc kế tiếp không thể có một người nguyên vẹn không đổi thay, bởi v́ trong người ấy có thành phần vật chất lẫn thành phần tâm linh đều không ngừng biến đổi. Từ đây chúng ta có thể nói, chỉ trong hai khỏanh khắc không thể nói tuyệt đối là một người, cũng không hẳn là hai người hoàn toàn khác biệt, v́ cả hai đều nằm trong một tiến tŕnh sống, một ḍng sinh tồn. Chỉ có một luồng sống, một diễn tiến của đời sống hay một sự liên tục. Tuy nhiên, sự liên tục đổi thay này đă xảy ra nhanh chóng đến độ chúng ta không thể phân biệt một cách hiển nhiên. Chính hai yếu tố liên tục và nhanh chóng đó đă làm cho chúng ta lầm tưởng có một thực thể đơn thuần không biến đổi. Tương tự như vậy, v́ sự biến đổi liên tục của những thành phần năm uẩn nhanh chóng, cho nên chúng ta có cảm tưởng như có những thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, gọi là người, là anh, là tôi, là chú... v.v... Thực ra toàn thể tiến tŕnh của những hiện tượng tâm vật lư ấy luôn luôn h́nh thành rồi tan ră, sanh rồi diệt. Không thể có cái ǵ bền vững thường c̣n mà chúng ta có thể gọi là Ta hay Của Ta, hay một linh hồn trừơng cửu, một bản ngă vĩnh tồn. Cho nên Đức Phật dạy:
- Như có người kia không phải mù ḷa, đi dài theo sông Hằng, trông thấy bong bóng nước trên mặt sông, nh́n lại kỹ và quan sát tận tường. Sau khi quan sát tận tường người ấy thấy rằng bên trong bong bóng thật trống rỗng, không có thực chất, không có thể chất vững bền. Cũng dường thế ấy vị Tỳ Khưu trông thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong quá khứ, trong hiện tại hay ở vị lai, bên trong hay ở ngoài, thô kệch hay vi tế, cao thượng hay thấp hèn, xa hay gần, và vị Tỳ khưu nh́n lại kỹ càng và quan sát tường tận ngũ uẩn. Sau khi quan sát ngũ uẩn một cách tận tường vị tỳ khưu thấy nó rỗng không, không thực, không có thực chất vững bền...
Quả thật như vậy, Sắc giống như một khối bọt, thọ như bong bóng nước, tưởng như một ảo cảnh, hành mỏng manh như tàu lá chuối, thức như tṛ ảo thuật. Nhưng chúng ta v́ măi bị màn vô minh che lấp, cho nên chúng ta cứ xem đó là Ta, là tự ngă của ta. Chúng ta măi măi ở trong ảo mộng mà cho đó là thực tế. Chúng ta sống với những quy ước và những khái niệm và quả quyết rằng đây là Ta, kia là cha, là mẹ, là anh, chị cô, bác, họ hàng thân thuộc của Ta, nhà cửa của Ta, xe cộ của Ta... v.v... trong khi chính thân này c̣n không phải là của ta th́ con cái nào là của ta, sự nghiệp nào là của ta?
Từ những nguyên lư căn bản trên, muốn chấm dứt khổ đau, luân hồi sanh tử, chúng phải sớm nhận thức và ứng dụng triết lư Nhân Duyên vào cuộc sống để chúng ta có thể chấm dứt khổ đau và sống an vui trong cuộc đời sinh diệt nầy. Quả thật muốn chấm dứt khổ đau th́ phải nhận thức được tiến tŕnh của Lư Duyên Khởi để tận diệt những chuổi liên hệ của nó th́ không khó, tuy nhiên biết th́ như vậy nhưng trung gian vẫn c̣n tùy thuộc vào sự hiểu biết của mỗi người, do vậy nếu đối với:
a- Người Không Thông Giáo Pháp
Đối với một người như chúng ta không có học Giáo Pháp, th́ khi gặp hoàn cảnh đau khổ, cũng kinh nghiệm thọ lạc, kinh nghiệm thọ khổ và kinh nghiệm thọ vô kư, nhưng chắc chắn sẽ đau đớn, nhức nhối, lo âu và phiền muộn. Chúng ta sẽ ta thán, đấm ngực khóc than và thất vọng. Như thế trong trường hợp nầy chúng ta đang thọ khổ ở thân và thọ ưu ở tâm. T́nh trạng xảy ra như vậy tượng tự như chúng ta đă bị một mũi tên rồi lại bị một mũi tên thứ nh́, chúng ta đau khổ cả thân xác lẫn tâm hồn. V́ bị thương đau nhức, cho nên chúng ta phẫn uất, bất măn và có khuynh hướng t́m cách khỏa lấp. Trong sự đau khổ như vậy, rất có thể chúng ta đi t́m lạc thú ở đời. Lư do là chúng ta không học giáo pháp, không biết phải làm thế nào để thoát ra khỏi sự đau khổ của ḿnh, ngoại trừ t́m cách hưởng thụ dục lạc để khỏa lấp. Bên trong con người chúng ta một khi thích thú hưởng thọ dục lạc, th́ chúng ta có khuynh hướng khát khao nhục dục, năm trần ngày càng sâu đậm. V́ chúng ta không biết đúng sự thật bản chất sanh diệt của thọ, không biết hậu quả tai hại của ḷng ham muốn thỏa măn dục vọng, mà cũng không biết làm cách nào để thoát ra. V́ chúng ta kém hiểu biết như thế cho nên khuynh hướng si mê đối với thọ vô kư càng sâu đậm. Khi thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô kư th́ chính chúng ta tự trói buộc, xiết chặt ḿnh vào đời sống, như thế chúng ta bị dính mắc và măi măi lăn trôi trong ṿng sanh, lăo, bệnh, tử, lo âu, sầu muộn, ta thán, khổ đau và tuyệt vọng.
b- Người Thông Hiểu Giáo Pháp
Trong trường hợp tương tự như vậy, nếu chúng ta là một người đệ tử thông suốt giáo pháp, th́ khi gặp ḥan cảnh đau khổ, cũng kinh nghiệm thọ lạc, kinh nghiệm thọ khổ và kinh nghiệm thọ vô kư, cũng bị đau đơn nhức nhối, tuy nhiên chúng ta không lo âu, không phiền muộn và ta thán, không đấm ngực khóc than và thất vọng. Như vậy chúng ta chỉ kinh nghiệm một loại thọ, đau đớn về thể xác, nhưng tâm hồn vẫn b́nh thản. Cũng giống như người bị mũi tên, không bị mũi tên thứ nh́. Bị thương đau nhức như vậy, chúng ta không phẫn uất bất măn, do đó không có khuynh hướng t́m cách kháng cự. Trong sự đau khổ chúng ta không t́m thọ hưởng lạc thú trần gian để khỏa lấp. Lư do đơn giản là v́ chúng ta đă thông suốt giáo pháp cho nên chúng ta hiểu biết làm thế nào để thoát khổ, ngoài phương cách thỏa măn dục vọng. Bên trong chúng ta không t́m thỏa măn dục vọng, không c̣n khuynh hướng đi t́m thích thú trong dục lac. V́ chúng ta thấu đạt chân chánh bản chất sanh diệt của thọ, mối hiểm họa của ḷng ham muốn dục lạc, và cũng hiểu biết con đường thoát ra khỏi những thọ cảm ấy. Bên trong chúng ta hiểu biết như thế, cho nên không c̣n khuynh hướng si mê đối với thọ, và vô kư, cho nên thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô kư chúng ta cũng không bị trói buộc. Khi chúng ta cố rèn luyện cho chính ḿnh đạt đến giai đọan nầy th́ chúng ta đă là người thông suốt giáo pháp, là người không tự trói buộc ḿnh, và không lăn trôi theo ṿng sanh, lăo, bệnh, tử, lo âu, sầu muộn, ta thán, khổ đau và thất vọng.
Một cách chính xác, chính khi thọ cảm giác một đối tượng, khi đối tượng ấy tiếp xúc với sáu căn. Thọ cảm nhận quả lành hay quả dữ của những hành động trong hiện tại hay trong quá khứ. Chính tâm sở tác ư, tức ư nằm bên trong hành động, là người gieo nghiệp và tâm sở thọ là người gặt hái quả. Ngoài hai tâm sở tác ư và thọ không có một linh hồn hay một bản ngă, một cái Ta nào tạo nghiệp hay thọ quả. Do v́ nhận thức những nguy hiểm của Ái Dục cho nên khi chúng ta là người biết ứng dụng triết lư mười hai nhân duyên vào trong cuộc sống, chúng ta biết khi thấy một h́nh sắc, nghe một âm thanh, ngửi một mùi, nếm một vị, sờ chạm một vật, hay nảy sanh một ư nghĩ th́ ngay tức khắc chúng ta có một cảm giác, một loại thọ, là đau khổ hay an lạc ngay tức khắc. Nhưng đối với mọi người, chúng ta không thể nói rằng tất cả mọi chúng sanh đều cảm một loại thọ giống nhau trước một đối tượng giống nhau. Bởi v́ tuy cũng một đối tượng, có thể tạo thọ lạc cho người này, nhưng lại gây thọ khổ cho người kia, và thọ vô kư cho một người khác nữa, v́ khuynh hướng tâm tánh, nghiệp duyên của mỗi người mỗi khác. Tương tự như vậy, một ly rượu mạnh có thể là nguồn khoái lạc cho một người, và là độc dược cho người khác. Xa hơn nữa chúng ta c̣n phải hiểu, cùng một người cùng một đối tượng, nhưng ở hai thời kỳ khác nhau hay trong những hoàn cảnh khác nhau nên cảm thọ cũng có thể khác nhau. & nbsp;
Quả thật như vậy, khi chúng ta chấp những yếu tố của ngũ uẩn luôn luôn biến đổi là Ta. Đó là nguồn gốc của tất cả những phiền phúc, những lo âu, những quấy nhiễu, những điều bất hạnh, những hoàn cảnh khổ đau. Lư do là khi cái được gọi là Ta bám víu, th́ tùy thuộc theo người hay vật mà nó ưa thích, lẽ tất nhiên có thân yêu, luyến ái hay tŕu mến. Một khi đă có những trạng thái thân yêu... tŕu mến... luyến ái... tham dục... ái dục... th́ sẽ sanh sầu muộn, sanh lo sợ.. Do vậy, khi chúng ta đă trọn vẹn dập tắt thân yêu... tŕu mến ... v.. v... th́ không c̣n sầu muộn, th́ càng ít lo sợ. Do đó có thể nói phiền năo không bao giờ đến với người không luyến ái, với những người không tham đắm danh sắc và không c̣n dục vọng.
Muốn cho việc Ứng Dụng Giáo Lư Mười Hai Nhân Duyên vào cuộc sống được thành công mỹ măn, chúng ta phải triệt để khai triển trí tuệ thiền quán để thấu triệt thực tướng của vạn pháp. Lúc nào mà chúng ta thấu triệt được thực tướng của vạn pháp, th́ ngay lúc đó chúng ta sẽ có quan điểm chân chánh về kiếp sinh tồn. Như chúng ta đă nhận thức rằng tất cả sự vật trên thế gian nầy đều là phù du, huyền ảo và tạm bợ nhất thời, mọi sự, mọi vật tựa hồ như giọt sương buổi sáng lóng lánh trên lá cây, ngọn cỏ, rồi sớm tan biến khi những tia nắng b́nh minh bắt đầu rọi xuống. Như bong bóng nước, như lằn gạch trên mặt nước, như cái chớp trong đêm tối, như một khối bọt, như ảo ảnh, như giấc mơ... Như vậy khi chúng ta đă có đức tin nơi giáo pháp và đă thâu thập một vài kiến thức căn bản về danh, sắc, vô thường, khổ và vô ngă, th́ chúng ta hăy cố gắng hành thiền quán. Đây là phương pháp nhằm ghi nhận danh và sắc, luôn luôn trong trạng thái chảy trôi như một ḍng suối chảy dài không dừng nghỉ nơi sáu căn. Ghi nhận những ǵ mắt thấy, ghi nhận những ǵ tai nghe, ghi nhận những ǵ mũi ngửi, ghi nhận những ǵ lưỡi nếm, ghi nhận những ǵ thân xúc chạm, ghi nhận những ǵ tâm suy tư, chừng đó chúng ta sẽ có được những nhận thức tất cả về những ǵ cần phải được nhận thức, tương xứng với tŕnh độ mà chúng ta đạt đến.
Khi chuyên cần chú niệm như vậy, định lực của chúng ta trở nên mạnh mẽ và vững chắc, tâm chúng ta trở nên trong sạch. Chừng đó chúng ta có thể phân biệt rơ ràng danh, hay cái tâm hay biết, và sắc, cơ thể vật chất, chính là cái được hay biết. Chúng ta sẽ nhận chân rằng không có cái ǵ là bản ngă, hay cái Ta. Sự ghi nhận thường xuyên lặp đi lặp lại như vậy sẽ dẫn chúng ta đến trạng thái thông suốt nhân và quả trong danh sắc. Cuối cùng mọi ư niệm về bản ngă trường tồn sẽ tan biến một cách rơ rệt. Trước khi thực hành thiền quán rất có thể chúng ta c̣n nghi ngờ không biết cái Ta đă có hiện hữu trong quá khứ, nó vẫn c̣n hiện hữu trong hiện tại, và sẽ c̣n hiện hữu trong tương lai không. Tuy nhiên sau khi thực hành, tất cả mọi nghi ngờ đều chấm dứt v́ chúng ta đă thấu triệt tận tường bản chất thật sự của mọi hiện tượng. Đến đây nếu chúng ta tiếp tục ghi nhận thêm, chúng ta sẽ thấy rằng trần cảnh: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp cùng với những thức liên hệ như: Nhăn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức, và ư thức cũng đều tan biến. Tất cả đều vô thường. Tất cả đều tự phát sanh và tự nhiên hoại diệt. Những ǵ vô thường th́ chắc chắn không thể làm thỏa măn một cách trọn vẹn. Không có chi thật sự có thể chất vững bền, th́ có cái chi để bám níu vào mà gọi nó là Ta hay Của Ta. Tất cả mọi liên hệ đều ở trong trạng thái di động, chuyển biến, chảy trôi, vừa sanh đă diệt. Quán xét rốt ráo như vậy chúng ta có thể tin chắc và loại bỏ ư niệm một bản ngă trường tồn trong con người thật sự của chúng ta. Khi chúng ta có thể xác quyết và loại bỏ ư niệm một bản ngă trường tồn trong con người thật sự của chúng ta, th́ lúc bấy giờ chúng ta đă vượt ra khỏi cái Ta. Cái gọi là Tự Ngă của chúng ta đó đă chan ḥa và đồng nhất với tất cả, lúc đó chúng ta có ḷng vị tha không cầu lợi, có t́nh huynh đệ tương thân tương ái với tất cả chúng sanh, có tâm từ vô lượng vô biên, có ḷng bi mẫn dồi dào, và có sự thuận ḥa điều hợp với tất cả. Ánh sáng trí tuệ dần dần đánh tan đêm tối của vô minh, tận diệt si mê, tham ái và sân hận. Chúng ta đă thoát ra khỏi mọi h́nh thức của ái dục và tiến gần đến giải thoát toàn vẹn ra khỏi luân hồi, khỏi mọi đau khổ, đúng như lời Phật day:
- Như ta nh́n bọt nước, như ta nh́n ảo ảnh, nếu người kia nh́n thế gian như vậy tử thần không c̣n thấy người ấy nữa.
Như vậy, thời điểm để chúng ta thoát ra khỏi ṿng quanh đau khổ là khoảng giữa hai ṿng khoen Ái và Thọ, tức phản ứng của chúng ta đối với thọ bằng cách chúng ta ghi nhận và thực hành theo Tám Chánh Đạo
Nói tóm lại, Mười Hai Nhân Duyên, hay giáo lư duyên khởi nói chung, là một giáo lư vô cùng tinh tế và khó hiểu, bởi con người vốn đă quen với nếp tư duy hữu ngă từ vô thỉ. Muốn có một nhận thức đúng về giáo lư này đ̣i hỏi chúng ta phải có sự quán sát và tư duy thường xuyên về nó. Suy tư và thực tập giáo lư mười hai nhân duyên, ứng dụng vào cuộc sống theo chiều duyên diệt, chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến cho chúng ta một cuộc sống độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện tại.
Mười Hai Nhân Duyên, hay duyên khởi, không phải là một giáo lư dùng để đối trị chấp ngă hay nhằm giải thích thế giới, mà đây là sự thật và là một pháp tu tập v́ giải thoát thiết thực cho con người. Do vậy, giáo lư này là căn bản của chánh kiến thứ nhất trong Bát chánh đạo. Nói khác đi, chánh kiến là cái nh́n toàn diện, như thật về các pháp là do duyên sinh. Có chánh kiến chúng ta mới thấy chúng ta hay cuộc sống là hiện hữu của các mối tương quan đa phương giữa con người với con người, giữa con người với môi trường xă hội, môi trường tự nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng một xă hội tốt đẹp, và ngược lại. Theo chiều hướng nầy, mỗi người phải có trách nhiệm với cộng đồng, bởi v́ xây dựng cộng đồng chính là đang bảo vệ cá nhân ḿnh. Cho nên chúng ta không nghi ngờ khi nghe nói đối tượng nghe giáo lư mười hai nhân duyên là con người. V́ biết chúng ta nặng về tâm luyến ái và chấp thủ, cho nên Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh đến các chi phần này, đặc biệt là trong chiều hướng, con đường đoạn diệt, giải thoát. Khi ái hay bất luận một chi phần nào sinh khởi, lập tức cấu trúc Mười Hai Nhân Duyên h́nh thành, và ngược lại, khi chi phần ái hay thủ hoặc một chi phần bất kỳ đoạn diệt, lập tức chuổi mắc xích 12 nhân duyên tan ră.
Như vậy, con người và cuộc đời là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên không hề có một tự ngă độc lập và thường hằng. Con người chính là chủ nhân của cuộc đời ḿnh, bởi v́ giáo lư mười hai nhân duyên cho thấy sự thật:
- Không thể t́m ra một đấng sáng tạo, một Brahman, hay một vị nào thánh thần khác làm chủ ṿng luân chuyển của đời sống. Chỉ có những hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc vào những điều kiện đồng thời sanh khởi hay hủy diệt. Con người và cuộc đời là vô ngă, không có một tự tính thường hằng, nên bên trong mỗi người luôn tiềm ẩn một khả năng giác ngộ, và cuộc đời luôn có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp hơn.
__________________ Đừng bao giờ hỏi tại sao
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
Learner Hội viên

Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 6 of 6: Đă gửi: 23 April 2006 lúc 10:41pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tieudongtu post:
________________________________________________
"Nói về Vô Thường, đức Phật đă dạy:
- Tất cả những ǵ trong thế gian đă là biến đổi, hư hoại, đều vô Thường.
Vậy Vô Thường nghĩa là không thường, không măi măi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay h́nh đổi dạng đi từ trạng thái h́nh thành đến biến đi rồi tan ră... Đạo Phật gọi những giai đoạn thay đổi của một vật là: Thành, Trụ, Hoại, Không. Như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là thành, khi nhô lên cao th́ gọi là trụ, khi hạ dần xuống th́ gọi là là hoại, khi tan ră th́ gọi là không. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều phải tuân theo bốn giai đoạn ấy cả nên gọi là Vô Thường.
______________________________________________
Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt và nghi thức hoả táng kết thúc. Các vua tranh giành nhau Xá lợi của Đức Phật c̣n các Cao đồ của Ngài th́ lo giữ ǵn Chánh Pháp, lo sợ những lời châu báu của Đức Phật sẽ bị thay đổi theo thời gian.
Người Phật tử theo đúng chánh Pháp th́ nên theo hướng làm của Ai ?
Xây dựng h́nh ảnh Phật trong tâm, luôn hành tŕ Pháp hay để tâm hướng ra ngoài, giống các tín đồ của các tôn giáo khác.
Nhiều khi tượng Phật ngồi thiền vài đô la cũng có giá trị liên thành nếu biết sử dụng ĐÚNG.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|