Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 184 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Vượt Khỏi Giáo Điều ( Beyond Dogma ) Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 10: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 10:59pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

VƯỢT KHỎI GIÁO ĐIỀU (BEYOND DOGMA)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt Dịch: Tâm Hà Lê Công Đa


Hy vọng rằng cuốn sách này đóng góp thêm vào mối thông cảm chung vượt ra ngoài biên giới của giáo điều học thuyết, và cho cả b́nh an của tâm hồn và hoà b́nh thế giới.
Đức Đạt Lai Lạt Ma,
France, 1993


Lời Người Dịch

Thế giới bước vào thiên niên kỷ mới mang theo cùng với nó những vấn nạn lớn của con người muôn thuở trên khắp các mặt chính trị, kinh tế, xă hội, môi sinh, như là những hệ quả tiếp nối của một thế kỷ đầy biến cố sôi động. Bên cạnh đó, khoa học kỹ thuật với tốc độ phát triển nhanh chóng đă mang đến cho nhân loại những thành tựu vượt bực, nổi bật nhất là trong hai bộ môn Tin học và Sinh học. Tất cả đă góp phần làm thay đổi khuôn mặt thế giới cả trên hai b́nh diện nhận thức lẫn cơ cấu. Các quốc gia, các cấu trúc xă hội kể cả tôn giáo hiện đang rung chuyển, và tùy theo mức độ của ḿnh đang cố gắng chuyển ḿnh để bắt kịp tốc độ thay đổi nhanh chóng đó. Những đổi thay này cũng mang đến cho con người của thiên niên kỷ mới những khủng hoảng mang tính thời đại. Đó là các cuộc khủng hoảng về tâm linh, về bản sắc và cơ cấu. Đối diện với các cuộc khủng hoảng sâu sắc này, những người tự thấy có ư thức trách nhiệm góp phần mở ra những phóng lộ cho tương lai không thể không quay trở về với những giá trị tinh thần đă được thử thách với thời gian, trong đó có Phật giáo, và họ đă t́m đến một khuôn mặt có trọng lượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ mười bốn là một trong những nhà lănh đạo tinh thần được thế giới tôn kính, không phải chỉ do những kiến thức uyên thâm của Ngài về giáo lư mà c̣n là những hiểu biết sâu sắc của Ngài về những khía cạnh của cuộc sống đời thường được nh́n qua lăng kính Phật giáo. Với kiến thức quảng bác và một tầm nh́n rộng mở, không biên kiến, Ngài được xem như là một vị cố vấn tinh thần của nhân loại trong thời đại ngày nay. Trong chuyến viếng thăm nước Pháp vừa qua, một xứ sở từ lâu vẫn được coi như là một trong những chiếc nôi của tư tưởng nhân loại, Ngài đă có dịp gặp gỡ, trao đổi quan điểm với giới trí thức Âu Châu, cụ thể là trí thức Pháp, liên quan đến tất cả các vấn đề đương đại. Tác phẩm ”Vượt Khỏi Giáo điều" của Đức Đạt Lai Lạt Ma được ra đời trong khung cảnh này. Đó là một tập hợp những bài nói chuyện, thuyết giảng, và đặc biệt là những cuộc đối thoại phản ánh hầu hết những suy nghĩ , những lư giải về các vấn nạn đang chi phối nhân loại trong thiên niên kỷ mới. Từ những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cá nhân con người như t́nh dục, ngừa thai, phá thai, Đức Đạt Lai Lạt Ma đă đề cập đến những vấn nạn ở tâm mức cao hơn liên quan đến những bất công trong xă hội, hố sâu ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, giữa các quốc gia nhược tiểu và tiên tiến và đây chính là đầu mối của các cuộc xung đột chính trị, hoặc đôi khi được núp bóng dưới danh nghĩa tôn giáo, như đang xảy ra trên thế giới hiện nay.

Như một vị lương y nh́n rơ được bệnh thái, thấy được nguyên nhân sâu xa những khổ nạn của con người, Đức Đạt Lai Lạt Ma, với tư cách là một Phật tử có trách nhiệm, cũng đă cống hiến cho nhân loại những phương thức trị liệu mà Ngài nghĩ rằng Phật giáo có thể chia xẻ, góp phần để giải quyết những vấn nạn, khủng hoảng này. Giải pháp mà Ngài đưa ra được xây dựng trên tinh thần nhân bản và khai phóng của Phật giáo, lấy Đại Từ Bi làm nền tảng, Trung Đạo là hướng đi chủ yếu, và Bất Bạo Động là phương châm hành động. Đây là thông điệp chính mà Đức Đạt Lai Lạt Ma muốn rao truyền cho con người thời đại, là sợi chỉ vàng xuyên suốt tác phẩm ”Vượt Khỏi Giáo điều”. Từ Bi, Trung Đạo và Bất Bạo Động như thế phải được thể hiện ở mọi cấp độ của cuộc sống, trong nhận thức lẫn hành động ngơ hầu xây dựng được sự b́nh an nội tâm trong mỗi con người để tiến đến việc kiến tạo một thế giới an lạc. Tin tưởng một cách vững chắc vào bản chất thiện lương vốn có của con người, Ngài hy vọng tâm thức của nhân loại sẽ chuyển hoá theo hướng tốt lành. Đó cũng là hy vọng của mỗi chúng ta, những người Phật tử đang thực hành Bồ Tát Đạo trong tâm nguyện chuyển hoá nhân gian thành Tịnh Độ.

Đức Đạt Lai Lạt Ma qua ”Vượt Khỏi Giáo điều” cũng đă phân tích một cách rơ ràng tinh thần Bất Bạo Động của Phật giáo và khẳng định rằng t́m kiếm hoà b́nh qua đường lối bất bạo động chính là sự kết hợp giữa trí tuệ và các phương tiện thiện xảo, đó là lư do giải thích tại sao Ngài đă áp dụng phương sách này trong cuộc đấu tranh chính nghĩa dành độc lập cho Tây Tạng hiện nay. Nhiều người có thể không đồng ư với Ngài về phương thức đấu tranh bất bạo động, nhưng một điều ta không thể không đồng ư với Ngài là dưới chính sách diệt chủng và hủy diệt văn hoá của Trung Cộng, quốc gia Tây Tạng hiện đang đứng bên bờ vực thẳm của nạn diệt vong. Dưới sự thống trị của Trung Cộng, Tây Tạng hiện đang xuống cấp trầm trọng trên các lănh vực môi sinh, nhưng điều tệ hại nhất theo Đức Đạt Lai Lạt Ma là việc Trung Cộng đă sử dụng toàn bộ đất nước này trở thành kho chứa vũ khí nguyên tử, biến Tây Tạng thành một bải rác chứa các chất thải nguyên tử của họ. Trước t́nh h́nh này, Ngài đă lên tiếng cảnh báo cùng dư luận thế giới về hiểm hoạ ô nhiễm các gịng sông lớn tại Á Châu do t́nh trạng nhiễm độc tại đầu nguồn, nói rơ ra là tại Tây Tạng do Trung Cộng gây ra cho toàn khu vực và các quốc gia sống dọc theo những ḍng sông này, kể cả Ấn Độ, Bangladesh, Hồi Quốc, Thái Lan, Lào, và như một định mệnh lịch sử ,Việt Nam sẽ là một quốc gia nạn nhân nằm ở điểm cuối của một trong những ḍng sông lớn này, Cửu long giang.

”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó c̣n tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành tŕnh tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này. Bằng một ngôn ngữ trong sáng và giản dị, trong tác phẩm này Đức Đạt Lai Lạt Ma đă triển khai hai lư thuyết triết học căn bản của Phật giáo là Duyên Khởi và Tánh Không, đối chiếu và lư giải chúng dưới ánh sáng khoa học, làm nổi bật được yếu tính của Phật giáo như là một tôn giáo được xây dựng trên cơ sở thuần lư, không phải là một tôn giáo dựa trên những niềm tin mù quáng. Ngài cũng vạch rơ cho ta thấy những tác hành của nghiệp báo và luật nhân quả, những nguyên nhân đưa đến phiền năo khổ đau, của ṿng luân hồi sinh tử không bao giờ chấm dứt. Và cuối cùng, bằng hiểu biết và kinh nghiệm bản thân của một đời người hành tŕ, tu tập cả Hiển giáo lẫn Mật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma đă chỉ cho ta con đường vượt thoát vô minh để tự giải phóng ḿnh. Với bồ đề tâm kiên cố, bằng quán chiếu và thiền định không mỏi mệt, con người cuối cùng sẽ t́m thấy được bản tánh chân thật của ḿnh, đó là nguồn linh quang trong suốt, đó là sự thực rốt ráo, là thực chứng Niết Bàn, là đạt thành Phật quả.

Như đă tŕnh bày, tác phẩm này đă ghi lại một cách trung thực những buổi nói chuyện, những cuộc đối thoại của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Do chủ đích của người ghi chép muốn cố gắng giữ đúng nguyên văn và tính cách sống động của cuộc đối thoại nên người đọc có thể bắt gặp những đoạn có ư tưởng trùng lặp, hoặc đôi khi có những chuyển ư đột ngột từ ư tưởng này qua ư tưởng khác mà người ta thường gặp phải trong khi nói chuyện. Ngoài ra, v́ bối cảnh của cuộc nói chuyện diễn ra tại Pháp, thế nên khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập đến các khái niệm Đông - Tây ta nên hiểu đó là hai khối Đông Âu và Tây Âu (tức cộng sản và tự do trước thời chiến tranh lạnh), và Nam - Bắc tức là các quố c gia Âu Châu phát triển so với các quốc gia chậm tiến Phi Châu.

Bản dịch này được ra đời trong khuôn khổ chương tŕnh dịch thuật của Đạo Phật Ngày Nay do ĐĐ. Thích Nhật Từ chủ trương. Dịch giả nhân đây xin được chân thành cảm tạ ĐĐ Nhật Từ cùng một số đạo hữu, đặc biệt ĐH Hoa Ngọc, đă tạo điều kiện và thuận duyên để dịch phẩm này sớm được hoàn tất. Nếu dịch bản này có những khiếm khuyết nào xin chư tôn đức, cùng qúy thiện hữu trí thức hoan hỷ góp ư kiến để sửa chữa cho lần xuất bản tới được hoàn chỉnh hơn. Ngoài ra nếu có được chút công đức nào trong việc dịch thuật này, dịch giả xin được hồi hướng đến muôn loài chúng sanh để không c̣n oan trái lẫn nhau, nguyện cầu cho đất nước và Phật giáo Tây Tạng sớm vượt qua khổ nạn, và riêng đối với cá nhân, xin được cầu nguyện đến cửu huyền thất tổ được siêu sinh tịnh độ.

Tâm Hà Lê Công Đa.
20-02-2002


LỜI NÓI ĐẦU

Tenzin Gyatso tức Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, có thể được xem như là một Phật tử nổi tiếng nhất trên hành tinh của chúng ta. Người “tăng sĩ b́nh thường” này, Ngài thường tự gọi ḿnh như thế, đă trở thành một nhân vật nổi bật trên trường quốc tế kể từ thập niên 1950, khi mà hàng ngàn dân Tây Tạng, trẻ già trai gái đă phải chạy trốn khỏi nơi chôn nhau cắt rốn để chấp nhận cuộc sống lưu vong trên đất Ấn cũng như những nơi khác. Đoạt giải thưởng Nobel Hoà B́nh năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma đă được hàng chục ngàn người từ Á châu, đến tận vùng đất Sô Viết cũ cũng như cả phương Tây coi như là vị Phật sống của thời đại.

Vượt Khỏi Giáo Điều (Beyon Dogma) là một tuyển tập gồm những bài nói chuyện, trao đổi đối thoại của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong chuyến viếng thăm Pháp quốc năm 1993. Được hiệu đính lại để có thể giữ nguyên được tính chất sống động và bầu khí cởi mở của những buổi gặp gỡ giữa Ngài và các nhóm tiếp xúc, cuốn sách này đă đưa người đọc tiếp cận với tính cách đa dạng của những quán chiếu sâu sắc liên quan đến các vấn nạn mà nhân loại có thể sẽ phải đương đầu trước ngưỡng cửa của tân thiên niên kỷ.

Cuốn sách này được phân bố thành năm phần chính. Trong bốn phần đầu của cuốn sách, Đức Đạt Lai Lạt Ma phản ánh những suy nghĩ của Ngài về tất cả những vấn nạn xă hội, chính trị mà nhân loại hiện đang phải đối diện, và trong phần cuối của cuốn sách, Ngài trả lời những câu hỏi liên quan đến bản chất rốt ráo của thực tại cũng như vị trí của con người trong vũ trụ. Tuy nhận thức được những thách đố khó khăn mà mọi công dân cũng như các nhà lănh đạo thế giới hiện phải đối đầu, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng giúp cho ta nh́n về tương lai với niềm hy vọng, trên căn bản của một tâm hồn tỉnh thức biết tận dụng mọi cơ hội để chuyển hóa và bảo tồn các giá trị tốt đẹp, cao qúy nhất. Ngài cũng cho ta thấy bằng cách nào mà mọi chiều kích của hiện thể duyên sinh của chúng ta đă tham dự một cách hoà điệu vào khúc luân vũ của sự sống c̣n và phục hưng, sự hoà điệu của tinh thần con người được khúc xạ thông qua lăng kính của các thói tục: tâm lư, văn hoá và chính trị.

Trong Phần thứ nhất, “Những Quán tưởng về Tân Thiên niên kỷ”, Đức Đạt Lai Lạt Ma là một nhà khoa học chính trị nắm bắt được các thách đố của thời hậu Chiến Tranh Lạnh. Bắt đầu với một nhận xét đơn giản: Giống như tất cả mọi con người đang sống trên trái đất này, thỉnh thoảng Ngài cũng bị vây bủa bởi những nỗi khó khăn, đối diện với những phiền muộn, lo lắng, hoang mang. Và bởi v́ không có một giải pháp rốt ráo nào cho nỗi khổ đau, con người thường phải chấp nhận những vấn nạn này, thế nên Ngài có thói quen thường nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hạnh phúc và sự thành đạt, mà Ngài xem đó như là “ cứu cánh của đời người”.

Trong Phần Thứ Hai, “Tâm Linh và Chính Trị”, Đức Đạt Lai Lạt Ma khảo sát tỉ mỉ về vai tṛ của ḷng từ ái và xem đó như là nền tảng cho một xă hội có đạo lư. Cùng với sự tu dưỡng hạnh nhẫn nhục, ḷng từ ái tạo ra một bối cảnh hài hoà cho nền giáo dục khoa học kỹ thuật đi đôi với đạo đức học. Áp dụng vào lănh vực nhân quyền trên b́nh diện quốc tế, những phẩm chất tốt đẹp của từ bi và nhẫn nhục có thể được kết hợp với việc thực hành tinh thần bất bạo động trên căn băn của ḷng nhân đức và vị tha. Những thái độ này là một cách thế giải trừ mầm móngï cạnh tranh độc hại hiện nay, hậu qủa của sự tích lũy những cái nh́n thiển cận.

Trong Phần Thứ Ba, “Bất Bạo Động: Một Tâm Gương Để Noi Theo“, Đức Đạt Lai Lạt Ma thảo luận một cách thẳng thắn cùng chúng ta về những bài học được rút ra từ lịch sử đau thương của quốc gia Tây Tạng, tương lai của quốc gia này trong mối quan hệ với Trung quốc, cũng như những đổi thay trong vai tṛ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Là một nhà tư duy luôn luôn mang tinh thần độc lập, Ngài cũng đề cập đến khả năng có thể có một vị nữ Đạt Lai Lạt Ma trong tương lai, và phát biểu về vấn đề này một cách giản đơn: “Không có trở ngại nào trên mặt lư thuyết”. Liên quan đến những khát vọng đấu tranh vũ trang dành độc lập mà giới trẻ Tây Tạng đang bày tỏ hiện nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma đă tỏ ra thông cảm những t́nh cảm bức xúc của họ nhưng đồng thời cũng lên tiếng cảnh giác chống lại thái độ bạo động. Phần này được kết thúc bàng bài thơ “Ngôn Đế” do Đức Đạt Lai Lạt Ma sáng tác như một lời nguyện cầu chấm dứt những đau thương, thống khổ của đất nước Tây Tạng.

Trong Phần Thứ Tư, “Vượt Khỏi Giáo Điều,” Đức Đạt Lai Lạt Ma đă phác thảo một phương thức tiếp cận với cái mà chúng tôi tạm gọi là “Chủ thuyết tâm linh hoàn vũ”, đồng thời đề nghị một số phương thức giúp chúng ta cảnh giác chống lại sự cám dỗ của h́nh thức tôn giáo kinh viện mang tính xơ cứng, giáo điều, thường là mảnh đất ươm mầm tinh thần bất khoan dung trong tôn giáo. Trong khi nhấn mạnh đến tính cách quan quan trọng của sự hoà đồng tôn giáo, Ngài đồng thời cũng nêu rơ rằng mỗi tôn giáo đều có nét độc đáo riêng, những phẩm chất đặc biệt của nó. Như vậy tất cả mọi truyền thống tôn giáo đều có cùng chung một mục tiêu, đó là mang niềm hạnh phúc chân thật đến cho con người. Vấn đề là làm thế nào để ta có thể sống một cuộc sống hạnh phúc vượt qua khỏi giáo điều ràng buộc? “Bạn phải luôn luôn giữ cho tâm hồn ḿnh hạnh phúc và biết mĩm cười!“

Phần Thứ Năm, “Duyên Khởi và Tánh Không,” chứa đựng những quán chiếu tinh tế và khoa học mà các nhà khoa học và triết gia đă chất vấn Ngài trong các cuộc trao đổi, gặp gỡ. Trong phần này Ngài đă vận dụng nguồn mạch phong phú của triết học và luận lư học Phật giáo, cùng với những kiến thức đáng kể của Ngài về khoa học kỹ thuật Tây phương, để soi chiếu vào tận cùng các bí ẩn của kiếp nhân sinh và vũ trụ. Đi đến cốt lơi của vấn đề, các nhà vật lư lượng tử và Phật tử cùng đồng ư với nhau rằng, thực tại là nghịch lư. Nhưng làm thế nào để các nguyên lư của vật lư học cùng với những tuệ giác bí truyền của các nhà du già có thể bổ túc cho nhau và bằng cách nào thức giác trở thành phần cấu trúc cơ bản của vũ trụ?

Bằng những quán sát được rút ra một cách chọn lọc từ giáo lư căn bản của Phật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng giải thích cho chúng ta làm thế nào mà những năng lực của trùng trùng duyên khởi chính là sự hiển lộ của trí tuệ sâu sắc không c̣n bị giới hạn, thành kiến trói buộc. Như thế, điểm cốt lơi nhất của bí mật giáo truyền, là pháp vượt ra ngoài mọi giáo điều, học thuyết, pháp không là thực thể để có thể được tàng trữ, cất giữ. Quả là tin mừng. Một tâm thức hoàn toàn rộng mở giúp chúng ta lư do để hy vọng, không cần biết bao nhiêu lần chúng ta bị tách rời khỏi nguồn linh quang trong suốt, tri kiến về nó vẫn luôn luôn hiện hữu. Nguồn linh quang này chính là nhịp đập tuôn chảy không ngừng như một biểu hiện của ḷng từ ái. Nó hiện hữu trong tất cả mọi dạng của đời sống, trong mọi tâm hồn mà các triết gia, nhà khoa học, thánh nhân đều có thể nhận biết được.

Vượt Khỏi Giáo Điều chứa đựng một thông điệp phổ quát. Trong thời buổi đói khát tinh thần này, những cuộc đối thoại, những bài nói chuyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một con người mà mối quan tâm chính là muốn rao truyền thông điệp của ḷng hy vọng và từ ái, giúp cho ta cảm giác như được vỗ về, nuôi dưỡng. Là một người giàu óc khôi hài tế nhị, Đức Đạt Lai Lạt Ma đă cống hiến trọn cả đời ḿnh để mang lại an ủi, hiểu biết cho bất cứ ai muốn t́m kiếm một cuộc sống măn nguyện và hạnh phúc.

Steven D. Goodman
Institute of Buddhist Studies
Berkley, California
May, 1996

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 2 of 10: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 11:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG QUÁN TƯỞNG VỀ TÂN THIÊN NIÊN KỶ

Hôm nay tôi lại được nh́n thấy một số khuôn mặt quen thuộc cũ tuy nhiên đây cũng là lần đầu tiên tôi hân hạnh gặp gỡ đa số qúy vị. Điều này cũng chẳng có ǵ quan trọng bởi v́ đi bất cứ nơi đâu tôi cũng luôn luôn có cảm giác là được gần gũi những con người giống như chính bản thân tôi. Hiển nhiên chúng ta đều là những con người trọn vẹn với ư nghĩa của nó, đặc biệt là khi khuôn mặt chúng ta rạng rỡ những nụ cười nói lên những cảm t́nh chân thật của một con người. Tôi đă nh́n thấy những cảm xúc chân thành đó trên hầu hết những khuôn mặt của mọi người và cho tôi được hân hạnh chia xẻ cùng qúy vị. Cảm giác thân thiện này luôn luôn tràn ngập tâm hồn tôi cùng với ư thức về tính cách nhất thống của nhân loại. Thái độ suy nghĩ này theo tôi, rất là quan trọng bởi v́ nó giúp ta nhận ra và chia xẻ những vấn nạn, khổ đau của tha nhân.

Mặc dù nh́n nhân loại như một tổng thể nhưng ta phải công nhận rằng không phải là không có những yếu tố làm chia cách chúng ta chẳng hạn như tín ngưỡng, phong tục tập quán, ngôn ngữ, và văn hoá. Tuy rằng tính cách đa dạng này có thể làm cho cuộc sống phong phú thêm nhưng chúng ta cũng đừng nên quá đặt nặng vào nó v́ không khéo sẽ làm tổn thương đến tính cách thống nhất của con người hoặc để rồi phải đối đầu với những vấn nạn vô nghĩa.

Hơn lúc nào hết, thế giới hôm nay đang trên đà gia tăng dân số và sự tiến bộ trên lănh vực truyền thông làm cho chúng ta trở nên gần gũi với nhau, sự sống c̣n của nhân loại v́ thế phần nào dựa trên mối quan hệ hổ tương giữa những con người. Đó là lư do tại sao mà hơn lúc nào hết, bây giờ chúng ta phải nh́n nhân loại như một thực thể duy nhất. Những vấn nạn mà chúng ta hiện đang đương đầu đă vượt ra khỏi tầm vóc của cá nhân hay quốc gia. Chúng ta chỉ có thể giải quyết nó bằng nỗ lực của tinh thần chia xẻ trách nhiệm chung.

Thái độ tinh thần của chúng ta có vẻ như hoàn toàn không đáp ứng với những nhu cầu khẩn thiết hiện nay. Bởi thế tốt nhất là chúng ta cần phải nắm vững thực tại để có thể chuẩn bị cho ḿnh một thái độ tinh thần, nếp sống, sinh hoạt tương xứng.

NHỮNG SUY NGHĨ VỀ XĂ HỘI HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI CỦA THẾ GIỚI

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài có ưu điểm là đang sống gần gũi với cả hai giá trị Tây phương lẫn Đông phương, một bên được gọi là những xă hội tiện nghi hưởng thụ c̣n một bên là những xă hội mang tính bảo thủ truyền thống. Cả hai hiện đang ở giữa một cuộc khủng hoảng đạo đức chưa từng thấy. Xin được nghe ư kiến của Ngài về vấn đề này mà chúng tôi nghĩ là những lời khuyên sẽ mang đến rất nhiều lợi lạc. Chúng tôi cũng rất muốn biết cảm tưởng của Ngài về tương lai của thế giới mà chúng ta đang sống. Tuy nhiên trước tiên, nếu có thể được, xin Ngài vui ḷng phác thảo ra những nét chính về triết học Phật giáo để chúng tôi dễ dàng trong việc theo dỏi ḍng tư tưởng của Ngài.

Tôi không bao giờ nghĩ rằng ḿnh là người có khả năng đưa ra những lời khuyên bảo có thể giúp cho những ai đang gặp khó khăn trong việc t́m kiếm cho ḿnh một giải pháp thoát khỏi những khổ đau tinh thần hay bất cứ những khổ đau nào khác. Ngay chính bản thân tôi, đôi khi cũng cảm thấy ḿnh hoang mang, băn khoăn, lo lắng kể cả những lúc chính ḿnh phải trực diện với những xung đột nội tâm. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để chúng ta cùng nhau chia xẻ những quan điểm khác biệt cũng như những kinh nghiệm cá nhân đa dạng cuả chúng ta.

Tôi thường có thói quen nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hạnh phúc và sự thành đạt, mà tôi tin rằng đó chính là cứu cánh của đời người. Thí dụ,ï một người tự chọn bước vào một cuộc hành tŕnh tâm linh bằng tất cả nỗ lực phi thường, thách đố mọi khó khăn gian khổ không phải chỉ với một mục đích đơn giản là để được trở thành một kẻ tử v́ đạo, mà chắc chắn là họ hy vọng t́m kiếm cho ḿnh một niềm hạnh phúc lâu dài. Để đạt được mục đích này, họ có thể đă không thèm quan tâm tới những phúc lợi cá nhân trong đời sống hiện tại. Cho nên theo tôi, cách thức mà chúng ta suy nghĩ rất là quan trọng trong việc t́m kiếm hạnh phúc. Chính thái độ tinh thần cuả chúng ta mới là một trong những yếu tố hàng đầu trong việc kiếm t́m hạnh phúc.

Quán chiếu và phân tích sự việc một cách có luận lư sẽ giúp chúng ta phát triển một lối tư duy đúng đắn. Nếu tâm hồn chúng ta càng rộng mở càng thư giản chừng nào, chúng ta sẽ càng dễ dàng có một cái nh́n chính xác về sự vật chừng ấy. Nó cho ta hai lợi điểm. Nếu ta để cho tâm hồn ta mở ngỏ, trước tiên nó sẽ làm cho ta thanh thản, thoải mái với chính ḿnh. Và như vậy, một khi tầm nh́n của chúng ta không c̣n bị hạn chế, ta sẽ rất dễ dàng t́m ra cho ḿnh những giải đáp trước những vấn nạn, khó khăn.

Chúng ta là những con người sống trên trái đất này cùng với vô vàn những con người khác, hạnh phúc của chúng ta quan hệ mật thiết với hạnh phúc của đồng loại. Thật khó mà tưởng tượng nổi rằng hạnh phúc của cá nhân tách rời, không lệ thuộc với hạnh phúc của người khác. Cho nên một điều chắc chắn rằng nếu chúng ta khát khao hạnh phúc cho chính ḿnh, chúng ta cũng phải quan tâm một cách sâu xa đến hạnh phúc của toàn thể nhân loại. Đó là lư do tại sao tôi thường hay nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc triển khai mộït ư thức trách nhiệm phổ quát cho tương lai.

Trong tôn giáo của chúng ta, trong những lời nguyện cầu của chúng ta thường hay nói đến “phúc lợi của toàn thể nhân loại” hoặc “hạnh phúc của con người”. Thế nhưng khi tôi nói đến sự cần thiết của một trách nhiệm phổ quát, nó không phải chỉ đơn thuần là một lư tưởng tôn giáo mà là một thực tế bao hàm cả hai mặt hành động và dấn thân tham dự.

Những thay đổi lớn lao của thời đại đă làm biến đổi khuôn mặt của thế giới, đặc biệt là trong lănh vực truyền thông giữa con người. Hăy lấy Tây Tạng và những dân tộc quanh vùng Hy Mă Lạp sơn làm thí dụ. Đă có một thời người ta có thể sống một cách biệt lập trên những vùng núi non cao thẳm. Tuy nhiên, t́nh huống này đă không c̣n xảy ra trong một thế giới lắm đổi thay, cho dù ngay cả chúng tôi muốn sống biệt lập, cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài.

Bây giờ xin mời qúy vị hăy cùng tôi nh́n phớt qua khía cạnh phát triển kinh tế. Thật khó mà tưởng tượng nổi rằng trong thời đại hôm nay lại có một quốc gia hay một lục địa sống hoàn toàn dưới một chế độ chuyên chế. Một điều rơ ràng rằng, không những các quốc gia đơn thuần mà ngay cả những châu lục cũng phải sống nương tựa vào nhau trên b́nh diện kinh tế.

Rồi đến lănh vực trao đổi thông tin và kiến thức, khoảng cách không gian đă không c̣n là một chướng ngại, vấn đề truyền thông chung quanh trái đất này bây giờ chỉ diễn ra trong ṿng nháy mắt. Lúc c̣n trẻ, Ấn Độ và Trung Quốc đối với tôi quả thật là xa xôi diệu vợi, bởi v́ phải tốn cả tháng trời mới có thể đi đến đó được. Bây giờ th́ chỉ cần vài tiếng đồng hồ là người ta có thể đi từ Ấn Độ đến AÂu Châu hay từ AÂu Châu đi Mỹ quốc. Dĩ nhiên những cuộc hành tŕnh bằng máy bay này có thể làm cho chúng ta mệt mỏi nhưng nó khẳng định một điều rằng phía bên kia trái đất đang nằm ở trong tầm tay với của chúng ta. Thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé và mỗi phần của nó lại phải nương tựa vào những phần khác. Hăy lấy thí dụ về lănh vực môi trường, một quốc gia riêng lẻ, cho dù là một siêu cường đi nữa cũng không thể nào một ḿnh tự giải quyết được những vấn nạn lớn lao về môi trường, như là sự xói ṃn tầng ô-dôn chẳng hạn.

Thực tế hôm nay cho thấy trái đất của chúng ta trở nên nhỏ bé hơn và tất cả mọi người, tất cả mọi quốc gia đều phải sống nương tựa chặt chẽ vào nhau. Thế nhưng về mặt tâm linh, về mặt tinh thần có vẻ như chúng ta chưa được chuẩn bị để theo kịp với thực tế cho nên đă không ḥa điệu được với khuynh hướng phụ thuộc ngày càng gia tăng. Từ không gian nh́n xuống trái đất, có ai thấy được những biên giới chia cắt các quốc gia? Chắc chắn là không! Cũng thế, nếu ta quán tưởng sâu xa về sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng trên trái đất, những vấn nạn nhỏ bé cục bộ của chúng ta sẽ mất đi sức nặng và từ đó chúng ta sẽ bắt đầu nh́n sự vật trong tính toàn cầu, trong khái niệm chung của con người muôn thuở.

Trong ư nghĩa đó, khái niệm về “anh” và “tôi” đă mất đi tính ưu tiên của nó, và khi ta nhận thức rơ điều này, ḍng tư tưởng sẽ tự động dẫn ta đến một cảm giác sâu xa hơn về một ư thức trách nhiệm đối với điều thiện phổ quát. Thế cho nên, ta càng dính dấp vào những chuyện mang tầm vóc thế giới nói chung, ta càng cảm thấy b́nh yên hơn, hạnh phúc hơn trong đời sống cá nhân. Điều đó cũng có nghĩa là nếu ta biết chăm sóc đến tha nhân, quan tâm đến phúc lợi của người khác chừng nào, ta sẽ bớt dần đi những thói xấu ganh tỵ, kiêu căng, độc ác chừng ấy. Không nghi ngờ ǵ nữa, những thói xấu đó cọng với tinh thần cạnh tranh ganh đua đă làm cho chúng ta sống không hạnh phúc trong mỗi ngày qua. Thế nhưng khi ta quan tâm đến phúc lợi của mọi người như là của chính chúng ta, tự nhiên ta sẽ cảm thấy một niềm an lạc lớn lao tràn ngập tâm hồn.

Cách đây chẳng bao lâu, thế giới này đă bị phân chia thành hai khối, Đông và Tây. Sự phân cách này đặt căn bản trên ư thức hệ chính trị hơn là kinh tế. Một khi mà vũ khí nguyên tử của phe này nhắm vào phe kia, người ta không thể nói đến chuyện trợ giúp nhau mà phải nh́n thẳng vào thực tiễn thế giới trên căn bản của khái niệm “anh” và “tôi”, của “chúng ta“ và “họ“. Như thế đó, thế giới đă bị chia cách bởi ư thức hệ và quyền lực. Để tự bảo vệ ḿnh, hai phe sẵn sàng chấp nhận nguy cơ bị tiêu diệt bởi một trận chiến nguyên tử. Trong những t́nh huống như vậy, những suy nghĩ của chúng ta không thể không bị đóng khung trong ư niệm cái này là của chúng tôi, cái kia là của họ. Nhưng bây giờ kỷ nguyên đó có thể đă qua rồi, chúng ta mường tượng đang bước vào một trật tự thế giới mới.

Mấy năm trước đây, trong dịp hội kiến với Tổng thống Bush tôi có phát biểu rằng trật tự thế giới mới sẽ là một điều rất tuyệt vời nếu được kết hợp với tinh thần từ bi. Nếu không có từ bi, tôi sợ rằng nó sẽ không thể thành công. Chúng ta đang bước vào một thời điểm rất thuận lợi và quan trọng của lịch sử thế giới. Đây là lúc mà chúng ta có cơ hội để ngồi lại làm việc cùng nhau cho những mục tiêu tốt đẹp của nhân loại.

Khi ta suy nghĩ về một ư thức trách nhiệm chung và có một cái nh́n về lâu về dài về mọi chuyện, vấn đề kiểm soát sinh sản trở nên cần thiết. Trên quan điểm của người con Phật, sự hiện hữu của con người là một điều vô cùng qúy giá, thế nên, việc ngăn ngừa sinh sản có vẻ như không được đúng đắn. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang đối đầu với t́nh trạng quá tải về dân số mà thế giới có thể chịu đựng, thế nên khi có sự chọn lựa giữa một bên là sự sống c̣n của nhân loại và một bên chỉ là một số lượng nhỏ của những kẻ sắp ra đời, hiễn nhiên, chuyện kiểm soát sinh sản là một điều cần thiết. Nhưng tôi cũng cần phải nhấn mạnh ở đây là, biện phápï kiểm soát phải mang tính cách bất bạo động.

Những biến chuyển của t́nh h́nh thế giới đă đưa đến việc tiết giảm, kể cả hủy bỏ các loại vũ khí nguyên tử, một điều mà ai cũng thấy là rất tuyệt vời. Việc giải trừ quân bị là một điều cần thiết. Tất cả các loại vũ khí hiện có nên được tiết giảm từng loại một, từ các loại vũ khí của chiến tranh quy ước, đến chiến tranh hóa học cũng như vũ khí nguyên tử. Thực tế cho thấy việc ngưng sản xuất vũ khí có thể gây nên những vấn nạn trầm trọng cho nền kinh tế và kỹ nghệ. Tuy nhiên những khó khăn đó tôi nghĩ là không đáng giá so với phúc lợi chung của nhân loại, ta nên từ bỏ nó trong khi kiếm t́m một giải pháp khác để giải quyết vấn đề.

Những khác biệt về truyền thống tôn giáo cũng là một khía cạnh quan trọng trong thế giới này và tôi tin chắc rằng đa tôn giáo là một điều vô cùng cần thiết. Ta không chối căi rằng những tôn giáo khác nhau đă đưa ra những quan điểm siêu h́nh khác biệt, tuy nhiên một điều rất rơ ràng là những thông điệp căn bản của các tôn giáo chính đều rất giống nhau. Với những điều kiện thuận lợi hiện có, ta hăy học hỏi để có thể làm việc cùng nhau, sống với nhau trong tinh thần ḥa điệu.

Chiến tranh lạnh đă là sản phẩm của quá khứ, cuộc đối đầu giữa Đông và Tây không c̣n nữa. Tuy nhiên vẫn c̣n một khoảng cách không thể lấp bằng trong vấn đề phát triển kinh tế giữa Bắc và Nam. Sự chênh lệch đáng kể về kinh tế đă tạo nên những vấn nạn lớn lao cho các quốc gia mở mang. Trên quan điểm đạo đức, sự cách biệt về mức sống đă là điều khó chấp nhận, nó lại c̣n mang thêm những khó khăn cho các quốc gia phát triển mà hậu quả cụ thể là sự di dân hàng loạt của các công nhân từ các xứ nghèo của Phi Châu, Trung Đông, Viễn Đông đổ xô đến Pháp, Đức để t́m kiếm công ăn việc làm.

Trong những giải pháp mà người ta có thể h́nh dung ra để giải quyết vấn đề như từ chối không cho nhập cảnh, trục xuất những người di dân đều không bền vững. Hơn thế nữa, đó không phải là một giải pháp dài hạn. Phương cách hay hơn hết là làm sao tạo ra được công ăn việc làm tại những quốc gia nghèo nhằm mục đích khuyến khích và nâng cao mức sống của người dân địa phương để họ không c̣n t́m cách di dân đi nơi khác với hy vọng kiếm t́m một đời sống tốt đẹp hơn.

Chắc chắn là một số quốc gia thời hậu Cộng sản hiện đang phải đối đầu với một số khó khăn lớn lao nhưng tôi nghĩ là họ có nhiều tiềm năng để thành công về mặt kinh tế hơn là một số quốc gia khác. Các quốc gia ở vùng Viễn Đông, Trung quốc, Ấn độ cũng thế. Vùng đất gặp nhiều khó khăn nhất, theo tôi là Châu Phi, một lục địa bao la với những khó khăn chồng chất. Cách đây không bao lâu tôi có dịp viếng thăm Gabon, nơi mà trước đây nhà bác học Abert Schweitzer đă từng sinh sống. Abert Schweitzer là một người Pháp, một con người vĩ đại đă chứng tỏ một tinh thầnï can đảm phi thường trong việc phục vụ những người nghèo khổ, những người cần được trợ giúp. Nếu muốn cái hố ngăn cách giữa Nam và Bắc ngày càng thu hẹp, hơn ai hết những nỗ lực chính phải đến từ những người ở phía Nam. Những quốc gia giàu có có thể cống hiến những trợ giúp nhưng đồng thời dân chúng tại các quốc gia nghèo hơn cũng phải đứng ra tự gánh vác trách nhiệm cho chính vận mệnh của họ.

Một sự kiện bất hạnh và đáng tiếc khác là ngay tại chính trong ḷng các quốc gia phát triển cũng hàm chứa một sự phân cách lớn lao. Thành phần ưu đăi tuy chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong xă hội nhưng lại nắm hết toàn bộ tài nguyên quốc gia trong khi đại đa số quần chúng c̣n lại đều là những kẻ vô sản. Quả là một điều rất đáng tiếc. Tuy không phải là một chuyên gia về các vấn đề Phi Châu, nhưng trong chuyến thăm viếng vừa qua, điều đập vào mắt tôi trước tiên là ở đây đang cần một nhu cầu căn bản, đó là học vấn, giáo dục. Thật khó mà tưởng tượng là chỉ nội trong một quốc gia cũng đă bị phân chia manh mún ra thành từng sắc dân, bộ lạc, nói những ngôn ngữ khác nhau. Điều này tạo ra thêm nhiều vấn nạn mà ngay cả cá nhân tôi tôi cũng không biết phải giải quyết như thế nào. Đối phó với tất cả những vấn đề nan giải đó, chắc là người ta phải khẩn cầu Trời Phật che chở!

Khi đề cập đến một số vấn đề quốc tế, tôi thường phát biểu với thân hữu: “Qúy vị đang sống trong các quốc gia dân chủ,đang hành xử quyền dân chủ mà ai cũng thấy là rất tuyệt diệu và cần thiết. Thế nhưng, ngay tại xứ ḿnh th́ quư vị áp dụng nó một cách trân trọng như vậy nhưng hiếm khi thấy qúy vị đem những nguyên tắc này ra sử dụng trong các quan hệ quốc tế!”

Một số các nhà tư duy khoa học nay cho rằng đă đến lúc không c̣n nên phân biệt giữa hai phạm trù đối nội và đối ngoại nữa; chúng ta bây giờ đă là thành viên của một đại gia đ́nh, tất cả đều b́nh đẳng như nhau, thế nên những vấn đề chung của cả thế giới cũng nên được xem như là những vấn đề “nội bộï” cả. Tôi nghĩ rằng đây là một cái nh́n rất thoáng và cao quư. Đem áp dụng tinh thần này vào thực tiễn, chúng ta sẽ giải quyết được một số vấn nạn chung.

Bây giờ hăy nói đến chuyện viện trợ cho các Quốc Gia Thứ Ba, người ta luôn luôn áp đặt lên đó một số điều kiện hoặc là một số giới hạn để t́m cách hạn chế nó. Quan niệm về viện trợ như vậy tự nó đă bị hạn chế v́ chúng ta đă đặt ưu tiên trên chính quyền lợi của quốc gia ḿnh, v́ vậy đă tạo nên những chướng ngại cản trở cho việc điều hành một cách êm đẹp ngay giữa các quốc gia với nhau. Những giới hạn này phải nên được hủy bỏ, thay vào đó là thiện ư chính trị. Mà muốn đạt đến mục tiêu của thiện ư chính trị,ta không thể không xây dựng trên căn bản của t́nh nhân đạo, trên những nguyên tắc đạo đức vững chắc, đó là ḷng vị tha và ước muốn tạo phúc lợi cho con người, cởi bỏ bớt cho họ những gánh nặng khổ đau.

Nếu thiện ư chính trị được đặt nặng trên những nguyên tắc này, tôi tin chắc rằng nó sẽ là một khí cụ lợi hại. Nhà chính trị không phải từ trên trời rơi xuống. Họ cũng không phải sinh ra từ không gian mà là một sản phẩm của xă hội, như chúng ta vậy. Nếu trong một xă hội mà toàn thể dân chúng đều chung hưởng một nền đạo đức luân lư cao qúy tốt đẹp, nhà chính trị được sản sinh ra từ xă hội này chắc chắn không thể không kính trọng những giá trị đó. Ngược lại, một xă hội không được xây dựng trên một nền tảng đạo lư, những thành viên của nó không hề tôn trọng bất kỳ giá trị đạo đức nào ngay cả cho chính ḿnh, th́ quả là điều phi lư khi họ lại lên tiếng phê phán những nhà chính khách của ḿnh.

Một số người thường tự động liên hệ giữa đạo đức cùng một số nguyên tắc, ḷng vị tha chẳng hạn, xem đó là cái nh́n thế giới dưới chiếc kính màu tôn giáo. Lối suy luận đó hàm chứa rằng tất cả tín đồ của mọi tôn giáo đều tuân thủ một số tiêu chuẩn đạo đức, c̣n những ai không có tín ngưỡng cho dù có chấp nhận những nguyên tắc đạo đức này đi nữa họ cũng vẫn là những kẻ vô dụng, vô tích sự. Thật là một lầm lẫn lớn khi người ta tin rằng đạo đức chỉ là một phó sản của tôn giáo. Ta có thể h́nh dung ra hai loại người có đời sống tinh thần: loại thứ nhất là những người gắn chặt cuộc đời họ với niềm tin tôn giáo, trong khi loại thứ hai là những người được sinh ra b́nh thường như mọi người, sống với t́nh cảm giản đơn như yêu thương người láng giềng, sẵn sàng giúp đỡ, cư xử tốt với họ. Đây cũng là loại người có đời sống tinh thần vậy. Tin theo tôn giáo là một điều tốt, thế nhưng con người vẫn có quyền sống mà không theo bất cứ một tín ngưỡng nào. Tuy nhiên nếu không có những phẩm chất đạo đức căn bản của con người, nếu không nuôi dưỡng sinh hoạt tâm linh cho đời sống thế tục, cá nhân sẽ không bao giờ có được một cuộc sống hạnh phúc và họ rất dễ dàng trở thành một tai họạ cho xă hội.

Bây giờ chắc sẽ có người hỏi, vậy th́ cái ǵ được xem là phẩm chất đạo đức căn bản? Tôi có thể trả lời ngay mà không cần suy nghĩ, đó là sự ân cần chăm sóc đến kẻ khác, đó là ḷng thương yêu tŕu mến trong mỗi con người. Bản chất yêu thương xuất hiện ngay từ những ngày đầu tiên khi ta hiện hữu trên trái đất này. Hăy nh́n một bà mẹ chăm sóc đứa con của ḿnh: t́nh thương yêu qủa là rất tự nhiên. Nếu không có t́nh cảm này có lẽ bà mẹ đă không cho con bú và có lẽ bà ta cũng sẽ không có cả sữa. Đứa trẻ cũng thế, nó t́m đến vú mẹ một cách tự nhiên, rồi được nâng niu với tất cả những ân cần thương yêu từ người mẹ, nếu không được như thế chắc là đứa trẻ đă không rúc vào vú mẹ.

Như vậy đó, t́nh cảm ân cần thương yêu được biểu hiện ngay từ thuở đầu đời và đó chính là phần cốt lỏi của bản chất con người. Không có tôn giáo nào hướng dẫn ta, không có luật pháp nào bắt buộc ta và cũng không có trường học nào dạy ta về cái t́nh yêu thương tự nhiên này. T́nh cảm yêu thương đó đă xuất hiện cùng một lúc với thể xác ngay từ khi ta mới chào đời. Đó là một đặc tính bẩm sinh của con người. Ngay từ ngày đầu tiên, đời sống của ta đă được đánh dấu bởi t́nh thương yêu đối với tha nhân và qủa thật là một điều cần thiết để bảo tồn cái bản chất tự nhiên đó của nhân loại qua suốt kiếp người.

Đó là lư do tại sao mà tôi thường hay bảo lưu quan điểm của ḿnh cho rằng bản chất của con người là yêu thương, là nhân chi sơ tính bổn thiện! Nếu chúng ta sống một cách tử tế phù hợp với bản chất yêu thương tự nhiên, chắc chắn ta sẽ gặt hái được rất nhiều lợi lạc, không phải chỉ riêng cho chính bản thân ḿnh mà cho cả xă hội mà ta đang sống. Đối với tôi, cái t́nh cảm yêu thương tŕu mến này có thể được xem như là một thứ tín ngưỡng phổ thông. Mọi người đều cần đến nó. Những người có đức tin cũng như những người không đức tin. Những đức tính tốt đẹp này chính là nền tảng căn bản của đạo lư.

Nếu qúy vị đồng ư với những ǵ mà tôi vừa phát biểu về ḷng thương yêu vị tha này, xin hăy đón nhận nó như là một phần của qúy vị, càng nhiều càng tốt. Ngược lại, nếu suy nghĩ theo một hướng khác, tôi e rằng quư vị sẽ phải sống triền miên trong những nỗi giận dữ. Nhưng mà chuyện đó đâu có ǵ quan trọng, mọi người tự do mà!

Xin cảm ơn toàn thể qúy vị. Đó là tất cả những ǵ mà tôi muốn tŕnh bày hôm nay.


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 3 of 10: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 11:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Những phát biểu của Đức Đạt Lai Lạt Ma đă làm chúng ta ư thức được tầm quan trọng trong lănh vực tư duy của một nhà khoa học nhân văn cần nên có. Là một bác sĩ y khoa, tôi đang chuẩn bị một số câu hỏi có thể làm đề tài cho các cuộc thảo luận khác liên quan đến sinh học và đời sống tâm linh của nhân loại trong tương lai. Hiển nhiên là tôi đă phác thảo những câu hỏi này trong khung cảnh của nền tôn giáo độc thần đang chế ngự phương Tây -Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo.
Những tiến bộ gần đây trên các lănh vực y khoa, sinh học, di truyền học đă cho con người khả năng sao chụp lại một cách không hạn định cùng một sinh thể, nghĩa là khả năng tái tạo, nhân giống mọi sinh vật để có thể cùng mang những đặc tính chung về thể chất lẫn tinh thần, tức là người ta có thể ấn định trước được cung cách, thái độ sống cuả chúng. Trong tương lai, qua sự can thiệp trực tiếp vào việc truyền sản, chúng ta có khả năng tạo ảnh hưởng lên các thế hệ mai sau, ấn định số lượng cũng như bản sắc của mọi cá nhân. Trong rất nhiều năm, phôi bào của súc vật và có thể cả bào thai của con người sẽ là đối tượng để nghiên cứu thí nghiệm về lănh vực này.
Căn cứ vào những thí nghiệm như thế -thường được các cơ quan truyền thông tường tŕnh đầy đủ- thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài tin rằng vào thời điểm nào trong quá tŕnh thụ thai của sinh vật bắt đầu hàm chứa những hạt mầm tinh thần hay dấu hiệu thiêng liêng của sự sống?
Phật giáo quan niệm rằng ư thức xâm nhập vào sinh vật ngay từ phút giây đầu tiên của sự thụ thai, bởi lẽ đó mà phôi bào vẫn được coi như là một sinh vật. Cho nên chúng tôi xem hành động phá thai cũng giống như việc cướp đi sự sống của một con người và dĩ nhiên đây không phải là một việc làm chánh đáng. Đó là lư do giải thích tại sao chúng tôi đă nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc sử dụng phương thức bất bạo động trong việc kiểm soát sinh sản. Tuy nhiên không phải là không có những trường hợp miễn trừ. Ví dụ như trường hợp người ta biết chắc rằng đó là một quái thai hay sinh mạng của người mẹ bị hăm dọa chẳng hạn. Dĩ nhiên tôi phát biểu trên quan điểm của một người Phật tử. Bất cứ hành động nào ta cũng phải nên cân nhắc giữa tốt và xấu, giữa lợi và bất lợi. Tựu trung điều quan trọng vẫn là ư hướng và động cơ thúc đẩy đằng sau hành động đó.

C̣n vấn đề vận dụng ngành di truyền học th́ sao, thưa Ngài, -đây là một viễn tượng đă trở thành cụ thể- phải chăng khi người ta có thể thay đổi được những quy luật liên quan đến thân phận con người, nhân loại đă cướp quyền tạo hóa?

Người ta có thể đi sâu vào việc vận dụng ngành di truyền học để cải thiện thể chất con người, năo bộ, v.v...
Phật giáo không quan niệm về một đấng Tạo hóa cho nên vấn nạn này được nh́n dưới một lănh vực khác, đó là nghiệp, tức là những tác hành xảy ra từ những kiếp trước cùng với những hậu quả gây ra bởi những tác hành này. Cho nên nếu một người là đối tượng của sự vận dụng của ngành di truyền học th́ đó chỉ là kết quả gây ra do những việc làm của họ trong quá khứ mà thôi. Một khi chúng ta nhận thức được cái chuổi nguyên nhân và hậu quả, chúng ta cần phải quan tâm đến cái kết quả thiện hay ác gây ra do sự vận dụng nói trên. Ví dụ, nó có mang lại cho ta những kết quả khích lệ nào không trên phương diện trị liệu?
Nhưng rồi việc này lại đẻ ra một vấn nạn khác: để t́m hiểu xem nó mang lại xấu hay tốt cho nhân loại ta lại cần phải thí nghiệm. Và như thế, con người một lần nữa trở thành những con vật thí nghiệm. Vấn đề này làm cho vấn nạn càng trở nên phức tạp, nan giải. Người Phật tử quan niệm rằng thí nghiệm trên súc vật cũng không khác ǵ trên con người và khó mà chấp nhận những chuyện như vậy.

Mục tiêu của việc nghiên cứu ngành di truyền học là nhằm giảm thiểu những bệnh tật và khổ đau của nhân sinh. Nếu Ngài cho rằng khổ đau là một phần tất nhiên của thân phận con người, tại sao ta lại không nghĩ rằng bằng vào những nỗ lực thí nghiệm trên một số ít người, ta hy vọng sẽ giải phóng nhân loại ra khỏi khổ đau?

Thật khó mà trả lời. Nhưng tôi xin phép được hỏi qúy vị: Qúy vị có tin tưởng rằng với sự vận dụng ngành di truyền học, mai đây con người sẽ trở nên bất tử? Tôi nghĩ việc đó khó khăn lắm.

Trước tiên tôi không chắc đó là điều người ta cố gắng muốn vươn tới.

Có hay không, tôi thật t́nh không biết. Giả dụ như điều đó có thể xảy ra th́ rồi đến một lúc nào đó người ta cũng phải t́m biện pháp ngăn ngừa sự sinh sản nếu không muốn gánh lấy hậu qủa trầm trọng của sự gia tăng dân số. Mặt khác nếu giả dụ như ta có khả năng chấm dứt sự sinh sản và cái chết của con người cùng một lúc, th́ ta cũng phải thiết định và giữ ǵn một trạng thái quân b́nh nào đó bởi v́ nếu thất bại th́ quả là một đại họa.

Hăy để cho tôi trở lại câu hỏi. Trong triết thuyết của các tôn giáo độc thần, sự khổ đau thường được quan niệm như là một phương tiện dẫn đến sự cứu rỗi. C̣n Phật giáo th́ sao thưa Ngài?

Tôi nghĩ rằng Phật giáo cũng quan niệm tương tự. Bằng quan sát và quán chiếu về nỗi khổ đau của con người, ta mong muốn được giải phóng khỏi những nỗi khổ đau ấy.

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi xin phép được hỏi Ngài về những liên hệ giữa Tây Tạng và Trung Quốc. Có vẻ như Ngài rất tin tưởng rằng Tây phương sẽ tạo áp lực lên Trung quốc về vấn đề này. Ngài có thể tin được chuyện là Tây phương chịu hy sinh một thị trường lớn với hàng tỉ khách hàng để bảo vệ cho nền độc lập tự trị của vài triệu người dân Tây Tạng? Có phải là điều quan trọng hơn, hiệu qủa hơn, về lâu về dài, là nên tạo một ảnh hưởng tinh thần lên Trung quốc thay v́ cứ măi chống đối họ? Ngài có nghĩ rằng diễn tiến phát triển kinh tế tại Trung quốc có thể đi song hành với sự tồn tại của hệ thống chính trị? Ngài có nghĩ rằng những giá trị tinh thần của Tây Tạng sẽ cưỡng chống lại những tiến bộ kinh tế do Trung quốc mang lại? Có phải là sự phát triển của nền kinh tế Trung quốc mang lại mối hiểm họa lớn nhất cho Tây Tạng?

Suốt mười bốn năm qua chúng tôi đă cố gắng thảo luận một cách nghiêm chỉnh với Trung Quốc về vấn đề Tây Tạng, thế nhưng cho dù nhiều lúc đă phải xuống nước đối với họ, những nỗ lực của chúng tôi cũng chưa đi đến đâu cả. Thế cho nên một điều rất rơ ràng là, những áp lực của cộng đồng quốc tế quả là điều vô cùng cần thiết. Từ những kinh nghiệm riêng của chúng tôi cho thấy những nỗ lực của chúng tôi không mang lại kết quả cụ thể chúng tôi càng thấy sự quan trọng của áp lực quốc tế. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chúng tôi hoàn toàn trông cậy mọi chuyện vào người khác.

Lư do mà chúng tôi chọn lựa đường lối bất bạo động, cho dù bị chỉ trích, là v́ chúng tôi tin rằng cuối cùng vẫn phải có một giải pháp giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Một giải pháp như thế chỉ có thể thành tựu một cách trực tiếp giữa hai quốc gia mà thôi. Sự hỗ trợ của nhân dân Trung Quốc, đặc biệt thành phần trí thức, sẽ là một yếu tố vô cùng cần thiết. Đó là lư do giải thích tại sao chúng tôi theo đuổi phương thức bất bạo động ngay từ lúc khởi đầu cho dù phải chấp nhận những khó khăn. Bằng cách này tôi nghĩ là càng ngày càng có nhiều người Trung quốc, trong cũng như ngoài nước, bắt đầu quan tâm và có cảm t́nh với cuộc tranh đấu của chúng tôi. Có nhiều người Trung quốc đă lên tiếng cảm ơn chúng tôi khi chọn lựa phương thức này. Dù ǵ đi nữa, tôi nghĩ rằng chọn lựa phương thức thương thảo để giải quyết vấn đề là một hành động mang giá trị tinh thần.

Trong mười bốn năm qua, tôi cũng đă chứng kiến những phái triển kinh tế đáng kể tại Trung quốc, ta phải mang ơn cho sự giải phóng hệ thống kinh tế đó. Tuy nhiên trên b́nh diện chính trị, đă không có một chút nhỏ thay đổi nào, không có một chút nhỏ cải thiện nào. Tôi nghĩ rằng về lâu về dài, sự giải phóng kinh tế sẽ mang lại sự giải phóng chính trị.

Bây giờ nh́n vào xă hội Trung Quốc ta sẽ thấy rằng nó được h́nh thành bởi ba giai tầng khác nhau. Trước hết là thành phần lănh đạo và những người trung thành với đảng Cộng sản . Kế đến là thành phần trí thức, sinh viên học sinh và sau rốt là đám đông quần chúng. Nếu chúng ta chịu khó phân tích mối quan tâm chính của từng giai tầng, ta thấy rằng thành phần thứ nhất chỉ nghĩ đến quyền lực và cách thế để cai trị đất nước. Những người lănh đạo đảng Cộng Sản luôn luôn muốn bám vào quyền lực bằng mọi giá và sẵn sàng sử dụng mọi phương tiện cho mục tiêu này. Đều đó đă được chứng tỏ rơ ràng qua vụ Thiên An Môn.

Thành phần thứ hai là một nhóm thiểu số có ảnh hưởng mà mục tiêu cuối cùng của họ là xây dựng một thể chế dân chủ tại Trung Quốc. C̣n thành phần thứ ba, quần chúng, họ chỉ quan tâm đến đời sống thiết thực hàng ngày, mức sinh hoạt, cái ăn cái mặc, chỗ ở, chiếc xe đạp hoặc cao hơn, chiếc xe gắn máy, cái tủ lạnh, cái máy giặt... Tôi nghĩ là họ chẳng thèm quan tâm đến việc đất nước có dân chủ hay không. Việc phát triển kinh tế do đó tạo thêm niềm tin cho nhóm thứ nhất và thứ ba, đặc biệt nhóm thứ ba sẽ cảm thấy thỏa măn về chuyện này. Nhóm thứ hai v́ thế bị cô lập, ở vị thế bất lợi và do đó có thể họ sẽ bị xuống tinh thần. Nếu đúng như vậy th́ qủa thật là một tai họa không phải chỉ riêng cho một tỷ dân Trung Quốc mà cho cả hành tinh của chúng ta.
Nh́n kỹ vào đất nước Trung Quốc chúng ta thấy ǵ? Đó là một quốc gia có dân số đông đảo nhất thế giới. Dân chúng đang sống dưới cái ách của một chế độ chuyên chế độc tài mà ư thức hệ luôn cổ vơ cho một bộ máy chiến tranh. Hơn thế nữa, Trung Quốc hiện đang có vũ khí nguyên tử trong tay. Thế nên nếu kinh tế của họ phát triển theo với một nhịp độ như hiện nay, tôi nghĩ là chúng ta sẽ trông thấy một số hậu qủa nghiêm trọng xảy ra không phải chỉ đối với những quốc gia lân bang với họ như Tây Tạng mà ngay cả những nước lớn như Ấn Độ cũng như cả toàn thế giới.

Bây giờ xin được trả lời phần thứ hai câu hỏi của qúy vị, tôi nghĩ rằng vấn đề phát triển kinh tế tự nó không phải là một mối hăm dọa đối với nền văn hóa hay đời sống tinh thần của nhân dân Tây Tạng, nếu trong khi thực hiện, người ta quan tâm đến những điều kiện sẵn có của đất nước này. Phát triển kinh tế có thể đi đôi với phát triển văn hóa. Trong Phật giáo, khi nói đến hạnh phúc nó cũng bao hàm cả những phúc lợi về mặt vật chất.

Điều mà chúng tôi quan tâm là, sự phát triển kinh tế của Trung quốc đă tạo nên một vấn đề nghiêm trọng trong việc thuộc địa hóa Tây Tạng khi Trung Quốc mang một số lượng lớn dân của họ vào đất nước chúng tôi. Mối hăm dọa lớn đối với Tây Tạng là vấn đề di dân, đặc biệt là sự di dân hàng loạt người Trung Quốc vào Tây Tạng. Chính cơn lũ những người Trung Quốc thực dân này đă tạo nên một bầu khí cực kỳ căng thẳng trên khắp đất nước chúng tôi, tiếp tục gia tăng t́nh trạng vi phạm nhân quyền sẫn có. Thêm vào đó, nó cũng đă gây nên những thiệt hại đáng kể trên lănh vực môi sinh. Không biết có được tính toán trước hay không, một sự huỷ diệt văn hoá đă xảy ra tại Tây Tạng và tôi nghĩ đó là mối nguy cơ lớn nhất cho tương lai của đất nước chúng tôi.

Thưa Ngài, trong một lần phát thanh gần đây, Ngài tuyên bố rằng Ngài có cảm giác ḿnh như là một người Mác xít. Ư nghĩa đích thực của lời tuyên bố này là ǵ? Bằng cách này hay cách khác, Ngài đă nhiều lần biểu tỏ một niềm tin tưởng sâu xa vào thể chế dân chủ, kể cả ư hướng từ bỏ quyền lực chính trị nếu Tây Tạng được tự trị. Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, theo ư Ngài thể chế dân chủ hiện nay có gần gũi với những giá trị của Phật giáo hay không? Có mâu thuẫn nào không giữa những giá trị này và những qui luật của dân chủ ?

Đứng trên quan điểm đạo đức mà nói, tôi thấy một số phạm trù của chủ nghĩa Mác rất có giá trị chẳng hạn như chế độ b́nh sản, bảo vệ kẻ nghèo chống lại sự bóc lột của thiểu số. Những khái niệm này ta có thể chấp nhận được. Tôi tin là người ta có thể cho rằng hệ thống kinh tế gần gũi nhất với Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa, là hệ thống kinh tế xă hội. Chủ nghĩa Mác đặt căn bản trên những tư tưởng tốt đẹp, thí dụ như bảo vệ quyền sống cho những người bị thiệt tḥi nhất trong xă hội. Tuy nhiên khi đem áp dụng những nguyên lư này vào thực tế, người ta đă xây dựng trên căn bản hận thù bạo động đối với giai cấp chủ nhân và rồi sự thù hận này được chuyển thành giai cấp đấu tranh và sự tiêu diệt giai cấp bóc lột. Một khi giai cấp chủ nhân bị loại trừ th́ rồi cuối cùng cũng chẳng c̣n ǵ lại cho dân chúng và tất cả đều trở thành vô sản nghèo đói. Bởi v́ ngay từ đầu đă hoàn toàn vắng bóng tinh thần từ bi.

Tương lai của Tây Tạng đă được quyết định, nó sẽ phải là một quốc gia dân chủ. Tôi không biết có sự mâu thuẫn nào giữa dân chủ và Phật giáo hay không, nhưng tôi có thể nói rằng Phật giáo Đại thừa chính là tôn giáo của dân chủ. Sau đây là một thí dụ. Một cộng đồng tăng lữ (tức Tăng già, Shangha) thành h́nh khi nó quy tụ được ít nhất bốn vị tăng sĩ . Khi có một vấn đề quan trọng cần phải lấy quyết định, tất cả tăng sĩ trong nhóm như là một khối thống nhất sẽ giải quyết vấn đề chứ không phải chỉ một ḿnh người lănh đạo của nhóm. Tương lai của Tây Tạng, theo tôi, lư tưởng nhất là sự pha trộn của các hệ thống kinh tế. Nếu qúy vị hỏi thêm ǵ khác, hoặc chất vấn tôi loại h́nh kinh tế đó như thế nào, câu trả lời của tôi chắc là rất ngắn!

Thưa Ngài, xin được hỏi Ngài một câu hỏi liên quan đến vấn đề Nam và Bắc mà Ngài đă từng đề cập đến khi trả lời câu hỏi của chúng tôi trước đây. Thực tế cho thấy là có đến 80% tiền viện trợ của Pháp cũng như các quốc gia Tây phương cho các quốc gia đang phát triển, đều lọt vào túi của tham nhũng. Như vậy Ngài quan niệm như thế nào về kiểu cách liên hệ giữa các quốc gia kỹ nghệ và Thế Giới Thứ Ba?

Vâng, tôi đă từng đề cập đến vấn đề này khi phát biểu rằng, điều cần thiết là phải làm giảm bớt hố sâu ngăn cách giữa các quốc gia phía Nam và phía Bắc. Việc trước tiên là phải làm giảm khoảng cách ngay trong tự thân của các quốc gia phát triển, giữa thiểu số được ưu đăi và đại đa số quần chúng. Như tôi đă phát biểu trước đây, trước tiên mỗi quốc gia phải tự ḿnh vận dụng những nỗ lực để đạt đến tiến bộ. Điều này quá hiển nhiên. Người ta không thể đứng yên một chỗ suốt đời duỗi cánh tay ra mà có thể giải quyết mọi vấn đề. Người Tây Tạng chúng tôi trong thời gian lưu vong đă nhận được một số lượng viện trợ đáng kể. Trong thời gian đầu, chúng tôi hoàn toàn trông cậy vào sự trợ giúp này. Nhưng chúng tôi cũng biết rằng điều trước tiên là ḿnh phải thể hiện những nỗ lực lớn lao để bảo đảm cho sự tồn tại của chính ḿnh. Bây giờ th́ không những chúng tôi có khả năng đáp ứng những nhu cầu của chính ḿnh mà c̣n có thể làm việc trên nhiều dự án khác nhau nhằm mục đích bảo tồn bản sắc và nền văn hóa của Tây Tạng.

Thế nên, những nỗ lực trước tiên phải là của các quốc gia Thế Giới Thứ Ba. Hiện nay các quốc gia này được lănh đạo bởi một giai tầng ưu đăi, thường là tốt nghiệp tại các nước phương Tây và bởi thế đă có một khoảng cách đáng kể giữa họ và dân chúng. Thế nên, bước cần thiết đầu tiên để xóa bỏ sự chia cách này là giáo dục quần chúng, tạo điều kiện cho những thành phần không được ưu đăi trong xă hội có cơ hội được nâng cao tŕnh độ kiến thức.

Trong chuyến viếng thăm Gabon vừa rồi, tôi đă phát biểu với những người bạn Phi châu rằng, qúy vị đang sống trên một lục địa bao la, có quá tŕnh lịch sử, nhiều tiềm năng lớn lao và tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng cái mà qúy vị thiếu là sự tự tin ở chính ḿnh. Phải phát triển niềm tự hào, phải nuôi dưỡng sự quyết tâm, và dồn tất cả mọi nỗ lực để thực hiện sự biến đổi t́nh huống hiện tại. Hăy nh́n tấm gương của Mahatma Gandhi: mặc dù ông ta được hấp thụ một nền học vấn cao của Tây phương nhưng ông ta không bao giờ quên hay xa rời chiếc nôi văn hóa của chính ḿnh.

DUYÊN KHỞI VÀ Ư THỨC GIÁC NGỘ

Xin Ngài vui ḷng cho biết một cách vắn tắt Phật giáo là ǵ? Chúng tôi thường thắc mắc không biết đó là một triết lư hay là một tôn giáo; đối với Tây phương, nhiều khi Phật giáo được hiểu một cách giản đơn đó là ư niệm về sự tái sanh, tuy nhiên chúng tôi biết chắc không phải như thế.

Để trả lời câu hỏi này, tôi có thể nói một cách tổng quát rằng bản chất của Phật giáo là bất bạo động, nếu nh́n trên quan điểm hành xử cá nhân, nhưng nếu đứng trên quan điểm triết học th́ đó là yếu tính duyên khởi của mọi hiện tượng. Để có thể h́nh dung ra khái niệm về bất bạo động, tôi có thể khẳng định rằng cách hành xử lư tưởng nhất là hăy làm tất cả điều thiện cho kẻ khác. Nếu người ta cảm thấy rằng chuyện này là khó khăn th́ ít nhất chúng ta nên tránh đừng gây tổn hại cho người.

Về mặt nhân duyên của hiện tượng, một sự thực mà chúng ta thấy là tất cả mọi hiện tượng đều tùy thuộc vào những nguyên nhân khác nhau và điều kiện sinh ra chúng, hay nói một cách khác, mọi hiện tượng hiện hữu trong mối tương quan với nhau và phụ thuộc vào nhau. Ư niệm về nhân duyên giúp cho chúng ta hiểu rơ được niềm hạnh phúc, nỗi khổ đau của chúng ta chỉ được h́nh thành với sự tham dự của những nguyên nhân và điều kiện và sự hiện hữu của chúng phụ thuộc vào một số yếu tố nhất định. Hiểu như vậy sẽ dẫn ta đến một thái độ bất bạo động.

Như vậy, nh́n trên quan điểm hành xử -bất bạo động- chúng ta có thể xem Phật giáo như là một tôn giáo, c̣n nếu ta quan tâm đến khái niệm về yếu tính duyên khởi của hiện tượng, Phật giáo được coi như là một triết học. Tuy nhiên nếu hiểu theo đúng nghĩa của từ “tôn giáo“ bao hàm sự tin tưởng vào một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo th́ Phật giáo không đáp ứng với định nghĩa tôn giáo. Một số học giả phương Tây cho rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo mà đúng hơn là một khoa học về tâm linh. Sự thực là một bộ phận lớn của Phật giáo chuyên tâm vào lănh vực tham thiền, tuy nhiên chúng tôi được hướng dẫn làm cách nào để thông qua thiền định, con người có thể tiến triển trên đường tu tập và đạt đến những đẳng cấp tinh thần cao hơn. Nh́n trên khía cạnh này, Phật giáo được xem như là một tôn giáo.

Trên thế giới như quư vị thấy ở một bên chúng ta có các tôn giáo được xây dựng chủ yếu trên đức tin nhưng đồng thời ở thái cực kia lại cũng có những người tin theo chủ nghĩa duy vật một cách triệt để. Cả hai lối tiếp cận hoàn toàn đối nghịch nhau, chỉ có Phật giáo là đi thep con đường trung đạo. Đối với những tín ngưỡng được xây dựng trên căn bản đức tin, Phật giáo không được xem như là một tôn giáo. Tuy nhiên ta cũng không thể xếp loại Phật giáo vào hàng ngũ của chủ nghĩa duy vật. Phật giáo v́ thế có thể là chiếc cầu nối liền hai lối tiếp cận.

Sự tái sanh là một phần trong những giáo lư cơ bản của Phật giáo. Thông qua thiền quán về những chân lư cơ bản này, con đường tâm linh của ta ngày càng phát triển và cuối cùng ta đạt đến sự chứng nghiệm. Ngược lại ta sẽ không đạt được sự chứng nghiệm tâm linh nếu thiền quán trên những ư tưởng vốn dĩ đă sai lầm từ căn bản hoặc không hề hiện hữu. Thí dụ,ï do thấy được sự hiện hữu của tánh không, cũng như tính chất vô thường của các hiện tượng, về sự khổ đau... mà ta có thể tập trung thiền quán trên những đề mục này. Như vậy nhờ biết rằng chúng hiện hữu nên ta có thể quán tưởng về chúng và đạt đến sự chứng ngộ, nếu không ta chỉ hoài công vô ích. Nguyên lư về tiền kiếp và hậu kiếp, sự tái sanh là một trong những giáo lư cơ bản của Phật giáo.

Thưa Ngài, cách thức vận y phục của Ngài có mang một ư nghĩa tôn giáo nào không? Cụ thể là việc để trần một cánh tay chẳng hạn?

Chỉ là để cho bắp thịt cánh tay phát triển thôi mà! (*) Xin qúy vị lưu ư rằng chiếc y mà giới tăng sĩ chúng tôi đang bận đây có nguồn gốc từ Ấn Độ. Bởi v́ Ấn Độ là một xứ nóng, người tu sĩ không những để cánh tay trần mà c̣n để ngực trần nữa, ngoại trừ khi họ quấn khăn. C̣n bên Cam Bốt chẳng hạn, tăng sĩ bận áo dài tay bên trong chiếc y màu vàng của họ v́ trời lạnh. Tại Tây Tạng, mặc dù thời tiết rất lạnh, chúng tôi không bận áo tay dài mà thường quấn vào người một tấm khăn dày. Tôi thấy cũng cần lưu ư qúy vị rằng chiếc y của người tu sĩ Phật giáo được may bởi những mảnh vải khác nhau kết hợp lại. Sự nối kết những mảnh vải này nhằm tránh cho tâm ta không bị vướng mắc vào chuyện ăn mặc áo quần. Tuy nhiên, một đôi khi khâu vào cho nhiều lại càng bị vướng mắc thêm nhiều! (*)

(*) Ghi Chúcủa người dịch: Đức Đạt Lai Lạt Ma đang nói đùa (joking). Ngài luôn luôn tạo không khí cởi mở thoải mái với người đối thoại qua lối nói đùa dí dỏm của Ngài.

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài đă từng nói rằng triết học của Phật giáo đặt căn bản trên nhân duyên giữa các hiện tượng với con người. Như vậy phải chăng Phật giáo ở vào một trạng huống tốt đẹp hơn để có thể hiểu được những yêu cầu của ngành sinh thái học hiện nay?

Khi ta nh́n sự hiện hữu mang tính phụ thuộc và các hiện tượng tương thuộc lẫn nhau, hai chuyện này sẽ giúp ta nh́n rơ vấn đề. Về khía cạnh nhân duyên, ta nên nghĩ rằng nếu ta muốn đảm bảo hạnh phúc cho tương lai th́ điều cần thiết là ta phải tạo ra những nguyên nhân đưa đến hạnh phúc ngay từ bây giờ. Cũng thế,thế hệ của chúng ta hôm nay không thể sử dụng môi trường cho tiện ích của riêng cá nhân ḿnh mà phải nghĩ đến tiện ích của những thế hệ tương lai. Nếu ta nh́n vào tính phụ thuộc của sự hiện hữu, ta sẽ thấy rằng t́nh trạng của môi trường sống đóng một vai tṛ quan trọng ảnh hưởng đến t́nh trạng sức khoẻ của chính chúng ta. Nếu không khí mà chúng ta thở không trong lành, dĩ nhiên ta phải nhận chịu những hậu qủa rủi ro. Thế nên một điều rất quan trọng là ta nên nh́n vấn đề trên sự tương quan cuả nguyên nhân và hậu quả cũng như về yếu tính duyên khởi giữa các hiện tượng. Quan điểm về lư duyên khởi đặc biệt góp phần giúp ta nh́n thế giới một cách thánh thiện cũng như mang tính toàn cầu.

Nhân loại từ lúc ban sơ đă tranh luận về vấn đề một xă hội lư tưởng. Thưa Ngài, phải chăng xă hội Tây Tạng trước khi bị Trung quốc xâm lăng năm 1959 được coi như là một xă hội lư tưởng?

Xă hội Tây Tạng cổ không phải là một xă hội hoàn hảo. Đó là một xă hội nông nghiệp và chăn nuôi dựa trên căn bản của chế độ nông nô. Tuy nhiên nếu ta so sánh với các quốc gia đương thời như Trung Quốc, Ấn Độ, nó không đến nổi quá khắc nghiệt mà ngược lại có phần nhân ái hơn. Tôi tin rằng một số các nền văn minh tối cổ, như người da đỏ bản xứ tại Mỹ chẳng hạn, thường bày tỏ ḷng tôn kính đối với đất đai, thiên nhiên, cây cối. Trong văn hóa Tây Tạng, mối liênhệ giữa chúng tôi với thiên nhiên, kể cả loài vật rất là an lạc. Chúng tôi sống ḥa điệu với thiên nhiên. Từ khi mới lập quốc cho đến sau này, khi chúng tôi tiếp xúc với Phật giáo, xă hội Tây Tạng nói chung rất là nhân ái và cởi mở. Đó là một xă hội mà trong đó mọi người cảm thấy sống một cách thoải mái. Từ những lư do này, tôi tin rằng đây có thể là một xă hội kiểu mẫu.

Ngài có nghĩ rằng nói nhiều để diễn đạt tư tưởng có thể không phải là nét đặc biệt của nhân loại bằng sự im lặng?

Đối với những ai lựa chọn con đường tâm linh, tu hành hoặc đang thực tập thiền định, im lặng là một phần tối cần thiết. Những ai không theo con đường tâm linh, những người không có đức tin, im lặng là một cách thế nghỉ ngơi, thư giăn.

Thưa Ngài, Ngài có nghĩ rằng có nhiều người trông có vẽ như là người lớn -chẳng qua là do tuổi tác của họ, nhưng thật ra họ giống như trẻ con bởi v́ họ không thực hành thiền định?

Tôi nghĩ rằng có rất nhiều cách để xác định sự trưởng thành. Tuổi tác là một và rồi cách thức mà người ta suy nghĩ, sự phát triển phẩm chất của một con người và cuối cùng là kinh nghiệm và sự chứng nghiệm tâm linh. Nếu nh́n như vậy th́ có nhiều người rất già mà tâm hồn họ c̣n trẻ cũng như nhiều người rất trẻ mà qua cung cách suy nghĩ họ đă tỏ ra rất chín chắn.

Thưa Ngài, Ngài có thể giải thích hiện tượng hiện có một số đông những người trẻ Tây phương đang quay về với trí tuệ và những giá trị tinh thần của Đông phương trong khi truyền thống của Tây phương không phải là không phong phú?

Đa phần các quốc gia Tây phương đều chia xẻ chung một nền văn minh Cơ Đốc lâu đời. Tôi không nghĩ rằng điều này sẽ thay đổi và cũng không có lợi ǵ để thay đổi. Tuy nhiên, trong số hàng triệu con người sống trên thế gian này chắc chắn là họ có những sở thích, những bản chất, những khuynh hướng tinh thần cá biệt, không ai giống ai cả. Trong số đó, sẽ có những người cảm thấy ḿnh gắn bó với Phật giáo cũng giống như tại Tây Tạng, một xứ có truyền thống Phật giáo lâu đời, vẫn có những người theo Hồi Giáo, Cơ Đốc giáo... Cho nên qủa là điều b́nh thường khi có những người Tây phương thích Phật giáo, bây giờ cũng như trong tương lai. Trong số này, có người th́ bị lôi cuốn bởi lối suy luận có phương pháp hoặc lối hành thiền của Phật giáo. Có người th́ bị thu hút bởi khả năng là nếu theo đuổi cuộc lột xác này họ sẽ tỉnh thức với con mắt thứ ba thay v́ với hai con mắt trần như trước đây!

Thưa Ngài, Ngài có nghĩ rằng nền giáo dục cao cấp chỉ làm cái công việc đơn giản là sửa soạn tâm hồn cho bộ môn khoa học rèn luyện trí óc và người thầy không làm việc ǵ khác hơn ngoài sự phân phối kiến thức. Theo Ngài, họ có một nhiệm vụ cao cả nào không?

Đây là một câu hỏi rất có ư nghĩa! Nét độc đáo căn bản của nhân loại, làm cho con người vượt lên trên tất cả mọi loài vật khác, là trí thông minh vượt bực. Do ở trí thông minh này mà xă hội của chúng ta tràn ngập đủ màu sắc khuynh hướng dị biệt, người này khác với người kia, và dẫn ta đến những cung cách hành xử rất khác biệt. Điều này có thể mang lại những t́nh huống rất khó xử và cả những vấn nạn khó khăn nữa.

Hăy nh́n vào trường hợp của một cá nhân chẳng hạn. Anh ta có thể thay đổi lề lối suy nghĩ của ḿnh và rồi đưa đến những xung đột nội tâm. Tôi thường hay nói đùa rằng, con người sẽ không phải là con người nếu không luôn ở trong t́nh trạng mâu thuẫn và xung đột nội tại. Tuy nhiên, do có đầu óc thông minh, chúng ta có thể vượt qua được những mâu thuẫn, những xung đột để đi đến một giải pháp vẹn toàn. Trí khôn của con người là nguyên nhân và đồng thời cũng là giải pháp cho tất cả những vấn nạn của chúng ta. Giáo dục, ch́a khóa của kiến thức, sẽ giúp phát triển và kích thích sự thông minh này. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là nó luôn luôn mang đến những chuyện tốt đẹp. Nó có thể tạo ra những vấn nạn khác khi nó mang lại những điều xấu.
Giáo dục tự nó không mang tính tiêu cực hay tích cực. Vấn đề là làm sao ta có thể nâng cao, vận dụng được trí thông minh của con người vào những điều thiện, bởi thế đối với nhà giáo dục điều quan trọng nhất là phải can đảm, thành thật và lương thiện. Cho dù ở trong cương vị một bậc phụ huynh trong gia đ́nh hay người thầy giáo trong các cấp tiểu trung hay đại học, nhà giáo dục không phải là người chỉ làm nhiệm vụ rao truyền kiến thức mà phải là người giúp đỡ cho người học tṛ ḿnh có một đời sống đúng nghĩa, không những chuẩn bị cho họ hài ḷng thỏa măn với cuộc sống riêng tư mà c̣n trở nên những con người hữu dụng cho xă hội. Để làm được điều này, người thầy phải quan tâm sâu xa đến tương lai của người học tṛ, và không ngừng khích lệ chúng. Thế nên một điều cần thiết là việc hấp thụ kiến thúc phải đi đôi với phát triển ḷng vị tha.

Tôi tin chắc là Ngài cũng đă lưu ư đến t́nh trạng trong đất nước này có rất nhiều người trẻ bị lây nhiễm bệnh AIDS, nhiều người bị nghiện ngập cũng như số lượng những người tự tử ngày càng gia tăng trong giới trẻ. Thưa Ngài, Ngài có những đề nghị nào cho những nhà lănh đạo đất nước này để giúp họ t́m ra những phương thức giải quyết những vấn nạn kinh khủng đó?

Tôi nghĩ rằng phương thức đầu tiên để vượt qua những căn bệnh xă hội là phát triển ư thức kỷ luật tự giác trong đời sống cá nhân qua đó con người tự ḿnh có thể kiểm soát lấy ḿnh. Thật khó mà đem bất kỳ loại kỹ luật nào từ bên ngoài áp đặt lên con người. Để có thể giải thích thêm về sự tự giác cá nhân, tôi xin nêu ra một thí dụ về những ngôi làng trên vùng thượng du Hy Mă Lạp Sơn. Một số giới chức hữu trách Ấn Độ, các cảnh sát viên cũng như rất nhiều người địa phương đă cho tôi hay rằng trong quá khứ tại đây ít khi xảy ra những tội ác, thỉnh thoảng mới có những vụ trộm cắp lặt vặt hoặc đánh lộn, và hầu như không hề có chuyện nói láo, nói gạt lẫn nhau. Mặc dù ở đây thiếu vắng những tiện nghi về mặt vật chất, không có một nền giáo dục hiện đại nhưng con người sống với nhau rất lương thiện. Thế nhưng qua những năm gần đây, khi giáo dục và những tiến bộ của nền văn minh hiện đại được mang đến từ vùng đồng bằng, tội ác lại ngày càng gia tăng. Như vậy, tội ác sẽ không xảy ra khi mọi người biết áp dụng sự tự chế thông qua tính kỷ luật tự giác trong mỗi cá nhân, lúc đó họ không cần đến bất cứ loạïi cảnh sát nào đến từ thế giới bên ngoài. Thí dụ này cho ta thấy tầm quan trọng của ư thức kỷ luật tự giác.

Tuy nhiên xin qúy vị hiểu cho rằng tôi không bao giờ cổ vơ cho việc kiềm chế một cách có hệ thống tất cả mọi dục vọng, ước mơ xuất hiện trong tâm hồn của mỗi con người. Ngược lại, như tôi đă tŕnh bày, loại kỹ luật chân chính đáng tin cậy không thể bắt nguồn từ sự kiềm chế mà là từ sự hiểu biết sâu xa tất cả mọi nguyên uỷ hành động của chúng ta. Trong cơn bốc đồng, chúng ta có thể đạt đến những khoái cảm trong phút chốc, thế nhưng chúng ta phải ư thức được những hậu quả cuả chúng, tuy có thể không xảy ra ngay trước mắt nhưng chắc chắn là sẽ xuất hiện trong tương lai. Thế nên chúng ta phải dùng óc thông minh và trí tuệ của ḿnh để ngăn chặn những ham muốn tức thời, đưa chúng lên bàn cân để cân nhắc những hệ quả tốt xấu và cuối cùng quyết định lựa chọn một con đường tốt nhất.

Hăy lấy thí dụ về trường hợp những người có những liên hệ t́nh dục không đúng đắn hoặc nghiện ngập ma túy. Cái ǵ đă đưa đẩy họ vào con đường này? Phải chăng là do khoái cảm nhất thời? Tuy nhiên nếu đem so sánh cái khoái cảm nhất thời đó với những hậu qủa trầm trọng của hành động này gây nên, một điều hiển nhiên rằng khoái cảm trong phút chốc không đủ để trả giá cho những hậu qủa tiêu cực về lâu về dài. Thế nên một điều cần thiết là ta phải ư thức về những hành động của chúng ta và hậu quả của chúng. Đức tin dĩ nhiên là điều cần thiết, nhưng giáo dục lại càng quan trọng hơn. Toàn thể cộng đồng chúng ta phải chia xẻ trách nhiệm chung, không phải chỉ riêng các giới hữu trách. Để xây dựng một xă hội lành mạnh, mọi thành viên trong xă hội phải cùng nhau chia xẻ trách nhiệm.

Thưa Ngài, Ngài có ư kiến như thế nào về việc sử dụng “áo mưa” để ngừa thai?

Rất tốt, một lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên tôi có một giải pháp tốt hơn cho việc kiểm soát sinh đẻ và pḥng ngừa bệnh AIDS: Sống độc thân, giữ ǵn trinh tiết! Như vậy chắc là chúng ta sẽ có nhiều tăng sĩ và nữ tu! Nhưng nếu điều này quá khó khăn, không thể thực hiện được th́ giải pháp mà quư vị vừa nêu ra cũng tốt vậy.

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, vừa mới đây Ngài đă lên tiếng ca ngợi thiên nhiên, thế nhưng chúng tôi tin rằng c̣n có một lănh vực môi sinh khác, cũng rất nhức nhối, đó là con người. Ngài có ư kiến ǵ về trách nhiệm của chính phủ đối với những người bị lùa ra khỏi mảnh đất của ḿnh đang sống, những kẻ lưu vong, những kẻ vô gia cư, nói chung là những điều bất hạnh hiện đang xảy ra khắp nơi?

Khi chúng ta đề cập đến chính phủ, mà chính phủ ở đây là do dân bầu ra theo nguyên tắc dân chủ th́ phân tích cho cùng người dân chính là những vị lănh đạo thực sự của đất nước họ. Họ chọn lựa ra chính phủ có trách nhiệm hoàn tất những bổn phận mà họ giao phó. Dĩ nhiên khi đắc cử, chính phủ phải có trách nhiệm đối với những công dân của họ, đặc biệt là những thành phần yếu kém, không được ưu đăi trong xă hội, v́ những lư do đạo đức cũng như tính cách thực tiển của vấn đề. Nếu xảy ra một sự đổ vỡ giữa các giai tầng trong xă hội, những vấn nạn tất sẽ xảy ra. Ư kiến cá nhân của riêng tôi, cũng như một số thân hữu Phật tử trong cả hai giới cư sĩ lẫn tu sĩ, đều đồng ư rằng một hệ thống kinh tế lư tưởng nên xây dựng theo đường lối xă hội.

Câu trả lời của Ngài vừa rồi chỉ mới ở trên b́nh diện quốc gia. Thưa Ngài, trên b́nh diện quốc tế, giả dụ như chúng ta sẽ có một bảng nguyên tắc phân định rơ nghĩa vụ và bổn phận mà chúng tôi tạm gọi là luật quốc tế, theo Ngài những ǵ được xem là một căn bản chung mà chúng ta có thể đồng ư với nhau để nói lên nỗi khát khao của toàn thể nhân loại?

Dù trên lănh vực cá nhân hay quốc gia, theo tôi nguyên tắc chính để hướng dẫn chúng ta phải là quyền làm người. Nếu chúng ta sống trong một đất nước mà quyền làm người hiện hữu và được tôn trọng, chúng ta có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ và bổn phận đó. Thật là dễ chịu biết chừng nào nếu chúng ta thoải mái thụ hưởng quyền làm người mà không bị buộc ràng bởi bất cứ một trách nhiệm nào cả! Thế nhưng, bất hạnh thay điều đó có vẻ như là không tưởng. Dĩ nhiên, tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn cả vẫn là ư thức trách nhiệm và tinh thần tham dự của mỗi chúng ta trong mối quan tâm đối với kẻ khác. Theo tôi đó là nguyên tắc căn bản, nhưng cũng xin hiểu cho rằng tôi không phải là một chuyên gia trên lănh vực quan hệ quốc tế hay luật quốc tế. Tuy nhiên bản thân tôi hoàn toàn tin tưởng một cách sâu xa rằng trên b́nh diện cá nhân cũng như quốc gia, một điều tuyệt đối cần thiết là chúng ta nên có một ư thức về tinh thần trách nhiệm chung và ḷng quan tâm đối với tha nhân.

Tôi xin được nói thêm đôi chút về tinh thần trách nhiệm chung. Khi chúng ta cảm thấy ḿnh chia xẻ một gánh nặng trách nhiệm, mối quan tâm, tinh thần liên đới, chúng ta bắt đầu cảm thấy một mối t́nh cảm sâu sắc, một sự khích lệ lớn lao. Đây không phải là loại t́nh cảm có tính cách tự phát, không có nguyên nhân mà là sản phẩm của cả một sự quán chiếu lâu dài và sự phân tích gay gắt đầy luận lư. Đây là một thứ t́nh cảm lành mạnh. Loại t́nh cảm có chiều sâu này khác với loại t́nh cảm hời hợt mà chúng ta kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày, thường thoáng hiện qua tâm trí ta mà không do một lư do đặc biệt nào cũng như không để lại một dấu ấn sâu sắc nào, tức cũng là những loại t́nh cảm ngẫu nhiên thoáng hiện trong bất cứ giây phút nào trong ngày, thường tạo nên bất ổn cho tâm trí ta, chẳng những đă không củng cố thêm sức mạnh tinh thần cho ta mà nó c̣n huỷ diệt sự an b́nh cuả tâm hồn chúng ta nữa.

Dĩ nhiên mọi người chúng ta đều biết t́nh cảm là ǵ và v́ thế chúng ta chỉ nên nuôi dưỡng những loại t́nh cảm thuần lư và không để cho ḿnh bị phiền nhiễu bởi những loại t́nh cảm vô nghĩa. Hăy lấy một thí dụ, trong khung cảnh đời sống gia đ́nh chúng ta thường xuyên chi phối bởi đủ thứ bực dọc gây nên bởi những chuyện lặt vặt trong cuộc sống đời thường. Tuy nhiên nếu chúng ta để cho tầm nh́n của ḿnh mở rộng bao quát lên đời sống quốc gia, rồi rộng ra là nhân loại, chúng ta sẽ lần hồi phát triển một ư thức về tinh thần trách nhiệm chung. Bằng cách này tôi tin chắc là chúng ta sẽ không c̣n bị dễ cáu giận trước những lo toan đời thường.

Trong Phật giáo, chúng tôi có ư niệm về Bồ đề tâm, tức là ư thức vươn đến sự giác ngộ. Khái niệm này bao hàm hạnh nguyện được thực chứng quả vị Phật để mang lại mọi điều tốt lành cho toàn thể chúng sanh, nó cũng tương đương với khái niệm về một ư thức trách nhiệm chung. Từ kinh nghiệm cá nhân cuả tôi, tôi thấy rằng những lúc chúng ta đang buồn bă hoặc tâm hồn bị xao động là lúc tốt nhất để chúng ta hướng tâm hồn ḿnh đến ư thức giác ngộ. Nếu chúng ta nghĩ rằng ḿnh đang đảm nhận một trách nhiệm lớn lao khi chúng ta đang hoang mang hay gặp khó khăn, tâm hồn chúng ta rộng mở, thư giản và trở nên mạnh mẻ hơn. Nói một cách khác, khai triển ư thức trách nhiệm chung đ̣i hỏi rất nhiều ở nỗ lực của chính mỗi cá nhân nhưng cuối cùng sẽ làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn.

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, công luận thế giới phương Tây hiện đang thảo luận rất nhiều về các vấn đề “tôn giáo”, “luân lư”, “đạo đức” chứng tỏ người ta đang có một nhu cầu cần một số tiêu chuẩn đạo lư áp dụng trong tất cả mọi ngành nghề. Người ta đang nói đến đạo đức chính trị, đạo đức kinh doanh, sinh học, y học, báo chí... Người ta đang quay về với những giá trị đạo lư. ThưaNgài, Ngài nghĩ như thế nào về khuynh hướng này? Làm thế nào để giải thích hiện tượng này? Và tại sao nó lại xảy ra như thế?

Tôi nghĩ rằng đây là thành quả của kinh nghiệm. Sau khi đối đầu với những vấn nạn lớn lao, những khó khăn chồng chất, người ta nhận thức sự cần thiết phải có một tiêu chuẩn đạo đức.

Thưa Ngài, đúng như thế, tại Pháp, Đức cũng như Hoa Kỳ người ta đang nói về đạo đức trong kinh doanh. Ngài có nghĩ rằng hai khái niệm đạo đức và kinh doanh có thể hoà hợp được với nhau không? Phải chăng tiềân bạc và đạo đức là hai phạm trù riêng biệt? Nhiều người cho rằng đạo đức chỉ là một cách thế để quản lư kinh doanh, nếu nh́n thuần túy trên vấn đề lương bỗng th́ đó là phương thức tốt nhất để điều hành nội bộ cũng như quan hệ với thế giới bên ngoài. Thưa Ngài, quan niệm này có làm hạ giá trị cái khái niệm cao cả của đạo đức hay không?

Theo tôi trước tiên quư vị phải hiểu thế nào là đạo đức. Chúng ta có thể phân biệt chúng ra làm hai loại. Loại thứ nhất liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng; qua đó chúng ta phải theo một hành tŕnh tâm linh, tuân thủ một số tín điều luân lư do tôn giáo đó vạch ra. Loại thứ hai dành cho những người không theo bất cứ tôn giáo nào nhưng tự động chấp nhận một số tiêu chuẩn đạo lư căn cứ trên kinh nghiệm bản thân trong việc kiếm t́m hạnh phúc cho chính họ. Tôi nghĩ rằng chính ước muốn chấp nhận một số tiêu chuẩn đạo đức không phụ thuộc vào một tín điều tôn giáo -ḷng yêu thương dịu dàng tŕu mến của con người- được coi như là một sắc tháiđộc đáo của bản chất nhân loại.

Tôi cũng thường giải thích mọi chuyện như thế này: Chúng ta có rất nhiều ngành nghề, nhiều lănh vực hoạt động khác biệt. Thương măi, chính trị, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, y học, luật học...rất nhiều thứ. Nếu tất cả những ngành nghề này đều được xây dựng trên căn bản t́nh người, chẳng hạn như sự hiểu biết và yêu thương người láng giềng cuả ḿnh, th́ những hoạt động của nó sẽ mang đầy tính nhân bản, tích cực và hiệu qủa. Dĩ nhiên không phải là không có những vấn nạn, khó khăn, nhưng tôi nghĩ là rất ít. Ngược lại nếu tất cả những ngành nghề hoạt động này đều mang tính cách máy móc, trống vắng t́nh người, đây sẽ là mầm mống gây ra những tai họa.

Tôn giáo cũng thế, nếu được xây dựng trên căn bản t́nh người, trong đó mỗi cá thể đều quan tâm đến hạnh phúc của tha nhân, nó sẽ tạo nên một hệ qủa tích cực lên toàn tập thể. Ngược lại nếu tôn giáo không xây dựng trên nhân tính, không mang t́nh liên đới, không có ḷng nhân ái, chắc chắn nó sẽ tạo nên những vấn nạn cho con người.

Bây giờ ta nói đến khía cạnh luân lư trong thương trường. Ai cũng biết là tất cả mọi công ty kinh doanh đều đặt căn bản trên cạnh tranh và lợi nhuận, sự hoà điệu giữa kinh doanh và luân lưv́ thế thoạt trông có vẻ rất mong manh tuy nhiên không phải là không đạt được. Tinh thần cạnh tranh có thể được coi như mang tính tích cực nếu động cơ của nó là tốt. Cạnh tranh xấu là những hành vi lợi dụng người, làm tổn hại kẻ khác. Cạnh tranh tốt đưa đến phát minh và cải thiện những sinh hoạt của con người. Tôi nghĩ rằng kỹ nghệ cũng là lănh vực cần đặc biệt quan tâm và chia xẻ trách nhiệm về vấn đề môi sinh, cho nên ta không thể không lưu tâm đến khía cạnh đạo đức của nó. Những doanh gia hoạt động trên thương trường cũng là những con người, họ cũng cần những t́nh cảm yêu thương, nồng hậu của con người như chúng ta. Cho nên tôi nghĩ đạo đức phải được coi như là sợi dây nối liền giữa nhu cầøu cá nhân và những yêu cầu của môi sinh.

Có một vài sự kiện có vẻ nghịch lư đập vào trí tưởng của chúng tôi, phần nào liên hệ đến câu hỏi trước đây là, chưa bao giờ mà sự phát triển của khoa học kỹ thuật và những gia tăng hiệu năng của nó đối với môi trường sống cuả cá nhân lại đồng thời cũng làm gia tăng sự rối loạn trật tự của xă hội như thế. Phải chăng cái mà chúng ta gọi là tính thuần lư đôi lúc chỉ là ảo tưởng của sự thuần lư. Xin được biết ư kiến của Ngài về vấn đề này?

Tôi không nghĩ rằng xă hội của chúng ta là một xă hội thuần lư. Lúc th́ người ta đưa ra những lư lẽ này, lúc th́ người ta đưa ra những lư lẽ khác. Có thể luôn luôn người ta có một luận lư tương ứng với từng hoàn cảnh, nhu cầu, cho lợi nhuận của ḿnh chẳng hạn, mà không đếm xỉa đến những hậu quả về lâu về dài của những hành động do ḿnh gây ra. Như vậy, khi cá nhân nâng tầm nh́n vấn đề của ḿnh lên một cách rộng lớn hơn, về lănh vực môi trường chẳng hạn, những cái mà ḿnh từng nghĩ là có vẽ như hợp luận lư đó sẽ mất đi sự giá trị và tầm mức quan trọng của nó. Cho nên vấn đề chủ yếu là chúng ta áp dụng lư trí suy luận của ḿnh như thế nào. Chúng ta có một tâm hồn rộng mở hay chật hẹp? Chúng ta chỉ nh́n vào khía cạnh đặc thù của vấn đề hay đặt nó trên bối cảnh toàn cầu? Chúng ta có một tầm nh́n dài hạn hay ngắn hạn? Đầu óc của chúng ta thiển cận hay sáng suốt?

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài có nghĩ rằng một vị Phật sẽ được tái sanh trong xác thân của một giống người khác hơn là Tây Tạng hay Châu Á, có thể là một người AÂu Châu hay Phi Châu chẳng hạn?

Vâng, dĩ nhiên. Phật giáo chúng tôi quan niệm rằng sự hóa hiện của chư Phật không phải chỉ ởù trong thế giới loài người mà ngay cả trong thế giới loài vật.

Từ lâu, súc vật đă bị đối xử như là một thứ dụng cụ, dùng làm thực phẩm cho con người, y phục, phương tiện chuyển vận, làm đồ giải trí và thậm chí là vật thí nghiệm tàn nhẫn của khoa học để phục vụ cho sự thỏa măn của con người. Thưa Ngài, Ngài nghĩ như thế nào về quyền sống của súc vật?

Trên quan điểm Phật giáo, sinh mạng của mọi loài chúng sanh -con người cũng như súc vật- đều quí giá như nhau và tất cả đều có quyền được sống hạnh phúc. Cho nên thật quả là một điều hổ thẹn khi người ta sử dụng súc vật không chút xót thương, nhất là trong các thí nghiệm khoa học. Dù qúy vị không nh́n vấn đề này thuần túy trên quan điểm tôn giáo, hẵn qúy vị cũng thấy rằng các loài vật, chim chóc, thú hoang -nghĩa là tất cả những sinh vật sống trên trái đất này- đều là bạn đồng hành của con người. Chúng là một thành phần của thế giới này, con người cùng chia xẻ thế giới này với chúng. Cứ nghĩ đến một ngày nào đó nếu tất cả loài vật đều biến mất trên thế giới này, lúc đó chúng ta sẽ ân hận biết bao. Tôi cũng nhận thấy một điều rằng kẻ nào không có ḷng từ ái đối với súc vật, sẵn sàng tàn sát chúng không chút xót thương, th́ sớm hay muộn họ cũng sẽ là những người không có ḷng nhân ái đối với đồng loại. Ngược lại, nếu chúng ta biết thương yêu loài vật, trân trọng sinh mạng của chúng chừng nào, chúng ta lại sẽ càng biết tôn trọng đời sống con người hơn thế nữa.

Thưa Ngài, Phật tử có bị bắt buộc phải ăn chay hay không?

Trên quan điểm của một Phật tử, tôi nghĩ rằng điều quan trọng là nên ăn chay trường. Tôi luôn luôn phát biểu rằng, cho dù trên b́nh diện cá nhân một người không cần lúc nào cũng phải giử ḿnh kiêng khem với các thức ăn chay lạt, nhưng nếu khi một số đông người tụ họp lại với nhau trong các tiệc tùng, hội nghị, tôi nghĩ người ta cần nên tránh bớt chuyện ăn thịt. Ngay bản thân tôi, tôi cũng đă cố gắng hết sức ḿnh để quảng bá việc ăn chay vào xă hội Tây Tạng.

Trong thời gian tổ chức hội nghị này, một Phật tử Tây Tạng đă nhiều lần mời chúng tôi đi ăn trưa tại một nhà hàng mà thực đơn chính là thịt.

Có lẽ vị Phật tử này là dân du mục thuộc vùng cao nguyên Tây Tạng.

Thưa Ngài, để đạt đến thực chứng tâm linh, người ta có nhất thiết cần phải rút ra khỏi đời sống xă hội?

Tổng quát mà nói th́ một người dấn thânvào đời sống tôn giáo không cần thiết phải thoát ra ngoài đời sống xă hội. Tuy nhiên -một thực tế đúng đắn cho tất cả mọi truyền thống tôn giáo- là khi một người cảm thấy sẵn sàng thực sự cống hiến đời ḿnh cho thành quả của thiền định tu tập, điều tốt nhất cho họ là nên rút lui ẩn dật để tu tập trong một khoảng thời gian nào đó.

Phật giáo không tôn thờ Thượng Đế. Như vậy ai là những thần linh của họ và họ thờ phượng như thế nào ?

Phật giáo không công nhận bất cứ một vị Thượng Đế vĩnh hằng cũng như một vị Thượng Đế Sáng Tạo nào. Ngược lại Phật giáo quan niệm rằng bất cứ một con người b́nh thường nào nếu cố gắng theo đuổi một hành tŕnh tâm linh, phải tự thanh lọc cái tâm của ḿnh để từ đó phát triển được những phẩm chất nội tại và tiến đến giác ngộ, giải thoát. Những con người này được gọi là đạt đến Thánh qủa. Chúng tôi cũng công nhận sự hiện hữu của những đấng siêu nhiên, những người mà thông qua hành tŕnh tâm linh đă đạt đến sự chứng ngộ ở một mức độ nào đó, chúng tôi gọi họ là những bậc Thánh Tăng. Đối với Phật tử chúng tôi, những nhân vật siêu nhiên này - tức là chư Phật và chư Bồ Tát- hiện hữu, mà qua đó chúng tôi cúng bái và dâng lời cầu khẩn. Chúng tôi làm như thế với ư nguyện đạt đến qủa vị Phật. Đó cũng là lư do giải thích tại sao để đáp ứng lại những ư hướng, mong cầu khác nhau của mọi loài chúng sanh, chư Phật đă phải hoá hiện ra dưới những h́nh thức khác nhau. Những h́nh thức hoá hiện này tức là chư vị Phật, Bồ Tát trong thần thoại.

Thưa Ngài, Ngài có nghĩ rằng những thế hệ trẻ tương lai của Tây Tạng đều có chung ư nguyện là bảo tồn bản sắc Tây Tạng của họ trước những quyến rũ của xă hội tiêu thụ Tây phương?

Một cách tổng quát, tôi nhận thấy rằng tất cả những người Tây Tạng nay phân tán cùng khắp trên thế giới, kể cả những xă hội tiêu thụ Tây phương đều có ư muốn bảo tồn nền văn hóa và truyền thống của họ. Dĩ nhiên không phải là không có những rủi ro.

Đối với những người đang gánh chịu đau khổ bởi những căn bệnh kinh niên; những người trẻ trong lứa tuổi mười tám đôi mươi đang mắc phải bệnh AIDS, thưa Ngài, chúng ta có thể làm được những ǵ để giúp họ chịu đựng và xoa dịu những khổ đau đó?

Điều đó c̣n tùy vào vị trí của mỗi chúng ta trước nỗi khổ đau. Nếu qủa thực con người chúng ta không có một đời sống nội tâm nào khác th́ khổ đau sẽ vẫn măi là khổ đau, chúng ta rất khó mà trốn chạy chúng. Tuy nhiên, nếu chúng ta đă được trui rèn để suy nghĩ theo một hướng đi tinh thần nào đó th́ khi đối diện với khổ đau ta sẽ rất dễ dàng có khả năng hiểu biết và chịu đựng chúng. Chúng ta sẽ biết cách làm thế nào điều hướng tư tưởng của chúng ta đến những nỗi khổ đau lớn lao hơn là của ḿnh đang gánh chịu và nhờ vậy sẽ làm giảm được nỗi khổ đau của chính chúng ta.

Một Phật tử nếu đang mắc bệnh AIDS hoặc bất cứ một căn bệnh đau đớn nào khác có thể quán tưởng về luật nhân qủa. Họ có thể nh́n những đau đớn hiện tại của ḿnh là kết quả của những hành động xấu gây ra trong quá khứ và nhờ đó có thể loại trừ được tất cả những cơn đau tiềm ẩn chất chứa trong họ. Họ cũng có thể suy nghĩ rằng qua nỗi khổ đau của ḿnh, họ đang gánh chịu những nỗi khổ đau của tha nhân và từ bỏ những hạnh phúc của cá nhân ḿnh cho hạnh phúc chung của toàn thể chúng sanh. Họ cũng có thể nh́n vào bệnh hoạn của chính ḿnh như là một cách thế tốt nhất để hiểu rơ những khiếm khuyết trầm trọng của kiếp sống và đi đến kết luận rằng đó chính là bản chất của khổ đau, và từ đó họ thấy được những bất lợi của ṿng sinh tử luân hồi. Như vậy, càng nhận thức sâu xa về t́nh huống hiện tại, những khổ đau của họ sẽ càng giảm bớt và rồi họ sẽ thấy nó không c̣n quan trọng nữa. Điều này có thể mang lại cho họ những nổi an ủi.

Nhân đây tôi cũng muốn xin được nêu lên một điều rằng, bằng mọi giá, xă hội của chúng ta cần phải loại bỏ khuynh hướng phủi tay trước những khổ đau của đồng loại, coi những người ốm đau bệnh tật, những kẻ bơ vơ không nơi nương tựa, như là gánh nặng của xă hội. Ngược lại trong tinh thần từ ái, chúng ta phải cố gắng hết sức để giúp đỡ những người thiếu may mắn này.

Thưa Ngài, Ngài có nghĩ rằng sự tách rời giữa thần quyền và thế quyền là một điều cần thiết trong thể chế dân chủ? Phật giáo phải chăng là một tôn giáo không chấp nhận mọi khuynh hướng cực đoan? Nếu đúng như vậy th́ lư do tại sao ?

Vâng, điều quan trọng theo tôi là nhà thờ - được xem như một cơ sở tu học- cần phải tách biệt đối với nhà nước. Về điểm này, chúng tôi đă hoàn thành xong một bản hiến pháp sẽ có hiệu lực ngay sau khi Tây Tạng dành được độc lập, trong đó nói rơ rằng nhà nước tương lai là một nhà nước dân chủ do dân trực tiếp bầu ra.

Tôi nghĩ rằng tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo rất hạn chế trong Phật giáo. Phật giáo như qúy vị biết, bao gồm nhiều trường phái triết học, cụ thể như bộ phái Đại Tỳ-bà-sa luận (Vaibashiska) được h́nh thành cho những người có khuynh hướng tiến bộ với tầm nh́n khoáng đạt và sâu sắc. Cũng trong Phật giáo, cùng chia xẻ chung một giáo lư, chúng tôi có Tiểu thừa và Đại thừa hay c̣n được gọi là Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ tát đạo. Những tông phái và các cách thức tiếp cận khác nhau sở dĩ ra đời là nhằm đáp ứng với tŕnh độ tri thức cá biệt của mỗi cá nhân cũng như bản chất và khuynh hướng dị biệt cuả mỗi con người. Một khi mà những quan điểm triết học khác biệt cùng cộng tồn hoà điệu ngay từ trong cốt lơi của Phật giáo để đáp ứng với nhu cầu tu học của từng cá nhân, chúng tôi rất dễ dàng cảm thông với các tín ngưỡng khác, bởi v́ chúng tôi hiểu rằng để mang lại những phúc lợi lớn lao đáp ứng với khát vọng của nhân loại, họ có thể đưa ra các quan điểm siêu h́nh, triết học khác biệt. Bởi lẽ đó, chủ nghĩa cực đoan không có chỗ đứng trong Phật giáo.

Tôi quan niệm rằng chúng ta cần phải chấp nhận nguyên tắc đa nguyên tôn giáo trong mối liên hệ giữa các tín ngưỡng và cách thức tốt nhất để ngăn ngừa tinh thần cực đoan là phải cải thiện mối liên hệ giữa các tôn giáo.

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, một câu hỏi cuối về một vấn đề mà chúng tôi cho là rất quan trọng: Thưa, đó là vai tṛ của người phụ nữ trong Phật giáo so sánh với các tôn giáo khác?

Nếu chúng ta nh́n vào Giới Luật của Phật giáo (giới tu sĩ cũng như hàng cư sĩ), chúng ta sẽ thấy rằng phụ nữ cũng như nam giới đều có thể xuất gia thọ giới để trở thành tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni. Thế nhưng theo kinh sách Ấn Độ c̣n được lưu truyền lại, cũng trong Giới Luật này, vị Tỳ Kheo ni thường có một vị trí khiêm nhượng hơn so với nam tăng sĩ, cho dù họ có tuổi đạo cao hơn.

Tuy nhiên trong tông phái Tối Thượng Thừa của Phật giáo hay Mật tông Đại thừa, vai tṛphụ nữ được quan tâm đặc biệt hơn, tức là chiếm một vị trí khá quan trọng. Một số điều luật trong Giới Luật Phật giáo không ít th́ nhiều đă bị ảnh hưởng bởi khung cảnh xă hội của Ấn Độ lúc bấy giờ, vốn không coi trọng vai tṛ của người phụ nữ. Hiện nay người ta đang nêu lên ư kiến về việc bổ khuyết Giới Luật và rồi sẽ có một hội nghị để thảo luận về vấn đề này.


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 4 of 10: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 11:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

KHÁT VỌNG H̉A B̀NH
Bây giờ xin nói đến ḥa b́nh. Hoà b́nh là một vấn đề quan trọng. May mắn thay, con người nói chung đều có khuynh hướng yêu chuộng ḥa b́nh thay v́ chiến tranh đẫm máu cho nên ta có khả năng giảm thiểu bạo động để tạo dựng nên một xă hội hoà điệu, an b́nh, đầy t́nh người cho dù có đôi lúc bản chất tốt đẹp của chúng ta đă không chế ngự được những t́nh cảm nông nổi. Có hai phương thức để đạt tới mục tiêu này: chiến lược ngắn hạn và dài hạn.

Về mặt ngắn hạn, tôi nghĩ rằng qúy vị đă có những phương cách hữu hiệu để đối phó với các vấn nạn hiện đại như vấn đề bạo động chẳng hạn. Thế nên những ư kiến của tôi có thể chẳng giúp đỡ được qúy vị bao nhiêu.

Về một chiến lược dài hạn, nghĩa là nói về tương lai, tôi quan niệm rằng giáo dục phải là yếu tố hàng đầu qua đó đầu óc thông minh của con người nên được điều hướng vào một hướng đi đúng đắn. Thật là một điều hữu ích nếu ta chịu khó nh́n kỹ vào những thất bại của nền giáo dục hiện đại. Một thí dụ hiển nhiên là có nhiều quốc gia đă cố ư nuôi dưỡng những t́nh cảm tiêu cực như thù hận các quốc gia láng giềng chẳng hạn. Thế nhưng thực tế hiện nay cho thấy nhân loại không thể sống c̣n nếu không có sự hợp tác chân thành của quốc tế. Những khái niệm như “nước tôi”, “nước anh,” “đạo tôi,” “đạo anh” v́ thế ngày càng trở nên không mấy quan trọng. Ngược lại chúng ta cần phải khẳng định một sự thực rằng tha nhân cũng có phẩm giá đáng tôn trọng như chính chúng ta. Đấy chính là nhân loại! Đây cũng là lư do tại sao chúng ta cần phải tái thẩm định lại hệ thống giáo dục của chúng ta.

Bây giờ xin nói đến lănh vực truyền thông. Tôi rất kính trọng bộ môn này và rất thích cái lối ưa xen vào công chuyện của người khác của nó. Một số nhân vật quan trọng không phải là lúc nào cũng lương thiện, đàng hoàng. Thế nên qủa là điều tối cần thiết khi chúng ta có bộ phận truyền thông để lưu tâm theo dỏi họ. Kư giả ai cũng biết là rất thính mũi và thường là họ làm việc rất hữu hiệu. Tuy nhiên mặt khác, tôi không khỏi cảm thấy phiền khi thấy họ cứ hay đào sâu vào những khía cạnh tiêu cực làm cho tâm hồn con người dễ bị chán năn, ngă ḷng. Theo tôi nên có sự cân đối trong vấn đề mà kư giả chọn lựa để tường tŕnh. Họ thường phơi bày cho ta thấy quá nhiều trạng huống bất hạnh, mà với thiện tâm và bản chất nhân ái của con người như tôi đă từng đề cập, ta dư khả năng cũng như tiềm năng để thay đổi chúng. Bản chất này phải là nguồn cội của tư duy chúng ta và là nền tảng của bất cứ sự phát triển nào. Mỗi khi tự thấy ḿnh mâu thuẩn với một vài người tôi thường phát biểu: “ Bỏ qua một bên những điều không tốt lành trên báo chí, hăy nh́n vào hàng triệu người trẻ, già, bệnh hoạn đang được giúp đỡ ta không không thể không cảm ơn ḷng từ ái hay thiện ư của con người; những t́nh cảm tích cực cũng hoạt động song hành cùng với tiêu cực.”

Do thiếu giao lưu, kinh nghiệm cá nhân của tôi cho thấy tôn giáo đôi lúc cũng là nguồn gốc của nhiều vấn nạn. Một khi mà chúng ta xây dựng được những quan hệ tốt, tầm nh́n của chúng ta sẽ rộng mở hơn. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng chúng ta có thể làm việc với nhau trên một số căn bản chung cũng như chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau. Bằng cách này, tôi tin rằng mối tương kính sẽ được phát triển và những xung đột về tôn giáo chắc chắn sẽ giảm thiểu.

Bây giờ chúng ta nói tiếp đến những khó khăn gây ra bởi các chính khách, những nhà lănh đạo quốc gia. Dĩ nhiên khi đối đầu với các nhà độc tài, những chế độ chuyên chế ta khó mà nói trước được những ǵ sẽ xảy ra; đây là những trường hợp đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên đối với những chính khách trong các quốc gia dân chủ, qủa là một điều tốt khi ta thấy họ vận dụng phần lớn trí tuệ của ḿnh vào việc phục vụ kẻ khác. Thế nhưng khi mùa bầu cử gần đến, phần trí tuệ c̣n lại đó của họ được đặt để vào bàn tay của các cử tri, điều này chẳng giúp ích ǵ cả mà c̣n tạo nên một trạng thái mất quân b́nh. Như vậy th́ làm thế nào để cải thiện phẩm chất của các chính khách? Tôi thật t́nh không biết.
Tất cả những yếu tố trọng yếu này cần nên được khảo sát thật nghiêm túc, sâu sắc về lâu về dài khi người ta quan tâm đến nhân loại như một thể thống nhất. Mỗi chúng ta là một thành phần của đại gia đ́nh nhân loại đó cho dù chúng ta có những quá tŕnh đào tạo, bối cảnh xă hội khác nhau. Không cần biết anh là giáo viên, nhà kinh tế, chính khách, luật sư, thành phần tăng lữ, thương gia, hay là “kẻ bụi đời,” tất cả đều phải chia xẻ một phần trách nhiệm cũng như vận dụng tất cả mọi khả năng của ḿnh để mang lại một khung cảnh hoà đồng tuyệt diệu cho thế giới mà chúng ta đang sống.

Vào thời buổi mà một số các chế độ độc tài chuyên chế đang sụp đổ, những sự kiện năo ḷng xảy ra như ở Bosnia, Châu Phi nhắc nhở chúng ta một điều cần thiết là phải làm thế nào để ngăn ngừa những t́nh trạng như thế xảy ra trong tương lai. Người ta đang nói nhiều đến “trật tự thế giới mới”. Thật khó mà thay đổi một cấu trúc xă hội đă được xây dựng lâu đời. Thế nhưng bây giờ th́ cấu trúc xă hội cũ đang trền đường sụp đổ, mở đường cho một thời điểm với những thay đổi lớn lao. Tuy nhiên khi mà người ta không biết ḿnh phải làm ǵ, người ta lại càng thêm lo âu bối rối. Nhưng cho dù trường hợp nào xảy ra đi nữa, tất cả đều tùy thuộc vào các chính phủ biết nắm lấy các cơ hội.

Vẫn c̣n một số khó khăn trong việc tài giảm vũ khí nguyên tử. Bao lâu mà loại vũ khí này c̣n tồn tại, thảm họa vẫn có thể xảy ra cho nhân loại bởi v́ số phận của chúng ta luôn luôn bị đặt vào trong tay của một thiểu số người vô trách nhiệm. Hơn thế nữa với việc giải trừ quân bị, chúng ta có thể giới hạn được những thiệt hại mỗi khi xung đột nổ bùng. Phần tôi, tôi vẫn luôn lên tiếng cổ vơ cho sự giải trừ quân bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi con người bằng cách giảm bớt ḷng thù hận, tăng trưởng tinh thần từ bi.

Dĩ nhiên là chúng ta cũng không thể không quan tâm đến lănh vực hạn chế sinh sản. Sự cách biệt giữa Nam và Bắc cũng là đầu mối của nhiều vấn nạn. Một số chuyên gia cho biết là nếu các quốc gia phía Nam đạt đến một mức sống tương đương như các quốc gia phía Bắc, lúc đó những tài nguyên của thế giới sẽ cạn nguồn. Lại thêm một t́nh huống nan giải khác.

Để kết luận, chúng ta có thể tự hỏi là tư duy của con người được thay đổi như thế nào.

Một lần nữa, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào cố gắng, nỗ lực của mỗi cá nhân. Nhân đây tôi cũng xin phép được lưu ư cộng đồng nhân loại, đặc biệt là tất cả những ai hiện đang hoạt động tích cực trong các tổ chức xă hội, rằng: Điều căn bản vẫn là tâm ư của con người. Chúng ta có thể hoàn tất mọi công tác khó khăn nếu chúng ta có quyết tâm. Chúng ta sẽ chẳng đạt được điều ǵ cả, cho dù là những việc dễ dàng nhất, nếu chúng ta luôn luôn có thái độ bi quan yếm thế. Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, tin tưởng và quyết tâm là hai yếu tố quan trọng để thành công.


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 5 of 10: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 11:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

CÂY H̉A B̀NH
Cho tất cả những cư dân của đất nước trù phú với cảnh quan tươi đẹp này - Tôi nguyện cầu cho quư vị và quê hương của quư vị được luôn hạnh phúc, giàu mạnh, và nhân ái.
-Từ quyển sổ lưu niệm của làng Marzens,
Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ Mười Bốn.

Thật là một điều hân hạnh cho tôi được có mặt cùng với qúy vị trong buổi chiều hôm nay để cùng nhau ươm trồng cây hoà b́nh này. Tôi được đến sinh hoạït cùng cộng đồng này trong một vài ngày nhằm giới thiệu đến qúy vị một vài nét căn bản của triết học Phật Giáo. Vùng quê ở đây gắn bó với thiên nhiên thật là êm đềm và dễ chịu, không khí của nó rất thích hợp cho loại tu học của chúng ta. Được dịp tản bộ quanh đây và gặp gỡ một vài cư dân địa phương, tôi nhận thấy khuôn mặt của họ đều rạng rỡ những nụ cười khiến tôi có cảm giác như được gặp lại những bạn bè quen thuộc cũ.Thành thật cảm ơn mối cảm t́nh nồng hậu đó.

Tôi nghĩ rằng sống trong một ngôi làng nhỏ, cái cảm giác của cuộc sống cộng đồng có phần nào sống động hơn là sống trong một thành phố lớn, nơi mà con người thường bị ch́m ngập vào đám đông. Tôi luôn luôn nghĩ rằng cái cảm giác được sống gần gũi với đồng loại trong mối thương yêu nồng đượm là một trong những đặc tính thiết yếu nhất của thân phận con người. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng khi mà phần tâm linh của chúng ta luôn hướng về điều nhân đức, về khía cạnh tích cực của mọi vấn đề, về ḷng yêu thương đồng loại, chúng ta phần nào đă t́m ra cho ḿnh phương cách tốt nhất để giải quyết mọi vấn nạn. Khi đối đầu với những vấn nạn nhân sinh, biện pháp giải quyết bằng vơ lực sẽ không bao giờ mang lại những kết quả lâu dài. Đó là lư do giải thích tại sao tôi thường hay đề cập đến tầm mức quan trọng của t́nh tương thân tương ái giữa những con người cũng như ư thức về tinh thần trách nhiệm trong đời sống cộng đồng. Những khái niệm về cộng đồng và ḷng nhân ái chính là nền tảng của nền hoà b́nh ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nó được bắt nguồn trong mỗi cá nhân từ thuở ban sơ và tích lũy dần qua cuộc sống của cộng đồng nhân loại, cho nên đó phải là mối quan tâm của tất cả chúng ta.

Tôi được biết rằng đây là một mảnh đất ph́ nhiêu màu mỡ và khu vực này luôn luôn có một đời sống sung túc, phồn thịnh. Tôi sẽ luôn nguyện cầu cho sự phồn thịnh này luôn bền vững và mọi cư dân tiếp tục có một cuộc sống tươi vui, thanh b́nh và hạnh phúc. Hy vọng rằng những nguyện vọng của qúy vị luôn thành tựu tốt đẹp và hoà b́nh sẽ ngự trị giữa mọi con người. Đối với cái cây mà chúng ta vừa mới ươm trồng đây, tôi sẽ nhờ bạn bè thân hữu luôn đến thăm chừng nó và báo cho tôi biết nó đă tăng trưởng đến mức nào.

NHÂN LOẠI VÀ THIÊN NHIÊN

ÁN MA NI BÁT DI HỒNG! Sáu chữ của câu thần chú này có mục đích giải trừ mọi khổ nạn của sáu loại chúng sanh đang trôi lăn trong ṿng sinh tử luân hồi. Khái niệm này đưa ta đến mối nhận thức một cách tự nhiên rằng khổ đau và hạnh phúc của con người cùng với điều kiện môi sinh của thế giới mà ta đang sống đều liên hệ mật thiết với nhau. Rất cảm ơn nhă ư của qúy vị đă mời tôi đến ngôi trường Đại học này, tuy c̣n non trẻ nhưng cũng đă rất nổi tiếng. Tôi rất hân hạnh được có maàu7841?t tại đây hôm nay và biết thêm được một điều rằng nơi đây từng là một căn cứ quân sự đă được cải biến để trở thành một trung tâm của kiến thức và học vấn.

Môi sinh và bảo vệ môi sinh là những vấn đề mang tầm mức quan trọng hiện nay. Đây không phải là vấn đề thuần túy về luân lư hay đạo đức mà là chuyện sinh tử của chúng ta. Mối quan tâm của tôi đối với những vấn đề liên quan đến môi sinh không phải là kết quả của một sự nghiên cứu lâu dài trên lănh vực này mà thật ra là một chuyện khá ngẫu nhiên. Như qúy vị biết, tại Tây Tạng đi đến đâu qúy vị cũng có thể uống nước một cách thoải mái. C̣n tại Ấn Độ và một số nơi khác, người ta phải phân biệt giữa nước uống được và các loại nước khác. Đó là lư do tại sao tôi lại ngạc nhiên khi thấy người ta đề cập đến chuyện môi sinh cũng như tại sao tôi lại bày tỏ mối quan tâm của ḿnh về lănh vực này. Sau khi tham khảo ư kiến với một số nhà chuyên môn, qủa thật tôi thấy rằng đây là một vấn đề khá hệ trọng nếu không nói là nghiêm trọng.

Những tai họa gây ra bởi chiến tranh thường xảy ra trước mắt và rất dễ thấy. Trong khi đó sự tàn phá liên quan đến lănh vực môi sinh thường diễn ra một cách chậm chạp hơn. Không thể nhận thấy được từ lúc ban đầu, nó từ từ tăng trưởng cho đến khi người ta nhận ra được th́ mọi chuyện thường là đă quá muộn màng. Bởi thế tôi rất hân hoan và tràn trề hy vọng khi thấy rằng lănh vực môi sinh nay đă trở thành một mối quan tâm đối với tất cả mọi người. Với trí óc thông minh và đầy tham vọng -cũng là một phần của bản chất con người- đôi lúc chúng ta vô t́nh hay cố ư chạy theo những hoạt động có thể gây nên những tổn hại về lâu về dài. Tuy nhiên nếu được kiểm soát đúng mức, cũng với trí thông minh đó, nó có thể giúp ta t́m ra những phương thức để giải quyết mọi vấn nạn.

Đó cũng là lư do mà tôi cảm thấy rằng thật quả là một điều quan trọng nếu chúng ta được thúc đẩy bởi ḷng từ bi, biết đặt ḿnh vào bối cảnh khổ đau của đồng loại cũng như thấy được những hệ quả tiêu cực về lâu về dài. Một cách tổng quát, nếu con người được thúc đẩy bởi ḷng nhân ái, họ sẽ càng trở nên tự tin và quyết tâm hơn. Tôi tin chắc rằng sự quyết tâm này là cơ bản nếu được đi đôi với trí tuệ hoặc óc thông minh; sức mạnh nội tâm và ḷng can đảm chính là những yếu tố cần thiết giúp ta vượt qua mọi chướng ngại trong đời sống. Cũng vậy, tất cả mọi vấn nạn liên quan đến khoa học kỹ thuật, dân số, kinh tế một khi đă phát sinh trên quy mô toàn cầu cần phải được tŕnh bày, thông tin đầy đủ đến với mọi người. Bằng cách cho người ta thấy mối quan tâm về những hiểm họa cũng như nhận thức được yêu cầu cấp thiết cần phải t́m ra những giải pháp, chúng ta dễ dàng tập trung năng lực của ḿnh vào việc kiếm t́m những biện pháp giải quyết thỏa đáng. Một học viện chuyên nghiên cứu về môi sinh một cách khoa học sẽ cung cấp cho chúng ta những dữ kiện đầy đủ chất lượng để có thể đánh giá sự tiến triển và xuống cấp của lănh vực môi sinh. Bằng cách tiếp cận một cách khoa học, với sự hổ trợ của ngành truyền thông, đó là căn bản của vấn đề.

Mối quan tâm của chúng ta về lănh vực môi sinh dĩ nhiên là sẽ không hạn chế một cách cục bộ vào khu vực của ḿnh, biên giới của quốc gia ḿnh. Đây là vấn đề mà tất cả mọi người sinh sống trên thế giới này đều phải quan tâm. Quả là một điều cần thiết nếu mọi người đều nhận thức được điều này để cùng bắt tay nhau đối đầu với vấn nạn. Theo thiển ư của tôi, nếu thế hệ trẻ được rao truyền ư thức về những vấn đề môi trường ngay từ thuở c̣n thơ, những mối quan tâm này sẽ là một phần của kho kiến thức được lưu trữ lại trong suốt đời người.

Một trong những vấn nạn lớn lao nhất mà lănh vực môi sinh phải đương đầu, đó là nền kinh tế hiện đại. Dĩ nhiên không thể chối căi được rằng nền kinh tế cần phải được phát triển, tuy nhiên nếu chúng ta chỉ thuần tuư nghĩ đến chuyện lợi nhuận tất sẽ không tránh khỏi được những tai hại. Đồng ư rằng chúng ta có quyền tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thế nhưng đừng quên mối hiểm họa là chúng ta sẽ làm khô kiệt nó nếu khai thác quá mức. Một số nhà chuyên gia c̣n đi xa hơn khi tuyên bố rằng chúng ta phải thay đổi kiểu cách sống Tây phương. Tôi không biết điều này có hiện thực hay không, nhưng một điều chắc chắn rằng trong thế giới này mọi sự mọi việc đều tương quan ràng buộc với nhau. Thế cho nên điều quan trọng nhất là nên t́m một con đường trung đạo thay v́ cực đoan.

Thưa Ngài, trong xă hội Tây phương, làm thế nào để có thể hoà hợp giữa tiến bộ khoa học với mối quan tâm của chúng ta liên quan đến việc bảo vệ môi trường? Một cách cụ thể, Ngài có tin rằng nhân loại và thiên nhiên không thể tách rời, hoặc ngược lại, Ngài nghĩ như thế nào nếu chúng ta tưởng tượng rằng thế giới này sẽ như thế nào nếu vắng bóng con người?

Theo vũ trụ quan của Phật giáo, ngay tại thời điểm ban sơ của vũ trụ không có con người. Cũng thế, đến một thời điểm tương lai nào đó, xă hội loài người sẽ biến mất trong khi vũ trụ sẽ c̣n tồn tại trong một thời gian. Có thể lúc đó chúng ta sẽ có thái b́nh vĩnh viễn trên mặt địa cầu -ai mà biết được! Theo tôi, ch́a khóa của vấn đề là, như tôi đă nhiều lần phát biểu, mối liên hệ giữa khoa học kỹ thuật và việc bảo vệ môi sinh. Tôi được biết rằng hiện nay rất nhiều cơ xưởng được xây dựng có khả năng giảm thiểu được vấn đề ô nhiễm. Chẳng hạn như lúc c̣n ở Stockholm, một số thân hữu cho tôi biết rằng các loại cá đă biến mất trên ḍng sông chảy qua thành phố này trước đây nay đă bắt đầu thấy xuất hiện trở lại và nước sông đă trở nên tinh khiết hơn, và điều này không có nghĩa là các cơ xưởng trong vùng phải bị dẹp tiệm. Thí dụ này cho thấy là chúng ta có thể có những giải pháp để hạn chế sự ô nhiễm môi sinh mà không cần phải làm đ́nh trệ nền kỹ nghệ. Dĩ nhiên tôi không phải là người hiểu biết kinh nghiệm trên lănh vực này, xin nhường lại cho các chuyên gia để họ t́m ra những giải pháp thích đáng.

Thưa Ngài, có phải đến lúc chúng ta nên hổ trợ cho một chính sách nông nghiệp phù hợp với một số tập quán đặc biệt của các quốc gia đang phát triển nhằm giữ vững và khuyến khích việc bảo tồn một số thói quen có tính truyền thống trong lănh vực thực phẩm ăn uống, thay v́ chúng ta cứ luôn áp đặt quan điểm Tây phương vào các hoạt động nông nghiệp?

Vâng, trong những trường hợp như thế, vấn đề quan trọng là phải làm sao thích nghi vào từng t́nh huống, điều kiện cuả mỗi nơi. Việc sử dụng các sản phẩm hoá chất như phân bón, thuốc sát trùng chẳng qua chỉ là những nhu cầu tạm bợ nhằm nâng cao sản lượng và pḥng ngừa sự tàn phá mùa màng, thế nhưng nó đă gây ra những hậu quả rất tiêu cực, đó là tệ trạng ô nhiễm môi sinh. Tại một số quốc gia bị hăm dọa bởi nạn đói hoặc đối đầu với những khó khăn gây ra bởi t́nh trạng nhân măn, ta có thể can thiệp vào nếu cần. Những khó khăn này trên thực tế thường là hậu qủa do việc người ta quá chú trọng vào ngân sách quốc pḥng thay v́ nông nghiệp. C̣n những nơi mà những khó khăn do hậu quả thiên nhiên gây ra như hạn hán, hoặc đất đai cằn cỗi khiến dân chúng phải sống cơ cực v́ thiếu thốn thực phẩm, ta không thể không tận dụng mọi phương tiện có thể có được nhằm nâng cao sản lượng của đất đai. Trong một số trường hợp khác, nếu điều kiện và hoàn cảnh cho phép, tốt hơn là ta cứ giữ lại các h́nh thức canh tác theo truyền thống, điều đó phần nào nói lên được ḷng kính trọng và ư hướng bảo tồn thiên nhiên của chúng ta.


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 6 of 10: Đă gửi: 05 April 2006 lúc 11:11pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

PHỤNG SỰ NHÂN LOẠI
Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma,Ngài là một đứa trẻ ngoại lệ. Những thiếu nhi quan tâm đến tương lai của thế giới vừa mới đứng ra thành lập một hiệp hội. Ngài có muốn trao truyền một thông điệp nào cho chúng không?

Tương lai trải dài trước mắt chúng ta quả thật là rất quan trọng. Thiếu nhi là người chịu trách nhiệm trực tiếp với tương lai. Trên căn bản nhận định rằng bản chất con người vốn tốt đẹp, t́nh cảm yêu thương, tâm địa lương hăo của trẻ thơ được phát xuất một cách tự nhiên. Lúc c̣n bé, đứa trẻ thường không có nhận thức phân biệt giữa một con người này và một con người khác; chẳng hạn như đối với chúng, nụ cười cuả người đối diện quan trọng hơn là chủng tộc, quốc tịch, văn hóa của họ. Tôi yêu mến cái giá trị tốt đẹp của thái độ như thế, nó mang lại cho tôi biết bao hy vọng khi nh́n về tương lai.

Tuy nhiên ta không thể không quan tâm đến một vài phương diện khác của vấn đề. Trẻ con nói chung đều có một tâm hồn nồng hậu, nhân ái; thế nhưng trong một số lănh vực cuả nền giáo dục mà chúng tiếp thu phần nào đă làm gia tăng sự cách biệt giữa chúng với nhau, tạo nên khoảng cách giữa đứa trẻ này và những đứa trẻ khác. Theo tôi, điều quan trọng là bản chất tốt đẹp của thiếu nhi cần phải được nuôi dưỡng. Điều này có nghĩa là giáo dục phải được hoà điệu nhịp nhàng cùng với bản chất nhân ái sẵn có của trẻ thơ. Thế nên yếu tố quan trọng nhất là chúng cần phải được nuôi dưỡng trong một bầu khí đầy yêu thương, tŕu mến. Một cách lư tưởng mà nói th́ những phẩm chất của con người cần phải được triển khai cùng với ḷng nhân ái, thế nhưng nếu cần phải chọn lựa giữa một bên là những phẩm chất quan trọng chung và bên kia là ḷng nhân ái, tôi thường phát biểu rằng tôi sẵn sàng lựa chọn ḷng nhân ái.

Những vốn liếng về thông minh và học vấn mà con người tích lũy được dù quan trọng đến thế nào đi nữa cũng chưa đủ để xây đắp tương lai. Tâm hồn của chúng ta cần phải được ươm đầy ḷng vị tha thông qua việc học tập những giá trị căn bản của nhân loại, t́nh yêu đối với tha nhân là một thí dụ.
Hăy để cho ḷng nhân ái thẩm thấu vào tâm hồn của mỗi con người và giữ cho tâm hồn của chúng ta luôn ở trong trạng thái tích cực, sinh động. Chúng ta hăy làm phong phú thêm óc thông minh của ḿnh bằng những phẩm chất tốt đẹp này và biết vận dụng một cách khéo léo tất cả những ǵ mà chúng ta tiếp thu được từ giáo dục để xây dựng cho ḿnh một cuộc sống thỏa măn và hạnh phúc.

Ngài có thể giải thích cho chúng tôi biết tại sao trong xă hội Tây phương, cha mẹ và con cái thường là không thuận thảo với nhau ?

Điều này tôi quả t́nh không biết. Có quá nhiều yếu tố, điều kiện gây nên những xung đột trong đời sống gia đ́nh, chẳng hạn như thói quen, tập quán hoặc là những khuôn mẫu mà chúng ta đặt để buộc con cái phải tuân theo. Dĩ nhiên quả là điều đáng buồn nếu ta phải chứng kiến sự thiếu vắng t́nh thương giữa cha mẹ và con cái. Theo tôi chúng ta khó có thể quy trách cho bất cứ yếu tố nào trong chuyện xung đột này. Nguyên nhân th́ rất nhiều, thế nên khi t́m cách giải quyết vấn đề ta phải nh́n chúng một cách toàn diện.

Thưa Ngài, những quan điểm của Tây phương về chính trị, kinh tế có vẻ như rất thành công trong thập niên 60, nhưng đă không c̣n thích hợp trong thập niên 90. Nó không c̣n làm cho người ta hài ḷng nữa. Theo Ngài, làm thế nào để cải thiện t́nh huống này?

Từ thuở bé đến giờ, tôi rất yêu thích bộ môn khoa học kỹ thuật. Một số người cho rằng sự phát triển của bộ môn này tự nó không phải là điều hoàn toàn đáng mong ước, nhưng theo thiển ư của tôi, không được đúng lắm trong trường hợp này. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của chính chúng ta. Khoa học kỹ thuật chỉ là phương tiện, công cụ. Nó thực hiện những ǵ mà chúng ta đ̣i hỏi, tốt hay xấu hoàn toàn do chính chúng ta làm chủ, quyết định. Như vậy mọi chuyện đềy tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy và phương cách mà chúng ta sử dụng chúng. Tôi nghĩ rằng trong thời đại này tất cả chúng ta đang chứng kiến sự bùng nỗ lớn lao của kiến thức, tuy nhiên do quá chú trọng đến kiến thức, chúng ta đă không quan tâm mấy đến sự phát triển ḷng nhân đức, vị tha, bác ái.

Nói như thế, tôi nghĩ rằng mọi việc bây giờ đă có vẻ trở nên sáng tỏ hơn. Con người hẵn nhiên không phải là sản phẩm của máy móc, thế nên khát vọng đạt đến hạnh phúc chân thật không thể nào hoàn toàn nương tựa vào những cảnh huống bên ngoài. Dĩ nhiên chúng ta cũng cần phải có một cuộc sống vật chất tối thiểu, nhưng đó không phải là cỗi nguồn của hạnh phúc. Chúng ta phải tự nỗ lực t́m kiếm ngay chính trong bản thân cuả mỗi chúng ta những nguyên nhân của hạnh phúc và thỏa măn. Chúng phải được phát triển ngay bên trong của mỗi con người. Theo tôi, vấn đề này rất là rơ ràng.

Mặc dù điều này có vẻ như rất khó giải thích, tuy nhiên tôi cũng xin cố gắng để diễn tả điều mà tôi vừa khẳng định. Trước tiên, chúng ta phải nhận thức được rằng hạnh phúc chỉ có thể t́m thấy được trong tâm hồn của chính ḿnh. Những ai nghĩ rằng chỉ có khoa học kỹ thuật là có khả năng giải quyết mọi vấn đề, và với sự tiến bộ trên lănh vực vật chất, mọi mục tiêu đều có thể đạt tới được, theo tôi đều là những người có quan điểm cực đoan. Chúng ta cần phải nhận thức được những giới hạn của lối tiếp cận như thế. Và một khi chúng ta bắt đầu bằng cách ư thức được những giới hạn này, chúng ta sẽ không bao giờ bị xúc động khi phải đối diện với những chướng ngại bên ngoài.

Theo tôi, mỗi khi phải đối diện với những nỗi khó khăn, tốt nhất là chúng ta chớ vội đi sâu vào vấn đề, thay v́ nên lùi lại, nh́n ngắm chúng với một tâm hồn rộng mở, đặt chúng vào trong mộr bức tranh toàn cảnh lớn hơn. Bằng cách này tôi tin rằng chúng ta sẽ rất dễ dàng t́m ra những giải pháp. Cụ thể hơn như khi chúng ta phải đối đầu với những vấn đề nghiêm trọng, nếu ta không đứng tách ra ngoài để nh́n vấn đề và t́m cách đối phó, chúng ta sẽ không nh́n thấy ǵ cả, những khó khăn sẽ trở nên nặng nề và chúng ta sẽ rơi vào trạng huống tiêu cực hơn. Ngược lại, nếu chúng ta quan sát chúng từ xa, tiếp cận chúng với một thái độ rộng mở, khảo sát vấn nạn từ mỗi góc cạnh, chúng ta sẽ dễ dàng nh́n thấy được những trạng huống tích cực của vấn đề.
Tôi nghĩ rằng quả là điều quan trọng nếu chúng ta biết tổng hợp trí óc thông minh tự nhiên sẵn có của ḿnh cùng với ḷng can đảm để có thể phát triển ḷng tự tin trong mỗi chúng ta. Kinh nghiệm cá nhân cho tôi biết thái độ này rất ích lợi cho sự b́nh an của tâm hồn.

Thưa Ngài, bằng những phương sách nào, các chính khách có thể mang lại cho quần chúng hạnh phúc hơn?

Theo tôi vấn đề này không phải chỉ đặt ra cho giới chính khách mà thôi. Nó liên hệ đến tất cả mọi giới: giáo viên, nhà khoa học, lư thuyết gia chính trị, chuyên gia tâm lư, nói chung là tất cả những ai đang hoạt động trên các lănh vực khoa học về tâm trí, tinh thần. Một cách cụ thể, tất cả mọi người đều phải tự t́m kiếm cho ḿnh những phương cách để mang lại sự b́nh an tâm hồn. Y khoa càng ngày càng khám phá thêm những mối liên hệ mật thiết giữa sự thanh thản tâm hồn và sức khỏe thể xác. Những nghiên cứu như thế đáng được đẩy mạnh thêm.

Bên cạnh đó, theo tôi lănh vực truyền thông cũng đóng một vai tṛ khá quan trọng trong chuyện này. Ngành truyền thông của chúng ta hiện đang ở vào thời đại tân tiến, cho nên tôi tin chắc chúng có thể đảm nhiệm được công việc như những nhà giáo dục nhằm kích thích tâm hồn của con người. Những kư giả v́ thế cũng mang một sứ mệnh quan trọng.

Nhân đây tôi cũng xin được bày tỏ đôi điều về vấn đề này. Tôi nghĩ là ngành truyền thông đại chúng hiện đang quá chú trọng đến việc khai thác các khía cạnh tiêu cực trong đời sống xă hội; điều này đă tạo cho công luận có một ấn tượng tiêu cực về bản chất của nhân loại nói chung. Thông thường, một khi bạn mang một ấn tượng như thế, bạn sẽ rất dễ dàng sinh ra chán nản, và thực tế cho thấy là người ta mất đi niềm hy vọng để sống.

Nhân loại -mặc dù được coi như một đại gia đ́nh- đă phải gánh chịu khổ đau bởi rất nhiều vấn nạn.Thế nhưng cho dù con người phải đối diện với vô vàn những khó khăn như thế, ta vẫn có khả năng chuyển hóa chúng. Chúng ta có thể cải thiện hoàn cảnh sống bởi v́ thiện tâm và ḷng nhân ái là một phần của bản chất con người. Nếu chúng ta biết phối hợp trí óc thông minh của ḿnh với sự thúc đẩy của ḷng nhân ái, chúng ta có khả năng thay đổi cuộc sống của chúng ta và qua đó, chuyển hóa xă hội. Tôi nghĩ rằng đây là điểm căn bản.

Điều này giải thích tại sao tôi luôn quan niệm rằng khi cần phải đối phó với những vấn đề liên quan đến con người, điều tốt nhất là ta nên cân nhắc kỹ lưỡng. Tất cả những trạng huống tiêu cực của nhân loại dĩ nhiên không phải là không quan trọng, nó cho báo chí những tin hay. Tuy nhiên đồng thời ta cũng đừng nên bỏ qua khía cạnh tích cực của đời sống vốn được xây dựng trên bản chất tốt đẹp và trí tuệ của con người.

Gần đây tại một số quốc gia đă có những cuộc thảo luận liên quan đến vai tṛ của truyền thông đại chúng. Những ǵ cần phải được tường thuật? Tường thuật như thế nào? Những phần nào liên quan đến đời tư của con người mà truyền thông không được đụng tới? Tôi cũng có một vài thiển ư liên quan đến những vấn đề này, đặc biệt là những lănh vực mà các nhà lănh đạo thường quan tâm. Trong thời gian qua thực tế cho thấy là đă có một số các khuôn mặt lănh đạo lạm dụng chức quyền, họ không hề tuân thủ một chút nào về nguyên tắc đạo đức hoặc ư thức kỹ luật tự giác. Đối với những trường hợp như vậy, tôi nghĩ rằng ngành truyền thông có quyền kiểm chứng và phơi bày cho công luận biết những tệ trạng như thế, đó là lư do tại sao tôi ủng hộ những hoạt động của họ và đánh giá cao khả năng điều tra t́m ṭi của người kư giả, có thể chỏ mũi vào bất cứ nơi nào.

Một con người lương thiện không thể có sự mâu thuẫn nào giữa dáng vẽ bên ngoài và đời sống nội tâm của họ. Tôi nghĩ rằng ngành truyền thông cần cho công luận thấy một vài khuôn mặt nổi tiếng đă khéo léo che dấu con người thật của họ bằng một mả ngoài rất lịch sự, dễ thương. Trong những trường hợp như thế, tốt hơn là ta đành phải chấp nhận chuyện xâm phạm đời tư cá nhân, tuy nhiên, xin đừng quên rằng mục đích chung cùng của chúng ta là phụng sự nhân loại trong ư hướng cải thiện xă hội. Điều này không cho phép ta làm việc cẩu thả, sai lầm hoặc bị lôi kéo bởi những động cơ tiêu cực. Tôi quan niệm rằng nếu chúng ta không chịu phơi bày ra những mặt xấu xa của xă hội chẳng hạn như ma túy, sát nhân, sách nhiễu t́nh dục, khai thác trẻ con... ngày qua ngày, những người lương thiện sẽ vẫn c̣n tiếp tục hứng chịu những đau khổ gây ra bởi những tệ nạn này. Nếu chúng ta biết giải thích mọi việc một cách sáng tỏ, công luận từ đó sẽ quan tâm đến vấn đề và t́m ra những phương thức làm giảm thiểu khổ đau.

Tôi cũng nhận thấy rằng khi người ta nói về luân lư, đạo đức người ta thường liên hệ những phẩm chất này với những ư niệm tôn giáo. Theo tôi, một việc khá quan trọng là ta cần nên tách rời giữa hai ư niệm đạo đức và tôn giáo. Tôn giáo dĩ nhiên giúp ta củng cố, trợ lực và phát triển đạo đức; thế nhưng khi ta nói đến những khái niệm như ḷng vị tha, t́nh huynh đệ chúng ta nên nhận thức rằng những tiêu chuẩn đạo đức này tự nó hiện hữu, độc lập đối với mọi tôn giáo, bởi v́ những t́nh cảm này được h́nh thành do bản chất tự nhiên của con người -t́nh nhân ái và ḷng thương yêu.

Thưa Ngài, quan niệm của Ngài như thế nào về việc kiểm soát sinh sản và Ngài có ư kiến ǵ về việc phá thai?

Để trả lời cho câu hỏi này tôi thường giải thích theo quan điểm của người Phật tử vốn quan niệm rằng đời sống của tất cả mọi loài chúng sanh, kể cả côn trùng sâu bọ và đặc biệt là con người, đều rất qúy giá. Nếu nh́n vấn đề như thế th́ tất cả mọi h́nh thứckiểm soát sinh sản đều cần phải được ngăn cấm. Tuy nhiên những sinh mạng qúy giá đó nay đă đạt đến một số lượng đáng kể, thế nên chúng ta không thể không khẩn thiết kêu gọi mọi người phải quan tâm đến vấn đề hạn chế sinh sản một cách nghiêm túc, v́ đó là phương cách duy nhất để hạn chế t́nh trạngï gia tăng dân số. Như tôi đă từng đề cập, khi mà tài nguyên của trái đất đang khô kiệt dần, tôi chấp nhận chuyện hạn chế sinh sản một cách bất bạo động.

C̣n phá thai là một chuyện khác, đó là một hành động sát nhân. Truyền thống Giới Luật Phật giáo chỉ rơ rằng ta không được giết hại con người, cho dù đó là một bào thai. Tuy nhiên không phải là không có những trường hợp ngoại lệ mà ta phải xem xét, chẳng hạn như đó là nguồn gốc gây nên sự khổ đau trầm trọng cho một thành viên trong gia đ́nh, ví dụ một bà mẹ mang thai có nguy cơ tử vong lúc lâm bồn hoặc những người có thể sinh ra quái thai.

Thưa Ngài, làm thế nào để giúp đỡ những người mang những khổ đau thể xác lớn lao, những người không đủ sức khoẻ để có thể theo đuổi con đường dẫn đến giác ngộ?

Có nhiều loại bệnh hoạn về thể chất khác nhau. Những loại tạo ra những ảnh hưởng trầm trọng đến tâm trí của bệnh nhân th́ quả thật là rất đáng thương và bi đát; thế nhưng có những loại chỉ gây nên những đau đớn về thể xác, như là các bệnh kinh niên, bán thân bất toại hoặc tạo ra những biến chứng trầm trọng, nhưng tâm trí người bệnh vẫn tỉnh táo và như vậy họ có thể dự phần vào các sinh hoạt tâm linh ở một mức độ nào đó. Sự học hỏi Giáo Pháp không phải là một hoạt động về lănh vực thể chất mà đ̣i hỏi sự vận dụng tâm trí và một thái độ tâm linh cần thiết. Những ai đang đau đớn có thể được hướng dẫn để quán tưởng về các đề mục tham thiền như t́nh yêu thương, ḷng can đảm, về đức tin cũng như tinh thần từ bi, nhân ái; những việc này sẽ tạo cho họ thêm tin tưởng cũng như làm cho đời sống của họ trở nên có ư nghĩa và giá trị hơn. Tuy nhiên sự hướng dẫn phải được thực hiện một cách khéo léo.

Thưa Ngài, ta có thể làm được ǵ khi một người biết ḿnh đang bị bệnh AIDS hoặc một căn bệnh bất trị khác?

Một lần nữa, theo tôi những phản ứng của một người trước loại bệnh hoạn như thế đều tùy thuộc vào mức độ tham dự vào những sinh hoạt tâm linh của họ. Tôi không biết phải nói như thế nào đối với những kẻ vô thần hoặc không có một niềm tin tôn giáo cụ thể nào. Tuy nhiên điều tôi muốn tŕnh bày ở đây là dù thế nào đi nữa, chúng ta không nên bỏ rơi hoặc gạt họ ra bên lề xă hội và như thế ta có thể làm giảm thiểu được sự khổ đau gây nên bởi cảm giác bị hất hủi, tuyệt vọng, không được che chở nơi họ. Chúng ta phải cho người bệnh thấy là họ không bao giờ bị gạt ra ngoài. Đó là trách nhiệm lớn lao của xă hội.

Nếu một người không c̣n một mảy may hy vọng nào sống sót -ví dụ như đang ở trong trạng thái hôn mê chẳng hạn- có phải là điều quan trọng nếu ta kéo dài sự sống của họ một cách giả tạo? Chúng ta có tạo nghiệp hay không khi phải chấm dứt sự sống không ngoài mục đích ngăn chặn những đau đớn không cần thiết khác?

Chúng ta hăy nh́n vấn nạn này trên quan điểm của người bệnh. Tâm trí của họ có c̣n tỉnh táo, lư trí của họ có đủ khả năng để suy luận hay không? Nếu c̣n đủ, một điều rất quan trọng là ta phải để cho họ sống, dù chỉ trong một ngày hay một buổi để may ra họ có thể có cơ hội phát triển trạng thái đức hạnh về mặt tâm linh như ḷng từ bi và hỷ xả chẳng hạn. Trong trường hợp bệnh nhân đang ở trong trạng thái hôn mê bất tỉnh, tâm trí không c̣n hoạt động nữa, ta cần nên xem xét một số yếu tố khác, chẳng hạn như ư muốn của những người thân trong gia đ́nh cũng như quyết định ai sẽ là người trách nhiệm đứng ra chấm dứt sự sống. Như vậy quả t́nh vấn đề không phải là đơn giản, ta không thể có câu trả lời trên căn bản những lời khuyên thông thường.

Tuy nhiên quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải xem xét động cơ đàng sau mỗi hành động. Đạo Phật dạy chúng ta không nên huỷ diệt sự sống của bất kỳ sinh vật nào. Nếu một người đang đau đớn, họ phải chấp nhận hoàn cảnh khổ đau đó để thanh lọc nó. Tuy nhiên qủa là một lầm lẫn lớn nếu ta không thèm đếm xỉa đến nỗi khổ đau của người khác, xem đó là nghiệp qủa mà họ phải gánh chịu và ta không thể làm ǵ được. Mỗi chúng ta đă và đang tích lũy một nghiệp qủa riêng. Nó đă được thu nhận, và tiềm ẩn trong mỗi con người. Tương lai v́ thế nằm ở trong tay của chính chúng ta chứ không ai khác. Những khó khăn trở ngại, những bệnh tật, khiếm khuyết... là kết qủa của những tác hành mà chúng ta phạm phải trong quá khứ, rất khó mà trốn chạy được. Đối diện với bệnh hoạn và khổ đau người ta thường t́m đủ mọi cách để tránh né chúng, cố làm vơi bớt đi những gánh nặng khó khăn; và cho dù ngay cả khi trực nhận thấy rằng ta không đủ lực để chữa trị hay làm khuây khoả, ta phải nên nhớ rằng tất cả những vấn nạn này đều là kết quả của những tác hành mà ta đă gây ra trong quá khứ.

Làm thế nào để giúp đỡ một người đang ở trong trạng thái hôn mê ?

Nếu đó là một người có tín ngưỡng, ta nên giúp họ theo quy cách tôn giáo mà họ đang tu tập. Cá nhân tôi không thể đưa ra một giải đáp chắc chắn nào trước cả. Riêng đối với quan điểm của một Phật tử,tôi nghĩ là con người nên biết cách chuẩn bị cho ḿnh trước khi sự việc bi đát xảy ra bởi v́ một khi đă rơi vào trạng thái hôn mê, quả thật là hơi muộn màng khi nói đến chuyện tâm linh.

Làm thế nào để một người có thể thoát khỏi t́nh trạng nghiện rượu?

Theo tôi, tốt nhất là ta nên t́m kiếm lời khuyên từ những bác sĩ chuyên môn. Tạm thời hăy để qua một bên bất cứ những niềm tin tôn giáo của người đó, điều dễ dàng nhất là ta cứ nh́n vào và nhận thức được những tổn hại gây ra do việc rượu chè quá độ cả trên hai b́nh diện tinh thần lẫn thể xác, để hiểu được rằng do nghiện ngập ta đă bị người đời xa lánh, cô lập. Một khi đă có một cái nh́n rơ ràng về mặt bất lợi của việc nghiện rượu và phát triển được ḷng quyết tâm từ bỏ nghiện ngập, tôi tin chắc là bạn có thể thay đổi được đời ḿnh. Tuy nhiên nếu bạn không đủ ư chí và nghị lực để có được một thái độ tích cực, tốt nhất là hăy nên đến các trung tâm y khoa chuyên chữa trị về cai rượu hầu như bây giờ đều có mặt khắp nơi.

Khi một người Tây Tạng giết một con trâu để nuôi sống gia đ́nh, có phải họ đă gây ra một ác nghiệp? Hoặc khi một cận vệ phải giết kẻ khác để bảo vệ sinh mạng của Ngài? Chúng ta giải thích như thế nào về những trường hợp trên?

Dĩ nhiên đó đều là những hành động bất thiện. Tuy nhiên nghiệp tác động vào mỗi hành động của chúng ta dựa trên nhiều yếu tố, chẳng hạn như ư hướng thúc đẩy hành động, sự hành động và những ư tưởng theo sau hành động đó.

Thưa Ngài, những ǵ được xem như là những thái độ t́nh dục không đúng đắn? Ngài nghĩ như thế nào về đồng t́nh luyến ái?

Tùy thuộc vào các yếu tố như cơ quan sinh dục, thời gian và không gian mà một số hành động được coi như là không đúng đắn chẳng hạn như giao cấu không đúng chỗ trên bộ phận của cơ thể hoặc xảy ra không hợp thời hợp chốn. Đây là những hành động mà người Phật tử xem là vô luân về mặt t́nh dục. Miệng và hậu môn dĩ nhiên không được coi là những bộ phận sinh dục, sử dụng các bộ phận này trong việc giao cấu, dù nam hay nữ đều được coi như là vô luân trong t́nh dục. Ngay cả thủ dâm cũng thế.
Giao cấu vào ban ngày cũng được coi như là vô luân, ngay cả việc giao cấu với người bạn t́nh mà họ đang tuân thủ một số nguyên tắc đạo đức, hạnh nguyện dù chỉ là tạm thời, chẳng hạn như từ khước ham muốn t́nh dục, sống độc thân... Bắt buộc người khác phải giao cấu với ḿnh cũng được liệt vào loại liên hệ t́nh dục không đúng thời, đúng lúc.

Giao cấu không đúng chỗ nếu được xảy ra tại những nơi như chùa chiền, chỗ thờ phượng, hoặc bất cứ nơi nào mà một trong những người bạn t́nh cảm thấy không thoải mái. Một hành động t́nh dục được coi là đúng đắn khi đôi vợ chồng sử dụng các bộ phận chức năng sinh dục trong việc giao cấu, không có một ngoại lệ nào khác. Làm t́nh với gái điếm do chính ḿ nh trả tiền mà không phải là một người thứ ba nào khác, ngược lại không được xem như là hành vi không đúng đắn. Tất cả những thí dụ vừa nói nêu ra một số khái niệm thế nào là đúng và không đúng đắn trong thái độ t́nh dục theo quan điểm đạo đức của Phật giáo.
Đồng t́nh luyến ái, bất luận là giữa người nam hay người nữ, đều được xem là những liên hệ t́nh dục không đúng đắn. Xin được nhắc lại một lần nữa rằng những ǵ được coi là không đúng đắn nếu sử dụng các bộ phận không xứng hợp trong chuyện giao hợp. Vấn đề này như thế có lẽ đă sáng tỏ?

Thưa Ngài, Phật giáo giải thích như thế nào về vấn đề ư thức đối với các sinh vật bé nhỏ như côn trùng hay vi trùng chẳng hạn? Phải chăng tất cả các loài hữu t́nh đều có ư thức? C̣n cây cỏ, đất đá th́ sao, chúng có vẻ như là những vật vô t́nh? Phải chăng cây cỏ cũng có Phật tánh?

Tôi đă từng thảo luận vấn đề này với các nhà khoa học. Không nhiều th́ ít, chúng tôi đă đồng ư với nhau trên quan điểm rằng mọi vật có thể tự ḿnh chuyển động được -đặc tính mà cây cối không có- đều có ư thức, linh hồn. Dĩ nhiên rễ cây cũng chuyển động khi chúng phát triển, tuy nhiên đây không phải là chuyển động tự nó mà chỉ được xảy ra khi cây cối tăng trưởng. V́ thế ta không thể gọi cây cối là “chúng sanh”, tức là có linh hồn. Tuy nhiên ta có thể kết luận rằng một tế bào vi tế nhất, tế bào amíp chẳng hạn, vẫn được coi như là một sinh vật v́ nó có khả năng tự chuyển động.

Một khi đă không xem các loại rau cỏ là sinh vật, ta không thể xem chúng là có Phật tánh. Đối với một số loài cây ăn thịt, tôi không có khả năng phán đoán khả năng giăng bẩy bắt mồi của chúng là do chúng có ư thức hay chỉ là kết quả của một phản ứng thuần túy hóa học. Vấn đề này xin được mở rộng để thảo luận. Tuy nhiên trong một số trường hợp, người ta không thể không đặt vấn đề. Đóa hoa này chẳng hạn, được xem như là loài vô t́nh -tức là không có linh hồn- hay là một chúng sanh? Chúng ta thỉnh thoảng được phép nêu lên nghi vấn bởi v́ trong một số kinh sách Phật giáo đă từng đề cập đến các loài chúng sanh có thể được xuất hiện dưới dạng thể của loài vô t́nh hay cây cối,v.v... Bởi lẽ đó, chúng ta cũng không thể khẳng định dứt khoát rằng một đóa hoa có phải là sinh vật hay không, v́ lẽ chúng ta không thể biết được một chúng sanh đang hoá hiện ra dưới h́nh thức như thế.

Phật giáo quan tâm mạnh mẽ đến việc bảo vệ thiên nhiên, cây cỏ, không phải v́ chúng là loài hữu t́nh, là những tạo vật có thể đánh động ḷng từ bi thương xót nơi chúng ta mà bởi v́ thiên nhiên tự nó chính là môi trường sống, cũng như bảo vệ sự sống c̣n của muôn loài sinh vật. Nếu một thành phố bị hỏa thiêu thành tro bụi, có phải là một số lượng rất lớn những mái ấm gia đ́nh của con người đă bị hủy diệt? Cũng thế, sự tàn phá thiên nhiên cũng chẳng khác ǵ hơn, bởi v́ một số lượng lớn loài vật sẽ bị mất đi nguồn thực phẩm, chỗ cư trú, tức là mất đi khả năng sinh tồn.

Đối với các loài vi khuẩn, theo kinh sách Phật giáo, cơ thể của chúng ta chứa một số lượng đáng kể. Người ta ước tính ra là có thể có hơn 80,000 loại như thế, đây là một con số khá lớn. Ở vào chiều kích nào, tŕnh độ tiến hoá nào những vi sinh vật này có thể được coi như là những chúng sanh? Tôi không thể nói thêm được điều ǵ ngoại trừ cho rằng các sinh vật bé nhỏ, súc vậr -nếu chúng ta quan niệm chúng là súc vật hẵn nhiên là chúng phải có một số h́nh thức sinh hoạt của loài hữu t́nh- v́ thế chúng ta có thể xem chúng là có linh hồn.

Thưa Ngài, xin Ngài giải thích cho chúng tôi khái niệm về cộng nghiệp, ví dụ nghiệp lực của một quốc gia như Cam Bốt, Tây Tạng? Cộng nghiệp của các quốc gia này đă được biểu hiện như thế nào?

Chúng ta có thể nhận thức được thế nào là cộng nghiệp của một quốc gia. Thế nhưng cho dù các nghiệp quả được tích lũy của một cá nhân và chung một nhóm người có thể được phát tác đồng lúc, điều này không nhất thiết là tất cả nghiệp lực của họ đều được gây ra bởi cùng một thời điểm giống nhau. Tôi không tin rằng tất cả những nguyên nhân của cộng nghiệp được tạo ra cùng một lúc mà đó là kết quả của từng cá nhân gây ra ở những thời điểm khác nhau. Lực của những tác hành này cộng thêm với những yếu tố khác đă tạo nên cộng nghiệp mà qua đó một nhóm người hay cả một quốc gia phải hứng chịu.

Có một số tội phạm chiến tranh tại các quốc gia Âu Châu, cụ thể là Đông Âu và một vài quốc gia khác tại Á Châu, như Cam Bốt, Việt Nam chưa hề bao giờ bị truy tố hoặc ngay cả trong vài trường hợp nhận được sự khoan hồng trước khi bị mang ra xét xử. Ngài nghĩ như thế nào về chuyện này?

Thật quả là điều hổ thẹn khi nh́n thấy một số quốc gia vừa mới được giải thoát khỏi ách chuyên chế độc tài hồi gần đây lại quay ra oán hờn và trả thù trả oán lẫn nhau trong khi lẽ ra người ta nên chấp nhận và tha thứ cho nhau. Đối với các quốc gia vừa mới được hưởng tự do dân chủ, đây không phải là thời điểm để rửa hờn và thanh thỏa chuyện cũ. Trái lại đây chính là lúc cần tập trung nỗ lực để xây dựng quốc gia, tái tạo xă hội. Tôi vẫn luôn nêu lên những cảm nghĩ này mỗi khi có dịp thăm viếng các quốc gia đó. Riêng tại Trung quốc, mặc dù nền kinh tế đă được giải phóng nhưng họ vẫn theo đuổi một chế độ chính trị độc tài áp bức. T́nh trạng vi phạm nhân quyền xảy r a khắp nơi, đặc biệt là tại các khu vực của sắc dân thiểu số, cụ thể là Tây Tạng, trên thực tế là một quốc gia đang bị họ chiếm đóng.

Tôi rất mực hoan hỷ và khâm phục các hoạt động cao quư của những tổ chức như Hội Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) đă làm việc với tinh thần cực kỳ thành khẩn, rất có hiệu quả và nhiệt t́nh trong lănh vực bảo vệ quyền làm người.

Thưa Ngài, Ngài đă từng nói đến việc tài giảm vũ khí cần đi đôi với việc giải trừ quân bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi con người. Chúng tôi rất muốn được biết thêm làm thế nào đểø giải trừ quân bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi người trong khi chúng ta hàng ngày đă phải đối mặt với kẻ thù, và hận thù th́ ngự trị khắp nơi. Trong cuốn sách The Ways of the Heart, Ngài có gợi ư về việc thành lập một quân lực quốc tế cho tương lai. Như vậy tổ chức này theo Ngài, sẽ hoạt động như thế nào trong khi Ngài là người chủ trương bất bạo động? Đội quân này có được vơ trang hay không?

Mọi người đều biết rất rơ rằng khả năng giết chóc lẫn nhau giữa con người vẫn c̣n tồn tại khi nào mà vũ khí vẫn c̣n vung lên giữa các quốc gia hay đơn giản hơn ngay trong nội bộ của chính mỗi quốc gia. Dù bất cứ trường hợp nào đi nữa chúng ta cũng cần phải làm một cái ǵ đó để chận đứng tệ trạng buôn lậu vũ khí bởi v́ t́nh huống ngày càng trở nên kinh khủng và vô trách nhiệm. Hăy suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh đến các vấn nạn về quân bị và vũ trang: Nếu nh́n vấn đề một cách thấu đáo ta thấy rằng các học viện quân sự là nguyên nhân chính gây nên t́nh trạng đổ vỡ hủy diệt và mối kinh hoàng ngự trị trên trái đất này bắt nguồn từ vũ khí. Thế nên mối hiểm họa xung đột vẫn luôn luôn có cơ may xảy ra khi mà các trung tâm quân sự vẫn c̣n hiện hữu, dù là ở phe này hay phe kia.

Đó là lư do giải thích tại sao việc giải trừ quân bị là điều cần thiết, dĩ nhiên cần được tiến hành từ từ từng bước một. Đầu tiên nên bắt đầu bằng việc giải giới vũ khí nguyên tử, tiếp theo là loại bỏ các loại vũ khí hóa học, sinh học và cuối cùng là các loại vũ khí của chiến tranh quy ước. Trước hết ta cần phải có sự đảm bảo quốc tế để theo dơi tiến tŕnh này, kể cả kiểm soát việc buôn bán vũ khí, lănh vực mà không thiếu ǵ những kẻ vô lương tâm đang hoạt động. Để giám sát việc giải trừ quân bị, có thể là chúng ta cần có một cơ quan pháp lư, h́nh thức giống như cảnh sát quốc tế. Tổ chức Liên Hiệp Quốc gần đây đă tham dự khá nhiều vào các hoạt động quân sự giải phóng, chúng ta cũng cần một lực lượng như thế trong phạm vi khu vực hay toàn cầu để giám sát công tác hoàn toàn giải trừ quân bị một quốc gia. Lực lượng hỗn hợp này trong ư tưởng của tôi chẳng khác ǵ lực lượng kiểm soát hoà b́nh của Liên Hiệp Quốc. Với cung cách này mỗi chúng ta có thể sẽ trở thành một vị Bồ Tát, và dĩ nhiên, lực lượng này không cần phải trang bị vũ khí! Tuy thế tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề rất khó khăn.

Có thể một số người đă không hiểu ư nghĩa của việc giải trừ quân bị ngay chính trong tâm hồn của mỗi con người. Theo tôi, kẻ thù tồi tệ nhất cuả chúng ta là sự thù hận. Đó cũng chính là kẻ thù của sự an b́nh tâm hồn, của t́nh thân hữu và hoà điệu giữa con người, là ba yếu tố then chốt trong việc triển khai tích cực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp. Hận thù phải được tiết giảm để cho từ bi và thiện cảm lên ngôi. Đó chính là khái niệm về giải trừ quân bị trong tâm hồn mà tôi đă từng đề cập.

Thưa Ngài, xin Ngài nêu bật những đặc điểm của nhân loại?

Dĩ nhiên đây là câu hỏi liên quan trực tiếp đến thực tại của thế giới hiện tượng vốn có nhiều mức độ khác nhau. Ở mức độ cao nhất, chúng ta không thể nào t́m ra được sự hiện hữu tuyệt đối của cái mà ta gọi là thực tại.
Tuy nhiên thông thường mà nói, tôi luôn cho rằng thực tính của nhân loại chính là ḷng nhân ái. Giáo dục và kiến thức đồng thời cũng mang lại những phẩm chất tốt đẹp khác, thế nhưng nếu ta muốn trở thành một con người đúng nghĩa cũng như mang lại ư nghĩa thoả đáng cho sự hiện hữu của ḿnh, ta cần phải có thiện tâm.

Cái ǵ nối kết Pháp với hạnh phúc? Phải chăng là cảm thụ?

Khi nói đến hạnh phúc ta nói đến hai trạng thái khác nhau: thứ nhất, hạnh phúc được hiểu như là một cảm giác hài ḷng thỏa măn, một thứ kinh nghiệm dễ chịu; mặt khác, hạnh phúc c̣n là những ǵ mang lại cho tâm hồn ta những hân hoan sâu lắng hơn. Khi bạn tưởng đến Pháp và đi vào thực hành, bạn được xem như là đang tích lũy công đức, bởi v́ tất cả mọi loại hạnh phúc và thỏa măn đều là kết qủa trực tiếp hay gián tiếp của các tác hành tích cực, tốt đẹp. Tôi có cần phải khẳng định thêm một lần nữa rằng tham dự vào các hoạt động tinh thần lành mạnh là con đường ngắn nhất dẫn đến an lạc, thanh thản tâm hồn? B́nh an, thanh thản tâm hồn có thể không nhất thiết được cảm nhận như là một cảm giác đặc biệt, thế nhưng nó xúc tác trên cảm xúc thể chất tạo ra niềm vui, hạnh phúc. Thanh b́nh và an lạc của Niết Bàn không tạo ra một thực trạng thuộc về thế giới cảm xúc mà là một trạng thái hoàn toàn giải thoát khỏi khổ đau cùng những mối dây ràng buộc ta vào ṿng luẩn quẩn của sinh tử luân hồi. Từ cái nh́n này, đây chính là trạng thái hạnh phúc vĩnh cữu. Phật qủa v́ thế cũng đồng nghĩa với cực lạc, tuyệt đối hạnh phúc. Nếu qúy vị muốn đi một bước xa hơn và hỏi tôi: Như vậy cái ǵ là bản chất của cái gọi là cực lạc này ?, tôi bắt buộc phải trả lời rằng đây là điều không thể thấu đáo, không thể nghĩ bàn, hoàn toàn vượt ra ngoài khả năng tinh thần của chúng ta.

Làm thế nào để có thể phát triển được sự can đảm tinh thần? Phải chăng đây là một thuộc tính tích cực?

Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, can đảm là một thái độ tích cực và cần thiết. Nếu bạn thiếu can đảm, hăy luôn luôn tự nhắc nhở ḿnh: “Tôi sẽ can đảm, Tôi sẽ can đảm,” vàphải kiên tŕ suy nghĩ như thế măi.

Ḷng can đảm có thể được phát triển bằng cách nào? Trước tiên bạn phải có khả năng nhận biết mỗi loại t́nh cảm để có thể cô lập những loại thường gây kích động và phiền nhiễu đến tâm hồn của ḿnh. Bạn biết được loại t́nh cảm tiêu cực này, thường là những loại t́nh cảm vụn vặt không quan trọng -không hợp lư, không chính đáng, làm cho tâm hồn của bạn phản ứng một cách bối rối, kích động. Trong khi đó các loại t́nh cảm khác như ḷng từ bi, t́nh thương, nhân ái là những t́nh cảm căn bản lành mạnh và tích cực. Nếu luôn suy nghĩ đến chúng sẽ làm bạn tăng trưởng ḷng can đảm và sức mạnh đạo đức; và khi bạn quán tưởng sâu xa đến bản chất bất toại của chu kỳ cuộc sống, nó sẽ dấy lên trong ḷng bạn những t́nh cảm đột biến thay đổi sâu xa, tạo nên một nhu cầu khẩn thiết phải tự giải phóng cho chính ḿnh ra khỏi những hệ lụy đó.

Xu hướng mạnh mẽ này mà mục tiêu chính là nhằm giải thoát ḿnh ra khỏi ṿng sinh tử luân hồi, chính là điều mà tôi cho là trạng thái tích cực của tâm hồn -không nhất thiết là bạn phải đạt đến 100%- bởi v́ nó được bắt nguồn từ một tiến tŕnh tư duy lành mạnh cũng như những lư luận đă được thực chứng bởi kinh nghiệm. Cũng như khi ta phân chia việc tu tập Đại thừa ra làm hai phạm vi: pháp, cũng c̣n được gọi là phương tiện thiện xảo, và trí huệ- tôi nghĩ là chúng ta có thể đồng hoá những phẩm chất này với pháp và xem trí thông minh như là trí huệ. Chắc chắn là pháp tương ứng với những khía cạnh tích cực của phản ứng và trí huệ chính là sự biểu hiện trí thông minh của chúng ta.

Bây giờ nói đến chuyện làm thế nào để phát triển ḷng can đảm, đây qủa là một vấn đề khó nuốt! Tuy nhiên thực ra, tôi tin một cách chắc chắn rằng toàn bộ cuốn Nhập bồ đề hành kinh (Bhodicharyavatara) của Bồ Tát Tịch Thiên (Shantideva), ngay từ những ḍng đầu tiên của chương nhất cho đến đoạn cuối của chương mười và phần kết luận đều nêu lên chủ đề về con đường đưa đến tỉnh thức cũng như phương thức tu dưỡng ḷng can đảm và quyết tâm. Tuy nhiên tùy theo căn cơ, tâm tính và tŕnh độ thông minh khác nhau của mỗi cá nhân, có người có thể ưa thích giá trị của kỹ thuật được đưa ra trong cuốn sách này nhưng cũng có người lại chọn một đường lối khác hơn.

Tôi hoàn toàn tâm đắc với câu nói sau đây của Geshe Potawa: “Ṿng luân hồi sinh tử không có điểm khởi đầu cũng như nguồn gốc cho nên nó không thể tự chấm dứt. Ta không thể so sánh nó như một trái cây trên cành, cho dù không ai chăm sóc vẫn lớn lên, chín tới và rơi rụng khi bắt đầu thối rửa.” Thế cho nên một khi bạn cảm thấy chán ngán cái ṿng luẩn quẩn của tử sinh và có ư hướng muốn t́m cách phá vỡ nó để thoát ra, thật là sai lầm khi khoanh tay ngồi chờ sự giải thoát t́m đến với bạn. Thời gian tự nó không thể mang đến sự chấm dứt của ṿng sinh tử. Bạn phải là người chủ động từ đầu; bạn phải khởi đi một cách có ư thức từ bước đầu tiên nhằm đảo ngược tiến tŕnh của ṿng luân hồi sinh tử. Khoanh tay ngồi chờ ḍng sinh tử tự chấm dứt chỉ là hy vọng hảo huyền, nếu không nói là biểu hiện của một cuộc sống vô nghĩa.

Thưa Ngài, vô chấp và vô phân biệt khác biệt nhau như thế nào?

Hoàn toàn khác nhau. Vô phân biệt bao hàm một thái độ hoàn toàn xả bỏ trước đối tượng, trong khi vô chấp vẫn c̣n mang một vài vướng mắc, dính líu.

Để làm sáng tỏ vấn đề, ta nên hiểu thế nào là chấp trước. Có hai loại chấp trước: Loại thứ nhất được gây ra do trạng thái tâm hồn bị quấy đục bởi dục vọng hoặc các yếu tố tâm linh tiêu cực khác và do đó cần phải được loại bỏ. Loại thứ hai là sự lôi cuốn bởi các đối tượng của ḷng từ bi -sự lôi cuốn này không phải là kết quả của những t́nh cảm hay tư tưởng tiêu cực- do đó cần phải được đào sâu và củng cố.

Khi chúng ta thực tập thiền định về tánh không, chúng ta làm công việc giải trừ những kiến thức sai lầm về hiện tượng và sự vật, những kiến thức sai lầm đă làm cho chúng ta tin chắc rằng mọi vật đều bền vững và hiện hữu một cách độc lập. Thật là điều quan trọng để sửa chữa những kiến giải sai lầm này, tuy nhiên trong nỗ lực nhằm nâng cao tiềm năng của những phẩm chất lành mạnh và tích cực cũng như loại bỏ các xu hướng tiêu cực, độc hại trong mỗi chúng ta, quả là điều khó khăn khi giữ cho ư thức của ta luôn luôn tỉnh táo để có thể phân biệt được cái nào nên trau dồi cái nào nên loại bỏ. Những tính năng phân biệt của chúng ta như thế vẫn c̣n nguyên vẹn.

Cũng cùng một tâm cảnh như thế, vị Bồ tát phải nhổ đến tận gốc rễ và loại bỏ hoàn toàn tính kiêu căng tự phụ. Một vị Bồ tát khiêm nhường phải tự hạ ḿnh trước mọi loài chúng sanh, đây là điều hoàn toàn tự nhiên. Điều này chẳng mảy may cản trở cái năng lực phi thường và ḷng dũng cảm tuyệt vời của Bồ tát trong tâm nguyện giải thoát mọi loài chúng sanh ra khỏi khổ nạn. Tâm đại từ bi này, vốn đă không c̣n bị vướng mắc bởi mọi h́nh thức chấp trước tiêu cực, là một thí dụ chứng tỏ cho thấy thái độ dính líu tích cực ở một mức độ quan trọng lớn lao hơn cho phúc lợi của kẻ khác thay v́ cho hạnh phúc của riêng cá nhân ḿnh.

Một người biết sử dụng trí thông minh của ḿnh song song với việc thực hành tu dưỡng tinh thần, tức là nếu cần thiết, sử dụng cả pháp cùng với những tính năng sáng tạo của tâm thần, họ sẽ học được cách khám phá ra những sắc thái vi tế giữa một bên chỉ biết chăm sóc đến bản ngả của ḿnh, một h́nh thức của chấp trước, và bên kia là những t́nh cảm cao thượng biết cống hiến đời ḿnh cho hạnh phúc tha nhân. Chỉ có sự hoà hợp duy nhất giữa pháp và trí huệ mới có thể đưa ta đến sự phát triển các tính năng vững chắc của nhận thức phân biệt. Thế cho nên tôi thường phát biểu rằng khi nói đến bản ngă tức là cũng đồng thời nói đến một ư thức tự giác vững mạnh. Một trong những h́nh thức biểu hiện của ngă tức là không quan tâm đến kẻ khác, không thèm đếm xỉa đến hạnh phúc của tha nhân và đi xa hơn nữa là khai thác mọi cơ hội nhằm mang đến lợi nhuận cho cá nhân ḿnh, miễn sao cho ḿnh vui thích là đủ! Thái độ tinh thần này dứt khoát là rất tiêu cực, cần phải loại trừ.

Ngược lại, một khía cạnh khác của ngă có thể được xem như là sự biểu hiện của niềm tự tin lớn lao, loại niềm tin khiến chúng ta có thể nói một cách mạnh dạn rằng: “Tôi có thể làm được việc này, việc kia. Tôi có khả năng mang lại những điều tốt đẹp cho mọi người. Tôi có thể đạt đến hoàn toàn giác ngộ để cứu độ chúng sanh.” Loại t́nh cảm này chắc chắn là không thể bị loại bỏ mà ngược lại cần phải được phát triển và củng cố. Như thế, những tiến bộ trên hành tŕnh tu tập sẽ giúp cho tâm hồn ta ngày càng thư giản, tỉnh lặng cùng một lúc với trạng thái hoàn toàn tỉnh thức, sáng suốt biểu hiện khả năng quán chiếu nội tâm và tập trung trí tuệ cao độ.

Thưa Ngài, có ǵ khác biệt giữa giận dữ và hận thù?

Cá nhân tôi phân biệt hai thứ t́nh cảm loạn động này như sau. Hận thù phát sinh ra do nỗi oán hận người mà động cơ thúc đẩy chắc chắn không bao giờ phát xuất từ ḷng từ bi. T́nh cảm này v́ thế phải được hoàn toàn loại bỏ. Giận dữ mặt khác chỉ là hệ quả của một phản ứng t́nh cảm cấp thời,mà theo kinh điển, vẫn có thể được sử dụng trong hành tŕnh tu chứng. Giận dữ trong một vài trường hợp có thể được coi như là sự biểu lộ của ḷng từ bi chẳng hạn như được sử dụng như là một chất xúc tác hay là một sức thúc đẩy cần thiết trước một hành động khẩn cấp.

Xin Ngài định nghĩa về khái niệm thế nào là có một kẻ thù?

Khi bạn “đỏ mặt” lên v́ giận dữ một người nào đó, hăy hỏi cái tâm trạng nóng giận của bạn lúc đó kẻ thù là cái ǵ? Trong cuốn Nhập bồ đề hành kinh của Shantideva (Bhodicharyavatara), chương nói về ḷng khoan dung và nhẫn nhục đă có một định nghĩa rất rơ về kẻ thù, tức là người trực tiếp hăm dọa đến đời sống của ta, của bạn bè quyến thuộc, của tất cả những ǵ là tài sản, sở hữu của ta, v.v... Bạn của những kẻ thù ta cũng được xem như là kẻ thù. Tuy nhiên với phương pháp tu tập chuyển hoá tư tưởng (Tây Tạng gọi là lodjong), một người có thể thiết lập được mối tương quan b́nh đẳng không phân biệt giữa ḿnh và người khác, và do đó đi đến nhận thức rằng không có ǵ được gọi là thù hay bạn. Đây không phải là sự phủ nhận sự hiện hữu của khái niệm bạn thù: Thù vẫn là thù, bạn vẫn là bạn. Tuy nhiên phương pháp tu tập này chỉ cho ta thấy rằng ta không có lư do ǵ để phải giận dữ bất cứ ai được coi như là kẻ thù của ta, cũng như không nên vướng mắc vào một lối đối xử đặc biệt nào đối với những người được ta coi như là bạn bè, quyến thuộc. Nh́n ở góc cạnh này, hắn ta là kẻ thù của tôi v́ hắn đă gây nên những thiệt hại cho tôi, nhưng nh́n ở một góc cạnh khác, tôi có thể xem y như một người bạn v́ y đă cho tôi cơ hội thực tập nhẫn nhục và phát triển ḷng khoan dung. Với quan điểm này ta không c̣n xem y như là kẻ thù địch, mà ngược lại rất hữu ích, hữu dụng đối với ta.

Dựa trên những giáo lư Phật giáo, làm thế nào để chúng ta học hỏi được những kinh nghiệm về các hành vi bạo động, như chiến tranh chẳng hạn?

Điều quan trọng nhất là tránh chuyện sát sanh. Ư tưởng cho rằng một người có thể được quyền tước đi mạng sống của kẻ khác phải được hoàn toàn tẩy sạch trong tâm trí của mọi người.


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 7 of 10: Đă gửi: 06 April 2006 lúc 2:56am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ

TỪ BI

Thay mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những người đă quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả hai b́nh diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những ǵ mà qúy vị đang góp tay để ǵn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.

Hôm nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề b́nh an tâm hồn. Lư do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với tôi- v́ nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng tiến sự b́nh an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đă giúp chúng tôi giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn hoá đó.

Mặc cho bao thử thách và t́nh huống khó khăn, nền văn minh này đă cho phép chúng ta bảo tồn được sự thanh thản và an b́nh tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thần mà con người hôm nay đang mắc phải cũng như t́m kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đă cật vấn tôi khá lâu về sức mạnh và t́nh trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đă rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người Tây Tạng vẫn giữ được cho ḿnh một trạng thái b́nh ổn tâm hồn. Điều này đă được đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.

Tôi xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn h́nh. Vị phó trú tŕ của tu viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Độ gần đây, đă bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm 1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của Ngài tại Ấn Độ, chúng tôi lại có dịp chuyện tṛ tán gẫu với nhau. Ngài đă kể lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đă trải qua. Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất ḷng từ đối với những kẻ đă hành hạ tra tấn Ngài. Đây là một nhận định rất đáng lưu tâm!

Tôi thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay ǵ cả. Mặc dù ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại c̣n ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không trông thấy tóc bạc của tôi đâu v́ tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi, tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.

Cũng có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lư và giáo lư Phật giáo, nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của thời đại tân tiến. Thế mà tôi đă phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao. Tôi đă bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi đă phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn c̣n đang gánh chịu biết bao điêu linh và thống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được tâm hồn ḿnh, b́nh an, thư thái.

Trong một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn Độ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có ǵ là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.

Làm thế nào để phát triển sự b́nh an và thanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản tánh của con người là tốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là không có những t́nh cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản chất đích thực của con người vẫn là ḷng yêu thương tŕu mến và nhân ái. Từ ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm t́nh người. Một thực tế mà mọi người đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đ́nh đầy t́nh yêu thương thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng t́nh thương, từ bi nhân ái chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng t́nh thương yêu, từ ái trong gia đ́nh gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa trẻ.

Chúng ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng ḿnh đang phấn chấn vui vẻ, có cảm tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với ḿnh, ta sẽ chấp nhận những khó khăn hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng những t́nh cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những t́nh cảm tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không c̣n ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. T́nh trạng thư thái tâm hồn v́ thế rất quan trọng.

Con người sống trong xă hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái ǵ đang nằm đàng sau hành động đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là ư hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta luôn cố gắng t́m cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có cái rất hữu ích v́ chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.

Tư tưởng và t́nh cảm v́ thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cực và loại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự b́nh an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho ḿnh bị vướng mắc bởi những tư tưởng, t́nh cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một phần của tổng thể của ta và không có ǵ để phải bận tâm với chúng. Những khi mà chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, t́nh cảm giận dữ và hận thù có vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương tiếc. Trong số những loại t́nh cảm này, giận dữơ và sợ hăi chẳng hạn, sẽ nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, c̣n những t́nh cảm khác như chấp trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà chúng ta biết rơ được bản chất của các thái độ tiêu cực và nhận diện một cách đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.

Từ đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các t́nh cảm tốt đẹp -từ bi, hỷ xả và thiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng những t́nh cảm tích cực và làm suy yếu dần những t́nh cảm tiêu cực. Ngay cả cho dù chúng vẫn c̣n tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những t́nh cảm thoáng qua, không lưu lại một dấu ấn rơ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng quát, nên lưu ư rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các t́nh cảm tiêu cực khác bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quen và lần hồi biến ta thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Đó là lư do tại sao mà tôi cho rằng chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn ḿnh. Thứ kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận chúng một cách dễ dàng.

Để huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Đừng bao giờ trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Đó là một thái độ hoàn toàn không thực tế. Công việc tu tập đ̣i hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên tŕ, nắm vững mục tiêu và mọi phương tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo thời gian.

Làm thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩy là ḷng từ bi, giận dữ có thể là một khía cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một t́nh cảm tiêu cực. Chúng ta phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại t́nh cảm khốn khổ này như ḷng thù hận chẳng hạn. Như tôi đă từng phát biểu trước đây, sự hận thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối cả cuộc đời ta. Những t́nh cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác nhau: cá nhân, gia đ́nh, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và ḷng tham lam quá độ. Thái độ như thế đă được bắt nguồn từ vô minh. Điều này không có nghĩa rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con người. Tuy nhiên họ đă để cho tâm trí của ḿnh bị chế ngự và hướng dẫn một cách mù quáng bởi những t́nh cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.

Nh́n vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con người có ḷng vị tha và tâm hồn b́nh ổn. Đa phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc sống nội tâm an b́nh. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi ḷng sâu kín của ḿnh. Bằng cách đó, nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúc và mang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.

Chúng ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma Gandhi, một nhân vật kiệt xuất có ư thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống rất thỏa măn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền giáo dục Tây phương và ư thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đă chọn lựa sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Độ, chẳng khác ǵ một kẻ ăn mày. Điều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quư. Tất cả mọi khía cạnh tích cực mà con người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của những t́nh cảm tích cực này của tâm hồn.

Kinh nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân ḿnh và cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn bản đó mỗi cá nhân cần tự ḿnh nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát triển tâm hồn ḿnh.

Con người sinh sống trong một môi trường xă hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra không hiện hữu y như thế. T́nh thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng ta. Khi chúng ta mở rộng ṿng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến t́nh thân hữu và thân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đă tạo dựng nên một bầu khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ đến cá nhân ḿnh và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục tiêu cứu cánh của ḿnh, t́nh huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả những người thân cận nhất trong gia đ́nh cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đă trở nên rơ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ của chúng ta.

Một số khác đă suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta bạn bè. Không chắc như vậy -bởi v́ nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hăy dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta c̣n tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ th́ rất khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền bạc và của cải vật chất dĩ nhiên là cần thiết nhưng chúng không phải là vật thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được t́m thấy bên trong của mỗi con người.

Từ bi, hỷ xả, hy vọng và nhẫn nhục là những t́nh cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn ḿnh. Chúng ta nên nhớ rằng các tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau. Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêu và từ bi sẽ được tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành tŕnh tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương kính.

Tuy nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ vơ những phẩm chất tốt đẹp của con người lại quay ra cải vă chỉ trích lẫn nhau th́ làm sao họ lại có thể rao truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít mai mỉa: “Coi bọn họ ḱa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ c̣n chẳng chịu được nhau th́ nói ǵ ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến ḿnh thành một tấm gương tốt của ḷng tương kính, sự hoà hợp và tinh thần hợp tác trước mắt nh́n của thế giới. Nh́n từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhân và chia xẻ những kinh nghiệm của họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để ḥa điệu với kẻ khác cho dù có những khác biệt về đức tin, giáo lư; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy tŕ mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước khích lệ hướng về việc ḥa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên tŕ trong hướng đó!

Thưa Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các trại lao động khổ sai. Ông ta đă trải qua những đau đớn bởi những nhục h́nh tra tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng cách nào chúng ta có thể đạt được sự b́nh an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thản và đức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi giận dữ và làm một cái ǵ đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng nhất?

Điều quan trọng nhất là ta không thờ ơ lănh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm nhận sâu xa t́nh huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho ḿnh bị tràn ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rơ câu hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy tŕơ sự an b́nh nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những t́nh huống như qúy vị vừa tŕnh bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần của mỗi cá nhân.

Với những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải qua và tiếp tục chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rơ nét của nền văn minh? Theo ư kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên, cảnh trí có thể giúp ta t́m ra được sự b́nh an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa ta đến con đường minh triết?

Tôi tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra bên ngoài ngắm nh́n phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên, là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đă sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn c̣n lưu lại những dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó như đă ở trong máu huyết của chúng ta.

Trong quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn. Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề pḥng thú dữ. Chúng ta dùng củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ ḿnh. Chúng ta đă gắn bó với cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn pḥng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất b́nh thường khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho ḿnh tỉnh táo để thấy một sự thực là ta vẫn c̣n nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không c̣n cách ǵ để tự bảo vệ chính ḿnh. Đó là lư do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo con đường Trung Đạo.

Trong trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế t́nh cảm và sự t́m kiếm an b́nh nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái ǵ đó, chúng ta thường mang những ǵ được coi là vấn nạn trong đời sống của ḿnh đem đi dấu biệt vào một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ ǵ về nghệ thuật ức chế này?

Tôi nghĩ là tôi đă từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số trường hợp, cụ thể là sự sợ hăi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi bạn cứ cho những t́nh cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ư thức kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại t́nh cảm xâm nhập tâm trí ta tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên b́nh diện xă hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những t́nh cảm của con người thường không có giới hạn, và sức mạnh của những t́nh cảm tiêu cực là vô tận.

Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hành và tu tập với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không c̣n thể nào tiếp tục được nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ư thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ tự thiết định cho ḿnh một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng ta mở rộng tầm kiến thức của ḿnh, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế được vô minh!


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 8 of 10: Đă gửi: 06 April 2006 lúc 2:58am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

ĐẠO ĐỨC VÀ XĂ HỘI
Một số nguyên tắc đạo lư cần thiết cho nhà chính trị như thế nào th́ cũng cần thiết cho nhà tu hành tôn giáo như thế.
Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Hôm nay xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề đạo đức trong đời sống xă hội; tức là cái ǵ cấu thành điều thiện, cái ǵ được xem như một hành vi lương thiện. Trước tiên ta cần phân biệt ra hai thế giá đạo đức mà theo tôi, cái thứ nhất có quan hệ mật thiết với tôn giáo, tâm linh c̣n cái kia th́ không. Một vài tiêu chuẩn luân lư trong đó có công b́nh và lương thiện được coi như gắn bó với đời sống tâm linh, tuy nhiên một cách tổng quát, tôi hoàn toàn tin tưởng vào giá trị chân thực của một số nguyên tắc đạo lư được áp đặt nhằm tạo nên phúc lợi cho chính chúng ta cũng như cho tha nhân.

Khi ta nói rằng một hành động là vô luân hay sai trái cũng có nghĩa là nó gây ra những tác hại đối với kẻ khác. Chúng ta cũng cần phải biết phân biệt giữa hậu quả tức thời, trước mắt của một hành động và những hậu quả cơ bản, lâu dài của nó. Một hành động có thể được xem như mang lại lợi ích trong thời điểm này nhưng về lâu về dài có thể biến thành những hệ quả tiêu cực. Cũng thế, có những hành động thoạt tiên gây ra những khó khăn, nhưng trải qua một thời gian dài lại mang đến những kết quả hoàn toàn tích cực. Cho nên trong bất cứ trường hợp nào, vấn đề chính là hăy nh́n vào hệ quả cơ bản của nó.

Thế cho nên trên quan điểm này chúng ta sẽ nói về đạo đức hay luân lư -ngay cảđối chiếu với cuộc sống súc vật; nói một cách khác, làm thế nào mà chúng mang lại phúc lợi cho đồng loại. Có những loại thú vật sống thành từng bầy đoàn đă biểu lộ những dấu hiệu của ḷng vị tha, dĩ nhiên là có phần hạn chế, tuy nhiên tất cả đâu có ǵ khác nhau nếu ta nh́n trên khía cạnh vị tha là sự quan tâm đến những kẻ chung quanh ḿnh. Trong số những hành động của thú vật mà ta có thể quan sát được -chúng không cần biết đến luật pháp, tôn giáo hay hiến pháp- ta có thể phân biệt ra được cái nào tốt , cái nào xấu. Nếu có một thứ luân lư giữa thú vật, chúng cũng không cần phải quan tâm rằng chúng có tín ngưỡng hay không, lại càng có thêm lư do để chúng hiện hữu giữa con người.
Một hành động trên nguyên tắc được xem là tích cực hay tiêu cực, lợi lạc hay tác hại đều tùy thuộc vào ư hướng thúc đẩy ở đàng sau. Một hành động thoạt xem như thô lỗ hay cưỡng chế có thể coi là đúng đắn nếu được thúc đẩy bởi động cơ vô cùng sâu sắc, đáng tán dương cũng như nó mang lại phúc lợi cho kẻ khác. Ngược lại, đôi khi có những ư hướng , mục tiêu vô cùng gian trá qủy quyệt lại được che dấu bằng hành động bề ngoài thoạt trông có vẻ rất cao thượng. Đối với tôi, một hành động được coi là thiện nếu được thúc đẩy bởi ḷng vị tha, bởi ư hướng khát khao muốn làm điều tốt cho kẻ khác, trong khi đó một hành động được gọi là ác nếu được thúc đẩy bởi ác tâm, ư hướng muốn gây tác hại cho tha nhân. Trong chiều hướng này ta có thể thiết định được một chuỗi nguyên tắc đạo lư mà không cần phải dựa vào các khái niệm tôn giáo hay tín ngưỡng. Hơn thế nữa, súc vật thường rất nhạy cảm trước thái độ của chúng ta: ví dụ như ta tiến đến một con chó với những ư xấu được che dấu, nó sẽ nhận ra và cảm được chuyện đó. Ngược lại nếu ta đến với y trong một tâm trạng cởi mở, yêu thương, tŕu mến, nó cũng cảm thấy được và bởi v́ nó biết rằng ta không lừa dối nó, nó sẽ rất hạnh phúc để được thấy ta. Thế nên, trong mối tương quan, ngay cả súc vật cũng yêu chuộng sự thành thật và đau đớn trước những dối trá.

Tôi tin chắc rằng trong thâm tâm của mỗi người đều có khuynh hướng tự nhiên là yêu chuộng sự ngay thẳng thành thật và nhân ái, bởi v́ mỗi chúng sanh đều khát khao hạnh phúc và ư hướng muốn thoát khỏi khổ đau. Và hơn thế nữa, mỗi cá nhân đều có quyền được đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc và chấm dứt khổ đau. Đây là một quyền lợi b́nh đẳng của con người. Tôi thường hay phát biểu nhận định căn bản này như sau: Ư nghĩa, mục tiêu của đời sống con người là vươn tới thịnh vượng và hạnh phúc. Có thể có người không đồng ư với quan điểm đó, tuy nhiên đối với tôi có rất nhiều lư do để tin tưởng rằng điều này là đúng.
Quả thực, chúng ta hoàn toàn không biết chắc những ǵ sẽ xảy ra trong tương lai, con người vẫn sống với niềm hy vọng rằng mọi chuyện đều sẽ xảy ra tốt đẹp cho họ; họ nh́n về tương lai với sự mong chờ như thế. Một ngày nào đó khi một người đánh mất đi niềm hy vọng, nếu không tự vẫn, họ cũng sẽ rơi vào trạng thái hoàn toàn tuyệt vọng và cuộc sống của họ sẽ tàn lụi. Không thể nào hoàn tất được đời ḿnh khi chúng ta sống trong tâm trạng hoàn toàn chán nản. Tuy nhiên nếu chúng ta luôn giữ cho niềm hy vọng ở tương lai không bao giờ thui chột, chúng ta sẽ có khả năng vượt qua mọi nỗi khó khăn để sống. V́ lẽ đó, tôi luôn nghĩ rằng mục đích của đời sống con người là t́m kiếm hạnh phúc.

Tôi tin chắc rằng hạnh phúc tinh thần luôn quan trọng hơn khoái lạc thể xác. Cái ǵ đă làm cho tinh thần ta hạnh phúc hay đau khổ? Tất cả đều dựa trên những mối liên hệ của ta với tha nhân. Nếu mọi người chung quanh quan tâm ưu ái đến ta, đối xử tốt với ta cũng như cho ta biết những thiện ư của họ, tâm hồn ta như được bồi dưỡng và cảm thấy hân hoan vui vẻ. Ngược lại, nếu tha nhân đối xử với ta một cách tệ bạc, ác độc, chúng ta sẽ vô cùng đau đớn. Trong sự săn sóc nuông chiều và thương mến của kẻ khác tâm hồn ta cảm thấy thoải mái và tự động dẫn đến sự thư giản thể xác. Tâm hồn ta càng hạnh phúc bao nhiêu, thể xác ta cũng sẽ hưởng phúc lợi lớn lao như thế. Thế cho nên tôi luôn tin rằng nhân ái, thương yêu và tŕu mến là những thái độ t́nh cảm rất quư giá, quan trọng trong đời sống con người.

Có rất nhiều nghề nghiệp khác nhau trong môi trường sinh hoạt của nhân loại -ví dụnhư những người hoạt động trong lănh vực giáo dục, luật pháp, thương mại, chính trị- đều có thể được đánh giá là hữu ích cho nhân sinh căn cứ vào thái độ và ư hướng được biểu lộ qua những thành tựu của họ. Không cần biết ta sinh hoạt trong ngành nghề nào, nếu ta có ư hướng cống biến đời ḿnh cho lợi ích của kẻ khác, cung cách cư xử của ta sẽ có cơ may trở nên hữu ích; trong khi đó có những lănh vực hoạt động thường được đánh giá là tốt, như tu hành chẳng hạn, trong thực tế lại có thể gây nên những điều tệ hại hơn là tốt lành, nếu động cơ được thúc đẩy không phải là nỗi khát khao được giúp đỡ đồng loại. Cho nên ngay cả sự can thiệp quân sự giới hạn mà động cơ thúc đẩy cực kỳ xác thực và vị tha, về lâu về dài có thể được minh chứng là có tính cách xây dựng.

Chúng ta đang sống trong một xă hội tân tiến, ngay trung tâm của những thành tựu vượt bực của nền khoa học kỹ thuật và những tiến bộ vật chất đáng kể, ta đang có nguy cơ đánh mất những giá trị của con người. Bởi v́ đời sống của chúng ta đang bị máy móc hóa và thiếu quân b́nh, tại sở làm cũng như gia đ́nh, bất cứ chuyện ǵ cũng máy móc (dĩ nhiên là thiếu nhân tính), những phẩm chất của con người đă và đang mất đi phần nào tính cách quan trọng. Quan niệm cho rằng giàu có tự nhiên sẽ mang đến thỏa măn và hạnh phúc nay đang trở nên phổ biến. Tuy nhiên nếu chúng ta đem so sánh niềm hạnh phúc của một con người đang sống trong cảnh nghèo hèn nhưng giữa một khung cảnh đầy t́nh người, tràn ngập thương yêu và nhân ái với một người khác tuy cực kỳ giàu có nhưng phải sống trong một bầu khí khó khăn bực bội, bị vây bủa bởi những khuôn mặt thù nghịch, thiếu thân thiện, một điều hiển nhiên ai cũng thấy rằng người thứ nhất là kẻ có hạnh phúc hơn.

Cho dù nh́n trên b́nh diện tính t́nh, tâm trạng, hoặc lối sống, người ta thấy rằng trẻ con được nuôi dưỡng trong một bầu khí gia đ́nh hoà thuận, có giáo dục thường thành công hơn trong cuộc đời hơn là những đứa trẻ trưởng thành trong một môi trường khó khăn, khắc nghiệt thiếu vắng t́nh thương yêu, tŕu mến.

Thân xác chúng ta không phải là một sản phẩm của máy móc; cho nên nó hoạt động và phát triển khác biệt. Những tiện nghi vật chất bao quanh chúng ta có thể là những nguyên nhân và điều kiện tạo nên những thoải mái thể xác, tuy nhiên v́ thân xác ta không phải là một bộ máy, tất cả những điều đó vẫn chưa đủ. Những yếu tố mang lại hạnh phúc phải được vun trồng từ bên trong của mỗi chúng ta. Thật là một lầm lẫn lớn lao nếu tin rằng chỉ cần những điều kiện vật chất là đủ để mang lại hạnh phúc; những nguyên nhân thực sự thật ra phải được phát triển từ nội tâm.

Đó là lư do tại sao tôi luôn tin rằng bản chất đích thực, phẩm chất nguyên thủy của con người bao gồm ḷng thương yêu, và tŕu mến. Thế nên khi chúng ta bày tỏ ḷng thương yêu, vị tha của ḿnh, chúng ta không thể làm ǵ khác hơn ngoại trừ cảm thấy thỏa măn bởi v́ chúng ta đang hành động phù hợp với thiên lương của ḿnh. Nếu chúng ta làm điều trái ngược, tức là chúng ta đă phản lại bản tánh căn bản của ḿnh và điều này sẽ làm cho ta bị tổn thương. Cho dù bản tánh căn bản của chúng ta là tốt đẹp, trong thực tế sự giận dữ, ganh tị, độc ác vẫn là những mặt trái trong nhân cách con người. Kinh qua lịch sử nhân loại người ta thấy không thiếu ǵ những vụ gây hấn và những kẻ thích thú khi làm những điều tàn ác được diễn ra dưới nhiều h́nh thức khác nhau, điều này đă khiến nhiều người cho rằng bản tánh của con người là xấu ác và bạo động -một quan điểm không phải hoàn toàn là không có cơ sở. Ai cũng biết rằng, nếu một người cứ phải sống trong giận dữ hai mươi bốn giờ trong ngày th́ chắc là khó có thểø sống lâu, trong khi đó một người mà tinh thần luôn luôn đầy ắp thương yêu sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, êm đềm lâu dài. Mặc dù tham dục và độc ác là một phần của tâm hồn con người, tôi vẫn luôn tin rằng những lực chủ động trong ta vẫn là t́nh thương yêu và nhân ái.

Điều quan trọng trước tiên là chúng ta phải hiểu ư nghĩa của hai tiếng thương yêu. Thương yêu là nỗi khát khao trông thấy hạnh phúc được mang lại cho những ai bị tước đoạt. Ta trải ḷng từ ra với những kẻ đang khổ đau, và mong cầu cho họ xa ĺa mọi khổ nạn. Chúng ta thường có thói quen tŕu mến yêu thương những ai thân cận với ta nhất, kế đến là bạn bè, chứ chẳng hề quan tâm đến kẻ lạ, và đối với những kẻ làm hại ta th́ chẳng bao giờ. Điều này cho thấy khi t́nh yêu thương chỉ hướng đến những người gần gũi nhất với ta, nó đă bị nhuộm màu sâu đậm bởi chấp trước và tham ái và đó không phải là t́nh yêu thương trọn vẹn. T́nh thương yêu đích thực phải được san sẻ đồng đều đến mọi người, không hạn định vào những người thân, bởi v́ nó được xây dựng trên căn bản nhận thức rằng tất cả mọi người, giống như chúng ta, đều mong cầu t́m kiếm hạnh phúc và chạy trốn khổ đau. Hơn thế nữa, nó c̣n phải dành cho mọi con người quyền được t́m kiếm hạnh phúc và giải phóng khỏi đau khổ. Như thế, t́nh thương yêu đích thực mang tính chất vô tư, nó bao gồm tất cả mọi người không phân biệt, ngay cả đối với kẻ thù ta.

Đối với từ bi, ta không nên lầm lẫn nó với ḷng thương hại vốn bị đồng hoá với sự khinh rẻ và cho ḿnh cái ấn tượng rằng ḿnh đang ở một vị thế cao hơn những người đang đau khổ. Ḷng từ bi thật sự hàm chứa nguyện vọng chấm dứt mọi khổ đau cho tha nhân và một ư thức trách nhiệm đối với những người đang đau khổ. Ư thức trách nhiệm này có nghĩa là chúng ta muốn dấn thân vào việc t́m kiếm những phương thức nhằm xoa dịu những ai đang gặp phải khó khăn. T́nh yêu thương thật sự đối với tha nhân sẽ được chuyển hóa thành ḷng can đảm và sức mạnh. Một khi can đảm lớn mạnh, sự sợ hăi tan biến; đó là lư do tại sao ḷng nhân ái và t́nh huynh đệ được coi như là cỗi nguồn của sức mạnh nội tâm. Càng phát triển ḷng thương yêu đối với tha nhân bao nhiêu, chúng ta càng cảm thấy tự tin vào ḿnh bấy nhiêu; càng can đảm bao nhiêu chúng ta sẽ càng cảm thấy thư giản và an lạc bấy nhiêu.

Đối nghịch với thương yêu là ác tâm, nguồn gốc của mọi tội lỗi. Trên căn bản này, chúng ta định nghĩa thế nào là kẻ thù? Một cách tổng quát, chúng ta xem kẻ thù là những ai có ư làm tổn hại ta, những người thân, tài sản của ta; tức là những kẻ chống phá hoặc hăm dọa trực tiếp đến những nhân tố tạo nên sự măn nguyện và hạnh phúc của ta . Khi kẻ thù nhắm đánh vào tài sản, bạn bè hoặc quyến thuộc của ta, họ có vẻ như đang tấn công vào chính cỗi nguồn tạo nên hạnh phúc của ta. Tuy nhiên rất khó mà khẳng định rằng bạn bè và tài sản của ta là nguồn gốc thật sự của hạnh phúc, bởi v́ rốt lại yếu tố chủ động vẫn là sự an b́nh nội tâm; chính sự b́nh an tâm hồn này làm cho chúng ta thư giản và hạnh phúc, nếu mất nó chúng ta sẽ cảm thấy cuộc sống trở nên vô cùng khốn khổ.

Kẻ thù bên ngoài không có đủ khả năng để tiêu diệt hạnh phúc của chúng ta. Thực ra sự giận dữ, hận thù, ác tâm -nếu chúng ta nhận ra chúng- mới chính là mầm mống huỷ diệt sự an b́nh nội tâm và do đó làm tiêu tan niềm hạnh phúc của chúng ta. Chúng mới chính là kẻ thù đích thực. Những ai đạt được một mức độ an b́nh nội tâm cao sẽ vẫn giữ được tâm trạng thư giăn, an lạc cho dù phải đối đầu với những t́nh huống cực kỳ khó khăn, khi mà hạnh phúc đang ở trong nguy cơ bị triệt phá toàn diện. Tuy nhiêm một người mà tâm hồn luôn bị xâu xé bởi những ngọn lửa độc hại của ác tâm, hận thù, ganh tỵ sẽ chẳng thu hoạch được ǵ cho đời ḿnh ngoại trừ khốn khổ cho dù họ được ở trong những t́nh huống tốt đẹp nhất.

Như thế, ta thấy rằng kẻ thù đích thực của hạnh phúc hiện hữu ở trong ḷng mỗi con người; ta đừng chạy đi t́m kiếm một kẻ thù thực sự nào ở bên ngoài. Ch́a khóa của hạnh phúc chân thật nằm ở trong tay chúng ta. Nếu hiểu được như thế ta sẽ khám phá ra những giá trị thiết yếu của ḷng nhân ái, t́nh huynh đệ và vị tha. Càng nh́n rơ được những phúc lợi mà những giá trị này mang lại bao nhiêu, ta sẽ càng t́m mọi cách để loại bỏ các giá trị đối nghịch với chúng; và như vậy ta đă có thể chuyển hoá được nội tâm ḿnh.

Để trở lại chủ điểm của vấn đề thảo luận, tôi có thể nói rằng một hành động mang phúc lợi được phát khởi từ ḷng vị tha, sẽ luôn là một hành động công chính, tốt lành. Điều này mang lại cho tôi niềm tin tưởng rằng tất cả các tôn giáo chính của nhân loại, với tất cả thiện tâm của ḿnh, đều chia xẻ chung một mục tiêu là củng cố các giá trị nhân bản, được triển khai bằng các phương tiện khác nhau tùy theo triết lư và đường lối tu tập riêng của ḿnh. Thế cho nên ngay chính từ cốt lơi của các tôn giáo độc thần như Cơ đốc, Do thái giáo, hay Hồi giáo đều được đặt căn bản trên đức tin vào một Đấng Sáng Tạo. Từ đó người ta học cách yêu Thượng Đế đồng thời cùng với t́nh yêu tha nhân, tuy nhiên tôi tin chắc rằng mục tiêu chung của những truyền thống tâm linh này đều là học tập cách yêu thương đồng loại. Điều này có thể được giải thích là, bởi v́ Thượng Đế đă dạy ta như thế; thế cho nên càng tin kính Thượng Đế bao nhiêu, ta càng phải vâng theo những lời giáo huấn đó, đặc biệt là trên lănh vực liên quan đến t́nh huynh đệ giữa con người. Mục tiêu tối hậu của tôn giáo v́ thế chính là khuyến khích con người yêu thương lẫn nhau.
Cơ Đốc giáo không hề chống lại ư niệm tái sanh luân hồi, tức là khái niệm về những đời sống tiếp nối nhau. Tôi đă có cơ hội đàm đạo vấn đề này với một người bạn Cơ Đốc và tŕnh bày với ông ta rằng không có ǵ khác biệt giữa ư niệm tái sanh luân hồi và thần học Cơ Đốc. Ông ta đă tră lời rằng những vấn nạn gây nên bởi niềm tin vào tái sanh luân hồi ở chỗ là nó tạo nên một khoảng cách nhất định giữa tín đồ và Thượng Đế, thế nhưng nếu con người tin tưởng và chấp nhận rằng đời sống của ḿnh là do Thượng Đế tạo dựng và sự hiện hữu đó là duy nhất, đồng thời người ta cũng cần có một yếu tố mới trong mối liên hệ sâu xa và khẩn thiết lớn lao giữa Thượng Đế và con người. Tôi nhận thấy rằng những ư tưởng của ông ta phản ánh một luận cứ nhất định và lư giải đó rất có cơ sở. Trong giáo lư Cơ Đốc, điều này giải thích sự cần thiết của t́nh yêu thương huynh đệ giữa con người và ḷng tha thứ hỷ xả.

Bây giờ chúng ta hăy nh́n vào các tôn giáo không đặt niềm tin vào một đấng Thượng Đế sáng tạo như Phật giáo hay đạo Jain, quan niệm rằng mỗi cá nhân tự làm chủ vận mệnh của ḿnh: mỗi người tự ḿnh tạo ra các nguyên nhân dẫn đến hạnh phúc. Trách nhiệm là ở chúng ta mà không ai khác. Nếu chúng ta gây nên những tác hại cho kẻ khác, chúng ta sẽ gánh chịu đau khổ; nếu chúng ta phụng sự tha nhân, chúng ta sẽ t́m thấy hạnh phúc. Dựa trên căn bản của luật nhân quả mà các tín đồ của các truyền thống tôn giáo này giải thích sự cần thiết của sự xử thế với ḷng nhân ái.

Như vậy mối quan hệ đúng đắn giữa đạo đức và tôn giáo là ǵ? Những người đang dấn bước trên con đường tâm linh xem đạo đức là nền tảng căn bản mà họ vươn tới, thế nên họ tránh không muốn gây khổ đau cho người khác mà ngược lại, đối xử với mọi người bằng ḷng nhân ái. Tùy theo tín ngưỡng của mỗi người, họ diễn giải ư niệm đạo đức một cách khác nhau, chẳng hạn như xem đó là thánh ư của Chúa hay là hồng ân của Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Căn cứ vào niềm tin tôn giáo của ḿnh, chúng ta cho rằng nếu tuân thủ theo một số nguyên tắc đạo đức nào đó ta sẽ được đi lên thiên đàng hay thoát ra khỏi ṿng luân hồi sinh tử.

Tuy nhiên, từ cội rễ của những niềm tin này, tôi tin chắc rằng có một chuổi nguyên tắc đạo lư phổ quát mà trong thực tế đă không cần phải dựa vào bất cứ tôn giáo tín ngưỡng nào mà vẫn có thể được vun đắp, phát triển trong nội dung giáo lư của bất cứ truyền thống nào mà ta đă lựa chọn. Nếu chúng ta chấp nhận và thực hiện nền luân lư phổ quát này, vốn đă được mọi người công nhận, củng cố và cải thiện nó thông qua niềm tin tôn giáo, việc tu tập tâm linh cũng như những sinh hoạt thế gian của chúng ta sẽ ḥa nhịp với nguyên tắc đạo đức này. Ngược lại, nếu chúng ta hành tŕ tu tập tôn giáo một cách tinh chuyên thế nhưng chẳng bao giờ chịu sống một đời sống phạm hạnh đạo đức, sự tu tập đó cũng chẳng mang lại điều ǵ tốt đẹp. Thế cho nên đối với tôi, h́nh như các tôn giáo lớn đă đồng ư với nhau về tính cách quan trọng của một nền đạo lư căn bản.

Vấn đề đặt ra là sự đa dạng của các truyền thống tâm linh có thực sự cần thiết hay không nếu tất cả các tôn giáo đều giống nhau ở điểm căn bản. Tại sao lại có quá nhiều các triết thuyết và quan điểm tôn giáo khác biệt trong khi chỉ cần một tôn giáo duy nhất là đủ? Tôi thường hay so sánh sự đa dạng của tôn giáo như các loại thực phẩm khác biệt cần thiết cho thân thể chúng ta. Con người có những khẩu vị khác nhau, người th́ thích mùi vị này kẻ th́ thích món ăn kia, có người thích ăn cơm Tây, kẻ thích cơm Tàu hoặc các thực đơn khác. Mọi người đều muốn ăn uống theo một khẩu vị đặc biệt nào đó của riêng ḿnh. Đó là lư do tại sao các nhà hàng thường cung ứng một thực đơn phong phú tha hồ cho khách lựa chọn, c̣n nếu họ chỉ phục vụ một món duy nhất ngày này qua ngày khác th́ chắc là họ sẽ dẹp tiệm sớm!

Tôi nghĩ rằng cùng một nguyên tắc như thế được áp dụng cho việc bồi dưỡng tâm linh. Nhằm đáp ứng với những nhu cầu khác biệt của con người, cũng như thỏa măn tâm tính, khát vọng, khuynh hướng của mỗi cá nhân mà đủ mọi triết thuyết, tôn giáo, truyền thống tâm linh được ra đời. Bởi lẽ nhu cầu của con người quá phong phú đa dạng, quả là điều cực kỳ khó khăn cho một tôn giáo có thể cung ứng nổi. Thế nên nhiều đường lối tu hành chừng nào th́ lại càng tốt chừng nấy!

Cùng một lúc ta có thể khẳng định rằng các đức tin khác biệt có thể sống hoà điệu cùng nhau, bởi v́ ngay từ căn bản, nguyên tắc đạo lư phổ quát là nền tảng quan trọng chung của mọi tôn giáo. Nó đủ để đáp ứng cho tất cả tín đồ của các truyền thống khác biệt có thể thông cảm hiểu biết nhau hơn và giúp cho họ áp dụng một cách tốt đẹp những điều mà họ học hỏi được từ các tôn giáo khác, nhằm cải thiện phương thức tu tập cá biệt của ḿnh. Bằng cách này, người ta có nhiều khả năng hơn để đánh giá các truyền thống khác và từ đó sẽ dẫn đến sự tương kính nhau hơn.

Hồi c̣n sống ở Tây Tạng, tôi đă không hề có một cuộc tiếp xúc thật sự nào với đại biểu của các tôn giáo khác, dù rằng Thánh kinh cũng đă được dịch ra tiếng Tây Tạng, tận trong tâm khảm của tôi, tôi luôn tin chắc rằng Phật giáo là tôn giáo hoàn hăo nhất và tự nhủ, quả là điều tuyệt diệu vô cùng nếu tất cả mọi người đều cải đạo qua Phật giáo. Thế rồi, lần hồi từng tí một, tôi đă có dịp du hành trên khắp thế giới, gặp gỡ đại diện của các đức tin khác, những người có kinh nghiệm thấu đáo trong truyền thống tu tập riêng biệt của họ, đó là những người đă cống hiến trọn cuộc đời của ḿnh cho suy niệm hay giúp đỡ tha nhân. Thông qua những tiếp xúc cá nhân và trao đổi với họ tôi nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của các tôn giáo khác với tất cả niềm kính trọng sâu xa. Dĩ nhiên Phật giáo vẫn là con đường tuyệt diệu nhất đối với tôi bởi v́ nó tương hợp với bản chất của tôi. Thế nhưng điều này không có nghĩa làtôi tin rằng Phật giáo là một tôn giáo tốt nhất cho tất cả mọi người. Phương thức tiếp cận mà tôi vừa tŕnh bày sẽ giúp mở rộng cánh cửa tâm hồn và mang lại những ân sũng cho bất cứ ai thực hành nó.

Một lần nữa, tôi nghĩ rằng nếu các tôn giáo biết học cách sống chung với nhau trong hoà điệu và tương kính th́ quả là điều hạnh phúc cho tất cả mọi người. Khi bạn nh́n vào những trường hợp đau buồn như đă xảy ra tại Bosnia, nơi mà nhân danh tín ngưỡng, người ta đă xâu xé giết hại lẫn nhau, gây ra vô số thảm cảnh cho biết bao lương dân vô tội không thể nói hết được, bạn chỉ c̣n biết đau xót sâu xa cho những t́nh huống như thế.

Để kết luận, chúng ta hăy cùng suy nghĩ đến một vài câu hỏi có thể thoáng qua tâm trí ta. Chẳng hạn như ta tin chắc rằng bản chất cơ bản của con người là thiện lương, cũng như phát triển t́nh thương yêu đối với tha nhân sẽ đủ để mang lại hoà b́nh; thế nhưng khi nh́n vào lịch sử thế giới, chúng ta chẳng thấy điều ǵ ngoại trừ những vấn nạn do con người gây ra vẫn tiếp diễn từ hàng ngàn năm qua. Như vậy làm thế nào để chúng ta có thể tin vào khả năng mang lại một t́nh yêu thương phổ quát? Cũng vậy, chúng ta có c̣n hy vọng vào sự hoà điệu tương kính giữa các tôn giáo, khi mà chúng ta thấy cùng chia xẻ chung đức tin, con người vẫn chém giết lẫn nhau suốt qua chiều dài lịch sừ?

Theo thiển ư của tôi chúng ta vẫn có quyền hy vọng bởi v́ t́nh huống đă thay đổi khá lớn lao trong thời đại ngày nay. Trong quá khứ, chúng ta có thể đề cập đến giá trị của ḷng vị tha cũng như một số ư thức trách nhiệm liên hệ đến tha nhân, thế nhưng chúng ta đă không nhất thiết hiểu biết sự lợi ích của các thái độ này. Thế giới hiện đại đă phát triển đến mức độ mà hai thái độ này nay đă trở nên cần thiết, nếu không nói là không thể thiếu được. Những giá trị sâu sắc và cổ điển này nay đă trở thành chủ yếu. Hơn thế nữa, với sự nhanh chóng và tầm mức quan trọng của lănh vực trao đổi và truyền thông giữa con người và các quốc gia, chúng ta dễ dàng được thông báo về những ǵ đang xảy ra ở tận những nơi xa xôi, và như thế cảm thấy trở nên gần gũi hơn với những con người đang sống xa cách ta muôn trùng diệu vợi. Điều này tạo nên sự đoàn kết lớn lao hơn giữa con người với nhau. Thế nên tôi tin chắc rằng nếu chúng ta nỗ lực đúng mức hơn, chúng ta sẽ tạo dựng nên một thế giới hoà điệu. Đó là tất cả những ǵ tôi muốn tŕnh bày cùng qúy vị hôm nay.

Thưa Ngài, từ bi có những hạn chế nào không? Những ǵ là hạn chế của ḷng khoan dung? Có ǵ khác nhau giữa chấp nhận và tùng phục?

Tôi có thể khẳng định rằng ḷng từ bi không bao giờ có giới hạn vàchúng ta cũng không có lư do ǵ để phải áp đặt những giới hạn lên từ bi. Tôi nghĩ rằng vấn đề câu hỏi muốn nêu lên là chúng ta có nên phản ứng và từng bước chống trả lại những kẻ đă tấn công ta hay không. Tôi cho là chúng ta có thể phản ứng, nhưng đồng thời cũng nên rải tâm từ bi đến những kẻ đang gây hấn, xâm lược ta. Trong tâm trạng như thế, những bước tiến hành sẽ trở nên hiệu quả hơn. Nếu ḷng từ bi biến mất và tâm hồn ta đầy dẫy hận thù và giận dữ, ta sẽ bị ch́m ngập trong hoang mang bối rối. Trong thực tế, bất cứ những biện pháp nào được thực hiện do ảnh hưởng bởi những cảm tính như thế sẽ có nguy cơ bị chệch hướng và trở nên vô hiệu. Hận thù phải được phân biệt với cơn giận tự nhiên; hận thù luôn luôn là điều đáng lên án và không bao giờ mang lại lợi ích cho ta; ngược lại giận dữ trong một vài t́nh huống có thể trở nên hữu ích, và nếu như được thúc đẩy bởi tâm từ bi, nó có thể có khả năng làm cho ta phản ứng nhặm lẹ; trong trường hợp này nó có tính xây dựng.

Thưa Ngài có ǵ khác nhau giữa tuân phục và nhẫn nhục?

Ḷng nhẫn nhục thật sự có nghĩa là chúng ta không phản ứng lại những việc sai trái màkẻ ác gây ra cho ta mặc dù ta có đầy đủ phương tiện để phản ứng, chẳng hạn như việc phục thù và hành động lấy mắt trả mắt khi ta có cơ hội. Ngược lại, tuân phục không dính dấp ǵ đến nhẫn nhục, đây là trường hợp ta không có khả năng phản ứng lại kẻ đang gây tác hại cho ta, cho dù ta có thể rất giận dữ.

Thưa Ngài, có những vị Phật được xuất hiện dưới dạng phụ nữ?

Dĩ nhiên! Hăy nh́n vào trường hợp của Arya Tara, người phụ nữ đầu tiên đă đạt đến trạng thái giác ngộ, một hạnh nguyện tự phát hướng đến Phật quả cho phúc lợi của toàn thể chúng sanh, và đó là một bậc nữ lưu. Khi đạt đến giác ngộ, Ngài đă phát nguyện như thế này: “Có rất nhiều người đă đạt được Phật quả mang thân nam giới tuy nhiên rất ít người đạt được qủa vị này trong tấm thân nữ giới, tôi nay đă chứng qủa bồ đề, xin nguyện tiếp tục tinh tiến trên con đường giác ngộ trong thân phụ nữ và thành Phật dưới dạng nữ giới!” Chúng ta có thể kết luận rằng Tara có thể là vị nữ lưu đầu tiên trong Phật giáo!

Trong kinh Viên Giác (Paramitayana - Vehicles of Perfection), cũng như ba phẩm đầu tiên của Tantras luôn luôn nói rằng quả vị Phật được thành tựu trong dạng nam giới. Tuy nhiên trong phẩm thứ tư của Tantras, đă không có sự phân biệt giữa nam giới và nữ giới; sự giác ngộ có thể thành tựu một cách dễ dàng đối với người nữ cũng như nam.

Suốt ngày chúng ta cạnh tranh không ngừng với tha nhân để dành phần lợi lộc cho cá nhân ḿnh, rồi buổi tối khi về nhà, chúng ta tự coi ḿnh là người tốt và chia xẻ chúng với anh chị em thân nhân của ta. Làm thế nào chúng ta có thể sống một cách mâu thuẫn như thế?

Nói như thế phải chăng là chúng ta đă không hề có bạn bè thân hữu trong suốt cả ngày? Đây là một trạng huống khó khăn mà ta thường gặp trong một vài khung cảnh xă hội -khi ta bị bắt buộc phải sống thường xuyên trong một bầu khí bị ngự trị bởi tinh thần cạnh tranh. Dĩ nhiên cạnh tranh bao gồm cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Chẳng hạn như ta có thể nói rằng tu tập Phật giáo là một h́nh thái cạnh tranh xây dựng: tâm ta luôn luôn ở trong trạng thái tranh chấp với những yếu tố tiêu cực sẵn sàng xâm chiếm và như thế nó đă phải chiến đấu bằng đủ mọi vũ khí giải độc. Trong thương trường cũng như trong đời sống xă hội nói chung, cũng cần phải có chỗ đứng cho sự cạnh tranh hữu ích và chánh đáng, được thúc đẩy bởi ư hướng tốt và nêu ra được tấm gương tốt cho mọi người. Hơn thế nữa, chúng ta biết rằng h́nh thức tiêu cực của tinh thần cạnh tranh thường được thúc đẩy bởi ư hướng xấu, như cạnh tranh bẩn thỉu hoặc do thù hằn. Ngoài ra phải kể đến sự cạnh tranh mang tinh thần vô tư, đặc biệt là trong thương trường, mà những nỗ lực không ngoài mục đích mang đến lợi nhuận và kiếm sống. Tất cả, theo tôi đều tùy thuộc vào thái độ tinh thần thúc đẩy những hoạt động này.

Trong một xă hội mà sự cạnh tranh là một hiện hữu đương nhiên, những phản ứng của con người thường khác biệt tùy theo bản tánh và cách nh́n vấn đề của họ. Nếu chúng ta cư xử một cách lương thiện, tử tế mà vẫn bị kẻ khác phá hoại bởi những người lợi dụng bản tánh tốt đẹp của ta để cạnh tranh bất chính, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể sẽ phải phản ứng, nhưng sẽ không dùng các thủ thuật bá đạo; bởi v́ trong những t́nh huống như vậy nếu không biểu lộ tinh thần cạnh tranh, ta sẽ làm ngăn trở sự tiến bộ.

Theo Ngài những ǵ là yếu tố chính mà bậc phụ huynh cần nên bao gồm vào nền học vấn của con trẻ?

Cho dù phẩm chất trí tuệ mà nền giáo dục mang lại cho ta là ǵ đi nữa nó cũng phải được hoà điệu với những nguyên lư căn bản của con người, thế nên nền giáo dục đó cần bao gồm những yếu tố của t́nh thương yêu và từ bi, bởi v́ không có ǵ bảo đảm rằng chỉ kiến thức không thôi là thực sự hữu ích cho con người. Tôi thấy rằng trong số những kẻ gây nên những vấn nạn lớn lao cho xă hội đă không thiếu ǵ những người có học thức cao và giàu kiến thức, tuy nhiên họ thiếu căn bản đạo đức, tức là hướng đến việc phát triển từ bi, trí huệ và thị kiến rơ ràng. Bởi lẽ đó, một điều hiển nhiên là không phải chúng ta chỉ đảm bảo cho con trẻ có một nền học vấn cao, mà đồng thời c̣n phải tạo dựng nên một môi trường thuận tiện cho việc vun trồng các phẩm chất tốt đẹp như t́nh yêu tha nhân chẳng hạn.

Làm thế nào để dạy trẻ ḷng từ bi? Không phải chỉ bằng lời nói suông mà là bằng hành động, ta phải nêu ra những tấm gương tốt và sống theo như thế để cho trẻ con có thể học bằng cách quan sát, bắt chước theo cha mẹ chúng; đó là lư do tại sao môi trường gia đ́nh rất quan trọng trong giáo dục.

Người ta từng nói rằng cười là món quà đặc biệt được ban cho con người. Theo ư Ngài, con người đă cười quá nhiều hay chưa đủ?

Tôi đă được biết rằng một số loài khỉ cũng có khả năng cười dỡn; tôi không rơ lắm. Nhưng nói chung, h́nh như cười là một bản tính đặc biệt của nhân loại. Chắc chắn cũng có một số người ít khi mĩm cười! Tuy nhiên tôi không nghĩ rằng người ta lại có thể cười cợt quá mức. Ai mà biết? Có một vấn nạn là những người cười quá độ th́ rất hiếm, trong khi những người không chịu mĩm cười th́ lại quá nhiều!

Thưa Ngài, tại sao lại có chuyện hạnh phúc của người này có được là do ở sự mất mát hạnh phúc của kẻ khác?

Gốc rễ của vấn đề này là do ta thiếu tầm nh́n xa thấy rộng hoặc là những người không theo một hành tŕnh tâm linh nào cụ thể. Khi ta t́m kiếm hạnh phúc cho riêng ḿnh bằng cách tước đoạt hạnh phúc của kẻ khác, tự thâm tâm ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy vui sướng và về lâu về dài ta sẽ trở nên cô độc, không c̣n liên hệ được với tha nhân.

Xă hội mà chúng ta sống đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển khoa học, kỹ thuật. Thế nhưng chúng tôi vẫn có ấn tượng rằng t́nh cảm của chúng ta cũng như ṿng vây của bạo lực do tham ái gây ra trải qua hàng ngàn năm đă chẳng biến đổi chút nào. Theo ư Ngài, làm thế nào thế giới có thể giải quyết vấn nạn này mà không gây khổ đau cho những kẻ yếu hèn xấu số?

Liên quan đến phần thứ nhất của câu hỏi, về vấn nạn của bạo lực, tôi cho rằng có rất nhiều yếu tố can dự vào: hai nguyên nhân quan trọng nhất là sự gia tăng nhân số và bên cạnh đó là việc thủ đắc vũ khí quá dễ dàng. Để giải quyết vấn nạn này, chúng ta cần phải cân nhắc khi hoạch định các chính sách về hạn chế sinh sản và về giải trừ quân bị. Vấn đề hiện nay không phải là làm cho đầu óc con người bị tràn ngập bởi những nguồn thông tin không ngừng gia tăng, mà là bằng phương tiện đó tạo cơ hội đồng đều cho họ được hấp thụ các chất liệu bổ dưỡng tinh thần, để cho mỗi người có thể tự thay đổi tâm tánh và cải thiện thái độ cư xử của họ đối với tha nhân. Trong trường hợp này, ngành truyền thông đóng một vai tṛ khá quan trọng; tuy nhiên tôi không khỏi phiền ḷng khi thấy họ chỉ chú mục vào các chuyện tiêu cực. Tôi nghĩ rằng để có thể có được một ấn tượng công bằng và quân b́nh hơn đối với sự việc, bộ phận truyền thông cần nên quan tâm đồng đều đến những vụ việc phản ánh được phẩm chất tốt đẹp và những thành tựu của con người, nếu không chúng ta rốt cùng sẽ tin rằng bản tánh của con người là xấu ác, thích gây hấn, và như vậy chúng ta sẽ sống trong thất vọng.

Phần thứ hai của câu hỏi đối phó với vấn nạn bạo lực liên hệ đến tâm thủ đắc của con người. Thưa Ngài, nhân danh những người nghèo khổ yếu kém nhất trên thế gian này, ta làm thế nào để giải quyết vấn nạn này mà không phải sử dụng đến các biện pháp triệt để? Làm thế nào để những kẻ giàu có biết phát triển ḷng kính trọng đối với kẻ khác?

Tôi nghĩ rằng mọi tôn giáo đều tối thiểu khuyến khích chứ không hề chối bỏ sự phát triển cuả tinh thần tri túc. Bằng cách cho thấy được những lợi lạc của thái độ sống này người ta có thể giải thích làm thế nào để chúng ta có thể măn nguyện với những ǵ ta có, dù ít ỏi nhất. Gần đây tôi có dịp thăm viếng tu viện Grande Chartreuse và vô cùng sửng sốt khi biết được những tu sĩ ở đây sống hoàn toàn cắt đứt với những liên hệ của thế giới bên ngoài, không cả tin tức báo chí hay đài phát thanh, và tôi đă rất ngạc nhiên đầy thán phục trước phẩm chất tuyệt vời và cuộc sống rất giản đơn của họ.

Như vậy làm thế nào để một người không dính dấp ǵ đến cuộc sống tu hành tôn giáo có thể học được cách sống thoả măn với những sở hữu tối thiểu? Trên một khía cạnh khác, phải chăng những người giàu có nhất đang là kẻ nô lệ cho tài sản, đồng tiền của họ? Những người triệu phú đâu có nghĩa là sẽ được thụ hưởng một tuổi thọ lâu dài và có sức khỏe dồi dào hơn kẻ khác; mặc dù những tài sản mà họ có trong tay chưa hẵn đă làm cho họ có một đời sống hạnh phúc hơn. Nếu chúng ta luôn nhắc nhở ḿnh như thế, chúng ta sẽ học được cách sống thỏa măn với những ǵ hiện có.

Trong một lần thăm viếng Hoa Kỳ, tôi đă được một vị khách qúy giàu có mời về nhà ăn trưa. Tôi đă có dịp quan sát sự giàusang và tiện nghi phô bày trong ngôi nhà của họ và thầm nghĩ rằng những người này đang sống một cuộc sống hoàn toàn thỏa măn. Đến cuối bửa ăn tôi vào pḥng tắm để rửa ráy thay đồ và bất chợt nh́n vào tủ thuốc khép hờ của họ: đủ các loại thuốc ngủ và giảm thống. Tôi kết luận rằng họ đă không hạnh phúc lắm như ta tưởng.

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, phải chăng đối nghịch của vị tha là ích kỷ? Có phải là chúng ta cần một ít ích kỷ để đạt đến hạnh phúc?

Khi nói đến vị tha có nghĩa là chúng ta không nên nghĩ đến phúc lợi cho riêng cá nhân ḿnh. Điều này không có nghĩa là ta phải trở thành những kẻ tử v́ đạo! Nó chỉ có một ư nghĩa rất đơn giản là ta không nên bỏ quên người khác để chỉ t́m kiếm hạnh phúc cho riêng cá nhân ḿnh, tức là ta quan tâm đến đồng loại nếu không quan trọng hơn th́ tối thiểu cũng bằng ta.

Khi tư tưởng và hành động của chúng ta luôn hướng đến tha nhân và làm mọi cách cho họ được hạnh phúc, chúng ta sẽ thấy rằng hạnh phúc sẽ đến với chúng ta một cách rất mau chóng, tự nhiên. Yêu thương tha nhân và từ bỏ phúc lợi của chính bản thân ḿnh không bao giờ đưa đến đau khổ. Đó là lư do tại sao tôi thường hay nói rằng nếu chúng ta muốn chấp nhận thực hiện một thái độ vị kỷ, hăy làm một cách thật thông minh. Đây là lư lẽ: chúng ta thường có thói quen chỉ nghĩ đến ḿnh mà quên đi quyền lợi và nguyện vọng của kẻ khác, cao điểm là việc khai thác lợi dụng tha nhân cho lợi nhuận của cá nhân ḿnh. Trong những t́nh huống như vậy, cho dù chúng ta đang đi kiếm t́m hạnh phúc, ta sẽ không đạt được ǵ ngoài đau khổ. Ngược lại, nếu ta cố gắng giúp đỡ tha nhân, phục vụ kẻ khác, mang đến hạnh phúc cho họ, chung cuộc ta sẽ là người thu được ích lợi, bởi v́ ta sẽ cảm thấy sung sướng hạnh phúc hơn. Đó là điều mà tôi gọi là ích kỷ thông minh.

Trong số các tâm trạng khác nhau mà ta được biết, chẳng hạn như ḷng tham ái, có thể là tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào những ǵ thúc đẩy chúng. Hăy xem trường hợp biểu hiện rơ rệt ư thức của bản ngă: nếu đây rơ ràng là một thái độ trịch thượng bề trên đưa đến việc chống đối và coi thường kẻ khác, chúng ta đang đối diện với sự kiêu hảnh, một trạng thái tiêu cực của tâm hồn. Thế nhưng nếu cùng một khái niệm đó -ư thức về bản ngă- cũng có thể được biểu lộ dưới h́nh thức của sự tự tin, dẫn đến ḷng can đảm và niềm tin chắc chắn rằng, ví dụ như, ḿnh có khả năng đạt đến giác ngộ cho phúc lợi của muôn người. Trong trường hợp này, nó có tính xây dựng và tích cực.

Ngài nghĩ như thế nào về sự mê đắm?

Khi chúng ta mê say điều ǵ, sự dấn thân và ḷng quyết tâm của ta càng gia tăng. Thật ra bạn có thể áp dụng quan điểm này đối với mọi loại t́nh cảm kể cả tiêu cực hay tích cực. Ḷng từ bi chẳng hạn được coi là tích cực trong khi tinh thần chấp trước được coi là tiêu cực. Có một số t́nh cảm tự nó không là tích cực hay tiêu cực. Nếu chúng ta coi sự mê đắm như là một t́nh cảm cực kỳ mạnh mẽ, có thể đưa ta đến sự dấn thân và một tinh thần trách nhiệm cao độ th́ đó chính là khía cạnh tích cực của ḷng mê đắm. Có lần tôi tham dự một buổi hội thảo quan trọng gồm những nhà chuyên môn và mỗi người phát biểu khá lâu, phân tích khá chi tiết về lănh vực chuyên môn của ḿnh. Họ thật sự là những nhà uyên bác.

Đến phiên tôi phát biểu, tôi có cảm tưởng rằng không c̣n ǵ để phải nói nữa, thế nhưng như thường lệ, nhân danh tư cách một nhà tâm lư học Phật giáo, tôi muốn nhấn mạnh đến sự quan trọng của động cơ thúc đẩy, của ư hướng -tức là động lực thúc đẩy đằng sau mọi hành động của chúng ta- cũng như về ư thức trách nhiệm. Tôi tiếp tục phát biểu là tôi sợ rằng với sự phân tích một cách chi ly thái quá về phương thức tiếp cận như thế, nếu ngôi nhà của qúy vị bị phát hoả, những người bạn thân yêu của tôi ơi, lúc đó chắc qúy vị sẽ đứng yên một chỗ để phân tích t́nh huống, đặt vấn đề hỏa hoạn đă được bắt đầu như thế nào, phát khởi ở đâu, tại sao nó lại cháy theo kiểu cách như vậy, v.v... và v.v... Tất cả mọi người đều bật cười!

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 9 of 10: Đă gửi: 06 April 2006 lúc 3:02am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

NHÂN QUYỀN
VÀ BẤT BẠO ĐỘNG
Hôm nay chúng ta nói chuyện về nhân quyềnvà bất bạo động. Cá nhân tôi thành thật mà nói không xem việc thực hành bất bạo động là một hành động duy nhất để chống lại bạo động. Đối với tôi, bất bạo động chỉ xứng đáng được coi là chủ nghĩa hoà b́nh bất bạo động khi nó được xây dựng trên ḷng nhân ái và vị tha. Vấn đề nhân quyền cũng thế.

Xa ĺa khổ đau và an hưởng hạnh phúc là nỗi khát vọng chung của tất cả mọi con người. Khi kinh nghiệm bản thân cho ta những khả năng để hiểu được rằng ta không cô đơn trong ước vọng xa lánh khổ đau và được sống hạnh phúc, lúc đó ta sẽ có đủ năng lực để phát triển ḷng từ bi, tức là ước nguyện được thấy mọi người giải thoát khỏi đau khổ. Đồng thời ta cũng sẽ học được ư nghĩa của thương yêu, tức là ước nguyện được thấy mọi người t́m được hạnh phúc. Những khái niệm căn bản này có thể tạo cho ta mối quan tâm và chú trọng đặc biệt hơn về nhân quyền. Thế cho nên tôi nghĩ rằng tôn trọng nhân quyền và thực thi bất bạo động có mối liên hệ mật thiết với yêu thương và từ bi.

Theo thiển ư của tôi, phẩm chất của ḷng vị tha này là cơ bản. Không những nó cần thiết cho việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa các tôn giáo trên thế giới, mà c̣n ươm đầy cuộc sống đời thường của ta với an lạc và hạnh phúc. Thế nên thảo luận về những chủ đề này, tôi nghĩ là ḿnh có thể bắt đầu bằng cách nói về ḷng yêu thương.

Xin được trở lại với đề tài ban đầu. Không cần biết đến chủng tộc, học vấn, tôn giáo, mức sống của chúng ta như thế nào, chúng ta đều b́nh đẳng khi mới sinh ra -chúng ta đều là những con người và đều có chung ước vọng bẩm sinh là xa lánh khổ đau và t́m kiếm hạnh phúc. Hơn thế nữa, con người đều có quyền được sinh ra để sống hạnh phúc và giải phóng khỏi mọi khổ đau. Tuy nhiên trong thực tế, mặc dù mọi người đều chia xẻ ước vọng này một cách đồng đều, bản chất của xă hội cho thấy có người lại được hưởng nhiều lợi quyền hơn kẻ khác và thông thường kẻ nghèo thường hay bị thiệt tḥi, lợi dụng. Dù đứng trên quan điểm đạo đức hay thực dụng, đây là một sai lầm lớn lao. Thực tế cho thấy trong bất kỳ xă hội nào hễ càng bất công bao nhiêu th́ càng có nhiều người khốn khó bấy nhiêu, những vấn nạn xă hội sẽ có cơ bùng nổ và xă hội đó chắc chắn sẽ ngày càng bệnh hoạn hơn.

Để bắt đầu, điều quan trọng là bạn phải thấu hiểu được rằng hạnh phúc của chính cá nhân bạn liên quan đến người khác biết chừng nào. Con người tự bản chất là một sinh vật xă hội và hạnh phúc của mỗi chúng ta đều tùy thuộc vào kẻ khác. Trong một xă hội mà phúc lợi của mọi người đều được đảm bảo và một bối cảnh tốt đẹp được xây đắp, dĩ nhiên sự lương hảo của mỗi cá nhân cũng sẽ được triển khai. Không bao giờ có chuyện hạnh phúc của mỗi cá nhân hoàn toàn độc lập với kẻ khác; thế nên nếu chúng ta đảm bảo được phúc lợi cho tha nhân, có nghĩa là cùng một lúc chúng ta đang bắt tay tạo dựng nên những hoàn cảnh tốt đẹp cho phúc lợi của chính cá nhân ḿnh.

Mỗi cá nhân thường cảm thấy ḿnh hạnh phúc nhất, thư giản nhất khi họ có thể chia xẻ được niềm hạnh phúc và sự tin cậy với kẻ khác, đó là bản tánh chung của con người. Chúng ta cần sự nâng đỡ của đồng loại và mong muốn có nhiều bạn bè. Mỗi khi chúng ta có dịp được cười đùa với nhau, ta vui hưởng niềm sảng khoái chung. Cá nhân tôi luôn luôn thích thú mỗi lần gặp bạn bè cho dù họ có mang lại lợi ích cho tôi hay không. Thực tế cho thấy cười chính là liều thuốc bổ, mang lại cho ta niềm thư giản một cách tự nhiên.

Tuy nhiên nếu chúng ta chỉ chú trọng đến ḿnh, chỉ nghĩ đến cá nhân ḿnh, đến phúc lợi của riêng ḿnh, luôn bác khước, khai thác, và lợi dụng kẻ khác, với cung cách cư xử đó ta tự cắt ĺa ḿnh với thế giới bên ngoài và điều đó sẽ làm cho chúng ta mất hạnh phúc. Như vậy, một điều hiển nhiên là càng quan tâm đến tha nhân, lo lắng cho phúc lợi của họ bao nhiêu, ta sẽ càng có thêm nhiều bạn bè và cảm thấy được đối xử ân cần, nồng hậu bấy nhiêu.

Trong số những bạn bè của ta không phải là không có những người chỉ đến với ta do tiền bạc và địa vị mà ta có, họ không phải là những bằng hữu chân thực mà thật ra là bạn của túi tiền, thế lực của ta. Một điều chắc chắn là bao lâu mà ta c̣n tiền bạc và thế lực họ sẽ c̣n quanh quẩn bên cạnh ta, thế nhưng một lúc nào đó khi ta rơi vào t́nh trạng suy sụp, họ sẽ biến mất như một chiếc cầu vồng, chứng tỏ rằng họ không phải là những người bạn trung thành, đáng tin cậy. Đến khi ta cần họ, chạy đi kiếm hoặc t́m cách gọi điện thoại cho họ, những kẻ được gọi là bạn bè này bỗng dưng biến mất tiêu không biết ở phương trời nào! May mắn lắm nếu được họ trả lời điện thoại th́ cũng chỉ là những lời ngắn gọn, nhát gừng!

Để có được bạn bè chân thực và được họ thật t́nh thương mến, ta cũng phải thương mến và bày tỏ mối thiện cảm của ta đối với họ. Trong trường hợp này, ta sẽ có được vô số bằng hữu chân t́nh.

Nếu chúng ta bày tỏ ḷng nhân ái đối với tha nhân, đặc biệt chiếu cố đến những kẻ bất hạnh cũng như những người mà quyền sống không được tôn trọng, chính ta sẽ tạo dựng cho ḿnh nền tảng của hạnh phúc và thái độ sống đúng đắn có giá trị.
Hăy lấy trường hợp của cá nhân tôi, những kinh nghiệm bản thân mà tôi đă trải qua làm một thí dụ. Tôi là một người dân mất nước, và đáng buồn hơn, dân tộc tôi đang phải sống trong cảnh thống khổ. Tây Tạng đang bị tàn phá. Tôi đang phải đối diện với những trạng huống kinh khủng cũng như đă từng kinh qua những kinh nghiệm bi thảm. Tuy nhiên xin cảm ơn bằng hữu và những tấm ḷng ưu ái mà họ dành cho tôi, nhờ đó tôi vẫn có thể tiếp tục cuộc sống b́nh thường.

Tôi nghĩ rằng bất bạo động có nhiều cấp độ khác nhau. Ngay cả được che dấu bởi động lực đen tối và một tâm hồn đạo đức giả, gian dối và ác độc, một người vẫn có thể nói ra được những lời dịu ngọt, dễ thương cũng như biểu lộ những cử chỉ thân thiện, như biếu tặng quà cáp chẳng hạn. Hành động này chỉ bất bạo động ở ngoài mặt; trong thực tế đây là một hành động đầy ác tâm. Trái lại, do sự thúc đẩy bởi ư hướng muốn giúp đỡ tha nhân, hoặc vạch cho người khác thấy những lỗi lầm của họ, có thể ta có những ngôn ngữ hoặc hành động xem ra cộc cằn thô lỗ, nhưng tận trong thâm tâm, đó là một hành vi bất bạo động.

Thế cho nên chính động cơ thúc đẩy ở đàng sau mới quyết định tính cách bạo động hay bất bạo động của một hành động. Thái độ bất bạo động được thúc đẩy bởi thiện ư dù được thể hiện ra hành động hay bằng lời nói cũng đều mang lại lợi ích. Thế nhưng khuyến khích, thúc đẩy tinh thần bất bạo động và hành động bất bạo động cũng chưa đủ để loại trừ bạo động. Trên tất cả, ta phải khích lệ mọi người tự ḿnh nuôi dưỡng ḷng thương yêu và tŕu mến đối với tha nhân.

Trong thời đại này quả là một điều cần thiết để tạo dựng nên một bầu khí hoà điệu và đoàn kết hơn giữa các tôn giáo khác nhau trên thế giới. Đă có quá nhiều yêu tố làm phân cách xă hội chúng ta: giàu nghèo, khuynh hướng chính trị, v.v... Tôn giáo v́ thế có mặt để giúp con người học cách biết tự chế hơn, làm tiết giảm tinh thần chấp trước và đối kháng cũng như giúp đỡ họ t́m kiếm sự an b́nh. Thế nên nếu tôn giáo trở thành một cái cớ để gây thêm chấp trước, hận thù,hoặc tranh dành bè phái th́ quả là một thảm trạng đáng buồn.

Dĩ nhiên mỗi tôn giáo đều có những bản sắc đặc biệt riêng. Trên b́nh diện siêu h́nh có thể c̣n có những khác biệt lớn lao hơn giữa các tôn giáo. Tựu trung tôn giáo có thể được phân ra làm hai nhóm chính: Một số tôn giáo gắn chặt vào niềm tin về một đấng Thượng Đế Sáng Tạo và phần c̣n lại th́ không tin như thế. Đứng trên quan điểm triết học, đây là một sự khác biệt lớn lao. Tuy nhiên, tất cả các tôn giáo chính đều đồng ư với nhau về sự quan trọng của ḷng thương yêu, nhẫn nhục và khoan thứ. Mặc dù mỗi tôn giáo có thể tŕnh bày bản chất xác thực của t́nh thương yêu đó một cách khác nhau, tất cả đều khẳng định sự cần thiết của t́nh thương yêu và nhân ái, tất cả đều khuyên dạy tín đồ của ḿnh nuôi dưỡng những t́nh cảm tốt đẹp này bằng nhiều cách khác nhau. Như thế đă có một căn bản tương đồng rất có ư nghĩa giữa các tôn giáo trên thế giới.

Thực tế cho thấy một trong những cỗi nguồn chính của sự hoà điệu giữa các tôn giáo là tính cách phổ quát của những lời dạy về t́nh thương yêu; chúng ta càng sớm nhận ra mục đích của t́nh thương yêu đó và bản chất qúy giá của nó chừng nào, ta sẽ càng cảm thấy kính trọng hơn các tôn giáo khác chừng nấy.

Trong cuộc sống hàng ngày, hạnh phúc tùy thuộc lớn lao vào trạng thái tâm hồn của chúng ta. Những ngày mà tâm hồn ta thư thái yên tĩnh sẽ là những ngày rất hạnh phúc. Trái lại những ngày ta mất đi niềm thanh thản, ta sẽ cảm thấy bất hạnh. Điều đó thật quá rơ ràng.

Bây giờ vấn đề đặt ra là mục tiêu của đời sống là ǵ? Tôi luôn cho rằng đó là hạnh phúc. Tại sao? Bởi v́ ngay cả những người đang chấp nhận một cuộc sống tu hành, cũng không ngoài mục đích đi t́m kiếm hạnh phúc. Họ coi tôn giáo như là phương cách tốt nhất để đạt đến hạnh phúc cho nên đă chọn lựa theo đuổi một hành tŕnh tâm linh như thế . Cũng vậy, một người chấp nhận làm việc trong địa hạt kinh tế (hay bất cứ lănh vực nào khác) bởi v́ họ nghĩ rằng đó là cách thế tốt đẹp nhất, hữu hiệu nhất để hoàn tất đời ḿnh.

Cho dù ta không thể biết chắc chắn những ǵ xảy ra trong tương lai, hầu như mọi người đều tin rằng mọi chuyện rồi sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Mặc cho bao nhiêu vấn nạn mà ta phải đương đầu trong suốt cuộc đời, ta vẫn tiếp tục hy vọng rằng mọi việc sẽ êm xuôi trong tương lai. Cái ngày mà chúng ta ngưng hy vọng, chúng ta có nguy cơ rơi vào trạng thái tuyệt vọng hoặc đi đến chỗ tự vẫn. Đó là lư do tại sao tôi cho rằng sự kiếm t́m hạnh phúc đă mang lại ư nghĩa cho đời người.

Có người quan niệm hạnh phúc trong tầm phụ thuộc của vật chất hay những yếu tố bên ngoài; chẳng hạn như xem giàu có và quyền lực là những chỉ dấu của hạnh phúc. Quả thật sống trong tiện nghi vật chất, được kề cận bên cạnh bạn bè và gia đ́nh, vui thú với tiếng tăm danh vọng và những cuộc đàm luận hay ho, đều là những yếu tố góp phần tạo nên hạnh phúc cho ta. Tuy nhiên nếu xem những yếu tố này là gốc rễ chính của hạnh phúc, th́ tất cả những ai đang thụ hưởng giàu sang, danh vọng, được bao quanh bởi một bầu khí dễ chịu phải là người đang sống hạnh phúc. Thực tế không phải là như thế! Điều này cho thấy mặc dù những điều kiện thuận lợi này có thể góp phần tạo nên hạnh phúc cho ta, chúng không phải là những nguyên nhân cơ bản, không thể không có.

Ta không cần biết đến chuyện con người đang hưởng thụ những tiện nghi vật chất đầy đủ hay không, nếu tâm hồn họ an b́nh, thư giản và cảm thấy hài ḷng với chính ḿnh, họ là những người đang sống trong hạnh phúc; và ngược lại. Như thế, một điều rất rơ ràng sự an b́nh nội tâm là cỗi nguồn của hạnh phúc. Chúng ta có thể nhận thấy điều này trong cuộc sống đời thường. Có những ngày tâm hồn chúng ta cảm thấy thư thái, hạnh phúc, cho dù bất chợt gặp phải khó khăn hay trở thành nạn nhân của một chuyện rủi ro, ta vẫn chấp nhận chúng một cách dễ dàng không mảy may khó chịu. Thế nhưng trong những ngày mà tâm hồn ta buồn lo, xao động, dù chỉ một chuyện không đáng kể xảy ra cũng gây nên những khủng hoảng lớn khiến ta vô cùng bực bội.
Một cách tổng quát, thoạt nh́n vào các xă hội phát triển Tây phương với tất cả những tiện nghi của đời sống hiện đại được cung ứng mà kết quả tạo nên một cuộc sống tuyệt vời về mọi mặt. Thế nhưng nếu bạn có th́ giờ để đàm luận riêng tư với những cư dân của các xă hội này, bạn sẽ thấy tâm hồn của họ bị ô nhiễm bởi những tư tưởng hoài nghi, nhận thức sai lầm, những âu lo, ganh ghét và tranh chấp tị hiềm.

Như vậy làm thế nào để chúng ta có thể phục hồi được sự an lạc của cái tâm ḿnh? Bằng ma túy hay rượu chè chăng? Chắc chắn là không rồi! C̣n nếu mang chuyện này đi than phiền với một vị y sĩ, như chúng ta thường làm đối với những bệnh hoạn thể chất: “Bác sĩ à, tôi đang lâm bệnh tinh thần, xin bác sĩ t́m cách chữa trị cho tôi!” Chắc chắn là vị bác sĩ sẽ trả lời bằng cách lắc đầu, cho biết là ông ta sẽ không làm ǵ được và chỉ cho ta đi chỗ khác. Một cách tóm tắt, hạnh phúc là cái mà chúng ta chỉ có thể tạo dựng lên từ chính bên trong nội tâm ḿnh. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta thực hiện được việc này? Đâu là con đường tốt nhất để đạt đến hạnh phúc?

Để trả lời những câu hỏi này xin hăy lấy những kinh nghiệm của cá nhân tôi làm một thí dụ. Một số đông bạn bè và bản thân tôi đều đi đến một kết luận chung: Chúng ta càng phát triển t́nh thương yêu, tŕu mến đến tha nhân, ḷng khao khát phụng sự họ bao nhiêu, ta càng cảm thấy tâm hồn của ḿnh an lạc bấy nhiêu. Khi chúng ta có ư nguyện giúp đỡ tha nhân, những thái độ cư xử của ta đối với họ sẽ tích cực hơn. Khi tâm ta không c̣n ganh tỵ, ta sẽ thấy không cần thiết phải dấu diếm họ bất cứ chuyện ǵ. Với sự hiện diện của họ, chúng ta cảm thấy là ḿnh sẽ bớt dè dặt và tâm hồn cởi mở hơn. Ngược lại, trong quan hệ đối xử với kẻ khác nếu thâm tâm ta luôn nuôi dưỡng những ư tưởng độc hại của ganh tỵ và dối trá, tự nhiên là chúng ta sẽ bị ngăn cách và cô lập, chúng ta sẽ luôn luôn là kẻ đứng ở ngoại biên của mọi vấn đề.

Khi chúng ta có ư hướng giúp đỡ tha nhân, mối quan hệ giữa ta với họ sẽ trở nên thoải mái dễ dàng hơn. Ngược lại, chúng ta sẽ vẫn luôn nhút nhát, lưỡng lự và ở trong trạng thái cảnh giác cao độ mỗi khi tiếp cận tha nhân. Khi tâm ta muốn giúp đỡ kẻ khác, ta sẽ bớt đi nỗi sợ hăi và lo âu. Khi tâm ta mang ư hướng tốt đẹp, ta sẽ cảm thấy tự tin và mạnh mẽ hơn. Bằng cách này, chúng ta sẽ học để nhận ra được ḷng nhân ái qúy giá như thế nào, có giá trị đối với ta ra sao. Và bây giờ, vấn đề là làm thế nào để phát khởi ḷng nhân ái?

Tất cả mọi người -ở trong bất kỳ t́nh huống nào- đều có khả năng tự nhiên phát khởi ḷng từ bi ở trong tâm ḿnh. Từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào đời, uống bầu sữa mẹ, ḷng từ bi này đă bắt đầu lớn dậy ở trong ta. Đây chính là biểu trưng của t́nh thương yêu, tŕu mến. Nếu đứa trẻ cảm thấy không gần gũi với người mẹ, nó sẽ không chịu bú sữa; cũng thế nếu người mẹ không có t́nh yêu thương tŕu mến vô bờ đối với đứa con, bầu sữa của bà sẽ cạn nguồn. Tôi cho rằng những hành động của buổi đầu đời này đă thiết định nên nền tảng của toàn bộ cuộc sống chúng ta.

Mọi người cũng đồng ư rằng một đứa trẻ được trưởng thành trong một bầu khí gia đ́nh đầy ắp thươgn yêu, tŕu mến nó sẽ có cơ may tự cảm thấy măn nguyện, học hành giỏi dang và có một cuộc sống hạnh phúc; trong khi đó một đứa trẻ mà tuổi ấu thơ thiếu t́nh thương mến luôn xao lảng trong chuyện học hành. Bởi v́ chúng thiếu những hổ trợ t́nh cảm cần thiết trong tuổi trưởng thành, tất cả đều có khuynh hướng tạo nên những vấn nạn rắc rối trong suốt cuộc đời.

Đến giây phút cuối của cuộc đời, trước giờ lâm tử, kẻ sắp chết phải bỏ lại tất cả những người yêu dấu nhất. Thế nhưng y sẽ rất sung sướng nếu có một người bạn thân kề cận bên cạnh dù y biết rằng điều đó không mang lại một mục đích ǵ cả. Bởi lẽ đó, tôi cho rằng từ lúc sinh ra cho đến lúc nhắm mắt, trong suốt cuộc đời ta, nhu cầu cho và nhận t́nh cảm thương yêu tŕu mến là nhu cầu căn bản của con người.

Ta biết rằng t́nh trạng tâm hồn của chúng ta có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và chức năng của các tế bào cấu thành thể xác của chúng ta. Cụ thể như khi tâm hồn chúng ta thư giản, thoải mái, hệ thống tuần hoàn sẽ họat động một cách b́nh thường; các bộ phận sẽ làm việc tốt đẹp và khó bị lăo hoá. Ngược lại, nếu chúng ta sống trong lo âu phiền muộn, giận dữ , sự căng thẳng tâm lư này sẽ tác động lên các hệ thống điều ḥa cơ thể mà kết quả là chúng ta sẽ bị bệnh cao huyết áp. Cơ thể của những người này cũng mau chóng già cỗi. Một tâm hồn khủng hoảng chẳng giúp ích ǵ cho sức khoẻ của thể xác, trong khi đó một tâm hồn thư giản sẽ trợ lực cho cơ thể một cách toàn hảo.

Một khi đă nhận thức được những lợi điểm của ḷng nhân ái, chúng ta cũng nên t́m cách để tu dưỡng nó. Đồng thời nếu ta nh́n thấy được sự độc hại gây ra bởi những t́nh cảm đối nghịch với ḷng nhân ái, chẳng hạn như giận dữ, ganh tỵ và đặc biệt là ḷng hận thù, ta cũng phải t́m cách loại bỏ và ngăn ngừa không để chúng trở thành một phần trong bản tánh của ta.

Con người thường yêu bạn ghét thù. Thế nhưng kẻ thùlà ǵ? Phải chăng kẻ thù là người t́m mọi cách để hảm hại ta, thể xác, tài sản, gia đ́nh, bằng hữu ta, nói tóm lại là những ǵ mang đến cho ta hạnh phúc? Chúng ta có thể coi tài sản, danh vọng, bạn bè, thân quyến của ta, v.v... là nguồn gốc thường t́nh của hạnh phúc, và như vậy bất cứ ai làm thiệt hại những gốc nguồn này, thói thường được coi là kẻ thù.

Nhưng ta cũng đă biết rằng gốc nguồn chính của hạnh phúc là sự an b́nh nội tâm. Những ai đă tu tập để phát triển được sự an b́nh này, những ai đă có một vài kinh nghiệm tu chứng sẽ không dễ dàng bị phiền nhiễu bởi loại kẻ thù thông thường này. Tuy nhiên, hận thù, ác tâm, và ganh tỵ sẽ huỷ diệt ngay lập tức trạng thái yên tĩnh tâm hồn này. Kẻ thù đích thực của ta, như vậy không ai khác hơn là ác tâm. Kẻ thù ngoại tại có thể là kẻ thù thực sự của ta ở một giai đoạn nhất định, nhưng một điều mà ai cũng có thể thấy, trong một tương lai nào đó thay v́ hảm hại ta có thể họ lại quay trở thành những người bạn giúp đỡ ta. Thế nhưng những kẻ thù nội tại vẫn luôn luôn là những kẻ thù -suốt từ đầu, giữa chừng, cho đến cuối; nó không bao giờ mang đến lợi ích ǵ cho ta cả. Bởi thế thật là một điều hoàn toàn vô lư và đầy mâu thuẫn khi một đằng th́ ta chạy đi t́m hạnh phúc, c̣n đằng khác th́ ta mở cửa cho ḷngï đố kỵ và độc ác vào trú ngụ trong tâm ta, những tên thủ phạm chính đang t́m cách diệt trừ hạnh phúc của ta.

Làm thế nào để chúng ta có thể tiêu diệt được kẻ thù này, tức là cái mà ta gọi là hận thù? Phương thuốc đánh thẳng vào sự thù ghét là ḷng nhẫn nhục, là sự thực hành hạnh nhẫn nhục. Những lúc mà chúng ta cảm thấy bất ổn, bị giày ṿ bởi những khổ đau tinh thần là lúc mà ta thường sinh ra phản ứng thù ghét. Như vậy muốn thoát khỏi tâm trạng thù ghét chúng ta phải sống và cư xử như thế nào đó để không c̣n mang lấy những khổ đau tinh thần. Chúng ta phải làm tất cả mọi chuyện có thể được để xa ĺa khổ đau; khổ đau phải được ngăn ngừa. Thế cho nên một điều rất quan trọng là việc chuyển hóa hoàn cảnh, tốt hay xấu, thành một cơ hội để cải thiện chúng. Khi một điều bất hạnh xảy đến với ta mà ta không ngờ tới, như bệnh hoạn chẳng hạn, nếu chúng ta chỉ biết nghĩ đến ḿnh, nỗi khó khăn sẽ trở nên to lớn bội phần và chúng ta coi đây là chuyện có vẻ như hoàn toàn bất công đối với ta. Thế nhưng nếu chúng ta nghĩ đến tha nhân, đến những vấn nạn của họ, dù chỉ trong một khoảnh khắc, chúng ta sẽ thấy rằng t́nh huống của ḿnh không có ǵ là đặc biệt.

Ư niệm về cái ǵ cấu thành vấn nạn là một ư niệm hoàn toàn tương đối. Trong nỗi khó khăn ta vẫn có thể t́m thấy những khía cạnh tích cực. Cùng một lúc, một cảnh huống nào đó có thể được xem là bi đát quá sức chịu đựng của con người nhưng cũng có thể được xem là mang đến nhiều phúc lợi. Tất cả đều tùy thuộc vào cách nh́n vấn đề của chúng ta. Nhưng cho dù trường hợp nào đi nữa, ta phải xem rằng mọi chuyện không bắt đầu có vẻ như vượt khỏi sức chịu đựng của ta. Khi đối đầu với vấn nạn, nếu ta nh́n chúng qúa gần, ta sẽ không thấy ǵ cả và chúng sẽ xuất hiện không đúng nguyên vẹn như thực tế; điều này khiến chúng trở thành có vẻ như khó chịu đựng nổi đối với ta. Tuy nhiên nếu chúng ta chịu khó lùi lại, chúng ta sẽ có khả năng thẩm định chúng và rồi vấn nạn sẽ không c̣n trầm trọng như ta tưởng.

Để có thể hiểu thấu đáo những hậu quả tai hại của việc từ khước tha nhân cũng như những phúc lợi do ḷngï quan tâm đến người khác mang lại, điều tốt nhất là ta phải biết dừng lại và quán chiếu trong từng giây phút theo cách thức sau đây. Chúng ta hăy bước ra khỏi cái tôi của ḿnh, đóng vai một quan sát viên ngoại cuộc hay, thí dụ như, là một thành phần thứ ba đối với một nhóm người đang có nhu cầu cần giúp đỡ; trong một thí dụ khác, quán chiếu đến cái tôi thường nhật, cái tôi thông thường đó -như một người nào khác, một người hoàn toàn vị kỷ, chỉ biết nghĩ đến ḿnh mà chẳng quan tâm đến ai khác. Trong khi tự quán sát ḿnh như vậy ta sẽ lần hồi thấy một cách rơ ràng hơn những tai hại của thói vị kỷ và tâm ta sẽ tự động hướng về những người đang có nhu cầu cần giúp đỡ lúc nào không hay.

Nếu thực tập suy nghĩ theo cách này, ta sẽ tự động bắt đầu hiểu biết hơn về những hệ quả tiêu cực của thói quen chỉ biết nghĩ đến ḿnh cũng như những phúc lợi của việc quan tâm đến kẻ khác. Nó sẽ giúp ta giảm thiểu được mănh lực lôi cuốn của chấp trước và thù ghét để từ đó phát triển t́nh thương yêu và ḷng quan tâm đến tha nhân. Hăy cảm tạ phương pháp tu tập này, sự chuyển hóa sẽ dần dần diễn biến trong ta. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận -đừng bao giờ mong chờ sự chuyển biến sẽ xảy ra trong nháy mắt, như khi ta dang tay bật một ngọn đèn! Hăy luôn nhớ rằng, điều quan trọng là ta cần phải có thời gian để có thể tu tập một cách chậm răi và tiệm tiến.

Tôi tin rằng đi theo con đường này để phát triển t́nh thương yêu và ḷng từ bi cũng như tiết giảm giận dữ, đố kỵ là một hoạt động tâm linh phổ quát không cần phải đ̣i hỏi vào bất cứ niềm tin tôn giáo nào. Đối với tôi, quả là điều lầm lẫn khi tin rằng ḷng nhân ái là sản phẩm đặc quyền của tôn giáo v́ như thế sẽ có người không thèm đếm xỉa đến nó nếu họ không thích thú đến khía cạnh tâm linh. Mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, thế nhưng bao lâu mà chúng ta vẫn c̣n t́m kiếm hạnh phúc và tiếp tục sống trong xă hội này, t́nh thương yêu và tŕu mến là điều không thể thiếu.
Để kết luận, tôi xin được nói rằng gốc rễ căn bản của việc tôn trọng nhân quyền và bất bạo động là ḷng yêu thương , nhân ái đối với tha nhân.

Phải chăng bạo động là một vấn đề thuộc về con người? Là bản năng, bản tánh? Lúc nào th́ một người được quyền bạo động -trong trường hợp nào th́ được coi là sức mạnh?

Dĩ nhiên bạo động là một phần của bản tánh con người, thế nhưng bản tánh này có nhiều mặt khác nhau và tôi không tin rằng bạo động là một trong những lănh vực quan trọng đáng kể. Lúc mới sinh ra hầu như ta u mê trước mọi chuyện, nhưng rồi theo năm tháng nhờ được học tập ta bớt dần ngu dốt. Như vậy là ta đă thay đổi t́nh huống ban đầu. Cũng thế, ta được sinh ra với các thói xấu như thù ghét, hung hăng gây hấn, nhưng do tập luyện ta vẫn có thể và phải thay đổi được chúng.
Câu hỏi của qúy vị đặt ra là trong trường hợp nào sự bạo động được biện minh. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng đầu tiên là ta cần phải phân biệt được sự giận dữ và thù hận. Có thể có lúc giận dữ mang khía cạnh tích cực, hữu ích trong trường hợp nó mang lại một đáp ứng nhanh chóng. Tuy nhiên nói chung tôi cho rằng giận dữ là một dấu hiệu của sự yếu đuối; ḷng khoan thứ mới là dấu hiệu của sức mạnh.

Thế nào là tha thứ?

Ḷng tha thứ? Đây là một t́nh cảm qúy báu, quan trọng vô cùng! Tuy nhiên điều này không có nghĩa là bạn nhắm mắt lại và quên đi những điều xấu ác mà người ta gây ra cho bạn; bạn phải ghi nhớ chúng. Thế nhưng do thương yêu và kính trọng tha nhân cũng như các lư do khác đă ngăn cản bản không trả đủa lại những hành vi xấu ác đó. Đây mới là điều quan trọng.

Thưa Ngài, trẻ em Tây Tạng hiện nay vẫn c̣n tiếp tục theo đuổi việc học tập giáo lư Phật giáo hay không?

Có những người vẫn tiếp tục theo đuổi nhưng có người không. Tất cả đều tùy thuộc lớn lao vào khung cảnh gia đ́nh mà chúng sinh sống.

Ngài có nghĩ rằng ở một mức độ nào đó th́ một người Cơ Đốc cũng giống như một người Phật tử mà thôi?

Vâng, có thể như thế. Có rất nhiều điều mà những người Phật tử có thể học hỏi từ những kinh nghiệm của các anh chị em Cơ Đốc giáo. Gần đây trong một dịp viếng thăm một tu viện Thiên chúa giáo, tôi khám phá một điều là những tu sĩ ở đây có rất nhiều điểm tương đồng với Phật tử Tây Tạng. Một vài khía cạnh như sống nghèo khổ và tri túc chẳng hạn, tôi nghĩ rằng những tu sĩ này c̣n tỏ ra hơn hẵn các tăng sĩ Tây Tạng chúng tôi, một số có thể đang có một đời sống khá tiện nghi. Nếu những tăng sĩ Tây Tạng có thể học hỏi được một vài điều từ các tu sĩ Cơ Đốc, những người Cơ Đốc giáo cũng có thể học được từ những người bạn Tây Tạng về kỹ thuật phát triển ḷng từ, t́nh thương yêu, công phu nhất-điểm thiền định, cũng như để cải thiện ḷng vị tha. Về những lănh vực vừa nói, cũng chẳng có ǵ khó khăn khi vay mượn những kỹ thuật đặc biệt này của Phật giáo, như một số những người bạn Cơ Đốc của chúng tôi đang làm. Khi các tôn giáo khác biệt cùng ngồi lại với nhau, sẽ có rất nhiều điều người ta có thể học hỏi lẫn nhau.

Ngài có nghĩ rằng chủ trương bất bạo động của Ngài có thể dẫn đến sự diệt chủng nhân dân Tây Tạng?

Bất bạo động về lâu về dài vẫn là phương pháp đấu tranh tốt nhất, sâu sắc nhất. Cụ thể là do lựa chọn đường lối này mà càng ngày chính nghĩa của TâyTạng càng được đông đảo nhân dân Trung quốc ủng hộ.

Thưa Đức Đạt Lai Lạt Ma, Ngài có những lời khuyên nào cho giới cư sĩ để họ có thể tiến bộ trong tu tập nhằm phát triển ḷng từ và nhân ái?

Điều trước tiên là ta phải nhận thức được khả năng vô lượng ở trong ta. Trong Phật giáo chúng tôi gọi đó là Phật tánh hiện hữu trong mỗi cá nhân. Nhưng cho dù không bước vào lănh vực này, đă là con người, chúng ta đều có một số t́nh cảm nhất định, chẳng hạn như ḷng quyết tâm hoặc trí thông minh; sự kết hợp của hai yếu tố này sẽtạo nên những cống hiến đáng kể. Điều quan trọng là chúng ta nên liên kết trí thông minh của ḿnh với thiện ư. Không có trí thông minh chúng ta không thể hoàn tất bất cứ việc ǵ. Không có thiện ư chúng ta sẽ không biết được việc hành xử trí thông minh của ḿnh sẽ mang lại xây dựng hay hủy diệt. Đó là lư do tại sao điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải có thiện tâm, và đừng quên rằng những phẩm chất này là một phần trong bản tánh cơ bản của con người.


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 10 of 10: Đă gửi: 06 April 2006 lúc 3:04am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

NGHĨA VỤ CỦA TÔN GIÁO
Thưa Ngài, Ngài có nghĩ rằng sự tách biệt giữa giáo hội và nhà nước -giữa thần quyền và thế quyền- là một điều tốt đẹp? Ngài có nghĩ rằng một điều rất đáng khuyến khích nếu để cho giáo hội có nhiều khả năng trong việc kêu gọi nhà nước, hoặc can thiệp một cách tích cực vào các lănh vực tiện ích xă hội, như môi sinh chẳng hạn?

Nh́n trên khía cạnh kinh viện, tôi nghĩ rằng tốt nhất là nhà nước và nhà thờ hoạt động biệt lập nhau. Thế nhưng điều này không có nghĩ a là nhà thờ quay mặt lại với xă hội, không đứng trên quan điểm tinh thần để bày tỏ ư kiến của ḿnh hoặc tích cực hoạt động trong các lănh vực liên quan đến môi sinh, v́ đây là một vấn đề có ảnh hưởng đến phúc lợi của toàn thể dân chúng.

Rốt lại, mục tiêu hàng đầu của tôn giáo và sự tu tập của họ là ǵ nếu không là phục vụ nhân sinh. Thế nên nghĩa vụ của các nhà tôn giáo là phải dấn thân và nỗ lực góp phần giải quyết các vấn nạn xă hội. Thực tế cho thấy quả là điều rất lợi ích nếu một người biết ḥa trộn những hoạt động chính trị của họ cùng với sinh hoạt tâm linh. Có lần tôi được dịp tham dự một cuộc hội nghị với các nhà chính khách Ấn. Họ đă thú nhận một cách khiêm nhượng rằng, là chính khách họ mù tịt về lănh vực tôn giáo. Tôi đă trả lời rằng, chính trị gia phải nên là những người có tín ngưỡng hơn ai hết, do tác động của những việc làm của họ gây nên đối với xă hội. Trong thực tế, những tư tưởng của một nhà khổ tu, người cống hiến trọn đời ḿnh cho tham thiền nhập định đă không có một tác động lớn lao đối với quần chúng. Thế nhưng sự đồi bại phát xuất từ một tâm hồn bất ổn của một chính trị gia và hậu quả xảy ra của việc làm xấu xa tai tiếng đó sẽ gây tác hại đến một số lượng lớn con người.

Sống giữa một xă hội truyền thông điên loạn như hiện nay, có phải là Ngài đang gặp khó khăn khi không có nhiều th́ giờ dành cho việc tu tập thiền định?

Bao lâu mà những chuyện tiếp xúc đối thoại xảy ra trong một bầu khí nồng ấm t́nh người, nó chẳng hề gây phiền nhiễu ǵ cho tôi cả, trái lại tôi c̣n thích thú là đàng khác! Bất cứ sự trao đổi nào giữa con người với nhau mà thiếu vắng sự nồng hậu, t́nh người đều chẳng khác ǵ sự đối thoại của những cổ máy, và dĩ nhiên tôi không thích thú điều đó. Tôi thường bắt đầu một ngày làm việc của tôi rất sớm, trước khi b́nh minh, khoảng bốn giờ sáng. Đó là lư do tại sao tôi thường cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ vào buổi chiều.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.4375 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO