Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 176 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: SUY NGHĨ VỀ SỰ LỄ LẠY Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
saohom
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 32
Msg 1 of 6: Đă gửi: 16 February 2006 lúc 8:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn saohom

SUY NGHĨ VỀ SỰ LỄ LẠY



Nói đến sự lễ lạy, người Phật tử chúng ta chắc hẳn không ai cảm thấy mới mẻ và xa lạ ǵ với sinh hoạt tâm linh hằng ngày đó nữa. Sinh hoạt đó đă trở nên quen thuộc với những người tin Phật, thậm chí đă trở thành một nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống. Ta tin Phật, ta cảm mến ân đức vô lượng của ngài đối với chúng ta, cảm mến trí tuệ tuyệt vời và công đức vô biên của ngài, mà hằng ngày gần gũi tôn tượng của ngài để lễ lạy và xưng tán, để tụng đọc kinh văn, làm cho những lời dạy có giá trị vượt thoát thời gian của đức Thế tôn thấm sâu vào từng tế bào của cơ thể làm nên sự sống tươi đẹp và b́nh an ngay trong đời sống này.
Tuy nhiên bên cạnh những cái hay cái đẹp của sự thực tập lễ lạy vẫn có những sự lễ bái mang h́nh thức phù phiếm và ba hoa, mang nội dung cầu cạnh và tiêu cực. Đó là lư do tại sao chúng ta cần t́m hiểu về sự lễ lạy để xác định cho được tính tích cực của nó và để cho sự thực tập của chúng ta ngày thêm nhiều lợi ích.

BẢY CÁCH LẠY.

Trong luật Sa-di có nói đến bảy cách lạy mà chúng ta không thể không biết (Giáo liệt thất chủng lễ bất khả bất tri):

1. NGĂ MẠN LỄ, là sự lễ lạy mà vẫn c̣n ôm một cái ngă không chịu quán chiếu để chuyển hoá. Chúng ta thường nghĩ về chữ ‘ngă mạn’ với hàm ư là không khiêm nhường, hống hách, trịch thượng, cho ḿnh hơn người. Danh từ này thực ra có những ư nghĩa khác xuất phát từ tiếng Phạn là Māna (kiêu mạn), có bảy loại:

Thứ nhất là Mạn (Māna), có trội hơn người khác về một số mặt và có ư tưởng là ḿnh hơn người và sinh ra tự hào, tự đắc.

Thứ hai là Quá mạn (anti-māna). Quá mạn có nghĩa là đối với những người tương đương với ḿnh mà ḿnh lại cho là ḿnh hơn người.

Thứ ba là Mạn quá mạn (mānati-māna), đối với những người có đức độ hơn ḿnh mà ḿnh lại cho là ḿnh hơn người đó.

Thứ tư là Ngă mạn (ātma-māna). Đây là mạn gốc, bởi v́ nó làm phát sinh ra những nhận thức sai lầm khác. Chúng ta nhận lầm những yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức là một cái ngă biệt lập với các yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức khác. Chúng ta bị kẹt vào ư niệm về ngă, ngă sở.

Thứ năm là Tăng thượng mạn (adhimāna). Khi chưa chứng ngộ mà cho ḿnh đă chứng ngộ pháp thượng nhân. Như chưa chứng đắc quả vị A la hán mà nói đă chứng được quả vị A la hán. Đây là giới thứ tư của tỷ khưu giới.

Thứ sáu là Ti mạn (ūna-māna). Đối với quả vị Phật, các vị Bồ tát đại nhân, những người có nhân cách quá lớn lao vĩ đại mà có mặc cảm rằng ḿnh không bao giờ đuợc như thế. Mặc cảm này là đối tượng giáo hoá của các kinh đại thừa với tư tưởng “nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”.

Thứ bảy là Tà mạn (mithyā-māna), không có đức độ, không hiểu biết, không giải thoát, không có từ bi, không có khiêm nhường… Mà đôi khi chỉ với danh xưng được người ta gọi, ḿnh có ảo tưởng là ḿnh có những đức tính đó thực.

Lễ Phật, lễ các vị Bồ tát, Thánh nhân mỗi ngày là để nh́n nhận và chuyển hoá những cái mạn như thế. Nếu không, cái lạy chẳng có ư nghĩa nào cả.

2. CẦU DANH LỄ, là cái lễ mang nặng h́nh thức nghi lễ phô trương, cái lễ chỉ có ư nghĩa cầu cạnh, cuối cùng cũng chỉ để tô bồi thêm cho bản ngă của ḿnh mà thôi.

3. THÂN TÂM CUNG KÍNH LỄ, là lễ lạy với tất cả sự chí thành khẩn thiết của thân tâm. Cung là sự kính trọng được thể hiện ra bên ngoài thân tướng, kính là sự kính trọng từ trong sâu thẳm của tâm tư. Năm vóc sát đất, thân và tâm an trú trong giờ phút hiện tại của sự lễ bái. Trong giờ phút đó hành giả ư thức rất rơ ḿnh đang thực hành lễ lạy và đồng thời hiểu rơ đối tượng của sự lễ lạy với tất cả những công hạnh, trí tuệ, từ bi của từng vị. Như khi kính lễ đức Phật Thích ca mâu ni, hành giả phải hiểu rơ cuộc đời của đức Phật với những công hạnh cao cả, ḷng thương yêu chúng sanh vô lượng, sự khao khát chân lư tuyệt đối, thái độ dứt khoát ra đi, từ bỏ đời sống vương giả, sự nỗ lực tu tập, sự nghiệp giáo hoá chúng sanh,… Hay khi xướng danh hiệu đức Quan Thế Âm Bồ tát là phải thấy được hạnh lắng nghe dung thông, đức từ bi cứu khổ của ngài. Rồi danh hiệu của đức Văn thù với hạnh nh́n sâu bằng con mắt tuệ giác. Danh hiệu của đức Phổ hiền với hạnh nguyện bao la. Đức Địa tạng với hạnh nguyện đi vào những chốn tối tăm tuyệt vọng để hành đạo. Đức Di lặc với hạnh hỷ xả bao dung vv… Với sự hiểu biết như vậy, hành giả sẽ dễ dàng phát sinh niềm tin, ḷng tôn kính và ḷng khao khát muốn học theo hạnh nguyện của các ngài trên con đường tu đạo, phụng sự chúng sanh.

Bởi v́ khi niệm tưởng tới công hạnh của các vị, th́ chính cái năng lượng của niệm cộng với năng lượng hộ tŕ của chư Phật, chư vị Bồ tát, thánh hiền, thiện thần đă tưới tẩm và làm nảy sinh hạt giống vị tha trong tâm thức của ḿnh. Tâm nguyện vị tha phát sinh và được nuôi dưỡng, th́ tâm niệm vị kỷ hẹp ḥi, chấp ngă tất sẽ nhẹ bớt.

Với sự cung kính này khi trong tư thế phủ phục trước tôn tuợng, ta có thể thực tập tâm từ bi bằng cách khởi tâm niệm “mong sao con có thể yêu thương được mọi người, mong sao con có thể tha thứ cho lỗi lầm của mọi người, mong sao con có thể thấy được con với mọi người là một”… Như vậy cái lễ này đích thực là pháp thực tập để phát khởi và nuôi dưỡng bồ đề tâm.

4. PHÁT TRÍ THANH TỊNH LỄ. Tâm hành giả đă bắt đầu lắng bớt những ư niệm xôn xao về bản ngă vị kỷ. Những ư niệm ngông cuồng tự cao, tự đại, ảo tưởng về cái tôi của ḿnh đă ít nhiều dừng lại. Tâm tư bấy giờ tĩnh lặng hơn và hành giả bắt đầu thấy được những điều mà lâu nay ḿnh chưa thấy. Thấy được những lỗi lầm của ḿnh dễ dàng hơn. Cái thấy ấy là trí tuệ. Trí tuệ chỉ phát sinh khi tâm được định tĩnh (nhân định phát tuệ). Người có trí là người nh́n thấy được những lỗi lầm của ḿnh. Đây là lúc hành giả đối diện với cái ‘tôi’ của ḿnh.

5. THÔNG NHẬP PHÁP GIỚI LỄ. Khi tâm đă thanh tịnh, trí đă phát sinh, cái nh́n về bản ngă đă có sự thay đổi ngày một gần thêm với sự thật vô ngă, hành giả đi vào quán chiếu tính vô ngă của vạn pháp để hoà nhập và cảm thông với các pháp. Đi vào và hoà làm một với các pháp. Với sự chí thành, với dụng tâm như vậy, một lạy sẽ cảm thấu tới chư Phật, mà như trong Kinh Lương Hoàng sám nói đây là lúc sinh phước và diệt tội.

6. CHÁNH QUÁN TU THÀNH LỄ. Là sự quán chiếu chân chánh để thấu đạt tính nhị đế dung thông, thấu triệt ngă không, pháp không, thấy được tính chân như của vạn vật.

7. THẬT TƯỚNG B̀NH ĐẲNG LỄ. Thật tướng là tướng chân thật của các pháp. Đây là cái lạy siêu việt mọi ư niệm, cái lạy mà không c̣n có người lễ lạy và người được lễ lạy. Tất cả đều b́nh đẳng trong thể tánh chân không. Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư ngh́.

Chúng ta đă khảo sát qua bảy cách lạy mà trong luật đề cập tới. Hai cách lạy đầu mang ư nghĩa tiêu cực và năm cách lạy sau mang ư nghĩa tích cực. Tuy có sự hiện diện của hai mặt phản diện ấy, nhưng nó vẫn có tính tương tức tương nhập. Nêu ra hai mặt như vậy để chúng ta dễ dàng nhận ra đâu là đúng, đâu là sai và cũng để chúng ta có cơ hội nh́n sâu hơn sự thật về bản ngă của chính ḿnh. Nếu chúng ta nh́n dưới cái nh́n của Tứ Đế, chúng ta thấy hai cách lạy đầu là Khổ Đế và Tập Đế và năm cách lạy sau là Diệt Đế và Đạo Đế. Khi nêu ra một sự thực tập nào đều có sự thực tập nhận diện và chuyển hoá.

Với nhận thức về đức độ cao cả của chư Phật, chư vị Bồ tát, tà mạn của hành giả sẽ được đoạn trừ. Nếu biết Đại đức là người có đức lớn th́ ta phải tu tập tinh tiến để xứng đáng với danh xưng ấy. Đức ở đây là pháp thân giải thoát, và Niết bàn, là tấm ḷng bao dung rộng lượng. Như vậy ảo tưởng về danh xưng của ḿnh sẽ tan biến, tà mạn sẽ được đoạn trừ. Nếu thấy được bản ngă của ḿnh là không có thực, ḿnh với người chỉ là một th́ không c̣n có ư niệm phân biệt và so đo nữa. Do vậy những Mạn, Quá mạn, Mạn quá mạn cũng đồng thời tan biến hết. Nếu thấy được thật tướng b́nh đẳng giữa Phật, chúng sanh, giữa người lạy và người được lạy, th́ không có Ti mạn.

Sự lễ lạy như vậy là để nâng cao phẩm chất của ḿnh chứ không phải làm hạ phẩm giá của con người như một số người lầm tuởng. Một nhân cách siêu việt, cao tột như đức Phật tưởng không ai đạt đến được mà đức Phật bảo tất cả chúng sanh đều có thể đạt đến. Có vị giáo chủ của tôn giáo nào nói như vậy chưa? Có vị giáo chủ nào coi giá trị của môn đệ ḿnh có thể ngang bằng với ḿnh như thế chưa? Đó là thông điệp tuyệt đối mà đức Phật đă để lại cho mọi loài chúng sanh.

Trong Thiền môn nhật tụng năm 2000 có pháp môn thực tập ba cái lạy. Đây là một cách thực tập sâu sắc ư nghĩa đích thực của sự lễ lạy. Nó giúp chúng ta quán triệt các ư nghĩa của những cách lạy trên, giúp chúng ta quán chiếu tính vô tướng của vạn pháp. Giúp chúng ta vượt thoát những ư niệm về Ngă, về Nhân, về chúng sanh và về thọ giả.
Lễ lạy là pháp môn hành tŕ hằng ngày của chúng ta. Lạy Phật sẽ tạo ra nhiều phước đức, giúp ta có nghị lực để vượt qua những chướng duyên trên con đường tu đạo. Lạy Phật cho tâm hồn lắng, lạy Phật để gột rửa thân tâm. Lạy Phật để nối kết liên hệ giữa ta với đức Phật, với các vị Bồ tát, với bồ đề tâm của ḿnh và nuôi dưỡng những hạt giống lành mạnh trong tâm thức. Cho nên, trong truyền thống thiền học Việt Nam, lễ lạy là một phần quan trọng của công phu tu tập. Muốn đi vào thiền định thâm sâu, trước hết phải hành pháp sám hối lễ lạy mà chúng ta thường gọi là dọn rửa thân tâm. Tiêu biểu cho sự thực tập này là thiền sư Trần Thái Tông với Lục thời sám hối khoa nghi. Mỗi ngày sáu thời lễ bái, sám hối. Ngài tự đặt cho ḿnh một thời khoá nghiêm mật như vậy để hành tŕ. Và không chỉ thiền tông, các tông phái khác cũng rất chú trọng đến việc lễ lạy và sám hối.

Những công việc lặt vặt thuộc về tay chân được coi là rất quan trọng trong thiền môn để giúp chấm dứt sự đờ đẫn của tâm trí, điều mà rất dễ phát sinh bởi sự thực tập thiền toạ. Những việc gánh nước, bửa cũi, làm vườn, quét dọn... làm cho thiền trở nên sống động và uyển chuyển. Khi làm những công việc ấy, thiền sinh vẫn duy tŕ năng lượng chánh niệm để thu nhiếp thân tâm và tạo nên t́nh huynh đệ luôn hiện hữu trong họ. Cho dù những việc ấy có nhọc nhằn và dơ bẩn (như việc lau chùi nhà cầu chẳng hạn) đến đâu, họ cũng không hề tránh né. Và v́ vậy “xét về mặt đạo đức, những công việc có liên quan đến sự tiêu hao thể lực đều xác chứng cho những ư tưởng lành mạnh. Đặc biệt trong thiền tông, điều này là sự thật. Những ư tưởng nào không phản ánh đúng một cách mạnh mẽ và có hiệu quả trong đời sống thực tế, đều được coi là vô giá trị. Niềm tin phải được thông qua kinh nghiệm chứ không phải qua những khái niệm. Sự xác chứng tâm linh phải vượt lên và cao hơn những suy đoán thuộc về tri thức; điều đó có nghĩa là, chân lư phải được đặt trên đời sống kinh nghiệm của mỗi người.” (D.T.Suzuki)

Sự lễ lạy cũng có ư nghĩa như vậy trong đời sống thực tập. Sự cúi xuống, duỗi lên là những hoạt động thể chất làm cho máu huyết lưu thông, đánh tan sự đờ đẫn tâm trí. Đồng thời trong không khí trang nghiêm, kính cẩn của điện Phật, năng lượng chánh niệm rất dễ dàng được duy tŕ và giúp tạo nên sự liên hệ giữa hành giả với Thầy, với bạn, khiến dễ dàng có sự cảm thông. Đó cũng là sự thực tập làm mới.
Trong nhân quả của sự tôn kính, ‘kính thầy th́ được làm thầy’; xưng tán công đức của chư Phật, chư vị Bồ tát với tâm chân thành, với nguyện vị tha, th́ chắc chắn từ từ ta sẽ đạt đến những đức ấy của các vị. Cho nên những bài kệ xưng tán Phật, Pháp, Tăng là rất quan trọng trong việc lễ lạy. Ngoài những bài kệ xưng tán có sẵn cũng không hạn chế sáng tạo thêm những bài kệ mới để nói lên sự tôn kính tự thâm tâm của ḿnh.

Lễ lạy như vậy không phải là sự mê tín và không làm cho con người mất nhân cách, mà là một sự thực tập mầu nhiệm làm tăng trưởng tính thánh thiện và hoàn thiện một nhân cách vĩ đại trong tự thân (Phật tánh). Lạy xuống một lạy là có thể làm cho tan biến cái bản ngă và có thể hoà nhập với mọi người, mọi loài và hoà nhập với chư Phật, Bồ tát trong mười phương và ba đời:

Cúi đầu kính lạy
Phật Pháp và Tăng
Trong khắp mười phương
Và ở trong con
Cùng khắp pháp giới
Thấu suốt ba đời
Con xin phủ phục
Quay về nương tựa.

Tất cả mọi sự thực tập đều rất dễ rơi vào h́nh thức và trống rỗng về nội dung. Nếu không có sự ư thức rơ rệt ư nghĩa và không thấy tầm quan trọng của sự lễ bái, chúng ta sẽ bị rơi vào ‘ngă mạn lễ’ và ‘cầu danh lễ’ và sự lễ bái chỉ là h́nh thức. Sự thực tập của chúng ta trở nên vô nghĩa nếu không có nội dung của tâm Bồ đề. Bởi tâm Bồ đề là tâm nguyện rộng lớn, một năng lượng xuất phát từ bên trong thôi thúc chúng ta thực tập.

“Ngoài tâm bồ đề,
Ngoài khao khát hiểu biết lớn
Ngoài nguyện ước thương yêu sâu
Con không c̣n ước mong nào nữa cả.”

Hiểu biết lớn (đại trí), thương yêu sâu (đại bi) là hai mặt của tâm Bồ đề. Niềm khao khát ấy thúc đẩy sự thực tập để làm ích lợi cho mọi loài và chính sự tu tập lại để đạt đến sự viên măn của tâm ấy. Cho nên tâm Bồ đề là năng lực phát khởi và cũng là mục đích cuối cùng của công tŕnh tu tập. ‘Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp’.



__________________
Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
Quay trở về đầu Xem saohom's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saohom
 
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 2 of 6: Đă gửi: 16 February 2006 lúc 8:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn anhkhoi09

Mười thứ tín tâm



Muốn hết sạch sanh tử, tu hành Tịnh nghiệp th́ nên phát mười thứ tín tâm; niệm niệm chẳng quên th́ sẽ quyết sanh về Tịnh Độ, đắc bất thối chuyển.

Một: tin pháp của Phật đă nói là lời chân thành phát xuất tự miệng vàng, chơn thật chẳng dối.

Hai: tin rằng phàm phu c̣n mê th́ thức thần chẳng diệt, xoay vần trong sáu nẻo chẳng ngơi.

Ba: tin rằng tu hành trong cơi này nếu chưa được đạo quả th́ chẳng tránh khỏi bị luân hồi.

Bốn: tin rằng nếu chưa thoát khỏi luân hồi th́ dẫu sanh lên trời vẫn chẳng tránh khỏi bị đọa lạc.

Năm: tin rằng chúng sanh sanh về thế giới Cực Lạc sẽ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển.

Sáu: tin chúng sanh phát nguyện, nguyện sanh Tịnh Độ sẽ quyết định văng sanh.

Bảy: tin rằng một phen xưng danh hiệu Phật sẽ diệt được tám mươi ức kiếp sanh tử tội nặng.

Tám: tin người niệm Phật sẽ được thần thông quang minh của A Di Đà Phật nhiếp thủ chẳng hề buông bỏ.

Chín: tin người niệm Phật luôn luôn được hằng sa chư Phật trong mười phương thế giới cùng dùng thần lực hộ niệm.

Mười: Tin là khi đă sanh về Tịnh Độ sẽ có thọ mạng vô lượng, trong một đời sẽ chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề.

Chẳng thể tin tưởng sâu sa vào mười điều trên, lại c̣n sanh nghi hoặc th́ dẫu có niệm Phật vẫn chẳng được văng sanh.



__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 
kimlong
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 21 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 3 of 6: Đă gửi: 16 February 2006 lúc 8:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn kimlong

Niềm Tin Tam Bảo


Phật giáo đă ra đời và tồn tại đến nay trên 2500 năm lịch sử, được khám phá bởi con người Si - Dat - Tha sau quá tŕnh tự thân nổ lực nội chiến quần ma, dẹp tan nguồn hôn ám cho ánh quang minh chiếu rọi khắp xó ngỏ mọi phương trời. Từ đó, con người vinh hiển ấy được nhận lảnh cái danh hiệu Phật - bậc đa ỵhoàn toàn giải thoát giác ngộ. Những lời dạy của Ngài gọi là Pháp. Những người học hỏi, thực hành sống như Ngài gọi là Tăng. Vậy là từ đây Phật giáo đă h́nh thành khá rơ nét qua thể chế ba ngôi: Phật - Pháp - Tăng.



Ơí giai kỳ này, tức Phật c̣n tại thế, với sự trực tiếp hoằng hóa của chính Đức Thế Tôn, Phật giáo hoàn toàn mang tính cách của con đường dẫn lối,như nguyên lư của vạn hữu, chưa có những ngơí rẻ, sự tô điểm hay họa trang được tạo bởi chư vị đệ tử Ngài lên đạo lộ ấy như sau khi Đức Phật nhập diệt



Nhưng từ giai đoạn sau này, tức thời chia rẽí bộ phái, song hành bên lớp áo tín ngường là khởi điểm của lớp son phấn, bề h́nh thức bắt đầu tŕnh diễn, mà qua đó đă làm cho người ta ngộ nhận xem đạo Phật là một tôn giáo như những tôn giáo khác.



Tuy nhiên, như phần trước đă nói: Nếu quan niệm rằng, tôn giáo là một tổ chức được xây dựng trên ba quyết tố: Đức tin, Đấng Giáo chủ ( với mọi khả tính siêu việt ),và hệ thống triết lư, th́ Phật giáo cũng có thể gọi là một tôn giáo. Song, vượt lên trên quan niệm ấy, là con đường tu tập dẫn đến quả vị Phật. Và trong lộ tŕnh đó, tất thảy không có một bàn tay cứu rỗi, ban ơn, giáng phước nào xuất hiện như quá tŕnh thực hiện của chính con người Si - Dat - Tha là một biểu mẫu và lời dạy của Ngài là một minh xác hùng hồn :



" Hăy tự thắp đuốc mà đi.



Hăy tự làm hải đảo



Hăy tự làm công việc của chính ḿnh



Như Lai chỉ là bậc chỉ đường’’.



Như thế, một cách thức nào đó cho thấy, niềm tin ở đây ( tôn giáo của đạo Phật ) hoàn toàn là biểu hiệu của cái đặc tính người, ư thức sống với và vút ngàn lên trên là sự giải thoát giác ngộ, sự thể nhập pháp giới tính hay sự toàn đạt nièm tin vô ngă, bằng những bước đi trong tiến tŕnh tự lực, tự hành, tự tri. Và tự giác để giác tha giác hạnh viên măn.



Nếu ï hiểu Phật giáo đóng vai tṛ giới thiệu th́ sự giới thiệu ấy được biểu hiện cụ thể qua con số 84000 pháp môn tu ( trong vô lượng pháp môn ). Mỗi pháp môn là một con đường dẫn đến chân lư. Mỗi con đường th́ phù hợp cho một số hạng căn cơ khác nhau, và tu tập ’’TÍN’’ cũng là một trong những con đường, mà theo lời tuyên xác của Đức Thế Tôn được trong Tương Ưng Bộ KinhV, th́:



" Cho đếïn khi nào, này các Tỳ kheo, Ta chưa có tri kiến như thật về sự tập khởi, sự chấm dứt vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm căn, cho đến khi ấy , này các Tỳ kheo Ta chưa tuyên bố ta đă chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác".



Ơí đây, trên căn bản của nguyên lư Duyên khởi:



‘’ Do cái này sinh nên cái kia sinh.



Do cái này diệt nên cái kia diệt ’’



cho thấy: nếu tu tập thành tựu Tín căn, bốn căn kia cũng được tu tập thành tựu...Đó là điểm nhất quán trong giáo lư Đức Phật .



Thế nên, Tín trong Đạo Phật cần phải được khéo hiểu với tín trong tôn giáo của Đạo Phật . V́ rằng chữ Tín thường được đi ra từ tôn giáo, và khi nói đến tôn giáo, người ta thường cho đó là sự tín ngưỡng. Mà từ tín ngưỡng dẫn đến mê tín- cuồng tín- bạo tín- bạo động, th́ không xa như lịch sử nhân loại đă tŕnh diễn quá nhiều trên sân khấu trần gian này. Nhưng, nếu có ai nhỡí gọi là tín ngưỡng Đạo Phật , điều này cần được xác minh kỹ: Tín là niềm tin hướng nội. Có nghĩa sự tự tín có mặt năng lực siêu việt đang trú ngụ nơi tấm thân nhỏ bé này (tất nhiên sự tự tín ấy đă được kinh qua và cảm nhận trong những sát na của chuỗi sống).



Từ đó, Quy là trở về với tự nội, Ngưỡng là hướng đến cái khả tính siêu việt trong mỗi con người; nổ lự , tinh cần bằng những phương pháp nào đó, bào sạch tất cả tập nhiẻm để khả tính siêu việt hoàn toàn được hỉển bày.



Với tinh thần đó để ta đi vào t́m hiểu Tín với ư nghĩa Đạo Lộ.



I- Vậy thế nào là Chánh tín ?



Hiểu b́nh dị là tin đúng, tin chân chánh. Khác với nó là tin sai. Nhưng diễn thích như vậy th́ chẳng giải thích được vấn đề, chỉ là sự định vị duy lư bị bỏ lửng. Ở đây có hai cách để hiểu:



Một , gọi là tin đúng tất hàm ẩn có khuôn giá trị để đong lường sự đúng - sai. Trên thực tế cho thấy làm sao có thể có một thứ khuôn mẫu nào được chấp nhận , bởi mọi hiện tượng tâm- vật đều thay đổi trong từng sát na của thời gian. Cho nên tin đúng ở đây là đúng với giá trị nhân bản trong tương giao, bảo giữí và phát huy những đức tính cao quư ấy.



Hai gọi là tin đúng tất nó đă được đem thí nghiệm và ứng dụng qua bộ máy vô ngă, rồi đến sự cảm nghiệm, thực nghiệm tâm linh. Chỉ trong trực nghiệm mới thoát ly tương đăi thời không, sinh diệt...mới như như, mới chánh. Thế, với Đạo Phật , chánh tín không c̣n mang nghiă tin đúng, mà là tin vô ngă vậy.



II- Thế nào là Chánh Tín Tam Bảo ?



TIN PHẬT



Ḷng tin chân chánh đối với Tam Bảo gọi là Chánh Tín Tam Bảo. Đó là ǵ? Tin Phật , tin Pháp, tin Tăng.



Tin Phật có 3 :



1. Phật lịch sư í: là lịch sử của Phật , là Phật kinh điển. Theo kinh điển (1), Phật vốn là Bồ Tát Hộ Minh ở cung trời Đâu Suất tự nguyện trở lại với loài người v́ một đại sự nhân duyên ‘’ Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật chi tri kiến‘’. V́ lẽí tự nguyện nên mọi chi tiết trong cuộc đời : ḍng dơi, thân thế, điạ vị...đều mang tư ư nhằm minh chứng hay thức tỉnh chúng sang thoát khỏi sự cám dỗ của dục vọng; ‘’tuồng ảo hoá đang bày ra đấy’’. Vậy tin Phật lịch sử là tin có khả năng ngộ nhập tri kiến Phật.



2. Phật triết lư : Là Phật nói về hay Phật của kinh điển.



Phật hoằng hóa suốt 49 năm, dùng vô số phương tiện, nói vô số lời, chung quy được kết tập thành 12 bộ, gọi là Thập nhị bộ Kinh.



Trước , Phật chuyển lời Phật , nói lời Phật .



Sau, kinh chép lời Phật , rồi diễn lời Phật .



Yï Phật của Phật nói ǵ ? Là " bản lai vô phước tướng Phật ‘’.



Lời Phật của Kinh nói ǵ ? Là ‘’Tri ngă truyền pháp như phiệt dụ dă’’.



Vậy tin Phật triết lư là thế nào ?



Là tin như con đường, như ngón tay chỉ mặt trăng.



Là tin: ‘’ Nhược nhân ngôn, Như Lai hữu sỡ thuyết pháp tức vi báng Phật ‘’.



3. Phật nguyên lư: Đó là ǵ ?



La:́ ‘’ Ly nhất thiết tướng thị danh chư Phật ‘’,



hay,’’Bản lai vô phước tướng Phật ‘’.



Bổn lai vô phước tướng là "bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm...vô vô minh diệc vô vô minh tận...".



Ly nhất thiết tướng là thể nhập vô tướng nhất thiết tướng , là như như. ‘’ Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ ‘’. Không đến từ đâu, không đi về đâu.



Không đến từ đâu là bất sinh.



Không đi về đâu là bất diệt.



Không đêïn không đi là đương xứ thị, là hiện tiền, là Trung đạo. Cho nên nói,’’đạo cốt truyền tâm" là vậy (Dĩ tâm truyền tâm ).



Đạo mà có thể nói được th́ không phải đạo (Đạo khả Đạo phi thường Đạo). Cũng vậy, nguyên lư mà ngôn ngữ có thể chuyên chở đâu c̣n là nguyên lư. Tin Phật nguyên lư đâu c̣n là Phật nguyên lư nữa, mà phải tin tức phi tin. Tin tức phi tin là thể nhập, là bắt kịp cái khoảnh khắc "đang là"́, dung thông cả thiên đàng lẫn địa ngục, tuyệt đối và tṛn đầy, hư mà linh , không mà diệu.



TIN PHÁP.



1) Pháp nguyên lư



Là nguyên lư của vạn pháp, là thực tướng của vạn pháp. Nguyên lư hay thực tướng của vạn pháp , đó là ǵ ? Là Bát Bất Trung đạo.



" Bất sinh diệc bất diệt.



Bất thường diệc bất đoạn.



Bất khứ diệc bất lai.



Bất nhất diệc bất dị ’’.



Nếu có hỏi, sao gọi nguyên lư là "bất ...bất..", th́ chỉ có thể trả lời: V́ nó là " Duyên sinh - Vô ngă.



’’Do cái này có mặt, nên cái kia có mặt.



Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.



Do cái này sinh nên cái kia sinh.



Do cái này diệt nên cái kia diệt ’’.



Nếu hỏi tiếp, sao gọi nguyên lư là Duyên sinh Vô ngă ? Đến đây duy chỉ c̣n im lặng.



Im lặng là cách trả lời hay nhất.



Đó là câu nói của một danh nhân nào không rơ.



Im lặng là sống với. Là thể nhập sơn hà đại địa, hóa hiện sum la vạn tượng mà hợp đạo. Trời Đâït chẳng hề nói năng, bốn mùa vẫn vận hành; Thu qua , Đông lại, Xuân sang, Hè đến, mọi vật vẫn sinh sôi nẩy nở...



Nên, nguyên lư là cái không thể nói, nói là hữu ngă. Nếu có nói ṛng suốt 49 năm như Đức Thế Tôn cũng chỉ là phương tiện.



Để rồi, nói mà im lặng,’’ Vong thị vô, vô thị Phật ‘’, mất tất cả mà được tất cả. Đó là nguyên lư, là vô ngă.



Nguyên lư là duyên sinh. V́ duyên sinh nên vô tướng. Vô tướng mà hiện ra vô lượng tướng, ’’Một là tất ca í’’. Vô lượng tướng rồi cũng trở về im lặng, trở về cái một, ’’ Tất cả là một ’’.



Cho nên, tin Pháp nguyên lư là một cách nói cần được hiểu là ‘’Nhập pháp giới ‘’ chứ không phải ‘’ Ngộ pháp giới’’. Ngộ là c̣n vướng, là cái chỗø ‘’Bồ đề bổn vô tho ü’’ hay "Ưng vô sở tru û’’. Ưng vô sở trụ là nhảy tỏm trong trùng khơi đại dương mà phiêu du hóa hiện, ’’Sanh kỳ tâm’’ vậy.



Ơí đây, có một điều cần lưu ư. Theo cách hiểu thông thường, pháp hữu vi là pháp bị làm ra, bị tác thành... gọi là tục đế. Ngược lại, pháp vô vi được gọi là Chân đế, Niết bàn... v́ là pháp không bị tác thành... Và, nếu hiểu Pháp nguyên lư như là pháp vô vi e chắc không tránh khỏi sự hụt hẩn, khiến ta rơi vào cái nguyên lư khách quan để chiêm ngưỡng (Tịnh độ ở kia), thay v́ là nguyên lư đang là để sống trong (Tịnh độ ở đây).Vậy nên, Pháp nguyên lư phải là pháp dung thông cả hữu vi lẫn vô vi, là bàn tay với hai mặt trắng đen, v́ chân lư chỉ có một.



2) Pháp triết lư



Đó là ǵ ? Là 12 bộ Kinh chữ, ba tạng Kinh chữ. Là pháp phương pháp, pháp cách thức nói về sự thật hiện hữu của tất cả pháp qua trung gian ngôn ngữ. Nhưng đặc biệt là sự xuất hiện con đường dẫn đến chân lư, đời sống an lạc giải thoát sau ngững cố gắng mà ḍng chữ bất lực trong diễn đạt thực tại. Đó là điểm trân quư nhất của Pháp triết lư.



Triết lư ấy không phải là thuần triết lư suông v́ được Như Lai, bậc thông rơ tánh tướng của vạn pháp khéo giảng nói. Sự sao, lư vậy. Lư sao, sự vậy. Sự là giải thơát hoàn toàn. Lư là con đường dẫn đến giác ngộ toàn triệt thông qua sự. Như Thế Tôn đă tuyên bố:



"Cho đến khi nào, này các Tỳ kheo, Ta chưa có tri kiến như thật về khổ, nguyên nhân của khổ, khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt. Cho đến khi ấy, này các Tỳ kheo...Ta mới tuyên bố Ta đă chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.



Và này các Tỳ kheo, cho đến khi nào, Ta chưa có tri kiến như thật về khổ, nguyên nhân của khổ, khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt. Cho đến khi ấy, này các Tỳ kheo...Ta mới tuyên bố Ta đă chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ’’



(Tương Ưng Bộ Kinh V)



Triết lư ấy không phải là duy triết lư nên mới nói ‘’ Vượt thời gian, đến để mà thấy, thiết thực hiện tại ’’.



Thời gian là khuôn định, không duy là vượt thời không, là hiện tại, khoảnh khắc huy hoàng của sự sáng tạo. Duy là chấp. Không duy là trực nhận: Sự kiến chiếu thông hạn, "Lư sự vô ngại pháp giới’’. Trạng thái Không Duy ấy được biểu hiện cụ thể qua lời dạy ở kinh Kim Cương:



‘’ Tri ngă thuyền pháp như phiệt dụ giả, chánh pháp ưng xả hà huống phi pháp ’’.



Thếï nên, tin pháp Triết lư âu là quá tŕnh lần lối bằng tự đôi chân gầy guộc cất bước về chốn cố hương; nơi ta chưa hề sinh ra cũng chưa từng mất đi mà ta vẫn sống, ăn uống, tươi cười giọng non trẻ.



Nếu điểm lại những lời dạy của Đức Phật trong các Kinh e chắc sẽ làm bật diện được cách tin pháp triết lư như con đường, mà qua đó ïcuộc lang thang của chính Đức Thế Tôn đă nói lên; chưa bao giờ ló dạng một sự cứu độ theo nghĩa cứu vớt ngoài sự thật duyên khởi tính, con đường duyên khởi tính.



Như trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Tín giải, sự kiện Đức Phật thọ kư sẽ thành Phật cho Tôn giả Xá Lợi Phất đă làm dấy động tâm lư Thánh chúng đếïn kinh ngạc trong hoan hỷ và sung phấn’’. Chúng ta cũng có thể đạt được Phật trí như Tôn giả Xá Lợi Phất.



Chẳng khác lạ ǵ, mặc dù trước đây các vị đă từng dự kiến. Nhưng bởi như kẻ cùng tử, chấp nhận sống đời nhan nhản quanh gốc cây mà căn nguyên của nó là sự rơi vào các ngă tưởng tế nhị : xem Phật quả như là kết quả của một quá tŕnh nổ lực nào đó bị ràng buộc bởi thời không, tuổi tác. Lần này, trước con người già lụn cũng được thọ kư mang theo những nhân tố như là phản lực với tâm lư Thánh chúng.



Già lụn cũng thành Phật .



Sẽ thành Phật tại đây và bây giờ.



Và hậu quả đem lại từ phản lực ấy là sự rơi rụng tức khắc (tiệm ngộ ) các lọn tơ nhân tố ngăn che Phật tính. Sự rụng đổ ấy bộc bạch quá tŕnh quy hồi phản tỉnh đă được hun đúc bấy lâu (đốn ngộ ). Có nghĩa, rơi : từ từ, hay đổ : tức khắc đều là cách nói của thời gian nói lên sự chín mọng hay ươm vàng của con đường ‘’ Quy hồi phản tỉnh’’, hay "Kiến tính thành Phật ‘’.



Vậy là đến đây, từ trong sâu thẳm của con đường ‘’Quy hồi phản tỉnh’’ nói lên rằng: "Chư vị có thể đắc được Phật quả tại đây và bây giờ ’’. Ḷng xác tín chắc thật có mặt khi có vương chủ trí tuệ thông rơ Phật quả không ǵ khác chính là thể nhập pháp giơí tính - vô ngă tính. Thời gian cũng vô ngă, không gian cũng vô ngă. Một trí tuệ biết rơ như vậy, ḷng sinh hoan hỷ chưa từng có mà tín thọ.



Như thế rơ ràng ‘’TÍN" ở đây một mặt xuất hiện như là nguyên lực làm trung tâm chuyển tiếp giữa hai mặt từ Ngộ đến Nhập, từ Nhập trở lại Ngộ. Mặt khác nó biểu thị cho sự thể ngộ thực tính vạn hữu, là điểm mà trong ‘’Đại Thừa Khởi Tín Luận’’ của Mă Minh, gọi là Khởi Tín là sự thức tỉnh một ư thức mới- ư thức nhận ra bản giác, để từ dó trở về với chính ḿnh, bản thể của chính ḿnh, và điều này chẳng dính líu ǵ với điều mà ta gọi là sự hiện hữu khách quan của Chúa.



Cụ thể và minh xác hơn là lời dạy của Đức Phật trong kinh Kim Cương:



’’ Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng ’’.



Hướng ngoại để tin, để t́m cầu chân lư là sỡ hữu tướng.Vô minh tương nghĩa với chấp ’’Tôi là, của Tôi, và tự ngă của Tôi’’. Bởi v́ cơ sở căn bản để hướng ngoại không ǵ khác hơn là cái ’’Bạn đang có và đang la ́’’, cái bị giới hạn trong thời không. Cho nên, tri giác và tri thức về thực tại luôn không phải là thực tại chính no,ï mà chỉ là chủ nhân của mọi sự lừa bịp trong sự phát hiện Phật tính. Nên nói: ‘’Không nên thấy Như Lai qua 32 tướng quư’’, th́ càng không nên tin Như Lai qua 32 tướng quư ấy.



Từ lời dạy này dẫn khởi đường hướng tu tập hướng nội. Và duy chỉ trong nội soi ta mới có đủ cơ hội dọn dẹp mọi ô uế tập nhiễm (bát tưởng) của tâm thức.



Chủ trương thiết lập Nhân gian Tịnh độ cũng sản sinh từ đây. Có nghĩa tự trong tâm thức mỗi chúng sanh vốn đầy đủ tính chất của cơi Tịnh độ và vấn đề c̣n lại là thức tỉnh, trở về nhận lại cái khả năng thiêng liêng ấy.



Bước ngoặc thức tỉnh là dấu ấn của Ngộ, nhận lại là Thêí nhập và trở về chính là Tín - sự tương tác giữa hai mặt Ngộ Nhập. Tùy thuộc năng lực trung gian này mà vấn đề cơ cảm được biểu hiện khác nhau, toàn diện hay đơn điệu.



Thế nên, không ngộ mà tin là quáng. Ngộ mà tin là tín giải. Và tin để nhập rồi trở lại làm cho ngộ gọi là nan tín- điều mà chư Phật trong mười phương tán dương Đức Thích Tôn đă làm công việc hy hữu nhất trong đời ác ngũ trược này.



Nhưng dù nói thế nào, khác với chúng hội đó, nghe pháp mà đều sinh tâm hoan hỷ tín thọ. Sự lệch lối của chúng ta đêïn với Phật pháp qua cảm tính xuất phát từ sự rung động bởi con tim. Aïi, hậu quả cho sự hiện hữu của chúng ta- mầm mống của mọi khổ năo. Có lẽ v́ lẽ đo ïmà Kinh Di Đà trưng dẫn cụ thể và chi tiết cảnh trí của cơi Tịnh Độ thật hoa lệ và mỹ măn để từ đó vạch ra một thể cách tu tập giản dị nhưng sung tích, hợp với tâm lư của đại đống.



Sơ khởi, b́nh giản chỉ là ‘’Chấp tŕ danh hiệu A Di Đà" (nghĩa của giữ Giới), tư ́‘’Nhược nhất nhật... nhược thất nhật ’’, mà ‘’Nhất tâm bất loạn" (Định ), và điều kiện sau cùng ’’Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo’’ ( là Tuệ ), khi đó mới ’’Tức đắc văng sanh ..Cực lạc’’.



Ơí đây tất thảy không có sự cứu rổi. Theo nghĩa biểu tượng, A Di Đà là: Vô Lượng Quang, biểu tượng cho trí tuệ giải thoát. Vô Lượng Thọ : đại định, và vô lượng công đức : biểu tượng cho Thánh Giới uẩn giải thoát.Với quan điểm đó, một khi phát khởi công phu ’’Chấp tŕ danh hiệu A Di Đa ́’’ là đánh dấu một sự thể ngộ ‘’Ta là Phật sẽ thành’’ (Tín giải ). Nhờ sự tín giải vào khả năng thiêng liêng ấy, công phu thực hành được kiên cố, chuyên nhất, và từ công phu ấy nói lên rằng: Tịnh độ thế giới không ǵ khác hơn là vô lượng nghĩa, vô tướng và vô tác. Nói chung là thế giới của những tâm thức toàn nhập vô ngă, không kia, không đây nhưng hiển hiện ra vô lượng xứ và diệu dụng.



Quay sang Nikàya, cũng một thế, Đức Phật luôn luôn xác định trước chư Tỳ kheo cũng như tất cả mọi giới qúa tŕnh thăng bậc, sự toàn diệt khổ đau, phải là ngơ lộ thực hành của Giới, Định và Tuệ (Kinh Pháp môn Căn bản, TB I ). Đó là ba bước đi căn bản của Phật giáo, không đi ba bước đi này là ngoại đạo.Và người con Phật là người tin, hiểu con đường chánh đạo ấy, để từ đó thực hành sống đúng với chánh pháp. Sự thực hành ấy nói lên lập trường kiên cố của hành giả v́ nó được knh qua (tự tri) và cảm nghiệm (tự giác) trong cuộc giao thoa giữa hai mặt chân tục, lóe lên môt tia sáng (tự tín) chói lọi nhất bước hành giả băng qua những chông gai thử thách của đời thường. Bước đi như là những tiếng rống của sư tử dẹp tan muôn thú, âm hưởng măi vang vọng khắc sâu vào ḷng chiến sĩ:’’ Hăy tự thắp đuốc lên mà đi. Tự làm hải đảo... Ta là kẻ chiến thắng, chiến thắng trong tự nội, không ai khác là người có thể cho ta chiến thắng...’’.



Chỉ có những ǵ được kinh qua và cảm nghiệm, ấy là tiếng ḷng. Từ đó chúng ta mới đủ sức để đối diện với những dục vọng, sợ hăi...để đánh đổi một lần, một lần thôi cho dứt khoát. Và rơ ràng hơn, cuộc đánh đổi của Thái tử Si đat Tha và chư vị đệ tử Ngài là một minh xác hùng hồn rằng:



’’ Không ai khác có thể là chổ nương tựa cho ta. Ngoài Ta, ngoài pháp chân chính mà ta đă chứng ngộ, ta hăy cung kính, đảnh lể và sống y chỉ pháp ấy"



(Tương Ưng Bộ Kinh III)



" Không ai khác có thể là chổ nương tựa cho ta’’, là tín tâm, tin ở khả năng giải thoát giác ngộ , có thể thành Phật . Và, đó là sự trở về sống với cung cách của bậc Thánh:



’’ Quá khứ không truy t́m,



Tương lai không ước vọng,



Quá khứ đă qua rồi,



Tương lai th́ chưa đến,



Chỉ có pháp hiện tại,



Tuệ quán chính ở đây,...’’



( Kinh Nhất dạ Hiền giả ).



‘’ Không ai khác có thể là chỗ nượng tựa cho Ta, ngoài pháp mà Ta đă chứng ngộ...’’, là Tín giải- cấp bậc chuyển thái của sự thể nhập thực tại vô ngă’’.



‘’ Ta hăy sống cung kính , đảnh lể và sống y chỉ pháp ấy,...’’ đó là tín nguyện và tín hạnh, như tinh thần Bồ Táït của Đại thừa- y cứ chân không mà hóa hiện ra muôn ngàn sai biệt vi diệu ( Diệu hữu), làm lợi ích cho quần sinh:



‘’ Nhược hữu chúng sanh, đa ư dâm dục, thường niệm cung kính, Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục..."



( Kinh Phổ Môn).



Cho nên nói: ‘’Thâm tín chư Phật tất giai sung măn’’ là thế. Phật chính là thực tại vô ngă, là Như Lai Tạng.



" Thâm tín chư Phật" là tin ở thực tại vô ngă này, và đă là vô ngă th́ làm ǵ có kia- đây, ...mà là ‘’Nhất niệm thông tam giới’’, chỉ trong một niệm cũng dung thông cả tam giới. Hết thảy thời gian, không gian đều quy về một mối, nhập cuộc vào cái khoảnh khắc đang là uyên nguyên tṛn đầy mà tiết ra những tinh anh cho đời măi tươi sáng,



’’Nguyện vi nhất trích dương chi thủy, sái tác nhân gian tịnh đế liên’’



Nhất niệm tương nghĩa với ‘’Nhất tâm’’ trong Khởi Tín luận. Chúng sanh dữ Phật đồng. Sở dĩ có sự sai biệt đôi bên; giác- bất giác là do có sự phân biệt, vọng chấp pháp ngă. Tuy nhiên, tự tánh (bản lai diện mục) chẳng sinh ,chẳng diệt, chẳng phải khởi, chẳng phải không khởi. Và ‘’ Khởi tín ‘’ chính là khơi nguồn tuệ giác ở đích điểm thâm sâu cùng cốc ‘’Nhất niệm tâm tánh đang la ́’’ này. Trong Tứ Niệm Xứ, nó được diễn đạt sang một ngôn ngữ khác là Vô ngă niệm.



Pháp hành truyền thống của Đức Phật rằng :’’Ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, chánh niệm tỉnh giác, theo dơi hơi thở...", pháp hành ấy nói lên đời sống có ư nghĩa thực thụ phải là con đường khai mở tự tâm (nhất tâm), v́ thế giới không ǵ khác hơn là biểu hiện của tâm (Kinh Lăng Già ). Và khởi tín hay chánh tín chính là chánh niệm tỉnh giác,



’’Tác hữu trần sa hữu.



Vi không nhất thiết không.



Hữu không như thủy nguyệt.



Vật trước hữu không không ‘’.



Thế nên tin Pháp triết lư lại cũng là một cách nói gắng gượng và duy chỉ được đón nhận bởi những hạng mà căn tánh đang c̣n chậm lụn, v́ rằng, ngoài những biểu hiện của tướng, chiều hướng triết lư ra th́ hàng phu tử khó bề đón nhận được những ǵ mà thực tại vô ngôn thyết, trong khi thực tại sống động diệu hữu lại diễn thuyết một cách phi logic, để từ đó thầm nhủ cho những ai chuyên đường hư luận, hợp lẽ, đó là nạn, gọi là thế trí biện thông.



TIN TĂNG



Âúy là đời sống thực nghiệm tâm linh và sự thoát xác ra khỏi những triền phược.V́ dó là thể tính của Tăng.



Trong cái sai biệt muôn trùng giữa màn đời vớ vẫn âu cũng xuất từ cái không sai biệt, hệt như khí tiết của trời đất bốn mùa xoay chuyển mà bản chất của nó cũng không ra ngoài đặc tính âm dương. Con người ta cũng thế, hay nói rộng hơn, tất cả chúng sanh đều hiện hữu từ cái bất dị ấy. Nh́n trên biểu tướng nó luôn thiên chuyển và phủ nhận chính nó như sự phủ nhận cái ấu trĩ của tầng lớp già nua. Nhưng sự phủ nhận ấy không có nghĩa là khước từ thực tính mà là xác định lại tính chất đặc thù của tất cả hiện hữu trước cái thiên chuyển không đồng. Cái đặc tính ấy, Phật giáo gọi là Tăng, có nghĩa là ḥa hiệp.



Và thế, Tăng không c̣n là điểm nh́n quy ngưỡng nơi những cá thể, đoàn thể được gọi là Tăng già.



Vật ǵ làm căn bản để từ đó vô số bánh được tạo nên ? Bột.



Có vô lượng cách ăn, kiểu ăn, sở thích về món ăn, nhưng ta cũng cùng chung nhau một hành động, đó là hành động ăn.



Mỗi chúng ta đều khoác những chiếc áo khác lạ ra chào đời nhưng ta vẫn có thể hàn huyên ở chổ ngồi chật hẹp nhất trên trần thế, ấy là nhờ đặc tính của Tăng. Đặc tính ấy có thể gọi là Tăng tính, Ḥa hợp tính, Vô ngă tính hay Phật tính cũng được vậy.Chính nhờ đặc tính ấy mà ta có cơ may để nhận ra bộ mặt thật của ḿnh bấy lâu ham dong ruỗi, la cà khắp xó chợ. Nhờ đặc tính ấy mà ta có thể thoát khỏi những hệ lụy, đau khổ trần ai bằng cách sống chung thủy với nó bất luận ở đâu và lúc nào...



Đây là ư nghĩa của lời dạy ‘’Y pháp bất y nhơn’’.



Như vậy tin Tăng là tin ở khả năng của chính ḿnh có thể tự giải thoát bản thân ra khỏi những khổ năo, đồng thời cùng giúp cho tha nhân hướng về đời sống an lành, Thánh thiện...



QUY KẾT



Chúng ta mạn phép cắt xén thực tại ra từng mảnh nhỏ, phân tích và t́m hiểu. Bởi v́ thấu thị của chúng ta không đủ sức để nh́n thực tại như chính nó, nhưng qua phương cách độc nhất ấy cũng sơ phát được một cái nh́n tạm ổn.



Và thế là, ta có thể nói: Phật tính, Pháp tính, Tăng tính là Vô Ngă Tính cũng không sao vậy.



Đó là điểm xuyên suốt của giáo lư Phật Đà, đó là một ‘’Pháp nhĩ như thị’’.



Nhưng dù sao, với chúng ta, niềm tin vẫn là căn bản, là tiên quyết, đây cũng là một "Pháp nhĩ như thị" nữa.



Nên, với những ai sống có ư nghĩa, hăy tạo cho ḿnh một niềm tin : Tin Tam Bảo, tin Ông Bà hay tin bất luận ở lănh vực nào, điều quan yếu là niềm tin không hại ḿnh, không hại người, không hại cả hai mà lợi ḿnh, lợi người, lợi cả hai. Ấy là một diễm phúc lớn vậy.



__________________
Muốn kiếp phù sinh sau khỏi luỵ .Quyển kinh câu kệ chớ nài công
Quay trở về đầu Xem kimlong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kimlong
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 4 of 6: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 4:28am | Đă lưu IP Trích dẫn saodem

ĐỨC PHẬT
NHÀ ĐẠI GIÁO DỤC


Chúng ta hăy t́m hiểu Đức Phật dạy cho nhân loại những ǵ, hay gần ta hơn, Đức Phật dạy chúng ta những ǵ khi Ngài đứng trên b́nh diện một nhà Đại Giáo dục hoán cải con người theo hướng Ngài muốn cho chúng sinh đi.

1. Lời dạy đầu tiên của Ngài là muốn giáo dục con người, muốn cải thiện xă hội, phải có can đảm và sáng suốt t́m hiểu sự thật, sự thật tâm linh, sự thật trí thức và đạo đức, sự thật xă hội, dầu sự thật ấy có xấu xa không tốt đẹp, nhất định không che đậy tuyên truyền nịnh bợ, không dối ḿnh gạt người. Vị lương y cần phải hiểu thực trạng của bệnh nhân mới mong chữa triệt gốc bệnh. Sự giáo dục con người chỉ hữu hiệu khi chúng ta thấy rơ thực trạng con người và xă hội, khi chúng ta biết tôn trọng sự thật. Đó là lư do Ngài dạy bốn sự thật trong bài thuyết pháp đầu tiên. Ngài khuyên Đại đức La Hầu La chớ có nói dối dầu chỉ nói mà chơi. Nói một cách khác, đạo Phật không phải là đạo của người nói dối, của những người sợ sự thật. Ḥa b́nh giả hiệu, đạo đức giả hiệu, bất bạo động giả hiệu, tự do công bằng giả hiệu, không có chân đứng trong đạo Phật.

2. Lời dạy thứ hai của Ngài là con người là nơi tập trung của hai năng lực : Vật chất và tâm linh, Rùpa và Nàma, sắc pháp và tâm pháp. Nói con người là duy vật, tất phủ nhận năng lực tâm linh. Nói con người là duy tâm, tất bỏ quên sức mạnh vật chất. Một nền giáo dục hữu hiệu, phải là một nền giáo dục toàn diện, cả thân lẫn tâm, cả sắc pháp lẫn tâm pháp. Giáo dục theo đạo Phật gồm có Giới học, Định học và Tuệ học. Giới học là huấn luyện sắc thân con người, thúc liễm hành động con người để khỏi phải bị hoàn cảnh chi phối, khỏi bị ngoại duyên làm dao động. Định học là huấn luyện tâm linh con người, tập trung sức mạnh tâm linh trên đối tượng để sử dụng và phát huy định lực con người. Tuệ học là trực giác về bản chất của sự vật đưa đến sự giải thoát hoàn toàn của tâm linh, đến sự thực chứng chân lư tối hậu.

Theo tinh thần kinh Dhammacetiya trong bộ Majjhima Nikàya, chúng ta thấy rơ những người đầu bù tóc rối, áo quần xốc xếch, xanh xao đau yếu, gắt gỏng ồn ào, những người ấy theo ngoại đạo tà giáo hơn là theo Phật giáo. V́ Đức Phật dạy chúng ta đối trị cả hai – tâm bệnh và thân bệnh – và người Phật tử đúng theo nghĩa chân chính của nó phải là người lành mạnh về thể xác cũng như về tinh thần. Những tâm hồn bệnh hoạn, những tư tưởng hắc ám, những người lập dị, những quái thai của thời đại, không có chân đứng trong Phật giáo.

3. Lời dạy thứ ba của đạo Phật là vấn đề giáo dục con người không phải là vấn đề thuần đạo đức hay thiện ác như thường bị hiểu lầm. Đức Phật t́m hiểu sự phản ứng của con người trước những đối tượng ngoại cảnh như sắc, thanh, hương, vị, xúc, v.v... Một sinh viên đứng trước sắc đẹp của một nữ sinh mà tâm hồn như mê dại, chứng tỏ sinh viên ấy bị chi phối, bị nô lệ bởi sắc đẹp. Một nữ sinh chỉ nghe nói me chua mà chảy nước miếng phải bỏ học đi mua ô mai ngậm cho đỡ thèm, nữ sinh ấy bị chi phối bởi vị chua, c̣n bị nô lệ bởi ngoại cảnh. Dưới con mắt của đạo Phật, giá trị hay mức độ giải thoát của con người tùy thuộc phản ứng con người trước ngoại cảnh. Và giáo dục đạo Phật ở nơi đây nhằm huấn luyện con người ra khỏi sự chi phối hay đúng hơn khỏi sự nô lệ của sự vật. Đạo Phật không bao giờ chủ trương dùng sắc đẹp, tiền bạc, danh lợi và dọa nạt để chi phối và nô lệ hóa con người, dụ người vào đạo Phật. Đạo Phật chống lại mọi h́nh thức nô lệ, dầu là nô lệ tâm linh hay thần quyền. Chỉ những người, những chủ nghĩa ưa bị nô lệ hay ưa nô lệ hóa con người mới không ưa đạo Phật.

Đứng trước vấn đề thiện ác, Đức Phật không xem là một vấn đề thuần luân lư mà phải là vấn đề hiểu biết, nhận thức, một vấn đề lư tính. Theo đạo Phật, tham không nên hiểu theo nghĩa luân lư mà phải hiểu như một phản ứng của thân tâm trước sự vật ḿnh ham thích. Phản ứng ấy tức là ôm vào cho ḿnh những vật ǵ ḿnh ưa thích. Sân cũng vậy, sân là phản ứng vứt xa tự thân những vật ǵ ḿnh không ưa thích. Và sở dĩ có tham, có sân, v́ hiểu lầm rằng có một cái ngă, cái Ta. Cái ǵ cái ta ưa thích th́ t́m mọi cách đem về cho ḿnh, cái ǵ cái ta ghét bỏ th́ t́m mọi cách vứt xa chúng ra. V́ vậy vấn đề thiện ác ở đây không c̣n là một vấn đề luân lư mà chỉ là một vấn đề hiểu lầm, một vấn đề si mê. Nói một cách khác, chỉ người ngu mới tham và có sân. Theo A Tỳ Đàm học, si (moha) bao giờ cũng đi với tham (lobha), si (moha) bao giờ cũng đi với sân (dosa)...

Và sự giáo dục theo quan niệm đạo Phật chính là một vấn đề trí thức, hay nói cho đúng hơn, một thái độ trí thức, không chấp nhận có cái ngă, cái Ta đến nỗi hoàn toàn bị nô lệ bởi cái ngă, cái Ta ấy. Trong kinh Brahmajàla, có một câu khiến chúng ta phải giật ḿnh. Đức Phật dạy : “Người ngu tán thán giới đức của Ta, chỉ có người trí mới tán thán trí đức của Ta”. Cho nên đạo Phật thường được gọi là đạo trí thức và những người không ưa đạo Phật phần lớn là người ngu, hay ưa ngu, hay các chánh sách, chủ nghĩa ngu dân và cuồng tín.

Thái độ trí thức ấy khiến Đức Phật giới thiệu một khía cạnh giáo dục thật rất đặc biệt, đó là sự hướng dẫn cá nhân tự ḿnh có một thái độ do tự ḿnh suy tư kinh nghiệm và quyết định, hơn là nhắm mắt theo Đức Phật hay lời Phật dạy.

Khi các người Kàlàma đến hỏi Đức Phật nên tin lời dạy của các vị ẩn sĩ Bà-la-môn nào khi những vị này tán thán giáo lư của ḿnh và bài xích giáo lư của kẻ khác, Đức Phật khuyên không nên vội vă, thụ động hay cảm t́nh tin theo giáo lư nào. Đức Phật dạy các người Kàlàma hăy tự ḿnh suy tư chín chắn, sáng suốt và trầm tĩnh, dựa trên kinh nghiệm bản thân để đánh giá những lời dạy của các ẩn sĩ Bà-la-môn.

Cũng với thái độ trên, Đức Phật từ chối không tự xem ḿnh là vị lănh đạo tối cao của giáo đoàn Tăng già và không muốn dùng địa vị, oai lực và trí đức của ḿnh để biến các đệ tử thành những bầy cừu non dễ dạy dễ bảo. Nói một cách khác, đạo Phật chống lại đường hướng giáo dục đào tạo con người thành những con vật máy móc bảo sao nghe vậy, những con người điện tử. Đạo Phật cũng không tán thành một lối giáo dục nô dịch quần chúng, biến con người thành những máy móc của quần chúng bị giựt dây. Cho nên, những Phật tử thật sự độc tài, muốn làm mưa làm gió trong Giáo hội, thật chưa hiểu đến a, b, c của đạo Phật, chớ đừng nói hiểu đạo Phật.

Tất cả những nét chính yếu về hướng đi và phương pháp giáo dục của đạo Phật vừa đề cập cho chúng ta thấy rơ lời dạy của đạo Phật nhằm một mục đích duy nhất là làm phát triển những khả năng tốt đẹp của con người. Giáo dục của đạo Phật tôn trọng sự thật, chữa trị thân bệnh và tâm bệnh, chống đối mọi h́nh thức nô lệ, phát huy thái độ trí thức với chủ đích nâng cao giá trị của con người. Và thái độ nâng cao giá trị con người ấy được thể hiện một cách hùng hồn nhất khi Đức Phật dạy chỉ có con người mới giáo dục cho chính ḿnh, chỉ có con người mới giải thoát cho ḿnh, Đức Phật chỉ đóng vai tṛ một người chỉ đường. “Các ngươi hăy cố gắng tự ḿnh tinh tấn lên, Đức Như Lai chỉ là một người chỉ đường”, “Hăy tự ḿnh thắp đuốc lên mà đi”, “Sự chiến thắng vĩ đại nhất là sự chiến thắng tự thân”, là những lời dạy nói lên sự tin tưởng của Đức Phật ở giá trị và khả năng của con người, và một nền giáo dục chân chính phải là một nền giáo dục nhắm đến sự hướng thượng của con người.


ĐỨC PHẬT DẠY NHỮNG G̀ VÀ
KHÔNG DẠY NHỮNG G̀


Đại đức Cùla Màlunkyàputta, một hôm trong khi tu hành thanh tịnh vắng vẻ bỗng nghĩ rằng : Đức Thế Tôn có bỏ qua không trả lời những vấn đề: “Thế giới là thường c̣n hay không thường c̣n? Thế giới là vô biên hay hữu biên? Thân thể với sự sống là một hay không là một? Sau khi mất rồi, Đức Như Lai c̣n tồn tại hay không tồn tại, cũng tồn tại và cũng không tồn tại hay cũng không tồn tại cũng không không tồn tại?” Đại đức tự thấy băn khoăn không được vui, v́ Đức Phật không trả lời vấn đề này, nên Đại đức liền đến đảnh lễ yết kiến Đức Phật, yêu cầu Ngài trả lời dứt khoát những vấn đề trên, và Đại đức nói thêm, nếu Đức Phật trả lời dứt khoát th́ Đại đức sẽ hoan hỷ ở lại tu hành trong đạo Ngài, c̣n nếu Đức Phật trả lời không dứt khoát th́ Đại đức sẽ không theo học đạo Ngài và sẽ hoàn tục trở về với đời sống xưa.

Đức Phật trả lời như sau :

“Này Màlunkyàputta, Ta có nói với ngươi chăng: Hăy xuất gia tu phạm hạnh trong đạo Ta, rồi Ta sẽ trả lời cho ngươi : Thế giới là thường c̣n hay thế giới là không thường c̣n; thế giới là hữu biên hay thế giới là vô biên; Sự sống và thân thể là một hay không phải một; sau khi tạ thế Đức Như Lai tồn tại, hay không tồn tại, cũng tồn tại và cũng không tồn tại, hay không tồn tại và cũng không không tồn tại”.

- Bạch Thế Tôn, không có vậy.

“Này Màlunkyàputta, ngươi có nói với Ta chăng: Con sẽ xin xuất gia tu phạm hạnh trong đạo Ngài và Ngài sẽ trả lời cho con: Thế giới là thường c̣n hay không thường c̣n, v.v...”

- Bạch Thế Tôn, không có vậy.

- Như vậy, Ta không có hứa với ngươi là nếu ngươi xuất gia, Ta sẽ trả lời cho ngươi : “Thế giới là thường c̣n v.v...” Và ngươi cũng không có nói với Ta: “Con sẽ xin xuất gia tu phạm hạnh trong đạo Ngài và Ngài sẽ trả lời cho con : Thế giới là thường c̣n v.v...” Sự thể đă như vậy, này kẻ mê muội kia, ngươi là ai, và ngươi tuyên bố từ bỏ bài bác cái ǵ mới được!

Này Màlunkyàputta, nếu có người nói : “Con sẽ xuất gia tu phạm hạnh trong đạo của Đức Thế Tôn chỉ khi nào Đức Thế Tôn trả lời cho con : Thế giới là thường c̣n hay thế giới là không thường c̣n v.v...”, này Màlunkyàputta, câu hỏi của người ấy chưa được Đức Như Lai trả lời th́ người ấy đă phải chết rồi.

Này Màlunkyàputta, ví như có người bị một mũi tên bắn phải, và mũi tên ấy lại tẩm thuốc độc. Bạn bè quyến thuộc người ấy mời một vị lương y ngoại khoa để chạy chữa. Nhưng người ấy nói : “Không, tôi chỉ nhổ mũi tên này ra khi nào tôi được biết người đă bắn tôi tên là ǵ, thuộc ḍng họ nào. Người bắn mũi tên ấy là da đen hay da xám, v.v... ở tại làng nào, huyện nào, tỉnh nào, mũi tên làm bằng ǵ, v.v...” Này Màlunkyàputta, trước khi người ấy được biết điều người ấy muốn biết th́ người ấy đă chết rồi. Cũng vậy, này Màlunkyàputta, nếu có người nói như sau : “Tôi sẽ xuất gia tu phạm hạnh với Đức Thế Tôn chỉ khi nào Đức Thế Tôn trả lời cho tôi : Thế giới là thường c̣n hay thế giới là không thường c̣n v.v...”, này Màlunkyàputta, trước khi người ấy được Như Lai trả lời th́ người ấy đă phải chết rồi.

Này Màlunkyàputta, thật ra sự có mặt của lư thuyết Thế giới là thường c̣n, thế giới là vô thường không giúp ǵ cho sự tu hành phạm hạnh. Này Màlunkyàputta, chính sự có mặt của lư thuyết : Thế giới là vô thường và sanh tồn tại, già tồn tại, chết tồn tại, ưu bi khổ năo tồn tại. Và chính Ta đă giảng dạy phương pháp trừ diệt chúng chính trong đời này. (Cũng như vậy, với các lư thuyết : Thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên, thân thể với sự sống là một hay không phải một ...).

Vậy nên Màlunkyàputta, những điều Ta đă không tuyên bố, ngươi phải nắm giữ lấy là không tuyên bố; những ǵ Ta đă tuyên bố, ngươi phải nắm giữ lấy là đă tuyên bố.

Này Màlunkyàputta, những điều ǵ Ta không tuyên bố?   Này Màlunkyàputta, thế giới là thường c̣n, đó là điều Ta không tuyên bố. Thế giới là vô thường, đó là điều Ta không tuyên bố, v.v... Này Màlunkyàputta, tại sao Ta lại không tuyên bố ? Này Màlunkyàputta, sự tuyên bố ấy không đưa lại lợi ích, không phải là căn bản của sự tu hành phạm hạnh, không đưa đến chán ghét, ghê tởm, sự diệt trừ, sự an tịnh, không đưa đến thượng trí, Chánh giác, Niết-bàn, v́ vậy Ta không tuyên bố.

Này Màlunkyàputta, những ǵ Ta tuyên bố ? Này Màlunkyàputta, đây là Khổ. Này Màlunkyàputta, đấy là lời Ta tuyên bố. Đây là nguyên nhân của khổ, này Màlunkyàputta, đó là lời Ta tuyên bố. Đây là sự diệt khổ, này Màlunkyàputta, đó là lời Ta tuyên bố. Đây là con đường đưa đến diệt khổ, này Màlunkyà-putta, đó là lời Ta tuyên bố. Này Màlunkyàputta, tại sao ta lại tuyên bố những điều ấy. Những điều ấy đưa lại lợi ích, là căn bản của sự tu hành phạm hạnh, đưa đến chán ghét, ghê tởm, diệt trừ, an tịnh, đưa đến thượng trí, chánh giác, Niết-bàn, v́ vậy Ta tuyên bố những điều ấy. Này Màlunkyàputta, những điều Ta không tuyên bố, ngươi phải nắm giữ lấy là không tuyên bố; những điều Ta đă tuyên bố, ngươi phải nắm giữ lấy là đă tuyên bố. “Như vậy là lời dạy của Đức Phật” Đại đức Màlùnkyàputta hoan hỷ tán thán lời dạy của Đức Như Lai.

Lời bàn của người dịch :

Đoạn kinh trên nêu rơ Đức Phật chỉ giảng dạy những ǵ giúp chúng sanh thoát khỏi đau khổ, hướng đến an tịnh giải thoát Niết-bàn mà thôi. Ngài bỏ qua một bên những lư thuyết về vũ trụ, về nhân sanh, v́ những lư thuyết ấy không giúp ǵ cho người tu hành hướng đến an tịnh giải thoát Niết-bàn. Thái độ của Đức Phật rất thiết thực và rơ ràng. Đối với Đức Phật, vấn đề có Thượng Đế hay không, không phải là vấn đề quan trọng, v́ dầu Thượng Đế có hay không, sự đau khổ vẫn đè nặng trên đời sống con người và loài người vẫn sống trong dục vọng tham, sân, si, phiền năo. Tuy vậy, các học tṛ Đức Phật về sau đă quên lời dạy này, hợp thành các tôn phái chống báng nhau, công kích nhau, tạo thêm nhiều lư thuyết mới, và quên rằng người Phật tử chỉ là người theo lời dạy Đức Phật, thiết thực tu hành theo con đường Ngài đă thực nghiệm và truyền dạy. Vậy điều cần hiện tại của người Phật tử là bỏ qua một bên các biện luận suông, bỏ sự chấp chặt những lư thuyết tôn phái này tôn phái khác, thiết thực cố gắng ứng dụng những lời dạy Đức Phật trong đời sống hàng ngày của ḿnh, để san bớt dần những dục vọng, giải thoát dần những phiền năo. Có vậy mới nhận chân được ư nghĩa lời dạy Đức Phật và mới hưởng được lợi ích thiết thực của đạo Phật.




LỜI ĐỨC PHẬT DẠY
CHO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI (1)

Chính ngày Vaisakh Purnam, Đức Phật giáng sinh, cùng một ngày Ngài nhập Niết-bàn và Thành đạo. Ngày kỷ niệm Đản sanh, Niết-bàn và Thành đạo của Ngài được cử hành khắp cả thế giới trong bầu không khí tôn nghiêm thành kính.

Ánh sáng giác ngộ của Đức Phật bao giờ cũng chói sáng và trải qua hơn 2500 năm Ngài vẫn luôn luôn cố gắng diệt trừ tối tăm trong tâm trí nhơn loại. Người ta nói đúng rằng Đức Phật rất ghét sự tối tăm và rất yêu thương ánh sáng. Ánh sáng ấy dành cho toàn thể nhân loại, không phân biệt giai cấp hay xứ sở. Chúng ta người Á đông, nhất là người Ấn Độ, tự hào là được có Đức Phật sanh trưởng tại chỗ. Ngài là người Ấn Độ do sinh trưởng, do ḍng họ và do tổ tiên truyền thống, Ngài sống một đời sống lâu dài và phụng sự trên mảnh đất cổ kính này, mặc dầu rất nhiều sự sa ngă, vẫn c̣n nắm giữ ánh sáng của văn hóa tinh thần, ánh sáng ấy có thể giúp như một liều thuốc mát dịu trên quả tim bị xé rách của thế giới hiện tại.

Tinh hoa đạo Phật

Lời dạy quan yếu của Upanishad, sự đồng nhất của mọi sự sống được Đức Phật công nhận. Một tinh thần huynh đệ chân chánh giữa loài người là liều thuốc độc nhất để chữa lành những sự xung đột tranh đấu nguy hiểm đương đe dọa khắp thế giới, không phải là sự lặp đi lặp lại suông của những cử chỉ vô vi nhưng có vẻ cao thượng, cũng không phải là sự che đậy một sự tranh đấu tàn diệt với một bề ngoài thân ái giả dối, mà chính phải là một sự hy sinh chân thành của các quốc gia chung một khối thịnh vượng cho con người, sự liên hiệp của toàn thể thế giới. Người Âu Tây cần phải hiểu t́nh huynh đệ ấy không phải là một lư tưởng để đạt đến mà phải là một thực thể để thực hiện. Mọi sự sống là một và như vậy mọi h́nh thức của sự sống là anh em với tất cả h́nh thức khác. Đó chính là tinh hoa lời Phật dạy. Rất ít người sáng suốt có thể nghĩ rằng sự áp dụng nguyên tắc ấy là căn bản của một sự tiến hóa chân chánh cho toàn thể nhân loại.

Sự tôn quư của nhân loại

Dầu cho quan điểm của Đức Phật đối với vấn đề “sự thật tuyệt đối” như thế nào và có nhiều ư kiến bất đồng về vấn đề này, một điều chắc chắn là Đức Phật tin tưởng sự tôn quư của loài người và lời dạy của Ngài nhằm mục đích nâng cao giá trị của toàn thể nhân loại. Sự phân biệt giữa người và người trên bất cứ địa hạt nào là trái với bản tánh của Ngài, Ngài tin tưởng ở sự đại đồng của nhân loại. Đời sống tự nó không có giá trị để sống, giá trị sự sống là do ở sự áp dụng đời sống ấy và do mục đích mà đời sống ấy phụng sự. Và mục đích ấy là sự dẫn đường và giúp đỡ mọi sự sống đưa đến ngưỡng cửa của một đời sống hạnh phúc. Đời sống ở trên quả đất này là vô thường, đau khổ và vô ngă. Không một người nào có thể thoát chết. Vậy bổn phận của mọi người chúng ta là t́m những ǵ thoát ra ngoài mọi sự đổi thay.

Đức Phật dạy : “Mọi vật đều vô thường” khi Ngài sắp nhập Niết-bàn, và với rất ít chữ ấy, Ngài đă thâu tóm tất cả những điều Ngài dạy trong suốt đời sống của Ngài về bản tánh của thế giới. Quan điểm tổng quát của triết lư Ngài quy tụ vào tánh chất giả dối và vô thường của thế giới bề ngoài.

Nếu sự thật giản dị ấy được thiết thực hiểu biết và luôn luôn ghi nhớ trong tâm trí, th́ dân tộc Tây Phương và Đông Phương đă khỏi phải sa vào những cuộc chiến tranh khổng lồ tự ḿnh tàn diệt lấy ḿnh. Hăy xem có đế quốc nào trường cửu ? Có những nhà chinh phục nào sống đời đời ? Những nhà chinh phục ấy đă thâu hoạch những lợi ích ǵ từ những chiến công và sự tàn bạo của ḿnh ? Đó là những nhận thức tự nhiên giản dị đă đè nặng trên những dân tộc tự gọi là văn minh.

Khoa học nghĩa là hiểu biết và Đức Phật dạy rằng sự hiểu biết của Chánh Pháp (Dharma) cần phải được nhận hiểu cũng giống như sự hiểu biết khoa học được nhận hiểu do phương pháp phân tích, thực nghiệm và luận lư chứ không phải bởi một ḷng tin không luận lư tương tợ... Nói một cách khác, Đức Phật nhấn mạnh rất nhiều vào lư trí và khuyến khích các đệ tử của Ngài quán sát mọi hiện tượng xảy ra trên đời sống và những kết quả với ánh sáng của trí tuệ.

Một ánh sáng khác của Đông Phương do Đức Phật truyền lại cho chúng ta là khái niệm của một định luật chắc chắn và không thay đổi, và trong phạm vi định luật ấy, toàn thể nhân loại sống và trưởng thành trong mọi h́nh thức hoạt động tinh thần của toàn thể nhân loại.

Người nông phu cần phải nghĩ đến những cây sắp trồng để những cây ấy sống ḥa hiệp với định luật thích hợp của thiên nhiên. Mọi hành động của con người đều phản ứng đến tự thân một cách tự nhiên và hợp lư như vậy ảnh hưởng đến tất cả sự sinh trưởng của bản ngă lư tưởng và hạnh phúc của con người, kết quả tất nhiên của bản ngă lư tưởng ấy.

Giống như khoa học vật lư báo trước chúng ta, nếu chúng ta uống nước nhớp th́ sức khỏe chúng ta sẽ bị tổn giảm; cũng vậy, Đức Phật báo trước cho loài người rằng các hành vi độc ác nhất định sẽ đem lại cho cá nhân tác động đau đớn và sầu khổ; các hành vi thuần thiện sẽ đem lại sức khỏe và do đó đem lại hạnh phúc và an tịnh. Quan điểm về sự hiện diện một định luật không thay đổi xây dựng một thành tŕ cho lời dạy của Đức Phật và xứng hợp với những quan điểm của khoa học hiện đại.




__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 5 of 6: Đă gửi: 18 February 2006 lúc 4:47am | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc


SÂN HẬN


"Sân", nghĩa là giận dữ. Sân là một trong Tam Độc mà nhà Phật dạy người Phật tử phải luơn luơn cảnh giác, là Tham, Sân và Si. Ba sự độc hại này đưa con người vào đường khổ ải, cần phải hĩa giải chúng bằng Ba mơn học là Giới học, Định học và Tuệ học: tŕ giới thi` hĩa giải tham lam; tu thiền, tŕ chú hoặc niệm Phật th́ hĩa giải sân hận giận dữ, để cho tâm hồn được luơn luơn an tịnh, từ đĩ phát sinh trí tuệ, hĩa giải ngu si.

Trong kinh Pháp Cú, đức Phật cĩ lời dạy như sau :

Khi cơn giận dữ bùng ra
Ai mà ngăn được mới là người hay
Giỏi như hăm lại được ngay
Chiếc xe đang chạy chở đầy, phĩng nhanh,
Nếu khơng th́ bản thân ḿnh
Cầm cương hờ hững tài t́nh ǵ đâu.

*
Lấy từ bi, lấy ơn hịa
Thắng cơn nĩng giận bùng ra thét gầm
Lấy hiền lành, lấy thiện tâm
Thắng lịng hung ác bất nhân khĩ lường
Lấy tâm bố thí cúng dường
Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam
Lấy chân thật để đập tan
Những trị hư ngụy, dối gian ở đời.
*
Nĩi lời chân thật luơn luơn,
Dẹp cơn nĩng giận dỗi hờn khĩ coi,
Dù ta cĩ ít của thơi
Cũng chia bố thí cho người đến xin,
Nhờ ba việc tốt lành trên
Đưa ta đến cơi chư thiên, cơi trời.
*
Bậc hiền lương chẳng hại ai
Thân tâm lo chế ngự hồi trước sau
Đến nơi bất tử thật mau
Niết Bàn chốn ấy hết sầu, hết bi.
*
Giữ ǵn kiểm sốt Thân người
Đừng v́ nĩng giận để rồi làm sai
Thân đừng làm ác, hại ai
Làm lành, làm thiện miệt mài tu thân.
*
Giữ ǵn kiểm sốt Lời người
Đừng v́ nĩng giận để rồi nĩi sai
Lời đừng nĩi ác, hại ai
Nĩi lành, nĩi thiện miệt mài tu thân.
*
Giữ ǵn kiểm sốt Ư người
Đừng v́ nĩng giận để rồi nghĩ sai
Ư đừng nghĩ ác, hại ai
Nghĩ lành, nghĩ thiện miệt mài tu thân.


Cĩ thể nĩi rằng tất cả các loại h́nh chiến tranh trên thế giới đều bắt nguồn từ Tham, Sân và Si.

Về những cuộc tranh chấp nho nhỏ, th́ khởi đầu cũng là cĩ một phía v́ Tham, muốn lấn lướt phía bên kia. Phía đối phương nổi niềm Sân hận, giận dữ bừng bừng, t́m đủ mọi biện pháp cĩ thể để chống lại. Do giận dữ nên sự suy nghĩ bị lửa giận chi phối, trở thành hạn hẹp, mất sáng suốt và khách quan, khơng nh́n rơ được thực tế nữa. Đă khơng nh́n rơ được sự việc th́ cũng khơng nh́n thấy những điểm tốt của người ḿnh đă ghét, v́ thế, khả năng hịa giải cũng bị chận đường, sự ghét bỏ ngày càng tăng trưởng, dần dần biến thành thù hận, cĩ khi đi đến chỗ khơng đội trời chung.

Đây là nĩi về sự sân hận giữa những cá nhân cho nên hậu quả cũng chỉ nho nhỏ, sự tác hại thường chỉ xảy ra giữa những cá nhân hoặc gia đ́nh. Nhưng khi lịng Tham Sân Si vươn tới b́nh diện quốc gia, núp dưới chiêu bài "v́ tổ quốc, v́ nhân dân, v́ muốn mở mang bờ cơi cho con cháu", vân vân, -- tựu chung cũng chỉ là những lớp vỏ hào nhống để che đậy dă tâm tham lam, muốn cĩ thuộc địa, muốn cĩ dân nơ lệ để bĩc lột, như đầy dẫy những cuộc chiến tranh trong quá khứ, -- th́ hậu quả lại khơng thể lường trước được. Bởi v́ phía đối phương dĩ nhiên là phải chống trả, phải mở bộ máy tuyên truyền để kích thích lịng dân sao cho họ nổi cơn cuồng nộ, sẵn sàng hy sinh thân mạng ngồi chốn sa trường để chống xâm lăng, đơi khi v́ nhu cầu gây căm thù, họ ngụy tạo những chuyện tàn nhẫn ghê gớm như vu cáo cho đối phương là "ăn thịt người", "ăn gan, ăn mật người", "thiêu sống trẻ em", vân vân, mục tiêu là để tạo nên làn sĩng cơng phẫn, sẵn sàng xả thân theo lệnh của "phù thủy chính trị".

Hoặc trong những cuộc chiến tranh ư thức hệ, hai bên đều bảo vệ lư tưởng của phe phái ḿnh, bảo vệ quan điểm chính trị mà ḿnh cho là đúng, là sẽ mang lại tự do no ấm cho đất nước, cho nhân loại, tự khốc cho ḿnh lá cờ chính nghĩa, coi như chân lư đứng về phe phái ḿnh. Trên con đường tranh đấu để bảo vệ lư tưởng của ḿnh và truyền bá nĩ qua những dân tộc khác, những nhà chính trị cũng lại dùng thủ đoạn gây căm thù giai cấp để cho người ta ghét bỏ lẫn nhau. Và để cho đủ sức mạnh khích động, người ta phĩng đại, thậm chí bịa đặt ra những tội ác của những người thuộc giai cấp khác để kích thích lịng người cùng phe phái cho họ nổi giận lên, trở thành mù quáng, nh́n đối phương qua lăng kính khơng đội trời chung, nên dễ dàng tàn sát khơng thương tiếc những kẻ thù giai cấp.

Đĩ là những h́nh thái cuồng tín. Nếu người lănh đạo lại là một nhà tơn giáo th́ sự tác hại cịn lớn lao hơn. Bởi v́ sức mạnh của cuồng tín cộng với sức mạnh của mê tín, sẽ dễ dàng chuyển hĩa một người hiền lành trở thành một âm binh, cho phù thủy chính trị sai khiến.

Đứa bé nhỏ xíu cũng biết nổi Sân, muốn điều ǵ mà khơng được th́ nĩ khĩc lĩc, dẫy lên đành đạch. Nhưng đứa nhỏ chỉ giận dỗi thơi, khơng thù hận. Tiếc rằng nhiều khi người lớn lại vơ t́nh làm cho thĩi giận dữ của các cháu nhỏ nẩy nở và trở thành tật xấu kinh niên.

Chúng ta thường cảm thấy vui khi nh́n các cháu bé thích thú với mĩn đồ mà nĩ đang chơi, thế là chúng ta bèn đùa giỡn, trêu chọc nĩ bằng cách giằng lấy mĩn đồ, giấu ra sau lưng bắt nĩ phải đi t́m. Đứa bé bị mất mĩn đồ bèn ịa lên khĩc và chúng ta thích thú bật cười, đưa mĩn đồ ra trả. Đơi khi đứa bé nổi cơn hờn, khơng thèm nhận lại mà càng gào lên khĩc to hơn, th́ chúng ta lại càng cười ầm lên, cho là nĩ "dỗi", thế rồi chúng ta xuống nước năn nỉ, dỗ dành, đơi khi bằng cách giả bộ đánh một người nào đĩ cho nĩ hả giận. Đây là một trị đùa vơ ư thức, nĩ tập cho các cháu bé thĩi quen giận dữ và phải cĩ phản ứng mạnh với người lớn. Các cháu bé cần được đối xử ơn hịa nhưng cương quyết, các cháu khơng phải mĩn đồ giải trí của ḿnh, cũng khơng v́ ḿnh cĩ chuyện buồn mà quát mắng oan uổng các cháu. Bị đối xử như thế, các cháu sẽ tập nhiễm thĩi quen lỗ măng và ứng xử bất cơng.

Phần lớn những tội phạm trong xă hội đều là những người lớn lên từ những gia đ́nh cĩ thĩi quen đối xử tàn bạo với nhau, nhất là với các con cịn nhỏ. Các thiếu niên đĩ v́ bất lực phải nhịn nhục qua ngày, nhưng trong lịng đă nuơi sẵn mối căm thù với gia đ́nh, và mang theo mối thù đĩ cho đến khi lớn lên, ra khỏi gia đ́nh, các thanh niên đĩ sẽ trả thù lại xă hội khi cĩ dịp.

Nhà Phật cĩ nhiều pháp mơn để trị bệnh Sân. Ngồi ra, tùy theo hồn cảnh, các Sư trong đạo Phật cũng cĩ những phương tiện thiện xảo để đối trị với bệnh sân hận.

Trong cơng cuộc chinh phục gận dữ và sân hận. Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu bằng cách điều tra bản chất của các xúc cảm phá hoại ấy. Ngài giải thích:

"Nĩi chung, cĩ nhiều loại cảm xúc tiêu cực hay khổ sở khác nhau, như tự phụ, cao ngạo, ganh ghét, tham dục, tham lam, hẹp hịi vân vân... Nhưng ngồi những loại ấy ra, giận dữ và sân hận được coi là tai họa lớn nhất v́ chúng là những chướng ngại lớn nhất cho việc phát triển từ bi và vị tha, và chúng phá hoại đức hạnh và sự tĩnh lặng của tâm.
"Giận dữ dẫn đến cảm nghĩ xấu và sân hận. Và trong chừng mực liên quan đến, nĩ chẳng bao giờ là tích cực cả. Nĩ khơng cĩ lợi ích ǵ cả. Nĩ bao giờ cũng hồn tồn là tiêu cực.

"Chúng ta khơng thể khắc phục giận dữ và sân hận chỉ bằng cách nén chúng xuống. Chúng ta cần tích cực trau giồi những thứ giải độc cho sân hận như nhẫn nại và khoan dung. Để cĩ thể trau giồi thành cơng nhẫn nại và khoan dung, bạn cần phải tạo ra lịng nhiệt t́nh, một sự ham muốn mạnh mẽ t́m kiếm nĩ. Lịng nhiệt t́nh của bạn càng mạnh th́ khả năng chịu đựng những khĩ khăn gặp phải trong quá tŕnh này càng lớn. Khi bạn dấn thân vào tu tập nhẫn nại và khoan dung, trong thực tế, cái đang xẩy ra là bạn dấn thân vào cuộc chiến với giận dữ và sân hận. V́ là trong t́nh trạng chiến đấu, bạn t́m chiến thắng, nhưng bạn cũng phải chuẩn bị khả năng bị thua trận. Cho nên khi bạn lâm trận, bạn khơng nên bỏ qua thực tế là trong tiến tŕnh này bạn sẽ đương đầu với nhiều vấn đề. Bạn phải cĩ khả năng chịu đựng gian khổ. Người chiến thắng được giận dữ và sân hận qua tiến tŕnh cam go như vậy là một anh hùng thực sự.

"Chính bằng điều này trong tâm, chúng ta phát sinh lịng nhiệt t́nh mạnh mẽ. Nhiệt t́nh do học tập và suy ngẫm về những tác dụng của khoan dung, nhẫn nại, và sự tác hại hay hậu quả tiêu cực của giận dữ và sân hận. Và chính trong cái sự nhận thức được sẽ tạo được sự lơi cuốn hướng về cảm nghĩ khoan dung và nhẫn nại, bạn cảm thấy thận trọng hơn và đề phịng những ư nghĩ giận hờn và thù ghét. Thường thường, chúng ta khơng mấy bận tâm về giận dữ hay sân hận, cho nên nĩ đến bất chợt. Nhưng khi chúng ta phát triển một thái độ thận trọng đối với những cảm xúc này, tự nĩ sẽ hoạt động nhự một biện pháp phịng ngừa chống lại giận dữ và sân hận.

"Những tai hại của sân hận rất dễ thấy rơ ràng và trực tiếp. Thí dụ, khi một ư nghĩ sân hận mạnh mẽ phát sinh trong con người bạn, chính vào lúc ấy nĩ hồn tồn tràn ngập và phá hoại sự an tĩnh trong tâm bạn, sự nhanh trí của bạn hồn tồn mất hẳn. Khi giận dữ và sân hận nổi lên, nĩ tàn phá phần tốt nhất trong bộ năo của bạn, phần này chính là khả năng phán xét giữa đúng và sai, và hậu quả trước mắt hay dài hạn về những hành động của bạn. Sức phán xét của bạn trở nên hồn tồn bế tắc, nĩ khơng cịn hoạt động được. Hầu như bạn trở thành mất trí. Cho nên giận dữ và sân hận cĩ khuynh hướng ném bạn vào t́nh trạng bối rối làm cho những vấn đề khĩ khăn của bạn tệ hại hơn.

"Ngay cả về mặt thể chất, sân hận dẫn đến sự biến đổi rất xấu và đáng ghét cho một cá nhân. Chính vào lúc cảm giác giận dữ và sân hận phát sinh, dù người ấy cố gắng giả cách hay làm điệu bộ thế nào đi nữa, nhưng rơ ràng mặt người đĩ trơng nhăn nhĩ và xấu xí. Cĩ một giáng vẻ thật khĩ chịu, người ấy tốt ra sự rung cảm đầy thù nghịch, những người chung quanh cũng cĩ thể cảm thấy điều đĩ. Sự cảm nhận này như là tốt ra từ thân thể người đang giận dữ, rơ ràng đến nỗi khơng những chỉ cĩ người chung quanh cảm thấy mà ngay cả đến thú vật, chĩ mèo cũng cố tránh người đang giận dữ.

"Hơn nữa khi một người chất chứa những ư nghĩ sân hận, những tư tưởng này cĩ khuynh hướng phát triển trong tâm người ấy, và cĩ thể gây ra những vấn đề như ăn mất ngon, mất ngủ, và chắc chắn làm cho người ấy cảm thấy căng thẳng và bực dọc hơn.

""V́ những lư do như trên đây, sân hận được so sánh như một kẻ thù. Kẻ thù trong nội tâm này khơng cĩ chức năng nào khác ngồi việc gây tổn hại. Nĩ thật sự là kẻ thù của chúng ta, kẻ thù đích thật. Nĩ khơng cĩ nhiệm vụ nào khác hơn ngồi việc chỉ để phá hoại chúng ta, cả trước mắt lẫn lâu dài. Nĩ rất khác với một kẻ thù b́nh thường. Một kẻ thù b́nh thường dù cĩ muốn làm hại chúng ta th́ hắn cũng khơng thể ở cạnh chúng ta mỗi ngày 24 giờ đồng hồ như kẻ thù trong tâm chúng ta là thĩi sân hận. Sân hận th́ khác, nĩ tiềm ẩn trong con người chúng ta, khơng làm việc ǵ khác hơn là chờ khi cĩ dịp là bật ngọn lửa giận dữ để đốt cháy tâm hồn chúng ta.

Khơng những lịng sân hận tàn phá sự an vui của chúng ta, nĩ cịn đưa chúng ta tới những hồn cảnh gây nên những việc độc ác, bản thân sau này cĩ hối hận th́ cũng quá muộn, nạn nhân th́ mất mạng, người trả thù th́ để tiếng xấu lại muơn đời như câu chuyện của hai danh sĩ thời Tây Sơn là Ngơ Thời Nhậm và Đặng Trần Thường.

Sử chép rằng:

"Ngơ Th́ Nhậm xuất thân gia đ́nh vọng tộc chốn Bắc Hà, con trai Ngơ Th́ Sĩ. Ơng thơng minh, học giỏi, sớm cĩ những cơng tŕnh về lịch sử. Năm 1775, ơng đỗ tiến sĩ tam giáp, được bổ làm quan ở bộ Hộ. Năm 1778 làm Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên. Khi đĩ cha ơng làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai, xuống lệnh "cầu hiền" t́m kiếm quan lại của triều cũ. Ngơ Th́ Nhậm mang tài năng ḿnh đến với Tây Sơn, gĩp cơng lớn trong chiến cơng đại phá quân Thanh và sau đĩ duy tŕ hịa b́nh với triều đ́nh Càn Long. Quang Trung mất, ơng khơng cịn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học.

Ngơ Th́ Nhậm là một trí thức đa tài: chính trị, quân sự, ngoại giao... Trịnh Sâm khen ơng:" Tài học khơng ở dưới người". Quang Trung ca ngợi ơng: "Thuộc dịng văn học Bắc Hà, thơng thạo việc đời". Riêng về thơ văn trước tác, ơng viết đủ loại: nghiên cứu sử địa, b́nh luận văn hĩa xă hội, thơ phú, vân vân... Thơ Ngơ Th́ Nhậm ẩn chứa những suy nghĩ và cách ứng xử của kẻ sĩ lấy lợi ích dân nước làm trọng. Trong lúc làm quan, ơng nổi tiếng liêm khiết. Tâm hồn ơng học sự trong sạch của thiên nhiên. Nghe tiếng chim hĩt trong trẻo trên cành cao sau mưa, ơng thấy thẹn cho cơi lịng cịn gợn hư danh. Lên núi cao nh́n vào xa rộng ơng giác ngộ: " Lên chơi bừng giấc Nam Kha mộng". Giấc Nam Kha là ư thơ được dùng nhiều trong thơ cổ điển, nhưng Ngơ Th́ Nhậm khơng dùng theo mốt văn chương mà theo kinh nghiệm đời ơng. Kẻ sĩ trong thời nhiễu nhương nhiều nơng nỗi buồn phiền ghê gớm, phải cĩ cách nghĩ cao hơn để vượt trở ngại của thực tế. Cách nghĩ của Ngơ Th́ Nhậm là t́m sự thanh thản trong quy luật của thiên nhiên, của lịch sử.
Năm 1908, sau trận địn thù ở Văn Miếu, ơng tạ thế."

Về trận địn thù này, theo cuốn Nhà Tây Sơn của hai soạn giả Quách Tấn và Quách Giao viết, th́ chuyện xảy ra như sau:

" . . . Ngơ Thời Nhậm và Phan Huy Ích bị giải về Thăng Long và đánh địn tại Văn Miếu. Phan Huy Ích cịn sống trở về nhà. Ngơ Thời Nhâm bị Đặng Trần Thường đánh chết.

Đặng Trần Thường là một danh sĩ Bắc Hà. Lúc Ngơ Thời Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng th́ Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trơng thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm thét bảo Thường:

- Ở đây cần dùng người vừa cĩ tài vừa cĩ hạnh, giúp vua cai trị nước. Cịn muốn vào luồn ra cúi th́ đi nơi khác.

Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gĩi vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh".

Cĩ tài liệu ghi rằng sau khi Chúa Nguyễn Phúc Ánh dẹp xong nhà Tây Sơn, ngồi những chuyện trả thù con cháu Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ và các vơ tướng, một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đĩ cĩ Phan Huy Ích và Ngơ Thời Nhậm. Chủ tŕ cuộc phạt đánh địn đĩ là Đặng Trần Thường.

Vốn cĩ thù riêng, Đặng Trần Thường kiêu hănh ra vế câu đối cho Ngơ Thời Nhậm:
- Ai cơng hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai.

Ngơ Thời Nhậm đáp :
- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.

Đặng Trần Thường sai tẩm thuốc độc vào roi để đánh Ngơ Thời Nhậm. Sau trận địn về nhà, thuốc độc ngấm vào tạng phủ, Ngơ Thời Nhậm qua đời.

Trong câu chuyện, cĩ hai cơn giận. Ngơ Thời Nhậm v́ giận thái độ khúm núm của Đặng Trần Thường, cĩ thể làm mất mặt danh sĩ Bắc hà trước con mắt người Tây Sơn, nên nặng lời mắng Đặng Trần Thường. Đặng Trần Thường bị câu mắng, từ giận thành thù, khi cĩ quyền thế bèn giết Ngơ Thời Nhậm. Tuy chỉ cĩ Ngơ Thời Nhậm chết, nhưng hai cơn giận đă giết hai danh sĩ, một người mất mạng, cịn một người tiêu tan danh tiếng, để lại vết nhơ trong văn học sử, là một người hẹp hịi, tàn ác và sát nhân.

Cho nên Đức Phật đă dạy rằng: “Một ngọn lửa sân đốt cháy cả rừng cơng đức”



Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 6 of 6: Đă gửi: 16 March 2006 lúc 8:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

PHÁP THOẠI VỀ LỄ PHẬT
Quảng Giáo ghi
--o0o--

Tất cả mọi người, một khi đă có ḷng đi đến thắp nhang, cúng Phật, lễ Phật, th́ tất cả những người ấy đă có nhân duyên với Phật Pháp. C̣n những ai đă phát ḷng quy y Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, và thọ tŕ năm giới cấm của người Phật Tử tại gia th́ những vị gọi là Phật Tử tại gia. Giới Phật Tử tại gia nầy là Hộ Pháp đắc lực nhất giúp cho giới Xuất gia đệ tử Phật rất tích cực trong công cuộc Hoằng Pháp Lợi Sanh. Nói chung, là người có nhân duyên với Phật, hay các giới đệ tử Phật tất cả đều có một mục đích chung là Tu Tập, và tự hướng dẫn cuộc đời ḿnh đi vào con đường Chân, Thiện, và Mỹ. Pháp môn tu th́ có rất nhiều, tuy nhiên một trong những Pháp Môn tu tập vừa giản dị vừa đáp ứng cho tất cả mọi người, mà chúng tôi muốn nói ở đây đó là Pháp Môn Lễ Phật. Thông thường th́ việc lễ Phật được coi như là một thông lệ của tất cả mọi người con Phật. Nhưng ở đây chúng tôi lại nói là một Pháp Môn. Mới nghe qua chắc có lẽ quư vị sẽ lạ tai, tuy nhiên nếu suy gẫm cho kỷ th́ chúng ta thấy đây là một Pháp Môn rất thù thắng xuất phát tận đáy ḷng của con người. Truyền thống lạy Phật có từ khi Đức Phật c̣n tại thế. Cứ mỗi lần gặp phật, trên từ những vị Vua, Quan; dưới cho đến những thứ dân từ giàu cho đến nghèo khó, mỗi lần gặp Phật đều cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán ḿnh lên chân Đức Phật. Cử chỉ ấy là để tỏ ḷng ngưỡng mộ bậc tối thượng: Bi, Trí Siêu Phàm. Cử chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu thuận và hoàn toàn tin tưởng vào Đức Phật. Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, toàn thể Tăng, Tín Đồ vẫn xem ngài như c̣n tại thế, và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn c̣n tiếp nối cho đến ngày hôm nay. Cái cử chỉ ấy có công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng h́nh dung như Đức Phật c̣n ngồi trước mặt ḿnh, để chứng giám cho cho tấm ḷng thành kính, tha thiết của ḿnh. Sự kính lễ nầy, càng về sau, căn cứ vào các Kinh Điển, chư liệt Tổ Sư, trong việc hướng dẫn hàng hậu học, sự kính lễ được sắp xếp và được phân tích như sau:
1- Phát Trí Thanh Tịnh Lễ: Trong phép nầy, người hành lễ phải thấu suốt rằng cảnh giới của chư Phật, đều tùy tâm hiện bày, nên lạy một Đức Phật tức là lạy tất cả chư Phật, lạy một lạy tức là lạy tất cả Pháp Giới, v́ Pháp Thân của Phật dung thông.
2- Biến Nhập Pháp Giới Lễ: Trong phép này người hành giả phải tự quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ hồi nào đến giờ đều không rời Pháp Giới.
3- Chánh Quán Lễ: Trong phép nầy người hành giả lạy Đức Phật ngay tự Tâm của ḿnh chứ không duyên với Đức Phật ở bên ngoài. V́ tất cả chúng sanh từ xưa tới nay, đều sẳn có Phật Tánh Viên Măn, b́nh đẳng và chân giác.
4- Thật Tướng B́nh Đẳng Lễ: Trong phép lễ nầy, người hành lễ không thấy có ḿnh có người, phàm thánh nhất như, thể và dụng không hai.
Bốn cách lễ nầy nghĩa lư cao siêu, nếu không phải là bậc thượng căn thượng trí, thí khó mà làm theo cho được. Ngoài bốn cách lễ như ở trên đă nêu ra, hành giả mỗi lần kính lễ phải luôn luôn tâm niệm. Mỗi một lễ trước Tam Bảo, h́nh ảnh của chư Phật, hành giả phải tự quán chiếu:
- Lễ thứ nhất nguyện rằng đệ Tử cùng tất cả chúng sanh sám hối vô lượng tội cấu.
- Lễ thứ hai nguyện rằng đệ tử cùng tất cả chúng sanh tiêu diệt vô luợng tội cấu
- Lễ thú ba nguyện rằng đệ tử cùng tất cả chúng sanh chứa nhóm vô lượng phước trí.
Thấu triệt được những lư lẽ nầy rồi, một khi chúng ta lạy phật, hay chúng ta xá mọi người, chúng ta mới thấy có một giá trị đáng kể. Bởi v́, mỗi cái lạy hoặc một cá xá dài của chúng ta đến mọi người là chúng ta đều nguyện cầu cho tất cả chúng sanh. Đây là tâm nguyện của những người tu theo hạnh Đại Thừa Bồ Tát. Điều nầy chúng ta không lạ ǵ khi thấy những Phật Tử thuần thành thường kính lễ chư tôn trưởng lăo. Bởi lẽ họ biết rằng khi kính lễ như vậy, chính bản thân của họ có nhiều lợi lạc mà ngay tất cả chúng sanh cũng có phước lợi nữa. Do đó mà chư Phật tử cứ mỗi sau ba tháng măn an cư kiết hạ của chư tăng, chư Phật tử thường có những buổi lễ cúng dường chư tăng. Chư Phật Tử sẽ lễ lạy trong dịp nầy, v́ họ biết rằng sau ba tháng an cư, chư tăng tinh chuyên tu tập, giới luật nghiêm minh. Với ư nghĩa nầy người kính lễ th́ được phước, c̣n người đón nhận những sự kính lễ đó nếu không đủ đức th́ sẽ giảm thọ. Để tránh việc giảm thọ, tổn phước, đồng thời cũng là tránh những giây phút cao mạn bất chợt phát khởi, chư tăng thường thiết lập một cái bàn phật phía trước để cho chư Phật tử lễ Phật, c̣n riêng về chư tăng th́ tất cả mọi người đều chung sức cầu nguyện cho tất cả chư Phật tử có Tâm thành.
Bằng vào pháp môn kính lễ, nếu hành giả chuyên cần thọ tŕ, và thấu triệt lư lẽ th́ sự phước báo đó sẽ không thể đo lường được. Trong kinh Kháp Hoa có một đoạn nói về hành tŕnh tu tập với pháp môn kính lễ của ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát Như sau:
             Vào thời kỳ Oai Âm Vương Phật có một vị Tỳ Kheo chẳng chuyên đọc tụng kinh chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quư ngài đều sẽ làm Phật. Trong hàng tứ chúng có người ḷng bất tịnh sanh ḷng giận hờn buông lời ác mắng nhiếc rằng: Ông Vô Trí Tỳ Kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳng dám khinh ngài, mà thụ kư cho chúng ta sẽ thành Phật, chúng ta chẳng dùng lời thụ kư như thế. Trải qua nhiều năm như vậy thường bị mắng nhiếc chẳng sanh ḷng hờn giận thường nói: Ngài sẽ làm Phật. Lúc nói lời nói đó, chúng nhân hoặc lấy gậy, cây, ngói, đá để đánh ném. Ông liền chạy ra xa mà vẫn to tiếng xướng rằng: Ta chẳng dám khinh quư ngài, quư ngài đều sẽ thành Phật. Bởi ḷng ông thường nói lời nói đó, nên hàng tăng thượng mạn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di gọi ông là Thường Bất Khinh.
             Trong đoạn kinh trên cho chúng ta thấy, muốn tu học trước tiên phải lập hạnh, để rồi theo đó mà hành tŕ. Như ở trong Phẩm Pháp Sư và Tuỳ Hỉ Công Đức đều dạy rằng: Nếu người nào thọ tŕ đọc tụng kinh Pháp Hoa một bài kệ một câu kinh th́ vị ấy sẽ thành Phật. Nên Thường Bất Khinh Bồ Tát không đọc kinh thuyết Pháp ǵ cả mà chỉ đi lễ khen ngợi, và bảo người ta rằng: Các ngài đều sẽ thành Phật. Câu nói tuy đơn giản nhưng lại có một giá trị vô cùng huyền diệu. Thấu rơ lẽ kinh nên ngài thường hay thọ tŕ và ghi nhớ măi măi chẳng quên. Ở đây chúng ta thấy ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát thường hay thọ tŕ Kinh, nhẫn nhục chịu đựng những cái khó chịu đựng. Tinh tấn tu tập những cái khó có thể vượt qua mà ngài cũng làm được. Ngài tự tin ḿnh sẽ làm Phật, Tất cả mọi người sẽ làm Phật, nên cho dù mọi người khinh rẻ coi thường nhưng ngài vẫn giữ vững hạnh nguyện của ngài trên đường tu đạo. Nhờ sự kiên nhẫn đó mà ngài thành tựu quả Phật, chúng ta hăy nhận xét một đoạn kinh kế tiếp:
             Vị Tỳ Kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa hư không nghe trọn hai mươi ngh́n muôn ức bài kệ Kinh Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương đă nói thưở trước, nghe xong đều có thể thụ tŕ, liền được nhăn căn thanh tịnh, nhĩ tỷ, thiệt, thân, ư căn cũng thanh tịnh. Được sáu căn thanh tịnh rồi lại sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, rộng v́ người nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ Tát đó giáo hóa ngh́n muôn chúng sanh khiến chúng trụ trong vô thượng chính đẳng chính giác. Sau khi mệnh chung được gặp hai ngh́n ức Phật đồng một hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp Hội của các đức Phật đó thọ tŕ đọc tụng, v́ hàng tứ chúng nói kinh điển nầy, cho nên được mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.và ư được thanh tịnh.
             Trong đoạn kinh trên cho ta thấy: Chủ yếu của sự thọ mệnh là Phước Báo hay Nghiệp Báo. Thường Bất Khinh Bồ Tát thọ tŕ một câu Kinh Pháp Hoa như vậy cho đến trọn đời, đă vậy đến lúc sắp lâm chung lại được nghe và thọ tŕ những bài kệ của Kinh Pháp Hoa do Đức Phật Oai Âm Vương thuyết ra và trao cho. Nhờ Pháp lực thù thắng này mà ngài được sáu căn thanh tịnh và tăng thêm tuổi thọ để thuyết pháp và hàng phục những ác nhân, làm cho họ trở về với chánh đạo. Nhờ nhân hạnh thù thắng cho nên thọ mạng quả báo chủ thể cũng thù thắng, và cuối cùng trở thành bậc chánh đẳng chánh giác.
             Như trên chúng ta thấy lễ Phật cũng là một phương pháp tu, tuy nhiên có lợi ích hay không c̣n tuỳ thuộc vào từng cá thể. Nếu coi sự lễ bái như là một việc yếu đuối, khẩn cầu xin xỏ th́ thật không nên và không đúng. Bởi v́ theo tôn chỉ của đúc Phật ngài không dạy và cũng không bó buộc tín đồ, đệ tử của ngài phải quỳ lụy cuối đầu, sợ hải vâng lệnh. Đă vậy ngài c̣n khuyến khích các con phải tự thắp đuốc mà đi. Đây là tinh thần tự chủ tự lập. Ngài cũng không buộc mọi người vâng dạ nhắm mắt tin theo mà ngài c̣n khuyến khích mọi người hăy đến để nghe chứ không phải đến để tin. Sau khi nghe và có tin hay không đó là quyền tự quyết của mỗi cá thể. Nên coi sự lạy Phật là phương pháp tu: Một là để diệt trừ bản tánh cao ngạo của chính ḿnh. Hai là chúng ta bày tỏ tấm ḷng tri ân sâu xa của chính chúng ta đối với bậc đă hy sinh tất cả những hạnh phúc riêng ḿnh cho chúng sanh nhân loại. Hiểu được như vậy và chúng ta thực hành một cách thành tâm, thiện chí và đúng ư nghĩa th́ sẽ đem lại nhiều phước báo trong cuộc sống hiện tại và đời kiếp ở tương lai.
-- o0o --
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.7090 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO